You are on page 1of 7

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG ĐẠI DỊCH COVID 19 TẠI VIỆT NAM

Nguyễn Phương Linh, Tạ Kiều Anh, Nguyễn Đức Phú,


Vương Thị Huyền Trang, Hoàng Phương Chi

Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam

Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2022

DOI: https://osf.io/gzrvq

Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế,
là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong
mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia (Anh et al., 2010; ThS. Phạm Thị Hằng; Phạm Thị Ngọc, 2020).
Trong đó, chỉ tiêu GDP là một chỉ tiêu thường được sử dụng nhất để đánh giá tăng trưởng kinh
tế của một quốc gia, một khu vực hay một địa phương trong một thời kì nhất định, tăng trưởng
kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, là mối quan tâm nhiều nhất của
chính phủ các nước bởi vì tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất để tạo việc làm, giảm tỷ lệ
thất nghiệp, nâng cao thu nhập của người dân, xóa đói giảm nghèo. Do đó, nền kinh tế của mỗi
quốc gia có tăng trưởng và phát triển hợp lý hay không thường dựa vào chỉ số GDP để nhận
định.

Bài viết này nhằm mục tiêu cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam từ năm 2019 - thời điểm bắt đầu đại dịch COVID, từ dó đưa ra các giải pháp để
duy trì mức tăng trưởng GDP dương, giúp đất nước phát triển bền vững ngay cả trong thời điểm
covid diễn ra phức tạp nhất cho đến khi kiểm soát 1 phần dịch bệnh như hiện tại.
TĂNG TRƯỞNG GDP 2019
1. Bối cảnh
Trước thời điểm dịch bệnh Covid 19 bùng nổ , tăng trưởng GDP 2019 là một trong
những điểm sáng với mức tăng trưởng 7,02% - mức tăng trưởng vượt mục tiêu Quốc Hội đề ra
là chỉ từ 6,6-6,8% , đây cũng là năm thứ hai liên tiếp kể từ sau năm 2011 Việt Nam có mức tăng
trưởng đạt trên 7% . Mức tăng trưởng ấn tượng này chủ yếu là do Việt Nam đã đa dạng hóa các
hình thức đầu tư khiến cho môi trường kinh doanh thu hút được FDI tốt hơn , ví dụ như hình
thức góp vốn mua cổ phần , đây là hình thức khá phù hợp với xu hướng mới của các nhà đầu
tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam . Mặc dù thời điểm đó , căng thẳng thương mại giứa
Mỹ - Trung gây ảnh hưởng không nhỏ đến tính bất ổn của hệ tống thương mại toàn cầu , tuy
nhiên nhờ các chính sách của chính phủ , năm 2019 vẫn là năm có nhiều sự đột phá với mức
tăng trưởng GDP vô cùng ấn tượng (Tổng cục thống kê, 2019).
2. Tình hình tăng trưởng 2019
Theo số liệu Báo cáo của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng sản phẩm
trong nước (GDP) quý IV/2019 ước tính tăng 6,97% so với cùng kỳ năm 2018 .Tổng sản phẩm
1
trong nước (GDP) quý IV/2019 ước tính tăng 6,97% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,62%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,92%
và khu vực dịch vụ tăng 8,09%. Trên góc độ sử dụng GDP quý IV/2019, tiêu dùng cuối cùng
tăng 7,29% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 8,28%; xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ tăng 5,05%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 6,71% (Lê Anh, 2019).
Đối với khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp năm 2019 duy trì mức
tăng trưởng cao với 8,86%, đóng góp 2,91 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng
thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt
dẫn dắt nền kinh tế tăng trưởng với mức tăng 11,29%, đóng góp 2,33 điểm phần trăm. Ngành
công nghiệp khai khoáng tăng nhẹ ở mức 1,29% sau 3 năm sụt giảm liên tiếp, đóng góp 0,09
điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành xây dựng duy
trì đà tăng trưởng tích cực với tốc độ 9,1%, đóng góp 0,66 điểm phần trăm vào mức tăng chung
(Lê Anh, 2019).
Khu vực dịch vụ năm 2019 tăng 7,3%, trong đó tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ
thị trường đạt 8,41%, cao hơn tốc độ tăng 7,02% của GDP, đóng góp của một số ngành dịch vụ
thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm năm 2019 như sau: Bán buôn và
bán lẻ tăng 8,82% so với năm 2018, là ngành có tốc độ tăng trưởng cao thứ hai trong khu vực
dịch vụ nhưng đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế (0,96
điểm phần trăm); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,62%, đóng góp 0,56 điểm
phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 9,12%,
đóng góp 0,3 điểm phần trăm (Lê Anh, 2019).
Riêng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2019 đạt mức tăng trưởng thấp do
hạn hán, biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng cây trồng, ngành chăn nuôi chịu
thiệt hại nặng nề bởi dịch tả lợn châu Phi, nông sản gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ và giá
xuất khẩu. Tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2019 đạt 2,01%, chỉ
cao hơn mức tăng 1,36% của năm 2016 trong giai đoạn 2011-2019. Ngành nông nghiệp đạt
mức tăng thấp 0,61%, là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2019, đóng góp 0,07 điểm
phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng
4,98% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm. Điểm sáng của khu
vực này là ngành thủy sản tăng trưởng khá ở mức 6,3%, đóng góp 0,21 điểm phần trăm do sản
lượng nuôi trồng và khai thác đạt khá (Mai phương, 2019).
Về cơ cấu kinh tế năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng
13,96% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%;
thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91% (Cơ cấu tương ứng của năm 2018 là: 14,68%;
34,23%; 41,12%; 9,97%). Trên góc độ sử dụng GDP năm 2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,23%
so với năm 2018; tích lũy tài sản tăng 7,91%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 6,71%; nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,35% (Lê Anh, 2019).
TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG GDP CỦA VIỆT NAM TRONG NĂM 2020 VÀ 2021
* Năm 2020
1. Tổng quan

Năm 2020 được xem là một năm của những khó khăn và thách thức lớn đối với kinh tế
thế giới nói chung, trong đó có Việt Nam. Kinh tế thế giới được dự báo suy thoái nghiêm trọng
nhất trong lịch sử, tăng trưởng của các nền kinh tế lớn đều giảm sâu do ảnh hưởng tiêu cực của
dịch Covid-19 (Tổng cục thống kê, 2020). Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng
2
với tốc độ tăng GDP ước tính đạt 2,91% (quý I tăng 3,68%; quý II tăng 0,39%; quý III tăng
2,69%; quý IV tăng 4,48%) (BT, 2020).

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, làm gián đoạn hoạt động kinh tế – xã hội của các
quốc gia trên thế giới; xung đột thương mại Mỹ – Trung vẫn tiếp diễn. Trong nước, thiên tai,
dịch bệnh tác động không nhỏ tới các hoạt động của nền kinh tế và cuộc sống của người dân;
tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức cao. Tuy nhiên, với những giải pháp quyết liệt và hiệu
quả trong việc thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã
hội”, kinh tế Việt Nam vẫn đạt kết quả tích cực với việc duy trì tăng trưởng (Tổng cục thống
kê, 2020).

Mặc dù tăng trưởng GDP năm 2020 đạt thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020 nhưng
trước những tác động tiêu cực của dịch Covid-19 thì đó là một thành công của nước ta với tốc
độ tăng thuộc nhóm nước cao nhất thế giới. Cùng với Trung Quốc và Mi-an-ma, Việt Nam là
một trong ba quốc gia ở châu Á có mức tăng trưởng tích cực trong năm 2020; đồng thời quy
mô nền kinh tế nước ta đạt hơn 343 tỷ USD, vượt Xin-ga-po (337,5 tỷ USD) và Ma-lai-xi-a
(336,3 tỷ USD), đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong khu vực Đông
Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a 1.088,8 tỷ USD; Thái Lan 509,2 tỷ USD và Phi-li-pin 367,4 tỷ USD)
(Bộ Tài chính, 2020).

Ảnh 1: TỐC ĐỘ TĂNG GDP GIAI ĐOẠN 2010-2020


https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/kinh-te-viet-nam-2020-mot-
nam-tang-truong-day-ban-linh/

2. Diễn biến cụ thể


Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng một số cây lâu năm, sản phẩm
chăn nuôi chủ yếu và sản lượng tôm năm 2020 tăng khá đã đưa tốc độ tăng của khu vực này đạt
2,68%, cao hơn năm 2019 (2,01%). Đối mặt với tình hình dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi,
biến đổi khí hậu, thẻ vàng EC trong khai thác thủy sản chưa được gỡ bỏ, đặc biệt là dịch Covid-
19 nhưng khu vực này đã gặt hái được kết quả tăng trưởng khả quan với nỗ lực vượt bậc thông
qua các giải pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ: ngành nông nghiệp tăng 2,55%; ngành
lâm nghiệp tăng 2,82% và ngành thủy sản tăng 3,08% . Đặc biệt, kết quả xuất khẩu nông sản
tăng mạnh trong bối cảnh khó khăn do dịch Covid-19, kim ngạch xuất khẩu gạo lần đầu tiên
đạt hơn 3 tỷ USD, tăng 9,3% so với năm 2019; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 12.323,3 tỷ USD, tăng
15,7%. Trái ngược với ngành lâm sản, bức tranh xuất khẩu thủy sản lại ảm đạm hơn khi kim
ngạch xuất khẩu năm 2020 chỉ đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,8% so với năm trước (Tổng cục thống
kê, 2020).
3
Trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng đạt
tốc độ tăng cao nhất với 3,98%, đóng góp 1,62 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh
tế với mức tăng 5,82%, đóng góp 1,25 điểm phần trăm. Chỉ số sản xuất công nghiệp của một
số ngành như sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu; sản xuất kim loại; sản xuất than cốc, sản
phẩm dầu mỏ tinh chế; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học… tăng
khá với tốc độ tăng tương ứng là 27,1%; 14,4%; 11,4% và 11,3%, góp phần đưa ngành chế
biến, chế tạo tăng trưởng khả quan trong bối cảnh dịch Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng
nguyên liệu sản xuất đầu vào (Tổng cục thống kê, 2020).

Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm
1,2% trong 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước, nhưng sau đó đã phục hồi rõ rệt
với tốc độ tăng 6 tháng cuối năm đạt 6,2%, đưa lĩnh vực thương mại trong nước cả năm tăng
2,6%. Tốc độ tăng trưởng của một số ngành dịch vụ thị trường như sau: Bán buôn và bán lẻ
tăng 5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng
và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88%,
làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62
điểm phần trăm (Tổng cục thống kê, 2020).

Một điểm sáng trong bức tranh kinh tế năm 2020 không thể không nhắc đến đó là xuất
khẩu vượt khó trong tình hình dịch bệnh, duy trì tăng trưởng dương; xuất siêu hàng hóa đạt mức
cao kỷ lục (19,1 tỷ USD) và cán cân thương mại duy trì xuất siêu 5 năm liên tiếp (Kim ngạch
xuất siêu hàng hóa các năm trong giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: 1,6 tỷ USD; 1,9 tỷ USD; 6,5
tỷ USD; 10,9 tỷ USD; 19,1 tỷ USD). Việc ký kết các Hiệp định thương mại tự do đã mang lại
những tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là Hiệp định Thương mại tự do giữa
Việt Nam và EU (EVFTA). Năm 2020, xuất khẩu sang EU đạt 34,8 tỷ USD; đáng chú ý, sau 5
tháng được thực thi (từ 01/8/2020), tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 15,4
tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Điều này phản ánh năng lực sản xuất trong nước
tăng trưởng cao, môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh được tạo thuận lợi và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu. Đây là kết quả đáng khích
lệ trong bối cảnh kinh tế khu vực EU suy giảm nghiêm trọng và tiếp tục đối mặt với dịch Covid-
19 diễn biến phức tạp (Tổng cục thống kê, 2020).

*Năm 2021
1. Tổng quan
Theo Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố báo cáo tình hình kinh tế -
xã hội năm 2021, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2021 tăng 2,58%. Cơ quan thống kê
cho rằng, mức tăng trưởng GDP năm 2021 là 2,58% đã phản ánh những khó khăn do dịch
Covid-19 tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý III/2021 khi nhiều địa phương
kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh. Mức tăng
2,58% của năm 2021 thấp hơn mức 2,91% của năm 2020 (Chiến, 2021).
2. Diễn biến cụ thể
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
2,9%, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%; khu vực dịch vụ tăng 1,22%, đóng
góp 22,23% (Chiến, 2021).

Cụ thể hơn về tăng trưởng của các ngành, lĩnh vực, Tổng cục thống kê cho biết: sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi,
4
năng suất cây trồng và chăn nuôi đạt khá. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp
làm ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng sản xuất – chế biến – tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm nghiệp
và thủy sản. Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, kết quả hoạt động năm 2021 của
ngành nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm
phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành lâm nghiệp tăng
3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm và ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần
trăm (Ngọc, 2021).

Tính chung cả năm 2021, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 4,82% so với năm
2020, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,37%. Trong khu vực công nghiệp và xây
dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh
tế với tốc độ tăng 6,37%. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%. Trong khi đó, ngành
khai khoáng giảm 6,21% do sản lượng dầu mỏ thô khai thác giảm 5,7% và khí đốt thiên nhiên
dạng khí giảm 19,4% (Ngọc, 2021).

Theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12-2021
giảm 0,18% so với tháng trước. Quý IV/2021, CPI giảm 0,38% so với quý trước và tăng 1,89%
so với cùng kỳ năm 2020. Bình quân năm 2021 CPI tăng 1,84% so với bình quân năm 2020,
mức tăng bình quân năm thấp nhất kể từ năm 2016. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2021 tăng
0,81% so với bình quân năm 2020 (Chiến, 2021).

Cơ quan thống kê nhấn mạnh, thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ quy
định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, hoạt động
thương mại, vận tải trong nước, khách du lịch quốc tế dần khôi phục trở lại. Tính chung cả năm
2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 4.789,5 ngàn tỉ đồng,
giảm 3,8% so với năm trước. Đáng chú ý, khách quốc tế đến nước ta năm 2021 ước tính đạt
157,3 ngàn lượt người, giảm 95,9% so với năm trước (Chiến, 2021).

Trong tháng 12-2021, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa tiếp tục là điểm sáng của nền
kinh tế với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 66,5 tỉ USD. Tính chung cả
năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỉ USD, tăng 22,6% so với năm
trước, trong đó xuất khẩu tăng 19%; nhập khẩu tăng 26,5% (Chiến, 2021).

Đáng chú ý, cả năm 2021, ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao
nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%, hoạt động tài chính - ngân hàng tăng 9,42%,
ngành thông tin và truyền thông tăng gần 6% (Ngọc, 2021). Cũng trong năm 2021, sự bùng
phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ 4 cùng với các đợt phong tỏa nghiêm ngặt, giãn cách
kéo dài (đặc biệt là quý III/2021) đã tác động tiêu cực đến gia tăng số lượng doanh nghiệp.
Tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong năm 2021 đạt gần 160 ngàn
doanh nghiệp, giảm 10,7% so với năm 2020; 119,8 ngàn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường,
tăng 17,8%, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp thành lập dưới 5 năm, quy mô vốn nhỏ
(Chiến, 2021). Vấn đề này ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế chung.

TĂNG TRƯỞNG GDP QUÝ 1 NĂM 2022


Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2022 ước tính tăng 5,03% so với cùng kỳ
năm trước, cao hơn tốc độ tăng 4,72% của quý I năm 2021 và 3,66% của quý I năm 2020 nhưng
vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,85% của quý I năm 2019. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 2,45%, đóng góp 5,76% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây
5
dựng tăng 6,38%, đóng góp 51,08%; khu vực dịch vụ tăng 4,58%, đóng góp 43,16% (Tổng cục
thống kê Việt Nam, 2022).

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất lúa mùa vùng Đồng bằng sông
Cửu Long tăng khá (tăng 7,4 tạ/ha) so với vụ mùa năm trước; ngành chăn nuôi đang dần phục
hồi, sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý I năm 2022 đều tăng so với cùng kỳ năm trước; chế
biến và xuất khẩu tiêu thụ gỗ có nhiều tín hiệu tích cực; nuôi trồng thủy sản phát triển ổn định,
giá cá tra, tôm nuôi trồng đang ở mức cao do nhu cầu xuất khẩu tăng mạnh. Giá trị tăng thêm
ngành nông nghiệp quý I năm 2022 tăng 2,35% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,22 điểm
phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng
3,86% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng
2,54%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm (Giá trị tăng thêm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp
và thủy sản quý I năm 2021 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 3,55%; 3,82%; 3,25%) (Tổng
cục thống kê Việt Nam, 2022).

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp quý I năm 2022 tăng 7,07%
so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 6,44% của quý I năm 2021, đóng góp 2,42 điểm
phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 7,79%,
đóng góp 2,05 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng tăng trưởng dương 1,23% (khai thác than
tăng 3,2% và quặng kim loại tăng 5%), làm tăng 0,04 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng
thêm của toàn nền kinh tế. Ngành xây dựng tăng 2,57%, thấp hơn tốc độ tăng 6,53% của quý I
năm 2021, đóng góp 0,16 điểm phần trăm (Tổng cục thống kê Việt Nam, 2022).
Khu vực dịch vụ trong quý I năm 2022 tăng trưởng khởi sắc khi nhiều hoạt động dịch
vụ sôi động trở lại. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng
tổng giá trị tăng thêm của quý I năm nay như sau: Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
tăng 9,75% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,54 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi
tăng 7,06%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 2,98%, đóng góp
0,31 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 1,79%, làm giảm 0,04 điểm phần
trăm (Tổng cục thống kê Việt Nam, 2022).

Về cơ cấu nền kinh tế quý I năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ
trọng 10,94%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,97%; khu vực dịch vụ chiếm
41,70%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,39% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm
2021 là 11,61%; 36,61%; 42,38%; 9,40%).
Về sử dụng GDP quý I năm 2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,28% so với cùng kỳ năm trước;
tích lũy tài sản tăng 3,22%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 5,08%; nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ tăng 4,20% (Tổng cục thống kê Việt Nam, 2022).

6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anh, M. Q., Chiến, P. V., Hiệp, T. Đ., Thanh, N. N., & Trung, P. Q. (2010). Lịch sử các học
thuyết kinh tế. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bộ Tài chính. (2020). IMF: Việt Nam vượt Singapore, Malaysia, trở thành nền kinh tế lớn thứ
4 Đông Nam Á. Tạp Chí Tài Chính.
BT. (2020). GDP năm 2020 tăng 2,91%. Báo Chính Phủ.
Chiến, M. (2021). GDP năm 2021 của Việt Nam tăng 2,58%. Báo Người Lao Động.
Lê Anh. (2019). GDP 2019 với tốc độ tăng ấn tượng 7,02%. Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
Mai phương. (2019). GDP năm 2019 đạt kết quả ấn tượng với tốc độ tăng 7,02%. Cổng
Thông Tin Điện Tử Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư.
Ngọc, M. (2021). GDP quý IV đảo chiều, cả năm 2021 tăng trưởng 2,58%. Báo Chính Phủ.
ThS. Phạm Thị Hằng; Phạm Thị Ngọc. (2020). Lý luận tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững nền kinh tế ở Việt Nam. Tạp Chí Công Thương.
Tổng cục thống kê. (2019). Báo Cáo Tình Hình Kinh Tế – Xã Hội Quý IV Và Năm 2019. Tổng
Cục Thống Kê.
Tổng cục thống kê. (2020). Kinh tế Việt Nam năm 2020 - Một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh.
Tổng Cục Thống Kê.
Tổng cục thống kê Việt Nam. (2022). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2022.
Trang Thông Tin Điện Tử Tổng Cục Thống Kê.

You might also like