You are on page 1of 25

Chuyên đề: Thực trạng và tiềm năng phát triển thị

trường thẻ thanh toán điện tử tại Việt Nam hiện nay
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và Internet đã tạo tiền đề cho

thương mại điện tử phát triển. Với tốc độ phát triển nhanh chóng trong những

năm qua, Internet đã trở thành phương tiện phổ biến cho truyền thông, dịch vụ

và thương mại. Internet và thương mại điện tử đã làm thay đổi phương thức

mua hàng truyền thống của người tiêu dùng. Người tiêu dùng sẽ không còn bị

giới hạn về thời gian và địa điểm mà họ có thể mua các sản phẩm và dịch vụ ở

bất cứ đâu và bất cứ khi nào. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin

và kỹ thuật số đã làm thay đổi môi trường kinh doanh trên thế giới, do đó các

giao dịch kinh doanh cũng thay đổi từ các giao dịch tiền mặt chuyển sang giao

dịch tiền điện tử. Các giao dịch giữa các đối tác kinh doanh tiếp tục phát triển

trên nền tảng thương mại điện tử, giải pháp thanh toán điện tử xuất hiện để

thay thế các hệ thống thanh toán bằng tiền mặt. Trong môi trường thương mại

điện tử, thanh toán trao đổi tiền ở dạng điện tử gọi là thanh toán điện tử, thanh

toán điện tử là một phần không thể tách rời và là một phần quan trọng nhất của

thương mại điện tử, nói chung thanh toán điện tử được sử dụng trong thanh

toán hàng hóa, dịch vụ mua trực tuyến thông qua việc sử dụng Internet.

Tại Việt Nam, thanh toán điện tử ra đời năm 2008 với mô hình đầu tiên

là ví điện tử. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp khai thác mô hình ví điện tử

nhưng theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, hiện chỉ có 9 doanh nghiệp như:

1
Payoo, MoMo, Mobivi, Ngân Lượng… được cấp phép thử nghiệm loại hình

dịch vụ này.

Hơn 90% giao dịch thanh toán ở Việt Nam là thanh toán bằng tiền mặt

và khách hàng, người tiêu dùng thích COD (Cash On Delivery: Trả tiền mặt

khi nhận hàng) hơn thanh toán trực tuyến. Tuy nhiên, thay đổi hành vi thanh

toán của người tiêu dùng và các chính sách mới, cũng như sự khuyến khích

gần đây của chính phủ để tăng giao dịch không bằng tiền mặt là những yếu tố

thúc đẩy các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử.

1. Tổng quan về thanh toán điện tử

1.1. Khái niệm về thanh toán điện tử

Trong hai thập kỷ qua, hệ thống thanh toán điện tử đã thu hút nhiều sự

chú ý từ các nhà nghiên cứu và thiết kế hệ thống thông tin do vai trò quan

trọng của nó trong thương mại điện tử hiện đại. Điều này dẫn đến các nghiên

cứu và có những quan điểm khác nhau về định nghĩa thanh toán điện tử của

một số các nhà nghiên cứu. Các khái niệm này chủ yếu là nhìn từ những góc

độ khác nhau, từ các học giả trong lĩnh vực kế toán và tài chính, công nghệ

kinh doanh và hệ thống thông tin. Ví dụ, Dennis (2004) định nghĩa hệ thống

thanh toán điện tử như một hình thức cam kết tài chính có liên quan đến người

mua và người bán thông qua việc sử dụng các thông tin liên lạc điện tử. Briggs

và Brooks (2011) cho rằng, thanh toán điện tử là một hình thức liên kết giữa

các tổ chức, cá nhân được hỗ trợ bởi các ngân hàng cho phép trao đổi tiền điện

tử. Ở góc độ khác, Peter và Babatunde (2012) xem hệ thống thanh toán điện tử
2
là một phương thức chuyển khoản qua Internet. Theo Adeoti và Osotimehin

(2012), hệ thống thanh toán điện tử dùng để chỉ một phương tiện điện tử thực

hiện thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ mua sắm trực tuyến tại các siêu thị và

trung tâm mua sắm. Một định nghĩa khác cho thấy rằng, thanh toán điện tử là

các khoản thanh toán trong môi trường thương mại điện tử với hình thức trao

đổi tiền thông qua các phương tiện điện tử (Kaur và Pathak, 2015). Thanh toán

điện tử là một cách trả tiền điện tử cho hàng hóa hoặc dịch vụ khi mua sắm,

thay vì sử dụng tiền mặt hoặc séc, trực tiếp hoặc qua đường bưu điện. Hệ

thống thanh toán điện tử thường được phân loại thành bốn loại: Thẻ tín dụng,

thẻ ghi nợ, tiền điện tử, hệ thống micropayment (Maiyo, 2013).

Ngoài ra, Teoh, Chong, Lin, và Chua (2013) xem thanh toán điện tử như

bất kỳ chuyển giao của một giá trị thanh toán điện tử của người nộp để thụ

hưởng thông qua một kênh thanh toán điện tử cho phép người tiêu dùng truy

cập từ xa và quản lý tài khoản ngân hàng và giao dịch qua mạng điện tử.

Tóm lại, theo các định nghĩa trên, hệ thống thanh toán điện tử có thể chỉ

đơn giản là một tập hợp các thành phần và quy trình cho phép hai hoặc nhiều

bên tham gia giao dịch và giá trị tiền trao đổi thông qua phương tiện điện tử.

1.2. Lợi ích của thanh toán điện tử

Tất cả các phương thức thanh toán điện tử có một số đặc điểm như: Tính

độc lập, di động, ẩn danh, bảo mật, dễ sử dụng, chi phí giao dịch, thuận tiện,

kiểm soát và truy xuất nguồn gốc. Hệ thống thanh toán điện tử có lợi cho

người bán hàng trực tuyến, bởi vì thanh toán điện tử cho phép họ để giao dịch
3
bán hàng trực tuyến mọi lúc mọi nơi thay vì bị giới hạn trong một cửa hàng;

Giảm chi phí xử lý hoạt động và đồng thời tiết kiệm giấy in ấn cho biên lai,

hoá đơn; Cho phép khách hàng, người tiêu dùng tiếp cận với thị trường toàn

cầu.

Thanh toán điện tử là rất thuận tiện cho người tiêu dùng. Người tiêu

dùng chỉ cần nhập thông tin tài khoản của mình như số lượng, địa chỉ thanh

toán và thẻ tín dụng. Thông tin sau đó được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu trên

máy chủ web của nhà bán lẻ. Khi người tiêu dùng quay trở lại trang web, chỉ

cần đăng nhập với tên truy cập và mật khẩu. Hoàn thành một giao dịch đơn

giản như cách nhấn chuột. Tất cả người tiêu dùng phải làm là xác nhận đang

thực hiện mua hàng.

Thanh toán điện tử làm giảm chi phí cho doanh nghiệp. Các khoản thanh

toán hơn đó được xử lý bằng điện tử, chi phí ít hơn là sử dụng giấy và bưu

chính. Cung cấp thanh toán điện tử cũng có thể giúp các doanh nghiệp cải

thiện duy trì người tiêu dùng. Người tiêu dùng có nhiều khả năng trở lại với

trang web thương mại điện tử nơi mà thông tin của họ đã được nhập và lưu trữ.

Thanh toán điện tử chi phí giao dịch thấp hơn có thể kích thích GDP và

tiêu dùng cao hơn, tăng hiệu quả của chính phủ, tăng cường vai trò trung gian

tài chính và cải thiện tính minh bạch tài chính. Chính phủ đóng một vai trò cực

kỳ quan trọng trong việc tạo ra một môi trường mà trong đó những lợi ích có

thể đạt được một cách phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế.

4
Sử dụng các công cụ thanh toán điện tử sẽ mang lại lợi ích lớn cho cả

doanh nghiệp và người tiêu dùng dưới hình thức chi phí giảm, thuận tiện hơn,

phương tiện đáng tin cậy an toàn hơn trong thanh toán và nhiều tiềm năng lớn

cho hàng hóa và dịch vụ được cung cấp trên toàn thế giới qua Internet hoặc

mạng điện tử khác. Thanh toán điện tử cho phép người tiêu dùng xử lý các

giao dịch tài chính hàng ngày mà không cần phải truy cập vào chi nhánh ngân

hàng địa phương của họ. Thanh toán điện tử tiết kiệm thời gian và chi phí.

1.3. Cơ sở hạ tầng thanh toán điện tử

Kể từ khi thị trường Việt Nam phát hành thẻ ngân hàng lần đầu tiên (vào

năm 1996), đến tháng 6/2016, số lượng thẻ phát hành đã đạt mức trên 106 triệu

thẻ (tăng gấp 3,4 lần so với cuối năm 2010) với 48 ngân hàng phát hành.

Trong đó, thẻ ghi nợ chiếm 90,66%, thẻ tín dụng chiếm 3,53%, thẻ trả

trước là 5,81%. Về mạng lưới, cơ sở hạ tầng phục vụ cho thanh toán thẻ ngân

hàng được cải thiện, số lượng các máy POS có tốc độ tăng trưởng nhanh. Đến

cuối tháng 6/2016, trên toàn quốc có trên 17.300 ATM và hơn 239.000 POS

được lắp đặt.

+ Dịch vụ Ví điện tử: Các tổ chức không phải ngân hàng đã được cấp

phép thực hiện dịch vụ Ví điện tử gồm 6 tổ chức: Banknetvn, VNPay,

M_Service, BankPay, Vietnam Online, VietUnion. 38 ngân hàng thương mại

đã tham gia phối hợp triển khai dịch vụ Ví điện tử.

+ Hệ thống chuyển mạch thẻ: Ngày 1/4/2015, Công ty cổ phần Chuyển

mạch tài chính quốc gia Banknetvn và Công ty Dịch vụ thẻ Smartlink đã sáp
5
nhập thành Trung tâm Chuyển mạch thẻ thống nhất, cho phép chủ thẻ của một

ngân hàng có thể rút tiền hoặc thanh toán tại hầu hết ATM/POS của các ngân

hàng khác.

+ Thẻ thanh toán: Tổng lượng thẻ đang lưu hành trên thị trường tính đến

quý 1/2017 có 116 triệu thẻ. Bên cạnh các dịch vụ rút tiền mặt, chuyển khoản,

sao kê các ngân hàng thương mại đã tích hợp thêm nhiều tính năng vào thẻ

ngân hàng để sử dụng thanh toán hóa đơn hàng hóa, dịch vụ như: Thanh toán

tiền điện, nước, cước viễn thông, bảo hiểm, vé máy bay hoặc thanh toán tiền

mua hàng hóa, dịch vụ trực tuyến.

+ Các dịch vụ thanh toán qua Internet và điện thoại: Hiện có 67 ngân

hàng thương mại triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet (Internet Banking)

và 37 ngân hàng thương mại cung ứng các dịch vụ thanh toán qua di động

(Mobile Banking).

+ Thanh toán thẻ xuyên biên giới: Các hệ thống thanh toán thẻ quốc tế

như VISA, MarterCard, American Express, Diners Club/Discover (Mỹ), Union

Pay (Trung Quốc) cung cấp 2 dòng thẻ phổ biến là thẻ tín dụng (Credit Card)

và thẻ ghi nợ (Debit Card). Những thẻ này có các tính năng như rút tiền mặt

ATM, thanh toán tiền khi mua hàng hóa, dịch vụ tại điểm bán (POS), thanh

toán trực tuyến (Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước 12/2015).

Đến nay đã có 53 tổ chức phát hành và thanh toán thẻ, số lượng thẻ cũng

được các ngân hàng quan tâm phát triển và vẫn tăng trưởng đều qua các năm.

Số lượng các máy chấp nhận thẻ (POS) có tốc độ tăng trưởng nhanh. Theo số
6
liệu từ Vụ Thanh toán, đến cuối tháng 12/2016, trên toàn quốc có 17.472 ATM

và hơn 263.427 POS được lắp đặt, chưa kể một số lượng lớn các website

thương mại điện tử chấp nhận giao dịch thẻ trực tuyến.

Việc sáp nhập thành công Smartlink vào Banknetvn và đổi tên thành

Công ty Cổ phần thanh toán quốc gia Việt Nam (Napas) tạo thuận lợi và hiệu

quả hơn trong việc kết nối, chuyển mạch thẻ tại Việt Nam. Đây là bước đi

quan trọng nhằm tạo nền tảng kỹ thuật cho việc phát triển thanh toán thẻ.

Ngân hàng Nhà nước cũng quan tâm chỉ đạo phát triển thanh toán POS

trên thiết bị di động (mPOS), ứng dụng công nghệ hiện đại với chi phí thấp, dễ

sử dụng và đảm bảo an toàn bảo mật, mở ra khả năng mới để phát triển nhanh

các điểm chấp nhận thẻ quy mô nhỏ, tăng cường khả năng cung ứng dịch vụ

cho khu vực nông thôn.

1.3.1. Hạ tầng viễn thông, Internet

Internet và thiết bị điện tử đóng vai trò quan trọng trong quá trình mua

hàng của người tiêu dùng, đặc biệt đối với người tiêu dùng trong độ tuổi 25-34

tuổi. Trong khoảng 92 triệu dân, có hơn 40% sử dụng Internet, trong đó, 58%

sử dụng Internet đã từng tham gia mua hàng trực tuyến và 65% sử dụng

smartphone để truy cập Internet. Tính đến nay, Việt Nam có hơn 120 triệu thuê

bao di động, 95% sử dụng smartphone cho việc nghiên cứu sản phẩm, dịch vụ

trước khi đưa ra quyết định mua hàng và 60% đã từng mua hàng trực tuyến

thông qua smartphone. Điều này cho thấy, phương thức thương mại truyền

7
thống cần có sự chuyển dịch, thích ứng với quá trình mua hàng mới hiện nay

của người tiêu dùng.

1.3.2. Hạ tầng kỹ thuật thanh toán điện tử

Thẻ ngân hàng tiếp tục phát triển, số lượng thẻ phát hành, số lượng và

giá trị giao dịch thẻ tăng khá nhanh; đến cuối tháng 7/2016, số lượng thẻ phát

hành đạt mức trên 107 triệu thẻ (tăng gấp 3,48 lần so với cuối năm 2010). Các

ngân hàng thương mại đã tích hợp thêm nhiều tính năng vào thẻ ngân hàng để

sử dụng thanh toán tiền điện, nước, cước viễn thông, bảo hiểm, phí giao thông,

thanh toán trực tuyến; đồng thời, các ngân hàng thương mại cũng quan tâm

hơn đến việc cải thiện chất lượng dịch vụ thẻ, chú trọng tăng độ an toàn của

thẻ ngân hàng.

Hiện nay, tại Việt Nam, có khoảng 60 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh

toán triển khai các dịch vụ thanh toán qua Internet và gần 40 tổ chức cung ứng

dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động.

Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty Fintech cũng đã giúp tạo ra một

môi trường năng động, thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao với nhiều

sản phẩm dịch vụ mới. Ngày càng có nhiều người dùng dịch vụ, tin tưởng hơn

với việc sử dụng các hình thức thanh toán không điện tử.

Cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ thanh toán điện tử, thanh toán thẻ

tiếp tục được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Hệ

thống thanh toán điện tử liên ngân hàng với vai trò là hệ thống thanh toán

xương sống của nền kinh tế, tính đến cuối năm 2016 đã kết nối được với 322
8
đơn vị thành viên, gồm 64 đơn vị thành viên thuộc Ngân hàng Nhà nước, 258

đơn vị thành viên thuộc 99 tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Trong năm 2016, trung bình mỗi ngày hệ thống này xử lý khoảng 323.000 món

với giá trị gần 177.000 tỷ đồng. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có quyết

định nâng cấp Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng áp dụng theo các

thông lệ, chuẩn mực, tiến bộ về thanh toán và công nghệ của các nước phát

triển trên thế giới, bảo đảm phù hợp với lộ trình độ công nghệ thông tin của

các ngân hàng Việt Nam.

Các giao dịch thanh toán đã chuyển dần sang phương thức xử lý tự động,

sử dụng chứng từ điện tử, đến việc các giao dịch thanh toán được xử lý điện tử

chiếm tỷ trọng lớn, thời gian xử lý hoàn tất một giao dịch được rút ngắn xuống

còn vài phút, thậm chí chỉ trong vòng vài giây hoặc tức thời.

Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Kế hoạch số 16/KH-NHNN ngày

30/12/2015 về chuyển đổi thẻ ngân hàng từ thẻ từ sang thẻ gắn vi mạch điện

tử, chậm nhất đến ngày 31/12/2020 toàn bộ thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam

hoàn thành chuyển đổi sang thẻ chip. Ngoài ra ngày 09/06/2016, Thống đốc

Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 1189/QĐ-NHNN thành lập

Ban chỉ đạo triển khai dự án xây dựng hệ thống ACH phục vụ các giao dịch

thanh toán bán lẻ.

1.4. Cơ sở pháp lý thanh toán điện tử

Cho đến nay, chưa có một văn bản pháp lý riêng quy định đầy đủ về quy

trình cung ứng các dịch vụ ngân hàng điện tử, tiền điện tử để tạo dựng khuôn
9
khổ pháp lý chặt chẽ, thống nhất cho việc ứng dụng công nghệ thanh toán điện

tử trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam. Căn cứ vào Luật các Tổ chức tín

dụng và Luật Ngân hàng Nhà nước, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày

22/11/2012 của Chính phủ về Thanh toán không dùng tiền mặt (Nghị định 101)

đã đưa ra các quy định mang tính khuôn khổ về các dịch vụ trung gian thanh

toán và điều kiện cung ứng dịch vụ cũng như quy trình, thủ tục, hồ sơ cấp, thu

hồi và cấp lại Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tại

Điều 5.3; Điều 15 và Điều 16. Để hướng dẫn thực hiện Nghị định số 101, các

Thông tư của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước như Thông tư số 23/2014/TT-

NHNN ngày 19/8/2014 về Hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán

tại Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (TCCUDVTT) (Thông tư 23), Thông

tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ trung gian

thanh toán (Thông tư 39) và Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014

hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (Thông tư 46) đưa ra

quy định về điều kiện khuôn khổ mang tính nguyên tắc chung, đã tạo ra hành

lang pháp lý cơ bản, quan trọng cho các TCCUDVTT khi cung ứng dịch vụ

thanh toán giao dịch bằng phương tiện điện tử ở Việt Nam.

Thông tư 39 hướng dẫn chung về dịch vụ trung gian thanh toán bao gồm

dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử (chuyển mạch tài chính, bù trừ

điện tử, cổng thanh toán điện tử) và dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán (hỗ trợ

thu hộ, chi hộ; hỗ trợ chuyển tiền điện tử và ví điện tử); đồng thời, cũng đưa ra

các quy định về quyền và trách nhiệm của các bên liên quan.
10
Thanh toán điện tử ở Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức,

rào cản lớn, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, đầy đủ và đồng bộ, các chính

sách và điều kiện hỗ trợ phát triển dịch vụ thanh toán điện tử còn yếu và thiếu,

trình độ phát triển kinh tế, xã hội còn thấp, trình độ công nghệ còn nhiều hạn

chế, thói quen thanh toán tiền mặt và sự thiếu tin tưởng của xã hội đối với

thanh toán điện tử...

1.5. Các phương thức thanh toán điện tử

Thanh toán trực tuyến trong thương mại điện tử là một khái niệm không

còn xa lạ với người dùng Internet. Thanh toán là một trong những vấn đề cần

quan tâm nhất của kinh doanh thương mại điện tử. Các loại hình thanh toán

được các công ty kinh doanh thương mại điện tử áp dụng là:

1.5.1. Thanh toán bằng thẻ

Là hình thức thanh toán đặc trưng nhất của giao dịch thương mại trực

tuyến trên Internet. Thanh toán bằng thẻ tín dụng chiếm tới 90% trong tổng số

các giao dịch thương mại điện tử. Với cách thanh toán này giúp cho người mua

hàng trực tuyến có thể dễ dàng thực hiện các giao dịch với nhà cung cấp ở mọi

nơi mọi lúc một cách nhanh chóng nhất.

Thanh toán trực tuyến bằng thẻ có hai loại sau:

* Thanh toán bằng thẻ tín dụng hoặc ghi nợ quốc tế: Với hình thức

thanh toán này, người tiêu dùng sở hữu các loại thẻ mang thương hiệu Visa,

Master, American Express, JCB có thể thanh toán hơn 60 website đã kết nối

với cổng thanh toán OnePay.


11
* Thanh toán bằng thẻ ghi nợ nội địa: Đây là hình thức chưa thực sự phổ

biến tại Việt Nam nhưng lại rất phổ biến ở nước ngoài, là thẻ được giới hạn

trong phạm vi một quốc gia, do các ngân hàng, tổ chức trong nước phát hành,

đồng tiền giao dịch phải là bản tệ của nước đó. Với cách thanh toán này, các

chủ thẻ đa năng tại Đông Á và chủ thẻ tại Connect 24 của Vietcombank đã có

thể thực hiện thanh toán trực tuyến tại các website đã kết nối với Ngân hàng

Đông Á và cổng thanh toán OnePay.

1.5.2. Thanh toán trực tuyến

Đây là một dịch vụ trung gian, giúp chuyển tiền thật từ tài khoản ngân

hàng thành một loại tiền ảo trên mạng nhưng vẫn có khả năng sử dụng như tiền

thật để mua sắm và sử dụng thanh toán trực tuyến. Hình thức thanh toán này

bảo mật hơn so với hình thức thanh toán truyền thống. Để sử dụng thanh toán

trực tuyến, người tiêu dùng cần có một tài khoản trên một dịch vụ trung gian

nào đó và liên kết tài khoản đó với ngân hàng, hiện nay có một số cổng thanh

toán tốt như: OnePay, VTC…

1.5.3. Thanh toán bằng Ví điện tử

Với hình thức thanh toán này, người tiêu dùng phải sở hữu ví điện tử của

Mobivi, Payoo, VnMart, NetCash, từ đó có thể thanh toán trực tuyến trên một

số website đã chấp nhận ví điện tử này. Ví điện tử có thể được gắn kết với tài

khoản ngân hàng để chuyển tiền giữa ví điện tử và tài khoản. Ngoài ra, người

tiêu dùng có thể nạp tiền vào ví bằng cách nộp tiền mặt, chuyển khoản. Chi phí

12
phải trả cho hình thức này tương đối thấp, chi phí đăng ký dịch vụ thường

được miễn phí.

1.5.4. Thanh toán bằng thiết bị di động thông minh

Đây là một hình thức thanh toán ra đời trong nền kinh tế số hóa, khá phổ

biến và có tiềm năng phát triển mạnh trong tương lai với đại đa số người tiêu

dùng bây giờ ai cũng đã quá quen thuộc và sử dụng thành thạo Smartphone.

Với dịch vụ này khi đi mua sắm, người tiêu dùng không cần phải mang theo

tiền mặt mà thay vào đó là thanh toán trực tuyến thông qua điện thoại di động

thông minh với dịch vụ Mobile Banking.

Hệ thống thanh toán qua điện thoại được xây dựng trên mô hình liên kết

giữa các nhà cung cấp dịch vụ: Ngân hàng, các nhà cung cấp viễn thông, hệ

thống tiêu dùng, người tiêu dùng.

Hiện nay, trên thị trường hình thức thanh toán này có một số nhà cung

cấp như: Samsung, Apple, Androi, tuy nhiên có một hạn chế hình thức thanh

toán này chỉ thực hiện trên các thiết bị di động đời mới Smartphone.

1.5.5. Trả tiền mặt khi giao hàng

Đây là hình thức được người mua hàng tin dùng hơn cả vì đảm bảo hàng

tận tay tới người tiêu dùng sau đó mới thanh toán. Hầu hết các website thương

mại điện tử đều áp dụng phương thức COD (Cash On Delivery) cho phép

người mua hàng đặt hàng trước mà không phải đặt cọc tiền và sau khi nhận

được hàng thì người mua có thể kiểm tra chất lượng hàng hóa, nếu hài lòng thì

tiến hành thanh toán trực tiếp cho người giao hàng.
13
1.5.6. Thanh toán qua chuyển khoản ngân hàng

Thông qua ATM hoặc giao dịch trực tiếp tại ngân hàng, người mua hàng

chuyển tiền của mình sang tài khoản của người bán một số tiền nhất định hoặc

có giá trị bằng hàng hóa đặt mua trước khi nhận được hàng. Hình thức thanh

toán này chỉ nên thực hiện khi mua hàng tại các website lớn và có uy tín hoặc

hai bên là khách quen của nhau. Bên cạnh lợi ích nó mang lại là người mua và

người bán có thể thanh toán tiền cho nhau khi ở xa nhau thì cũng có những rủi

ro cho người mua, khi người bán không giao hàng hoặc giao hàng kém chất

lượng, không như cam kết khi rao bán, quảng cáo và khó có thể đổi lại được

hàng hóa nếu không ưng ý.

2. Thực trạng thanh toán điện tử tại Việt Nam

2.1. Tình hình chung

Theo thông tin tại Hội nghị thường niên Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam

năm 2017 vừa được tổ chức mới đây, các giao dịch qua ATM vẫn chủ yếu là

giao dịch rút tiền mặt, chiếm 86,81% doanh số sử dụng của thẻ nội địa, doanh

số rút tiền mặt/ATM/năm vẫn tăng qua các năm (từ 60 tỷ đồng năm 2012 lên

106 tỷ đồng năm 2016), điều đó cho thấy thói quen sử dụng tiền mặt của người

dân vẫn còn rất phổ biến.

Theo kết quả khảo sát năm 2015 của Cục Thương mại điện tử và Công

nghệ thông tin, dân số Việt Nam năm 2015 là 91,3 triệu dân, tỷ lệ dân số sử

dụng Internet là 45%, tỷ lệ người dùng Internet tham gia mua sắm trực tuyến là

62% giá trị mua hàng của một người mua hàng trực tuyến trong năm ước đạt
14
160 USD, doanh số thương mại điện tử (TMĐT) B2C đạt khoảng 4,07 tỷ USD,

tăng 37% so với năm trước đó, chiếm khoảng 2,8% tổng mức bán lẻ hàng hóa

và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước.

Phần lớn người mua hàng trực tuyến vẫn lựa chọn hình thức thanh toán

tiền mặt khi nhận hàng với 91% đối tượng khảo sát cho biết có sử dụng

phương thức này, tiếp theo là 48% sử dụng phương thức chuyển khoản qua

ngân hàng, 20% người tham gia khảo sát cho biết từng sử dụng các loại thẻ

thanh toán.

Biểu đồ 1: Tỷ lệ các phương thức thanh toán của khách hàng

Theo khảo sát năm 2015 của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ

thông tin, 97% doanh nghiệp chấp nhận cho khách hàng thanh toán bằng

phương thức chuyển khoản qua ngân hàng, 16% doanh nghiệp chấp nhận thanh

toán bằng thẻ thanh toán.

Biểu đồ 2: tỷ lệ các hình thức doanh nghiệp chấp nhận cho khách hàng

thanh toán

15
Hiện nay, các website TMĐT đáp ứng được cả nhu cầu thanh toán trực

tuyến và không trực tuyến của khách hàng. Hai hình thức được sử dụng nhiều

nhất là thanh toán trực tiếp tại công ty với 87% website TMĐT chấp nhận và

thanh toán chuyển khoản với 77% website chấp nhận. Thanh toán khi nhận

hàng (COD) được 64% website chấp nhận. Hình thức thanh toán trực tuyến

bằng thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, ví điện tử, tin nhắn SMS được 25% website sử

dụng.

Biểu đồ 3: Tỷ lệ các hình thức thanh toán của khách hàng trên website

TMĐT

Đối với các website có tích hợp giải pháp thanh toán trực tuyến, các nhà

cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán phổ biến được doanh nghiệp lựa chọn

16
sử dụng là Bảo Kim (40%), Ngân lượng (20%), One Pay (10%), BankNetVN

(5%). 4% website lựa chọn công cụ ví điện tử quốc tế Paypal.

Biểu đồ 4: Tỷ lệ các nhà cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán

Theo kết quả khảo sát, 31% website TMĐT gặp khó khăn do nguồn nhân

lực chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển TMĐT, 25% website đánh giá

việc khách hàng thiếu tin tưởng vào chất lượng hàng hóa hoặc lo ngại về vấn

đề an toàn khi thanh toán trực tuyến gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp, 22% website cho rằng chi phí cho dịch vụ vận chuyển giao nhận

còn cao. Bên cạnh đó, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp

cũng gây khó khăn cho 20% website. Các trở ngại khác như khách hàng lo

ngại về vấn đề thông tin cá nhân bị tiết lộ, mua bán; an ninh mạng chưa đảm

bảo; khó khăn trong việc tích hợp thanh toán điện tử gây trở ngại ít hơn, ảnh

hưởng tới khoảng 10 -17% website TMĐT.

Biểu đồ 5: Tỷ lệ các nguyên nhân ảnh hưởng đến website TMĐT

17
Trong số 38% người tham gia khảo sát chưa tham gia mua sắm trực

tuyến, khi được hỏi về nguyên nhân chưa mua sắm trực tuyến, 50% cho biết

không tin tưởng đơn vị bán hàng, 37% quan niệm mua tại cửa hàng tiện lợi và

rẻ hơn, 26% không có thẻ tín dụng hoặc thẻ thanh toán qua mạng, 25% lo sợ lộ

thông tin cá nhân.

Biểu đồ 6: Tỷ lệ nguyên nhân khách hàng chưa mua sắm trực tuyến

18
Theo kết quả khảo sát, tỷ lệ website có chức năng đặt hàng trực tuyến và

thanh toán trực tuyến lần lượt là 53% và 17%.

Biểu đồ 7: tỷ lệ website có chức năng đặt hàng trực tuyến và thanh toán

trực tuyến

Tỷ lệ người tiêu dùng sử dụng các thiết bị di dộng để mua sắm trực tiếp

lựa chọn hình thức thanh toán bằng thẻ (ATM/Thẻ quốc tế) là 47%, có 41%

từng thanh toán bằng tin nhắn hoặc thẻ cào điện thoại.

Biểu đồ 8: Tỷ lệ người tiêu dùng sử dụng thiết bị di động mua sắm trực

tiếp

Bảo đảm an toàn thông tin và bảo vệ thông tin khách hàng. Doanh

nghiệp sử dụng chữ ký điện tử tăng gấp 2 lần từ 23% năm 2012 đến 48% năm

2015.

Biểu đồ 9: Tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng chữ ký điện tử các năm 2012-

2015

19
Việc triển khai các chính sách bảo vệ thông tin cho khách hàng có đến

76% doanh nghiệp.

Biểu đồ 10: tỷ lệ doanh nghiệp có chính sách bảo vệ thông tin cho khách

hàng

Doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về CNTT và TMĐT tăng qua các

năm từ 20% năm 2010 đến 73% năm 2015.

Biểu đồ 11: Tỷ lệ doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách CNTT và TMĐT

từ năm 2012- 2015

20
2.2. Những tồn tại và hạn chế trong thanh toán điện tử tại Việt Nam

2.2.1. Một số tồn tại hạn chế

* Hệ thống thanh toán Việt Nam còn khoảng cách so với một số nước

trong khu vực và thế giới.

* Chi phí phát hành thẻ cao. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước thì

chi phí bình quân phát hành 1 thẻ vào khoảng 5USD/thẻ trong khi chi phí phát

hành thẻ trên thế giới khoảng 1USD/Thẻ.

* Doanh thu thanh toán thẻ chủ yếu vẫn là rút tiền từ ATM chiếm 85%

chỉ có 15% là doanh thu từ giao dịch thanh toán và các giao dịch phát sinh từ

các điểm chấp nhận thẻ thanh toán.

* Thanh toán điện tử trong thương mại điện tử còn thấp, nhiều trường

hợp bán hàng online nhưng khi thanh toán vẫn chủ yếu bằng tiền mặt.

* Thu nộp thuế điện tử vẫn còn nhiều vướng mắc do việc kết nối thanh

toán của Kho bạc Nhà nước và hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng

(IBPS) của Ngân hàng Nhà nước chưa được mở rộng.

21
* Giá trị giao dịch thanh toán thẻ qua POS chưa nhiều, nhất là thanh toán

thẻ nội địa qua POS, việc triển khai POS vẫn còn những bất cập cần xử lý, vẫn

còn một số đơn vị bán hàng thu phụ phí khi khách hàng thanh toán qua thẻ,

một số đơn vị bán hàng còn chưa sử dụng việc thanh toán qua thẻ vì không

muốn công khai doanh thu bán hàng.

* Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán điện tử vẫn chưa hoàn

thiện, mặc dù thời gian vừa qua đã được cải thiện nhiều, song vẫn được đánh

giá là chưa đầy đủ và đồng bộ.

2.2.2. Nguyên nhân

* Thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế vẫn còn lớn, đặc biệt là

khu vực nông thôn và khu vực dân cư.

* Lãi suất cho vay qua thẻ cao cộng thêm các khoản phí dịch vụ theo thẻ

như: Phí thường niên, phí in sao kê, phí chậm thanh toán, phí rút tiền mặt tại

ATM, phí chuyển đổi ngoại tệ, phí giao dịch… Đối với các điểm chấp nhận thẻ

phải trả phí dịch vụ 2% để phục vụ các khoản đầu từ máy POS và 1% cho các

tổ chức thẻ quốc tế.

* Thiếu niềm tin, tâm lý lo ngại rủi ro khi sử dụng các dịch vụ thanh

toán điện tử.

* Cơ sở hạ tầng phục vụ thanh toán phân bổ chưa đều, hệ thống máy

ATM, POS được lắp đặt chủ yếu ở khu vực thành phố và tập trung ở các siêu

thị, trung tâm thương mại, nhà hàng, khách sạn… trong khi đó ở khu vực nông

thôn, miền núi còn hạn chế gây khó khăn cho chủ thẻ khi sử dụng hàng ngày.
22
* Chưa có chính sách hỗ trợ thuế giá trị gia tăng cho các điểm bán hàng,

hoặc giảm thuế doanh thu mà doanh nghiệp được giao dịch qua thẻ, thuế nhập

khẩu các thiết bị POS, ATM, Máy sản xuất thẻ...

* Hiệu lực của chính sách đối với thực tế triển khai còn thấp. Chưa có

chính sách, cơ chế cụ thể nhằm khuyến khích, ưu đãi hỗ trợ thanh toán điện tử.

* Chậm áp dụng xu hướng mới trên thế giới trong thanh toán điện tử.

(Sinh trắc học, NFC, QR PAY trên nền tảng QR code và cả mPOS giải pháp

chấp nhận thanh toán thẻ thông qua các thiết bị di động.

* Công tác thông tin tuyên truyền cho người dân chưa rộng khắp.

3. Một số kiến nghị

Hoàn thiện và đồng bộ hóa hành lang pháp lý để quản lý, giám sát, tạo

điều kiện thuận lợi đối với các loại hình, phương tiện, hệ thống thanh toán điện

tử mới, dịch vụ trung gian thanh toán, ban hành quy định về trách nhiệm của

nhà cung cấp dịch vụ, người sử dụng và bên thứ ba, đảm bảo an ninh, an toàn

và hoạt động ổn định, hạn chế rủi ro phát sinh và giám sát các hình thức, công

cụ, hệ thống thanh toán mới. Xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích

phát triển, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại

và các tổ chức không phải ngân hàng, tăng cường các biện pháp bảo vệ lợi ích

hợp pháp của người sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử.

Xây dựng phát triển các hệ thống thanh toán bán lẻ. Tập trung triển khai,

hoàn thành xây dựng Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất theo nội dung của

Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Nghiên cứu, xây dựng Hệ
23
thống thanh toán bù trừ điện tử tự động phục vụ các giao dịch bán lẻ (ACH) tại

Việt Nam.

Bộ Công Thương cần ban hành chính sách khuyến khích để các website

thương mại điện tử kết nối với các cổng thanh toán được Ngân hàng Nhà nước

cấp phép và cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến cho người tiêu dùng mua

hàng hóa, dịch vụ. Nghiên cứu đưa ra các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đối

với các doanh nghiệp, cửa hàng bán lẻ để lắp đặt thiết bị chấp nhận thẻ và ký

hợp đồng thanh toán thẻ với ngân hàng để hỗ trợ khách hàng, người tiêu dùng

mua sắm, chi tiêu bằng thẻ thanh toán.

Đẩy mạnh phát triển thanh toán điện tử trong khu vực nhà nước và dịch

vụ hành chính công. Kết nối cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ Tài chính,

cổng thương mại điện tử của Bộ Công Thương với cổng thanh toán điện tử của

Ngân hàng Nhà nước để hỗ trợ phát triển dịch vụ nộp thuế điện tử và thanh

toán trong thương mại điện tử và các điểm bán lẻ. Các ngân hàng cần có các

chương trình khuyến khích, chính sách ưu đãi khi sử dụng các phương thức

thanh toán điện tử.

Nghiên cứu, áp dụng các loại tiêu chuẩn, ISO theo thông lệ quốc tế.

Nghiên cứu, áp dụng chuẩn tin điện quốc tế ISO 20022 đối với hệ thống IBPS,

hệ thống ACH và các hệ thống bán lẻ khác. Hoàn thành xây dựng chuẩn thẻ

chip nội địa và xây dựng, thực hiện kế hoạch chuyển đổi thẻ từ sang thẻ chip

tại Việt Nam với lộ trình thích hợp.

24
Đảm bảo an ninh, an toàn cho các hệ thống thanh toán quan trọng. Phối

hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chức năng bảo vệ pháp luật (Nhất là

C50: Cục cảnh sát phòng, chống tội phạm công nghệ cao).

Xây dựng và thực hiện chương trình tài chính toàn diện. Gắn với việc

đẩy mạnh phát triển các hệ thống thanh toán, chuyển tiền ở khu vực nông thôn.

Tập trung phát triển, mở rộng các mô hình ứng dụng các phương tiện và hình

thức thanh toán mới, hiện đại, phục vụ cho khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng

xa.

Tổ chức triển khai chiến lược giám sát các hệ thống thanh toán. Về triển

khai công tác giám sát, Ngân hàng Nhà nước thực hiện giám sát, đánh giá tính

an toàn, hiệu quả của các hệ thống thanh toán do Ngân hàng Nhà nước quản lý

và vận hành.

Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyển, công tác truyền thông và phối

hợp với cơ quan báo chí để thực hiện các chương trình truyền thông nhằm

nâng cao nhận thức và củng cố niềm tin của người tiêu dùng, doanh nghiệp về

lợi ích và hiệu quả nộp thuế điện tử, thanh toán điện tử trong thương mại điện

tử và các điểm bán lẻ. Quảng bá, phổ biến, hướng dẫn về thanh toán điện tử,

giáo dục tài chính, tạo sự chuyển biến căn bản của người dân về thanh toán

điện tử và thói quen sử dụng tiền mặt hiện nay.

25

You might also like