You are on page 1of 10

I.

Khái niệm và phân loại, nguyên nhân và tác động


thâm hụt ngân sách nhà nước

Các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng luôn phải đói mặt với
rất nhiều vấn đề khó khăn, bất ổn và gây ảnh hưởng tới nền kinh tế vĩ mô. Một
trong những vấn đề đó, chính là tình trạng thâm hụt Ngân Sách Nhà Nước
(NSNN). Đây là một vấn đề vô cùng nhạy cảm, nhất là đối với một đất nước
đang trên đà phát triển như Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có
những biến động lớn như: giá dầu, xăng tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ,
tình trạng lạm phát diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới…, việc tìm ra giải pháp để
điều chỉnh thâm hụt NSNN ở các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Vệt Nam
nói riêng là hết sức cấp bách và cần thiết. Ở nước ta, mức độ thâm hụt ngân
sách ngày càng tăng và ngày càng tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân cũng
như toàn bộ nền kinh tế. Đây chính là một trong những nguy cơ làm khủng
hoảng nền kinh tế , gia tăng lạm phát gây khó khăn cho chính phủ trong những
việc thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ.
1. Khái niệm
Thâm hụt ngân sách là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà
nước (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách, ta thường sử dụng chỉ tiêu tỷ
lệ thâm hụt so với GDP hoặc tổng số trong thu ngân sách nhà nước.
VD: thâm hụt ngân sách năm 2018 là 204.000 tỷ đồng, tỷ lệ thâm hụt so
với GDP là 3,67% (theo cách tính của Việt Nam).
2. Phân loại
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm
hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ

 Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu
kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu
nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng
sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách
cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
 Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những
chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo
hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...

3. Nguyên nhân gây thâm hụt ngân sách nhà nước

- Nguyên nhân khách quan


+ Khủng hoảng kinh tế,
+ Thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh
- Nguyên nhân chủ quan
+ Do cơ chế chính sách của nhà nước
+ Do yếu kém trong quản lí NSNN
+ Thâm hụt cơ cấu
4. Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước
- Đến lãi suất thị trường
Chính phủ đi vay để bù đắp thâm hụt, lãi suất thị trường tăng. Từ đó
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, tâm lí người chịu
thuế cũng sẽ bị ảnh hưởng, họ cho rằng CP sẽ tăng thuế, ngay từ bây
giờ, họ phải tiết kiệm chi tiêu để ứng phó với phần thu nhập giảm đi
do tăng thuế.
- Đến cán cân thương mại
Cán cân thương mại sẽ có xu hướng nhập siêu, giá trị đồng nội tệ
giảm, các nhà đầu tư nước ngoài xuất nhiều hơn để hưởng lợi từ việc
tỉ giá giảm
- Đến sự ổn định giá cả thị trường
Để tài trợ cho thâm hụt, CP sẽ có nhiều cách giải quyết, trong đó có
phát hành tiền, việc phát hành tiền này là nguyên nhân dẫn đến lạm
phát ở mức độ cao. Từ đó gây ảnh hưởng và làm biến động giá cả thị
trường. Bên cạnh đó

II. Các biện pháp khắc phục thâm hụt NSNN và điều
kiện sử dụng

Trước vấn đề thâm hụt NSNN, CP đã và đang áp dụng các biện pháp
cụ thể, có thể kể đến là phát hành tiền, biện pháp tăng thu giảm chi,
biện pháp vay trong và ngoài nước, hay sử dụng dữ trữ ngoại tệ.

1. Biện pháp tăng thu giảm chi


Giảm chi tiêu công luôn là biện pháp hiệu quả nhất dù
thâm hụt ngân sách dài hạn hay ngắn hạn.
Tăng thu bao gồm thu thuế và kiện toàn hệ thống thu
thuế.
Điều này phải được thực hiện ngay từ khi dự toán ngân sách và xuyên
suốt trong quá trình triển khai.
Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN.
Đây là biện pháp vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi
NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có
nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm
tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt những dự
án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư.
Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những
khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm
nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.

Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu
lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì việc cắt
giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi
những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết định; đã được
đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương; đã được triển khai; và
nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan đến
dự án.

2. Vay trong nước

Vay nợ trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu hoặc là
các hình thức tài trợ từ hệ thống ngân hàng trung ương.

Ở Việt Nam chính phủ thường ủy nhiệm cho kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dước các hình
thức:

 Tín phiếu
 Trái phiếu kho bạc nhà nước
 Trái phiếu đầu tư

Hệ thống ngân hàng đang chính là đơn vị chính để tài trợ cho các khoản thâm
hụt của chính phủ:
Ngân hàng Trung ương: có thể cấp cho chính phủ các khoản tín dụng nhằm bù
đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính hoặc bội chi ngân sách vào cuối năm
tài chính. Tuy nhiên do việc cho ngân sách vay trực tiếp sẽ làm tăng lượng tiền
cung ứng, có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát nên ngày nay Ngân hàng Trung
ương rất hạn chế các khoản tín dụng trực tiếp cho chính phủ. Phần lớn các
khoản tín dụng được cấp gián tiếp thông qua việc tái chiết khấu các trái phiếu
kho bạc do các ngân hàng trung gian nắm giữ.
Ngân hàng thương mại:
- Mua các trái phiếu chính phủ. Chính phủ ủy nhiệm cho kho bạc nhà nước phát
hành các trái phiếu chính phủ: tín phiết kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu
đầu tư.
- Cho chính phủ vay các khoản vay ngắn hạn.
Hiện nay chưa có quy định về mức tối đa được vay, thời hạn vay, lãi suất hay
các điều kiện cho vay, điều kiện hoàn trả. Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh
tế, khi Chính phủ vay để bù đắp bội chi ngân sách, thì việc đi vay nên thông qua
phát hành tín phiếu, trái phiếu hoặc vay của các quỹ dự trữ. Như vậy sẽ hạn chế
được những ảnh hưởng xấu tới cung tiền tệ.
Ưu điểm

 Cho phép chính phủ có thể duy trì các biện pháp thâm hụt ngân sách mà không cần phải
tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dữ trữ quốc tế
 Tập trung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, tránh được nguy cơ khủng hoảng
nợ nước ngoài, dễ triển khai

Nhược điểm

 Chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền
kinh tế do giảm khả năng của khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép tăng
lãi suất trong nước
 Tuy không gây lạm phát nhưng có thể gây áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỉ lệ nợ
trong GDP liên tục tăng. Gánh nặng trả lãi của chính phủ trong tương lai

Điều kiện sự dụng biện pháp vay trong nước là:

 Trường hợp vay thông qua phát hành trái phiếu, Đề án phát hành trái phiếu phải
được lập và thẩm định theo quy định của Chính phủ về phát hành trái phiếu;
  Trị giá khoản vay, khoản phát hành trái phiếu phải trong mức dư nợ vay và bội
chi của ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật về NSNN.
 Khi mà một số ngoại tệ đang có xu hướng tăng giá nên dễ xảy ra rủi ro do biến
động về tỉ giá hối đoái, gánh nặng nợ nần chồng chất thì vay trong nước an toàn
hơn
Đối với việc tài trợ từ hệ thống NHNN:
 Vì biện pháp này khiến nguồn vốn cho vay sản xuất kinh doanh giảm nên
chỉ khuyến khích sử dụng khi nền kinh tế là cường thịnh.
 - vay ngân hàng giúp hạn chế lạm phát, có thể sử dụng vào những thời kì
làm phát cao. Tuy nhiên khi chỉ số lạm phát quá cao, việc vay ngân hạng
trả lãi trong tương lai cũng tạo ra gánh nặng nợ lớn cho ngân hàng khiến
biện pháp này mất đi hiệu quả.

3. Biện pháp vay nợ nước ngoài và điều kiện sử dụng


- Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài
thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính
phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức
liên chính phủ, tổ chức quốc tế….
+ Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức
liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm
thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu
là nguồn vốn phát triển chính thức ODA
+ Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu
bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng,..
- Ưu nhược điểm
+Ưu điểm:
 Là một biện pháp tài trợ NSNN hữu hiệu, có thể bù đắp được bội chi mà
không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế.
 Là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong
nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
+Nhược điểm:
 Vay nợ nước ngoài khiến gánh nặng nợ nần tăng lên, giảm khả năng chi
tiêu của chính phủ
 Dễ khiến nền kinh tế bị phụ thuộc bởi những ràng buộc của nước cho vay
về chính trị, kinh tế, …
-Điều kiện sử dụng
+Viện trợ nước ngoài chỉ dành cho những nước đang phát triển, để nhận
được các hỗ trợ này nước nhận tài trợ cần đáp ứng những điều kiện ngặt
nghèo của nước tài trợ về một số điều khoản về chính trị, thương mại, ….
+Vay nợ nước ngoài: Do mức lãi suất cao, điều kiện cho vay khó khăn ràng
buộc, phụ thuộc vào mức độ tín nhiệm của Chính phủ, mối quan hệ ngoại
giao giữa nước cho vay và nước đi vay

4. Sử dụng dự trữ ngoại hối


Sử dụng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia (bao gồm ngoại tệ mạnh và vàng)
để bù đắp thâm hụt NSNN. Đây là một trong những giải pháp tương đối chu toàn vừa
đảm bảo ổn định tỷ giá vừa đảm bảo không gây ra lạm phát.
Dự trữ ngoại hối nhà nước, thường gọi tắt là dự trữ ngoại hối hoặc dự trữ ngoại
tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của
một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của Nhà nước được cất giữ
dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Dollar Mỹ, Euro, Yên Nhật,
v.v...) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị đồng tiền quốc gia.
Về bản chất, dự trữ ngoại hối là tài sản Nhà nước, hình thành từ việc mua các
nguồn ngoại tệ và một phần tiền gửi của các tổ chức tài chính, giao cho NHNN quản
lý trực tiếp. Mục tiêu của dự trữ ngoại hối là xử lý những vấn đề liên quan đến cán cân
thanh toán quốc tế và ổn định tiền tệ thông qua chính sách tỷ giá hối đoái. Về mặt
nguyên tắc dự trữ ngoại hối không phải là tài sản để cho ngân sách vay hay xử lý thiếu
hụt trong chi ngân sách. Mục tiêu vay để chi cho đầu tư phát triển không phù hợp với
bản chất quỹ dự trữ ngoại hối. Các dự án đầu tư phát triển trên thực tế thường dài hạn.
Vấn đề sẽ trở nên phức tạp, khi dự trữ ngoại hối cần nguồn chi cho các mục đích
chính của quỹ mà không thu hồi được hoặc khó thu hồi vốn. Điều này sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến thanh khoản dự trữ ngoại hối.
Tuy nhiên, trên thực tế nếu ngân sách đang thiếu phải đi vay trong khi đó
nguồn dự trữ còn dư, tỉ giá ổn định không có vấn đề gì phải cần can thiệp để ổn định tỉ
giá nên dùng nguồn này để cân đối ngân sách cũng là bình thường.
Đến tháng 6/2018 tại phiên họp trực tuyến của Chính phủ với các địa phương,
Thống đốc Lê Minh Hưng đã công bố con số dự trữ ngoại hối quốc gia đã lên tới 63,5
tỷ USD. Đây là con số kỷ lục tại thời điểm đó. Tuy nhiên, dự trữ ngoại hối quốc gia
chỉ mới đạt mức đủ tối thiểu theo yêu cầu thanh toán các khoản nợ nước ngoài.
5. Phát hành tiền

Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thề thông qua
việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải
pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền
để bù đắp bội chỉ NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do
thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triền gây “tăng
trưởng nóng” và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
Vì vậy biện pháp này chỉ sử dụng trong trường hợp tình trạng thâm hụt
quá nặng nề.

III. Thực trạng ở Việt Nam hiện này


1. Thực trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
Thâm hụt (hay bội chi) ngân sách đang là một vấn đề nan giải chưa tìm ra
hướng giải quyết của Việt Nam trong những năm vừa qua kéo theo một
loạt các hậu quả làm gia tăng tỷ lệ nợ công trên GDP, làm tăng lãi suất, tác
động tiêu cực tới tỷ giá, bất ổn kinh tế vĩ mô và gây áp lực trở lại đối với
ngân sách nhà nước khiến Việt Nam đi vào một vòng luẩn quẩn với gánh
nặng nợ ngày càng tăng.

Việt Nam đã thâm hụt ngân sách liên tục trong nhiều năm trở lại đây với tỷ
lệ thâm hụt ngân sách trên GDP luôn ở trên mức trên dưới 5%. Mức thâm
hụt này thuộc diện cao hơn so với các nước trong khu vực.

Đơn vị : Nghìn tỷ
đồng

Năm Tổng Thu Tổng Chi Thâm hụt Thâm hụt NSNN
NSNN NSNN NSNN so với GDP

2015 998,217 1.265,625 -267,408 -6,10%

2016 1.101,452 1.360,152 -258,7 -5,52%

2017 1.288,665 1.462,965 -174,3 -3,480%

( Nguồn : Tổng cục thống kê)

Năm 2015,thâm hụt ngân sách nhà nước hơn 260 nghìn tỷ đồng , bằng
6,28% GDP .Về cơ cấu thu NSNN , mặc dù tỷ lệ thu nội địa tăng, song chủ
chiếm 66,5% tổng thu NSNN , cơ cấu thu năm 2015 chưa thật sự bền vững
khi thu từ hoạt động xuất nhập khẩu , đất đai dầu thô vẫn chiếm tỷ trọng
lớn . Cụ thể , tổng thu NSNN cả năm đạt 998.217 tỷ đồng so với dự tỷ
đồng tăng 85.770 tỷ đồng so với dự toán và cao hơn mức đã báo cáo với
Quốc hội 69.370 tỷ đồng.Tổng chi NSNN đạt 1.265.625 tỷ đồng tăng
10,1% so với dự toán.

Năm 2016, thâm hụt ngân sách nhà nước là 258,728 tỷ đồng bằng 5,52 %
tổng sản phẩm trong nước (GDP).Nguồn bù đắp bội chi NSNN bao gồm :
vay trong nước 197.165 tỷ đồng và vay ngoài nước 51.563 tỷ đồng. Tỷ lệ
bội chi NSNN so với GDP thấp hơn dự toán nhưng do GDP không đạt kế
hoạch (giảm khoảng 600 nghìn tỷ ) nên tỷ lệ bội chi tính trên GDP là
5,52% cao hơn tỷ lệ Quốc hội cho phép (4,95% so với GDP)
Năm 2017, tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2017 đạt 1.219,5 nghìn tỷ
đồng, bằng 87,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 862,6 nghìn
tỷ đồng, bằng 96,2%; chi trả nợ lãi 91 nghìn tỷ đồng, bằng 92%. Riêng chi
đầu tư phát triển đạt 259,5 nghìn tỷ đồng, bằng 72,6% dự toán năm (trong
đó chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 254,5 nghìn tỷ đồng, bằng 72,3%). Chi
trả nợ gốc từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2017 ước tính đạt 147,6 nghìn
tỷ đồng, bằng 90,1% dự toán năm. Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 1.104
nghìn tỷ đồng ,một yếu tố nổi bật giúp cải thiện ngân sách 2017 chính là
tiền thu về từ hàng loạt thương vụ thoái vốn trong đó chỉ riêng thương vụ
Sabeco đã thu về cho ngân sách nhà nước 110 nghìn tỷ đồng .
Như vậy, ngân sách nhà nươc đã thâm hụt 115,5 tỷ đồng năm 2017. Đây
là mức thâm hụt ngân sách thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Mức
thâm hụt ngân sách năm 2017 là 2,3% GDP, thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội đề
ra là 3,5% GDP.Về mặt lý thuyết, thâm hụt ngân sách ở mức thấp là tín
hiệu vui cho nền kinh tế. Điều đó cho thấy nền kinh tế sẽ cần phải vay nợ ít
hơn trong tương lai. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như Việt
Nam, nếu không vay nợ, tức là không sử dụng đòn bẩy tài chính để kích
thích tăng trưởng, thì nguy cơ tụt hậu so với các nước là hiện hữu (tất
nhiên, việc sử dụng vốn vay phải thật hiệu quả).

2. Giải pháp mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng để khắc phục tình
trạng thâm hụt ngân sách

1. Vay nợ thông qua phát hành Trái phiếu Chính Phủ

Trong năm 2015, Chính phủ Việt Nam có kế hoạch vay nợ 436.000 tỷ đồng để đảo nợ
và đáp ứng nhu cầu huy động vốn. Trong đó vay để sử dụng mục đích bù đắp bội chi
Ngân sách Nhà nước là 226.000 tỷ đồng chiếm tới 52% tổng nhu cầu vay.
Theo kế hoạch năm 2016, bội chi Ngân sách Nhà nước dự kiến là 254.000 tỷ đồng tăng
12,4% so với năm 2015. Trong khi đó việc vay nợ năm 2015 gặp rất nhiều khó khăn,
đặc biệt là việc phát hành Trái phiếu mới không đủ để trả nợ Trái phiếu cũ khi Chính
Phủ chỉ phát hành thành công 160.000 tỷ trên 250.000 tỷ đồng Trái phiếu theo kế
hoạch. Việc phát hành Trái phiếu không thành công khiến Chính phủ phải sử dụng thêm
các giải pháp khác để bù đắp thâm hụt ngân sách.

2 Vay Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại

 Do việc phát hành Trái phiếu Chính phủ không hoàn thành kế hoạch nên Bộ Tài chính
đã phải vay Vietcombank 1 tỷ USD với mức lãi suất khá cao là 4,8% tạo thêm gánh
nặng trả nợ lãi cho Chính phủ khi lãi suất huy động USD trên thị trường tại thời điểm
này là 0,75% và hiện nay đã giảm về 0%. Hiện đã có thông tin Bộ Tài chính dự kiến sẽ
tiếp tục phải vay thêm Vietcombank 1 tỷ USD với lãi suất thấp hơn từ 3-4%.
Ngoài ra để hoàn thành kế hoạch vay nợ Bộ Tài chính đã phải vay Ngân hàng Nhà nước
30.000 tỷ đồng. Điều này ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn phục vụ cho các chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.

Tỷ lệ nợ công 2017 là 62.6% , 2018 là 61,4%

3 Vay nợ nước ngoài

Vay nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là khoản vay ODA. Vay nợ nước ngoài
chiếm khoảng 45% tổng nợ và với tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam đang ở mức
cao thì việc vay nợ nước ngoài đang trở thành mối đe dọa đối với nền kinh tế. Do vậy
trong năm 2015 Chính phủ chỉ dự kiến vay 36.000 tỷ đồng nước ngoài/436.000 tỷ đồng
vay nợ.

4 Phát hành Trái phiếu quốc tế

Ngoài các giải pháp trên, Việt Nam dự kiến sẽ phát hành 3 tỷ USD Trái phiếu quốc tế
cho thấy Chính phủ đang sử dụng nhiều giải pháp để đa dạng hóa các khoản vay nợ.

5 Vay từ các quỹ tài chính

Vay từ các quỹ tài chính (Bảo hiểm xã hội, bình ổn xăng dầu..) chiếm tỷ trọng khá lớn
trong tổng vay nợ trong nước và tổng nợ vay. Với 436.000 tỷ dự kiến vay nợ trong năm
2015, Chính phủ dự kiến vay các Quỹ tài chính trong nước là 118.000 tỷ trong đó vay
quỹ Bảo hiểm xã hội là các khoản vay có kỳ hạn dài.

6 Bán vốn Nhà nước

Một trong các giải pháp khác được Chính phủ sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách là
bán vốn Nhà nước. Theo Đề án tái cơ cấu, SCIC sẽ thoái toàn bộ vốn tại 10 doanh
nghiệp, trong đó có những doanh nghiệp lớn và hoạt động hiệu quả như Vinamilk, FPT,
Nhựa Bình Minh… Tổng giá trị của đợt thoái vốn này có thể lên tới 3-4 tỷ USD để hỗ
trợ bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước.

You might also like