You are on page 1of 9

Câu1: Phân tích mục tiêu chung của chiến lược bảo vệ Tổ quốc.

Trả lời:

1. Khái niệm “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”:


Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo
nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng –an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
2. Mục tiêu chung trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc:
Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới
đất nước, nhất là kế thừa kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
(BVTQ) trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ BVTQ của Đảng ta. Trong đó, xác định rõ mục tiêu,
quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện BVTQ trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu
vực, hội nhập quốc tế. Chúng ta cần quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản sau:
a) Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc:
Trước đây, trong điều kiện phải chiến đấu chống xâm lược, giải phóng Tổ quốc, tư duy chiến lược của chúng ta về bảo vệ Tổ
quốc thiên về dùng vũ trang chống lại sự tấn công từ bên ngoài là chủ yếu. Ngày nay, trong điều kiện rất mới của quốc tế và
trong nước, một mặt phải chuẩn bị đầy đủ sức mạnh vũ trang cần thiết để giữ vững hòa bình, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh
xâm lược của các thế lực thù địch trong mọi tình huống; mặt khác, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nhấn mạnh sức
mạnh và các biện pháp phi vũ trang để giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội mà không phải tiến hành chiến tranh, ngăn chặn không để xảy ra chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về đối tượng, đối tác, tư duy bảo vệ Tổ quốc, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại của chúng ta đã có sự phát triển, đổi mới.
Chúng ta nhận thức về đối tượng và đối tác linh hoạt, uyển chuyển và biện chứng hơn; chúng ta cũng ngày càng thấy rõ vai
trò quan trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh và đối ngoại trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc; giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại với kinh tế - tức là chúng ta nhận thức toàn diện, sâu sắc, biện
chứng hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đó là một thành quả mới về lý luận bảo vệ Tổ
quốc của Đảng ta.
b) Bảo vệ Đảng, NN, nhân dân và chế độ XHCN:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) tiếp tục khẳng
định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và
của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là
điều căn bản nhất. Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách chống giặc giữ nước, Hồ Nguyên Trừng đã nói: “Thần
không sợ giặc mạnh, chỉ sợ lòng dân không theo” và chính vì không được lòng dân nên mặc dù có thành cao, hào sâu, nhà
Hồ đã không ngăn được quân xâm lược và bị mất nước. Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là yếu tố quyết định, nhưng
sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự
nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải
quyết kịp thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân.
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh: phải “thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng
đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”; “củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, lòng tin của
nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, dân chủ, kỷ
cương, đồng thuận”.
c) Bảo vệ sự nghiệp đổi mới CNH –HĐH:
Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật
chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện.
Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
d) Bảo vệ lợi ích Quốc gia, dân tộc:
Lợi ích quốc gia - dân tộc của chúng ta là cụ thể: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc;
chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh, hùng cường của đất nước, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đây là mục tiêu mà chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi chông gai, quyết phấn đấu thực hiện cho bằng được, cũng là cơ sở để
chúng ta phân định những việc cần phải làm và những việc cần phải tránh, như lời Bác Hồ dạy: Cái gì có lợi cho dân, cho
nước thì phải hết sức làm, cái gì có hại cho dân, cho nước thì phải hết sức tránh; là tiêu chuẩn để chúng ta nhận diện ai là
bạn, ai là thù, ai là đối tác, ai là đối tượng trong từng lĩnh vực, từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể; những quan điểm của
Đảng ta: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập quan hệ hữu nghị và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng
cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta; bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá mục tiêu của nước
ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Làm trái thế, xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân
tộc là vong thân, hại quốc, là có tội với tổ tiên, các thế hệ cha ông, là phụ lại lòng tin và sự ủy thác của hơn 90 triệu đồng
bào!
e) Bảo vệ An ninh chính trị, Trật tự An toàn XH và nền VH Việt Nam:
Đảng ta xác định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với lực lượng và thế trận
an ninh nhân dân, đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc để tăng cường
tiềm lực và sức mạnh quốc phòng. Đồng thời tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, nhất là xây dựng
Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu toàn
diện và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, làm nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy lực lượng
quân đội tinh nhuệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại là cần thiết nhưng sẽ là chưa đủ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia.
Đi kèm với đó, quan trọng là ta phải giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, sẵn sàng
hợp tác với tất cả các bên vì lợi ích chung, vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
f) Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo định hước XHCN:
Trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi
trường hòa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Điều dễ nhận
thấy là nội hàm mục tiêu của quốc phòng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay của chúng ta rất rộng, rất toàn diện và ngày
càng sâu sắc. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững
chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc;… Nhưng trên hết là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; cơ bản nhất là ngăn chặn, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh.

Câu 2: Phân tích quan điểm xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Trả lời:
1. Khái niệm chiến lược bảo vệ tổ quốc: Trang 319
2. Phân tích quan điểm xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc:
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. V.I.
Lenin, người thầy vĩ đại của cách mạng thế giới đã chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Trải
qua các giai đoạn cách mạng, cùng với đường lối xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc là nhiệm vụ chiến lược sống còn. Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, được biểu hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu
cơ với nhau là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong các kỳ đại
hội, nhất là qua gần 30 năm đổi mới, tư duy xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta có sự phát triển và đổi mới mạnh mẽ.
Chúng ta ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn về hai nhiệm vụ chiến lược, cũng như những chủ trương,
biện pháp tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước. Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX) về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đã nêu nhận thức mới về nội hàm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn
định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới tiếp tục kế thừa nội hàm bảo vệ Tổ quốc đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX); đồng thời chỉ rõ quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là: Giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước; đồng thời luôn nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động
chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...
Phương châm chỉ đạo về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định rõ là kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến
lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở luật
pháp quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hoá, cô lập các phần tử, thế lực
ngoan cố chống phá Việt Nam; lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương,
xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật; chủ động đấu tranh với các âm mưu, hoạt động "diễn biến hoà bình" của các
thế lực thù địch, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập dưới bất kỳ hình thức nào...
Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta nhìn nhận toàn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu
kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược là phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính
trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế,
đối ngoại và các lĩnh vực khác, bảo đảm kinh tế xã hội phát triển ổn định, bền vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng-an ninh. Phát triển
kinh tế-xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; bảo đảm quốc phòng, an ninh trở thành một trong những
mục tiêu trọng yếu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội; kinh tế phát triển, các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết,
đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, thực hiện tốt công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, đối
ngoại được mở rộng sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn, mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Phương thức kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng được đổi mới và hoàn thiện theo hướng chủ động
gắn kết xây dựng với tự bảo vệ; kết hợp theo quy hoạch, kế hoạch của từng địa phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung
thống nhất của Trung ương; kết hợp theo khu vực, vùng lãnh thổ, ngành, lĩnh vực kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn quốc; kết
hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong các dự án đầu tư, quy hoạch phát triển các vùng, các
ngành kinh tế, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn chiến lược, các ngành kinh tế quan trọng.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định vấn đề tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu
vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh, tiếp tục phát triển quan điểm Đại hội lần thứ X, Đại hội lần thứ XI của Đảng
khẳng định: “Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Đây là sự kế thừa, vận dụng
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong lịch sử; nâng lên tầm
cao mới truyền thống, bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc”, huy động sức mạnh toàn dân tộc trong lịch sử dựng nước, giữ
nước hào hùng của cha ông. Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, Đảng ta đặc biệt chú trọng trang bị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiến thức
về quốc phòng, an ninh, đồng thời cung cấp những thông tin về âm mưu, hoạt động chống phá, nhất là chiến lược “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch cũng như những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong; các mối đe doạ an
ninh truyền thống và phi truyền thống. Kiến thức về quốc phòng, an ninh cần được giáo dục, bồi dưỡng thường xuyên trong
mỗi cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư. Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh
thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh,
làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như
chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị,
khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia”.
Để chủ động phòng ngừa tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng ta nhấn mạnh cần chăm lo xây dựng
Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; chủ động vận dụng tư tưởng, lý luận cách mạng đánh bại tư tưởng, lý luận phản động;
lấy chính nghĩa và sự thật đánh bại sự xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh để chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; sử dụng sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong công tác bảo
đảm an ninh chính trị nội bộ, phải quán triệt phương châm “chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính”; “giữ vững
bên trong” là nội dung cốt lõi của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của từng cơ quan, tổ chức,
khả năng “tự đề kháng” của mỗi cán bộ, đảng viên trước tác động của “diễn biến hòa bình” cũng như mặt trái của cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới.
Mọi âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch, phản động sẽ bị vô hiệu hóa, nếu
nội bộ các cơ quan, tổ chức, đoàn thể đoàn kết thống nhất, thật sự trong sạch, vững mạnh; nếu mỗi cán bộ, đảng viên vững
vàng bản lĩnh chính trị, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân. Bảo vệ và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định
bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cho thấy, Đảng lãnh đạo
là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, được nhân dân thương
yêu, đùm bọc và giúp đỡ, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân ngày càng phát triển, trưởng thành, luôn một lòng, một dạ
tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đoàn kết,
tận tụy trong công tác; dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính
trị, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thực sự là chỗ dựa tin cậy của
Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham mưu với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối, chiến lược bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; chủ động phòng ngừa, tấn công làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh
tế-xã hội và đối ngoại của đất nước.
Để bảo đảm lực lượng vũ trang luôn là công cụ sắc bén, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng
chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an nhân dân với Quân đội nhân dân và các ngành, các địa phương trong
thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Theo đó, cần tiếp tục chăm lo, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng,
trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân; đẩy mạnh phát triển công nghiệp
quốc phòng, công nghiệp an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần để Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân đủ sức hoàn thành tốt yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Lịch sử đã chứng minh, quy luật phát triển của đất nước ta là dựng nước luôn luôn đi đôi với giữ nước, xây dựng luôn luôn đi
đôi với bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất đất nước và có vị thế
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta nhất định sẽ giành thắng lợi trong
công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn.

Câu 3: Phân tích các quan điểm kết hợp kinh tế và an ninh quốc phòng
Trả lời:
1. Khái niệm: Trang 351
2. cơ sở lý luận và thực tiễn: Trang 352
3. Phân tích các quan điểm kết hợp kinh tế và an ninh quốc phòng
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) với tăng cường quốc phòng - an ninh (QP-AN) là quan điểm nhất quán,
xuyên suốt của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Quan điểm đó tiếp tục được Đại hội lần thứ
XI của Đảng đặt ra với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
Kết hợp kinh tế với QP- AN là hoạt động tích cực, chủ động gắn kết chặt chẽ hoạt động KT-XH và QP-AN trong một
chỉnh thể thống nhất, nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Đây là quy luật tất yếu khách quan đối với mọi
quốc gia. Đối với Việt Nam, đó còn là sự tiếp nối truyền thống đấu tranh dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc. Nhận
thức đúng quy luật khách quan đó, việc kết hợp kinh tế với QP- AN đã được Đảng ta nhất quán lãnh đạo, chỉ đạo bằng những
chủ trương sáng tạo, phù hợp trong từng thời kỳ của cách mạng.
Tại Đại hội lần thứ XI, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thế giới, khu vực, trong nước, yêu cầu nhiệm vụ xây
dựng và BVTQ trong thời kỳ mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định: phải đẩy mạnh kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP-AN. Điều đó
đã được thể hiện đồng bộ, nhất quán trong tất cả các văn kiện của Đại hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Phát triển KT-XH đi đôi với tăng cường sức mạnh QP-AN. Kết hợp
chặt chẽ kinh tế với QP-AN, QP-AN với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT-XH và
trên từng địa bàn.”1; Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát
triển KT-XH trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình dự án.”2; trong Phương
hướng phát triển đất nước 2011-2015, Đảng ta cũng đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc
phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên
giới, biển đảo.”.
Nghị quyết của Đại hội, chúng ta thấy rằng, mối quan hệ giữa kinh tế với QP-AN, mục tiêu, nội dung, phương thức kết
hợp kinh tế với QP- AN là những vấn đề lớn được Đảng ta đề cập và có sự bổ sung, phát triển. Về mối quan hệ giữa kinh tế
và QP-AN trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, KT-XH phát triển, tăng trưởng kinh tế không chỉ tạo cơ
sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực kinh tế cho tăng cường tiềm lực QP-AN, mà còn tạo cơ sở chính trị - xã hội (CT-XH) thuận
lợi cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân đối với nhiệm vụ BVTQ. Tại Đại hội lần này, nhận thức đó tiếp tục
được phát triển; theo đó, Đảng ta xác định: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống KT-XH là nền tảng vững
chắc của QP-AN”4. Nhận thức sâu sắc phát triển KT-XH là nền tảng để BVTQ, xác định nhiệm vụ trung tâm hiện nay là
phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, Đảng ta không hề coi nhẹ vai trò của QP-AN. Để đạt được mục tiêu tổng
quát, các tiêu chí, chỉ tiêu chủ yếu mà Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 đã đề ra, Đảng ta xác định vấn đề quan trọng
hàng đầu là: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định CT-XH, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”5. Đây là quan điểm hết
sức quan trọng của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với QP-AN trong quá trình kết hợp; đồng thời, là cơ sở định
hướng chỉ đạo giải quyết các mối quan hệ: xây dựng phải luôn gắn chặt với bảo vệ; chủ động hội nhập quốc tế phải đảm bảo
giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia; phát triển kinh tế phải tạo cơ sở để tăng cường sức mạnh QP-AN, tăng cường QP-AN
phải tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH.
Về nội dung kết hợp kinh tế với QP-AN, Đảng ta tiếp tục khẳng định phải kết hợp đồng bộ, toàn diện trong từng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình, dự án, chính sách phát triển KT-XH trên phạm vi cả nước và trên từng địa bàn,
địa phương, cơ sở. Tuy nhiên, việc kết hợp đó không dàn đều mà cần tập trung có trọng điểm vào các ngành, lĩnh vực kinh tế
mũi nhọn, then chốt, trên các hướng, khu vực, vùng lãnh thổ trọng yếu của quốc gia. Nghị quyết Đại hội XI đã nhấn mạnh
đến việc tổ chức kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN phải chú trọng đến vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển,
đảo. Bởi đây là những địa bàn trọng điểm còn khó khăn về KT-XH và hết sức nhạy cảm về QP-AN, nơi mà các thế lực thù
địch đang tập trung chống phá và cũng là nơi mà hiện nay “Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức
mạnh quốc phòng, an ninh... còn chưa chặt chẽ”6. Cùng với đó, để tăng cường sức mạnh QP-AN phải “Mở rộng phương
thức huy động nguồn lực xây dựng công nghiệp quốc phòng và nâng cao khả năng bảo đảm của công nghiệp quốc phòng.
Lồng ghép các chương trình để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo”7. Đây là tư duy nhạy bén,
có tầm nhìn chiến lược về kết hợp kinh tế với QP-AN, QP-AN với kinh tế của Đảng, nhằm thực hiện quyết tâm tăng cường
và nâng cao hiệu quả kết hợp trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Như vậy, việc thực hiện kết hợp kinh tế với QP-AN trong thời gian tới cần coi trọng kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa ba
yếu tố: bảo vệ, được bảo vệ và tham gia bảo vệ trong quá trình xây dựng, phát triển KT-XH, bảo đảm cho kinh tế phát triển
nhanh, bền vững; đồng thời, tạo nền tảng vững chắc cho tăng cường QP-AN, đáp ứng kịp thời, có hiệu quả các tình huống.
Các lĩnh vực, các ngành KT-XH cần phát huy trách nhiệm, nâng cao khả năng tự bảo vệ, phối hợp có hiệu quả khi được bảo
vệ và chủ động tham gia bảo vệ các lĩnh vực có liên quan. Đối với lực lượng QP-AN, ngoài nhiệm vụ đấu tranh, phòng
chống các hoạt động gây mất ổn định chính trị, phá hoại nền kinh tế, ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ, sẵn sàng đánh bại
chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển KT-XH và bảo vệ vững
chắc thành quả đã đạt được, cần chủ động, tích cực tham gia xây dựng cơ sở CT-XH và lao động, sản xuất, xây dựng kinh tế.
Trong thời kỳ mới, thực hiện kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN phải kết hợp toàn diện trên các hướng, các
khu vực, các địa bàn, giữa các ngành, các lĩnh vực, giữa ngoại lực và nội lực, giữa thời bình và thời chiến; đồng thời, phải cụ
thể trong từng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, trong từng giai đoạn, gắn với từng địa bàn lãnh thổ. Tuy nhiên,
trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần ưu tiên tập trung có trọng tâm, trọng điểm vào những địa bàn, lĩnh vực, ngành trọng
yếu, chi phối, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, phát huy tốt đặc điểm tự nhiên, điều kiện KT-XH, nguồn lực của từng địa
phương, đáp ứng tốt nhất yêu cầu phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN của từng địa phương, địa bàn chiến lược và cả nước.
Kết hợp kinh tế với QP-AN là chủ trương lớn và nhất quán của Đảng; đồng thời, là giải pháp chiến lược trong sự nghiệp
xây dựng và BVTQ. Những năm qua, chủ trương này đã và đang được Nhà nước, các cấp, ngành, địa phương cụ thể hoá,
triển khai thực hiện và đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định CT-XH, giữ vững định
hướng XHCN, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, phát triển đất nước, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới...
Tuy vậy, nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân về kết hợp kinh tế với QP-AN chưa thật sâu sắc và đầy đủ, còn có
biểu hiện tuyệt đối hoá về kinh tế, để lợi ích kinh tế lấn át, ảnh hưởng đến lợi ích QP-AN; cơ chế lãnh đạo, quản lý, điều
hành, tổ chức thực hiện có nơi, có lúc chưa nghiêm túc và còn sơ hở; việc triển khai thực hiện kết hợp kinh tế với QP-AN ở
một số ngành, địa phương còn thiếu tích cực và đồng bộ; nội dung, phương thức kết hợp chưa được xác định đầy đủ, chưa
theo kịp sự phát triển của cơ chế kinh tế thị trường...
Từ quan điểm về kết hợp kinh tế với QP-AN của Đảng và kết quả, kinh nghiệm đạt được, để đẩy mạnh kết hợp kinh tế với
QP-AN trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh CNH,HĐH, hội nhập quốc tế sâu rộng, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số
nội dung cơ bản sau:
Một là, tăng cường phổ biến, quán triệt các quan điểm của Đảng về kết hợp kinh tế với QP-AN, đẩy mạnh việc bồi
dưỡng kiến thức QP-AN và ý thức quốc phòng cho toàn xã hội; đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp ở các bộ, ngành,
đoàn thể từ Trung ương đến địa phương và cán bộ thuộc các thành phần kinh tế, nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức, trách
nhiệm trong việc tổ chức thực hiện. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục tư tưởng chỉ coi trọng lợi ích kinh tế, xem
nhẹ QP- AN và xu hướng công nghiệp quốc phòng khép kín. Trước mắt, tập trung làm tốt việc học tập, quán triệt và từng
bước cụ thể hoá, triển khai kết hợp kinh tế với QP-AN thông qua Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng, phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH và QP-AN trong thời kỳ mới; phát huy sức mạnh tổng hợp của
các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị trong tổ chức thực hiện.
Hai là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách có liên quan đến kết hợp kinh tế với QP-AN. Theo
đó, cần thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng về kết hợp kinh tế với QP-AN thành các văn bản quy phạm
pháp luật, quy định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, các cơ chế, chính sách đó phải chú trọng giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ,
giữa bảo vệ và được bảo vệ, giữa bảo đảm lợi ích quốc gia với thực hiện các cam kết quốc tế. Cùng với đó, cần sớm có các
biện pháp, chế tài bắt buộc thực hiện kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP-AN, QP-AN với kinh tế, gắn kết các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, chính sách phát triển KT-XH với các chiến lược, kế hoạch hoạt động của lĩnh vực QP-
AN; đồng thời, cần nghiên cứu xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể về kết hợp kinh tế với QP-AN trên từng miền, vùng
chiến lược và trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù cho việc thực hiện kết hợp phát
triển KT-XH với tăng cường QP-AN ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện kết
hợp kinh tế với QP-AN. Các cấp uỷ đảng cần tăng cường công tác lãnh đạo, gắn công tác lãnh đạo với kiểm tra việc thực
hiện kết hợp kinh tế với QP-AN của ngành mình, địa phương mình; tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời. Các
bộ, ngành, địa phương tiếp tục cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước để xây dựng
các quy hoạch, kế hoạch, chương trình hành động phù hợp trong thời kỳ mới. Trong quá trình thực hiện, cần tích cực đổi
mới, nâng cao chất lượng quy trình, phương pháp quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, từ khâu lập quy hoạch, kế
hoạch đến tổ chức thực hiện; xác định rõ chức năng, phạm vi, nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế và QP-AN của các cấp,
các ngành, làm cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát thực hiện.
Bốn là, làm tốt công tác phối hợp, hiệp đồng giữa các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp (thuộc mọi thành phần
kinh tế) có nghĩa vụ và lợi ích trong việc thực hiện sự kết hợp; đặc biệt, phát huy vai trò làm tham mưu chuyên trách về QP-
AN của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an theo quy chế, quy định của Chính phủ. Trong thời gian tới, cần tập trung ưu tiên nguồn
lực cho các dự án, chương trình phát triển KT-XH trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo; coi trọng tính “lưỡng
dụng” của các chương trình, dự án; tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng đã được
đầu tư, tích cực nghiên cứu, triển khai xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên hướng biển, đảo; tăng cường đầu tư đẩy
mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng; coi trọng phát triển kinh tế với củng cố QP-AN trong hoạt động kinh tế đối ngoại
đáp ứng yêu cầu xây dựng và BVTQ trong thời kỳ mới.

Câu 4: Những quan điểm chỉ đạo trong chương trình phòng chống tội phạm Quốc gia.
Trả lời:

1. Khái niệm: nêu ra 2 khái niệm:


1.1. Khái niệm tội phạm: trang 381
1.2. Khái niệm phòng chống tội phạm: ( tôi chưa tìm ra các bạn tìm thấy nhớ báo mình.)
2. cơ sờ lý luận: trang 381
3. tình hình thực tiễn ( thực trạng) hiện nay: trang 389.
4 Phân tích.
Những quan điểm chỉ đạo trong chương trình phòng chống tội phạm Quốc gia:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng, chống tội phạm. Giữ vững kỷ
cương pháp luật nâng cao ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp luật của các cấp, các ngành và trong cộng đồng dân cư, trong các
cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, nhà trường, gia đình và toàn xã hội trong giữ gìn, trật tự, an toàn xã hội.
- Chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công trấn áp, truy quét các loại tội phạm, tập trung ở các tuyến, địa bàn, lĩnh vực
trọng điểm, phức tạp.
- Kiềm chế và làm giảm sự gia tăng của tội phạm, nhất là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm mới,
không để tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
trong mọi tình huống, tạo môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ
cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả điều tra, khám phá, xử lý tội phạm nhất là các loại tội phạm nguy hiểm gây hậu quả rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Phấn đấu hàng năm đạt tỷ lệ điều tra, khám phá các vụ án trên 70%; các vụ án rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 90%.
- Kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức; tội phạm xuyên quốc gia, có yếu tố nước ngoài; tội phạm sử dụng
công nghệ cao; tội phạm về ma túy, tội phạm về môi trường. Không để hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức hoạt
động theo kiểu “xã hội đen”. Từng bước kiềm chế và hàng năm làm giảm các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm xâm hại
trẻ em và tội phạm do người chưa thành niên gây ra.
Năm 2012, 2013 và những năm tiếp theo tập trung nguồn lực, nhân lực chủ động phòng ngừa và đấu tranh làm giảm các loại
tội phạm đang nổi lên, diễn biến phức tạp như giết người do mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, cướp, cướp giật, cưỡng đoạt
tài sản, đòi nợ thuê, mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm tham nhũng, chống người thi hành công vụ...
- Chủ động phòng ngừa, điều tra, xử lý các loại tội phạm về kinh tế, tham nhũng trong các ngành, lĩnh vực trọng điểm; phát
hiện, ngăn chặn kịp thời các vụ án kinh tế, không để thất thoát tài sản lớn. Hạn chế phát sinh đối tượng truy nã mới, hàng
năm truy bắt, vận động trên 50% số đối tượng truy nã. Tập trung chuyển hóa địa bàn trọng điểm về an ninh, trật tự, đến năm
2015 giai quyết cơ bản tụ điểm phức tạp về tội phạm hình sự.
- Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động nhằm huy động sự tham gia tích cực của toàn dân trong công tác phòng, chống tội
phạm. Hàng năm, giảm từ 2% đến 3% tỷ lệ tái phạm tội trong số phạm nhân được đặc xá, mãn hạn tù; ít nhất 60% số đối
tượng vi phạm pháp luật hình sự, người được đặc xá tha tù, được bảo lãnh, giúp đỡ, cảm hóa, giáo dục tiến bộ tại cộng đồng
dân cư. Xã hội hóa công tác đào tạo, dạy nghề cho phạm nhân, phấn đấu đến năm 2015, có 100% phạm nhân trong độ tuổi
lao động, đảm bảo các tiêu chí được dạy nghề trong các trại giam.
- Xây dựng, thiết lập hệ thống chỉ số giám sát, đánh giá thực hiện Chương trình thống nhất trong toàn quốc.
- Tăng cường công tác thu thập, trao đổi thông tin đầy đủ, kịp thời về tình hình khởi tố, bắt giữ, xử lý tội phạm giữa các cơ
quan bảo vệ pháp luật phục vụ công tác chỉ huy, chỉ đạo phòng ngừa, điều tra, xử lý tội phạm. Nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan tư pháp; đảm bảo thống kê tội phạm đầy đủ, tập trung, thống nhất.
Xây dựng Trung tâm thông tin Quốc gia về tội phạm.
- Mục tiêu của Dự án: Củng cố hệ thống hồ sơ, tàng thư nghiệp vụ, chuyển đổi dữ liệu hoàn thành xây dựng hệ thống thông
tin, phấn đấu đến năm 2015, điện tử hóa 80% khai thác tra cứu. thông tin; xây dựng cơ sở dữ liệu ảnh mặt dung lượng đến
1,5 triệu đối tượng phạm tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội để khai thác nhanh
chóng các đối tượng nghi vấn, nhận diện ảnh xác định chính xác đối tượng cầm đầu, chủ mưu trong các vụ án đặc biệt
nghiêm trọng; số hóa tất cả các tài liệu quan trọng, đặc biệt quan trọng của lực lượng Công an nhân dân; điện tử hóa tàng thư
căn cước công dân tại thành phố Hà Nội phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và
các yêu cầu chính đáng của nhân dân.
- Nhiệm vụ chủ yếu:
+ Nâng cấp phần cứng, xây dựng phần mềm VAFIS hệ thống nhận dạng vân tay tự động xác định nhân thân, lai lịch của
người phạm tội phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Nâng công suất lưu trữ điện tử hóa quản lý lý
lịch và vân tay từ 2,5 triệu đối tượng lên 10 triệu đối tượng.
+ Đầu tư hệ thống công nghệ nhận dạng ảnh mặt.
+ Trang bị phương tiện chuyên dùng sao chụp tài liệu, bảo quản tư liệu băng đĩa từ.
+ Xây dựng cơ sở dự phòng của Trung tâm thông tin quốc gia về tội phạm.
+ Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ quản lý khai thác hệ thống thông tin tội phạm của Công an thành phố Hà Nội.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Công an.
- Cơ quan phối hợp: Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao.

Câu 5: Đường lối chính sách, nhiệm vụ trong đối ngoại của Đảng hiện nay.
Trả lời:
1. khái niệm đối ngoại là gì? (tôi chưa tìm thấy
2. Đường lối chính sách, nhiệm vụ trong đối ngoại của Đảng hiện nay:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra khi đất nước ta bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Đại hội Đảng đã
thông qua 3 văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Ba văn kiện quan trọng này nêu quan điểm, phương hướng cơ bản chỉ đạo cả lâu dài, trung hạn và ngắn hạn về đường lối
đối ngoại, tạo thành một thể thống nhất. Cương lĩnh nêu những định hướng, nguyên tắc lớn, mang tầm chiến lược cho cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược cụ thể hóa đường lối đối ngoại nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội giai đoạn 2011-2020. Phần đối ngoại trong Báo cáo chính trị đề cập nhiều định hướng cụ thể cho các hoạt động đối ngoại
5 năm tới. Từ Báo cáo chính trị đến Chiến lược và Cương lĩnh, đường lối đối ngoại của Đảng được đề cập phù hợp với
nhiệm vụ đối ngoại trong từng giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, nhưng thống nhất về mục tiêu, nguyên tắc, phương
châm và những định hướng lớn, lâu dài. Nội dung của phần đối ngoại trong các văn kiện đó hợp thành Đường lối đối ngoại
Đại hội XI.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ
trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Báo cáo Chính trị xác định:
“Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, đường lối đối ngoại Đại hội XI có những bổ sung, phát triển phù hợp với
tình hình mới, thể hiện ở những nội dung chính dưới đây:
Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “Vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi ích quốc gia
dân tộc, Đại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này
thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực
hiện các lợi ích đó.
Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Nói như vậy không có nghĩa Đảng ta chưa từng xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc
gia, dân tộc. Từ khi Đảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta. Nghị quyết 13 của Bộ
Chính trị khóa VI đã khẳng định “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập
trung sức xây dựng và phát triển kinh tế” . Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh “bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”
là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc .
Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn kiện Đại hội XI của Đảng có ý nghĩa rất quan
trọng, khẳng định rõ hơn định hướng: Đảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân
tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc
gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đại hội đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt
động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại
giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
Thứ hai, về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững
môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” . Phục vụ các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất nước là
nhiệm vụ nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Điểm mới trong phần đối ngoại của văn kiện Đại
hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh an ninh khi nêu rõ nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ”. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu rõ điều này
trong nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai trò của đối ngoại
trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại, tái khẳng định các nguyên tắc của đường
lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới, Đại hội XI nêu: “bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”. Bên
cạnh những nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Đại hội XI, phần định hướng giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới,
lãnh thổ, ranh giới trên biển và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các vấn đề tồn tại trên cơ
sở các “nguyên tắc ứng xử của khu vực”.
Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Đại hội khẳng định: thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối
ngoại của Đại hội XI là “hội nhập quốc tế” và “thành viên có trách nhiệm”.
Về hội nhập quốc tế, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được thông qua tại Đại hội X sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” . Với
chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả
chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội....
Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các
nguồn lực bên ngoài. Cùng với hội nhập kinh tế, hội nhập trong các lĩnh vực khác sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tới tri
thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước trở thành bộ phận hữu cơ của khu
vực và thế giới, chiếm vị trí ngày càng cao trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh
vực cũng tạo cho chúng ta khả năng tận dụng được sự tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hội nhập trong từng lĩnh vực.
Tuy nhiên, từ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực khác chuyển sang hội nhập quốc tế trên tất cả
các lĩnh vực đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới. Tác động tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất
ổn không chỉ về kinh tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta; các loại tội
phạm xuyên biên giới như: buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm không lành mạnh
và các thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia từ an ninh kinh tế đến
an ninh chính trị xã hội. Phạm vi và tốc độ lây lan của các cú sốc từ bên ngoài cũng gia tăng. Đồng thời, yêu cầu bổ sung và
hoàn thiện thể chế; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất
lượng cao v.v... sẽ ngày càng lớn.
Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội từ hội nhập quốc tế, nội hàm và lộ trình của
hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của
đất nước và bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc
XHCN và vị thế quốc gia.
Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố “muốn là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội Đảng
lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội Đảng lần thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ sung thêm
cụm từ là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt
Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu vực, đa
phương và toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung,
hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song phương. Nội hàm mới này là một trong những cơ sở để xác định một trong những ưu
tiên đối ngoại trong thời gian tới là “xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh”. Tuy vậy, trách nhiệm bao gồm những gì và
thực hiện trách nhiệm như thế nào luôn luôn cần được tính toán kỹ trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực hiện của
ta trong từng vấn đề, từng giai đoạn. Trách nhiệm cần được xác định theo các cấp độ: trách nhiệm đối với dân tộc của mình;
trách nhiệm đối với khu vực của mình; trách nhiệm đối với những vấn đề chung của nhân loại.
Thứ năm, về định hướng đối ngoại, bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục
đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, Đại hội XI nêu định hướng về: giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới lãnh
thổ; ưu tiên đối tác và định hướng quan hệ ASEAN; đối ngoại Đảng; ngoại giao nhân dân và; định hướng tổ chức thực hiện.
Về đối ngoại quốc phòng, an ninh, Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”,
“Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia và trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”. Với định hướng này, đối ngoại quốc phòng, an ninh sẽ tiếp tục
phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
phù hợp với bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Về định hướng tham gia trong ASEAN, Đại hội XI chỉ rõ: “Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây
dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn
khổ hợp tác ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương”. Định hướng này là bước phát triển cao hơn từ định hướng: “Thúc đẩy
quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước Châu Á-Thái Bình Dương” được thông qua tại Đại
hội X. Bước phát triển này thể hiện, Đảng ta khẳng định rõ Việt Nam là một thành viên trong ASEAN, Việt Nam tham gia
các hoạt động trong ASEAN với tư cách là một thành viên có trách nhiệm; chỉ rõ mục tiêu của các hoạt động của Việt Nam
trong ASEAN là xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN; xác định rõ đặc tính của Cộng đồng ASEAN mà Việt Nam phấn
đấu cùng các nước xây dựng là một cộng đồng vững mạnh, có quan hệ chặt chẽ với các đối tác bên ngoài và có vai trò ngày
càng quan trọng trong các cơ chế hợp tác ở khu vực; đồng thời khẳng định, phương châm tham gia hợp tác ASEAN là chủ
động, tích cực và có trách nhiệm. Với định hướng này, việc tham gia trong ASEAN trở thành một trong những trọng tâm
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, ngang với “quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng chung
biên giới”.
Thứ sáu, về triển khai các hoạt động đối ngoại, Đại hội XI nêu: “Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại”. Khi
hội nhập quốc tế mở ra tất cả các lĩnh vực thì việc triển khai đối ngoại tất yếu phải toàn diện và để các hoạt động này không
chồng chéo, không triệt tiêu lẫn nhau thì việc triển khai phải được thực hiện đồng bộ. Tính toàn diện của đối ngoại Việt Nam
được quy định bởi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối
ngoại; tính toàn diện trong mục tiêu của chính sách đối ngoại và; sự đa dạng của các mối quan hệ đối ngoại trong quá trình
hội nhập.
Triển khai đồng bộ và toàn diện các hoạt động đối ngoại, nói cách khác là xây dựng một nền đối ngoại toàn diện, sẽ tạo nên
xung lực tổng hợp của các lĩnh vực, các loại hình, các kênh đối ngoại, nhưng cũng tạo nên một số thách thức mới. Nếu không
có kế hoạch tổng thể và nếu không có sự chỉ đạo thống nhất và phối hợp nhịp nhàng giữa các kênh, các lĩnh vực đối ngoại thì
sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực và làm suy giảm hiệu quả của các hoạt động đối ngoại.
Coi triển khai đồng bộ và toàn diện là phương châm ưu tiên trong triển khai đối ngoại, Đại hội XI sẽ tạo ra nhận thức và
đồng thuận lớn hơn trong Đảng và nhân dân về tính chất mới của sự nghiệp đối ngoại cũng như nêu rõ hơn yêu cầu tham gia
tích cực và chủ động hơn của mọi lực lượng trong hoạt động đối ngoại, đồng thời đưa tới những bước tiến mạnh hơn theo
hướng thống nhất chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, các Bộ/ngành và địa phương.

You might also like