You are on page 1of 26

Câu 1: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng HCM?

Yếu tố nào quan trọng


nhất? Vì sao?
o Cơ sở khách quan

1.1.1 Bối cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh (Xem {1 tr25 - 28},
{5, tr562})

* Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

+ Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo
thủ, phản động,.. không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp
với sự phát triển của thế giới. Không phát huy được những thế mạnh của dân tộc
và đất nước, chống lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.

+ Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và Hiệp định Patơnốt (1884)
được ký kết, xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến, thừa
nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.

+ Cuối thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần
vương” do các văn thân, sỹ phu lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng
phong kiến đã lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.

+ Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho xã
hội Việt Nam có sự phân hóa giai cấp-xã hội sâu sắc. Tạo tiền đề bên trong cho
phong trào đấu tranh giải phóng đân tộc đầu thế kỷ XX.

+ Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ,
lan rộng ra cả nước nhưng đều thất bại (Chủ trương cầu viện, dùng vũ trang
khôi phục độc lập của Phan Bội Châu; Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ” khai
thông dân trí, nâng cao dân trí,.. trên cơ sở đó mà dần dần tính chuyện giải
phóng của Phân Chu Trinh; Khởi nghĩa nặng cốt cách phong kiến của Hoàng
Hoa Thám; Khởi nghĩa theo khuynh hướng tư sản của Nguyễn Thái Học).
Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con
đường mới.

Sự xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu, đáp ứng nhu cầu lịch sử
của cách mạng Việt Nam.

- Bối cảnh thời đại (quốc tế)


+ CNTB từ cạnh tranh đã chuyển sang độc quyền, xác lập sự thống trị trên
phạm vi thế giới. CNĐQ là kẻ thù chung của tất cả các dân tộc thuộc địa.

+ Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (1917). “Thức tỉnh của các dân tộc
châu Á”, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại.

+ Quốc tế III được thành lập (1919). Phong trào công nhân trong các nước
TBCN và phong trào giải phóng của các nước thuộc địa càng có quan hệ mật thiết
với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là CNĐQ.

Tất cả các nội dung trên cho thấy, việc xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ là nhu cầu tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam, mà còn là tất
yếu của cách mạng thế giới.

Giá trị truyền thống dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết bắt nguồn từ các giá trị truyền thống của
dân tộc, là sự kế thừa và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Đặc
biệt là chủ nghĩa yêu nước truyền thống mà Bác đã đúc kết: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và cướp nước” 1. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống ấy có các giá trị
tiêu biểu:

+ Yêu nước là dòng chủ lưu chảy suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Mọi học
thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp nhận
khúc xạ qua lăng kính của chủ nghĩa yêu nước đó.

Lòng yêu nước là điểm tương đồng lớn nhất của mọi người Việt Nam. Chủ
nghĩa yêu nước là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hoá, tinh thần
Việt Nam. Kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh trở
thành nhà ái quốc vĩ đại. Người luôn khẳng định truyền thống yêu nước là một thứ
vốn quý giá.

+ Tinh thần nhân nghĩa và truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong
khó khăn, hoạn nạn.

1
+ Truyền thống lạc quan yêu đời, niềm tin vào chính mình, tin vào sự tất
thắng của chân lý và chính nghĩa dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian
khổ.

+ Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi, mở
rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá bên ngoài làm giàu cho văn hoá Việt Nam.

Trước 1911, gia đình, quê hương, đất nước đã chuẩn bị đầy đủ hành trang yêu
nước để Người ra đi tìm đường cứu nước

* Tinh hoa văn hoá nhân loại

Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hoá phương Đông với các thành
tựu của văn minh phương Tây - đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình
thành nhân cách và văn hoá Hồ Chí Minh.

Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã được trang bị và hấp thụ nền
Quốc học và Hán học khá vững vàng, chắc chắn. Trên hành trình cứu nước, Người đã
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm để làm giàu tri thức của
mình và phục vụ cho cách mạng Việt Nam.

Văn hoá phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo,
và tư tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông.

- Văn hoá phương Tây : Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn
hoá dân chủ và cách mạng phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong
“Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Đại cách mạng Pháp 1791; tư tưởng
dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong “Tuyên
ngôn độc lập” của Mỹ 1776

 1.2 Nhân tố chủ quan (xem {1tr 33 – 35},)

Cùng thời có biết bao Đảng viên Đảng Xã hội Pháp người Việt cũng đọc
Luận cương của Lênin, nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc sớm nhìn ra con đường
chân chính cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng các dân tộc thuộc địa.

Nhân tố chủ quan là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh
đã tác động rất lớn đến việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người. Những
nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh là:

+ Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh
tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng ltrong
nước và trên thế giới.

+ Hồ Chí Minh có sự khổ công học tập, rèn luyện chiếm lĩnh vốn tri thức
phong phú của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng
dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin với tư
cách là học thuyết về cách mạng của giai cấp vô sản.

+ Hồ Chí Minh có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng
sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thương nhân dân, thương người cùng
khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ Quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân. Bác Hồ từ một người tìm đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho
cả dân tộc đi theo.

Yếu tố nào quan trọng nhất? Vì sao?


- Chủ nghĩa Mac là quan trọng nhất
- Vì nhờ có chủ nghĩa Mac mà Bác Hồ tìm ra con đường cứu nước và giải
phóng dân tộc đúng đắn.

Câu 2 : Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng HCM?

5 Giai đoạn hình thành

2.1 Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách
mạng( 1890-1911)

- Nguyễn Sinh Cung sinh ra tại quê hương Kim Liên, Nam Đàn, trong một
gia đình nhà nho yêu nước. Anh cũng có quảng thời gian 10 năm sống ở Huế. Anh
được khai tâm bằng chữ Hán, được hấp thụ tinh thần bất khuất của các phong trào
đấu tranh chống Pháp, cách đối nhân xử thế nhân nghĩa, khí khái, thuỷ chung của
những người thân và của nhiều nhà nho yêu nước, được học một số kiến thức về
tự nhiên và xã hội; tận mắt chứng kiến sự thống khổ của nhân dân.

- Ngoài vốn Nho học và Quốc học, trong hành trang học vấn của anh Nguyễn
hồi đó còn có những hiểu biết nhất định về nền văn hoá phương Tây, đặc biệt là
nền văn hoá, văn minh Pháp. Hấp dẫn nhất đối với Nguyễn Tất Thành là câu châm
ngôn về lý tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” mà cách mạng Pháp đã khai sinh.

- Điều đặc biệt ở Nguyễn Tất Thành là anh có sự so sánh, nhận xét về các
phong trào yêu nước lúc bấy giờ của các bậc tiền bối Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Hoàng Hoa Thám và đi đến quyết định “muốn đi ra nước ngoài, xem nước
Pháp và các nước khác làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”
(Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí
Minh)

Chính truyền thống quê hương và gia đình đã hình thành ở người thanh niên
Nguyễn Tất Thành lòng yêu nước, hoài bão cứu nước, lòng nhân ái, thương
người, nhất là người nghèo khổ, tha thiết bảo vệ những truyền thống của dân tộc,
ham học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.

2.2 Thời kỳ xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc( 1911-
1920)

(Xem {1 tr37 - 39}, {11, tr98 -99}), {12, tr 11},

- Để thực hiện hoài bão của mình, anh Nguyễn đã đi và sống ở nhiều nước thuộc
châu Âu, châu Á, châu Phi, Châu Mỹ, tận mắt chứng kiến cuộc sống bị bóc lột, bị đàn
áp của nhân dân các nước thuộc địa và cũng đã trực tiếp tìm hiểu đời sống của nhân
dân lao động các nước tư bản. Anh rút ra kết luận: trên đời này chỉ có hai giống người:
giống người bóc lột và giống người bị bóc lột và chỉ có một mối tình hữu ái - tình hữu
ái vô sản là thật mà thôi.

- Năm 1919, Anh cùng với một số nhà yêu nước Việt Nam thảo Yêu sách 8
điểm gửi Hội nghị Vécxây đòi quyền tự do dân chủ cho người Việt Nam. Bản yêu
sách không được Hội nghị xem xét, nhưng tên gọi Nguyễn Ái Quốc và nội dung
Yêu sách đã gây một tiếng vang lớn.

- Người cũng đã khảo sát, và tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ,
tham gia Đảng Xã hội Pháp (1919), tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga.

- Năm 1920, khi đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và các vấn
đề thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ở Luận cương những lời giải đáp thuyết
phục những câu hỏi mình đang nung nấu, tìm tòi. Sau này nhớ lại cảm tưởng khi
đọc Luận cương, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:
“Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta””2. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc - con dường cách mạng vô sản, con đường
của Lênin.

- 12/1920, tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Người đã biểu quyết việc
Đảng Xã hội gia nhập Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

Đây là thời kỳ, từ một thanh niên Việt Nam yêu nước Người trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước nhảy vọt lớn trong nhận thức của
Người, một sự chuyển biến về chất, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

2.3 Thời kỳ hình thành tư tưởng cơ bản về con đường cách mạng Việt
Nam (1921- 1930) (Xem {1 tr37 - 39}, {11, tr98 -99}), {12, tr 11},

Thời kỳ này Hồ Chí Minh có những hoạt động rất tích cực và đầy hiệu quả cả
trên bình diện thực tiễn và lý luận.

- 1921 - 1923: Nguyễn Ái Quốc hoạt động với cương vị Trưởng tiểu ban
Đông Dương trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp; tham dự
Đại hội I, II của đảng này, phê bình Đảng chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề
thuộc địa; Thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo Le Paria nhằm truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, mục đích của báo là đấu tranh “giải phóng
con người”. Tư tưởng về giải phóng con người xuất hiện từ rất sớm và sâu sắc ở
Nguyễn Ái Quốc.

- 1923 - 1924: Người sang Liện Xô tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, tận
mắt chứng kiến những thành tựu về mọi mặt của nhân dân Liên Xô. Năm 1924,
Người tham dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản và các Đại hội Quốc tế thanh niên,
Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế Công hội đỏ. Thời gian ở Liên Xô tuy ngắn nhưng
những thành tựu về kinh tế - xã hội trên đất nước này đã để lại trong Người những
ấn tượng sâu sắc.
2
- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu thực hiện một số nhiệm
vụ do Đoàn chủ tịch Quốc tế nông dân giao phó.

Khoảng giữa 1925, Người sáng lập “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, ra
báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Năm 1925, tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản tại Pa-ri. Năm
1927, Bác xuất bản tác phẩm “Đường Kách Mệnh”. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái
Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người trực
tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “Điều lệ vắn tắt”
và “Chương trình vắn tắt” của Đảng.

Những tác phẩm lý luận chủ yếu của Người thời kỳ này như Báo cáo Trung
kỳ, Nam kỳ và Bắc kỳ; Bản án chế độ thực dân Pháp; Đường Kách mệnh; Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng;… cho thấy những luận điểm về cách mạng Việt Nam
được hình thành cơ bản. Có thể tóm tắt nội dung chính của những quan điểm lớn,
độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam như sau:

- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.

- Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật
thiết với nhau. Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế.

- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mạng”, đánh đuổi
đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.

- Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng
dân tộc thành một sức mạnh to lớn chống đế quốc và tay sai. Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, phải đoàn kết dân tộc, phải tập hợp, giác ngộ và từng
bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, bằng hình thức và khẩu hiệu
thích hợp.

- Cách mạng trước hết phải có đảng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần
chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công…

Những quan điểm, tư tưởng cách mạng trên đây của Hồ Chí Minh trong
những năm 20 của thế kỷ XX được giới thiệu trong các tác phẩm của Người, cùng
các tài liệu mác-xít khác, theo những đường dây bí mật được truyền về trong
nước, đến với các tầng lớp nhân dân Việt Nam, tạo một xung lực mới, một chất
men kích thích, thúc đẩy phong trào dân tộc phát triển theo xu hướng mới của thời
đại.

2.4 Thời kỳ vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định, tiến tới
giành thắng lợi đầu tiên cho cách mạng Việt Nam( 1930- 1945)

Do không nắm được tình hình thực tế ở Việt Nam và các nước thuộc địa
phương Đông, lại bị chi phối bởi khuynh hướng “ tả” lúc bấy giờ, Quốc tế cộng
sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội nghị
hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Hội nghị TW tháng 10/ 1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng
sản đã ra “ án Nghị quyết” thủ tiêu chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, đổi tên
Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương. trong thời gian đó
Nguyễn ái Quốc bị Quốc tế Cộng sản phê phán là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Ngoài việc học tập Người không được giao công tác nào khác

Trong hoàn cảnh đó, Nguyễn ái Quốc vẫn bình tĩnh nhưng kiên quyết giữ
vững quan điểm của mình.

Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản( 1935) đã có sự chuyển hướng chiến lược
và sách lược. Năm 1936 đề đề ra “ Chính sách mới” phê phán những biểu hiện “ tả
khuynh” cô độc, bè phái trước đây. Trên thực tế, từ đây Đảng đã trở lại với Chính
cương, Sách lược vắn tắt của Hồ Chí Minh

- 9/ 1938 Quốc tế Cộng sản điều động Nguyễn ái Quốc về công tác ở Mặt
trận Đông Dương.

Hội nghị TW Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ 6 (11/ 1939) khẳng định
“ Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc là tối cao, tất cả
mọi vấn đề của cách mệnh, cả vấn đề điền địacũng phải nhằm mục đích ấy mà giải
quyết”

Hội nghị TW lần thứ Tám đánh dấu sự thay đổi chiến lược đúng đắn, sáng
tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Cách mạng tháng 8/ 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cách mạng Việt Nam và thế giới đã chứng minh giá trị và sức sống mãnh
của tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.

2.5 Thời kỳ tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện tư tưởng về độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội( 1945- 1969)

Sau khi giành được chính quyền Đảng và nhân dân ta phải tiến hành hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng CNXH ở Miền Bắc,
vừa đấu tranh giải phóng Miền Nam. đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được
bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt những vấn đề cơ bản sau:

- Về đường lối chiến tranh nhân dân “ toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự
lực cánh sinh”

- Về xây dựng CNXH ở một nước vốn là một nước thuộc điạ nửa phong
kiến, quá độ lên CNXH không trải qua chế độ TBCN, trong điều kiện đất nước bị
chia cắt và có chiến tranh

- Về xây dựng Đảng với tư cách Đảng cầm quyền

- Về xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân

- Về củng cố và tăng cường sự đoàn kết trong phong trào cộng sản quốc tế
và nhân dân các nước đấu tranh cho hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Trước khi qua đời Hồ Chí Minh đã để lại “Di Chúc” thiêng liêng. Di chúc
nói lên tình sâu nghĩa nặng của Người đối với dân, đối với nước, đồng thời vạch
ra những định hướng mang tính chất cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và
dân tộc sau khi kháng chiến thắng lợi

Đảng và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản tinh
thần vô giá mà Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta. Đại hội đại biểu toàn quốc
VII của Đảng đã khẳng định: “ Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”

Tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực to lớn soi
sáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đổi mới và phát triển đất nước
với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ văn minh”
Câu 3: Phân tích giá trị tư tưởng HCM đối với sự phát triển của dân tộc và
quốc tế.

- Đối với lịch sử dân tộc

1 Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại, nó trường tồn, bất diệt và đã
trở thành một bộ phận của văn hoá dân tộc, có sức hấp dẫn, lâu bền và phổ biến là
tài sản vô giá của dân tộc ta. Bởi vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế
thừa những giá trị, tinh hoa văn hoá, tư tưởng “vĩnh cữu” của loài người, trong đó
chủ yếu là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của
sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới.

Tính sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ: vừa trung thành với những
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời khi nghiên cứu, vận dụng
những nguyên lý đó, Người đã mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp với
điều kiện cụ thể của nước ta, dám đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và
giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả.

Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung quanh
việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong quá khứ. Ngày nay, tư
tưởng đó đang soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.

2 Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt
Nam

Trong suốt chặng đường hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2/1951)
trở lại đây đã liên tục khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị,
tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách… Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng đã trân
trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng của Người giúp chúng ta
nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân
tộc, phát triển xã hội và đảm bảo quyền con người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch đường lối
cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn dân tộc ta đi tới thắng lợi.

- Đối với lịch sử quốc tế


1 Phản ánh khát vọng của thời đại
- C.Mác khái quát “ Mỗi thời đại xã hội đều cần những con người vĩ đại của
nó và nếu không có những con người vĩ đại như thế thì thời đại sẽ sáng
tạo ra những con người như thế”.
- Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc,
của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của dân tộc, của
nhân loại tiến bộ
2 Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người
- - Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ việc xác định
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định một con
đường cách mạng, một hướng đi, một phương pháp để thức tỉnh hàng
trăm triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa lạc hậu.
- Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề “làm thế nào để giải phóng các dân
tộc thuộc địa”; xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân
tộc bị áp bức, Người kêu gọi lao động toàn thế giới, nhất là các nước
thuộc địa cần phải đại đoàn kết, đại hòa hợp.
- - Từ rất sớm, với việc nhận thức đúng sự chuyển biến của thời đại, nắm bắt
chính xác xu thế phát triển, đặc điểm của thời đại, Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn
cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Rồi từ kinh
nghiệm của nước mình, Người đi đến khẳng định: “… trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp
vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết
là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt
trận thống nhất, với sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước
hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định
thắng lợi”3.
- Những chân lý trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân
lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại.
3 Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả
- Trong lòng nhân dân thế giới, Hồ Chủ tịch là bất diệt. Bạn bè năm châu
khâm phục và coi Hồ Chí Minh là “lãnh tụ của thế giới thứ ba”. Tuy
Người đã mất nhưng “ tư tưởng chỉ đạo của Người vẫn mãi mãi soi sáng
cuộc đấu tranh cho tới khi tất cả bọn xâm lược và bọn áp bức bị đánh bại
hoàn toàn”( Trích điện văn của Tổng thống nước Cộng hoà thống nhất
Tan- da- ni- a Gu- li- ut Ni- rê- rê)
- “ Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nay là ngôi sao trên bầu trời cách mạng
XHCN, của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, đang chỉ đường cho
chúng ta bằng ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Trong sự nghiệp của
chúng ta nhất định Người sẽ sống mãi ( R. A- rix- men đi Tổng bí thư
Đảng Cộng sản U- ru- goay)

Câu 4 : Phân tích nội dung độc lập dân tộc theo tư tưởng HCM
- Nội dung độc lập dân tộc trong tư tưởng HCM thể hiện trong nhiều bài
viết, bài nói chuyện của người cụ thể:
+1919 được thể hiện trong bản ‘yêu sách 8 điểm’ gửi đến hội nghị
vecxai
+1930 được thể hiện trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng
+1945 được thể hiện trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng
+1966 được thể hiện trong tác phẩm không có gì quý hơn độc lập tự do

*Nội dung độc lập dân tộc

- ĐLDT là khát vọng lớn nhất là quyền thiêng thiêng , bất khả xâm phạm.
- ĐLDT phải gắn liền với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
- ĐLDT là độc lập trên tất cả các mặt trận kinh tế,chính trị,quân sự,ngoại
giao
- ĐLDT phải gắn liền với cuộc sống ấm no, tự do , hạnh phúc của nhân dân

3
Câu 5 Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập đảng cộng
sản Việt Nam:

Vai trò to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam được thể hiện ở những khía cạnh cụ thể như sau:
+ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước đã diễn ra tuy nhiên
các phong trào yêu nước này lại thất bại, song nguyên nhân chính là thiếu lực
lượng lãnh đạo, chưa có hệ tương tưởng khoa học dẫn đường, chưa có lý luận và
đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo và nhất là chưa có một tổ chức lãnh đạo
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bằng lòng yêu nước mãnh liệt và tầm nhìn sáng suốt của mình, Nguyễn Ái Quốc
đã ra đi tìm đường cứu nước, sau gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập,
tìm tòi, hoạt động không ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu khắp các châu lục. Tháng
7/1920, lần đầu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo số ra ngày 16 và
17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc.
Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực
dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng vô sản, con đường có mục
đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người.
+ Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước và
chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước. Nguyễn Ái
Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách
mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những
cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung
Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp huấn luyện được in
thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh.
Cùng với đó, Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời
của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc)
để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin. Năm 1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở
lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí.
Trong những năm 1928 – 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta
tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác – Lênin được
Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với
phong trào “vô sản hoá” đã làm chuyển biến phong trào công nhân, giác ngộ họ và
tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác.
+ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động
triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long –
Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì
của Nguyễn Ái Quốc. Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng
sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của
Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng.

Câu 6: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời thời điểm nào? Trải qua những tên gọi
nào? Kể tên những tổng bí thư mà bạn biết ?

- 3/2/1930 tại Hương Cảng, Hồng Kong, Trung Quốc(trên cơ sở thống nhất
ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương : Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên
là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt).
- Trải qua 4 lần đổi tên:
+ 3/2/1930: Đảng cộng sản Việt Nam
+ 10/1930 : Đảng cộng sản đông dương
+ 2/1951: Đảng lao động VN
+ 4/1976: Đảng cộng sản VN
- Những tổng bí thư:
 Trần Phú
 Lê Hồng Phong
 Hà Huy Tập
 Nguyễn Văn Cừ
 Trường Chinh
 Lê Duẩn
 Nguyễn Văn Linh
 Đỗ Mười
 Lê Khả Phiêu
 Nông Đức Mạnh
 Nguyễn Phú Trọng
Câu 7: Nguyên lí ra đời của ĐCS khác với ĐCS trên thế giới ở những điểm
nào? Lí giải sự khác biệt đó

Việc thêm phong trào yêu nước của ĐCS VN là 1 sáng tạo tuyệt vời của HCM vì
lúc này chủ nghĩa Mac chưa được truyền bá sâu rộng vào nước ta . Phong trào
công nhân nước ta thời bấy giờ còn phát triển ít về số lượng, trình độ giác ngộ
chưa caotrong khi đó phong trào yêu nước của nhân dân ta đã có từ ngàn xưa và
diễn ra vô cùng mạnh mẽ.

Câu 8: Hãy phân tích các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới ở Vn theo tư
tưởng HCM

Gồm có 5 nguyên tắc :


1. Tập trung dân chủ

 Đây là nguyên tác cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không
biến Đảng thành một câu lạc bộ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ
là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
 Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với
nhau trong một nguyên tắc, dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của
tập trung; tập trung trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số phải
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải
chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng
ta tuy nhiều người nhưng khi tiền đánh thì chỉ như một người”.
 Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự
do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một
quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của một người.
 Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy, quyền
tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.”
 Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ
nội bộ, vì có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã
hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần
dân chủ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.

2. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

 Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Nhiều
người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do
dó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề. Việc gì đã được tập thể bàn bạc
kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ
trách, như thế công việc mới chạy, như thế mới tránh được thói dựa
dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ lại vào tập thể. Không xác định rõ
cá nhân phụ trách, thì giống như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
 Người kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao
biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
 Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô
chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
 Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với
nhau” .
 Về vấn đề tập trung dân chủ, Người giải thích:

“Tập thể lãnh đạo là dân chủ


Cá nhân phụ trách là tập trung
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung”
3. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình

 Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật
phát triển của Đảng. Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ
trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở
rộng tự phê bình và phê bình”.
 Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên,
nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết
nội bộ hơn.
 Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ của Đảng, để
Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm
trước giai cấp và dân tộc. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan từa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó… là một Đảng tiến bộ,
mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”
 Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học
cách mạng, mà còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng viên
và các cấp bộ Đảng từ trên xuống dưới phải “luôn luôn dùng và khéo
dùng cách phê bình và tự phê bình”. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc
này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình
cũng như với người khác, “phải có tình đồng chí thường yêu lẫn
nhau”.

4. Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.

 Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và
tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh
vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức
nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.”
 Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là
thuộc về mỗi cá nhân cá bộ, đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh
nói: “Kỷ luật này lá do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của
họ đối với Đảng”1
 Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị
quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh
hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng.
 Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng
phải nghiêm túc kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước,
tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng
trên tất cả. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng
viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật
của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan
chính quyền cách mạng”

5. Nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

 Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của Đảng là một
nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Xây dựng sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng
sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân, xây dựng nên khối đoàn kết
vững chắc, đảm bảo cho việc giành được những thắng lợi ngày càng
to lớn hơn.
 Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm
vụ của toàn Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”
 Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường
lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ
xuất hiện những nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong.
 Củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất đối với cán bộ lãnh
đạo có ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng
viên, đến toàn Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
“Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết,
nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”.
 Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu: phải
thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thường xuyên thực hiện
phê bình và tự phê bình; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa
cá nhân mà ra – tham ô, lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá,
chạy theo chức quyền, danh lợi.

Câu 9: Phân tích những quan điểm cơ bản của tư tưởng HCM về đại đoàn kết
dân tộc.

1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến
lược đối với cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng dân
tộc, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống
kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp.
Chiến lược tập hợp mọi lực lượng dân tộc không phải là bất biến, mà luôn vận
động, biến đổi, phát triển. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng
có thể và cần thiết phải điều chỉnh các chính sách, phương pháp tập hợp lực lượng
cho phù hợp với những đối tượng khác nhau trong cộng đồng dân tộc. Có như vậy
chiến lược đại đoàn kết dân tộc mới phát huy hết vai trò tích cực của mình.

Đối với những đối tượng khác nhau và những thời kỳ lịch sử khác nhau, chiến
lược đại đoàn kết dân tộc được khái quát thành những luận điểm có tính chân lý
như sau:

“Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”

“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”

“Đoàn kết là then chốt của thành công”

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”

Đó là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam. Người cho rằng: “muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao
động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, bằng cách
mạng vô sản”. Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã
không đoàn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách
mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù
và xây dựng thành công xã hội mới.

Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà tư tưởng đoàn kết là tư
tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. 

Đoàn kết quyết định thành công cách mạng vì: đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then
chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ
mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc vào một mối thống nhất.Giữa
đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô, mức độ của thành công. 

Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Để thấy rõ
hơn vị trí của sức mạnh lực lượng toàn dân đoàn kết trong thắng lợi của Cách
Mạng Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra: Vì sao có cuộc thắng lợi đó?
Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn
dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều
nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng
toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó” Hồ Chí
Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết
thì bị nước ngoài xâm lấn”. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin nhớ chữ
đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” Đây chính là con đường đưa
dân ta tới độc lập, tự do”.

2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ
trương trương, chính sách của Đảng. Vì Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất của
cách mạng Việt Nam, sức mạnh của Đảng là ở sự nhất trí và sự đoaàn kết trong
Đảng là hạt nhân của sự đoàn kết của tất cả các tổ chức chính trị – xã hội và trong
toàn xã hội.

Mục tiêu của Đảng hay của cách mạng là “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
Muốn đoàn kết được lực lượng toàn dân, theo Hồ Chí Minh cần phỉa thấm nhuần
quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng, tôn trọng
quần chúng, biết vận động, tổ chức, giáo dục quần chúng …có như vậy mới được
quần chúng ủng hộ, giúp đỡ và  mục tiêu của Đảng mới được thực hiện. Hồ Chí
Minh dạy rằng “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng
song”.

Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng hay của Đảng Cộng sản là đại đoàn kết dân tộc
để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Bởi vì, Cách
mạng là sự nghiệp của của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Muốn
đoàn kết được lực lượng toàn dân, theo Hồ Chí Minh, cần phải tuyên truyền huấn
luyện làm sao cho nhân dân hiểu được mục đích, chính sách, đường lối ấy. Người
nói: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là thống nhất nước
nhà”.

Chỉ có như vậy thì mục tiêu, nhiệm vụ Đảng mới trở thành mục tiêu, nhiệm vụ
của toàn dân tộc và đại đoàn kết mới trở thành một đòi hỏi khách quan của bản
thân quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp hướng dẫn những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành
những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức và thành sức mạnh.

3. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở hình thành khối đại đoàn kết toàn
dân

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân là chủ thể của đại đoàn kết dân
tộc .Theo Người, các khái niệm đồng nghĩa thường được dùng là dân, nhân dân,
đồng bào ,quốc dân …ở đây khái niệm dân được dùng với  tư cách là khái niệm
chung cho tất cả. Khái niệm dân được hiểu là tập hợp đông đảo quần chúng, vừa
được hiểu là từng người dân Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con dân đất
Việt, con Rồng cháu Tiên, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, tín ngưỡng, tôn
giáo… Như vậy, có thể hiểu chủ thể của đại đoàn kết dân tộc là Dân.

Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa
là thực hiện đoàn kết tất cả những người Việt Nam đang sống trong nước hay
đang định cư ở nước ngoài và cho dù định cư ở nước ngoài thì người Việt Nam
cũng không bỏ được cái gốc dân tộc. Cần phải huy đọng tập hợp mọi người dân
vào khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng chung của
dân tộc. Muốn làm được điều đó thì phải kế thừa truyền thống yêu nước , nhân
nghĩa , đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung dung độ lượng với con
người và xóa bỏ mọi định kiến cách biệt. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì người đó dù trước đây chống chúng ta, thì
bây giờ chúng ta vẫn thật thà đoàn kết với họ”. Đại đoàn kết dân tộc luôn mở rộng
cửa để đón tiếp những con người con người lầm đườnglạc lối mà biết ăn năn hối
cải. Theo Người, “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và đọc lập của Tổ
quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có sức, có lòng phụng
sự tổ quốc, phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới sự
lãnh đạo của Đảng

Theo Hồ Chí Minh, dân tộc hay quần chúng nhân dân khi chưa được giác ngộ về
tổ chức và giác ngộ về lợi ích, mục tiêu, lý tưởng thì chỉ là số đông chưa có sức
mạnh. Muốn có sức mạnh quần chúng phải được tổ chức, gioác ngộ về lợi ích,
mục tiêu, lý tưởng và hoạt động theo đường lối chính trị đúng đắn. Vì thế, việc
quy tụ quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng bước
phát triển của cách mạng là sự quan tâm ngay từ đầu của Hồ Chí Minh và là
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.

Câu 10: Thế nào là nhà nước do dân, của dân và vì dân

1. Nhà nước của dân

 Dân là chủ, dân làm chủ

- “ Dân chủ là như thế nào?” Là dân làm chủ . Nước ta là nước dân chủ,
nghĩa là nước nhà là do dân làm chủ. Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là
nhân dân làm chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ.

- Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội
 Tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân

- Điều 1: Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt
Nam không phân biệt giống nòi, trai gái,giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo…

 Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước

 Dân là chủ thể quyền lực, cán bộ là người được ủy quyền, “đầy tớ”,”công
bộc” của nhân dân

2. Nhà nước là do dân

 Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, do dân làm chủ.

- Nhân dân tổ chức các cơ quan nhà nước tập trung xuống địa phương
“chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra”

- Nhân dân có quyền “ bầu cử”,”ứng cử”và”bãi miễn”.”Nếu chỉnh phủ


làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính chủ”

 Nhân dân tham gia quản lí nhà nước

- Nhân dân tham gia xây dựng nhà nước

- Nhân dân góp ý phê bình chính phủ, thanh kiểm tra, giám sát hoạt động
của nhà nước.

 Nhân dân có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhà nước

3. Nhà nước vì dân

 Nhà nước phục vụ nhân dân, bao nhiêu lợi ích đều vì nhân dân

- Mọi chủ trương, chính sách của nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng
và lợi ích chính đáng của nhân dân

- “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến đến dân,
ta phải hết sức tránh”

 Nhà nước chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân
- Phải “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở,
làm cho dân đựơc học hành”

- Phải hướng dẫn nhân dân xây dựng đời sống mới, biết kết hợp và điều
chỉnh lợi ích chính đáng của nhân dân

 Nhà nước phải trong sạch vững mạnh

- Bộ máy nhà nước phải trong sạch, không đặc quyền, đặc lợi

- Chống mọi tiêu cực trong bộ máy nhà nước: tham ô, tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, vô cảm, thiếu tinh thần trách nhiệm trước nhân dân.

Câu 11: Phân tích các chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

1.Trung với nước, hiếu với dân. 

Theo Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi
phối các phẩm chất khác.Từ quan niệm cũ “ trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong
đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào
đó một nội dung mới, cao rộng hơn là “ trung với nước, hiếu với dân”. Người
khẳng định: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói của Bác vừa là lời kêu gọi
hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không
phải chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn lâu dài mãi về sau.

2. Yêu thương con người. 

Quan niêm này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lòng yêu thương con
người rất toàn diện và độc đáo. Bởi vậy, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu
thương con người là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất. Người luôn luôn
dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động
bị áp bức bóc lột. Bác viết: tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Ở Hồ Chí Minh, tình yêu thương
đồng bào, đồng chí của Người rất bao la, rộng lớn và toàn diện, không phân biệt
vùng, miền, trẻ, già, trai, gái...hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong
tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể
hiện tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt, đối với những người
phạm sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: mỗi con người đều có thiện và ác ở
trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với
những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta
cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy
nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời. Chính vì vậy, trong Di
chúc để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn Đảng: phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau, mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương
con người.

3.Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. 

Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười
biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm; Kiệm tức là tiết kệm sức lao động, thì giờ,
tiền của của dân, của nước, của bản thân mình, phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi,
không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù; Liêm tức là luôn
luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt
thóc nào của Nhà nước, của nhân dân, phải trong sạch, không tham lam, không
tham địa vị, không tam tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng
bốc mình, vì vậy mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa; Chính nghĩa là
không tà, thẳng thắn, đứng đắn, đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu
khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở
của bản thân mình, đối với người thì không nịnh hót người trên, không xem khinh
người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối
trá, lừa lọc, đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; Chí
công vô tư là đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc, khi làm bất cứ
việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải “
lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

4. Tinh thần quốc tế trong sáng. 

Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng
một mệnh đề “ bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các
dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công
vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp
cách mạng của cả dân tộc, là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì mục
tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và chủ ngĩa xã hội, là tinh thần hợp tác và hữu nghị.

Câu 12: Phân tích các nguyên tắc xây dựng đạo đức theo tiêu chuẩn bác hồ

Một là nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Nói đi đôi với làm, trước hết là sự nêu gương tốt Sự tiêu gương của thế hệ đi trước
với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên... Đảng viên phải nêu gương trước quần
chúng. Người nói: ‘Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ
“cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Hai là, xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất
thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với
những yêu cầu của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống,
chống nhằm mục đích xây.
 Xây dựng đạo đức mới trước hết phải đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình
đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ
thể hóa sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí
Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đổi với từng giai cấp, tầng
lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh
trong mỗi người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu
tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm phải chú ý phòng ngừa,
ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần
chúng rộng rãi biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi
đua “3 xây. 3 chống”, viết sách “người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về
đạo đức lối sống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới
thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng
và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định
hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng.
Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai
cùng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình,
không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy
rõ cái dở, cái xấu. cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện
trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong như trong
sinh hoạt cộng đồng. Không thể là chiến sĩ thi đua ở nơi công tác khi về nhà lại
mắng vợ chửi đời, đánh con. Những người như thế không phải là người có đạo
đức cách mạng.
Câu 13 Giải thích câu nói:
- Dĩ bất biến ứng vạn biến
- Miền nam trong trái tim tôi

You might also like