Professional Documents
Culture Documents
!"!#$%"&$'()*$+,-./"&01$'(
2#3
!!"#$""%#&"'()"*+$,"-./0."!102
!!"#$%&#'(")#*+,-)./012#3#-4#5$#64%-4#789'
:;<=#>#7%#?4&9'#@4(#A4%94#B'9#?((#C()9#D*-E
!"!#$%&"'()*+!$,-./+,0&
1!
ADVERTISING
10:00
!"!#$%"&$'()*$+,-./"&01$'(
2#3
!!"#$""%#&"'()"*+$,"-./0."!102
!!"#$%&#'(")#*+,-)./012#3#-4#5$#64%-4#789'
:;<=#>#7%#?4&9'#@4(#A4%94#B'9#?((#C()9#D*-E
!"!#$%&"'()*+!$,-./+,0&
1!
1949
Bài thơ này có nhiều dị bản truyền tụng khác nhau, đây
đã được xác nhận là bản gốc. Bài thơ này đã được nhiều
nhạc sĩ phổ nhạc như Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh
Bằng, Duy Khánh, Nguyễn Đặng Mừng, Thu Hồ, Hồng
Vân...
Nguồn: Hữu Loan, Màu tím hoa sim, NXB Văn học, 1990
!"#$%!$&"#'$(ũ$()#$*#+$,-.
Đ!!"#$""%&"'()"'#*"+,"-$*
!"#$%!$&"#'$()"$*#$+,$-$.$'/#'$0/)$'"#$12$%3#
#'%%4$!"#$+&#$%56$#ơ)$617$%!$&"#'$+ũ
!"#$%&$'()&$%"$'*+,-
.!
Đến nay, Màu tím hoa sim được xem là một trong
những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài
thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi một doanh
nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện
này, cũng không ít độc giả còn thắc mắc về bản cũ và
bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ.
Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng
như đông đảo bạn đọc yêu thích thơ nhạc đều rất
quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ
Hữu Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc,
nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một chỗ đứng trong
lòng người yêu thơ miền Nam. Bài thơ được giới
thiệu không những qua sách báo, mà còn được phổ
nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi trình
diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào
những năm thập niên 60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím
hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công bố sau
này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: “Tôi hát
trong màu hoa. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất
sớm, mẹ già chưa khâu” chứ không có thêm “Tôi ví
vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù
lâu...” ở cuối bài như sau này.
So với bản Màu tím hoa sim “nay” thì bản “xưa” tuy
ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình,
không trúc trắc, không khiến người đọc phải dừng lại
suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc
thêm vào những đoạn mới. Song về phía những độc
giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có những kỷ niệm
gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó “làm
quen” với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có
vẻ xa lạ với bài thơ từng biết. Do vậy, một số độc giả
đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim trước kia.
Nhưng dù Màu tím hoa sim bản “xưa” hay “nay” vẫn
chỉ để viết về một người, một mối tình.
ĐK:
Ôi lấy chồng chiến binh
Lấy chồng thời chiến chinh, mấy người đi trở lại
Sợ khi mình đi mãi, sợ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em nhỏ hậu phương
Mà chết người em gái tôi thương
Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều
hoang biền biệt
Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn
tóc búi vai!
Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến
Ai hẹn được ngày về rồi một chiều mây bay
Từ nơi chiến trường đông bắc đó
lần ghé về thăm xóm hoàng hôn tắt sau đồi
Ôi ngày trở lại nhìn đồi sim nay vắng người em thơ
ôi đồi sim tím chạy xa tít tan dần theo bóng tối
Màu tím hoa sim là một bài thơ rất nổi tiếng của nhà
thơ Hữu Loan, được sáng tác năm 1949 tại Thanh
Hoá, vào thời điểm được cho là sau khi người vợ đầu
tiên của tác giả qua đời.
Bài thơ xuất hiện đầu tiên trên tờ Trăm Hoa của
Nguyễn Bính. Trong vụ án Nhân văn giai phẩm, nó bị
coi là thứ văn chương ủy mị, mang tư tưởng tiểu tư
sản, và là một trong những bằng chứng để bộ văn
hóa đương thời kết tội tác giả của nó. Tuy nhiên bài
thơ vẫn được truyền đi rộng rãi trong công chúng
bằng những bản chép tay và được đưa vào miền
Nam Việt Nam, tại đây bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ
phổ nhạc thành những bài hát nổi tiếng. Vào năm
2004, nó được mua bản quyền với giá 100 triệu đồng
tiền Việt Nam, trở thành một kỷ lục Việt Nam.
Năm 1990, bài thơ được in lần đầu trong 1 tập thơ,
đó cũng là tập thơ đầu tiên được xuất bản của Hữu
Loan: Mầu tím hoa sim.
Thơ nói về 1 cuộc tình đau khổ trong chiến tranh, với
nhân vật chính là anh lính và một cô thiếu nữ. Họ
yêu nhau, cưới nhau, trước khi chia tay nhau để anh
lính đi ra trận. Anh vẫn thường lo lắng nếu như mình
bỏ mạng nơi chiến trường thì thương cho người vợ,
thế nhưng vào cái ngày anh trở về với niềm háo hức,
thì nghe tin vợ đã chết. Trong miền hồi tưởng, anh
nhớ về những kỷ niệm xưa, với hình bóng dịu dàng,
thầm lặng của người thiếu nữ, anh nghĩ đến những
đứa em, những người anh của cô gái cũng đã đi lính
nơi xa xăm. Rồi anh lại ra đi. Trên con đường hành
quân, qua những đồi sim tím, hình bóng của người
vợ nhỏ vẫn vang về đâu đó, như nhắc khơi về một
câu ca dao cũ: "Áo anh sứt chỉ đường tà/Vợ anh mất
sớm, mẹ già chưa khâu...".
Thời điểm sáng tác của bài thơ, theo nhiều người, là
sau khi người vợ đầu tiên, bà Lê Đỗ Thị Ninh, của tác
giả chết đuối khi trượt chân xuống bến nước trong
trang trại của nhà (trong bản in của bài thơ thường
có thêm phần đóng dấu trong ngoặc đơn: "Khóc vợ
Lê Đỗ Thị Ninh"). Bà Ninh là một thiếu nữ đẹp, con
gái của ông Lê Đỗ Kỳ, kỹ sư canh nông, đã từng giữ
chức Tổng Thanh tra Canh nông Đông Dương. Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông Kỳ là đại biểu
Quốc hội khoá đầu tiên. Vợ ông là con một nhà khoa
bảng đất Thanh Hóa, sau Cách mạng có công tác ở
hội phụ nữ.
Hữu Loan quen biết gia đình ông Lê Đỗ Kỳ khi nhà
thơ 26 tuổi và được mời về dạy học cho ba người con
trai lớn của ông quan kỹ sư Canh nông, lúc đó cô
Ninh mới 10 tuổi. Trong suốt thời gian ở trong gia
đình họ Lê Đỗ, ông coi cô như em gái của mình.
yêu nàng
như tình yêu em gái
Điều mà nhà thơ không biết là bà Kỳ rất quý mến
ông nên đã có ý gả cô em gái tên Nga cho ông,
nhưng do cô Nga không muốn vương vấn chuyện
đời mà muốn xuất gia theo đạo nên bà lại chuyển
sang muốn gả con gái mình.[3] Ông bà Lê Đỗ Kỳ
không thổ lộ điều này nhưng bắt đầu bí mật để ý
đến nhà thơ. Khi Hữu Loan đi tham gia kháng chiến,
làm chính trị viên tiểu đoàn ở Đại đoàn 304 của
tướng Nguyễn Sơn, cùng đơn vị với ông có Quốc, là
người em họ với cô Ninh. Mãi cho đến một hôm,
Quốc mới tiết lộ cho ông biết là bà Kỳ cử Quốc "giám
sát" Hữu Loan để đề phòng ông có tình ý với những
phụ nữ khác.
Khi biết được gia đình ông bà Kỳ có ý tác thành, nhà
thơ về thưa chuyện với ông bà xin cưới cô Ninh. Đám
cưới diễn ra đơn giản, cô Ninh tuy là con nhà giàu, tư
sản gia đình có đến 500 mẫu ruộng nhưng cô sống
hết sức giản dị, ngày cưới cô còn không đòi phải may
áo mới: "ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới"
vì cô Ninh nói với ông là vợ chồng cốt ở yêu nhau,
không cần bày vẽ.Nhà thơ và "cô em gái nhỏ" làm lễ
thành hôn ngày 16 tháng 2 năm 1949 trong một lần
ông xin về phép. Điểm nội bật của đám cưới chỉ là
chiếc bình hoa. Chiếc bình mà ba tháng sau ông về
khóc vợ đã thành chiếc bình đựng hương trên mộ,
chiếc bình hương đặc biệt ấy ông Hữu Loan vẫn giữ
đến tận bây giờ, đặt trên bàn thờ cô Ninh.
chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh
vây quanh
Từ ngày cưới 16 tháng 2 đến ngày 29 tháng 5 cô
Ninh mất là hơn 3 tháng. Số ngày cô sống bên chông
chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cô Ninh hay mặc áo tím
và ông cũng đã có lần dẫn cô đi chơi lên những đồi
hoa sim tím và ngẫu nhiên là dọc bờ sông nơi cô
chết cũng mọc đầy những hoa sim tím.
Bài thơ lâu nay được lưu truyền chủ yếu qua các bản
chép tay nên có nhiều dị bản, các bản thường khác
nhau về cách xuống dòng, về từ ngữ, viết hoa và viết
thường. Bản được Cục Bản quyền tác giả văn học
nghệ thuật đóng dấu đăng ký là bản chép tay của
ông vào ngày 12/10/2004.
*Nhân vật trong bài
Trong bài ngoài 2 nhân vật chính là anh lính và người
vợ, còn có 3 người anh:
Một chiều rừng mưa
ba người anh,
từ chiến trường Đông Bắc
được tin em gái mất
trước khi em lấy chồng
Ba người anh cũng là nhân vật có thật: người anh cả
là ông Lê Đỗ Khôi, làm Chính ủy tiểu đoàn, hy sinh
trên đồi Him Lam chỉ vài giờ trước khi trận Điện Biên
Phủ kết thúc. Người anh thứ hai là ông Lê Đỗ
Nguyên, tức Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị còn người anh
thứ ba là ông Lê Đỗ An, tên công tác là Nguyễn Tiên
Phong, nguyên Bí thư Trung ương Đoàn - Phó Ban
dân vận Trung ương.Lúc đó cả ba người anh đều
đang ở chiến trường Đông Bắc, do thư từ thời đó vận
chuyển khó khăn nên họ nhận được tin em gái chết
trước khi nhận được thư nhà báo tin em lấy chồng
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không
có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng
trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa
không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại
thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban
thành chung tôi cũng học tại Thanh Hoá, không có
tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 - lúc đó
tôi cũng đã 22 tuổi - Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng
tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt
nhiên
Bạntôibị không có Thi
lạc trong ý định
Việndấn thân
vì có nộivào chốn
dung quáquan
đồ
trường.
sộ? Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn.
Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi
5-6 chục năm sau Chỉ những
dẫnngười cùng thời còn nhớ
làm quen
tên những người đậu khoá ấy, trong đó có Nguyễn
Đình Thi, Hồ Trọng Gin,Xem Trịnhsauvăn Xuấn, Đỗ Thiện
và...tôi - Nguyễn Hữu Loan.
Không hiện lại
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên
*