You are on page 1of 15

I) Khái quát chung về lạm phát

1) Khái niệm lạm phát


Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo
thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao,
một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm
phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ.
2) Phân loại: 3 loại
- Lạm phát thể hiện những mức độ nghiêm trọng khác nhau. Chúng được phân
thành ba cấp: Lạm phát vừa phải, Lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
 Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự đoán
được. Tỷ lệ lạm phát hàng năm là một chữ số . Khi giá tương đối ổn định, mọi
người tin tưởng vào đồng tiền, họ sẵn sàng giữ tiền vì nó hầu như giữ nguyên
giá trị trong vòng một tháng hay một năm. Mọi người sẳn sàng làm những hợp
đồng dài hạn theo giá trị tính bằng tiền vì họ tin rằng giá trị và chi phí của họ
mua và bán sẽ không chệch đi quá xa.
 Lạm phát phi mã: tỷ lệ tăng giá trên 10% đến < 100% được gọi là lạm phát 2
hoặc 3 con số. Đồng tiền mất giá nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai
muốn giữ tiền mặt mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cần thiết cho
việc thanh toán hằng ngày. Mọi người thích giữ hàng hóa, vàng hay ngoại tệ.
Thị trường tài chính không ổn định ( do vốn chạy ra nước ngoài).
 Siêu lạm phát : tỷ lệ tăng giá khoảng trên 1000% /năm. Đồng tiền gần như mất
giá hoàn toàn. Các giao dịch diễn ra trên cơ sở hàng đổi hàng tiền không còn
làm được chức năng trao đổi. Nền tài chính khủng hoảng (siêu lạm phát đã từng
xảy ra ở Đức 1923 với tỷ lệ 10.000.000.000% và xảy ra ở Bolivia 1985 với
50.000%/năm).
II) Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2012
a) Lạm phát ở Việt Nam từ năm 2008 – 2012
 Năm 2008
- Tỷ lệ lạm phát đang ở mức cao nhất kể từ năm 1991, khi Việt Nam gặp khó khăn về
tài chính. Các chuyên gia cảnh báo lạm phát trong cả năm 2008 có thể lên trên 30%,
bộ Kế hoạch - Đầu tư VN dự đoán con số lạm phát cả năm sẽ vào khoảng 25%.
-Theo thông tin của tổng cục thống kê, chỉ số lạm phát khởi điểm năm 2008 với mức
chỉ số CPI tháng 1 là 2.38% cho thấy dấu hiệu lạm phát tăng cao trong năm 2008, lạm
phát bắt đầu tăng bất thường vào tháng 3/2008 tăng 2.99% (tháng 2 tăng 3.56%).
-Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ tháng này tăng mạnh đẩy giá lên là: các nhóm
hàng lương thực tăng 10.5%, phương tiện đi lại, bưu điện tăng 5.76%, nhà ở và vật
liệu xây dựng tăng 3.55%, các nhóm hang hóa và dịch vụ khác chỉ tăng ở mức 0.3-
1.5%.
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2008 đã tăng thấp mức tăng của các tháng trước nhưng
vẫn còn tăng và nhiều mặt hàng đứng ở mức giá cao. Giá cả thị trường diễn biến phức
tạp. Giá tiêu dùng tháng 5/2008 so với tháng trước tăng 3.59% tăng cao nhất trong 5
tháng đầu năm 2008.
- Giá tiêu dùng tháng 6/2008 đã tăng chậm lại, ở mức tăng 2.14% so với tháng trước.
Giá tiêu dùng tháng 7 tăng 1.13% so với tháng 6. Thống kê chính thức ước tính tỷ lệ
lạm phát của Việt Nam ở tháng 7 là 27,04%, dù chưa tính tác động của việc tăng giá
xăng mới đây.
-Tỷ lệ lạm phát của tháng 6 là 26,8%. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê VN cho hay tốc
độ tăng giá trong tháng 7 đã giảm, chỉ số tiêu dùng (CPI) tăng 1,13% so với tháng 6.
Ðây là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm đến nay.
-Giá lương thực tháng 6 giảm 0,37% so với tháng 6, vì đang được mùa lúa gạo.
-Theo Tổng cục Thống kê, các nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, đồ uống và thuốc lá,
may mặc, mũ nón, giầy dép… đều tiếp tục giảm mạnh so với tháng trước.
- Giá tiêu dùng tháng 9 tăng chậm lại một mặt do giá trên thị trường thế giới của một
số hàng hóa nước ta nhập khẩu đã giảm và sản xuất nông nghiệp trong nước được
mùa, nhưng yếu tố quan trọng nhất là do những nổ lực của các cấp các ngành trong
việc thực hiện 8 nhóm giải pháp của chính phủ. Giá tiêu dùng tháng 12/2008 so với
tháng 11 giảm 0.68%.
-Lạm phát thực sự bùng nổ và thực sự gây nên những bất ổn vĩ mô vào năm 2008.
Lạm phát đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2008 khi lên tới trên 30% (YoY). Kết thúc năm
2008, lạm phát lùi về còn 19.89%, đây là mức cao nhất trong vòng 17 năm qua. Trong
đó CPI của lương thực tăng cao nhất và đạt 49.16%.
-Tháng 5/2008, CPI một tháng tăng gần 4%, đó là thời điểm tăng đột biến của giá
lương thực (CPI lương thực tăng 22.19%). Trước đó tháng 3/2008 lạm phát cũng tăng
3.56% so với tháng trước. Tính trung bình 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát lên tới
2.86% cho mỗi tháng.
-Các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm phát của chính
phủ đồng thời từ tháng 9/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt đầu lan rộng ra toàn
cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh, nhờ đó lạm phát kể từ tháng 9 đã giảm
mạnh so với những tháng trước đó. Liên tiếp 3 tháng 10, 11 và 12/2008 CPI tăng
trưởng âm.
 Năm 2009
-Những tháng đầu năm 2009 lạm phát không còn là một vấn đề đáng lo ngại.Trung
bình 7 tháng đầu năm lạm phát chỉ tăng 0.45%/tháng, so với tháng 12/2008 đến tháng
7/2009 lạm phát chỉ tăng 3.22%, trong đó lương thực thực phẩm giảm 0.33%.
- CPI năm 2009 có mức tăng chậm hơn so với các năm trước, không có những đột
biến lớn không bất thường về quy luật. Lạm phát cả năm 2009 được công bố chính
thức là 6.88%.
- Trong tháng 1/2009 CPI lên nhẹ 0.32% chủ yếu do yếu tố tâm lý, người tiêu
dùng chấp nhận giá cao hơn trong tháng giáp Tết Nguyên đán. Sang tháng 2 CPI tăng
1.17% do vào dịp tết và rằm tháng giêng kéo giá lương thục, thực phẩm và nhiều loại
hàng hóa dịch vụ đồng loạt lên mức cao.
- Chỉ số giá USD đã tăng 10.7% trong vòng 1 năm, tính đến tháng 12/2009 gây áp
lực rất lớn lên giá hàng hóa nhập khẩu và các mặt hàng sử dụng nguyên liệu nhập
khẩu.

Biểu đồ diễn biến CPI năm 2009 (Nguồn: Tổng cục thống kê)
-Theo quy luật, giá cả một số mặt hàng thiết yếu thường tăng giá trước Tết nguyên
đán. Mức tăng này đã đẩy chỉ số giá mặt hàng lương thực tháng 12 tăng 6,88% so với
tháng trước và tăng 4.57% so với năm 2008.
-Mặt hàng thực phẩm so với tháng trước không tăng mạnh nhưng so với năm
2008 lại có mức tăng cao 8,39%.
-Sức tăng của 2 mặt hàng này đã đưa chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống trong tháng 12 tăng mạnh ở mức 2,06%. So với năm ngoái mức tăng này chênh
cao 8,71%.
-Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt
và vật liệu xây dựng tháng 12 cũng tăng ở mức 1,4%. So với năm 2008, mức tăng này
thấp hơn so với một số nhóm hàng khác.
-Nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 0,97%, nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng
0,81%. Một số nhóm khác có mức tăng không cao, đạt ở mức từ 0,07 đến 0,25% như
nhóm văn hoá, giải trí, thiết bị và đồ dùng gia đình.
-Trong 11 nhóm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, trong tháng 12 và cả năm 2009
nhóm Bưu chính viễn thông lại giảm 0,11%.
-Riêng chỉ số giá vàng trong tháng qua đã tăng cao 10,49%, đưa cả năm tăng 19,16%
so với năm 2008. Chỉ số đô la Mỹ tháng 12 tăng 3,19% đưa con số cả năm 2009 lên
9,17% so với năm 2008. Mức tăng này cũng đã được các chuyên gia dự báo ngay từ
đầu năm. Tuy nhiên với những chính sách bình ổn hiện nay, dự báo chỉ số giá vàng sẽ
nằm trong vòng ổn định hơn trong những tháng tới.
-Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009 đang nằm trong mức như mong
đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái một số mặt hàng
thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56%.
Diễn biến lạm phát hàng tháng năm 2009

-Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở Việt Nam từ
cuối năm 2009, giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp Việt Nam đảo ngược
xu thế đáng ngại so với năm 2008.
 Năm 2010
-Diễn biến CPI năm 2010 tạo bởi mức chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và đáy lên đến
hơn 1.5%, khá tương đồng với năm 2007. Hai điểm tăng cao nhất được tạo thành từ
mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12.
- Tết Canh dần rơi vào đầu tháng 2/2010 các mức tăng CPI hai tháng đầu năm đều
trên 1% và tiến gần 2%, nhưng khác biệt trong năm nay lại rơi vào tháng 3 khi chỉ số
giá tiêu dùng không giảm mạnh như các năm trước.
Trong tháng 3 bắt đầu có những đột biến:
+ NHNN công bố tỷ giá VND/ USD tăng 2% ở mức giá trần là 19.000
+ Đồng loạt áp dụng từ ngày 1/3: giá than bán cho điện tăng đến 47% tùy loại, giá
điện tăng 6,8%, giá nước sạch tại Tp.HCM tăng khoảng 50%.
+ Một tác động khác gây ảnh hưởng lớn đến giá cả và tâm lý người dân, ngay trước
ngày các viên chức trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết kéo dài, trưa 21/2, giá xăng đột
ngột được điều chỉnh tăng khoảng 3,6%.
+Tiếp theo các diễn biến này, gas, xi măng, sắt thép… cũng kéo nhau tăng giá.
+ Ngay sau đó, từ ngày 15/3 những thông tin về khả năng CPI tháng sau Tết tăng cao
đã được một số nguồn tin dự báo sớm. Con số chính thức sau đó chốt lại mức tăng
0,75%, chỉ kém năm 2008 đột biến nhưng tương đương năm 2004 và 1996.
-Mục tiêu được Chính phủ đặt ra lúc này là ổn định nền kinh tế, đặc biệt là kiềm chế
lạm phát, tăng trưởng cung tiền cả năm giới hạn ở 20% so với cuối năm 2009; tăng
trưởng tín dụng 25%.
- Trái với suy luận trong khoảng 5 tháng từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng
liên tục tăng rất thấp, về gần sát mức 0% (tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6). Xét
về cao độ, các mức tăng này lập kỷ lục về độ thấp kể từ 2004.
+ Sức mua tăng đột ngột thể hiện ở tổng mức bán lẻ đi lên trong tháng 4 và đến
tháng 5 đạt mức tăng gần 27% so với cung kỳ.
+ Mức tăng trưởng đi xuống dầnvà đến tháng 10/2010, giá trị sản xuất công nghiệp
đã giảm 3,4% so với tháng 9.
- Trong 4 tháng cuối năm, chỉ số giá tiêu dùng liên tục duy trì ở mức cao. Có tới 3
tháng đạt kỷ lục về cao độ, cho thấy sức nóng của lạm phát đã ở gần.
+ Ngày 9/8, giá xăng dầu sau một thời gian dài được giữ cố định đã điều chỉnh tăng
lên khoảng 2,5%, đẩy CPI tháng 9 vào vòng thử thách mới.
+ ngày 18/8, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng giữa VND với USD lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%) và giữ nguyên biên
độ tỷ giá +/-3%.
+ Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội kéo dài 10 ngày cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến chỉ số giá tiêu dùng tháng 10. Lại thêm lũ lụt diễn ra liên miên tại miền Trung
kéo dài thêm chuỗi tác động đến chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn cuối năm.
+ Khoảng trung tuần tháng 10, thị trường lại ghi nhận các đợt leo thang của giá vàng
và USD, trong bối cảnh xu hướng CPI đã bắt đầu tăng cao.
+ Chính sách tiền tệ đã nới lỏng hơn, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11 đã tăng
4,9% so với tháng 10 và dự kiến tháng 12 này con tăng khoảng 6% so với tháng trước.
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến cũng giảm dần về mức 28% tăng hơn so
với cùng kỳ.
+Lạm phát dự báo vẫn ở mức thấp trong bối cảnh dư thừa năng lực sản xuất và tỉ lệ
thất nghiệp cao. Sự phục hồi giá cả hàng hóa đã làm tăng chỉ số giá tiêu dùng trên
phạm vi toàn cầu. Ước tính lạm phát của các nước phát triển sẽ tăng lên mức 1,4%
trong năm 2010 so với mức 0,1% trong năm 2009; lạm phát tại các nước mới nổi và
đang phát triển ở mức 6,2% so với mức 5,2% của năm 2009; tại các nước đang phát
triển châu Á, lạm phát dự kiến tăng lên mức 6,1% so với mức 3,1% của năm 2009
(biểu đồ 3)
Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát triển, các nước
châu Á đang phát triển và Việt Nam (bình quân năm)

(Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010)


- Trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt xa chỉ
tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu năm là không quá 7% và mục tiêu Chính phủ
điều chỉnh là không quá 8%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
16,18%, với quyền số 39,93%, nhóm này đã đóng góp vào mức tăng chung của chỉ số
CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa mức tăng CPI của cả năm. Tiếp đến là nhóm nhà ở,
điện, nước, chất đốt, VLXD, tăng 15,74%, với quyền số 10,01%, nhóm này góp phần
làm tăng chỉ số chung khoảng 1,57%. Nhóm giáo dục có mức tăng cao nhất 19,38%,
với quyền số không lớn là 5,72%, nhưng nhóm này đã đóng góp mức tăng khoảng
1,1% vào mức tăng chung của chỉ số CPI.
Diễn biến chỉ số CPI theo tháng giai đoạn 2008 – 2010 ( Nguồn: Tổng cục Thống
kê)
- Nhìn chung trong cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng những thay
đổi chính sách vĩ mô và can thiệp thị trường từ cơ quan chức năng. Những ngày năm
mới đang đến cũng đọng lại một năm lạm phát không đạt chỉ tiêu, nhưng còn neo lại
những đoán định về hướng điều chỉnh chính sách có thể xuất hiện trong đầu năm tới.
 Năm 2011
- Theo báo cáo mới nhất từ Tổng cục Thống kê, tháng cuối cùng trong năm, chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tăng 0,53%, đẩy CPI cả năm tăng 18,13% so kỳ
tính tháng 10/2010. So cả năm 2010, CPI năm nay tăng 18,58%.
- Giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,69% so tháng trước. Cả năm nhóm hàng
hóa thiết yếu này tăng giá 26,49%. Trong đó, giá các mặt hàng lương thực tăng
mạnh 1,4%, cả năm tăng 22,82%. Giá tực phẩm tăng 0,49%, cả năm tăng
29,34%.
- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%, cả năm tăng 11,7%. Trong khi đó, giá
hàng hóa may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,86%, cả năm tăng 12,1% so năm
2010.
- Chi phí dành cho nhà ở bao gồm tiền thuê nhà, điện, nước, chất đốt và vật liệu
xây dựng tiếp tục tăng 0,51%, cả năm tăng tới 19,66%.
- Giá thuốc và dịch vụ y tế cuối năm tăng 0,24%, cả năm tăng 5,65%. Chi phí
cho giáo dục tăng nhẹ 0,05% trong khi cả năm tăng 23,18%.
- Như vậy, con số mà cơ quan thống kê đưa ra còn cao hơn cả con số do Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch-Đầu tư Bùi Quang Vinh công bố hôm qua trong phiên khai
mạc Hội nghị của Chính phủ với các địa phương về nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội và ngân sách nhà nước 2012 là 18,12%.
- Tốc độ tăng giá tiêu dùng tháng 5 đạt 2,21%, tuy chậm lại so với tháng trước
nhưng vẫn góp phần đẩy chỉ số giá từ đầu năm đến nay vượt mốc 2 con số.
Tổng cục Thống kê vừa cho biết chỉ số giá tiêu dùng cả nước đã tăng 2,21%
trong tháng 5. Tuy tốc độ tăng có chậm lại so với tháng 4 nhưng mặt bằng giá
hiện tại, so với đầu năm và cùng kỳ 2010, đã cao hơn lần lượt là 12,07% và
19,78%.
Di
ễn biến lạm phát 5 tháng đầu năm 2011 (Nguồn: GSO)
- Lạm phát tháng 12 cao hơn các tháng trước đó, tháng 10 tăng 0,36%, tháng 11
tăng 0,39% - đà tăng này phản ánh một phần tác động của biến động tăng giá
hàng hóa trước thềm Tết Nguyên đán và đặc biệt là Tết Dương lịch cũng như
dịp lễ Noel sắp tới.
- Với mức tăng CPI cả năm tăng 18,13%, Chính phủ đã không hoàn thành chỉ
tiêu được Quốc hội giao trong phiên họp cuối năm năm ngoái là không quá 7%.
Thậm chí, mức tăng giá này cũng vượt dự kiến đã đưa ra trước đó là 18%.
- Tại phiên họp Quốc hội diễn ra tháng 7 năm nay, Chính phủ đã đề nghị nới chỉ
tiêu CPI cả năm lên không quá 17%, song chỉ tiêu này đến nay đã không thực
hiện được mặc dù có nhiều phấn đấu.
- Lạm phát những tháng tới sẽ còn chịu áp lực lớn khi mới đây Tập đoàn Điện
lực Việt Nam (EVN) đã công bố tăng giá điện bình quân lên 5% ngay trước
thời điểm Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán.
- Trước đó, đánh giá về triển vọng kinh tế năm 2012, Ngân hàng Thế giới (World
Bank) cũng đã nhận định lạm phát là mối lo ngại chính của Việt Nam trong ổn
định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, so với khu vực và trên thế giới, Việt Nam là một
trong những nước có chỉ số CPI bị xếp ở mức "quán quân" và "vô địch".
 Năm 2012
- Bước sang năm 2012, trước những diễn biến kinh tế vĩ mô phức tạp trong nước
và quốc tế, Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/1/2012 về
những giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2012, trong đó nêu rõ mục tiêu được ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, mục tiêu lạm phát trong cả năm 2012
được Chính phủ đề ra ban đầu là tăng dưới 10%; trong phiên họp thường kỳ
Chính phủ tháng 5/2012 được điều chỉnh còn 7- 8%. Quyết định này được đưa
ra trong bối cảnh lạm phát những tháng đầu năm 2012 liên tục giảm. Cụ thể,
ngoại trừ 2 tháng đầu năm, lạm phát tăng cao do yếu tố mùa vụ với mức tăng
lần lượt là 1% và 1,37% so với tháng trước, chỉ số CPI từ tháng 3 tới tháng 8
chỉ tăng rất chậm. Đặc biệt, trong tháng 6 và tháng 7/2012, lạm phát đã ở mức
âm (với mức tăng CPI lần lượt là -0,26% và -0,29% so với tháng trước). Qua
đó, lạm phát so với cùng kỳ cũng đã giảm nhanh từ 17,27% vào tháng 1/2012
xuống mức 5,04% trong tháng 8/2012, và hiện tại ở mức 7%. Tuy nhiên, trong
tháng 8 và tháng 9, lạm phát đã đảo chiều hoàn toàn với mức tăng trong 2 tháng
lần lượt là 0,63% và 2,2% so với tháng trước. Đặc biệt, mức tăng của lạm phát
tháng 9 (2,2%) đã vượt ngoài dự báo của nhiều chuyên gia. Song bước sang
tháng 10, lạm phát đã có phần hạ nhiệt với mức tăng CPI của tháng 10 so với
tháng trước là 0,85%, tuy nhiên, đây vẫn là mức tăng khá cao so với các năm
trước.

Đồ thị 1. Diễn biến CPI và chỉ số giá một số mặt hàng

Nguồn: Tổng cục Thống kê

- Quan sát số liệu thống kê về chỉ số giá của các hàng hóa trong rổ tính CPI năm
2012 cho thấyhầu hết các nhóm hàng trong rổ hàng hóa tính CPI đều có xu
hướng tăng trong quý III, và đặc biệt tăng mạnh vào tháng 9.
- Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng mạnh trong tháng 9 do Chính phủ đã có quyết
định tăng giá vào tháng 4.Tính đến nay, cả nước đã có 32 tỉnh, thành phố đồng
loạt tăng giá dịch vụ y tế với các mức tăng khác nhau. Điều này làm nhóm
thuốc và dịch vụ y tế tăng mạnh 17,02% so với tháng trước trong tháng 9, qua
đó góp phần làm CPI chung tăng khoảng 0,95% (tỷ trọng đóng góp 43,4%).
Đây là nhóm hàng có mức tăng đột biến trong tháng 9. Sang tháng 10, giá nhóm
thuốc và dịch vụ y tế có phần dịu bớt khi nhóm hàng này chỉ tăng 5,94% so với
tháng trước và đóng góp 39,2% vào mức tăng CPI chung.
- Nhóm giao thông có xu hướng tăng trong quý III do các quyết định điều chỉnh
tăng giá xăng dầu của Chính phủ. Trong tháng 9, nhóm giao thông đã tăng
3,83% so với tháng trước, góp phần 0,34% trong mức tăng CPI chung cả nước
(tỷ trọng đóng góp 15,44%), chủ yếu do các quyết định điều chỉnh tăng giá
xăng dầu trong cuối tháng 8. Sang tháng 10, nhóm hàng này chỉ tăng 0,61% so
với tháng 9, tỷ trọng đóng góp qua đó cũng giảm mạnh xuống còn 6,37%.
- Nhóm giáo dục tăng do yếu tố thời vụ (các chi phí liên quan đến giáo dục đầu
năm học mới tăng ở các cấp học). Bước vào năm học mới, cả nước đã có 42
tỉnh, thành phố điều chỉnh đồng loạt tăng học phí ở các cấp học làm nhóm giáo
dục trong tháng 9 tăng 10,54% so với tháng trước, qua đó đóng góp 0,6% trong
mức tăng CPI chung cả nước (tỷ trọng đóng góp 27,4%). Yếu tố mùa vụ được
thể hiện rõ khi trong tháng 10, nhóm hàng này chỉ tăng 1,88% so với tháng 9, tỷ
trọng đóng góp giảm mạnh còn 12,65%.
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng mạnh trong 2 tháng cuối quý III
một phần do nhu cầu mua nhà ở thực đang dần khởi sắc, với mức tăng lần lượt
là 2,03% và 2,18%. Bên cạnh đó, việc giá dầu hỏa tăng 6,38%, giá gas tăng
11,8% cũng phần nào tác động làm giá nhóm hàng này tăng trong quý III.
- Như vậy,có thể nhận thấy rằng sự gia tăng của CPI trong quý III nói chung và
tháng 9 nói riêng chủ yếu chịu tác động của việc tăng giá 04 nhóm hàng thuốc
và dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở và vật liệu xây dựng, giao thông. Sự tăng giá ở
đây không phản ánh hoàn toàn quan hệ cung cầu hàng hóa mà sự gia tăng này
phần lớn mang tính thời điểm, mùa vụ và phần lớn được điều chỉnh mạnh trong
tháng 9.
- Như vậy có thể nhận thấy rằng diễn biến lạm phát trong 10 tháng qua có những
một số điểm đáng chú ý sau:

+ Diễn biến của lạm phát không chịu chi phối mạnh từ sức ép của tổng cầu, kỳ
vọng lạm phát đã có neo để suy giảm;

+ Mức tăng CPI trong Quý III nói chung và tháng 9 nói riêng đã chịu sự tác
động mạnh của việc tăng phí dịch vụ y tế và học phí giáo dục. Sự tăng giá của hai
nhóm hàng này chỉ ảnh hưởng một lần và mang tính thời điểm đối với chỉ số giá;

+ Tiền tệ không còn là nhân tố tác động mạnh đến diễn biến của lạm phát từ
đầu năm đến nay. Mặc dù đã có tác động rõ nét hơn, tuy nhiên vẫn không phải
là nhân tố chính tác động tới mức tăng của lạm phát quý III.

- Trước diễn biến của lạm phát, một số chuyên gia kinh tế cũng tỏ ra quan ngại
khi chỉ số CPI tăng trong hai tháng vừa qua không tăng lên bằng nhu cầu thực
chất do đó không phản ánh việc sức mua được cải thiện mà thậm chí sẽ có thể
tác động ngược trở lại – làm suy giảm mạnh hơn sức mua của dân trong bối
cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay. Đồng thời các chuyên gia cũng cho rằng
không thể xem thường sự tăng giá hàng loạt của các mặt hàng thiết yếu mà cần
thiết phải có những biện pháp kiểm soát những tác động trễ của việc tăng giá
trên cũng như cần phải giãn lộ trình điều chỉnh một cách hợp lý để kiềm chế
trước nguy cơ lạm phát quay trở lại. Bên cạnh đó, các nhân tố chi phí đẩy, nhân
tố tiền tệ - tài khóa và nhân tố tổng cầu cũng được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng và
sẽ có tác động mạnh hơn đến chỉ số giá tiêu dùng trong những tháng cuối năm.
- Mặc dù những nhận định về xu hướng của các nhân tố tác động lên diễn biến
của lạm phát vào những tháng cuối năm là không mấy tích cực, song việc chỉ số
giá tiêu dùng của tháng 10 diễn ra thấp hơn so các kịch bản giả định cùng với
chủ trương của Chính phủ (thể hiện thông qua Nghị quyết phiên họp thường kỳ
tháng 9/2012) đối với việc tiếp tục tập trung kiểm soát chặt chẽ giá cả, thực
hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô cũng đã giảm bớt quan
ngại về áp lực lạm phát trong 2 tháng còn lại của năm - lạm phát vẫn có xu
hướng tăng lên nhưng ở trong giới hạn kiểm soát. Mô hình dự báo lạm phát
ngắn hạn của Viện Chiến lược cho thấy lạm phát trong các tháng tới sẽ tăng
trung bình khoảng 0,8%-1% so với tháng trước. Cuối năm 2012, lạm phát ở
mức 7,39%-8%, đạt mục tiêu đề ra.

b) Nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam


Đối với nước VN, có thể nói nguyên nhân lạm phát là do tác động tổ hợp của ba dạng
thức lạm phát : lạm phát tiền tệ (chủ yếu), lạm phát chi phí đẩy lạm phát cầu kéo.
- Lạm phát cầu kéo: do đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân tăng, dẫn
đến nhu cầu nguyên nhiên vật liệu tăng, thiết bị công nghệ tăng, thu nhập người dân
cũng như người thân từ nước ngoài gửi về tăng làm cho thu nhập tăng dẫn đến nhu cầu
của người dân tăng, ngoài ra là do nhu cầu nhập khẩu lương thực thế giới tăng. Nhu
cầu tăng đột biến đẩy giá cả các mặt hàng tăng nhanh.
- Lạm phát chi phí đẩy: giá nguyên nhiên liệu: xăng dầu các sản phẩm hóa dầu, thép,
phôi thép…( giá đầu vào) trên thế giới tăng mạnh, trong điều kiện kinh tế nước ta phần
lớn phụ thuộc vào nhập khẩu ( chiếm 90% GDP) đồng thời thiên tai, mất mùa cũng
khiến dẫn đến giá cả thị trường trong nước tăng,tăng lượng tiền trong lưu thông với
mức 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao , thêm vào đó là hệ quả của sự tăng tín
dụng trong những năm trước đó.
- Lạm phát tiền tệ: cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh do vốn nước ngoài chảy vào tăng
đột biến buộc ngân hàng nhà nước tung khối lượng lớn tiền để mua ngoại tệ . Mức
chênh lệch đó là do cơ cấu kinh tế chậm cải thiện, công nghiêp khai thác tài nguyên
gia công chiếm tỉ trọng lớn, giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp, đầu tư từ nguồn
ngân sách nhà nước còn dàn trải, không đảm bảo tiến độ, không hiệu quả, nhiều thất
thoát…kéo dài , chậm khắc phục.
- Công tác dự báo dự kiến biện pháp, kế họach ứng phó những tác động tiêu cực của
kinh tế thế giới chưa được quan tâm đúng mức, tham mưu Đảng và Nhà Nước do chưa
có kinh nghệim nên còn lúng túng, thiếu linh hoạt trong ứng phó.Nói chung ngoài
những yếu tố khách quan còn co yếu tố chủ quan là từ cơ quan Nhà nước điều hành ổn
định kinh tế vĩ mô thiếu hiệu quả.
- Nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiện nay đó là sự kém hiệu quả của hoạt động đầu tư
công. Báo cáo mới nhất của Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội khi thẩm tra tình
hình thu chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2010 đã “đề nghị xem xét lại đầu tư
công những năm qua có xu hướng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với
tổng đầu tư toàn xã hội”. Năm 2007 chiếm 37,2%, năm 2008 chiếm 33,9%. Năm 2009
chiếm 40,6% và năm 2010 chiếm 46,2%. Tỷ lệ ngân sách chi cho các dự án đầu tư
công dường như tỷ lệ nghịch với hiệu quả của các dự án trên
- Nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng lạm phát ở Việt Nam đó chính là tâm lí của
người tiêu dùng Việt Nam hay đúng hơn là lòng tin vào Việt Nam đồng của chính
những người Việt. Điều này là một hệ lụy tất yếu của sự bất ổn tiềm tàng trong Việt
Nam đồng. Từ khi ra đời đến nay, VN đồng liên tục mất giá so với vàng và đô la. Sức
mua của VN đồng giảm sút nhanh càng khiến cho người dân hướng tới vàng và đô la
như một phương tiện cất trữ tài sản.
- Thêm một nguyên nhân nữa đã đẩy tình hình lạm phát của Việt Nam đi xa hơn đó là
sự tăng giá của một só mặt hàng thiết yếu. Mở màn cho việc tăng giá đó là ngày
24/02/2011,giá xăng trên thị trường nội địa Việt Nam tăng lên mức 19300 đồng/lít_
mức tăng mạnh nhất từ trước tới nay. Và một vấn đề còn nghiêm trọng hơn đó chính là
bất ổn chính trị tại quốc gia Bắc Phi_Libya. Xung đột vũ trang rồi biến thành một cuộc
chiến tranh thực sự tại một trong những quốc gia xuất khẩu dầu mỏ nhiều nhất thế giới
đã dẫn đến tình trạng một lượng lớn dầu bị tồn đọng. Chính sự kết hợp của hai nguyên
nhân trên đã đẩy giá dầu trên các sàn giao dịch vượt ngưỡng 100$/ thùng.
- Với việc hai nguồn nguyên liệu chủ yếu của xã hội là xăng và điện cùng tăng giá
thì việc các loại hàng hóa trong xã hội cũng dần dần tăng giá theo là một điều khó
tránh khỏi. Điều này có thể khiến kinh tế Việt Nam chìm sâu hơn vào vòng xoáy lạm
phát.
- Chạy theo chỉ thị:
+ Do được mệnh danh là “nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN“ nên nền
kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào kế hoạch và chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Qua chỉ thị của Đảng, trọng tâm của nền kinh tế là các con số tăng trưởng hàng
năm. Để đạt chỉ tiêu đã đề ra, nhà nước khuyến khích đầu tư và các doanh nghiệp quốc
doanh được tạo điều kiện mượn nợ ngân hàng dễ dàng cho các dự án đầu tư. Ngoài
lĩnh vực kinh doanh chính, các doanh nghiệp còn đầu tư vào các lĩnh vực thiếu chuyên
môn, đặc biệt vào các lĩnh vực bất động sản hoặc có nhiều rủi ro như cổ phiếu, v.v…
+ Việc chạy đua với con số tăng trưởng nên nền kinh tế Việt Nam trong những năm
qua tăng trưởng nhờ đầu tư nước ngoài, không phải vì tiêu thụ nên tăng trưởng không
bền vững và ẩn chứa rủi ro.
+ Việt Nam vay mượn tiền vốn nước ngoài đã thúc đẩy nhu cầu tiền nước ngoài cao
hơn tiền nội địa đưa đến áp lực giảm giá trị đồng tiền trong nước va làm tăng trưởng
lạm phát.
- Thâm hụt mậu dịch:
+ Việt Nam xuất cảng chủ yếu quần áo, dầu thô, giầy dép , sản phẩm nông, lâm nghiệp
và hải sản.Những mặt hàng nhập vào Việt Nam nhiều nhất là máy móc và đồ phụ
tùng , sắt và thép , tơ sợi , hàng điện tử và computer.
+ Nhập cảng nhảy vọt đưa đến người giàu có lợi dụng cơ hội Việt Nam vào WTO đặt
mua hàng hóa xa xỉ như máy bay, xe hơi đắt tiền v.v... Sau 24 năm “đổi mới“ Việt
Nam vẫn không thoát ra khỏi nền kinh tế gia công và nông nghiệp. Việt Nam vẫn lệ
thuộc vào xuất khẩu và phải nhập khẩu hàng hóa, máy móc để cho dân chúng tiêu
dùng.
- Thâm hụt ngân sách:
+ Các khoản thu chính của nhà nước Việt Nam là từ thuế và lệ phí, bán dầu thô, viện
trợ và vay nước ngoài. Cuộc khủng hoảng kinh tế làm nhà nước giảm các khoản thu từ
thuế và bán dầu thô, đồng thời nhà nước phải tăng chi phí để kích cầu nên thâm hụt
ngân sách quốc gia.
+ Để chi phí cho thâm hụt ngân sách quốc gia, nhà nước buộc phải mượn thêm nợ, làm
nhu cầu muợn vốn từ nước ngoài cũng tăng lên.
+ Tiền lãi và tiền mượn nợ được trả bằng tiền thuế thu từ nhân dân trong nước.
+ Những rủi ro xảy ra trong trường hợp thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài cao là do
áp lực giảm giá trị đồng tiền nội địa dẫn đến tăng lãi suất và tăng lạm phát. Ngoài ra,
gây áp lực giảm khả năng tín dụng của quốc gia (rating code) đã làm tăng lãi suất tín
dụng.
- Áp lực lạm phát ở Việt Nam trong năm 2011 chủ yếu sẽ đến từ các nguyên nhân sau:
+ Việc điều chỉnh giá điện (với mức tăng ít nhất 18% so với năm 2010) dự kiến bắt
đầu từ 1-3-2011 và việc cho phép các hàng hóa năng lượng quan trọng như xăng, dầu,
than “vận hành theo cơ chế thị trường” chắc chắn sẽ là một cú hích đáng kể đối với
lạm phát. Điện ở Việt Nam cũng được chính phủ bao cấp lâu nay. Giá thành cao hơn
giá bán. Giá điện trung bình tại Việt Nam hiện nay là 5.2 cent / kWh (tính theo USD),
chỉ bằng một nửa so với giá điện của các nước trong khu vực. Chi phí sản xuất ra
1kWh điện trung bình từ 7 đến 12 cent. Việc hủy bỏ bao cấp là cần thiết và nhà nước
đã cho phép tăng giá điện 15.3% bắt đầu có hiệu lực vào tháng 3. Đây cũng là một
quyết định không hợp thời vì Việt Nam đang phải đối phó với nạn lạm phát cao.
Nhưng áp lực là do công ty quốc doanh Điện Việt Nam (EVN) bị lỗ lã và ngân sách
thiếu hụt. Ông Đinh Quang Tri, Phó Tổng Giám Đốc EVN cho biết thêm rằng giá điện
tăng vừa qua không bù đắp được tất cả những lỗ lã của công ty trong năm 2010. Con
số này lên tới 8,000 tỉ VNĐ. Như vậy có nghĩa nhà nước có thể sẽ cho phép EVN tăng
giá điện lên nữa trong tương lai.
+ Xu thế giá thế giới của các hàng hóa cơ bản (đặc biệt là năng lượng, thực phẩm, vật
tư nông nghiệp và kim loại) tiếp tục tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mặt bằng giá trong
nước vì nền kinh tế của chúng ta đã trở nên rất mở. Không những thế, như một hiện
tượng có tính quy luật, giá hàng hóa cơ bản ở các nước đang phát triển (trong đó có
Việt Nam) một khi đã tăng thì thường tăng cao hơn nhiều so với các nước phát triển.
Chẳng hạn như trong năm 2010, chỉ số giá hàng hóa cơ bản ở các nước đang phát triển
là 31% trong khi trên toàn thế giới chỉ là 19%.
+ Trong năm 2010, với tốc độ tăng cung tiền và tín dụng đều ở mức trên 25% và tỷ lệ
đầu tư trên 40% trong khi tốc độ tăng trưởng GDP thực chỉ là 6,8% thì lạm phát tiền tệ
sau một độ trễ nhất định sẽ được thể hiện trong chỉ số giá. Điều chỉnh tỷ giá và tăng
giá điện đều là những việc không thể không làm để giảm sự méo mó trong giá thị
trường, vốn là một điều kiện cần để nền kinh tế có thể giảm chi phí giao dịch và phân
bổ nguồn lực một cách hiệu quả.
+ Ngoài ra Việt Nam còn có vấn đề bội chi ngân sách tương đương với 8.9% và 5.9%
của tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP) lần lượt trong hai năm
2009 và 2010. Cán cân thương mại thiếu hụt thường xuyên trong nhiều năm vừa qua.
Mức thiếu hụt này tương đương với 8.9% và 10.2% của GDP trong 2009 và 2010.
Những con số này chứng tỏ rằng chi tiêu của nhà nước cao hơn thu nhập và nhu cầu
nhập khẩu cao hơn trị giá hàng xuất khẩu. Hai sự thiếu hụt này tạo áp lực trên giá cả
bằng cả hai tác động cầu kéo và chi phí đẩy. Tuy nhiên trong trường hợp bội chi ngân
sách, chi tiêu của nhà nước làm tăng GDP trong ngắn hạn còn cán cân thương thiếu
hụt làm giảm GDP.
+ Nguyên nhân kế tiếp không kém quan trọng là việc gia tăng tín dụng quá cao, trên
20% trong suốt 10 năm vừa qua, đôi khi lên đến 50.2% vào 2007 và 45.6% vào năm
2009. Theo Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN), mức tín dụng tăng 27% trong năm 2010,
vượt quá mục tiêu 25%. Mức tín dụng chỉ tiêu cho năm 2011 là 23%. Nay mới hạ
xuống dưới 20%. Ngoài ra, phần lớn những tín dụng này lại được ưu tiên dành cho
những , thường doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, với những điều kiện
thuận lợi.
+ Năng suất của kinh tế Việt Nam thấp. Đây là hệ quả tất yếu của một nền kinh tế xây
dựng trên một khu vực nhà nước lớn với các doanh nhà nước nghiệp làm ăn thường là
thua lỗ. Vào cuối năm 2010, công ty quốc doanh xây cất tầu thủy Vinashin rơi vào tình
trạng gần phá sản là một thí dụ mới nhất. Vinashin hay là Vietnam Shipbuilding
Industry Group, được thành lập vào năm 2005 với số vốn 750 triệu USD từ công trái
phiếu của nhà nước. Vào tháng 7, 2010, Việt Nam công bố rằng Vinashin mắc món nợ
chồng chất lên 4.4 tỉ USD, không có khả năng trả nợ và bị đe dọa phá sản. Vào tháng
8, 2010, cựu chủ tịch Vinashin Phạm Thanh Bình và một số viên chức điều hành bị bắt
vì vi phạm luật lệ quản trị, nhưng cho tới nay chưa có ai bị truy tố. Vào cuối năm
2010, Vinashin điều đình với các chủ nợ để xin hoãn trả 60 triệu USD trên số nợ 600
triệu USD. Cho đến đầu tháng 3 vừa qua, Vinashin vẫn chưa trả được nợ. Khả năng
phá sản có thể sẽ xảy ra.
+ Trong khi vụ Vinashin chưa giải quyết xong và ngay sau khi nhà nước tuyên bố cho
tăng giá xăng dầu và điện, gần đây lại xẩy ra vụ Công Ty Cho Thuê Tài Chánh ALC II
thua lỗ 3,000 tỉ đồng. Công ty nhà nước này thua lỗ đã nhiều năm, những đến 2007
mới bị phát hiện. Đến cuối 2009 ông Vũ Quốc Bảo, Tổng Giám Đốc ALC II mới bị
mãn nhiệm, và cho mãi đến giữa tháng 4 vừa qua, dân mới được biết vì cơ quan cảnh
sát điều tra quyết định bắt tạm giam ông Bảo.
+ Chi phí gia tăng trong nhiều tháng vừa qua. Theo Nghị Quyết số 11/NQ-CP ban
hành ngày 24/2/2011, nhà nước cho phép gia tăng giá xăng dầu trong nước cho phù
hợp với giá xăng dầu thế giới và giá điện trong nước theo cơ chế thị trường. Tăng giá
điện và xăng ảnh hưởng đến tất cả mọi lãnh vực kinh tế và trực tiếp làm nạn lạm phát
trầm trọng thêm. Đây là một hiện tượng chi phí đẩy.
+ Việc tăng giá xăng là một việc không tránh được vì giá xăng dầu trên thế giới tăng
và Việt Nam là một nước nhập cảng xăng dầu nhiều hơn gấp bội lượng xăng dầu xuất
khẩu. Việc điều chỉnh giá xăng dầu được quy định theo Nghị Định 84/2009 của nhà
nước về kinh doanh xăng dầu. Vì ngân sách quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng cộng
thêm kinh tế bất ổn nói chung mà nhà nước đã có quyết định không hợp thời là tăng
giá xăng liên tục ba lần kể từ đầu năm nay. Lần tăng 30% mới nhất đã đưa giá xăng
lên đến 21,300 VN/lít trong tháng 3. Cũng vào dịp này giá dầu diesel tăng 24%.
+ Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ). Trong 15 tháng vừa qua, Việt Nam đã phá
giá VNĐ tất cả 4 lần và trong khoảng thời gian này trị giá của VNĐ đã giảm tổng cộng
khoảng 20% so với đồng US dollar (USD). Trong lần thứ tư xẩy ra vào ngày
11/2/2011, VNĐ sụt giá 9.3% so với USD. Hối suất chính thức của VNĐ tăng từ
18,932 lến đến 20,693 cho một USD. Ngân hàng nhà nước quyết định phá giá VNĐ là
để giảm bớt sự chênh lệch giữa hối suất chính thức và hối suất chợ đen, đôi khi sự
cách biệt lên đến 9% và làm giảm sự khan hiếm ngoại tệ. Sự phá giá VNĐ cũng giúp
tăng xuất khẩu và giảm chênh lệch cán cân thương mại vì làm giảm chi phí sản xuất
trong nước. Tuy nhiên, đồng Việt Nam mất giá cũng làm tăng lạm phát vì giá sản
phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo VNĐ.
3) Nhận xét chung
Tóm lại, kiềm chế lạm phát không phải là một bài toán không có lời giải vấn đề là cần
chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho ngân sách
nước nhà. Vì vậy, cần có sự đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp và
nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp và toàn
diện, chính xác hơn. Các Bộ, Ban, Ngành từ trung ương đến địa phương cầ làm hết sức
mình, bằng những kế hoạch và biện pháp cụ thể để triển khai các chỉ đạo mà Chính
phủ đã ban hành. Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là
mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định xã hội, thực hiện công
nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta trong thời gian tới. Phát huy kết quả đạt được
trong những năm vừa qua, trong thời gian tới cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chủ
yếu là: nghiên cứu và tổ chức thực hiện các chính sách biện pháp bình ổn giá cả thị
trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá,
quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình, sản xuất và chi phí sản xuất, giữ quan hệ
công nông hợp lý, cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động của giá cả thị trường
thế giới. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá và kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh
không lành mạnh, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng hợp tác quốc tế. Những kết quả khả quan sẽ
đến với nền kinh tế Việt Nam nếu chúng ta đoàn kết và quyết tâm cao theo đường lối
thống nhất của Đảng và Nhà nước ta đề ra.

You might also like