Professional Documents
Culture Documents
Lạm phát toàn cầu từ đầu năm đến nay có xu hướng giảm dần sau thời gian các
nước đồng loạt tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát cùng với giá năng lượng giảm. Việt
Nam tiếp tục thuộc nhóm các nước kiểm soát tốt lạm phát khi CPI tháng 9/2023 tăng
3,66% so với tháng 9/2022.
Lạm phát Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 1,13% trong tháng 9, do đó tăng từ
3,0% (so cùng kỳ) trong tháng 8 lên 3,66% (so cùng kỳ) vào tháng 9 năm 2023, tiếp
tục xu hướng tăng mạnh mẽ kể từ tháng 6. Lạm phát tăng khá mạnh do giá lương thực,
thực phẩm cũng như nhà ở và vật liệu xây dựng tăng cao. Trong 11 nhóm hàng tiêu
dùng chính, có 10 nhóm tăng giá, riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm giá.
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng là nhóm có chỉ số giá tháng 9/2023 so với
cùng kỳ năm trước tăng cao nhất với 7,33%, làm CPI tăng 1,38 điểm phần
trăm do giá vật liệu xây dựng và giá nhà ở thuê tăng.
- Nhóm giáo dục tăng 7,25% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI tăng 0,45 điểm
phần trăm, nguyên nhân do một số địa phương tăng học phí trường công lập
năm học 2023-2024 theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Đồng
thời, các trường dân lập và tư thục cũng tăng học phí để bù đắp chi phí hoạt
động thường xuyên, nâng cao chất lượng đào tạo.
- Nhóm giao thông tháng 9/2023 tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI
chung tăng 0,31 điểm phần trăm, trong đó giá xăng dầu tăng 5,64% do từ
tháng 9/2022 đến nay giá xăng A95 tăng 3.010 đồng/lít; xăng E5 tăng 2.410
đồng/lít và dầu diezen tăng 1.060 đồng/lít.
- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,04% làm CPI tăng 0,08 điểm phần trăm, do
chi phí đầu vào sản xuất tăng.
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,87%, tác động làm CPI chung tăng
0,98 điểm phần trăm, trong đó nhóm lương thực tăng 10,49%; thực phẩm tăng
1,17%; ăn uống ngoài gia đình tăng 4%.
- Bên cạnh đó, nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 2,06%; nhóm thiết bị và
đồ dùng gia đình tăng 1,79%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,37%;
nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,58%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng
5,93%.
- Chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,29% so với cùng kỳ năm trước
do giá điện thoại cố định và di động giảm.
(Tình hình giá - TCTK)
Ngược lại với lạm phát CPI, lạm phát cơ bản (không bao gồm lương thực,
nhiên liệu và giá do chính phủ quản lý) tiếp tục giảm từ 4,0% (so với cùng kỳ) vào
tháng 8 năm 2023 xuống còn 2,8% (so cùng kỳ) vào tháng 9 (Hình 1).
Hình 1: Đóng góp vào lạm phát CPI (% & điểm %, năm/năm).
Nguồn: World Bank Việt Nam
Tính chung 9 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 3,16%. Lạm phát cơ bản có xu
hướng đi xuống, từ 4,33% vào tháng 6 còn 3,8% vào tháng 9, nhưng bình quân 9
tháng vẫn cao, tăng 4,49% so với cùng kỳ 2022, và cao hơn mức tăng CPI bình quân
chung. (Báo cáo KTXH - TCTK)
Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
10/2023 tăng nhẹ 0,08% so với tháng trước. So với tháng 12/2022, CPI tháng Mười
tăng 3,2% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,59%. Bình quân 10 tháng năm 2023,
CPI tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 4,38%. (Báo cáo
KTXH - TCTK)
Từ trạng thái nóng sôi sùng sục thời điểm đầu năm rồi chuyển sang giảm sâu
thời điểm giữa năm, sự biến động của lãi suất cũng cho thấy bức tranh thị trường vốn
đầy kịch tính của kinh tế VN năm 2023.
Thời điểm đầu năm, thị trường lãi suất diễn ra cuộc đua hút khách gửi tiền giữa
các ngân hàng (NH). Trong khi mặt bằng tiết kiệm đang khoảng 7%, "đùng một cái",
nhiều nhà băng đẩy lãi suất huy động trên mức 9%/năm. Thậm chí ABBANK,
Saigonbank… còn hút khách với mức 10 - 12%/năm. Các "anh cả" trong ngành như
Vietcombank cũng không ngoại lệ khi xuất hiện mức lãi huy động trên 8%/năm, gửi
tại quầy còn được cộng thêm. Đường đua lãi suất nóng nhanh khiến khách hàng chóng
mặt vì cứ vừa gửi xong thì tiết kiệm lại tăng.
Lãi suất tiết kiệm cao kéo theo lãi vay cũng tăng lên mức khủng. Doanh nghiệp
vay sản xuất kinh doanh đối diện với mức lãi từ 10 - 12%/năm, còn cá nhân từ 13 -
16%/năm. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn, lãi vay cao khiến hệ thống sản
xuất gặp khó.
Vào thời điểm tháng 10/2023, lãi suất huy động của các NH lớn như
Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank cao nhất chỉ 5,8%/năm ở các kỳ hạn dài
từ 12 tháng trở lên. Còn đối với kỳ hạn dưới 6 tháng chỉ còn từ 3 - 3,8%/năm; 6 tháng
còn 4,7%/năm. Đối với nhóm NH cổ phần như ACB, Sacombank, VPBank... có mức
lãi huy động kỳ hạn 6 tháng từ 5 - 5,7%/năm. Một số NH khác có mức lãi suất 6 tháng
nhỉnh hơn như NAM A BANK, NCB, PVCombank… từ 6 - 6,5%/năm. Tuy nhiên, lãi
suất cao nhất của các nhà băng cũng không vượt quá con số 7%/năm. Như vậy so với
thời điểm tháng 1, lãi suất huy động tiền gửi của các NH giảm 2 - 5%/năm, đặc biệt ở
các kỳ hạn dài có mức sụt giảm nhanh hơn so với ngắn hạn. Trên thị trường liên NH,
lãi suất tiền đồng về sát mức 0% ở những kỳ hạn dưới 1 tháng - đây là mức lãi suất
thấp nhất diễn ra vào thời điểm dịch Covid-19 năm 2021.
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), NH Trung ương châu Âu (ECB), NH Trung
ương Anh liên tục nâng lãi suất lên cao.
Việt Nam đang phải đối mặt với khó khăn, thể hiện rõ qua tốc độ tăng trưởng
GDP nửa đầu năm 2023 chỉ đạt 3,7% so với cùng kỳ, chậm lại đáng kể so với tốc độ
8% của năm 2022. Đây là một trong những lý do khiến lãi suất tại VN hạ sớm hơn
Fed. Một lý do khác là tình trạng suy giảm tín dụng. Trong khi hầu hết các nền kinh
tế, ASEAN vẫn ghi nhận tăng trưởng tín dụng tốt, VN lại là ngoại lệ. Tăng trưởng tín
dụng ở VN đã chậm lại đáng kể từ tháng 11.2022 và vẫn chưa chạm đáy.(Thị trường
LS)
Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các tổ chức tín dụng quý
4/2023 do Vụ Dự báo, Thống kê (Ngân hàng Nhà nước) thực hiện, các ngân hàng
đồng loạt hạ dự báo về tăng trưởng tiền gửi và tăng trưởng tín dụng của năm 2023.
Nhu cầu vay vốn của khách hàng trong quý 3/2023 là “cải thiện” đạt mức thấp
hơn so với quý 2/2023 và thấp hơn mức kỳ vọng tại kỳ điều tra trước. Nhu cầu gửi
tiền, sử dụng dịch vụ thanh toán và thẻ được nhận định tiếp tục “cải thiện” ở mức thấp
trong quý 3/2023 so với quý trước. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng dự báo nhu cầu sử
dụng dịch vụ ngân hàng của khách hàng có thể “cải thiện” tốt hơn trong quý 4/2023
do kỳ vọng tình hình kinh tế tích cực hơn, ngành sản xuất, xuất khẩu dần phục hồi,
trong đó nhu cầu vay vốn được kỳ vọng “cải thiện” nhiều hơn nhu cầu gửi tiền và
thanh toán.
Các tổ chức tín dụng, thanh khoản của hệ thống ngân hàng trong quý 3/2023
tiếp tục duy trì trạng thái “tốt”, “cải thiện” hơn so với quý 2/2023. Các tổ chức tín
dụng dự báo tình hình thanh khoản sẽ tiếp tục dồi dào trong quý 4/2023 và cả năm
2023 so với năm 2022. Các tổ chức tín dụng kỳ vọng bình quân mặt bằng lãi suất huy
động và cho vay toàn hệ thống tiếp tục giảm 0,26 - 0,35 % trong quý 4/2023.
HSBC dự báo tỷ giá tiền đồng Việt Nam ở thời điểm cuối năm sau ở mức
khoảng 24.400 VND/USD và cuối năm nay ở mức 24.200 VND/USD. Lý do cho nhận
định này là cán cân thương mại đã cải thiện tích cực trong khoảng 3, 4 tháng trở lại
đây, xuất khẩu tăng trưởng mạnh trở lại còn nhập khẩu giảm. Lượng khách quốc tế
đến Việt Nam du lịch ngày càng đông, mang nguồn ngoại tệ vào Việt Nam. Theo báo
cáo của Tổng cục Thống kê, trong 9 tháng đầu năm 2023, lượng khách quốc tế đến
Việt Nam đã vượt 111% kế hoạch đặt ra với gần 8,9 triệu lượt khách.