You are on page 1of 5

GIẢI PHÁP

Để góp phần ổn định đồng thời kéo giảm mặt bằng lãi suất trên thị trường
thì chính bản thân Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp
cũng phải cùng hợp tác với nhau trong đó thì vai trò Ngân hàng nhà nước là trung tâm.
Cần sớm soạn thảo đưa ra các chuẩn mực để có thể xếp loại ngân hàng theo hạng mức tín
nhiệm; góp phần sàn lọc, nâng cao ý thức trách nhiệm của các NHTM trong việc nâng
cao chất lượng hoạt động ngân hàng, có như vậy các NHTM sẽ cạnh tranh với nhau bằng
chất lượng phục vụ chứ không còn chạy đua về lãi suất nữa.
Cần tiếp tục soạn thảo bổ sung các văn bản Luật đặc biệt là Luật phá sản; Luật càng chặt
chẽ sẽ góp phần loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ, giảm bớt được
nguồn vốn đầu tư lãng phí không hiệu quả, tập trung nguồn vốn vào những doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả.
Kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát và lan rộng, kinh tế thế giới vẫn biến động phức
tạp và phân hóa mạnh mẽ. Các nước phát triển với tỷ lệ tiêm vắc-xin cao có thể mở cửa
và phục hồi kinh tế sớm, trong khi đó các nước mới nổi và đang phát triển có tốc độ tiêm
vắc-xin chậm hơn, dịch bệnh vẫn phức tạp khiến kinh tế tiếp tục khó khăn. Thương mại
toàn cầu phục hồi do nhu cầu gia tăng từ các nước lớn, song chuỗi cung ứng vẫn đứt gãy
và lưu thông, vận chuyển khó khăn đẩy lạm phát, chi phí sản xuất tăng cao trên toàn cầu,
giá hàng hóa, nguyên vật liệu thế giới, như dầu mỏ, lương thực, thực phẩm, sắt thép, cước
phí vận chuyển tăng cao nhất trong nhiều năm. Chính sách tiền tệ có xu hướng giảm dần
quy mô nới lỏng hoặc tăng lãi suất chính sách để đối phó với áp lực lạm phát. Trong năm
2021, lần lượt Ngân hàng Trung ương ở các nước, như Anh, Ca-na-đa, Mỹ, khu vực châu
Âu giảm quy mô nới lỏng định lượng; thế giới có tổng cộng 74 lượt tăng lãi suất chính
sách.

Đối với nước ta, năm 2021 là một năm đầy khó khăn, thách thức do tác động của biến
chủng Delta, được đánh giá là nguy hiểm nhất từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện. Có
thể nói, trong bối cảnh đất nước đối mặt với những thử thách to lớn, thành công của Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã tạo tiền đề vững chắc, dẫn dắt cả hệ thống chính trị
đồng lòng, quyết tâm, chung tay đối phó với đại dịch, phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc về tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong khó khăn, dịch bệnh. Mục tiêu
bảo vệ sức khỏe nhân dân được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu, yêu cầu sản xuất an
toàn, đẩy mạnh thực hiện các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp và
người dân ứng phó với các tác động tiêu cực từ đại dịch. Trong điều kiện khó khăn, so
với cùng kỳ năm 2020, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) 9 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng
trưởng 1,42%; nhưng kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát ở mức thấp, bình quân 10 tháng là
1,81%; thị trường tiền tệ, ngoại hối tiếp tục vận hành thông suốt và ổn định.

Bám sát các chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu
năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động, quyết liệt, chỉ đạo hệ thống các tổ chức
tín dụng (TCTD) triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ
(CSTT), phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách vĩ mô khác
nhằm bảo đảm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời triển khai
hàng loạt các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, đồng hành với doanh nghiệp và người
dân. Điều hành CSTT của NHNN phù hợp với xu hướng của nhiều Ngân hàng Trung
ương trên thế giới, mặt khác có những đặc điểm riêng phù hợp với đặc thù và tính chất
cấp bách của tình hình trong nước, bao gồm những nhóm giải pháp sau đây:

Thứ nhất, bảo đảm thanh khoản trên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện để các TCTD  tiếp
tục giảm lãi suất cho vay, sẵn sàng nguồn vốn hỗ trợ các TCTD đẩy mạnh tín dụng. Đại
dịch COVID-19 khiến nhiều hoạt động ngưng trệ, di chuyển của người dân bị hạn chế,
sản xuất, lưu thông đứt gãy, dòng tiền gián đoạn. Giải pháp hỗ trợ thanh khoản được hầu
hết các Ngân hàng Trung ương triển khai nhằm hỗ trợ các thị trường vận hành thông suốt,
duy trì dòng tiền, hỗ trợ ngân hàng và doanh nghiệp bảo đảm khả năng thanh toán. Tương
tự, thanh khoản được duy trì dồi dào tại hệ thống các TCTD trên cơ sở NHNN mua lượng
lớn ngoại tệ, đưa tiền đồng ra thị trường, đồng thời hằng ngày chào mua giấy tờ có giá
trên thị trường mở nhằm phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản, ổn định thị trường
tiền tệ. Điều này thể hiện qua việc lãi suất liên ngân hàng - là mức lãi suất vay mượn lẫn
nhau kỳ hạn ngắn giữa các TCTD đã giảm xuống mức rất thấp trong lịch sử, khoảng từ
0,5%/năm đến 0,9%/năm cuối tháng 9, giảm chi phí vốn đầu vào cho TCTD, qua đó tạo
điều kiện thuận lợi để các TCTD giảm lãi suất cho vay.

Thứ hai, ổn định lãi suất điều hành ở mức thấp, tạo điều kiện để mặt bằng lãi suất cho vay
và huy động của TCTD giảm. Với đặc điểm của một nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu
vốn lớn song lại phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng nên việc giảm lãi suất cho vay
tại Việt Nam không dễ dàng. Để kịp thời tháo gỡ khó  khăn của doanh nghiệp và người
dân, ngay trong năm 2020 khi dịch bệnh mới xuất hiện, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất
điều hành với mức giảm từ 1,5%/năm đến 2%/năm và là một trong những Ngân hàng
Trung ương giảm lãi suất mạnh nhất khu vực; trong năm 2021, NHNN giữ nguyên các
mức lãi suất thấp này, kết hợp với việc duy trì thanh khoản dồi dào trên thị trường tiền tệ.
Kết quả là, đến cuối tháng 9-2021, lãi suất huy động và cho vay bằng VND bình quân của
các TCTD giảm tương ứng khoảng 0,46%/năm và 0,72%/năm so với cuối năm 2020 sau
khi đã giảm khoảng 1%/năm trong năm 2020. Lãi suất cho  vay bình quân đối với các
lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ (gồm lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn;
công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp vừa và nhỏ; xuất khẩu; ứng dụng công nghệ cao) là
4,4%/năm.

Thứ ba, bảo đảm cung ứng vốn tín dụng đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu sản xuất, kinh
doanh trong nền kinh tế, linh hoạt điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng
đối với các TCTD theo hướng tăng trưởng tín dụng đi đôi với chất lượng. Với đặc thù thị
trường tài chính phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng, việc điều hành tín dụng luôn
cần có sự hài hòa, hợp lý. Tăng trưởng tín dụng quá cao gây rủi ro lạm phát, song tăng
trưởng tín dụng quá thấp lại có thể ảnh hưởng đến nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế.
Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% và lạm phát khoảng 4% do Quốc hội và
Chính phủ đề ra, NHNN đã đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 12% trong
năm 2021, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế.

Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả,
tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng
vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, các dự án xây dựng -
chuyển giao - vận hành (BOT), dự án xây dựng - vận hành (BT) giao thông; tăng cường
quản lý rủi ro đối với tín dụng tiêu dùng; tạo  điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và
người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế tín dụng đen.
Trên cơ sở đó, tín dụng tăng trưởng ngay từ đầu năm và cao hơn so cùng kỳ năm 2020,
kịp thời đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Đến cuối tháng 10-2021, tín dụng tăng trưởng
8,72% so với cuối năm 2020, tăng 14,29% so với cùng kỳ 2020 (cùng kỳ năm 2020 tăng
6,71% so với cuối năm 2019 và tăng 10,24% so với cùng kỳ 2019). Cơ cấu tín dụng
chuyển dịch tích cực theo hướng tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, cả 5
lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2020,
hỗ trợ tích cực quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát  triển thủy sản, công nghiệp
hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao. Tăng trưởng tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng
khoán, tiêu dùng vẫn trong tầm kiểm soát của NHNN.

Thứ tư, ổn định thị trường ngoại tệ. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở cao (tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu cuối năm 2020 khoảng 200% GDP), việc điều hành tỷ giá của Việt Nam
luôn phải đối mặt với những thách thức đến từ bên ngoài như việc các nước lớn đang dần
thu hẹp các gói nới lỏng tiền tệ, đồng USD lên giá... Ngay cả đối với thị trường trong
nước, yếu tố tâm lý cũng luôn thường trực mỗi khi thị trường tài chính thế giới biến động.
Trước tình hình đó, công tác điều hành tỷ giá vẫn tiếp tục bảo đảm linh hoạt, bám sát
cung cầu thị trường, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT. Trong khi xu hướng rút
vốn khỏi các nước mới nổi và đang phát triển khiến đồng tiền của nhiều nước trong khu
vực mất giá khá lớn so với USD (USD tăng 4,65%, Baht Thái giảm 11,2%, Ringgit
Malaysia giảm 2,68%, Đô-la Singapore giảm 1,95%) thì tỷ giá VND/USD tiếp tục ổn
định, đến cuối tháng 10, tỷ giá trung tâm tương đương cuối năm trước. Thanh khoản thị
trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.

Thứ năm, triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng
bởi đại dịch COVID-19. Ngân hàng nhà nước chỉ đạo các TCTD đồng hành, sát cánh với
các doanh nghiệp, người dân thông qua triển khai hàng loạt các giải pháp hỗ trợ khách
hàng bị ảnh hưởng bởi đại dịch, liên tục rà soát, chỉnh sửa để các biện pháp hỗ trợ ngày
càng thiết thực hơn, bao gồm:

Một là, ban hành thông tư cho phép các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi,
phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-
19. Với 2 lần sửa đổi và bổ sung, quy mô, phạm vi đối tượng được áp dụng các biện pháp
hỗ trợ đã được mở rộng đáng kể, thời gian hỗ trợ cũng được kéo dài đến tháng 6-2022.
Đến cuối tháng 10, đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho 330.000 khách
hàng với dư nợ 540.000 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho 1,8 triệu khách hàng với dư
nợ 3,5 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch với doanh số lũy kế
từ ngày 23-1-2020 đạt trên 7 triệu tỷ đồng cho hơn 1 triệu khách hàng.

Hai là, hỗ trợ người sử dụng lao động trả lương ngừng việc cho người lao động. Ngân
hàng nhà nước đã triển khai cho vay tái cấp vốn với lãi suất 0% và không yêu cầu tài sản
bảo đảm đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để cho người sử dụng lao động vay trả
lương ngừng việc cho người lao động, khôi phục sản xuất, kinh doanh. Hàng nghìn lượt
người lao động đã được hỗ trợ trả lương trong thời gian ngừng việc từ các gói cho vay
này, theo đó đợt hỗ trợ thứ nhất (kết thúc vào ngày 31-1-2021) có 245 đơn vị sử dụng lao
động vay để trả lương ngừng việc cho 11.276 người lao động; đợt hỗ trợ thứ hai được
triển khai tích cực kể từ tháng 7-2021, đến 25-10-2021 có 1.244 đơn vị sử dụng lao động
vay để trả lương 177.845 lượt người lao động (thời hạn kết thúc đợt hỗ trợ này là 31-3-
2022 hoặc khi số tiền giải ngân đạt 7.500 tỷ đồng).

Ba là, tháo gỡ khó khăn cho Tổng công ty Hàng không Vietnam Airlines (VNA) thông
qua việc NHNN tái cấp vốn 4.000 tỷ đồng để các TCTD cho VNA vay lại nhằm vượt qua
giai đoạn khó khăn.

Bốn là, tiếp tục thực hiện các chương trình miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán cho người
dân, doanh nghiệp với tổng số phí dịch vụ thanh toán NHNN và Công ty Cổ phần Thanh
toán quốc gia Việt Nam (Napas) dự kiến giảm khoảng 1.557 tỷ đồng để hỗ trợ khó khăn
do đại dịch COVID-19 trong năm 2021. Nhờ đó, các TCTD tiếp tục thực hiện giảm, miễn
phí dịch vụ thanh toán cho khách hàng; tăng cường các ứng dụng công nghệ phát triển
thanh toán không dùng tiền mặt, theo đó bên cạnh các phương thức thanh toán qua POS,
ATM, chuyển khoản, in-tơ-nét, mã QR thì từ năm 2021, NHNN tiếp tục cho phép các
ngân hàng mở tài khoản trực tuyến bằng công nghệ eKYC, trình Thủ tướng Chính phủ
cho phép thí điểm thanh toán qua tài khoản viễn thông (Mobile Money)...

Chính sách hỗ trợ lãi suất là một trong những nội dung tại Kế hoạch hành động của
ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ
được ban hành tại Quyết định số 422/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN).

Mục đích của Kế hoạch hành động nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp được quy
định tại Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội
và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của ngành
ngân hàng; kế hoạch hành động bám sát các quan điểm, mục tiêu tại Nghị quyết số 11;
nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo của từng đơn vị và sự hợp tác giữa các đơn vị trong
và ngoài ngành Ngân hàng để nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, giải pháp và đạt mục
tiêu đề ra.

Một trong những nhiệm vụ và giải pháp của kế hoạch là điều hành chính sách tiền tệ, tín
dụng và hoạt động ngân hàng đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để góp
phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tích cực quá trình phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội; điều hành tín dụng đáp ứng kịp thời vốn cho sản xuất
kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tiếp tục tháo
gỡ khó khăn, hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Đồng thời, triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm trong 02 năm 2022-2023 thông
qua hệ thống các ngân hàng thương mại đối với các khoản vay thương mại cho doanh
nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; nghiên cứu để giữ ổn định tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn
cho vay trung và dài hạn; miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán.

Bên cạnh đó, tăng vốn điều lệ cho các Ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước nắm
giữ trên 50% vốn điều lệ và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam (Agribank); bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD)
và tiếp tục xử lý nợ xấu: Tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận sau thuế, sau trích lập các
quỹ giai đoạn 2021-2023 cho các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước và từ nguồn
ngân sách nhà nước đối với Agribank; theo dõi, giám sát chặt chẽ, bảo đảm an toàn hoạt
động ngân hàng; thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD.

Triển khai chính sách hỗ trợ thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội; hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý; cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công thuộc lĩnh vực quản lý của NHNN.

You might also like