You are on page 1of 3

Vì sao Việt Nam chọn con đường XHCN

Giữa thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cả dân tộc Việt Nam ở trong bối cảnh là đất nước vốn đã lạc
hậu trì trệ bởi chủ nghĩa phong kiến lại bị chủ nghĩa thực dân (CNTD) xâm lược, đô hộ. Bối
cảnh ấy làm nảy sinh hai nhu cầu lớn: làm thế nào để giải phóng dân tộc, giải phóng các giai
cấp? Và làm thế nào để phát triển đất nước?
Dân tộc ta hồi đó từng có 2 trải nghiệm: con đường theo ý thức hệ phong kiến và con
đường theo ý thức hệ dân chủ tư sản.
Con đường cứu nước bằng ý thức hệ phong kiến cổ truyền xuất phát từ một triết lý có
từ nghìn năm trước: “Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn
lãnh thổ của tổ quốc, người Việt Nam tự quản lý công việc nội bộ. Ý nghĩa triết lý ấy thật
giản dị. Và kể từ ngày 5/6/1858 khi thực dân Pháp và Tây Ban Nha xâm lược đất nước,
nhiều thế hệ của người Việt Nam đã đánh Tây, cứu nước theo tư duy ấy.
Con đường cứu nước bằng ý thức tư bản chủ nghĩa: Ý thức hệ chi phối con đường này
là tư tưởng dân chủ tư sản. Nó xuất hiện từ khá sớm, trước cả sự kiện 1858. Nhiều bậc
thức giả, sỹ phu của triều Nguyễn đã ý thức được tình trạng lạc hậu của Việt Nam và bối
cảnh thế giới đang trong cuộc “Mưa Âu, gió Á” với nhiều chuyển động từ chế độ phong kiến
sang chế độ dân chủ tư sản và, họ đã đi tìm đường cứu nước từ tư duy ấy.
=>Các giải pháp để cứu nước theo hai con đường phục quốc phong kiến và dân chủ tư sản
đều bị thất bại. Bởi vì:  cả dân tộc hiện có 2 nhu cầu lớn, theo đó nó định ra những mục tiêu
của cách mạng. Có giải quyết được quan hệ giữa mục tiêu giai đoạn – trước mắt và mục
tiêu chiến lược lâu dài thì mới có phương pháp cách mạng, tạo ra động lực, thu hút được
đồng minh, đoàn kết dân tộc... Thành hay bại của một giải pháp cứu nước đều phải giải
quyết được các mục tiêu và mối quan hệ giữa những mục tiêu ấy.
- Pháp xâm lược Việt Nam -> Các phong trào yêu nước nổ ra -> Đường lối của các phong
trào yêu nước
*Theo hệ tư tưởng phong kiến:
Đi theo ý thức hệ này, đương thời có hai nhóm: một là phong trào yêu nước của nhân dân
theo ngọn cờ của các sỹ phu, tướng lĩnh và thủ lĩnh nông dân và những hành động của triều
Nguyễn. Cả hai đều trên nền tư tưởng của ý thức hệ phong kiến. Mục tiêu trực tiếp của con
đường này là quang minh: đánh Tây xâm lược, phục quốc, độc lập.
Các phong trào yêu nước do những bậc sỹ phu, tướng lĩnh và thủ lĩnh nông dân đương thời
liên tục nổ ra khắp đất nước với tinh thần dũng cảm ngất trờ. Sự thất bại của phong trào yêu
nước này còn cho thấy một bài học lớn: để cứu nước thì chỉ hành động “truyền hịch, dựng
cờ khởi nghĩa” và Cần vương là chưa đủ…
 Nhưng do chế độ bạc nhược hủ bại và tự cô lập với những khát vọng của nhân dân nên
trước đó, triều Nguyễn đã lạnh lùng khước từ những sáng kiến tìm lối phát triển. Các điều
trần, các phương án canh tân của nhiều bậc thức giả như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Lộ
Trạch... đều bị chối từ để cấm cố dân tộc trong phương thức phong kiến. Nó kìm hãm tư
tưởng xã hội trong thứ bậc cổ lỗ theo kiểu Sĩ – nông – công – thương… và đã không còn
phản ánh đúng cơ cấu giai cấp của xã hội; và nó “bịt mắt” làm ngơ trước những khát vọng
giải phóng, nhu cầu dân sinh, dân chủ
Cái nguyên nhân sâu xa của sự thất bại của phong kiến Việt Nam đương thời là lạc hậu về
tư tưởng hủ bại về thể chế. Các nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu và Nguyễn Khắc
Viện đều đã chỉ ra: Chủ nghĩa bảo thủ Nho giáo; chủ nghĩa quan liêu của quan lại; tư tưởng
tiểu nông của nông dân... là những vật cản lớn của giải phóng và phát triển.
*Theo hệ tư tưởng tư sản:
Hệ tư tưởng tư sản đương thời ở Việt Nam có hai loại ảnh hưởng: Loại ảnh hưởng thứ nhất
là một số yếu tố khai hóa đã xuất hiện như tự do, bình đẳng, dân chủ... dù đã méo mó đi
nhiều thông qua chế độ thực dân. Nguyễn Ái Quốc trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã
mô tả hình ảnh của Nữ thần công lý khi sang thuộc địa thì cái cân “công lý” bị biến thành
thuốc phiện và thanh gươm bảo vệ “tự do” trở thành công cụ đàn áp, chém giết dân tộc An
Nam. Song dù sao, nhiều tư tưởng dân chủ phương Tây vẫn có tác dụng thức tỉnh với một
bộ phận của xã hội - chủ yếu là sinh viên, trí thức Tây học và công chức... Nó là khởi điểm
để một bộ phận vươn tới trình độ mới và có thể tạo ra những sắc thái mới trong đời sống xã
hội đô thị…
Loại ảnh hưởng thứ hai, có một nhóm xã hội có lúc đã coi hệ tư tưởng tư sản như một giải
pháp tìm đường cứu nước. Nó chưa tạo ra được một thể chế dân chủ mới nhưng đã từng là
một tìm tòi và là một ngọn cờ tư tưởng của nhiều bậc thức giả đầu thế kỷ XX mà đại biểu là
Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu. Thậm chí có cả những hành động với mục tiêu đáng
trọng như khởi nghĩa Yên Bái (2-1930).
Nguyên nhân thất bại: Nó cũng như ý thức hệ phong kiến, đã không giải quyết được đồng
thời hai nhiệm vụ của lịch sử Việt Nam là giải phóng (dân tộc và các giai cấp bị áp bức) và
phát triển đất nước. Nó lại thiếu cơ sở xã hội (lúc đó giai cấp tư sản dân tộc còn rất non
yếu) và không giải quyết triệt để những nhu cầu dân chủ của đông đảo xã hội là công nhân
và nông dân. Giả định rằng, con đường này thành công (như phong trào giải phóng dân tộc
ở Ấn độ) thì công nhân và nông dân vẫn tiếp tục thân phận bị bóc lột và áp bức và độc lập
dân tộc vẫn bị đe dọa bởi chủ nghĩa thực dân mới.
Điều đáng chú ý là nó mang tính phi logic, vì không thể lấy tư tưởng tư sản để chống chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cùng việc giải quyết những hệ quả chính trị xã hội do
chính chế độ gây ra. Hệ tư tưởng dân chủ tư sản có thể là mới mẻ so với lập trường phong
kiến nhưng nó cũng đã bị lịch sử vượt qua về thời đại bằng Cách mạng XHCN tháng Mười.
Ø Cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi phải đi theo con đường khác.

Nhìn tổng quát, những hệ tư tưởng đã được vận dụng cho cuộc cứu nước và giải
phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, tính cụ thể đến ngày 5/6/1911 – ngày Nguyễn Ái
Quốc xuất dương đi tìm đường cứu nước, đều là những ý thức hệ đã cũ và chưa
thể được chấp nhận cho nhu cầu giải phóng và phát triển của Việt Nam. Các tình
huống mà thực tiễn đặt ra là:

Kẻ thù của độc lập dân tộc giờ đây đã khác, phương thức xâm lược, bóc lột cũng
khác trước. CNTB là một hiện tượng thế giới, bằng chủ nghĩa thực dân, nó đang
muốn “tạo ra thế giới theo hình ảnh của nó”. CNTB Pháp hơn phong kiến Việt Nam
một phương thức sản xuất, khác về thủ đoạn thống trị, lại là một thế lực quốc tế... thì
không thể đánh đổ nó chỉ bằng chủ nghĩa dân tộc tuần túy.

Phát triển là nhu cầu lớn của cả dân tộc. Sự nghèo nàn, lạc hậu của Dân tộc ta
đương thời là do chìm đắm trong chế độ phong kiến đã hàng chục thế kỷ, nay lại
thêm sự áp bức của chế độ thực dân. Lặp lại chế độ phong kiến không phải là lối
thoát và đi lên CNTB lại cũng không phải là giải pháp tối ưu, vì tuyệt đại đa số của
Dân tộc hồi đó là nông dân và công nhân. Muốn phát triển đất nước, trước tiên phải
giải phóng được sức mạnh của lực lượng ấy.

Trước Mac, vấn đề độc lập dân tộc chưa có ai giải quyết trên lập trường duy vật và
biện chứng về lịch sử. Xâm lược và thống trị là một hiện tượng xã hội có căn
nguyên về kinh tế là chế độ tư hữu, về chính trị chế độ là người áp bức bóc lột
người. Không có dân tộc thượng đẳng và hạ đẳng, không có số phận của dân tộc đi
thống trị, khai hóa và số phận của dân tộc bị trị, bị đô hộ. CNTB, CNĐQ là cơ sở
kinh tế - chính trị của hiện tượng nô dịch dân tộc mà biểu hiện cụ thể là chủ nghĩa
thực dân, toàn cầu hoá TBCN...

Hạt nhân của vấn đề là phương thức bóc lột giá trị thặng dư. Nạn dân tộc này áp
bức dân tộc khác đều bắt nguồn từ chế độ người bóc lột người. Để thỏa mãn cơn
khát lợi nhuận, CNTB tạo ra một thế giới theo hình ảnh của nó và theo cách của nó:
tìm kiếm thị trường, nhân công và tài nguyên ... từ xâm lược, áp bức và nô dịch.
Nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác đều bắt nguồn từ chế độ người bóc lột người.
Giải quyết vấn đề độc lập dân tộc ở thời đại ngày nay có nghĩa là chống CNTB,
CNĐQ và các biến thái của nó. Nhưng CNĐQ chỉ tạo ra những tiền đề, mảnh đất để
CNCS gieo hạt giống giải phóng chứ chưa chuẩn bị đầy đủ cho cách mạng XHCN
(Do áp bức, bóc lột, bần cùng hóa, do chính sách ngu để trị ... ). CNXH phải thông
qua cách mạng giải phóng dân tộc để nhân dân giành lấy quyền độc lập tự do về
chính trị, và qua đó xây dựng độc lập về kinh tế, xã hội. Độc lập dân tộc và những
mục tiêu dân chủ, dân sinh... có nhiều điểm gắn bó và chỉ có thể giải quyết triệt để
khi gắn với con đường XHCN.

Lý luận CNXH khoa học là cơ sở để giải quyết vấn đề dân tộc của xã hội hiện đại.
Học thuyết ấy đã làm rõ bản chất kinh tế của nhu cầu giải phóng dân tộc là giải
phóng các giai cấp – tầng lớp đang bị áp bức, bóc lột trong các dân tộc thuộc địa.
GCCN và sứ mệnh lịch sử thế giới của nó là giải pháp để gỉai quyết triệt để những
hiện tượng xã hội trên. Lực lượng để thực hiện sứ mệnh lịch sử giải phóng các dân
tộc thuộc địa là GCCN và nhân dân các dân tộc thuộc địa dưới sự lãnh đạo của
đảng cộng sản. Con đường là từ giải phóng dân tộc tiến lên XHCN, “giữa hai cuộc
cách mạng không có bức tường thành nào ngăn cách”. CNXH và CNCS sẽ xóa đi
nạn người bóc lột người và là căn nguyên sâu xa nhất của vấn đề áp bức dân tộc và
theo đó, giải quyết cơ bản vấn đề độc lập dân tộc.

You might also like