You are on page 1of 14

MỞ ĐẦU

Lạm phát không chỉ gây ra rối loạn kinh tế, ngừng trệ sản xuất, và bóp méo hoạt động phân
bổ nguồn lực xã hội, mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của mọi tầng lớp nhân dân,
ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của người nghèo và người có thu nhập thấp trong xã hội,
do thu nhập không thay đổi kịp với tốc độ thay đổi giá. Lạm phát giá lương thực có thể xóa
tan thành quả công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong nhiều năm qua của các nước đang phát
triển trên thế giới.
Lạm phát là một vấn đề phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu nguyên nhân và tìm kiếm các biện pháp đối phó với lạm phát luôn thu hút
các nhà kinh tế thế giới và là công việc thường niên của chính phủ các nước. Việc nghiên cứu
định lượng để tìm ra nguyên nhân và lời giải cho bài toán lạm phát ở Việt Nam sẽ giúp
chúng ta nhanh chóng ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền kinh tế quay trở lại guồng tăng
trưởng.
Ở trong bài tiểu luận này, tôi sẽ trình bày về nguyên nhân và các giải pháp chống lạm phát ở
Việt Nam giai đoạn 2007-2012 và đánh giá về triển vọng lạm phát 2023 ở Việt Nam.

I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là sự tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá
trị của một loại tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền
tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác. Mức giá chung hay chỉ
sô giá cả để đánh giá lạm phát là các chi số sau: chỉ số giảm phát, chỉ số giá tiêu dùng
(CP), chỉ số giá hàng tư liệu sản xuất (PPI).
2. Phân loại lạm phát
2.1. Lạm phát vừa phải ( lạm phát cơ bản)
Lạm phát vừa phải hay còn gọi là lạm phát một con số. Múc độ tỷ lệ lạm phát dưới 10%.
Thực tế mức độ lạm phát vừa đưa ra không có tác động đển nên kinh tế. Những kế
hoạch dự đoán tương đối ổn định không bị xáo trộn. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đang
trong mức lạm phát vừa phải.
2.2. Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã hay còn gọi là lạm phát hai (hoặc ba) con số. Mức độ lạm phát này có tỷ
lệ lạm phát 10%, 20% và lên đến 200%". Khi mức độ lạm phát như vậy kéo dài nó có tác
động mạnh đến nền kinh tế, có thể gây ra những biến đổi kinh tế nghiêm trọng.
2.3. Siêu lạm phát
Đây là tình trạng lạm phát đột biến tăng lên với tôc độ cao. Mức độ lạm phát này có tỷ lệ
lạm phát trên 200%. Hiện tượng này không phổ biến nhưng nó đã xuất hiện trong lịch
sử. Ví dụ như ở Đức, Trung Quốc, Brazil.... Nếu trong lạm phát phi mã, nền kinh tế xem
như đang đi dần vào cõi chết.
3. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế
3.1. Tác động tiêu cực
Lạm phát của quốc gia trên thế giới khi xảy ra cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đên
mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc gia.
- Lãi suất:
Tác động đầu tiên đến lạm phát chính là lãi suất. Ta có công thức: “Lãi suất thực = lãi
suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát". Do đó khi tỷ lệ lạm phát tăng cao nhưng muốn giữ lãi
suất thực ổn định và dương thì lãi suất danh nghĩa phải tăng và khi lãi suất danh nghĩa
tăng thì hậu quả của nền kinh tế là bị suy thoái và thất nghiệp gia tăng.
-Thu nhập thực tế:
Giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người dân có quan hệ với nhau qua tỷ
lệ lạm phát. Khi lạm phát tăng lên mà thu nhập danh nghĩa không tăng thì thu nhập thực
tế của người lao động giảm xuống. Do đó ta có công thức: "Thu nhập thực tế = thu nhập
danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát". Và khi thu nhập thực tế của người dân bị giảm xuống sẽ
dẫn đến suy thoái kinh tế, đời sống lao động khó khăn và do đó làm giảm lòng tin của
dân chúng đối với Chính phủ.
-Nợ quốc gia:
Lạm phát gia tăng thì Chính phủ được lợi vì thuế đánh vào người dân càng nhiều. Tuy
nhiên mặt trái của nó chính là khi lạm phát tăng lên thì nợ quốc gia sẽ trở nên nghiêm
trọng vì nếu cùng một số tiền đó mà chỉ trong quá trình chưa lạm phát thì chỉ trả với “a"
phí, nhưng khi tiến đến tình trạng lạm phát thì phải trả với "a+n" phí. Thế nên là tình
trạng nợ quốc gia ngày càng gia tăng lên.
-Phân bổ thu nhập:
Khi lạm phát tăng khiến người thừa tiên và giàu có dùng tiền của mình vơ vét hết hàng
hóa ở ngoài thị trường sẽ dẫn đến nạn đầu cơ xuất hiện và tình trạng này làm mất cân
đối nghiêm trọng trong quan hệ cung-cầu hàng hóa. Giá cả hàng hóa mà theo đó sẽ cao
hơn và những người dân nghèo ngày càng nghèo hơn bởi họ sẽ không có đủ tiền mua
những hàng hóa cần thiết cho bản thân mình.
3.2. Tác động tích cực
Lạm phát không phài bao giờ cũng gây nên những tác hại cho nền kinh tế. Khi tốc độ lạm
phát vừa phải đó là từ 2-5% ở các nước phát triển và dưới 10% ở các nước đang phát
triển sẽ mang lại một số lợi ích cho nền kinh tế như sau:
-Kích thích tiêu dùng, đầu tư giảm bớt thất nghiệp trong xã hội.
- Kích thích doanh nghiệp tăng đầu tư, tăng sản lượng hàng hóa và sản xuất được mở
rộng.
- Tăng đầu tư dẫn đến tăng thu nhập và tăng tổng cầu giúp sản xuất phát triển.
3.3. Tác động đến nền kinh tế và việc làm
Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn diện, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự
phát triển kinh tế vì làm tăng khối tiến lưu thông, cung cấp thêm vốn cho đơn vị sản xuất
kinh doanh, kích thích tiêu dùng Chính phủ và nhân dân. Lạm phát và thất nghiệp tỷ lệ
nghịch với nhau: lạm phát tăng thì thất nghiệp giảm và ngược lại.
II. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2012
1. Thực trạng
1.1. Giai đoạn 2007-2008
Nước ta đang đứng trước khó khăn thực sự, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng nhanh năm
2007 là 12.63% và 3 tháng đầu năm 2008 tăng trên 9%, đặc biệt là cán cân thương mại
năm 2007 thâm hụt lớn, nhập khẩu 62,7 tỷ USD tăng +39.6% so với năm 2006, xuất khẩu
48.6 tỷ USD tăng 21,9%, nhập siêu 14,1 tỷ USD (năm 2006 nhập siêu 5 tỷ USD), nhập siêu
chiếm tỷ lệ rất đáng lo ngại 19,8%GDP (lưu ý việc nhập siêu tăng nhanh có yếu tố giá cả
thế giới (xăng dầu, sắt thép, sợi bông, chất dẻo..) tăng cao do đồng USD yếu), cán cân
vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao trên 6% GDP ở mức đáng lo ngại…
HÌNH 1
Chỉ số lạm phát của Việt Nam tăng nhanh chạm mức 12.6%, cao hơn rất nhiều so với
ước tính tăng trưởng là 8.44% trong năm 2007. Nếu so sánh với mức lạm phát của một
số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%, Indonesia: 6,59%, Mỹ:
4,08%, Thái Lan: 3.21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt
Nam có phần cao hơn. Có thế nói, việc giá thực phẩm và nhiên liệu tăng cao hơn là
nguyên nhân dẫn đến mức tăng chỉ số giá tiêu dùng tại mức 12.63%. Đồng thời, giá bán
lẻ tại Việt Nam của xăng dầu cũng tăng mạnh.
HÌNH 2
Năm 2008, GDP của Viêt Nam đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã không thể
về đích. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là 6.23% lạm phát vẫn đang ở mức cao và
cao hơn so với mức năm 2007, chỉ số lạm phát ở mức kỷ lục 19.9%, cao nhất trong vòng
một thập kỷ trở lại và nhập siêu còn lớn, chưa thể khắc phục ngay trong ngắn hạn.
1.2. Giai đoạn 2009
Tổng cục thống kê hôm nay 31-12 công bố, GDP năm 2009 tăng 5,32%, bao gồm khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; dịch vụ
tăng 6,63%. Lạm phát cả năm 2009 chỉ tăng 6,88% so với năm 2008, thấp nhất trong sáu
năm trở lại đây.
Giá tiêu dùng năm 2009 tương đối ổn định, ngoài tháng 2 và tháng 12 có chỉ số giá tiêu
dùng tăng trên 1%, các tháng còn lại giảm hoặc tăng thấp hơn 1% nên chỉ số giá tiêu
dùng tháng 12-2009 so với tháng 12-2008 tăng 6,52%, thấp hơn mục tiêu 7% mà Quốc
hội đã thông qua. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2009 tăng 6,88% so với năm 2008,
thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2004 tăng 7,71%;
năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng
22,97%). Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế nước ta đạt được
thành công kép, vừa tăng trưởng tương đối khá, vừa duy trì được mức độ lạm phát
không cao, là thành công lớn trong chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô.
HÌNH 3
Cơ quan này cũng nhận định, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Mức thâm
hụt ngân sách đã được khống chế, nhưng đã lên tới 7% GDP; nhập siêu hàng hóa năm
2009 tuy đã giảm 32,1% so với năm 2008, nhưng vẫn bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa; nhập siêu dịch vụ bằng 18,6% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và tăng 17%
so với năm 2008. Lạm phát trong năm tuy được khống chế ở mức hợp lý, nhưng nhìn
chung giá cả ngày càng tăng và đang tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể gây tái lạm phát cao.
1.3. Giai đoạn 2010
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong cả năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75%
so với tháng 12 năm 2009. Tuy nhiên, xét cụ thể giữa các tháng trong năm thì chỉ số CPI
diễn biến khá bất thường nhưng có tính lặp lại giống một số năm gần đây, tháng 1-2010
tăng 1,36%, tháng 2-2010 tăng 1,96%, tháng 3 tăng 0,75%, tháng 4 tăng 0,14%, tháng 5
tăng 0,27%, tháng 6: 0,22%, tháng 7: 0,06%, tháng 8: 0,23%, tháng 9: 1,31%, tháng 10:
1,05%, tháng 11: 1,86% và tháng 12 tăng 1,98%.
Xét về cơ cấu tăng cả năm 2010 theo các nhóm mặt hàng thì tăng cao nhất là nhóm giáo
dục (tăng gần 20%); đứng hàng thứ hai là nhóm ăn và dịch vụ ăn uống, tăng tới 16,98%;
tiếp đến là nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 15,74%; hàng hóa và dịch vụ khác
tăng trên 11%; nhóm đồ uống, thuốc lá cũng có mức tăng khá, tới trên 8%,... Tuy nhiên
nhóm bưu chính viễn thông lại giảm gần 6%. Nếu không có sự giảm giá của nhóm này thì
chỉ số CPI cả năm 2010 chắc chắn tăng trên 12%.
HÌNH 4
1.4. Giai đoạn 2011
Tổng cục Thống kê vừa công bố số liệu chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước trong tháng
12 và cả năm 2011. Theo đó, CPI trong tháng cuối năm tăng 0,53%, cao hơn 2 tháng
trước đó. Con số này đưa chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng cao hơn 18,13% so với
cùng kỳ 2010. Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2011, mặt bằng giá đã tăng 18,58% so
với 2010.
HÌNH 5
Trong rổ hàng hóa, lương thực là phân nhóm có tốc độ tăng giá mạnh nhất trong tháng
12 khi tăng 1,4%. Giá thực phẩm cũng tăng trở lại 0,49% sau 3 tháng giảm liên tiếp. Cùng
với khu vực ăn uống ngoài gia đình (0,57%), 2 nhóm này đẩy chỉ số của hàng ăn và dịch
vụ ăn uống tăng 0,69% và đóng góp chủ yếu vào đà tăng của CPI.
Tăng giá mạnh nhất trong tháng là các mặt hàng may mặc - mũ nón - giầy dép (0,86%)
chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ tại miền Bắc vào mùa đông. Các mặt hàng khác như nhà ở -
vật liệu xây dựng (tăng 0,51%), thiết bị - đồ dùng gia đình (0,68%) và hàng hóa - dịch vụ
khác (0,6%) cũng tăng giá tương đối mạnh theo quy luật tiêu dùng cuối năm.
Ở hầu hết các nhóm hàng còn lại, mức tăng giá trong tháng đều dưới 0,5% do chưa chịu
tác động của đợt tăng giá điện mới đây. Riêng nhóm bưu chính - viễn thông giảm giá gần
0,1%.
1.5. Giai đoạn 2012
Lạm phát năm 2012 thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu đề ra là 8%. Kết quả này là rất tích cực
so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và 18,13% của năm 2011.
Trong tháng 12/2012, các nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng cao nhất là may mặc, mũ nón,
giày dép (1,17%); thiết bị và đồ dùng gia đình (0,59%); văn hóa, giải trí và du lịch
(0,34%)... Nhóm hàng giảm giá là bưu chính viễn thông (0,02%), giao thông (0,43%).
Nhóm mặt hàng có quyền số lớn là lương thực, thực phẩm và dịch vụ ăn uống chỉ tăng
0,28%. Trong đó, lương thực tăng 0,13%; thực phẩm tăng 0,28%; ăn uống ngoài gia đình
tăng 0,4%. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số tăng giá thấp là thuốc và dịch vụ y tế
(0,14%); giáo dục tăng 0,09%.
Theo ý kiến một số chuyên gia, CPI năm 2012 biến động tương đối thất thường đặc biệt
trong tháng 9 (tăng 2,2%) do tăng giá đột biến của nhóm thuốc và dịch vụ y tế, giáo dục.
Nhưng sau khi Chính phủ chỉ đạo quyết liệt về công tác quản lý, điều hành và bình ổn
giá, tốc độ tăng CPI có xu hướng chậm dần, đến tháng 12 chỉ tăng 0,27%, trong khi thông
thường thời điểm cuối các năm giá tăng cao.
HÌNH 6
2. Nguyên nhân
2.1. Giai đoạn 2007-2008
123
2.2. Giai đoạn 2009
Giá nguyên liệu trên thị trường thế giới hạ nhiệt

Thứ nhất, khủng hoảng tài chính thế giới đẩy giá cả hàng hoá thế giới chìm vào cơn sốt
lạnh rất sâu, cho nên thị trường trong nước không thể không hạ nhiệt theo thị trường
thế giới.
Việc giá dầu mỏ thế giới liên tục giảm buộc giá trong nước cũng phải sớm giảm theo, còn
giá những hàng hoá và dịch vụ có liên quan chẳng chóng thì chắc chắn cũng sẽ buộc phải
giảm theo.
Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, thay vì bị lạm phát do chi phí đẩy ngày càng mạnh
liên tục trong nhiều năm qua, việc giá nguyên liệu nhập khẩu tiếp tục giảm mạnh sẽ làm
triệt tiêu nguyên nhân gây lạm phát đặc biệt quan trọng này.
2.3. Giai đoạn 2010
Do tính quy luật về quan hệ cung cầu hàng hóa theo mùa trong năm:
Nhìn vào diễn biến chỉ số CPI giữa các tháng trong năm 2010, chỉ số CPI tăng cao chủ yếu
vào đầu năm và cuối năm, tập trung là vào dịp trước và sau Tết Dương lịch cũng như Tết
Nguyên đán. Đây là khoảng thời gian cầu tăng mạnh do tiêu dùng cuối năm, dịp Tết,
nhưng cung hạn chế do thời tiết, do mùa vụ của sản xuất và một số yếu tố khác.
Do thực hiện chính sách xã hội hoá học tập và định hướng thị trường giá một số mặt
hàng do nhà nước quản lý:
Đầu năm 2010, Chính phủ điều chỉnh tăng giá bán lẻ xăng dầu thị trường trong nước,
tăng giá bán than, điện, nước sạch và điều chỉnh tăng mức lương cơ bản. Bên cạnh đó
Chính phủ cũng cho phép điều chỉnh mức thu học phí từ tháng 9 và tháng 10-2010.
Những điều chỉnh đó tác động lớn tới mặt bằng giá nói chung và là nguyên nhân chính
làm cho nhóm giáo dục tăng giá cao nhất trong rổ hàng hóa tính chỉ số CPI nói riêng.
Do thiên tai:
Lúa ở miền Bắc bị sâu bệnh đặc biệt là bệnh rầy. Tiếp đến là vụ Đông ở miền Bắc bị khô
hạn nặng, rét đậm kéo dài. Miền Trung và Tây Nguyên bị bão lụt gây thiệt hại nặng nề
nhất từ hàng chục năm qua, mùa màng vừa bị thiệt hại, thức ăn và vật tư nông nghiệp,
máy móc thiết bị nông nghiệp bị mất hay hư hỏng. Giá điện, phân bón, thức ăn chăn
nuôi, xăng dầu, lãi suất vốn vay và chi phí vốn vay tăng, chi phí đầu vào tăng.
Do tác động của giá cả trên thị trường thế giới
Thiên tai xảy ra nặng nề tại nhiều nước, nhất là trong khu vực như Trung Quốc, Pakistan,
Thái Lan, Ấn Độ..., cộng với tình hình thời tiết khắc nghiệt tại nhiều quốc gia khác làm
cho sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại nghiêm trọng, dẫn đến lượng cung cầu nhiều mặt
hàng nông sản thực phẩm mất cân đối, cung giảm, cầu tăng. Giá thế giới tăng, giá xuất
khẩu các mặt hàng tương ứng của Việt Nam tăng và giá thu mua trong thị trường nội địa
cũng tăng.
Do tác động của quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng
Trong xu hướng đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng, diện tích đất đai tiếp tục bị thu
hẹp. Các dự án nhà ở, khách sạn, du lịch sinh thái, sân golf, khu công nghiệp, đường giao
thông... Việc thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác màu mỡ của người dân ở
ven các khu đô thị, làm cho diện tích đất trồng trọt giảm, mặt khác, người dân có tiền từ
giải phóng mặt bằng, đền bù tài sản và hoa màu trên đất nên tăng tiêu dùng. Mặt khác,
tình trạng đó làm hạn chế quy mô sản xuất nông nghiệp, giảm nguồn cung ứng nông sản
ra thị trường. Xu hướng nói trên diễn ra trong nhiều năm qua, nhưng càng được đẩy
mạnh và mở rộng trong năm 2010, nên tác động đáng kể đến giá cả.
Do tác động của tăng tỷ giá
Việc tỷ giá tăng tạo sức ép lên giá bán lẻ xăng dầu thị trường trong nước. Đặc biệt là giá
bán lẻ các mặt hàng khác nhập khẩu từ nước ngoài hay có phụ tùng, nguyên vật liệu
nhập khẩu.
Do tác động của lãi suất
Mức lãi suất cho vay gây khó khăn rất lớn đến hoạt sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, của người dân, tạo sức ép đẩy giá thành vật tư, hàng hóa và dịch vụ, tác động
lên giá bán và tạo sức ép lên mặt bằng giá. Nhiều dự án triển khai dở dang nếu tiếp tục
vay vốn thì thua lỗ vì lãi suất cao, nếu không vay vốn thì máy móc thiết bị bỏ không vẫn
phải khấu hao, xuống cấp vì tác động của thiên nhiên, chi phí bảo vệ, trả lãi vốn vay đầu
tư, chậm trả nợ gốc, người lao động thiếu việc làm, ảnh hưởng ngay đến chất lượng tín
dụng vì nợ quá hạn.
Do biến động của giá vàng và diễn biến tâm lý của người dân
Giá vàng tăng và lên cơn sốt vào nhiều thời điểm, cộng với diễn biến thất thường của tỷ
giá VND/USD trên thị trường tự do, tác động lớn đến tâm lý của người dân về lạm phát,
về sự mất giá của đồng tiền Việt Nam, góp phần tác động đến mặt bằng giá chung trên
thị trường.
2.4. Giai đoạn 2011
Thứ nhất, nền kinh tế đã có độ mở lớn, nhưng lại nhập siêu cũng lớn (4 tháng đầu năm
2011 nhập siêu tới 4,9 tỉ USD, chiếm 18,5% kim ngạch xuất khẩu). Cùng với sự giảm giá
trị đối ngoại của đồng nội thì nguy cơ lạm phát kép là hiện hữu. Nhập siêu ở nước ta
đồng nghĩa với nhập khẩu lạm phát và làm tăng nợ nước ngoài qui đổi. Những ngày qua
do tăng cường kiểm soát tình trạng quản lý ngoại hối bị buông lỏng trong thời gian dài,
đã có tác dụng kéo tỷ giá thị trường tự phát về sát thị trường chính thức, nhưng tính bền
vững chưa được nhìn thấy rõ từ cơ cấu ngoại thương và cơ chế thị trường. Nếu có bất
ổn xẩy ra như triển vọng tăng trưởng xấu đi, thất nghiệp gia tăng và dòng vốn ngoại chảy
ngược ra, đồng nội tệ sẽ lại mất giá mạnh, khi đó sẽ tác động tăng lạm phát cao hơn vì
phải bỏ ra nhiều nội tệ hơn để có một đồng ngoại tệ.
Thứ hai, về những tác động từ bên ngoài: Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu, nhiều quốc gia đã lâm vào cảnh nợ công tăng cao và thất nghiệp gia tăng,
nhiều năm liền đã sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích hoạt cho nền kinh tế. Đặc
biệt với nền kinh tế lớn nhất thế giới, khi Chính phủ Mỹ liên tục đổ tiền ra, cùng với
chính sách hạ thấp lãi suất cơ bản xuống còn 0,25%/năm thì giá trị đồng đô la cũng liên
tục “rơi” mạnh xuống so với các đồng tiền mạnh khác
Thứ ba, tình trạng vòng “luẩn quẩn”: Tổ chức tín dụng thiếu tiền vốn so với cầu tín dụng
phải huy động với mức cao hơn mức trần Nhà nước quy định dẫn đến lãi suất cho vay
cũng tăng, trong khi thị trường thì thừa tiền để tiêu dùng hàng hoá hợp thị hiếu, làm cho
tiền trong lưu thông đổ vào lĩnh vực phi sản xuất, không qua ngân hàng, đọng lại ở thị
trường bất động sản rộng lớn nhưng lại bị “đóng băng” do giá cao chơi vơi, chỉ những
“đại gia” mới sẵn tiền để sở hữu những vị trí đẹp bằng mọi giá.
Thứ tư, tổng cầu quá lớn so với tổng cung của nền kinh tế liên tục bị kéo dài cũng là
nguyên nhân cơ bản khiến gia tăng lạm phát. Từ nhiều năm nay, tổng cầu nền kinh tế
nước ta đã quá lớn hơn so với tổng cung được biểu hiện qua chỉ tiêu tổng đầu tư xã hội
và tiêu dùng cuối cùng đã vượt so với giá trị sản xuất (GDP) từ 15 đến 17% liên tục từ
năm 2007 đến nay. Trong khi đó, năng suất lao động quá thấp, vốn đầu tư cho tăng
trưởng nhiều làm cho giá thành tăng quá cao, đẩy giá bán tiếp tục tăng.
2.5. Giai đoạn 2012
Nguyên nhân quan trọng là kiên trì chính sách điều tiết hợp lý việc cung tiền, bảo đảm
cân đối khá tốt hàng - tiền, sau thời kỳ M2 tăng nhanh. Nếu so sánh với việc tăng đầu tư
ngân sách khi kích cầu năm 2009 và tín dụng dễ dãi năm 2010 mới thấy việc kiểm soát
tiền tệ năm 2012 là có kết quả, sau chuyển biến bước đầu năm 2011. Tuy kiểm soát chặt
chẽ, nhưng khi cần thiết, NHNN đã bơm tiền ra thị trường bằng các kênh chính thức
(như hỗ trợ đầu tư, kể cả trái phiếu chính phủ, hỗ trợ thanh khoản cho NHTM qua thị
trường mở) và sau đó bằng các biện pháp nghiệp vụ đã thu tiền về nhanh, làm cho việc
cung tiền (qua M2) danh nghĩa thì lớn, nhưng tiền (nhất là tiền mặt) thực sự tham gia
lưu thông thì ít hơn. Thêm vào đó, năm 2012 việc cung tiền qua kênh tín dụng cũng bị
giảm mạnh do hoạt động tín dụng rất khó khăn, sau 9 tháng chỉ tăng hơn 2%, do cả phía
doanh nghiệp (tiêu thụ khó, tồn kho cao) và thanh khoản của ngân hàng thương mại (do
nợ xấu). Có thể nói, trong các nguyên nhân giảm lạm phát năm 2012, phần quan trọng là
do yếu tố điều hành tiền tệ, làm ổn định cung cầu hàng tiền, tuy trong nhiều năm, lượng
cung tiền đã cao hơn hẳn các nước.
Thêm vào đó, trong các tháng đầu năm, giá xăng dầu và năng lượng nói chung trên thế
giới khá ổn định, giá đầu vào của các hàng nhập khẩu cũng thấp trong điều kiện ổn định
tỷ giá, nên đã làm cho việc giảm CPI được thuận lợi. Thậm chí giá lương thực thực phẩm
trong nước cũng được bảo đảm ở mức ổn định đã tác động tích cực đến quá trình giảm
lạm phát khá ngoạn mục. Tuy nhiên, sự lo lắng về đình đốn cũng phần nào làm giảm
niềm hưng phấn do thành công khống chế lạm phát rất đáng khích lệ này. Hơn nữa,
trong các tháng cuối năm, nhất là quý IV có nhiều tác động mới theo hướng tăng CPI trở
lại, do tác động tăng giá xăng dầu, các dịch vụ y tế, giáo dục… và cả giá lương thực thực
phẩm, nếu điều hành không cẩn trọng như tháng 9, có thể làm CPI tăng mạnh, ảnh
hưởng đến CPI năm 2012 và cả 2013. Riêng các giải pháp bình ổn giá của một số địa
phương chưa có nhiều tác dụng thực tế, tuy có tác động tâm lý.
3. Giải pháp
3.1. Giai đoạn 2007-2008
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm
phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng
liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan
trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt
chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng
Nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền
tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách,
kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt
ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp
lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ
quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ,
địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết
để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay
trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu
quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện nay, tiềm
năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy đủ
của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị
trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu
quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần
kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản
ứng phụ.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu.
Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống
nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí trong
sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm
trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước
cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi
nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết
kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà
nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị
trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng,
như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn
tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản.
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình giá cả
tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị
thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính
sách về an sinh xã hội.
3.2. Giai đoạn 2009
123

3.3. Giai đoạn 2010


Về điều hành chính sách tiền tệ
Lãi suất là một công cụ truyền thống, có tính chất cổ điển trong thực hiện kiềm chế lạm
phát. Song thực hiện công cụ này để kiềm chế lạm phát cần phải xem xét các diễn biến
khác về kinh tế vĩ mô, phân tích thực trạng thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng
chứ không thể áp dụng máy móc được. Trước thời điểm NHNN tăng lãi suất cơ bản lên
9%/năm, nền kinh tế đang có hiện tượng khan hiếm vốn chứ không phải là tình trạng
thừa tiền trong lưu thông. Các NHTM đua nhau tăng lãi suất tiền gửi kèm theo nhiều
hình thức khuyến mại hấp dẫn khác nhưng vẫn khó huy động được vốn. Bên cạnh đó, lãi
suất cơ bản đang là 8%, lãi suất huy động vốn lên tới 12-13%/năm và lãi suất cho vay lên
tới 15%/năm. Bản thân lãi suất đó đã quá cao so với mặt bằng lãi suất chung trong khu
vực và cũng quá cao so với nền kinh tế. Lãi suất huy động vốn cao hơn nhiều so với tỷ lệ
lạm phát và lãi suất cho vay gấp gần 2,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế: 6,78%. Do đó,
cần có biện pháp hạ thấp lãi suất của các TCTD. Nếu duy trì mức lãi suất cao như hiện
nay sẽ tiếp tục gây tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế, cho hệ thống ngân hàng thương mại
và tác động ngược lại mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Về tỷ giá, cần có các biện pháp cụ thể, linh hoạt và phù hợp với các quy định hiện hành
về ngoại hối nhằm khắc phục hai hệ thống tỷ giá, hoặc thu hẹp bớt khoảng cách giữa hai
hệ thống tỷ giá, ổn định tỷ giá, xử lý nghiêm các trường hợp niêm yết và bán hàng hóa,
dịch vụ thu bằng ngoại tệ. Điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt và ổn định, tăng tính
minh bạch cho thị trường này cũng là biện pháp cần thiết góp phần kiềm chế lạm phát.
Về thị trường vàng, nên chủ động cho nhập khẩu vàng theo nhu cầu của thị trường chứ
không nên bị động chạy theo thị trường, chạy theo các cơn sốt, tăng tính thông tin minh
bạch về quản lý nhà nước đối với hoạt động này.
Về tín dụng, NHNN dự kiến trong năm 2011 tăng trưởng tín dụng ở mức 23%, tổng
phương tiện thanh toán giữ ở mức 21-23%. Song cần xác định đó chỉ là chỉ tiêu định
hướng. Việc tăng trưởng tín dụng phải dựa trên nhu cầu vốn thực tế, hiệu quả của nền
kinh tế.
Về chính sách tài khóa
Đối với kênh ngân sách nhà nước, chống thất thu, rà soát các kẽ hỡ trong quản lý nguồn
thu và phòng chống tiêu cực trong lĩnh vực này. Tương tự, nâng cao hiệu quả quản lý
vốn đầu tư ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các chi tiêu từ ngân sách, đều là những vấn
đề không mới nhưng cũng cần nêu lên để có tính đồng bộ khi đề cập đến vấn đề kiềm
chế lạm phát.
3.4. Giai đoạn 2011
Thứ nhất, tập trung giải quyết các vấn đề từ gốc của giá cả là chất lượng tăng trưởng,
sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ hai, kiên định thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm khống chế tổng cầu của nền
kinh tế mà Nghị quyết 11/NQ-CP đã đề ra.
Thứ ba, bảo đảm cân đối cung-cầu hàng hoá, dịch vụ trong mọi tình huống, trước hết là
các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng sốt giá.
Sắp xếp lại tổ chức mạng lưới lưu thông hợp lý, tránh đẩy chi phí lưu thông tăng cao. Rà
soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và có các giải pháp hỗ trợ phù hợp về tiếp
cận vốn, lãi suất, thuế… cho sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
để tăng cung cho thị trường, giảm chi phí tạo ra cơ hội giảm sức ép đẩy giá tăng.
Thứ tư, thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các hành vi gian
lận thương mại, đầu cơ găm hàng thao túng thị trường giá cả. Tiếp tục thực hiện các
biện pháp quản lý thị trường vàng, thị trường ngoại hối.
Thứ năm, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; tiếp tục có lộ trình thích hợp để xoá
bao cấp qua giá đối với các loại hàng hoá dịch vụ còn bao cấp và phù hợp với mục tiêu
kiềm chế lạm phát như: điện, xăng dầu, nước sạch, than bán cho điện… Đồng thời, bộ sẽ
có các giải pháp hỗ trợ hợp lý đối với những ngành sản xuất gặp khó khăn, hỗ trợ đối với
người nghèo, người có thu nhập thấp, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương biện pháp
bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội, tạo ra sự
đồng thuận trong xã hội, giảm thiểu các yếu tố tâm lý, kỳ vọng tăng giá trên thị trường.
3.5. Giai đoạn 2012
Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tài chính-tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh
hoạt theo tín hiệu thị trường; bảo đảm tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ
tín dụng hàng năm không vượt quá mức khoảng 15%; giảm dần mặt bằng lãi suất hợp lý;
tiếp tục chủ động điều hành tỷ giá linh hoạt theo thị trường, không để chênh lệch 2 giá
cao, kéo dài; bảo đảm và giảm chi phí vốn cho sản xuất; kiểm soát chặt cho vay bất động
sản và kinh doanh chứng khoán; kiểm soát nợ xấu; phối hợp tốt các cơ quan, tổ chức có
liên quan nhằm giữ vững và đảm bảo cao nhất sự ổn định các thị trường tài chính- tiền
tệ và thị trường bất động sản.
Thứ hai, tăng cường quản lý nhà nước về giá; thực hiện đúng quy luật và trình tự quy
trình kinh tế thị trường. Chỉ cho phép doanh nghiệp thực hiện giá thị trường khi có cạnh
tranh thị trường đầy đủ, lành mạnh trong lĩnh vực đó; tăng cường công tác thông tin về
giá, kiểm tra, kiểm toán giá, đồng thời đề cao trách nhiệm, sự chủ động và minh bạch về
giá của doanh nghiệp.
Thứ ba, thúc đẩy trên thực tế quá trình tái cấu trúc nền kinh tế theo một chương trình
tổng thể, đồng thời, chủ động giảm thiểu các tác động mặt trái của quá trinh này; kiểm
soát chặt chẽ hơn nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích; phát triển sản xuất thay
thế có hiệu quả hàng nhập khẩu để giảm nhập siêu và cải thiện cán cân thanh toán; tiếp
tục khuyến khích thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn ODA và FDI trong
các lĩnh vực mục tiêu (đặc biệt trong phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp phụ trợ và
nông nghiệp); tăng cường quản lý các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII); tạo
điều kiện thuận lợi để tăng khách du lịch quốc tế và nguồn kiều hối. Kiên quyết thực hiện
thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần chi phối và thoái vốn
đã đầu tư vào các hoạt động ngoài ngành kinh doanh chính.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường công tác phòng
chống tham nhũng; tăng cường cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia và đổi mới công tác cán
bộ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; chú trọng cải cách thể chế và thủ tục hành
chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân; đề cao trách nhiệm giải trình của các
cơ quan nhà nước; nâng cao chất lượng công tác tham mưu, công tác thông tin, dự báo
và phản biện chính sách xã hội, tăng cường tham vấn nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp
và các chuyên gia khi xây dựng chính sách và hoàn thiện thể chế.
III. Đánh giá về triển vọng lạm phát ở Việt Nam năm 2023
Bước sang năm 2023, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với những thuận lợi và thách thức
đan xen từ cả bên trong lẫn bên ngoài:
Thứ nhất, xung đột Nga - Ukraine là một trong những yếu tố có thể khiến giá năng lượng
biến động thất thường, tính bất định trở nên cao hơn, là nguyên nhân khiến kinh tế Liên
minh châu Âu (EU) khó khăn, trong khi đây là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt
Nam. Đồng thời, đầu tư FDI của các doanh nghiệp từ EU vào Việt Nam cũng có thể bị ảnh
hưởng.
Thứ hai, kinh tế thế giới rơi vào suy thoái. Trong năm qua, giá nhiên liệu và thực phẩm
trên thế giới tăng rất mạnh, để chống lạm phát thì các ngân hàng trung ương lớn từ Mỹ
tới châu Âu đã thực hiện thắt chặt tiền tệ. Trên thực tế, nguy cơ chính trong năm 2023
không phải là lạm phát mà là suy thoái kinh tế, thất nghiệp tăng cao và thu nhập giảm
sút. Điều này sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường lớn, đồng
thời làm giảm FDI từ các thị trường này vào Việt Nam.
Thứ ba, nội tại nền kinh tế đang cho thấy một số vấn đề trên thị trường vốn, thị trường
trái phiếu, cổ phiếu và thậm chí là thị trường tiền tệ với những điểm nghẽn, sự đứt gãy
niềm tin nhất định. Thị trường vốn chưa hoạt động lại bình thường như trước khiến
doanh nghiệp bên cạnh khó khăn về tiếp cận thị trường còn gặp khó trong vấn đề tiếp
cận vốn hoặc tiếp cận được với chi phí vốn rất cao.
Để ứng phó với thách thức nói trên cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, đổi mới các nền tảng vĩ mô. Tập trung rà soát, đánh giá kết quả thực hiện, đề ra
các giải pháp cụ thể để triển khai nghị quyết của các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
về đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
phát triển kinh tế tư nhân, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài, cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, phát triển vùng và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt. Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ
động, linh hoạt, thận trọng, đồng bộ nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và hỗ trợ cho phục hồi tăng
trưởng kinh tế.
Điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, cân đối vĩ mô và mục tiêu
của chính sách tiền tệ. Truyền thông về định hướng ưu tiên bảo vệ giá trị VND, không
phá giá VND để hỗ trợ xuất khẩu. Theo dõi sát diễn biến tỷ giá đồng USD, NDT, Euro, Yên
Nhật, cũng như giá cả một số mặt hàng quan trọng trên thị trường thế giới để điều hành
tỷ giá gắn với các công cụ chính sách khác một cách linh hoạt, chặt chẽ nhằm hạn chế tác
động đối với lạm phát và môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Giải trình hiệu quả về
công tác điều hành tỷ giá đối với Mỹ.
Ba là, thực hiện chính sách tài khóa chủ động. Trong đó, thực hiện nghiêm kỷ luật chi
ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu đề ra cho năm 2023 và giảm áp
lực cho thu ngân sách nhà nước. Rà soát, đánh giá các khoản thu đối với xăng dầu và cân
nhắc dư địa để điều chỉnh giảm các khoản thu này. Cân nhắc thêm khả năng không điều
chỉnh thuế đối với xăng dầu mà thực hiện hỗ trợ tập trung cho các nhóm yếu thế chịu
nhiều ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu. Nghiên cứu khả năng điều chỉnh mức thuế suất
thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân cho một số nhóm đối tượng phù hợp.
Bốn là, tiếp tục đẩy nhanh các cấu phần trong Chương trình phục kinh tế - xã hội 2022 -
2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân vốn đầu tư công. Thực hiện đồng
bộ, quyết liệt, hiệu quả các cấu phần đang triển khai chậm; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu
tư công; triển khai kịp thời và hiệu quả gói hỗ trợ lãi suất 2% quy mô 40 nghìn tỷ đồng
nhằm hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, tăng tính lan tỏa, giảm áp lực vốn tín dụng,
giảm nợ đọng; phấn đấu hết năm, đạt khoảng 85 - 90% kế hoạch giải ngân vốn đầu tư
công.
Năm là, hoàn thiện thể chế, tăng cường kiểm tra, giám sát, nâng cao tính minh bạch,
chuyên nghiệp và hiệu quả cho thị trường tài chính, quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống
tài chính: 1- Nghiên cứu ban hành Luật Bảo vệ nhà đầu tư và thành lập Quỹ bảo vệ nhà
đầu tư; 2- Sửa đổi nghị định và thông tư liên quan trực tiếp và gián tiếp đến thị trường
chứng khoán; 3- Nghiên cứu sửa đổi một số tiêu chí của VN30 bảo đảm chất lượng, quy
mô, hiệu quả của các doanh nghiệp lớn, dẫn dắt thị trường; 4- Phát triển các sản phẩm
phái sinh để phòng ngừa, hạn chế rủi ro như hợp đồng tương lai chỉ số VNX50 (VNX50
futures); 5- Quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính (nhất là mối quan hệ liên thông
giữa ngân hàng - chứng khoán - bất động sản - bảo hiểm).
Sáu là, các cơ quan điều hành cần phải tăng cường khả năng dự báo, chủ động xây dựng
các kịch bản kèm hành động ứng phó. Khi đã xây dựng được kịch bản thì sẽ có phương
án thích ứng, không bị động, cùng những chính sách kịp thời; tương ứng với mỗi kịch
bản sẽ có những chính sách phù hợp. Qua đó, giảm tố
đa sự chậm trễ chính sách, rút ngắn thời gian từ thảo luận chính sách cho đến ban hành
chính sách, tạo được phản ứng nhanh với nền kinh tế.

KẾT LUẬN
123

You might also like