You are on page 1of 102

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


----------------

PHẠM THỊ THANH THỦY

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT


TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC
CÁCH MẠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------

PHẠM THỊ THANH THỦY

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT


TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC
CÁCH MẠNG
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức

HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1
I. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................... 2
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 5
IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................. 6
V. Kết cấu luận văn .................................................................................... 6
CHƯƠNG I. VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
1930-1945 VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG TÔ HOÀI ....................... 7
1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam 1930-1945 ....................................... 7
1.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương Tô Hoài ............................................ 14
1.2.1. Quan niệm của Tô Hoài về văn chương nghệ thuật ......................... 14
1.2.2. Những thành công trong sự nghiệp văn chương Tô Hoài ................ 17
Tiểu kết .................................................................................................... 22
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG .......... 23
2.1. Khái niệm về nhân vật ....................................................................... 23
2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng
tháng Tám ................................................................................................ 23
2.2.1. Nhân vật nông dân, thợ thủ công .................................................... 24
2.2.2. Nhân vật trí thức ............................................................................. 30
2.2.3. Hình tượng loài vật ......................................................................... 32
2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài
trước Cách mạng tháng Tám .................................................................... 35
2.3.1. Nhân vật gắn với môi trường lao động, sinh hoạt ........................... 36
2.3.2. Nhân vật được chú trọng miêu tả ở ngoại hình, hành động, lời nói ..... 37
2.3.3. Nhân vật được xây dựng dựa trên những chi tiết về phong tục ....... 41
2.3.4. Sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc để miêu tả nhân vật ................... 43
Tiểu kết .................................................................................................... 45
CHƯƠNG III. ĐẶC ĐIỂM KẾT CẤU, TÌNH HUỐNG
TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ......46
3.1. Kết cấu .............................................................................................. 46
3.1.1. Khái niệm kết cấu ........................................................................... 46
3.1.2. Kết cấu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng ............... 47
3.1.2.1. Kết cấu theo trình tự thời gian ..................................................... 47
3.1.2.2. Kết cấu đảo lộn trình tự thời gian ................................................ 49
3.1.2.3. Kết cấu với kết thúc bất ngờ và để ngỏ ........................................ 52
3.1.2.4. Kết cấu đơn giản đan xen với trữ tình ngoại đề .......................... 54
3.2. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám .......56
3.2.1. Khái niệm về tình huống................................................................. 56
3.2.2. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám ......56
3.2.2.1. Tình huống đời thường ................................................................ 57
3.2.2.2. Tình huống bỏ làng ra đi ............................................................. 58
3.2.2.3. Tình huống chia li ........................................................................ 59
Tiểu kết .................................................................................................... 60
CHƯƠNG IV. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG
TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM .. 61
4.1. Ngôn ngữ........................................................................................... 61
4.1.1. Khái niệm ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương ............................ 61
4.1.2. Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng
tháng Tám ................................................................................................ 61
4.1.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình ........................................................ 63
4.1.2.2. Ngôn ngữ dân giã ........................................................................ 69
4.1.2.3. Ngôn ngữ đa thanh ...................................................................... 72
4.1.2.4. Sử dụng nhiều câu văn ngắn gây ấn tượng .................................. 74
4.2. Giọng điệu trần thuật ......................................................................... 77
4.2.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật ................................................. 77
4.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng ..... 78
4.2.2.1. Giọng điệu dí dỏm ....................................................................... 78
4.2.2.2. Giọng điệu dửng dưng ................................................................. 81
4.2.2.3. Giọng điệu trữ tình man mác ....................................................... 83
4.2.2.4. Giọng điệu suồng sã, tự nhiên ..................................................... 86
Tiểu kết .................................................................................................... 88
KẾT LUẬN ............................................................................................. 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 91
PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Trong dòng văn học hiện đại Việt Nam, Tô Hoài được đánh giá là một
cây đại thụ. Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 1996. Nhà phê
bình Vương Trí Nhàn đã nhận xét : “So với các cây bút đương thời, Tô Hoài
có lẽ là nhà văn giàu chất chuyên nghiệp bậc nhất. Sống đến đâu viết đến
đấy. Việc viết lách đối với ông là một thứ lao động hàng ngày”. Giáo sư Hà
Minh Đức cho rằng “Tô Hoài là một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”.
Quả thật, Tô Hoài đã miệt mài sáng tác 70 năm nay và đã cho ra đời 160 đầu
sách. Ông thành công ở nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, truyện
đồng thoại, tiểu thuyết, kịch, hồi kí, chân dung văn học. Nghiên cứu nghệ
thuật văn chương Tô Hoài sẽ giúp chúng ta đánh giá được đầy đủ hơn những
đóng góp của ông với nền văn học nước nhà.
Tô Hoài nổi tiếng với những tác phẩm như truyện dài Dế Mèn phiêu lưu
kí, Quê người, Quê nhà, Đêm mưa, Xóm giếng, tiểu thuyết Nhớ Mai Châu, Kẻ
cướp bến Bỏi, hồi kí Cát bụi chân ai, Tự truyện, tập truyện ngắn Tây Bắc...
Không chỉ thành công ở truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, ở thể loại
truyện ngắn ngay từ ngày đầu cầm bút, Tô Hoài đã tạo được cho mình một
phong cách riêng. Truyện ngắn của ông hấp dẫn người đọc ở mọi lứa tuổi
với lời kể chuyện hóm hỉnh, tài quan sát và miêu tả, cách thể hiện nhân vật
sinh động. Chuyện về một làng quê làm nghề dệt cửi với biết bao lo toan,
xuôi ngược mà cuộc sống vẫn vất vả bộn bề đã để lại nhiều cảm xúc trong
lòng người đọc.
Ngày nay, truyện ngắn vẫn là một thể loại chiếm vị trí quan trọng trong
đời sống văn học. Nó có sức phát triển bền bỉ qua năm tháng. Vì cuộc sống
công nghiệp bận rộn, gấp gáp, nhiều người yêu văn đã tìm đọc truyện ngắn. Họ
vẫn thấy ở truyện ngắn những bài học cuộc sống, những tâm tình về số phận

1
con người, cả định hướng tương lai. Các nhà văn tâm huyết với nghề cũng
đang lao động không ngừng để tìm hướng phát triển mới của truyện ngắn.
Với đề tài “Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách
mạng”, chúng tôi muốn có cái nhìn đầy đủ, trọn vẹn về những đóng góp của
Tô Hoài trong quá trình vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam
hiện đại.
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tô Hoài bước vào con đường văn học khá sớm. Ông cầm bút và nổi
danh từ trước năm 1945. Đến nay, Tô Hoài vẫn là nhà văn viết nhiều, dẻo
dai, sung sức ở các thể loại. Truyện ngắn Tô Hoài đã được giới phê bình văn
học chú ý ngay từ những ngày đầu cầm bút.
Các truyện ngắn của Tô Hoài trước năm 1945 được nhà xuất bản Hoa
Tiên Sài Gòn in lai với tựa đề “Chuột thành phố”, năm 1967 đã khẳng định
“Các truyện ngắn O chuột, Gã chuột bạch, Con dế mèn, Đực, Cu Lặc, Tuổi
trẻ, Một cuộc bể dâu… Đó là những tập truỵên ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho
lối văn dí dỏm, tinh nghịch của nhà văn Tô Hoài. Hầu hết những tập truyện
ngắn này, tuy cái vỏ bên ngoài nó mang nhãn hiệu là truỵên loài vật, nhưng
thực chất bên trong nó là sự phản ánh trung thực của truyện loài người, sống
giữa giữa cuộc đảo điên của xã hội ngày nay…”[28, tr 1]
Những ý kiến đánh giá phê bình về truyện ngắn của Tô Hoài còn
được tập trung trong cuốn Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, nhà xuất bản
Giáo dục, năm 2007 được tái bản nhiều lần, do Phong Lê (giới thiệu) và Vân
Thanh (tuyển chọn).
Phong Lê cho rằng: “Đặc sắc của Tô Hoài trước năm 1945 là truyện
ngắn, gồm truyện ngắn về loài vật và truyện ngắn về cảnh và người một
vùng quê ven đô- quê ngoại và cũng là quê sinh - nơi tác giả đã sinh sống
suối đời cho đến hôm nay.” [31, tr 30]. Ngòi bút của Tô Hoài đã miêu tả sự
thay đổi của cuộc sống xung quanh mình những năm trước năm 1945.

2
Vũ Ngọc Phan nhận ra ngay cả những truyện ngắn viết về loài vật của Tô
Hoài người đọc cũng thấy thấp thoáng cuộc sống của người dân quê: “Dưới
con mắt của Tô Hoài, những nhách chó nhỏ nằm vật lên nhau, rên ư ử mà
ngủ kia. Chính là “những đứa trẻ nằm mơ, những đứa trẻ khoai củ ở nhà
quê”... chị gà mái “là một người đàn bà giỏi giang, đa tình thì nhất mực đa
tình, mà khi vướng vào cái bổn phận dạy dỗ nuôi nấng con trẻ lại đáng nên
một bậc mẹ hiền gương mẫu.” [31, tr 64-65]
Khi nghiên cứu về Tô Hoài, Phan Cự Đệ nhận xét: “Tô Hoài có một
khả năng quan sát đặc biệt, rất thông minh, hóm hỉnh và tinh tế. Khả năng
này giúp anh thành công khi miêu tả những hiện tượng bên ngoài, dễ trực
tiếp quan sát và cảm thụ; cảnh vật thiên nhiên, sinh hoạt hằng ngày, phong
tục lễ nghi, thế giới loài vật, vv... nhưng khả năng này rõ ràng là không đủ
khi nói về đời sống tâm lí bên trong, biện chứng tâm hồn, những quy lật bản
chất xã hội. Mặt khác, giống như một số nhà văn hiện thực phê phán chuyển
mình sang phương pháp hiện thực chủ nghĩa, Tô Hoài miêu tả khá thành
công các quan hệ gia đình, làng xóm, bạn bè, trai gái...”[31, tr 101]
Năm 2006, Mai Thị Nhung cho ra đời cuốn sách Phong cách nghệ
thuật Tô Hoài và bài viết Đặc điểm thế giới nhân vật Tô Hoài trên tạp chí
văn học. Trong đó, tác giả cũng đã thu thập rất nhiều ý kiến về nghệ thuật
viết văn Tô Hoài [38, tr 8, 9,10].
Phan Cự Đệ nhận thấy “Tô Hoài có khả năng quan sát đặc biệt, rất
thông minh, hóm hỉnh và tinh tế”. Nguyễn Đăng Mạnh cũng đồng quan
điểm “Nhà văn có khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc sảo, tài hoa”. Hà
Minh Đức trong Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài khẳng định: “Tô Hoài có
một năng lực phát hiện và nắm bắt nhanh chóng thế giới khách quan”. Trần
Hữu Tá chỉ rõ năng lực đặc biệt của Tô Hoài chính là “nhãn quan phong tục
đặc biệt nhạy bén sắc sảo”. Nguyễn Văn Long nhấn mạnh: “Ở Tô Hoài, cảm
quan hiện thực nghiêng về phía sinh hoạt và phong tục”. Vương Trí Nhàn quả

3
quyết: “Tô Hoài lõi đời, sành sỏi, con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt”.
Nguyễn Đăng Điệp khái quát: “Cái nhìn không nghiêm trọng hóa là nét trội
trong cảm quan nghệ thuật của Tô Hoài”. Bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Mạnh
trong bài viết Tô Hoài với quan niệm “con người là con người”, tác giả khẳng
định: “Tô Hoài quan niệm con người là con người, chỉ là con người, thế thôi”.
Về ngôn ngữ giọng điệu, Vân Thanh nhận định: “Ngôn ngữ Tô Hoài thường
ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động”. Phan Cự Đệ cũng
có trùng một quan điểm như vậy: “Tô Hoài đã chú ý học tập ngôn ngữ nghề
nghiệp và ngôn ngữ địa phương”, “Trong tác phẩm của Tô Hoài, nhìn chung
ngôn ngữ của quần chúng đã được nâng cao, nghệ thuật hoá”. Cùng với Phan
Cự Đệ, Bùi Hiển thấy rằng: “Văn phong Tô Hoài chủ yếu bằng những nét
nhẹ, mảnh, nhuần nhị, tinh tế, đôi khi hơi mờ ảo nữa”. Nguyễn Đăng Điệp
cũng nhận thấy những nét tiêu biểu về lối kể chuyện của Tô Hoài: “Viết về
cái của mình, quanh mình là định hướng nghệ thuật và cũng là kênh thẩm
mỹ của Tô Hoài. Đúng hơn, đây là yếu tố cốt lõi làm nên quan điểm nghệ
thuật của ông. Nó khiến ông cho văn Tô Hoài có được phong cách, giọng
điệu riêng. Đó là một giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh và tinh quái”.
Năm 2007, cuốn Truyện ngắn Việt Nam lịch sử-thi pháp- chân dung”
do tác giả Phan Cự Đệ chủ biên đã viết về quá trình ra đời, phát triển của
truyện ngắn Việt Nam cùng với những gương mặt nhà văn tiêu biểu. Trong
đó, Tô Hoài đựơc nhắc đến cùng với các tác giả tên tuổi như Nguyễn Công
Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao... Người viết đã nhấn mạnh một số đặc trưng
nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài như “lối viết thông mình, hóm hỉnh, thậm
chí tinh quái, một đôi nét tâm lí và triết lí đượm sắc thái buồn pha chút mùi
vị chua chát kiểu Nam Cao”; “Những con vật trong tác phẩm Tô Hoài có nét
gì đó giống người, quen thuộc với người. Tô Hoài bắt rất nhanh những nét
đặc trưng trong tính cách của chúng.”; “Truyện ngắn Tô Hoài chịu nhiều
ảnh hưởng của văn học dân gian. Nhưng lối dẫn truyện, kết cấu truyện,

4
giọng điệu trần thuật cũng như các thủ pháp khắc hoạ tính cách nhân vật đã
thuộc về truyện ngắn hiện đại”; “Trong số truyện, cũng giống như Nam Cao
trong Chí Phèo, Tô Hòai đã sử dụng ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu
của người kể chuyện hoà lẫn với giọng điệu nhân vật”[5, tr 309, 310]...
Như vậy, những đặc điểm truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng đã
được đề cập trong một số bài viết và các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và có tính hệ
thống. Chính vì thế, chúng tôi đã lựa chọn đề tài cho luận văn của mình là
“Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng”.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng
Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám
2. Phạm vi
Tuyển tập Tô Hoài, nhà xuất bản Văn học năm 1987, do giáo sư Hà
Minh Đức sưu tầm, tuyển chọn gồm 26 truyện ngắn.
1. Nhà nghèo 14. Ông dỗi
2. Lụa 15. Vàng phai
3. Một đêm gác rừng 16. Buổi chiều trong nhà
4. Chớp bể mưa nguồn 17. Khách nợ
5. Lá thư tình đầu tiên 18. Ông giăng không biết nói
6. Đi tắm đêm 19. Vợ chồng trẻ con
7. Hết một buổi chiều 20. Người đàn bà có mang
8. Một chuyến định đi xa 21. Dấy binh lấy lau làm cờ
9. Một người đi xa về 22. Con gà trống ri
10. Bóng đè 23. Đôi ri đá
11. Nhà có ma 24. Một cuộc bể dâu
12. Mùa ăn chơi 25. O chuột
13. Giữa thành phố 26. Gã chuột bạch

5
IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
1. Nhiệm vụ
Với đề tài nghiên cứu như trên, chúng tôi mong muốn:
+ Tìm ra những đặc điểm nổi bật về truyện ngắn của Tô Hoài trước
Cách mạng.
+ Đánh giá được những đóng góp của ông trong sự nghiệp văn chương
của dân tộc và đặc biệt là mảng truyện ngắn trước Cách mạng.
2. Phương pháp
+ Phương pháp phân tích tác phẩm.
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp tổng hợp, thống kê
+ Phương pháp nghiên cứu liên ngành như ngôn ngữ, văn hóa...
V. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn
gồm có bốn chương
Chương I. Vài nét về diện mạo truyện ngắn Việt Nam 1930-1945 và
sự nghiệp văn chương Tô Hoài.
Chương II. Đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn
của Tô Hoài trước Cách mạng.
Chương III. Đặc điểm kết cấu và tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài
trước Cách mạng.
Chương IV. Đặc điểm ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Tô
Hoài trước Cách mạng.

6
CHƯƠNG I
VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 1930-1945
VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG TÔ HOÀI

1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam 1930-1945


Truyện ngắn Việt Nam ra đời từ thời kì văn học trung đại. Theo dòng
thời gian, thể loại này ngày càng phong phú, đa dạng, hoàn thiện, chiếm một
vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà. Có thể nói, giai đoạn 1930-
1945, truyện ngắn Việt Nam đã có bước tiến nhảy vọt, với nhiều phong cách
đa dạng, độc đáo.
Nhìn lại thời kì trước đó, ta mới thấy sự phát triển của truyện ngắn Việt
Nam 1930-1945.
Truyện ngắn Việt Nam thời trung đại mang nội dung và ảnh hưởng của
lối kể chuyện dân gian. Giai đoạn này còn chịu ảnh hưởng của lối văn tự sự
trong các bộ sử, lối văn ghi chép sử ít có tính văn học. Truyện có lối kể
chính xác, khách quan, lời văn ngắn gọn đơn giản, ít miêu tả tâm lí của nhân
vật, mang tính ước lệ tượng trưng. Truỵên ngắn trung đại là bước mở đầu,
đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
Nhà văn Vũ Tú Nam cho rằng: “Truyện ngắn ở nước ta đã có từ lâu. Đó là
các ký cổ, truyện cổ tích…Học trong các truyện ngắn cổ như Truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ, Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông… Những
truyện này đáng được học tập với thái độ trân trọng vì nó rất sinh động, súc
tích và sáng tạo. Truyện ngắn của ta nặng nề về kể và thường rất ngắn gọn,
độc đáo” [ 50, tr 63]
Bước sang thế kỉ XX, chữ quốc ngữ bắt đầu thể hiện ưu thế trong việc
mở rộng công chúng văn học. Với kĩ thuật in ấn, báo chí ngày càng phát
triển đã giúp cho các tác phẩm đến với công chúng dễ dàng và rộng lớn hơn,
chứ không bị bó hẹp như trước. Thể loại truyện ngắn đã có nhiều thay đổi

7
đáng kể. Bước đầu, truyện ngắn Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của văn học
dân gian, văn học trung đại Việt Nam và Trung Quốc nhưng với sự xâm
nhập mạnh mẽ của văn hoá phương Tây, truyện ngắn thời kì này đã có màu
sắc mới. Truyện ngắn dân tộc đã dần dần chuyển mình hoà vào xu thế chung
của thời đại, vào quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà, vượt qua
những ảnh hưởng và hạn chế của các thế kỉ trước đó.
Sự ra đời của truyện ngắn hiện đại Việt Nam được đánh dấu bằng tác
phẩm Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887). Đây là
truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ Quốc ngữ, khởi đầu cho hàng loạt
truyện ngắn bằng chữ quốc ngữ ở giai đoạn tiếp theo. Truyện đã đưa đến
nhiều cái mới mẻ cho công chúng. Truyện được kể ngắn gọn, sáng rõ, cốt
truyện, tình tiết, chi tiết không quá phức tạp về một chuyện tình tay ba (thầy
Phiền, vợ và bạn thân). Tác phẩm được viết theo lối kể chuyện ở ngôi thứ
nhất, kết cấu theo quy luật tâm lí chứ không theo trình tự thời gian, kết thúc
bằng bi kịch của nhân vật chứ không phải kết thúc có hậu như những câu
chuyện dân gian.
Vào những năm 20 của thế kỉ XX, truyện ngắn Việt Nam đã có nhiều
bước đi táo bạo với sự phát triển của nhiều khuynh hướng văn học.
Truyện ngắn viết theo khuynh hướng đạo lí gắn liền với các tên tuổi như
Nguyễn Bá Học, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Chánh Sắt…Bản thân họ
xuất thân là nhà Nho. Trước lối sống thực dụng của xã hội thị thành đang bị
Âu hoá, nền đạo đức Nho phong trong các gia đình phong kiến đã dần bị
phá vỡ. Những tác giả nhà Nho cảm thấy đau lòng. Họ lên tiếng bênh vực
đạo đức truyền thống. Quan niệm văn dĩ tải đạo vẫn chưa thoát khỏi các
phẩm của họ. Các tác giả chưa chú trọng xây dựng nhân vật có cá tính được
thể hiện ở chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ, hành động. Nhân vật thực chất là một
mẫu hình để nhà văn thuyết giảng về đạo đức, vì vậy trở nên khô cứng, gò
bó, không có sức sống.

8
Khuynh hướng yêu nước và cách mạng gắn liền với tên tuổi Phan Bội
Châu và Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm của Phan Bội Châu có thể xem là
những đoản thiên tiểu thuyết bổ sung cho chính sử, cho lịch sử cách mạng
Việt Nam. Phan Bội Châu sáng tác để đề cao anh hùng, liệt nữ, để cổ vũ cho
phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc. Ông nổi tiếng với những tác phẩm
Sùng bái giai nhân (1907), Chân tướng quân (1917), Tước Thái thiền sư
(1917), Tái sinh sinh (1918), Truyện Phạm Hồng Thái (1925). Phan Bội
Châu còn chịu ảnh hưởng của bút pháp viết sử, sử bình của truyện kể trung
đại. Tuy nhiên, truyện của ông đã có những đổi mới, có những dấu hiệu của
truyện ngắn hiện đại. Tác giả đóng vai là người kể chuyện, đứng ra dẫn dắt
câu chuyện. Kết cấu truyện theo trình tự thời gian nhưng cũng có kết cấu
phá vỡ thời gian tuyến tính như Tái sinh sinh. Truyện kí của Nguyễn Ái
Quốc được đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Cộng Sản Pháp và báo Người
cùng khổ của Liên hiệp các dân tộc thuộc địa từ năm 1922 đến năm 1925.
Các tác phẩm nổi tiếng của Người vào thời kì này được độc giả luôn ghi nhớ
như Con rùa, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Lời than vãn
của bà Trưng Trắc, Con người biết mùi hun khói…Phương pháp sáng tác
của Nguyễn Ái Quốc được các nhà nghiên cứu như Nguyễn Đức Nam, Hà
Minh Đức… khẳng định đó là phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc nửa đầu những năm hai mươi,
Phan Cự Đệ viết: “Đó là những truyện ngắn cô đọng, vừa mang ý nghĩa
tượng trưng, có sức khái quát lớn. Đó là những truyện được kể theo ngôi thứ
nhất hoặc ngôi thứ ba sử dụng ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện, có
khi sử dụng ngôn ngữ đa thanh nhiều nhân vật (bình phẩm về Va-ren). Đó là
những truyện ngắn tính cách, những truyện có cốt truyện căng thẳng giàu
kịch tính và những truyện có màu sắc luận đề”[6, tr 281].
Khuynh hướng hiện thực có Phạm Duy Tốn và Nguyễn Công Hoan.
Sống chết mặc bay (1918) của Phạm Duy Tốn kể về nỗi khổ của những

9
người dân và cảnh ăn chơi sa đoạ của tên quan hộ đê. Phạm Duy Tốn cũng
sử dụng nghệ thuật đối lập, tăng cấp kiểu như Ván bài bi-a của nhà văn Pháp
Alphonse Daudet để tố cáo sự vô trách nhiệm của quan lại thời bấy giờ,
đồng thời bộc lộ sự cảm thông trước nỗi thống khổ của nhân dân.
So với thời kì trước đó, truyện ngắn những năm 1930-1945 phát triển
rực rỡ, phong phú hơn. Tư duy hệ tư sản dần dần thắng thế tư tưởng phong
kiến. Cái tôi được giải phóng, nhà văn phát huy sức sáng tạo của mình. Vì
vậy, thời kì này xuất hiện nhiều cây bút độc đáo. Hàng loạt các gương mặt
tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi
Hiển, Thạch Lam, Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Thạch Lam, Hồ
Dzếnh, Đỗ Tốn… Các khuynh hướng văn học ngày càng phân hoá rõ rệt và
đấu tranh, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Đỗ Tốn, Nguyễn Tuân tiêu biểu
cho phong cách lãng mạn trữ tình.
Thạch Lam viết truyện với nghệ thuật tinh tế nhất là việc sử dụng tương
phản và hài hoà giữa các âm thanh và các vùng ánh sáng. Câu chuyện để lại
trong tâm hồn người đọc những dư vị đằm thắm của quê hương và sự cảm
thương những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù nhoè đi
trong bóng tối của một vùng quê tù đọng. Thạch Lam ít sử dụng cốt truyện
giàu kịch tính. Ông nghiêng về những cốt truyện tâm lí, hướng dến thế giới
bên trong con người, đặc biệt là thế giới ấn tượng và cảm giác như Hai đứa
trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Sợi tóc.
Cũng giống như Thạch Lam, Thanh Tịnh thiên về miêu tả thế giới nội
tâm, cảm giác. Truyện ngắn của ông thường chỉ có một tình huống. Cái kết
bao giờ cũng là một kỉ niệm buồn man mác: kỉ niệm ngày đầu tiên đi học
[Tôi đi học], kỉ niệm những ngày ở làng Mĩ Lí [Quê mẹ]. Lời văn giàu chất
thơ, nhẹ nhàng, tha thiết bày tỏ một niềm cảm thông với con người nghèo

10
khổ. Bên cạnh đó, những sáng tác của ông còn đậm chất truyền kì, những
truyện kinh dị, kì bí [Ngậm ngải tình trầm].
Văn học lãng mạn còn xuất hiện một cái Tôi độc đáo- Nguyễn Tuân.
Suốt đời đi tìm và tôn thờ cái Đẹp, Nguyễn Tuân đến với các nhân vật tài
hoa, tài tử, những thú chơi tao nhã trong văn hoá ứng xử, trong văn hoá ẩm
thực. Vang bóng một thời, ông đề cao những thú chơi cổ xưa. Uống trà, chơi
hoa là một thứ nghệ thuật trang trọng, cầu kì [Chén trà trong sương sớm,
Thạch Lan Hương]. Lối chơi chữ thể hiện khí phách của người quân tử,
những con nguời có tài, có tâm [Chữ người tử tù]. Nhân vật của Nguyễn
Tuân có cái ngông, lập dị không phải là những con người bình thường. Dù
đứng ở phía nào thiện hay ác, nhân vật đều có tài đặc biệt hơn người, được lí
tưởng hoá, được phóng đại theo thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn. Truyện
của Nguyễn Tuân vẫn được kể theo trật tự thời gian tuyến tính, ở ngôi thứ
ba. Cái tài của ông là xây dựng nhân vật. Ông nắm bắt những nét đặc trưng
nhất trong tính cánh của nhân vật, miêu tả những hành động theo cách riêng
hết sức độc đáo..
Trong dòng văn học hiện thực phê phán, có những tên tuổi như Nguyễn
Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Kim Lân…
Nguyễn Công Hoan là người đi đầu trong phương pháp hiện thực phê
phán. Ông được coi là lá cờ đầu của văn học hiện thực phê phá những năm
1930-1945. Nguyễn Công Hoan viết về những câu chuyện về con người và
xã hội Việt Nam thời bấy giờ, với một lối kể chuyện hóm hỉnh hài hước có
tính chất châm biếm. Ông đả kích bọn quan lại và chế độ thực dân. Những
mảng đề tài xã hội trước đây, Nguyễn Công Hoan nhanh chóng chuyển sang
đề tài phản ánh các sự kiện chính trị thời cuộc. Những truyện ngắn của ông
tiểu biểu cho một thứ văn vui, thứ văn mà có lẽ từ khi nước Việt Nam có
tiểu thuyết viết theo lối mới, người ta chỉ thấy ở ngòi bút của ông mà thôi.
Những tác phẩm đầu tay của ông lấy từ đề tài những điều mắt thấy tai nghe

11
như Kiếp hồng nhan, Sóng vũ môn, Cụ đồ Ba, Cô hàng nước. Trần ai tri
kỷ… Thái độ căm ghét bọn quan tân học, luyến tiếc những nhà Nho cũ được
thể hiện qua Sóng vũ môn, cảm tình với những người ăn ở chung thuỷ nhân
hậu được thể hiện qua Cô hàng nước, Trần ai tri kỉ. Có truyện giàu yếu tố
hiên thực, tiến bộ [Sóng vũ môn], có truyện còn yếu tố lãng mạn, bảo thủ
[Kiếp hồng nhan]. Nguyễn Công Hoan khai thác đề tài từ tin tức thời sự
hàng ngày, hoặc mô tả những việt thật mà ông mắt thấy tai nghe như Oằn tà
roằn, Thật là phúc, Lập Gioòng, Răng chó của nhà tư sản, Hai thằng khốn
nạn… Chất hiện thực thấm đẫm trong tác phẩm của ông. Chủ đề tập trung
công kích bọn quan lại, địa chủ, tư sản những xấu xa của xã hội thực dân
nửa phong kiến. Truyện có nhiều chi tiết sinh động, hấp dẫn, tạo nên tiếng
cười châm biếm đả kích vào tầng lớp thị dân và nhiều kết thúc bất ngờ ảnh
hưởng truyện dân gian.
Nam Cao góp phần quan trọng trong quá trình hiện đại hoá văn học
với kiểu kết cấu tâm lí, sử dụng một thứ ngôn ngữ đa thanh, giàu chất tạo
hình. Nam Cao quan tâm đến những người nông dân bị xã hội thực dân nửa
phong kiến đẩy vào con đường bần cùng hoá, lưu manh hoá. Chí Phèo trong
tác phẩm cùng tên đã để lại nhiều nhức nhối trong lòng người đọc. Một anh
Chí nông dân, hiền lành, chân chất bị Bá Kiến, một tên lí trưởng của làng
Vũ Đại vì ghen tuông đã đẩy vào con đường tù tội. Nhà tù thực dân đã tha
hoá, biến Chí Phèo trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Bi kịch của Chí là bi
kịch không được thừa nhận là con người mặc dù Chí đã tha thiết trở về con
đường lương thiện. Hiện tượng người nông dân bị lưu manh hoá như Chí
Phèo được lặp đi lặp lại như một quy luật qua một số nhân vật như Năm
Thọ, Binh Chức, Trương Rự, Trạch Văn Đoành. Nam Cao còn phản ánh bi
kịch của người trí thức nghèo. Họ có khát vọng to lớn làm nên tác phẩm để
đời nhưng những nỗi lo toan cơm áo gạo tiền cứ ghì sát đất, nhà văn buộc
phải cho ra đời những tác phẩm nhạt nhẽo, nghèo nàn để mưu sinh hàng

12
ngày. Họ sống trong nỗi tuyệt vọng, đau khổ [Đời Thừa, Trăng Sáng]. Nam
Cao đã đưa ra những nguyên tắc sáng tác: “Văn chương không cần đến
người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai
khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
Tô Hoài được đánh giá là nhà văn có sở trường về truyện ngắn.
Truyện của ông mang hương vị đồng quê với những phong tục tập quán lâu
đời của người dân quê vùng ven ngoại thành. Đằng sau cái màu sắc phong
tục, ngòi bút của Tô Hoài đã miêu tả rất rõ một xã hội đói khổ của những
người nông dân nghèo, những người thợ thủ công bị phá sản, những mối
tình cảm dang dở và những cuộc ra đi vì mưu sinh. Ông có tài phác hoạ chân
dung các kiểu người ở vùng quê ngọai thành Hà Nội thời đó. Một ngòi bút
sắc sảo tinh tế và hóm hỉnh khi tả về những phong tục sinh hoạt, chân dung
và hành vi nhân vật.
Nguyên Hồng là cây bút truỵên ngắn xuất sắc trong thời kì Mặt trận
Dân chủ. Truyện ngắn Nguyên Hồng đã làm sống dậy cuộc đời lam lũ, cơ
cực, bần cùng của những người lao động nghèo ở các vùng ngoại ô, ngõ
hẻm thành phố Hải Phòng. Ông sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản,
đối lập như trong các truyện Giọt máu, Cô gái quê, Nhà bố Nấu, Hai dòng
sữa, Cái bào thai… Có những truyện mang tính chất luận đề rõ rệt và nhiều
chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng, có những truyện kết cấu dàn trải theo
chiều dài cuộc đời bi thảm của nhân vật.
Có thể nói, truyện ngắn Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng
tháng Tám đã dần dần khẳng định được vị trí riêng của mình trên con đường
hiện đại hoá văn học nước nhà. Nhiều cây bút, nhiều phong cách mới lạ.
Những tác phẩm văn chương không dừng ở nói chuyện đạo lí, lịch sử mang
trong mình hơi thở của cuộc sống. Những câu văn dài ngắn hết sức linh
hoạt, giống như lời ăn tiếng nói của nhân dân không bị gò bó như những câu

13
văn biền ngẫu trong truỵên ngắn thời trung đại. Nhân vật và chi tiết trong tác
phẩm cũng đời thường không khuôn sáo, ước lệ như trước. Đặc biệt các nhà
văn bộc lộ cái tôi của mình một cách độc đáo rõ nét. Vì vậy, mỗi tác phẩm là
một cá tính sáng tạo riêng, một cách cảm nhận riêng về cuộc sống. Trong số
những tác giả viết truyện ngắn có tên tuổi thời kì này, Tô Hoài được coi là
môt cây bút xuất sắc, đóng góp không nhỏ cho sự thành công của truyện
ngắn nước nhà.
1.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương Tô Hoài
1.2.1. Quan niệm của Tô Hoài về văn chương nghệ thuật
Tô Hoài sinh năm 1920, tên thật là Nguyễn Sen. Ngoài tên thật khi
viết báo, ông còn dùng những bút danh khác như: Mắt biển, Mai Trang, Duy
Phương... Quê nội ông ở thị trấn Kim Bài huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây
nhưng nhà văn lại sinh ra và lớn lên và rất gắn bó với quê ngoại ở làng
Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông Cũ (nay là phường Nghĩa Đô quận
Cầu Giấy, Hà Nội. Cái tên Tô Hoài đã trở nên gần gũi với bạn đọc suốt 70
năm qua.
Sớm đến với văn chương, ban đầu Tô Hoài cũng chịu ảnh hưởng của
xu hướng sáng tác lãng mạn đương thời, cây bút trẻ ấy cũng bắt đầu sự
nghiệp bằng những bài thơ lãng mạn, nhưng sau này ông chuyển hướng.
Trong Tự truyện, Tô Hoài tâm sự: “Chưa bao giờ tôi bắt chước theo truyện
của Khái Hưng, mặc dầu tôi thích đọc những truyện ấy. Bởi lẽ giản dị: viết
truyện viển vông giang hồ kỳ hiệp, ai cũng có thể tưởng tượng, nhưng viết
cái giống thật thì nhân vật trong truyện của các ông nhà giàu con quan có
đồn điền như thế, tôi không viết những kiểu người ấy, không bắt chước
được” [23, tr 218]. Lời thổ lộ chân tình ấy của Tô Hoài đã bộc lộ rất rõ quan
niệm của ông về văn chương. Tô Hoài không thi vị hoá đời sống, không viết
về những đôi lứa “lá ngọc cành vàng”. Tô Hoài chỉ viết những điều mà ông
nhìn thấy ở quanh mình, ở chính mình: “Đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng

14
và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả những sáng tác của tôi, ý nghĩ tự nhiên
của tôi bấy giờ là viết những sự thực xảy ra trong nhà, trong làng quanh
mình” [23, tr 218]
Tô Hoài sống gần gũi quen thuộc với những người bình dân, những
con người lam lũ, nghèo khổ, nhếch nhác. Nhà văn từng bộc bạch: “Đời
không suông nhạt của mảnh cổ tích nhăng cuội, ở những chuyện trai gái
thông thường đem bôi nhèm trên giấy. Tôi có thể viết vô vàn truyện mơ
mộng hoa lá. Mà tôi viết không được. Xưa nay, tôi chỉ quen với những gì
vụn vặt, nhem nhọ” [31, tr 118]
Quan niệm văn chương phải bắt nguồn từ cuộc sống đã chi phối toàn
bộ các sáng tác của Tô Hoài. Bên cạnh đó, ở thể loại truyện ngắn, Tô Hoài
cũng có suy nghĩ riêng.
Nhiều tác giả văn học đã có những quan điểm rất rõ ràng về nghệ
thuật truyện ngắn. Môôm cho rằng: “Truyện ngắn là sự trình bày một sự
kiện theo trình tự diễn biến của câu chuyện , hoặc theo trình tự tâm tình.
Nhờ sự thống nhất có kịch tính, sự trình bày đó có thể loại trừ tất cả những
gì không cần thiết để bộc bạch suy nghĩ”[ 37, tr 84]. Nhà văn Bùi Hiển khi
bàn về truyện ngắn cũng khẳng định: “Truyện ngắn lấy một khoảnh khắc
trong cuộc đời một con người mà dựng lên. Có khi nhân vật đặt trước một
vấn đề phải băn khoăn suy nghĩ lựa chọn, quyết định. Có khi chỉ là một
cảnh sống và làm việc bình thường, trong đó nhân vật biểu lộ ý chí tình
cảm của mình. Có khi ở những hành động mãnh liệt, những tình tiết éo le…
Cũng có khi chỉ là tâm trạng của một nỗi bồn vui, một ý tình chớm nở.
Nhưng phải chọn khoảnh khắc mà nhân vật thể hiện đầy đủ nhất”[37, tr 17].
Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Truyện ngắn mang rất rõ cái chất của
người viết, nhất là cái chất quả quyết, đột ngột… Truyện ngắn vốn có
nhiều vẻ” [37, tr 27].

15
Nguyễn Công Hoan thì chú ý nhiều hơn đến việc xây dựng truyện
ngắn. Theo ông, “Truyện ngắn không phải là truyện mà là vấn đề được xây
dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu
dùng tiếng có cân nhắc… Muốn truyện ấy là truyện ngắn, chỉ nên lấy một
trong ngần ấy ý làm ý chính, làm chủ đề cho truyện” [50, tr 25]
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán đã nhận định
về truyện ngắn như sau: “Thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng
văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội.
Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện
ngắn thích hợp với người tiếp nhận đọc nó liền mạch không nghỉ… Cốt truyện
của truỵên ngắn thường diễn ra trong không gian hạn chế, chức năng của nó
nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Kết
cấu của truyện ngắn không phân chia thành nhiều tầng bậc mà thường xây
dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Bút pháp tường thuật của
truyện ngắn thường là chấm phá. Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện
ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều
ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết”[18, tr 134,135].
Là người có sở trường viết truyện ngắn, ông đã có những quan điểm
rõ ràng nhất quán về thể loại này trong suốt cuộc đời hoạt động văn chương
của mình.
Trong Sổ tay viết truyện ngắn, ông đã từng bày tỏ niềm say mê của
mình với truyện ngắn: “Tôi thích truyện ngắn, bao giờ cũng tìm đọc truyện
ngắn bởi nó là thể loại có tính chiến đấu mạnh mẽ”. Tô Hoài còn quan niệm
truyện ngắn là “cưa lấy một khúc đời sống” nhưng không thể vì ngắn gọn
mà làm mất đi “chất khoẻ khoắn của đời sống” [22, tr 8]. Ông đã hiểu được
hiểu được tính hiệu quả của truyện ngắn. Theo Tô Hoài, với truyện ngắn,
người viết phải biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ. Truyện ngắn là
nơi nhà văn có thể thử tìm phong cách cho mình.

16
Tô Hoài đã từng trăn trở về “truyện ngắn hay nhất”, làm thế nào để
viết ngắn “rút ngắn, rút ngắn nữa. Cho chặt, cho chắc, cho tinh tế”[21, tr
100]. Và tác phẩm ấy phải chứa đựng những suy nghĩ của người viết về
cuộc đời: “Cái truyện ngắn hay nhất bao giờ cũng là truyện sẽ viết. Người
viết thấy ra cái khó ấy, cái đau khổ ấy, niềm hy vọng không cùng ấy trong
lúc cầm bút” [21, tr 101]. Như với các thể loại khác, Tô Hoài khẳng định
người viết truyện ngắn cũng phải để lại cho bạn đọc một dư âm nào đó trong
lòng, tránh lối viết nhạt nhẽo: “Chúng mình làm nghề viết, thành nghề viết
rồi, có thể viết cái gì viết cũng có thể được in, ít nhất thì cũng tàm tạm sạch
nước cản. Nhưng, anh cứ tưởng tượng xem, một sáng tác ra đời, bạn đọc
xong rồi, dư luận im lặng. Nghe như hòn gạch ném xuống giếng, sau tiếng
rơi bõm vào lòng giếng, là cái im lặng mênh mông. Đối với người cầm bút
không có gì ghê rợn hơn, thất vọng hơn gặp phải cảnh như thế”[22, tr 65]
Quan niệm của Tô Hoài cũng giống với các nhà viết truyện ngắn
khác. Song Tô Hoài nhấn mạnh hơn yếu tố ngắn gọn. Đồng thời, ông khẳng
định một tác phẩm truyện ngắn có giá trị phải phản ánh hiện thực cuộc sống
và sự sáng tạo, hoài bão của nhà văn.
Như vậy, truyện ngắn trước hết phải súc tích. Người viết không được
kể dài dòng. Các chi tiết hết sức tinh lọc, gây ám ảnh với người đọc, tạo nên
ấn tượng mạnh mẽ và những liên tưởng. Dung lượng và cốt truyện tập trung
một vài biến cố, trong một khoảng thời gian nhất định. Nhân vật thường
đựơc làm sáng tỏ thể hiện một trạng thái tâm thế con người thời đại. Chi tiết
đóng vai trò quan trọng mang tính biểu tượng. Truyện ngắn có khả năng
miêu tả sinh động cuộc sống và những vui buồn và khát vọng của con người.
1.2.2. Những thành công trong sự nghiệp văn chương Tô Hoài
Năm 1940, ông chính thức vào nghề văn từ truyện ngắn Nước lên.
Năm 1941, ông viết Dế Mèn phiêu lưu kí để lại một tiếng vang lớn trên văn
đàn Việt Nam cho đến tận bây giờ. Tác phẩm này được giới phê bình trong

17
nước và ngoài nước đánh giá rất cao tiêu biểu là Gô-lôp-nep, Xô-lô-khin
(1963), Trần Đăng Xuyền (1984), Nguyễn Lộc, Đỗ Quang Lưu (1990). Họ
cho rằng tác phẩm đã thể hiện tài “quan sát, nghiên cứu tỉ mỉ thế giới sinh
vật nhỏ bé của nhà văn [31, tr 454].
Từ đó cho đến nay,Tô Hoài đã hơn bảy mươi năm lao động miệt mài
không nghỉ. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ, hơn
160 đầu sách đã xuất bản. Nhiều tác phẩm của Tô Hoài đã được dịch ra các
tiếng nước ngoài như Nga, Trung Quốc, Pháp, Ba Lan, Séc, Đức, Bungari,
Cu Ba, Mông Cổ, Nhật Bản… Một số tác phẩm được đạt giải như Truyện Tây
Bắc, giải nhất tiểu thuyết của Hội văn nghệ Việt Nam, năm 1956. Miền Tây,
giải thưởng Hội nhà văn Á-Phi, năm 1970. Quê nhà, giải A giải thưởng Hội
văn nghệ Hà Nội, năm 1980. Ông còn đạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt 1
năm 1996.
Tô Hoài là một trong số ít nhà văn hiện đại nước ta đạt con số kỷ lục
trong sự nghiệp sáng tác của mình. Ông đã trải qua những mốc lịch sử và
văn học đặc biệt: trước và sau Cách mạng tháng Tám; trong chiến tranh và
trong hòa bình; trước và sau thời kỳ đổi mới văn học. Sáng tác của Tô Hoài
đa dạng về đề tài và thể loại: từ đề tài miền ngược đến đề tài miền xuôi; từ
truyện ngắn đến tiểu thuyết, truyện đồng thoại đến kịch bản phim. Ở đề tài
và thể loại nào, ông cũng ghi lại những dấu ấn riêng.
Là một trong những nhà văn thành công ở thể loại hồi kí, tự truyện,
Tô Hoài được người đọc biết đến qua những tác phẩm Cỏ dại, Tự truyện,
Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Những tác phẩm này ghi lại những chặng
đường đời khác nhau của nhà văn. Cỏ dại ghi lại kí ức về một thời thơ dại
với những kỉ niệm buồn trong những “ngày cũ buồn bã”. Tự truyện tái hiện
lại chặng đường thời niên thiếu từ lúc còn là học sinh lớp nhất trường Yên
Phụ cho đến khi phải nghỉ học, lang thang khắp đất Kẻ Chợ đến cảng Hải
Phòng tìm việc, rồi vào nghề văn, tiếp tục những ngày “phiêu lưu kiểu kiến

18
bò cho qua cơn trống trải” cùng các nghệ sĩ đến những ngày tháng sôi nổi
hoạt động cách mạng trong phong trào Văn hoá cứu quốc. Đến Cát bụi chân
ai và Chiều chiều, những chi tiết đời tư mờ dần, tác giả không kể nhiều về
mình, về gia đình mình. Nội dung chủ yếu của tác phẩm là những câu
chuyện về cuộc đời, về bạn bè, đồng nghiệp, về những người đã từng gặp gỡ
trong công tác xã hội hoặc ngoài đời thường…
Tô Hoài còn thử sức trong lĩnh vực sân khấu nghệ thuật. Ông viết
kịch bản phim: Vợ chồng A Phủ (NXB Văn học), Mường Giơn (Tạp chí Văn
nghệ Quân đội), Kim Đồng (NXB Kim Đồng), Ông Gióng (NXB Văn hóa),
Trâu húc (NXB Hà Nội), Xây thành Cổ Loa (NXB Kim Đồng), Sự tích
Thăng Long (báo Văn nghệ). Tô Hoài còn tham gia viết kịch nói, kịch múa
rối: Thạch Sanh (NXB Kim Đồng), Con mèo lười (NXB Thanh Niên), Ông
Gióng (Hội Văn nghệ Hà Nội). Hầu hết những đóng góp của ông đã gây
tiếng vang lớn.
Tên tuổi Tô Hoài được nhắc nhiều ở thể loại truyện dài. Trong suốt
bảy năm sáng tác, Tô Hoài đã để lại một khối lượng khá lớn. Bao gồm các
truyện Dế Mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941, NXB Tân Dân),
Giăng Thề (1943, NXB Tân dân), Xóm giếng ngày xưa (1943, NXB Bách
Việt), Đêm mưa (mất bản thảo), Lão đồng chí ( 1949, NXB Cứu quốc),
Mười năm (1957, NXB Hội nhà văn), Miền Tây (NXB Văn học, in hai lần –
giải thưởng Hoa Sen năm 1970), Hội nhà văn Á-Phi, Tuổi trẻ Hoàng Văn
Thụ (NXB Thanh Niên), Những ngõ phố, người đường phố (NXB Thanh
niên), Đảo hoang, Chiếc nỏ thần (NXB Kim Đồng), Quê nhà (1983, NXB
Tác phẩm mới, Giải thưởng của Hội Văn nghệ Hà Nội)... Các truyện dài của
Tô Hoài đã tạo dựng nên một bức tranh đời sống xã hội rộng lớn, lôi cuốn
người đọc bởi một bản sắc dân tộc rất đậm đà và độc đáo, một thế giới nhân
vật bình dị, đời thường, một lối kể chuyện “tự nhiên mà thủ thỉ cái tiếng nói
hồn nhiên của bản thân cuộc sống” [31, tr 24]. Trong số đó, những tác

19
phẩm nổi tiếng của ông đựơc người đọc nhắc đến nhiều nhất là Quê người,
Mười năm, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Đảo hoang, Chuyện nỏ
thần. Ở Quê người, Vũ Ngọc Phan nhận thấy Tô Hoài là “một nhà tiểu
thuyết có con mắt quan sát sâu sắc. Những tính tình u ẩn phô diễn ra ở
những cử chỉ rất nhỏ của người dân quê, những thói hủ bại, những ngôn ngữ
kỳ quặc của người dân quê và cả những cách sống cùng cực rất đáng thương
của người dân quê, ông đều cặn kẽ” [31, tr 53]. Dưới ngòi bút tả chân của
Tô Hoài, ngoài những cảnh làm lụng chật vật của người dân quê, người ta
thấy rất nhiều thói tục có thể là những tài liệu chân thực cho những nhà xã
hội học muốn khảo sát về phong tục.
Tô Hoài để lại dấu ấn đặc biệt ở thể loại truyện ngắn. Thực sự ông đã
trở thành cây bút truyện ngắn độc đáo, hấp dẫn.
Trước năm 1945 là truyện ngắn gồm các tập truyện về loài vật và truyện
ngắn về cảnh và người ở một vùng quê ven đô, nơi tác giả sinh sống suốt đời
cho đến ngày hôm nay. O chuột (1943, nhà xuất bản Tân dân) là cả một tập
truyện gồm 8 truyện về loài vật, lấy tên O chuột để gọi chung. Vũ Ngọc Phan
viết “Tô Hoài tỏ ra không giống một nhà văn nào trước ông và không giống
một nhà văn nào mới nhập tịch làng văn như ông. Truyện của ông có tính
chất nửa tâm lý, nửa triết lý mà các vai lại là loài vật... O chuột là truyện
ngắn đầu tiên của Tô Hoài và cũng là tác phẩm tiêu biểu cho lối văn đặc biệt
của ông, một lối văn viết dí dỏm, tinh quái đầy những phong vị và màu sắc
thôn quê. Cái tinh ma và cái xác thực có lẽ gặp nhau ở chỗ này” [31, tr 63].
Nhà nghèo ( là một tập truyện ngắn viết về nông thôn. Tô Hoài
thường nhìn nông thôn thiên về phía phong tục với cặp mắt hóm hỉnh, sắc
sảo. Có lẽ đây là chỗ hấp dẫn đặc biệt của ngòi bút Tô Hoài: ông nói về tục
tảo hôn (Vợ chồng trẻ con), tục đòi nợ (Khách nợ), tục cúng bái mê tín, cả
đến “tục” vợ chồng cãi nhau, làng xóm nhiếc móc nhau (Nhà nghèo, Mẹ
già...).

20
Phong Lê nhận định rằng “Trước Cách mạng, truyện của Tô Hoài in
rất đậm cảm quan nghệ thuật và giọng điệu riêng của ông- một cây bút sung
sức, đứng bên Nam Cao, làm nên dấu ấn đặt trưng cho trào lưu văn học hiện
thực Việt Nam những năm tiền Cách mạng” [31,tr 29].
Truyện ngắn viết về loài vật được đánh giá là sở trường của Tô Hoài.
Nhà văn có khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo, có tấm lòng thực sự yêu mến ,
thực sự sống trong thế giới nhân vật của mình. Vì thế những con vật gần gũi
thân thuộc như con mèo, con chó, con ngan, con vịt, con chuột… cũng có
tâm tình, có cá tính và có cả số phận nữa. Tô Hoài là người biết tạo yếu tố
truyện, phát hiện yếu tố truyện trong đời sống tự nhiên của loài vật. “Đường
dây truyện không nhiều mầu vẻ phức tạp mà đôi lức đơn giản: đôi ri đá làm
tổ, chú gà trống ri đi tìm người bạn tình, một đời vênh vang và tàn phai của
Gà chọi, cuộc phiêu lưu của Dế Mèn. Và chính trên mạch truyện tự nhiên
ấy, ngòi bút của tác giả đã biến hoá tạo nên những lí thú cho các “nhân vật
hỗn tạp và đa dạng” của mình. Ngoài bút của Tô Hoài đã phát hiện cái ngộ
nghĩnh, lố lăng, khoe mẽ, đa điệu của một số loài vật” [31, tr 469]
Truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng là những trang viết đầy hấp
dẫn, thấm đẫm chất phong tục. Ông viết về làng quê Nghĩa Đô, một vùng
ngoại thành Hà Nội. Ở đó, người nông dân còn có nghề thủ công dệt lụa, dệt
lĩnh, ở nơi đó có những phong tục tập quán của một làng quê truyền thống.
Tô Hoài có một khả năng đặc biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ địa phương.
Tiếng nói của trong xóm, trong làng, của anh em được đưa vào tác phẩm Tô
Hoài nhẹ nhàng đã giúp ông trở thành nhà văn có biệt tài viết về những cảnh
nghèo nàn của dân quê.
Cách mạng tháng Tám thành công, Tô Hoài là nhà văn nhiệt tình tham
gia cách mạng và ông cũng viết rất sôi nổi về đời sống của người dân vùng
tạm chiến, vùng tự do, về quá trình giác ngộ cách mạng của quần chúng nhân
dân. Các truyện ngắn như Đồng chí Hùng Vương, Nà Luộc, Tào Lường, Công

21
tác xa… Tất cả đều hướng về mảng đề tài chung là cuộc sống của các dân tộc
ít người ở những triền núi Cứu quốc, căn cứ địa cách mạng. “Núi cứu quốc
tuy nghệ thuật còn đơn giản nhưng có thể đem lại cho ta một hình ảnh tương
đối đúng về đồng bào miền núi, khác hẳn những truyện đường rừng tượng
tượng của một số nhà văn lãng mạn hồi xưa… Tác phẩm cho ta hiểu con
người miền núi đúng với bản chất của họ là những con người thật thà, chất
phác, chung thuỷ, có một lòng tin mãnh liệt ở cách mạng. Tác giả đặc biệt
nhấn mạnh lòng trung thành với cách mạng của những con người miền núi
khi họ đã giác ngộ.” [32, tr 71]. Tập truyện Tây Bắc, nhà văn Bùi Hiển nhận
xét về nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài trong Vợ chồng A Phủ là “thiên về
thị giác, một thứ thị giác tinh nhạy, đầy màu sắc và ấn tượng, cảm xúc, nói
rộng ra hơn nữa là thiên về cảm giác, về cảm nhận trực quan cụ thể, về biểu
hiện các sắc thái tình cảm gần gũi, thầm kín” [32, tr 103]

Tiểu kết
Có thể nói, Tô Hoài là một cây đại thụ trong nền văn học hiện đại Việt
Nam. Ông đã dành trọn cụôc đời cống hiến cho sự nghiệp văn chương. Tô
Hoài đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ khiến người đọc vô cùng cảm
phục. Ở mảng đề tài nào, thể loại nào, nhà văn cũng có con đường đi riêng,
tạo nên được phong cách độc đáo. Trong đó, đặc biệt là thể loại truyện ngắn,
Tô Hoài đã ghi lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. So với truỵên
ngắn trước Cách mạng, truyện ngắn sau Cách mạng của Tô Hoài có mở rộng
hơn về phạm vi đề tài và nhận thức của một người cầm bút cách mạng đặc
biệt. Tuy nhiên, truỵên ngắn được viết trước Cách mạng tháng Tám cũng có
một phong vị riêng, đánh dấu những thành công trong cuộc đời sáng tác của
nhà văn Tô Hoài, giúp ông khẳng định được vị trí của mình trong nền văn
học Việt Nam, là một trong số những cây bút hàng đầu bên cạnh các tên tuổi
như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Thạch Lam…

22
CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG

2.1. Khái niệm về nhân vật


“Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong
những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn
từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có đôi khi là các con vật, các loài
cây, các sinh thể hoang đường được gắn cho những đặc điểm giống với con
người” [2, tr 249]
Có thể nói rằng, nhân vật chính là linh hồn của tác phẩm, là con đẻ
tinh thần của nhà văn. Thông qua thế giới hình tượng trong tác phẩm, nhà
văn bộc lộ cảm quan của mình trước cuộc sống, gửi gắm vào nhân vật
những tư tưởng mơ ước khát vọng hay những tâm sự thầm kín của mình.
Nhân vật cũng là nơi để nhà văn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lí tưởng
thẩm mĩ của chính bản thân mình về con người. Bản thân Tô Hoài cũng cho
rằng: “Nhân vật là nơi duy nhất, tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong
một sáng tác”[19, tr 45]. Mỗi một nhà văn tuỳ theo cảm quan hiện thực đời
sống, tuỳ theo quan niệm của mình mà có những kiểu nhân vật riêng.
2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng
tháng Tám
Tô Hoài quan niệm chỉ viết về những điều mà ông nhìn thấy ở quanh
mình, ở chính mình, viết những sự thực xảy ra trong nhà, trong làng quanh
mình. Ngòi bút Tô Hoài hướng đến những con người, những câu chuyện của
làng quê ông.
Viết về người dân quê, nhà văn có cái nhìn giản dị và xác thực về họ.
Theo ông, con người trước khi là một ai đó thì trước hết phải là chính mình,
phải là mình với tất cả những gì mà tạo hoá đã sinh ra chúng ta. Có xấu, có

23
tốt, có dở, có những thói tật của riêng mình. Con người không phải là thánh
nhân cũng không phải là các gì đó siêu phàm. Bên cạnh những tính tốt con
người con người còn có những hạn chế, thậm chí những thói xấu. Con người
có những phần cao cả nhưng cũng có gì khuất lấp ẩn sâu trong tâm hồn.
Vì vậy, nhân vật trong truyện ngắn của ông không xa lạ, họ là những
người nông dân, người thợ thủ công, những người trí thức sống ở làng
Nghĩa Đô, ngay cả đến loài vật cũng hết sức bình thường, gần gũi trong
cuộc sống hàng ngày.
2.2.1. Nhân vật nông dân, thợ thủ công
Nhân vật chiếm đa số trong những trang truyện ngắn của Tô Hoài
trước Cách mạng là những người nông dân thợ thủ công. Họ là hình ảnh
người dân làng Nghĩa Đô, là người chính người thân trong gia đình Tô Hoài.
Không giống như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài viết về
người nông dân, người thợ thủ công, ông không đi vào những sự kiện quan
trọng, những tình huống gây bất ngờ, hay những cuộc đấu tranh giai cấp.
Dưới con mắt của Tô Hoài, những người nông dân, những người thợ thủ
công đều là con người bình thường, có suy nghĩ, tâm trạng vận động theo
quy luật đời thường. Có lẽ vì vậy, nhân vật của ông không phải là những con
người hành động kiên cường giống như chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất
Tố, những kẻ quá ngờ nghệch dốt nát như con mẹ nuôi trong Đồng hào có
ma của tác giả Nguyễn Công Hoan. Thực sự, nhân vật của Tô Hoài là những
con người đời thường. Họ phải chịu cảnh đói nghèo, thất nghiệp vì những
biến động của xã hội. Họ có mặt tốt mặt xấu, có những suy nghĩ hết sức vụn
vặt, những lo toan tính toán trong cuộc sống thường nhật.
Thời ấy, làng Nghĩa Đô, người dân sống chủ yếu bằng nghề dệt cửi,
sự sống loanh quanh buộc vào mấy khung cửi mọt. Xung quanh Tô Hoài là
cảnh sống khó khăn túng quẫn của gia đình, của làng xóm nghề dệt thủ công
dần dần phá sản. Tô Hoài đã ghi lại cảnh gia đình trong Tự truyện. Những

24
ngày chợ phiên hàng ế hàng, không khí gia đình càng trở nên nặng nề: “Nhà
tôi, ngày chợ không sinh chuyện này thì chuyện khác. Hàng ít lại xấu, không
đều, không ai mua. Thế là xảy ra xô xát giữa bà ngoại tôi và các dì tôi. Ông
ngoại tôi ngồi uống rượu. Cuối cùng, bao giờ ông tôi cũng vác gậy đuổi
đánh tất cả. Mọi người chạy toán loạn đêm mới về (...) Sáng hôm sau, lại
vẫn cãi vã, làm ầm cả xóm”...
Những kí ức ấy đã ăn sâu trong tâm trí của cậu bé Tô Hoài. Vì vậy,
chúng ta hiểu tại sao những nhân vật nông dân và thợ thủ công trong truyện
ngắn của ông đựơc quan tâm nhiều nhất và đều là những con người nghèo
đói, khốn khổ, cùng cực.
Trong Đôi ri đá, Tô Hoài đã dựng lại khung cảnh làng quê tiêu điều.
Người ta ăn tết Nguyên Đán trong thầm lặng, trong nỗi buồn tê tái. “Bởi vì
làng có một nghề làm lĩnh lụa thì lĩnh lụa lại ế. Nhiều khung cửi phải xếp
lại. Những guồng tơ bỏ trống. Vắng tiếng lóc cóc van vỉ của cái vày tơ.
Ngày phiên không có bác thợ cửi say rượu, mặt đỏ gay, đi chệnh choạng
trên đường cái làng. Công việc chẳng có ... Người ta phải quẩy đất thuê, đi
làm thợ nề và ra Hà Nội kéo xe tay. Có những kẻ liều lĩnh đã ký giấy “mộ
phu” sang “Tân thế giới” [ 27, tr 314].
Cái nghèo cũng ám ảnh gia đình anh Duỵên trong Nhà nghèo. Suốt
đời hai vợ chồng anh Duyện chỉ biết cắm mặt làm lụng tối ngày mà gia đình
anh vẫn nghèo chẳng đủ ăn. Nhà nghèo đến mức chẳng có một cái gì đáng
giá, thậm chí không có một chút lửa. “Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra
tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì mọi người trong nhà đi ngủ cùng với mặt
trời, không cần đèn.”. Cơn mưa mùa hạ xối xả, rào rào, trắng xoá gợi bao
sung sướng. Họ nghĩ đến bữa cơm “có thịt nhái nướng thơm phức chấm với
muối ớt, nhai ròn rau ráu, ngon tuyệt.” Kết thúc truyện bất ngờ khiến người
đọc vô cùng đau xót, cái Gái đứa con gái đầu của hai vợ chồng anh Duyện
đã bị rắn cắn chết trong tư thế “hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lưng nó

25
trần xám ngắt. Chân nó co queo lại”. Phải chăng ngay trong lúc nguy hiểm,
nó vẫn mơ tưởng đến món thịt nhái nướng, đến cảnh gia đình đầm ấm quanh
món ăn này. Anh Duyện đau đớn và nghĩ đến cái khổ của con gái mình:
“bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Người nó có bao
nhiêu xương sườn, giơ hết cả ra.”
Cái nghèo đeo đẳng cuộc sống của dân quê, đe doạ đến hạnh phúc của
của họ. Trong Chớp bể mưa nguồn, anh Mi vì quá nghèo mà không đủ tiền
lấy vợ. Cuối cùng một ngừơi phụ nữ đã theo về nhà, làm vợ anh. Bà Móm
vô cùng phản đối vì bà cho rằng đó là người đàn bà đốn mạt, không cưới
xin, lại đàng hoàng đến nằm vạ nhà bà. Nhưng bà cũng xót xa vì nhận ra
hoàn cảnh gia đình mình: “Bà không có tiền ấy vợ cho nó à? Đâu bà có
muốn thế. Chẳng qua là cái ông trời cay đắng kia chưa muốn cho bà khá...
Ngày xưa, bà đi lấy chồng, nghèo khó lắm. Vậy mà hàng xóm cũng được
nhai bỏm bẻm miếng trầu. Làng nước cũng nhận được năm chục viên gạch
thay tiền cheo...” Tình huống “nhặt” vợ cũng đựơc đề cập trong truyện Vợ
nhặt của nhà văn Kim Lân. Anh Tràng cũng không đủ tiền cưới vợ, một
người phụ nữ cũng vì đói kém quá mà theo anh về. Cuộc sống còn khó khăn
nhưng gia đình họ hoà thuận, êm ấm, hạnh phúc được thắp lên từ những ảm
đạm tối tăm của đói nghèo. Giống với tình huống của nhà văn Kim Lân
nhưng Tô Hoài lại khai thác ở khía cạnh bi kịch. Bà Móm không chấp nhận
vợ anh Mí, vì cho rằng đó là người đàn bà đốn mạt. Bà hành hạ cô con dâu
của mình bằng tiếng chửi rủa hàng ngày tưởng như không bao giờ dứt.
Người đàn bà ấy đã không chịu đựng được đành phải bỏ đi và người con trai
bà cũng bỏ bà mà ra đi. Một người phụ nữ đánh đá, chua ngoa như bà Móm
cuối cùng cũng phải ôm mặt, hu hu khóc. “Ối con ơi!”. Tiếng khóc ăn năn
hối hận, tiếc nuối, tiếng khóc thương cho con trai khốn khổ, khóc thương
cho cuộc đời tăm tối của bà. Người nông dân đã khốn khổ vì nghèo đói, họ
còn khốn khổ vì những hủ tục làng xã đeo bám. Nếu bà Móm chấp nhận

26
người con dâu ấy và vun vén vào cho con trai thì đâu đến nỗi gia đình bà
nhà tan cửa nát, mỗi người một nơi. Cuối cùng chỉ còn mỗi mình bà trong
căn nhà trống huếch, trống hoác và chịu dằn vặt trong nỗi cô đơn.
Còn chuyện gia đình anh Hối trong Buổi chiều ở trong nhà cũng gợi
cho người đọc bao nỗi xót xa. Câu chuyện mở ra một khung cảnh gia đình
đầm ấm ba bố con quây quần bên nhau: “Hai đứa trẻ thích bố quá. Bố vừa
cho ăn kẹo bột, bố lại hát cho mà nghe”. Có hạnh phúc nào hơn thế. Cái khung
cảnh làm cho ta cảm thấy thú vị nhẹ nhàng. Sự kiện bắt đầu khi người mẹ phát
hiện bị mất chai đựng dầu. Anh Hối đã mang một chai dầu đem bán để mua
kẹo cho cả nhà. Anh không biết rằng một chai dầu khác đã được bán đi để có
tiền mua thuốc cho con lúc ốm. Hơn nữa với anh chị, từ trước đến nay, thắp
đèn vào ban tối là một chuyện tiêu hoang. Nhưng giờ đây chị Hối muốn thắp
đèn vì mất hai xu dầu, anh chị có thể làm thêm được năm xu việc vào buổi
tối. Không có cái chai ấy làm sao anh chị có thể làm thêm, chị sẽ còn trông
vào đâu. Chị Hối đã rất giận chồng. Lời qua tiếng lại, dẫn đến xô xát. Người
đọc thấy buồn chỉ vì một chai dầu mà họ đã đánh chửi nhau. Cái nghèo cái
đói luôn bao trùm trong gia đình họ khiến họ trở nên dễ dàng cáu giận.
Khách nợ góp phần hòan thiện bức tranh cuộc sống cùng khổ của
những người nông dân. Ba mươi tết, anh hương Cay phải đi trốn vì lái Khế
đến đòi nợ. Cảnh nhà anh hương Cay tan hoang, chẳng có gì. Lái Khế
“nhòm cả xuống gầm phản. Chiếc phản đã mọt sủng, mối đùn dưới gậm
từng đống đất to xù. Cầm cái hèo, lão đi xét thật nhanh gõ đốp đốp vào bức
vách. Từng tảng đất vách, trấu trắng phếch ngã xuống, lăn lóc. Rồi gã ra sân.
Mảnh vườn sân non những cây ké dại thấp lè tè, đốm hoa vòng sọng. Quanh
năm dáng chẳng ai bước vào đây.” Tết đến xuân về là dịp cả nhà sum họp
đầm ấm. Người ta quét dọn nhà cửa, sửa sang bàn thờ tổ tiên cho sạch sẽ.
Vậy mà nhà anh hương Cay vắng lạnh như không hề biết đến ngày tết. Dẫn
đến tình cảnh này là bởi anh có món nợ truyền kiếp từ bà cụ, cái món nợ

27
được truyền bằng văn tự miệng. Để rồi hôm nay, khi ngày tết đến, không
một nén hương, mẩu nến, trăm vàng. Hai bố con phải chay đi trốn nợ. Anh
hương Cay còn bị lái Khế lấy đi bát hương, bài vị tổ tiên. Làm sao ông vải,
những người thân của anh đã về nơi suối vàng có thể trở về sum họp với gia
đình trong những ngày tết ?
Tô Hoài viết về những con người thật bình thường, những chuyện
diễn ra hàng ngày. Ông còn nhìn thấy ở những người nông dân thợ thủ công
những cái hay cũng như cái dở, cái xấu và cái tốt. Con người miêu tả một
cách tự nhiên, không tô vẽ, con người với đúng nghĩa là “con người”. Vì
vậy, ở họ còn nhiều thói tật. Đàn ông nóng nảy, đàn bà lắm điều. Vợ chồng
anh Duyện (Nhà nghèo) cãi nhau cũng vì những cớ rất nhỏ. Anh chồng đang
hát nghêu ngao trong nhà, vợ nhiều lời làm cho cụt hứng. Lời qua tiếng lại,
chị Duyện càng bù lu bù loa khiến anh chống tức điên: “Ông giết cả lũ! Ông
giết cả lũ chúng mày rồi ông đâm cổ ông sau. Những của nợ kia, ông nhất
quyết sửa chúng mày trước rồi đến con mẹ chúng mày.” Còn chị Duyện ôm
váy chạy ra đầu ngõ rồi tiếp tục nheo nhéo nói vào: “Nào tôi bòn rút của chìm
của nổi gì của ai. Một nhời nói một đọi máu, ăn nói còn có giời đất, có quỷ
thần hai vai chứ”, “Ối ông cả bà nhớn ơi! Nó đốt nhà... Thằng Duyện nó đốt
nhà...”. Lúc đầu chỉ là chuyện cãi vã, anh Duyện uất run người đòi đốt nhà.
“Họ thường xuyên cãi nhau vì những cớ rất nhỏ không có nghĩa. Cái đó cũng
thành một thói quen. Lúc nào ngứa miệng, to tiếng là to tiếng liền”[20, tr77]
Điều đáng nói khi xây dựng nhân vât, Tô Hoài không chỉ nhìn ra sự
thấp kém của những nông dân thợ thủ công, ông còn nhận thấy những phẩm
chất đáng quí ở họ.
Đằng sau những cuộc cãi vã, những vụ ẩu đả, họ lại trở về với con
người thực- đó là con người giàu tình yêu thương, yêu gia đình, và khát
khao hi vọng về một cuộc sống tươi đẹp hơn. Gia đình anh Duyện cãi nhau
kịch liệt nhưng cơn mưa rào ập đến họ lai nhanh chóng tất tả đi bắt nhái

28
dường như chẳng có vụ đánh chửi nào xảy ra. Thấy chồng cặm cụi bắt nhái,
bao nhiêu yêu thương lại dâng lên. Họ cáu gắt cũng vì mệt nhọc, vì đói kém
chứ bản chất thì hiền lành, chăm chỉ, cũng mong muốn có một cái gì tốt đẹp
hơn dù đơn giản chỉ là một bữa cơm với món nhái nướng. Anh Hối bán một
chai dầu mua kẹo để cho anh và vợ con ăn. Anh sung sướng bên cạnh những
đứa nhỏ vừa cho chúng ăn kẹo và hát cho chúng nghe. Niềm vui ngập tràn
trong lòng anh, khi vợ về, anh muốn chia sẻ ngay điều đó với vợ “Nhà ra tôi
cho cái kẹo này”. Niềm vui sướng của anh cũng thật giản dị. Đó là sự đồng
cảm, chia sẻ bên người thân ngay từ những điều nhỏ nhặt nhất. Bà Móm lắm
điều, ác nghiệt là thế. Nhưng thực sự trong lòng bà đâu muốn. Bà đau xót
hối hận khi con trai bỏ đi, một mình bà ở lại trong nỗi cô đơn, tuổi già và
bệnh tật. Anh Cuông (Lá thư tình đầu tiên) sống trong niềm tin hi vọng. Anh
yêu thầm nhớ trộm cô Mi, một người con gái có đôi mắt trong thẳm và đen
láy, một người mà biết bao trai làng ngưỡng mộ và mong ước được lấy làm
vợ. Cô Mi đẹp nhất làng còn là người hay chữ nên cô không chấp nhận một
người chồng lại không biết chữ. Thế là anh chàng Cuông hiền lành chân
chất dạy sớm thức khuya âm thầm học chữ. Bức thư tình đầu tiên anh đã
hoàn thành, gửi gắm vào đó những tình cảm yêu thương chân thành thiết tha
của anh với cô Mi. Bức thư tình ấy không thực hiện đựơc sứ mệnh của nó.
Bởi vì cô Mi đã đi lấy chồng và vẫn không biết được tấm chân tình của anh.
Câu chuyện thật nhẹ nhàng để lại trong lòng người đọc niềm thương cảm.
Mặc dù đó chỉ là tình yêu đơn phương nhưng ta cảm nhận được những tình
cảm yêu thương đằm thắm của anh Cuông. Tình yêu đã giúp anh vươn lên
trong cuộc sống giúp anh có nghị lực, có chí hơn. Anh trở thành người biết
chữ trong cái làng mà ít người được học hành như thế này. Anh Tại [Một
người đi xa về] cho dù bị người yêu phụ bạc nhưng anh không sa vào tuyệt
vọng, tự huỷ hoại mình, trả thù đời. Anh cay đắng nhận ra rằng người yêu
bỏ anh đi lấy người khác vì anh không có đồng bạc trắng. Anh quyết chí đi

29
làm ăn xa vào tận đất Sài Gòn. Anh trở về làng quê trong tư thế của người
chiến thắng, người có nhiều tiền để lại cho cô Pha những ngậm ngùi tiếc
nuối “giá như thế này... thế nọ... ta đã chẳng khổ như bây giờ.”
Nhân vật người nông dân thợ thủ công trong truyện ngắn của Tô Hoài
trước Cách mạng tháng Tám có những nét riêng, độc đáo. Họ có cái khổ, cái
đói và thất bại, họ chịu đau đớn nhưng họ không ác, không buông xuôi và
họ có ước mơ hi vọng. Bên ngoài, đôi lúc họ thô kệch, nóng nảy, chua ngoa
nhưng sâu thẳm trong tâm hồn họ, đó là những con người hiền lành, chân
chất và giàu tình yêu thương.
2.2.2. Nhân vật trí thức
Truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng không đề cập nhiều đến nhân
vật trí thức như Nam Cao. Tuy vậy, những nhân vật này thể hiện một phần
nào đó tư tưởng của sáng tác của ông.
Tầng lớp trí thức tiểu tư sản được đề cập nhiều trong văn học thời kỳ
này. Nam Cao là nhà văn rất thành công với hình ảnh người trí thức tiểu tư
sản. Đó là những con người có tài năng , đức đức độ, có niềm say mê nghề
nghiệp. Vì có ý thức trách nhiệm cao với nghiệp cầm bút nên cuối cùng họ
cũng tìm ra được chân lí nghề nghiệp; “Nghệ thuật không phải là ánh trăng
lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật phải là những tiếng đau
khổ kia phát ra từ những kiếp lầm than.” [Trăng sáng]. Nhưng vì cuộc sống
mưu sinh, vì cơm áo hàng ngày, nhiều người trí thức đã cho ra đời những tác
phẩm vội vàng như anh Hộ [Đời thừa]. Hộ chán nản vì những lí tưởng
không thực hiện được. Bên cạnh đó, anh vẫn phải đối diện với những đòi hỏi
thường ngày. Anh phải viết vội, viết cẩu thả để cứu cả gia đình khỏi chết
đói. Hộ rơi vào bi kịch tinh thần, đau khổ vì những tác phẩm nhạt nhẽo của
mình nhưng không biết làm sao.
Người trí thức của Tô Hoài cũng rơi vào hoàn cảnh giống như vậy.
Tác giả không đi sâu miêu tả những bi kịch tinh thần của họ như Nam Cao.

30
Tô Hoài viết một cách nhẹ nhàng tự nhiên những suy nghĩ, hành động của
nhân vật. Truyện Hết một buổi chiều kể về một nhân vật trí thức mà tác giả
gọi ở ngôi thứ ba “gã”. Cả một buổi chiều, anh ta loay hoay không biết làm
thế nào để sáng tác. Cái bàn cái ghế không hợp đôi. Bàn thì thấp ghế lại quá
cao khiến anh đau vai mỏi cổ. Anh loay hoay kê cái bàn cao hơn bằng bốn
viên gạch nhưng cái bàn cuối cùng cũng bị đổ chổng kềnh. Chỉ còn cách cưa
cái ghế nhưng cái ghế là của bà chủ nhà thì làm sao anh cưa được. Hình ảnh
cái bàn cái ghế khập khiễng không đi đôi với nhau phải chăng là hình ảnh ẩn
dụ về cuộc sống. Người trí thức luôn phải đối diện với hiện thực nghèo khổ,
khiến họ quẩn quanh không lối thoát. Đó cũng là cuộc sống nhếch nhác tạm
bợ của người trí thức thời bấy giờ. “Gã” cũng phải đối diện với một hiện
thực giống như Độ “phải viết”, nếu không “toà soạn sẽ kêu lên rằng dạo này
hắn lười quá. Gã không dám lười bởi gã cần tiền”. Chấp nhận hiện thực như
việc chấp nhận cái bàn, cái ghế khập khiễng, gã bắt đầu viết. Một cái tên
truyện rất đẹp “Ấp hồ”. Đấy là một truyện diễm tình và suông hết sức. Gã
cảm thấy ngượng. Bởi gã nhận ra rằng: “Mạch sống cuộc đời táp nham này
còn có gì đáng lồng vào một dòng nước, một nhành hoa, một làn mây trắng…
Bên cạnh gã, cả một xóm lao động rách rưới vang rầm lên những tiếng rên la,
gầm rít. Những cái gì là trăng, là sao, là thu vàng mờ mịt trong đầu gã.” Nhận
ra hiện thực cuộc sống, người trí thức không thể cất bút nói những chuyện
mơ mộng hão huyền. Mặc dù viết về những trăn trở của người trí thức
nhưng Tô Hoài không đi sâu vào những bi kịch giống như Nam Cao. Ông
còn thắp lên niềm hi vọng trong họ. Ngày mai, gã sẽ tiếp tục viết một tác
phẩm văn chương nói lên hiện thực cuộc đời “Mai mình viết. Mai”
Nhân vật trí thức của Tô Hoài cũng hiện ra là những con người đời
thường. Đi tắm đêm kể về những chàng trai nghịch ngợm tinh quái. Họ cũng
tò mò, thú vị tình cờ được ngắm những cô gái đang tắm dưới bến “những
thành vai trăng nõn, tóc buông loà xoà trên mặt nước, gợn những vòng vàng

31
vì ánh trăng.” Họ cũng có cái bồn chồn thao thức trước vẻ đẹp đầy nữ tính
ấy. Suốt đêm, Căn thao thức không ngủ “Chúng nó đẹp như tiên sa”. Nhiều
đêm trăng, Căn đã rình mò những cô gái tắm. Bị các cô vạch mặt, Căn xấu
hổ và tìm cách trả thù. Anh đã cất hết quần áo của các cô và còn giả làm ma
để các cô sợ phát khiếp. Từ đó, các cô không còn dám chua ngoa như trước
nữa. Rõ ràng, người trí thức trong truyện ngắn của Tô Hoài không được lí
tưởng hoá như là những con người mang trọng trách lớn lao “khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.” Tác giả đề cập đến con
người đời thường của họ cũng tò mò, thích thú, giận hờn, ghen ghét, và cũng
trả thù vặt vãnh…
2.2.3. Hình tượng loài vật
Tô Hoài là một trong những nhà văn viết về loài vật thành công nhất.
Hà Minh Đức nhận xét: “Tô Hoài là nhà văn viết thành công nhất, hấp dẫn
nhất về các loài vật” [31, tr 444]. Còn tác giả Vũ Ngọc Phan “Tô Hoài tỏ ra
không giống một nhà văn nào trước ông và cũng không giống một nhà văn
nào mới nhập tịch làng văn như ông. Truyện của ông có những tính chất nửa
tâm lí, nửa triết lý, mà các vai là loài vật.” “Nó là những truyện tả chân về
loài vật, về cụôc sống của loài vật, tuy bề ngoài ra vẻ lặng lẽ, nhưng phần
trong có lắm cái “ồn ào”, vui có, buồn có.”[31, tr 63].
Thế giới loài vật trong truyện của Tô Hoài là những con vật hết sức dị
đời thường, những con vật đã gắn bó với tuổi thơ Tô Hoài. Ẩn chứa trong
mỗi trang truyện về loài vật là câu chuyện về con người. Hà Minh Đức nhận
xét: “Truyện loài vật của Tô Hoài làm cho người đọc tưởng tượng và liên
tưởng đến cuộc sống hằng ngày của những dân thường ở quê.” [31, tr 445],
“có thể nói ý nghĩa xã hội của chuyện loài vật của Tô Hoài khá phong phú”
[31, tr 446].
Truyện gã chuột bạch gợi chúng ta hình dung về cuộc đời luẩn quẩn
của những người nông dân, bó hẹp sau luỹ tre làng. Hai vợ chồng chuột

32
bạch sống trong một cái lồng nhỏ hình vuông, đan bằng tre. Giữa lồng,
người ta treo hai cái vòng thép nhỏ, san sát từng cánh như hai chiếc đu tiên
tí hon. Chúng chỉ có việc: ăn, đánh vòng và ngủ. Đó là tóm tắt những công
việc của đôi chuột bạch. Thậm chí ngay cả lúc những đứa trẻ tinh nghịch
quên đóng cửa lồng. Ấy vậy mà đôi vợ chồng ấy cũng chẳng dám ra khỏi
lồng, chỉ tha thẩn bò ra ngoài. Hai cái bóng lồm cồm hếch chiếc mũi nhọn
lên ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Cũng như vậy O chuột kể về anh chàng mèo
“cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên của mình để mà chỉ
quẩn quanh đi o chuột”. “O chuột” ở đây không phải là danh từ mà là động
từ có thể hiểu là o ép, bắt nạt. Gã mèo cũng chẳng oai phong gì, cả đời mình
hắn chỉ rình mò, bắt nạt mấy con chuột nhép ở xó bếp.
Cuộc đời của vợ chồng Đôi ri đá có khác gì cuộc đời những người
ngụ cư ở làng Nghĩa Đô. Chúng đến ngụ cư ở cây hồng bì. Hàng ngày tần
tảo kiếm ăn làm tổ, sinh con đẻ cái. Cuộc sống cũng đầy những nhọc nhằn:
“Bốn con ri cũng nhớn nhao. Bố mẹ chúng rạc cả người, về nỗi đi kiếm mồi
cho con.” Có lần tổ của chúng bị phá hỏng nhưng đôi chim ri ấy vẫn bền bỉ
xây một chiếc tổ khác. Chúng ăn ở dè lén bình lặng, chịu khó, ít ồn ã. “Cuộc
đời trôi chảy âm thầm dưới khe lá xanh, y như cuộc đời của những người
Nghĩa Đô, cần cù và nghèo khổ trên cái khung cửi trong bốn luỹ tre già”.
Cuối cùng, chúng không thể ngụ cư ở cây hồng bì đành rời bỏ đi nơi khác
gợi ta nhớ đến những người con làng Nghĩa Đô vì cùng cực khốn đốn đành
phải bỏ làng đi làm ăn xa.“Đôi vợ chồng ri đá chịu khó và nhẫn nại kia,
cùng một đàn bốn con thơ dại, tan tác bay đi, không bao giờ còn trở về cây.
Chẳng ai biết được cái bầu đoàn khốn khổ ấy long đong bạt đi đâu và sau ra
làm sao”. Hình ảnh một đôi chim ri trở lại có thể là đôi chim ri cũ nhưng
cũng có thể lại là đôi chim ri mới. Điều đó muốn nói rằng, cuộc sống vẫn
trôi chảy âm thầm, đôi chim lại tiếp tục đối diện với những thử thách như
bao thế hệ người dân làng Nghĩa Đô vẫn âm thầm nhọc nhằn kiếm sống.

33
Ở truyện Con gà trống ri và Một cuộc bể dâu, tác giả kể về cuộc đời
của những con gà bề ngoài tưởng như chẳng có gì đáng nói nhưng đằng sau
ấy là chứa chất bao tâm sự của những số phận, những cảnh đời. Con gà
trống ri gặp phải bi kịch tình yêu. Nó là một thứ gà bé nhất của loại gà
nhưng nó vẫn có đủ tư thế hùng dũng của loài gà trống, nó vẫn giữ địa vị
một ông thống soái dẫn đầu”. Khi lớn lên, hắn có đặc tính chung của loài gà
“đa tình lắm”. Nhưng sự đa tình của hắn lại như một bi kịch của cuộc đời.
Trong sân, hắn chẳng tìm đâu được một người tri kỉ, bởi sự thấp kém về vóc
dáng của hắn: “Xung quanh khu vực chỗ nó ở, tuyệt nhiên không có đến hai
con gà ri. Cũng giống như con người, không tìm được bạn tri kỷ, học đòi đi
kiếm ăn xa: “hắn đi theo tiếng gọi của tình ái”. Nhưng cuộc đời vốn hợp lại
tan, tìm được chị gà mái ri, nhưng cái cuộc tình của hai con gà ri ấy không
được bao lâu. Cái chết của người tình lại đưa con gà trống trở lại những
tháng năm buồn tẻ. “Rồi gã đi biệt hẳn. Chắc chẳng phải là nỗi nhớ thương
cô ả má đào bạc mệnh ấy. Gã vốn tính mau quên”. Cái bản tính mau quê
nhắc ta đến Lụa và Nguyên trong truyện Lụa, hai người yêu nhau tha thiết,
họ đã thề nguyền với nhau. Lụa nếu không lấy được Nguyên, cô sẽ đi tu.
Còn Nguyên mà không lấy được Lụa, anh sẽ bỏ đi Sài Gòn. Nhưng rồi chỉ ít
tháng sau đó, Lụa lấy chồng còn Nguyên lấy vợ ngay tại làng, dường như
chẳng có lời thề nguyền hôm nào.
Một cuộc bể dâu kể lại cuộc đời của anh gà chọi, một tay hảo hán. Cái
anh hùng trọc trời khuấy nước hiện lên thật hùng dũng: “Da chàng đỏ gay,
đỏ gắt, đỏ tía, đỏ bóng lên như có quét một nước sơn thắm”. Cái oai phong
lãm liệt mà tác giả mệnh danh là Từ Hải cũng không thoát được lưỡi hái của
tử thần, bệch dịch đến, cái xóm gà vịt trở nên tan tác chia lìa.
Mỗi con vật trong truyện ngắn của Tô Hoài hiện lên thật sinh động
với nhiều tính cách khác nhau. Ả gà mái phong trần khiếp lắm nhưng khi
làm mẹ, mụ là một người mẹ tuyệt vời. Mụ không dám rời lũ con nửa bước.

34
Chăm chỉ kiếm ăn nuôi con, có khi chỉ bới được một hạt dền nhỏ mụ lại gọi
chúng đến, cho chúng ăn. Mụ vừa “nhìn các con, vừa nói chuyện vui vẻ”.
Chẳng may con mụ gặp nguy hiểm, mụ “cong chòm đuôi lên, sù vành lông
cổ”, “nhảy lên như choi choi”, bảo vệ cho kỳ được những đứa con yêu quý
của mình”. Hình ảnh ả gà mái khiến người ta liên tưởng đến con người. “Mụ
mải mê chăn nuôi con đến quên cả mình. Chả thế mà trong khi có trẻ, thân
hình mụ gày xác, gầy xơ… Phải gọi mụ là một bà lý ở nhà quê, một bà lí
hào chỉ biết có tảo tần buồn bán để nuôi con cho đi thả chim thả diều và nuôi
chồng một ngày hai bữa rượu.
Tô Hoài miêu tả những con vật hết sức bình dị, quen thuộc với cuộc
sống người dân. Trong cảm quan Tô Hoài, chúng hiện lên thật sinh động,
ngộ nghĩnh, có tính cách, số phận khác nhau. Chúng nói lên thân phận của
những người dân làng Nghĩa Đô, những con người nghèo đói, tần tảo, chịu
thương, chịu khó, những con người thuần hậu. Hà Minh Đức thật đúng khi
cho rằng: “Có thể nói ý nghĩa xã hội của chuyện loài vật của Tô Hoài khá
phong phú. Trong cuộc đời cũ truyện của loài vật gợi đến thân thận con
người, và cuộc đời mới đời sống được nâng cao hơn, nhất là ở những vùng
thôn quê cũng chi phối đến môi trường sinh sống của loài vật” [31, tr 446]
2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước
Cách mạng tháng Tám
Nhân vật là linh hồn của tác phẩm. Các phương diện thể hiện nhân vật
hết sức đa dạng. Nhà văn miêu tả chân dung, ngoại hình, tả hành động tâm
trạng hoặc đưa những chi tiết mô tả ngoại cảnh, môi trường, đồ vật xung
quanh con người làm nổi bật bức chân dung về con người. Nhân vật trong
truyện ngắn Tô Hoài được miêu tả những tâm trạng suy nghĩ phức tạp. Nhân
vật được xây dựng trong môi trường lao động, sinh hoạt, được đặc tả ở
ngoại hình, lời nói, được tác giả thể hiện ở những chi tiết rất đặc sắc thú vị.

35
2.3.1. Nhân vật gắn với môi trường lao động, sinh hoạt
Thực ra vịêc đặt nhân vật trong môi truờng lao động, sinh hoạt để xây
dựng nhân vật không phải là điều mới mẻ chỉ có ở Tô Hoài. Trong ca dao,
người xưa từng viết:
“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”

“Râu tôm nấu với ruột bầu


Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
Đọc văn học hiện thực phê phán, ta mới thấy được cách thức này
được nhiều tác giả sử dụng như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng. Bởi muốn phản ánh đầy đủ tính cách của con người trong hiện thực
không có gì đầy đủ bằng đặt họ trong môi trường lao động, sinh hoạt.
Nhưng Tô Hoài cũng có nét riêng biệt. Ông không quá cầu kì vào việc
lựa chọn môi trường lao động sinh hoạt, ông viết đơn giản tự nhiên những gì
diễn ra xung quanh mình. Đó là môi trường lao động và sinh hoạt của người
ở làng quê Nghĩa Đô.
Vàng phai, mối tình của anh Hẹn và cô Mây nảy nở trong lao động.
Anh Hẹn đương dệt cửi lại nhớ đến cô Mây mà viết thư tình gửi đến Mây. Ở
phiên chợ, họ đã gặp nhau và trao đổi thư từ cho nhau. Nhận được thư đáp lại,
lòng anh Hẹn vô cùng sung sướng. Những đêm dệt cửi, tiếng hát của anh
vang lên hoà lẫn với tiếng đưa thoi: “Những đêm dệt cửi canh khuya, dưới
ánh đèn dầu hiu hiu, anh Hẹn cao giọng hát ngâm từng câu một. Tiếng vang
ngân ngư lẫn với tiếng thoi chạy thậm thọt qua mặt lụa kêu lách cách.” Cũng
từ đó, anh Hẹn vừa dệt cửi, vừa nghĩ đến chuyện làm thơ tặng người yêu.
“Anh nay vội việc cửi canh
Khi nào thong thả chỉ dành làm thơ
Những là bối rối lòng tơ
Nào ai ăn ở hững hờ với ai.”

36
Trong Hết một buổi chiều, gã trí thức chỉ loanh quanh với chuyện bàn
ghế, mãi rồi mới bắt tay vào viết, dòng tâm trí của hắn hướng đến những
chuyện chàng nàng, gã thấy chán ngán bởi xung quanh hắn là hiện thực đau
khổ của người dân làng quê này.
Bức chân dung nhân vật hiện lên trong truyện ngắn Tô Hoài trước
Cách mạng chủ yếu trong sinh hoạt hàng ngày. Có lẽ nó xuất phát từ cái
quan điểm của ông về con người: Con người trước hết là con người. Thói tật
của con người hầu hết được bộc lộ hết trong những sinh hoạt đời thường.
Ông dỗi thuật lại một bữa cơm chiều của gia đình lão Múi. Ông Múi
hậm hực vì bà vợ chỉ cho ăn hai bát cơm. Thế là ông dỗi mấy ngày chẳng ăn
cơm. Ông tự mò cua bắt ốc để có cái ăn. Cuối cùng, ông bị đau bụng một
trận và đành phải làm hoà với vợ.
Nhà có ma kể lại chuyện hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Anh
chồng hay chè chén đến đêm mới về, đánh chửi vợ con trong lúc say. Tiếng
thở dài của người vợ. tiếng trẻ con khóc, tiếng huỵch huỵch người chồng
đấm vợ văng vẳng trong đêm khiến người khách trọ không sao ngủ được.
Trong đêm khuya, những tiếng động ấy càng trở nên quái gở, tưởng như nhà
có ma...
2.3.2. Nhân vật được chú trọng miêu tả ở ngoại hình, hành động, lời nói
Tô Hoài có biệt tài miêu tả ngoại hình nhân vật. Mỗi bức chân dung
con người trong truyện ngắn của ông thật sinh động, cụ thể và riêng biệt.
Những cô gái thôn quê mượt mà đằm thắm: “Cô Mì mười tám. Đến
tuổi ấy, từ mùa xuân trở đi, đôi mắt người con gái trong thẳm và đen lay
láy. Cô nhìn sang hai bên, con mắt lừ đưa nghiêng nghiêng. Ôi chao là say
sưa. Miệng hoa múm mím. Mỗi khi mỉm cười một nụ cười nhỏ, đôi má hây
khẽ gợn lum xuống hai nét vòng yêu.”, các cô gái đi tắm đêm “những bờ
vai trắng nõn, tóc buông loà xoà trên mặt nước, gợn những vòng vàng vì
ánh trăng”

37
Những người phụ nữ quê khốn khổ. Tuổi già, nghèo đói và những hủ
tục đã quây lấy họ khiến hình hài của những con người ấy cũng trở nên biến
dạng. Bà Móm ngồi đấy, ngay phía ngoài đầu hè. “Váy áo vẫn còn ướt sũng.
Cái màu nâu bệch, giúng thềm vào nước và bùn, thâm xỉn lại. Khuôn mặt
xịu xuống. Đôi vành mắt khép lại. Tất cả những nếp răn trên khuôn mặt cằm
đều chảy giạt xuống phía cằm. Chiếc cằm méo mó thủng một hõm mồm. Cái
mồm móm mém ấy thế mà kêu to. Giá cứ yên lặng mãi, thoạt nhìn, người ta
tưởng đấy là một đống rạ nát như những đống rạ nát ở xung quanh. [Chớp
bể mưa nguồn, tr171]
Những kẻ đòi nợ thuê vừa có vẻ dữ dằn lại vừa đáng thương. “Đầu
lão bịt một vành khăn tai chó, hai tai khăn vểnh như đôi tai trâu. Trẻ con
tưởng lão mới mọc hai chiếc sừng bò trên đầu. Lái Khế mặc một tấm áo nâu
dài dày cộp, chó cắn có thể gẫy răng. Ngang lưng cuốn một vòng thắt lưng
điều, rách xơ xác. Tay lão ta xách một cây hèo lua tua mấy sợi tơ nhỏ.”
Những người đi làm ăn ở các đồn điền cao su mắc chứng bệnh sốt rét.
Họ tiều tuỵ, đen đúa, tội nghiệp. Trông họ chẳng khác nào những bóng ma
vật vờ. “Những bóng đen bước lùi lũi. Không phải tại trời tối, bởi trời chưa
tối hẳn, mà chính mặt mũi họ đen thực. Nước da thâm xịt, đen và xám bủng,
tưởng như sờ dến thì óc sạn cát dính vào bàn tay. Tóc ngắn, rụng lưa thưa.
Những cẳng tay cẳng chân gầy tóp”[Một đêm gác rừng, tr 163]. Tương phản
với chân tay, bụng ai cũng to phềnh. “Những cái bụng vượt ngực, phình như
những chiếc bụng giun của trẻ con. Phần nhiều người ta run đây đẩy. Ai đi
cũng khoanh hai tay, cái cổ rụt lại, đầu gối giơ cao, gieo những bước chân
líu ríu.””[Một đêm gác rừng, tr 163]
Bên cạnh đó, Tô Hoài còn miêu tả chân dung con người với nhiều sự
biến đổi sau những ngày phải đi tha hương cầu thực. Anh Tại phẫn uất vì
người yêu chê anh nghèo bỏ đi lấy người khác. Anh đã đi làm ăn xa tám
chín năm trời mới trở về. Cả làng ngạc nhiên, tò mò trước sự thay đổi của

38
anh. Trang phục anh khác hẳn những người vốn quen với áo nâu giản dị. Nó
vừa mang phong cách Tây, vừa ta, lại cả Tàu. Trang phục kiểu phương Tây
là chiếc mũ cát két bằng vải mông-ta-nhắc, sọc đen sọc trắng lẫn lộn, cái
lưỡi trai lại được lật ngược ra đằng sau gáy. Chiếc áo bành tô vàng sọng, có
một chuỗi khuy đồng trước ngực. Ở cửa tay, ở hai bên cổ, ở những miệng
túi, cả hai bên ngực, cũng rải rác những khuy. Và đến túi cũng lắm. Túi nhỏ,
túi lớn. Túi ở hai bên bẹn, túi ở hai bên ngực, túi ở hai bên trong lườn. Bởi
thế nó quá lộn xộn vì nhiều khuy, nhiều túi. Anh Tại còn vận một cái quần
lĩnh đen bóng nhoáng. Nền lĩnh lấm tấm hoa dâu óng ánh theo kiểu ta.
“Nhưng đôi giầy tàu bằng nhung đúng hệt đôi giầy của một ông tướng võ,
một ông Triệu Tử Long chẳng hạn, trong những phường hát đám tháng
giêng” [Một người đi xa về, tr 204].
Không chỉ tả hình dáng, trang phục, các nhà văn cũng chú ý đến đặc
tả khuôn mặt. Đến với sáng tác của Nam Cao, người đọc không thể quên bộ
mặt của Lang Rận. Đó là cái bộ mặt “nặng chình chĩch như người phù, da
như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn,
ngắn ngùn lại gồ lên. Đôi mắt thì húp lại như mắt lợn sề” của Lang Rận.
Hay như cái bộ mặt của Trạch Văn Đoành trong Đôi móng giò: “Cái mặt
hắn vênh vênh lên... Đôi lưỡng quyền nhô ra như gây sự với người ta (...).
Những cái răng dọa nạt ai, như một con chó khi nó gừ gừ với một con chó
khác.” Bộ mặt ấy như phô trương ra ngoài tính ngỗ ngược, ngang bướng bất
cần đời của hắn. Còn cái bộ mặt “vằn dọc, vằn ngang không biết thứ tự bao
nhiêu là sẹo” như cái mặt thớt của Chí Phèo làm cho hắn không thể trở về
cuộc đời lương thiện, cái mặt xấu đến mức ma chê quỷ hờn của Thị Nở làm
cho ai cũng phải xa lánh, không dám lấy thị làm vợ.
Nếu Nam Cao miêu tả khuôn mặt chủ yếu bộc lộ tính cách và cuộc
đời số phận thì Tô Hoài chủ yếu để diễn tả trạng thái cảm xúc nhiều hơn. Đó
là cái mặt của lão Móm giỗi cơm vợ: “Cái mặt đầy ngòm những râu ria rậm

39
rạp thì thưỡn ra. Đôi mắt cá ngão, giương bạnh, tròn xoe. Y như lối ngồi của
một chú ễch ương bụng ỏng và lồi mắt... Bấy giờ chiếc mặt thưỡi ấy mới
động đậy. Chòm râu hơi rung rung. Thực cho đến lúc cái chòm vừa râu vừa
ria ghê gớm ấy chuyển động, người ta mới kịp nhớ để biết rằng trong đó,
còn có cái miệng ông lão. Miệng ông lão mấp máy. Đầu tiên, nảy ra mấy
tiếng tóp tép, tóp tép. Rồi ông thở khà. Và chợt cười nức lên một hồi khớ
khớ. Những tiếng khớ khớ quái quỉ như nứt vỡ ở trong cổ họng và đưa ra
ngoài từng tiếng, từng tiếng.” Đó là khuôn mặt của cô Mây thẹn thùng khi
gặp người yêu: “Mây thì Mây cứ cười tít đi. Mây hay cười quá. Đôi má
phúng phính lúm lại và đỏ hây. Cặp mắt long lanh giữa đôi mí húp híp. Cái
mắt mới tình tứ làm sao! Mây cười cả má, cả mắt. Khi anh Hẹn cầm tay,
“mặt Mây đỏ hồng, đôi môi ngon và mòng mọng như hai múi quýt.”. Đó là
vẻ mặt đầy sung sướng của Mây khi được bác quyền Vực ôm hôn: “Quyền
ta bèn cúi xuống hôn đánh choét một cái vào má Mây. Cái má phính ngon
lành và nóng rừ”. Đó là khuôn mặt dữ dằn của một kẻ lên cơn dại. Lão lái
Khế cái mặt đỏ xuống tận quanh cổ. Hai tay lão cũng đỏ tía. “Mắt lão trợn
ngược lên, đục ngầu, thắm đòng đọc. Sốt lâu qúa. Lão cứ phải luôn há
miệng. Cái lưỡi lão thè lè ra thê lễ”. Đó là khuôn mặt buồn rầu đến thẫn thờ
vì phải xa người yêu của Lụa và Nguyên: “Mắt đờ đẫn, nhìn bâng quơ. Lụa
bứt mấy ngọn cỏ. Chừng như đã lâu, đôi bên chưa nói với nhau một câu nào.
Sự im lặng ngẩn ngơ trên những nét mặt băn khoăn.”
Bên cạnh xây dựng ngoại hình, Tô Hoài còn miêu tả tỉ mỉ chi tiết
những hành động cử chỉ của nhân vật. Miêu tả đôi trai gái ngồi bên nhau
tình tự, tác giả chậm giãi miêu tả từng động tác của họ: “Người con gái ngồi
xuống, thì gã nhích lại gần. Gã nhìn mặt người yêu, ấm ứ muốn nói một câu,
nhưng lại thôi. Gã bần thần nhòm xuống giếng. Lòng giếng tối om. Gã
ngẩng mặt lên, cái mặt vênh váo trơ trẽn của người say rượu. Gã không nói,
nhưng “hừm” một tiếng. Người con gái thấy lành lạnh trên gáy. Nàng quay

40
lại đằng sau. Đằng sau là mặt trăng đương ngắm hai người. Dưới đất trước
mặt có hai cái bóng. Bàn chân giẫm kề bên bóng chân. Người ta thở cũng
nghe tiếng phào. Gã nghiêng má nhìn người yêu. Rồi gã lại thở dài phè phè.
Cô nàng xua tay lên mặt.” [Ông giăng không biết nói]
Đọc những trang truyện Tô Hoài, độc giả ít thấy nhân vật dằn vặt, đau
đớn về mặt tinh thần. Tác giả Mai Thị Nhung [40, tr 123] đã khảo sát sự
xuất hiện hành động và diễn biến nội tâm nhân vật của Tô Hoài và một số
nhân vật của nhà văn khác đã phát hiện ra tần số xuất hiện hành động của Tô
Hoài lớn hơn diễn biến nội tâm và cũng hơn hẳn các nhà văn khác: “Ở Tô
Hoài là cứ 17 lần xuất hiện hành động mới có 1 lần xuất hiện diễn biến nội
tâm. Trong khi đó, Nguyên Hồng cứ 5 lần xuất hiện hành động có 1 lần xuất
hiện diễn biến nội tâm, Nam Cao cứ 6 lần xuất hiện hành động có 1 lần xuất
hiện diễn biến nội tâm, Nguyễn Khải cứ 6 lần xuất hiện hành động có 1 lần
xuất hiện diễn biến nội tâm.” Như vậy, so với các nhà văn Nguyên Hồng,
Nam Cao, Nguyễn Khải thì Tô Hoài xây dựng nhân vật có tần số xuất hiện
hành động lớn gần gấp ba lần. Tính cách nhân vật của Tô Hoài chủ yếu
được khắc hoạ thông qua cử chỉ, hành động, hơn là qua diễn biến tâm trạng.
Đó cũng là nét khác biệt của Tô Hoài với sáng tác của nhà văn cùng thời.
2.3.3. Nhân vật được xây dựng dựa trên những chi tiết về phong tục
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chi tiết là “các tiểu tiết của tác phẩm
mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Hình tượng nghệ thuật cụ thể
gợi cảm và sống động nhờ các chi tiết về phong cảnh, môi trường, chân
dung, nội thất, về cử chỉ phản ứng nội tâm, hành vi lời nói” [18, tr 51]. Chi
tiết còn có khả năng “nói nhiều hơn bản thân nó. Tuỳ theo sự biểu hiện cụ
thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hện, giải thích, làm minh xác cấu tứ
nghệ thuật của nhà văn, trở hành tiêu điểm, điểm hội tụ tư tưởng tác giả
trong tác phẩm.”[18, tr 51]. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng khẳng định
vai trò to lớn của chi tiết: “chi tiết có thể ví như bụi vàng [...], chi tiết trong

41
đời sống thì không ai có thể sáng tác được. Nó nảy sinh từ đời sống và nhà
văn phải nắm bắt chi tiết đó để làm một trong những cái vốn cho văn học.
Nếu không có chi tiết thì truyện không thành truyện như đề cương rất đại
khái”. [6, tr 658]. Nguyễn Công Hoan từng nói: “truyện ngắn không phải là
truyện mà là một vấn đề xây dựng chi tiết”.
Trong tác phẩm, Tô Hoài đưa nhiều chi tiết về phong tục tập quán
truyền thống của quê hương. Chính điều này đã làm cho nhân vật trong
những truyện ngắn của Tô Hoài có những nét độc đáo riêng biệt. Cũng như
bao nhiêu làng quê khác, người dân đều háo hức chờ đón những ngày hội hè
đình đám. Khai thác ở mảng đề tài này, Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan
viết với một giọng điệu phê phán quyết liệt. Bởi nhà văn phát hiện đây là dịp
để bọn cường hào ở địa phương bòn rút của dân chứ không còn mang tính
văn hoá nữa. Nhưng Tô Hoài lại tập trung miêu tả những lễ hội truyền thống
ở thôn quê. Tác giả chú tâm vào những sinh hoạt vui chơi của nông dân như
chọi gà, đánh cờ bỏi, hát chèo, đấu võ... Mùa ăn chơi toát lên không khí sinh
hoạt của làng vào dịp hội võ làng. Một không khí vừa trang nghiêm, vừa náo
nhiệt gợi nhớ cội nguồn. Người dân đi xem như để sống lại, hồi tưởng về
những anh hùng giỏi võ đựơc tương truyền trong làng. Tô Hoài cũng sử
dụng những chi tiết có phần li kì trong dân gian: “Trước bác cả Chửng làng
tay không mà đánh ngã được mười tên cướp... Cái độ loạn Cờ đen, bà
Khảng lừa mẹo chặt cụt tay một thằng giặc khách... Chao ôi ngày xưa ấy,
người ta giỏi võ quá.” Ngày hội, mọi người đều vui phấn chấn cả lên. Không
khí trong làng cũng trở nên sôi động hơn: “Từ hôm các lò võ lục đục kéo
đến thì cả làng rộn rịch nháo lên. Các nhà võ thì ăn chực nằm chờ, đợi ngày
đấu. Người ta ngong ngóng đi xem”. Cảnh và người như thấm đẫm không
khí lễ hội.
Đất lề quê thói, mỗi làng có một tục lệ riêng. Trai gái lấy nhau phải
nộp treo cho làng. Làng quê ấy vẫn còn nạn tảo hôn, người ta lấy vợ gả

42
chồng cho con theo sự sắp đặt của cha mẹ. Hai đứa trẻ cập kê tuổi nhau, một
thằng nhãi vừa chẵn mười tuổi, người ta quen gọi là cu Phúc, cái Ngói mới
hơn mười hai tuổi. So đôi tuổi hai đứa là hợp nên cha mẹ cho chúng lấy
nhau [Vợ chồng trẻ con]. Tục lệ này đã trở thành thâm căn cố đế trong đời
sống láng quê. Làng quê ấy, còn có kẻ chuyên đi đòi nợ thuê, họ là nỗi kinh
hoàng cho những người dân [ Lái Khế]. Nơi ấy còn có những quán nước cây
đa đầu làng, người rỗi việc, người đi làm đồng về, đi xa về ngồi uống nước
chè tươi, nói chuyện với nhau, chuyện mình chuyện người, chuyện hay
chuyện dở trong các gia đình [Một người đi xa về].
Những chi tiết về phong tục là nét độc đáo trong tác phẩm của Tô
Hoài. Nó làm các câu chuyện của nhà văn dường như có sự gắn kết với nhau
mặc dù mỗi truyện đều viết về những nhân vật, cuộc đời khác nhau. Trong
tâm tưởng của độc giả, âm thanh của làng quê vẫn còn đọng mãi. Ở đâu đó,
có tiếng trống chèo, tiếng trống hội làng rộn rã, náo nức; có bước chân thình
thình của kẻ chuyên đi đòi nợ thuê; có lời than phiền của ai đó cưới nhau mà
chẳng nộp treo cho làng; có tiếng khóc của cô dâu nhỏ tuổi mới về nhà
chồng; có tiếng rì rầm bán tán của những người đi làm đồng trở về, ngồi
nghỉ dưới quán nước đầu làng...Chất phong tục dường như là một thứ men
làm nên tác phẩm của Tô Hoài. Càng đọc, ta càng thấy cuốn hút mặc dù đó
là những câu chuyện tưởng như chẳng có chuyện gì.
2.3.4. Sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc để miêu tả nhân vật
So sánh là một biện pháp tu từ dựa trên quan hệ đối chiếu giữa A với
B dựa trên nét tương đồng. A là sự vật được so sánh, còn B là sự vật dùng
để so sánh. Để xây dựng nhân vật (A), đặc biệt về mặt ngọai hình, hành
động, cử chỉ, Tô Hoài đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh so sánh độc đáo
(B). Nhà văn không dùng những hình ảnh mĩ lệ làm cho nhân vật trở nên
đẹp đẽ hơn. Cái độc đáo của Tô Hoài là những hình ảnh so sánh lại hết sức
bình dị đời thường đến không ngờ. Cách so sánh này khiến ta nhớ đến tác

43
giả Hồ Xuân Hương. Trước đây, bà Chúa thơ Nôm đã rất táo báo đưa những
hình ảnh bình dị dân giã để ví với con người như quả mít, cái quạt, bánh
trôi, con ốc sên... Qua những hình ảnh đó, tác giả muốn nói về thân phận
đau khổ của người phụ nữ và tâm hồn trong trắng, thuỷ chung của họ.
Nhưng xét cho cùng, đó là những hình ảnh so sánh ngầm để Hồ Xuân
Hương nói về cuộc đời và số phận của người phụ nữ. Còn Tô Hoài sử dụng
hình ảnh so sánh miêu tả trực tiếp hình dáng, cử chỉ. Những bộ phận ngoại
hình của nhân vật như thân, đầu, mắt, mặt, miệng, nước da, cánh tay...đều
được ví với những sự vật quen thuộc như: “dải khoai”, “chiếc que tăm”,
“cây lứa nép”, “quả mít”, “mắt vịt”, “múi quít”, “vàng nghệ”, “đẵn mía”...
Cụ thể như sau: “ông chủ mặt thì xám, gầy leo kheo như cây lứa lép”, “đứa
con nhỏ sài đẹn, lom khom như chiếc dải khoai”, “nó gầy đét như chiếc que
tăm”, “lái Khế béo tròn như quả mít”, “đôi mắt hắn lơ láo như mắt vịt”,
“mặt Mây đỏ hồng, đôi môi ngon và mòng mọng như múi quýt ngọt”... Nhờ
những hình ảnh so sánh bình dị như thế, bức chân dung của nhân vật hiện
lên vừa cụ thể, vừa sinh động và đa dạng.
Hệ thống so sánh tu từ của Tô Hoài có thể chia làm ba loại chính.
Người nông dân thường được so sánh với loài vật, vật vô tri vô giác trong
hình hài khổ sở, đói kém, quanh quẩn; rất ít những hình ảnh lãng mạn, hiền
hoà mà mọi thứ đều cục mịch, thô ráp, xù xì như chính những kiếp đời u
uẩn. Những con vật lại được ví von với những đặc tính của con người. Sự so
sánh ấy đã cụ thể hoá một cách gần gũi thế giới loài vật đồng thời khiến
người đọc nhận ra cuộc sống của con vật gắn bó với con người. Kiếp loài
vật cũng đói rách, khổ sở cũng chẳng khác gì kiếp người. Hay tác giả viết về
con vật để nói đến kiếp người đầy đau khổ. So sánh đựơc dùng khi miêu tả
những nhân vật trẻ thơ, nhà văn thường dùng những hình ảnh rất ngộ
nghĩnh, đáng yêu thể hiện tính vô tư, hồn nhiên của trẻ nhỏ: “Trẻ con thì

44
trần truồng như những viên đá cuộc”[ Nhà nghèo, tr 154]; “chúng ôm nhau,
khò khè ngủ như hai con chó ốm” [Buổi chiều ở trong nhà, tr 161].
Tiểu kết
Nhân vật trong tác phẩm Tô Hoài là những con người bình dị, chủ yếu
sinh sống ở làng quê Nghĩa Đô. Họ là nông dân thợ thủ công, trí thức tiểu tư
sản và những con vật quen thuộc gắn bó với cụôc sống hàng ngày. Nhờ
khiếu quan sát, sự miêu tả tường tận tỉ mỉ ngoại hình, hành động, cử chỉ của
nhân vật và những chi tiết về phong tục cùng với hình ảnh so sánh độc đáo
mà bức chân dung những người dân quê ấy hiện lên thật sinh động với nhiều
dáng vẻ, tính cách, số phận khác nhau. Hiện lên trong tâm trí người đọc, một
vùng quê nghèo đói, tăm tối, những con người bình dị khốn với biết bao
khát vọng, lo toan và cả những thói tật đời thường. Qua đó, ta thấy được tài
năng văn chương và tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương của nhà văn
Tô Hoài.

45
CHƯƠNG III
ĐẶC ĐIỂM KẾT CẤU, TÌNH HUỐNG
TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

3.1. Kết cấu


3.1.1. Khái niệm kết cấu
Kết cấu là phương diện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Một tác phẩm
nghệ thuật nếu thiếu vắng kết cấu thì bản thân nó chưa thành một chỉnh thể
nghệ thuật. Kết cấu của tác phẩm văn học là toàn bộ tổ chức phức tạp và
sinh động gợi cảm của tác phẩm, dưới sự chi phối của một quan điểm nghệ
thuật nhất định.
“Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác
phẩm, phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà
văn tự đặt cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc
sống và tư tưởng trong tác phẩm” [35, tr 295].
Như vậy, mọi phương diện tổ chức tác phẩm từ nhỏ nhất như ví von,
ẩn dụ, câu, đoạn cho đến tổ chức trần thuật, hệ thống hình tượng, thể loại,
cốt truyện... đều thuộc phạm vi của kết cấu. Chúng đan dệt vào nhau để tạo
ra tính hình tượng và chiều sâu nội dung của tác phẩm.
Về kết cấu của truyện ngắn, cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Nguyễn
Minh Châu Trang giấy trước đèn: “Truỵên ngắn như thân cây cổ thụ; chỉ
liếc qua những đường vân trên khoang gỗ tròn kia, dù sau trăm năm vẫn
thấy cả cuộc đời của thảo mộc”. Theo ông, viết truyện ngắn cần có kĩ xảo
“nó có gì giống như kĩ thuật của người làm pháo; dồn nén tư tưởng vào một
cái cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên”. Nguyễn Minh Châu đã so sánh
“Tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là mặt cắt của dòng
đời”[5, tr 251]

46
Nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng: “Truyện ngắn thường chỉ phản ánh
một khoảnh khắc, một mẩu nhỏ nào đó của cuộc sống. Nhưng cuộc sống
không phải diễn ra trên một mặt phẳng nên các mẩu nhỏ đó vẫn là một khối
- hơn nữa một khối chuyển động” [50, tr 101]
Ma Văn Kháng nhấn mạnh rõ vai trò của kết cấu: “Vấn đề là anh tổ
chức sao cho truyện của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Như người ta vẫn
nói, toàn truyện là một vòng khép kín, không dài quá, không xô đẩy xộc
xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”[50, tr 101]
3.1.2. Kết cấu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng
3.1.2.1. Kết cấu theo trình tự thời gian
Ghi lại cuộc sống đời thường với bao lo toan vặt vãnh của những dân
ở vùng quê dệt lụa, Tô Hoài sử dụng kiểu kết cấu phù hợp với trật tự của các
sự kiện diễn ra theo thời gian, theo số phận cuộc đời của các nhân vật chính.
Có 19 tác phẩm được viết theo kết cấu theo trình tự thời gian gồm: Lụa,
Đêm gác rừng, Lá thư tình đầu tiên, Đi tắm đêm, Hết một buổi chiều, Bóng
đè, Nhà có ma, Mùa ăn chơi, Giữa thành phố, …chiếm 73%. Như vậy tác
giả chủ yếu viết truyện theo trật tự tuyến tính.
Kết cấu theo trình tự thời gian khiến cho câu chuyện của Tô Hoài
dung dị gần gũi với những truyện dân gian. Nguyễn Công Hoan cũng lựa
chọn theo kiểu kết cấu này. Nhưng không giống Nguyễn Công Hoan, Tô
Hoài chú trọng sử dụng những cốt truyện đời thường kể theo trình tự tuyến
tính làm cho câu chuyện diễn ra theo nhịp điệu của cuộc sống thường nhật,
lời kể của ông nhẩn nha, thong thả, chậm rãi, sự việc được kể tuần tự hết sức
tự nhiên.Trong truyện Nguyễn Công Hoan, câu chuyện không diễn ra đều
đều như vậy. Nhà văn muốn gây ấn tượng mạnh đến người đọc nên các sự
việc trong truyện của ông được nén lại để rồi người đọc hoàn toàn bất ngờ
khi câu chuyện kết thúc

47
Truyện của Tô Hoài kể về những con người đời thường với sinh họat
hàng ngày nên lựa chọn kết cấu này là phù hợp. Cuộc sống của người dân
quê trôi chảy theo dòng thời gian. Những trai gái sinh ra và lớn lên ở làng.
Họ yêu nhau và lấy nhau rồi sinh con đẻ cái ở đấy. Tuy nhiên, không phải
bất cứ mối tình quê nào cũng thành. Chuyện của Lụa cũng như vậy (Lụa).
Cô yêu anh Nguyên đã lâu, họ chỉ chờ đến ngày cưới. Cuối cùng họ vẫn
phải chia tay vì tuổi không hợp nhau. Lụa và Nguyên đều đi lấy người khác.
Mặc dù có buồn nhưng dòng đời vẫn tiếp tục, chuyện tình của Lụa và
Nguyên cũng giống như bao chuyện tình khác ở cái làng Nghĩa Đô, yêu mà
không lấy đựơc nhau. Khác với Lụa, Lá thư tình đầu tiên lại kể về tình yêu
đơn phương. Anh Cuông thầm yêu trộm nhớ cô Mì đã lâu mà không có cách
nào bày tỏ. Biết cô là người hay chữ nên Cuông đã cố gắng âm thầm học.
Đến khi anh đọc thông viết thạo và tự mình có thể viết được bức thư bày tỏ
tình yêu với Mì thì cô cũng đi lấy chồng. Kết truyện anh Cuông đã phải đốt
lá thư ấy đi và giữ mãi trong lòng tình yêu với cô Mì. Không chỉ viết về tình
yêu, mà biết bao những câu chuyện đời khác cứ tuần tự diễn ra. Bóng đè, cô
con dâu ông bà cả Luỹ bị bóng đè trông ốm yếu và rũ rưỡi khiến hai ông bà
rất lo lắng. Họ đã tìm mọi cách để chữa cho con nhưng chỉ được một thời
gian sau đó bệnh lại tái phát trở lại. Ông cả Luỹ đã phát hiện ra điều gì. Buổi
tối ông liền nằm ngay phòng ngoài cạnh ngay phòng con. Từ đó, cô con dâu
cũng hết bệnh. Thì ra trong lúc chồng đi vắng, cô đã ngoại tình với người
khác. Nhà có ma kể lại một ngôi nhà gia đình ở một phố vắng gần vùng đất
ngoại ô Tây Hồ. Người ta đồn rằng có ma. Có rất nhiều người khác đến đây
thuê nhưng họ đều phải bỏ đi hết. Nhân vật tôi rất tò mò đã đến đây thuê.
Nửa đêm hôm ấy, anh nghe có tiếng khóc hờ, tiếng đấm đá huỳnh huỵch lúc
đầu anh rất sợ. Sau đó anh mới phát hiện đó là tiếng ông bà chủ. Mặc dù rất
cô gắng chịu đựng nhưng anh cũng chỉ ở được ít này. Nhân vật tôi đành phải
chào từ biệt ngôi nhà ấy.

48
Có lẽ cách kể từ từ theo dòng thời gian làm câu chuyện diễn ra giống
với nhịp độ của đời sống. Làng quê ấy vất vả bộn bề với biết bao lo toan. Họ
là những con người chân chất và cũng có nhiều thói tật. Câu chuyện gia
đình, câu chuyện tình yêu cho đến tâm tư tình cảm của người dân làng
Nghĩa Đô nhẹ nhàng bước vào trang truyện của Tô Hoài. Họ cũng có buồn
có vui nhưng phảng phất nét buồn nhiều hơn. Bởi quê hương còn nhiều đói
kém, họ ngày họ vẫn phải làm việc vì miếng cơm manh áo. Làng quê đã có
lúc sa sút lụn bại, con người lâm vào cảnh thất nghiệp, túng quẫn khó khăn,
phải bỏ quê đi tha hương cầu thực ở chốn quê người. Lựa chọn kết cấu theo
dòng thời gian, Tô Hoài đã khiến cho những câu chuyện đời thường không
bị tẻ nhạt, vụn vặt mà lắng đọng. Thậm chí viết về cái buồn nhưng không
quá đau thương. Hay người ta chấp nhận cái buồn, cái đau thương giống như
một điều vốn có của cuộc sống.
3.1.2.2. Kết cấu đảo lộn trình tự thời gian
Một trong những hình thức mới mẻ mà truyện ngắn từ đầu thế kỷ XX
đem đến trên phương diện kết cấu cốt truyện là sự đảo lộn thời gian của sự
kiện - tức là nghệ thuật trần thuật không tuân theo trình tự diễn biến của cốt
truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính (đi từ “nhân” tới “quả”). Các truyện
này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của cốt truyện tự nhiên.
Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt truyện là một đặc
trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại.
Trong những truyện ngắn trước Cách mạng, có 7 tác phẩm được viết
theo trình tự đảo lộn thời gian: Một chuyến định đi xa, Nhà nghèo, Một
người đi xa về, Giữa thành phố, Vợ chồng trẻ con, Khách nợ, Chớp bể mưa
nguồn chiếm hơn 27% trong tổng số 26 truyện ngắn trong tuyển tập. Đây là
một nét mới về đặc điểm kết cấu truyện Tô Hoài và cũng là cách tân so với
truỵên ngắn thời bấy giờ. Truyện của ông không kể tho tuyến tính thời gian
mà đan xen lẫn hiện tại và quá khứ, kể theo dòng hồi tưởng của nhân vật.

49
Một chuyến định đi xa bắt đầu tự sự việc gã sẽ đi Sài Gòn bởi gã thấy
cuộc sống tẹp nhẹp đã nhai như nhai lại một cách uể oải như thế, mất bao
thời giờ. Gã quyết định đi Sài Gòn. Gã nhớ lại trước kia khi còn hai mươi
tuổi gã đã có một mối tình quê. Hai người đã định bỏ đi vì cha mẹ ngăn cấm
không cho lấy nhau. Gã đã quyết ra đi nhưng còn cô gái cuối cùng lại trở về.
Kết thúc truyện, chàng trai ấy đã ở Sài Gòn, thành phố rực rỡ ánh đèn, hối
hả nhưng cũng nhiều hỗn độn và sóng gió. Gã lại nhớ đến người yêu xưa.
Một người đi xa về mở đầu bằng việc anh Tại xa quê đã nhiều năm
nay anh trở về làng. Không còn rách rứơi như trước, anh Tại đã giàu có hơn.
Câu chuyện lại trở lại về những ngày tháng xưa, lí giải vì sao anh Tại đã ra
đi. Mùa đông năm ấy, anh Tại mượn người đến nhà cô Pha đánh tiếng. Nhà
cô Pha đã bằng lòng. Anh mừng rơn cố dành dụm tiền để lo cho đám cưới.
Không ngờ, cô Pha lại đi lấy người khác. Anh Tại đau khổ, anh nhận ra anh
quá nghèo nên mới bị người ta phụ tình. Giữa năm anh bỏ đi Nam Kì. Giờ
đây, anh trở về có thể vênh vang với làng nước. Cô Pha bây giờ lại sống
trong nghèo đói, nheo nhóc. Cô tiếc ngày xưa.
Ông dỗi cũng viết theo kiểu kết cấu như vậy. Ông Múi dỗi vì bà vợ
chỉ cho ăn hai bát cơm. Ông nhớ lại ngày xưa ông là lính thổi kèn, ông đã
gửi biết bao tiền về cho vợ. Bà Múi đã tiêu hết số tiền của ông. Đến khi ông
trở về ông vẫn bàn tay trắng. Giờ đây ông phải ăn nhờ ở vợ. Ông dỗi nhất
định không thèm. Những ngày sau đó, ông bắt được gì ăn nấy. Cả đêm hôm
ấy ông đã bị đau bụng đi ngoài vì ăn nhái bữa chiều. Cuối cùng, ông lại ăn
với vợ.
Những câu chuyện được viết theo dòng hồi tưởng của nhân vật chính.
Thực tại là kết quả của quá khứ. Cụôc đời trước mắt đầy rẫy những nghèo
túng bất hạnh khiến họ suy ngẫm nghĩ về ngày xưa. Họ muốn lí giải tại sao
mình phải khổ. Quá khứ tràn ngập trong tâm trí khiến họ luyến tiếc khôn
nguôi.

50
Ở Tô Hoài, những câu chuyện bị xáo trộn thời gian không nhiều. Các
nhân vật chỉ đơn tuyến, không phải đa tuyến nên không cùng một lúc có
nhiều mạch kể chuyện, nhiều sự xáo trộn. Hoặc cùng một mạch kể, nhân vật
chính cũng không nhớ về nhiều thời điểm khác nhau trong kí ức. Thực ra
trong khuôn khổ một truyện ngắn, lại viết về những chuyện cỏn con đời
thường thì cũng khó có thể tạo nên nhiều mạch kể chuỵên, nhiều sự xáo trộn
thời gian. Lựa chọn cách kể đảo lộn trình tự thời gian theo dòng hồi tưởng
của nhân vật làm cho câu chuyện của Tô Hoài trở nên lắng đọng gợi nhiều
suy nghĩ, nhân vật có chiều sâu tâm hồn. Không chỉ Tô Hoài, các nhà văn
trữ tình lãng mạn như Thạch Lam, Thanh Tịnh cũng kết cấu truyện theo
dòng tâm lí của nhân vật. Có lúc nhân vật hồi tưởng về quá khứ, có lúc lại
cảm giác về hiện tại. Họ chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật, những
điều họ cảm thấy, nhận thấy, rung động. Nhân vật của Tô Hoài dù có hoài
niệm về quá khứ nhưng không chỉ những gì nhân vật cảm thấy, mà còn là
những gì đã xảy đến, diễn ra với họ. Vì vậy, cũng là hồi tưởng nhưng nhân
vật Tô Hoài chủ yếu hồi tưởng về sự việc, những diễn biến của kỉ niệm đọng
lại trong tâm trí. Kết cấu đảo lộn trình tự thời gian cũng có ở các sáng tác
của Nam Cao. Nhân vật của ông nhớ lại quá khứ để nhận thức hiện tại, mổ
xẻ và tự soi xét lấy mình. Trong truyện Lão Hạc, nhân vật chính kể lại việc
bán con Vàng với ông giáo. Lão luôn cảm thấy tự trách mình vì chót lừa một
con chó. Lão dằn vặt đau đớn, tưởng tượng đôi mắt của con Vàng dường
như đang trách móc mình. Lão khóc hu hu. Cũng là hồi tưởng, là suy nghĩ
nhưng nhân vật của Tô Hoài không tự dằn vặt mình như vậy. Họ nghĩ về
quá khứ để nhớ nhung luyến tiếc nhưng họ vẫn chấp nhận tất cả khi đối diện
với hiện tại. Đó cũng là tính cách của người dân quê vốn an phận thủ
thường, hiền lành chân chất. Tô Hoài lựa chọn kiểu kết cấu như vậy cũng là
phù hợp với câu chuyện với nhân vật của mình. Thực tế kết cấu đảo lộn
trình tự thời gian đã xuất hiện ở những năm 1930-1945 nhưng chưa nhiều,

51
chủ yếu các tác giả lựa chọn kiểu kết cấu theo trật tự thời gian tuyến tính.
Đây cũng là điểm sáng tạo của Tô Hoài trong nghệ thuật viết truyện ngắn.
Ngày nay, cách kể như vậy đã được nhiều nhà văn lựa chọn và làm nó phát
triển tinh vi, phức tạp hơn.
3.1.2.3. Kết cấu với kết thúc bất ngờ và để ngỏ
Nhà văn Sê khôp nhận định: “theo tôi, viết truyện ngắn, cốt nhất phải
tô đậm Cái mở đầu và kết luận” [6, tr 765]. Cũng như vậy, các nhà phê bình
nhất trí rằng “ấn tượng duy nhất, và mạnh mẽ mà truyện ngắn tạo nên đa
phần là nhờ vào kết thúc bất ngờ thường làm người đọc hụt hẫng, bàng
hoàng” [6, tr 765]
Khảo sát những truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng, chúng tôi
nhận thấy Tô Hoài nhiều lần sử dụng kết thúc bất ngờ và để ngỏ. Có đến 8
truyện như vậy chiếm 30% trong số những truyện ngắn của Tô Hoài trước
Cách mạng như Nhà nghèo, Lụa, Đêm gác rừng, Lá thư tình đầu tiên,
Chuyến định đi xa , Bóng đè , Khách nợ, Truyện gã chuột bạch.
Truyện Nhà nghèo kết thúc là cái Gái chết vì bị rắn cắn mà câu
chuyện được mở ra là vợ chồng anh Duyện cái nhau kịch liệt. Truyện Lụa
khiến người đọc bất ngờ vì Lụa và Nguyên đi lấy chồng mà trước đó hai
người yêu nhau tha thiết tưởng không gì chia cắt. Khách nợ kể về Lái Khế
vốn hống hách đến nhà hương Cay để đòi nợ nhưng rút cuộc không đòi nợ
được mà hắn chết vì chó dại cắn…
Những câu chuyện kết thúc bất ngờ lại thường gợi trong lòng người
đọc nhiều suy nghĩ. Truyện đã hết nhưng mạch kể của nó dường như vẫn
còn tiếp tục, miên man trong tâm tưởng của độc giả. Những cuộc đời, số
phận của các nhân vật dường như vẫn còn tiếp tục. Cái Gái chết, vợ chồng
anh Duyện và những đứa con của anh chị rồi sẽ sống ra sao? Gánh nặng vì
miếng cơm manh áo sẽ đè nặng lên gia đình anh chị như thế nào? Cuộc đời
của con người thật ngắn ngủi! Sự chia tay của Nguyên và Lụa cũng khiến

52
người đọc suy nghĩ. Lí do không hợp tuổi của họ có đúng hay không? Tình
yêu của họ nồng nàn hay cũng chỉ là hời hợt. Tại sao họ lại vội vã lấy người
khác như vậy. Đâu phải cái nghèo ngăn trở tình yêu của họ. Họ không giữ
nổi tình yêu vì họ thiếu hiểu biết, vì họ cũng ấu trĩ như những người dân quê
ở cái làng này. Cái nghèo làm họ khổ sở, cái ngu dốt cũng làm họ tối tăm.
Kết cục của Lái Khế cũng bi thảm. Kẻ hống hách ấy cũng nào có sướng gì.
Hắn làm kẻ đòi nợ thuê cho người ta. Khi hắn chết, người ta cũng chỉ cho vợ
con hắn một cái quan tài gỗ tạp. Con hắn cũng thật tội nghiệp, lếch thếch,
gầy đét như chiếc que tăm. Thực tế, người nông dân trước Cách mạng tháng
Tám đều khổ, có thể mỗi gia đình, mỗi con người có những nỗi khổ khác
nhau. Họ khổ vì sống trong nghèo đói và hủ tục lạc hậu. Họ khổ vì trong
làng vẫn còn có kẻ sẵn sàng chà đạp lên người khác để kiếm sống...
Cũng có nhiều nhà văn sử dụng kết thúc bất ngờ. Nhưng mục đích sử
dụng lại rất khác nhau.Thường kết thúc bất ngờ cho người đọc sự ngạc
nhiên, thú vị. Nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng sử dụng kiểu kết cấu này để
gây ấn tượng với người đọc đồng thời qua kết truyện nhà văn muốn phê
phán thực trạng xã hội rối ren, điên đảo. Kết thúc truyện Kép Tư Bền, bà mẹ
chết còn Tư Bền thì nhận được “tập giấy bạc”. Nhà văn đã tố cáo sâu sắc thế
lực đồng tiền, nó có sức mạnh vạn năng. Nguyễn Công Hoan sử dụng kết
thúc bất ngờ dùng để tô đậm tính cách, lật trái một bức chân dung nhân vật:
tô đậm sự lẳng lơ đồi truỵ của cô Nguyệt [Oẳn tà roằn], lật tẩy bộ mặt phản
bội đến tàn nhẫn của một người vợ [Thế là mợ nói đi Tây] hoặc hoàn thiện
thêm lí lịch cho quan lại, ngoài “chơi gái và đánh bạc” quan còn biết cả ăn
cắp [Đồng hào có ma]. Những kết thúc bất ngờ trong truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan thường có giá trị tố cáo, lên án xã hội mạnh mẽ.
Khác với Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài sử dụng kết thúc bất ngờ
không phải nhằm mỉa mai chế giễu hay tố cáo lên án xã hội. Kết thúc bất
ngờ, trong tác phẩm của ông vừa để miêu tả hiện thực đời thường đồng thời

53
lại gợi bao suy nghĩ trong lòng người đọc. Chúng ta tưởng mình đang đứng
trước một dòng sông nhỏ hiền hòa, không ngờ ở dưới đáy sông còn biết bao
sóng ngầm. Làng quê bình dị, những người nông dân chân chất, hiền lành.
Đằng sau đó, là biết bao bi kịch, biết bao nỗi buồn, bao lo toan, bao sự mất
mát dang dở. Với lối kể chuyện hóm hỉnh, kết thúc bất ngờ, bên ngoài tưởng
như cái hiện thực bề bộn, tối tăm, những bi kịch ở làng quê đã được làm dịu
bớt. Thực tế những đau thương vẫn ẩn chứa trong mỗi câu chuyện. Mặc dù
truyện đã kết thúc nhưng số phận cuộc đời của những con người ở làng quê
ấy vẫn nhức nhối trong lòng người đọc.
Kết thúc như vậy thể hiện tài năng của Tô Hoài và tính đa thanh của
tác phẩm của ông.
3.1.2.4. Kết cấu đơn giản đan xen với trữ tình ngoại đề
Kết cấu truyện đơn giản thường thông qua ba cảnh. Cảnh một là một
biến cố bất thường hoặc căng thẳng. Ở cảnh hai tác giả dùng ánh sáng của
quá khứ để giải các sự kiện bất thường ở cảnh một. Và ở cảnh ba thường là
một kết thúc bi kịch hoặc một kết thúc buồn chua chát.
Chớp bể mưa nguồn có kết cấu ba màn cảnh như vậy. Cảnh đầu bà
Móm đi tự tử. Cảnh hai bà Móm mâu thuẫn với con dâu. Cảnh ba vợ chồng
người con trai bỏ đi. Bà Móm thương nhớ con trai.
Ông giỗi cũng có kết cấu như vậy. Cảnh một, ông bà Múi ăn cơm.
Ông Múi giỗi vì bà chỉ cho ăn hai bát cơm. Cảnh hai, ông Mí bắt ốc nhái ăn
không thèm ăn cơm của vợ. Cảnh ba, ông bị đau bụng và cuối cùng lại phải
nhờ đến vợ.
Trong truyện Nhà nghèo, cảnh một, vợ chồng anh Duyện cãi nhau.
Cảnh hai, vợ chồng anh Duyện đi bắt nhái. Cảnh ba, anh Duyện tìm thấy xác
cái Gái bị rắn cắn chết.
Trong các câu chuyện thường đan xen phần trữ tình ngoại đề.

54
“Trữ tình ngoại đề là một trong những yếu tố ngoài cốt truyện; một bộ
phận của ngôn ngữ người kể chuyện trong các tác phẩm thuộc loại hình tự
sự, trong đó tác giả hoặc người kể chuyện trực tiếp bộc lộ tư tưởng tình cảm
quan niệm của mình đối với cuộc sống và nhân vật được trình bày trong kết
truyện” [ 18, tr 255].
Phần trữ tình ngoại đề đã tạo nên giọng điệu phức hợp của tác phẩm.
Lời văn khi thì xót xa: “Đám ma lái Khế, bốn người khiêng chiếc hòm
ra tha ma sau làng. Theo sau quan tài, vợ lão khóc ti tỉ. Thằng con lếch thếch
đi bên cạnh mẹ. Bố nó cao lớn thế mà nó gầy đét như chiếc tăm”[Khách nợ,
tr 281]
Có lúc ngôn ngữ của người kể chuyện lại mỉa mai nhất là với những
kẻ phụ tình và bộc lộ niềm cảm thông, xót thương với chàng trai đã bị phụ
tình: “Nhưng, nếu ai chịu khó để ý tất thấy cô gái nọ, mỗi khi ở nhà chồng
về nhà mình lại đi vòng cánh đồng vào trong xóm chớ không đi qua bờ
giếng như mọi người khác. Song nào ai biết đâu mà để ý. Đêm ấy chỉ có
mỗi một ông trăng ngồi trên trời là nhìn được tỏ tường từ đầu đến cuối.
Song ả đừng lo. Ông trăng thì ông ấy không biết nói.” [ Ông trăng không
biết nói, tr 266].
“Chao ôi! Ai đo được nỗi khổ của anh chàng Hẹn bây giờ. Khi cái
việc tầy đình kia đến tai thì anh choáng váng cả người. Biết bao nhiêu điều
mơ ước đã đặt vào người con gái ấy. Thơ của anh làm hay đến thế mà cô ta
chóng quên thật. Người đâu lại có người vô tâm phụ tình nhanh chóng vậy,
hả trời”[Vàng phai, tr 255]
Nhân vật người kể chuyện đôi khi không nói thẳng vấn để mà tạo nên
sự nghi hoặc trong lòng người đọc khiến họ phải suy nghĩ: “Mợ phán buồn
gì thế? Mợ khỏi bóng đè rồi kia mà?”
Nhờ những câu văn trữ tình ngoại đề mà độc giả có thể hiểu được
những suy nghĩ và thái độ của Tô Hoài với nhân vật và sự việc trong truyện.

55
3.2. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám
3.2.1. Khái niệm về tình huống
Tình huống là một trong những yếu tố tạo nên nét đặc trưng của
truyện ngắn.
Hêghen quan niệm: “Tình huống là một trạng thái có tính chất riêng
biệt và trở thành được quy định ở trong thuộc tính này của nó. Tình huống
góp phần biểu lộ nội dung là cái phần có được một sự tồn tại bên trong bằng
sự biểu hiện nghệ thuật. [49, tr110]
Nhà văn Mỹ Fanlkner cũng đánh giá rất cao vai trò của tình huống:
“Hành động làm nên bản chất của truyện ngắn nhưng phải có tình huống thì
mới có hành động. Còn truyện ngắn có sắc thái trữ tình không phải do cách
viết mà do hành động trong đó có sắc thái trữ tình. [ 37, tr79]
Lép Tônxtôi: “Cũng biểu hiện tư tưởng đạt hiệu quả cao nhất là qua
miêu tả các hình tượng, các hành động, các tình huống bằng từ ngữ” [14, tr
1977]
3.2.2. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám
Tình huống truyện Tô Hoài rất đơn giản. Nhà văn dường như không
tạo sự hấp dẫn bằng cốt truyện. Đóng vai trò quan trọng không còn là cốt
truyện mà là cái duyên, cái tài năng của người kể chuyện. Những tình huống
ta bắt gặp trong truyện ngắn của Tô Hoài đều là những tình huống vụn vặt
đời thường có thể xảy ra ở trong bất cứ gia đình nào. Khác với Tô Hoài,
Nguyễn Công Hoan thường sử dụng những tình huống li kì, tương phản, gây
ấn tượng với người đọc. Sức hút trong tác phẩm Tô Hoài là biệt tài kể
chuyện với những chi tiết đặc sắc và giọng điệu đa thanh. Lối kể nhẩn nha
lúc nhanh lúc chậm, tất cả những hình ảnh, âm thanh, màu sắc của con
người thiên nhiên hiện lên rõ ràng, sắc nét.
Những câu chuyện tưởng chừng như không có truyện của Tô Hoài
cũng rất gần gũi với những truyện ngắn trữ tình trước Cách mạng tháng

56
Tám như truyện của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh. Mặc dù vậy,
cũng có sự khác biệt. Những câu chuyện của các tác giả truyện trữ tình
được tạo nên bằng các ấn tượng cảm xúc. Truyện Tô Hoài được đan dệt
bằng những hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của nhân vật. Vì vậy, truyện ngắn
của Thạch Lam,Thanh Tịnh gần với thơ còn truyện ngắn của Tô Hoài lại
gần với đời hơn.
3.2.2.1. Tình huống đời thường
Với cảm quan hiện thực, Tô Hoài hướng ngòi bút về những người
xung quanh, những người dân làng Nghĩa Đô. Những câu chuyện về họ thật
bình dị gần gũi. Vợ chồng cãi nhau, chuyện nàng dâu xung khắc với mẹ
chồng, những cô gái làng đi tắm sông, kẻ đi đòi nợ thuê, con dâu tư tình với
người khác...
Tất cả những gì diễn ra trong cái làng quê ấy đã hiện lên thật sống
động tự nhiên trong trang viết của Tô Hoài.
Vợ chồng anh Duyện, vợ chồng anh Hối cãi nhau kịch liệt vì những
cớ không đâu. Chỉ vì giận vợ, anh Duyện đòi đốt nhà, anh Hối lại đánh vợ
đánh con. [ Nhà nghèo, Một buổi chiều ở nhà]
Bà Móm không chấp nhận cô con dâu không phải cưới hỏi gì. Điều
đó khiến cho mâu thuẫn giữa mẹ chồng ngày càng tăng. Cô con dâu không
chịu được đã bỏ đi và người con trai cũng ra đi nốt để lại bà Móm sống cô
đơn. [Chớp bể mưa nguồn]
Hết một buổi chiều mà nhà văn nọ chưa viết được trang nào. Hắn loay
hoay sửa bàn. Hắn nghĩ vẩn vơ về tác phẩm định định viết. Nhưng cuối cùng
hết một buổi chiều mà gã vẫn chưa làm được gì. [ Hết một buổi chiều]
Cái Ngói và cu Phúc lấy nhau. Cu Phúc mười tuổi còn cái Ngói mười
hai tuổi. Để cái Ngói không khóc đòi về, đêm tân hôn, người ta phải mời
bạn của cô dâu đến chơi và ngủ cùng. Hôm ấy, cái Ngói cùng chồng về ăn
cơm ở nhà mẹ. [ Vợ chồng trẻ con]

57
Ông Mí dỗi vì vợ chỉ cho ăn hai bát cơm. Cuối cùng, sau ăn những gì
tự bắt được, ông đã đau bụng suốt đêm. Cuối cùng, ông lại làm lành với vợ
[Ông dỗi].
Những câu chuyện chẳng hề có xung đột dữ dội, các sự việc không
bị nén lại đẩy lên đến mức cao trào. Mà chỉ là những câu chuyện cỏn con
vụn vặt.
3.2.2.2. Tình huống bỏ làng ra đi
Cuộc sống nghèo khó, cùng túng quá đẩy những người trai làng phải
đi làm ăn xa. Họ muốn thoát li khỏi làng quê, muốn làm giàu.
Sài Gòn trong con mắt của người dân quê giống như là một miền đất
hứa khiến cho họ có thể đổi đời. Một chuyến định đi xa kể lại việc gã muốn
đi Sài Gòn. Gã đã hò hẹn với người yêu vào Nam. Nhưng cuối cùng người
con gái không đi chỉ có gã là ra đi. Sài Gòn tưng bừng hối hả dòng người
nhưng cũng hết sức vất vả, gieo neo.
Cuộc sống thành phố dù còn nhiều ồn ào, bon chen nhưng vẫn là nơi
hấp dẫn của nhiều chàng trai quê.
Lấm được chú Tư cho ra thành phố. Lấm thấy cái gì cũng lạ từ miếng
đá mát lạnh, trong suốt có thể ăn được đến sự ầm ĩ của xe cộ. Mặc dù chui
rúc nơi gác xép chật hẹp nhưng Lấm vẫn háo hức.[Giữa thành phố]
Nhưng dù đi đâu, họ vẫn mong muốn trở về quê hương.
Anh Tại bị người yêu bỏ đi lấy người khác. Sau nhiều năm, anh khá
giả hơn. Anh lại trở về làng [ Một người đi xa về].
Bỏ làng ra đi chỉ là một giải pháp khốn cùng vì cuộc sống quá nghèo
túng, vì bi kịch gia đình. Thực chất là người dân quê rất gắn bó với quê
hương. Thành phố có hấp dẫn nhưng với họ chỉ là nơi làm ăn. Họ cố gắng
làm việc, dè xẻn chắt chui có tiền để rồi họ lại trở về sống những năm tháng
còn lại của cuộc đời mình với làng quê.

58
3.2.2.3. Tình huống chia li
Những cuộc chia li cũng là đề tài để nhiều tác phẩm văn chương viết
nên. Những cuộc chia li thường bao giờ cũng thấm đẫm nước mắt. Ở Tô Hoài,
những cuộc chia li có buồn nhưng nó được viết bằng giọng điệu vui đùa,
hóm hỉnh, đôi lúc lai dửng dưng. Vì vậy, nỗi buồn dường như được vơi đi.
Những chàng trai cô gái ở làng yêu nhau tha thiết nhưng rồi tình yêu
tan vỡ. Bởi rất nhiều lí do vì không hợp tuổi [Lụa], vì cô gái phải đi lấy
chồng [Ông giăng không biết nói], vì cô gái đã tìm người khác giàu sang
hơn chàng trai [ Một người đi xa về, Vàng phai]. Có cuộc chia li diễn ra lặng
lẽ đường ai nấy đi, chàng trai thì lấy vợ, còn cô gái cũng nhanh chóng đi lấy
chồng [Lụa]. Có cuộc chia li là bi kịch đớn đau, người con trai chết trong đêm
gặp nhau với người yêu lần cuối [Ông giăng không biết nói]. Có cuộc chia li
để lại niềm căm giận nuối tiếc trong lòng [ Một người đi xa về, Vàng phai].
Tô Hoài có biệt tài miêu tả về thế giới loài vật. Chúng hiện lên sinh
động với những tính cách của con người. Thế giới ấy cũng không bình yên,
có hợp có tan. Anh gà trống ri mãi mới tìm thấy một người bạn tình. Anh mê
lắm. Cuối cùng người ta lại làm thịt cô bạn gà bé nhỏ của anh. Anh đã ngẩn
ngơ thương tiếc bạn tình [Gà trống ri]. Ả gà mái phong trần với anh gà chọi,
một tay anh hùng hảo hán có với nhau một đàn gà con. Sau một trận dịch,
đàn gà con bệnh chết và cả tay anh hùng cũng không thoát. Chỉ còn ả gà mái
cô đơn, buồn rầu [Một cuộc bể dâu]. Vợ chồng gã chuột bạch hàng ngày
sống quanh quẩn trong cái lồng xinh xắn. Chúng suốt ngày chỉ có ăn và
đánh vòng. Một ngày kia, vợ gã ăn phải con bọ ngựa, bị hóc mà chết. Gã
còn lại một mình tiếp tục với việc ăn và đánh vòng.
Cuộc sống người dân làng Nghĩa Đô vẫn trôi chảy theo dòng đời. Ở
nơi ấy, người dân vẫn tiếp tục gồng mình để sống vì họ luôn phải đối diện
với cái nghèo, cái đói, ốm đau, bệnh tật và cả những hủ tục phong kiến lạc
hậu. Những cuộc chia li, những bi kịch tình yêu, bi kịch gia đình được Tô

59
Hoài miêu tả hết sức nhẹ nhàng mà ám ảnh trong lòng người đọc. Cho dù đó
là thế giới loài vật hay con người nhưng cũng chẳng sung sướng hơn nhau.
Tô Hoài không đao to búa lớn, không mạnh mẽ, gay gắt lên án xã hội bất
công. Nhưng tác phẩm của ông lại có giá trị hiện thực rất lớn. Nguyên nhân
của sự đổ vỡ tình yêu, gia đình li tan không thể không vì xã hội thực dân
nửa phong kiến thời bấy giờ. Xã hội tối tăm với những hủ tục nặng nề, xã
hội bóc lột làm cho người dân càng trở nên nghèo đói, xã hội bon chen, đạo
đức con người suy thoái người làng quê cũng bị thói xấu ấy.

Tiểu kết
Kết cấu và tình huống trong truyện Tô Hoài rất đơn giản. Ông không
hấp dẫn người đọc bởi kết cấu và tình huống mà là biệt tài kể chuyện. Đa số
các tác phẩm của ông được kết cấu theo thời gian tuyến tính, cũng có kết
cấu đảo lộn trật tự theo dòng tâm lí của nhân vật nhưng không nhiều. Kết
cấu đơn giản thường diễn ra ba màn cảnh. Tô Hoài còn sử dụng những kết
truyện bất ngờ và phần trữ tình ngoại đề làm cho câu chuyện có nhiều giọng
điệu, trở nên sâu sắc hơn. Tình huống truyện của Tô Hoài đều là những tình
huống đời thường trong cuộc sống với những sự việc vụn vặt lẻ tẻ dường
như chẳng có gì đáng kể để nói, để viết. Nhưng tài năng của Tô Hoài ở chỗ
làm cho những chuyện tưởng chừng như không có gì ấy lại là có chuyện.
Bức chân dung con người đời thường hiện lên sinh động gợi cho người đọc
suy nghĩ về cuộc sống của họ. Những bài học nhân văn sau mỗi ứng xử của
con người trong cuộc sống hàng ngày. Tình yêu thương lẫn nhau vẫn là sợi
dây gắn kết người dân nơi đây. Bên cạnh đó, với tình huống chia li, dời bỏ
làng quê, người đọc còn nhận ra sự thật về cuộc đời nghèo đói và bất hạnh
của người dân làng Nghĩa Đô những năm 1930-1945. .

60
CHƯƠNG IV
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN
TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

4.1. Ngôn ngữ


4.1.1. Khái niệm ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. M.Gorki khẳng
định “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Có nghĩa là không có ngôn
ngữ thì không thể có tác phẩm văn học. Nhờ có ngôn ngữ, mà thế giới nhân
vật hiện ra sống động trước mắt người đọc. Qua đó, độc giả mới có thể hiểu
được những nội dung tư tưởng, chủ đề tác phẩm được gửi gắm đằng sau
hình tượng ấy. Vì vậy, văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ.
Ngôn ngữ đã được coi là một yếu tố quan trọng hàng đầu thể hiện cá tính
sáng tạo, phong cách và tài năng của nhà văn. Nh-ng không phải bất cứ thứ
ngôn ngữ nào cũng trở thành ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Nhà văn
phải trau dồi, mài giũa, chắt lọc và kết hợp với khả năng sáng tạo của mình
để biến ngôn ngữ toàn dân thành ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Ngôn
ngữ của mỗi nhà văn có sự riêng biệt, độc đáo khác nhau.
4.1.2. Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng
tháng Tám
Tô Hoài đã từng khẳng định: “Ngôn ngữ truyện ngắn thường mang
tính chất đậm đặc chắt lọc, trong sáng và dễ hiểu. Cho nên muốn học viết
phải bắt đầu bằng ngôn ngữ truyện ngắn, như vậy nó luyện cho biết tiết
kiệm từ ngữ, biết cách viết cho cô đọng và đối với truyện ngắn nhà văn cần
phải biết viết ra những câu của mình… không có những câu của mình trong
truyện ngắn không có ý nghĩa”[21,tr 121]
Khảo sát đặc điểm truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng theo
chúng tôi là không thể không tìm hiểu nghệ thuật ngôn ngữ của ông. Trong

61
bài viết Tô Hoài sinh ra để viết, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng : “Nói đến Tô
Hoài không thể không nói đến tài năng sử dụng ngôn ngữ của ông. Tô Hoài
rất ít khi dùng thứ ngôn ngữ óng ả, sặc mùi sách vở. Chữ nghĩa của ông cất
lên từ đời sống. Nhưng đó là thứ ngôn ngữ chắt lọc.” [8, tr 121]
Ngôn ngữ Tô Hoài có những nét đặc thù riêng, đã làm nên phong
cách của ông. Thử làm một phép so sánh đơn giản, ngôn ngữ Tô Hoài với
ngôn ngữ của Nguyễn Tuân ta đều nhận thấy đây là hai kiểu ngôn ngữ khác
nhau mặc dù họ đều là những bậc thầy về ngôn ngữ, sinh ra cùng thời và có
quan hệ rất thân thiết với nhau. Nguyễn Tuân đã tạo nên phong cách riêng
biệt bằng cách nói độc đáo, bằng trùng điệp liên tưởng, bằng những nét vẽ
phóng khoáng, những ấn tượng mạnh. Tô Hoài lại nhẩn nha, chi tiết đặc chất
tiểu thuyết, khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật là khoảng cách
gần gũi, suồng sã, phi sử thi. Có lẽ vì vậy, mà vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn
Tuân và Tô Hoài mang nét độc đáo riêng. Nguyễn Tuân truy tìm cái đẹp
đượm màu sắc lí tưởng. Đó có thể là cái đẹp vang bóng, có thể là cái đẹp
trong hiện tại nhưng trên nền hiện tại ấy mói cái đẹp hiện lên kì vĩ khác lạ.
Vì vậy, ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Tuân cầu kì, đa số ông sử dụng
những câu văn dài, trúc trắc trục trặc, người mới đọc Nguyễn Tuân đều có
cảm nhận chung “văn chương Nguyễn Tuân khó đọc”. Còn Tô Hoài, cái đẹp
hiện ra chính trong đời sống đời thường. Tô Hoài không trau chuốt văn theo
cách ép hoa trong tủ hay cầu kì một cách thái quá chữ nghĩa mà ông cắt tỉa
gọn giũa câu văn, tạo nên những cấu trúc ngữ pháp mới cũng là để văn gần
với đời sống. Đúng hơn, với ông, bản thân ngôn từ cũng chính là một thực
thể sống, nó không hề đóng vai trò như một thứ vật liệu tải chở nội dung
theo cách hình dung cơ giới giản đơn. Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “ngôn
ngữ của ông mềm mại, tung tẩy, nẫu nục chất dân gian. Đó là sự tinh tế của
một cây bút cao tay, là ý thức đạt tới sự giản dị của một sự khéo léo lớn.
Chính vì thế mà văn Tô Hoài không mòn cũ theo thời gian” [8, tr 115]

62
Nhìn chung đặc điểm ngôn ngữ trong truyện ngắn Tô Hoài trước
Cách mạng năm 1945 là ngôn ngữ giàu tính tạo hình, ngôn ngữ dân giã
và câu văn thường có cấu trúc ngữ pháp đơn giản, chủ yếu là những câu
văn ngắn.
4.1.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình
Tô Hoài đã từng quan niệm “mỗi câu văn là do từng hình ảnh xuất
hiện liên tiếp, từng chữ mang hình ảnh nối tiếp vào nhau [26, tr 512].
Ngôn ngữ văn chương Tô Hoài nói chung và đặc biệt trong truyện
ngắn Tô Hoài trước Cách mạng nói riêng rất giàu chất tạo hình. Ông thường
sử dụng những từ láy, tính từ, động từ giáu sắc thài biểu cảm và những hình
ảnh so sánh, để miêu tả cuộc sống con người thật rõ nét, cụ thể và vô cùng
sinh động.
Nhà văn Tô Hoài có biệt tài sử dụng những từ láy có tính tạo hình
cao. Theo nhà ngôn ngữ Hoàng Văn Thành thì từ láy là “những từ được cấu
tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho
quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hoà với nhau về
âm và về nghĩa, có giá trị biểu trưng” [51, tr 16]. Ngoài chức năng biểu hiện
khái niệm, từ láy còn có chức năng biểu cảm.“Mỗi từ láy chứa đựng trong
mình một sự thể hiện tinh tế và sinh động về sự cảm thụ chủ quan về cách
đánh giá và thái độ của người nói trước sự vật hiện tượng của đời sống xã
hội” [51, tr 6]. Từ láy có khả năng “làm cho người đọc, người nghe cảm thụ
và hình dung một cách cụ thể, tinh tế, sống động, màu sắc, âm thanh, hình
ảnh mà sự vật biểu thị” [51, tr 132]
Nhờ việc sử dụng có hiệu quả, tính tế, chính xác các từ láy, Tô Hoài
đã xây dựng bức chân dung của các nhân vật thật sống động, có hồn.
“Mây cười tít đi. Mây hay cười quá. Đôi má phúng phính lúm lại và
đỏ hây lên. Cặp mắt long lanh giữa đôi mí húp híp. Cái mắt mới tình tứ làm
sao...” [Vàng phai, tr249]. Những từ “phúng phính”, “long lanh”, “húp híp”

63
đã gợi tả sống động hình ảnh một cô gái thôn quê đẫy đà, căng tràn sức
sống. Tác giả còn đặc tả được tất cả những biến chuyển từ mắt đến má, khi
cô Mây cười. Má thì phúng phính lúm lại, cặp mắt lại long lanh, đôi mí thì
húp híp. Tuy nhiên, nét cười của cô Mây có một cái gì đó dung tục. Má
không chỉ phính mà phúng phính, mắt không chỉ híp mà húp híp. Các từ láy
“phúng phính” và “húp híp” càng làm gia tăng sự khuôn mặt béo và đôi mắt
nhỏ của Mây. Con người như Mẫy không hoàn toàn là cô gái quê thật thà
chất phát mà còn có gì đó ham hố, thô tục. Sau này, người đọc càng thấy rõ
điều đó, Mây đã nhanh chóng bỏ anh Hẹn để đi theo bác Quyền vực vì bác
tây và giàu có hơn.
Tô Hoài cũng sử dụng khá nhiều từ láy để miêu tả các hoạt động cử
chỉ của nhân vật. “Chị Duyện gặp cái Gái. Nó giơ giỏ lên khoe với u. Cái
giỏ đã được lưng lửng. Trong giỏ, nhái xô nhau oe óe. Con Gái nhe hai hàm
răng cải mả đen xỉn, cười toét. Rồi nó lại lễ mễ vác giỏ xuống một vệ ao gần
đấy. Trong khi mẹ nó tất tả ra miệt đầu đình [Nhà nghèo, tr 55]. Các từ láy
“lưng lửng”, “lễ mễ”, “tất tả” đã gợi tả cử chỉ, trạng thái của nhân vật.
“Lưng lửng” vừa diễn đạt cái Gái đã bắt được khoảng nửa giỏ nhái nhưng
vừa gợi trước mắt người đọc cái Gái đang vui vẻ khoe với mẹ, nó xóc xóc
giỏ nhái và chắc mẩm trong bụng vì đã bắt được nhiều. “Lễ mễ” là mang
“trên sức mình một vật cồng kềnh làm cho khó đi” [57 tr 468]. Một nửa giỏ
nhái thì làm gì đến mức mà cái Gái phải “lễ mễ” bê có nghĩa là cái Gái rất
gầy bé. Còn “Tất tả” có nghĩa là “nhanh khi bị một nhu cầu thúc giục” [57,
tr 748]. Chị Duyện mặc dù vừa cãi nhau với anh Duyện nhưng mọi thứ
dường như qua đi rất nhanh chị hăm hở ra đồng bắt ếch nhái như mọi người.
Từ “tất tả” vừa gợi tả dáng đi nhanh vội vã của chị Duyện vừa thể hiện tâm
trạng nóng lòng của chị Duyện hoà vào dòng người đang lũ lượt ra đồng, bắt
nhái cải thiện món ăn hằng ngày vốn đã rất đơn sơ của họ.

64
Những từ láy được sử dụng kết hợp biện pháp tu từ nhân hóa làm cho
đối tượng vô tri, vô giác bỗng trở nên sống động. “Thành phố Sài Gòn đẫm
trong ánh sáng, nó rực lên, chỗi lên dưới bóng điện chóe ngời. Thành phố
không chịu được sức điện quyến rũ gay gắt. Nó giẫy giụa, nó rên la: này này
từng dòng người dòng xe chuyển động phăng phăng, như không bao giờ biết
ngừng, biết đứng, lúc nào cũng hối hả, tất tưởi, tới tấp, sát cánh mà ngược
mà xuôi. Các thứ tiếng, không biết được của ai, ở đâu. Ô-tô toe toe. Xe điện
tun tun. Ôi thôi, biết thế nào mà kể! Phải nói cái thành phố đương bị dìm
vào một bể ánh sáng, chói quá, đương kêu ầm lên.[Một chuyến định đi xa, tr
202]. Thành phố Sài Gòn chói lòa ánh điện, ồn ào náo nhiệt cũng có tâm
trạng giống như con người hối hả, tất tưởi, tới tấp. Âm thanh của thành phố
hiện đại với những tiếng còi xe toe toe, tun tun ồn ã, đông đúc, nhộn nhịp.
Bên cạnh đó, những tính từ, động từ được Tô Hoài sử dụng cũng làm
cho các sự vật hiện lên rõ nét với tính chất, trạng thái rất tiêu biểu, không
chung chung mờ nhạt. Vàng là màu “vàng sọng”, “vàng ệch”, “vàng hoe”,
“vàng khè”; đen là “đen bóng nhoáng”, “đen đủi”, “đen xỉn”, “thâm xỉn”,
“đen tuyền”; trắng là “trắng nõn”, trắng phau”, “trắng xóa”, “trăng trắng”;
“xanh mướt”, “xanh rờn”; xám là “xám ngắt”, “xám xịt”, “xám ngoét”,
“xám bủng”; đỏ là “hoe hoe đỏ”, “đỏ mọng”, “đỏ hoe”, “đỏ chói lọi”; thấp
thì “thấp lè tè”, cao lại “cao lêu đêu’...
Ngay cả việc miêu tả trạng thái cười và khóc của Tô Hoài cũng hết
sức đa dạng.
Cười trong tâm trạng đau khổ: “cười khinh khích”, “cười nhạt”, “cười
nức nở, như xé cổ họng” , “cười gằn”, “cười nhợt nhạt”, “cười buồn bã”...
Cười sung sướng, hạnh phúc: “cười tít đi”,“cười ề à”, “cười khì khì”,
“mỉm cười”, “cười rũ rượi”, “cười phá lên”, “cười đến vỡ bụng”, “cười giòn
tan”...
Cười xao xuyến: “cười vơ vẩn’, “cười tủm”...

65
Cười của một đứa trẻ hồn nhiên: cười “khịt mũi, nhe mấy cái răng sún”
Mỗi nhân vật cũng khóc với một vẻ khác nhau.
Khóc bên ngoài nhưng trong lòng chưa thực sự đau khổ: “khóc nhẹ
như khóc dối nên cũng tạnh chóng như mưa bóng mây.”
Khóc khi nỗi buồn bất ngờ đến: “tự dưng khóc”
Khóc khi nỗi đau đớn vỡ òa ra: khóc hu hu, nức nở, nước mắt ròng
ròng
Khóc ấm ứ: “khóc nỉ non”, “khóc nấc lên”, “khóc thút thít”, “khóc ti
tỉ”, “khóc lóc”,
Khóc của đứa trẻ cố để người khác biết: “khóc inh ỏi”
Bên cạnh ngôn ngữ chính xác giàu sắc thái biểu cảm, nét độc đáo
trong ngôn ngữ của Tô Hoài là sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Phép so
sánh còn được gọi là tỉ dụ là “phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách
hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có dấu hiệu tương đồng
nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng kia.” [18, tr 451].
Biện pháp tu từ so sánh có khả năng biểu đạt hình ảnh và cảm xúc rất
lớn nên có được nhiều nhà văn sử dụng. Đọc tác phẩm văn học, ta thấy mỗi
nhà văn để lại cá tính riêng trong việc sử dụng so sánh tu từ.
So sánh trong văn chương Nguyễn Công Hoan cũng thật khác với Tô Hoài.
Lối so sánh của Nguyễn Công Hoan, rất độc đáo, tạo nên nhiều liên
tưởng bất ngờ, thú vị: “Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai
ngọn đèn giời [Thật là Phúc], lại còn có cách so sánh nhằm phê phán sự vật
hiện tượng: “Mỹ thuật nhất là cái ngực đầy như cái ví của nhà tư bản, chứ
không như cái óc của ông Nghị ngay cả trước ngày họp hội đồng”
[Samandji]. Có so sánh bất ngờ ngộ nghĩnh “xe thứ bảy thì cô xấu nhưng tân
thời, mặt phấn má hồng, môi đỏ, rẽ lệch, chiếc áo căng lườn, trong tức anh
ách như một bài thơ thất luật.” [ Đào Kép mới]

66
So sánh của Tô Hoài cũng có điểm riêng biệt. Nhà văn đã tiếp thu có
chọn lọc lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động. Họ luôn gắn bó
với làng quê, luôn có mặt với khung dệt, vườn ruộng với nắng và với mưa,
với thiên nhiên bốn mùa thay đổi, với nỗi khổ của người đói nghèo, bất
hạnh, phiêu bạt, chia lìa… Vì thế, hình ảnh so sánh của Tô Hoài luôn bình
dị, dễ hiểu, gần gũi.
Tên truyện Vế A Từ so Vế B
(Sự vật được so sánh) sánh (Sự vật dùng để so sánh)
Một người đi Con đường nhỏ, mỏng như một làn khói vương
xa về mảnh, bò ngẩn ngơ
[Tr 203] giữa cánh đồng lúa
Mùa ăn chơi Ba tiếng một... hai như nước cuồn cuộn chảy
[tr 227] tiếng một. Những hồi khói lửa nhuốm lên,
như
trống ngũ liên rền rĩ xô đẩy, thúc giục gọi ráo
vang lên nghe như riết.
Mùa ăn chơi (Chàng này xô thì như những thớ đá.
[tr 230] chàng kia lùi. Một
người đâm, một người
đỡ) Những cái gạt xoèn
xoẹt biến chuyển cùng
với hai cánh tay rắn
chắc, thịt nổi lên
Một chuyến đi xa Bây giờ gã hiền lại lừ đừ như một con cá ngão
[tr198]
Một người đi Người phu xe khom như hai cánh chim, mặt đất
xa về [tr203] lưng xuống, hai khuỷu trắng lì, những bàn chân
tay nhô lên vả xuông bạch bạch.

67
Nhà có ma Ông chủ thì mặt xám như cây nứa lép, thỉnh
[Tr 217] xịt, gầy leo kheo thoảng ho sù sụ
Bà chủ cũng ốm rề rề, như nghệ.
quanh năm bủng vàng
Đứa con nhỏ sài đẹn, như chiếc dải khoai
lom khom
Mùa ăn chơi Nghẹt quá, không thở như một đàn lợn bị chọc tiết
[Tr 226] được, trẻ con khóc inh ỏi
Rồi chúng trèo tường như con nhái bén
đình, chúng leo gốc đa.
Bám thèo đảnh
Ông dỗi Đôi mắt cá ngão, Y lối ngồi của một chú ếch
[tr 238] giương bạnh, tròn xoe. như ương bụng ỏng và lôi mắt
Vàng phai Mặt Mây đỏ hồng, đôi như hai múi quít ngọt
[tr 249] môi ngon và mòng mọng
Ông giăng Chà, cánh tay trần, như đẵn mía
không biết nói trắng bạch, chắc nịch
Tr 264
Hết một buổi Cái bàn “trông nó thực như một anh có bốn chân
chiều cũng cùng đi bốn cái cà kheo
Hỡi ôi, cái bàn ngoẹo như một người đàn bà giỗi
[Tr 193] ngay đi và nó gieo cả chồng, làm nũng chồng
bốn chân xuống, giãy
nảy lên
Khách nợ Rồi lão chui người vào như một con bò thui
[tr 272] giữa ổ rạ, đầu và chân
tay thò ra, cong queo .

68
Hầu hết so sánh trong tác phẩm của Tô Hoài theo mô hình A như B
đây cũng là kiểu so sánh xuất hiện đa số trong văn học dân gian.
“Thân em như giếng nước giữa đàng
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.”
“ Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”
Trong so sánh truyền thống, vế A và vế B thường thì một vế trừu
tượng và một vế cụ thể. Còn trong ngôn ngữ sáng tác của Tô Hoài, vế A và
vế B là quan hệ giữa cái cụ thể với cái cụ thể. Nhân vật thường được so sánh
với hình ảnh bình dị, quen thuộc. Nhân vật là người thường được so sánh
với vật, nhân vật không phải là người lại thường được so sánh với người.
Lối so sánh của Tô Hoài rất gần gũi nhưng thật độc đáo thể hiện khả năng
quan sát và cảm nhận cuộc sống thật tinh tế.
4.1.2.2. Ngôn ngữ dân giã
Ngôn ngữ của Tô Hoài tự nhiên, rất gần với khẩu ngữ nhưng vẫn là
văn viết. Có đặc điểm này bởi Tô Hoài là nhà văn rất trọng ngôn ngữ của
quần chúng. Ông quan niệm: “Trong khi cuộc sống, nhân vật, phong cảnh,
vạn vật biến chuyển không ngừng thì câu văn cũng không thể đứng yên một
chỗ” [ 31, tr 521].
Bên cạnh đó, Tô Hoài đã sử dụng nhiều chất liệu dân gian trong câu
chuyện của mình như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, quán ngữ, Truyện Kiều.
Ví dụ hai câu trong Kiều được sử dụng trong truyện Nhà nghèo
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau”
[Nhà nghèo, tr 149]

69
Và rất nhiều câu ca dao được xuất hiện
“Có lá lốt tình phụ xương xông
Có chùa bên Bắc, bỏ miếu bên Đông tồi tàn.
Có bát sứ tình phụ bát đàn...”
[Vàng phai, tr 244]
“Chuông khánh còn chẳng ăn ai
Nữa là mảnh chĩnh, mảnh chai ngoài đồng”
[Vàng phai, tr 252]
Tô Hoài còn dùng ngôn ngữ rất đặc trưng của vùng quê. Đó là tiếng
nói của người dân làng Nghĩa Đô. Tác giả đã từng thừa nhận: “Các tiếng
nói ở trong nhà, ở trong làng của bà con, bạn bè lúc bé, lúc bắt đầu đầu lớn
lên nó ăn rất sâu vào óc mình. Tất cả các thứ ngôn ngữ mà tôi quen nghe,
quen dùng tạo thành cho tôi cái gốc trong các tác phẩm đầu tiên của
tôi”[31, tr 409].
Những từ “lũng lẵng”, “nhẩy”, “hẩy”, “vơ váo”, “tây ngây”, “tọc
toạch”, “thậm thọt”, “chuội”, “thòm thòm”, “chõ”, “nhắng”, “tòi”, “dó dáy”,
“lăn lóc”, “mê tơi”... đều là từ địa phương, được sử dụng trong các câu
chuyện của Tô Hoài.
Ngôn ngữ địa phương của nhà văn được chia làm hai loại. Một là
ngôn ngữ phổ thông nhưng ở làng Nghĩa Đô được dùng khác hoặc có nghĩa
khác và hai là những từ chỉ có trong tiếng nói của nhân dân làng Nghĩa Đô
mà không có trong tiếng phổ thông.
Từ “tòi” trong tiếng phổ thông là đưa ra một cách miễn cưỡng. Ví dụ
“Nói mãi hắn mới tòi ra một vài đồng bạc”. Trong câu văn của Tô Hoài từ
“tòi” được hiểu với nghĩa là nhoi lên. “Vì trời mưa vừa xong, ở những mặt
sân sôi bong bóng. Trong các lỗ ngập nước, giun quằn quại tòi lên.” [Nhà
Nghèo, tr154]

70
Từ “vơ váo” lại có sự khác về nghĩa rõ hơn. Theo từ điển tiếng Việt,
“vơ váo” có nghĩa là: lếu láo, bừa bãi (ăn nói vơ váo) và khi dùng người nỏi
tỏ thái độ chê bai trong việc đánh giá. Tác giả Võ Xuân Quế cho rằng từ vơ
váo được Tô Hoài sử dụng không hề có nghĩa trên mà lại dùng với nghĩa:
“chịu khó nhặt nhạnh, thu vén khắp nơi để góp nhặt cho mình”[31, 410].
Người Nghĩa Đô thường dùng từ này để chỉ những người nghèo nhưng cần
cù, chịu khó làm ăn, không dựa dẫm, nương nhờ người khác . “Hôm ấy, bà
lão ăn quà vơ váo ngoài chợ. Bà yên chí chiều về, thế nào lão Mũi cũng phải
làm lành với minh. [ Ông dỗi, tr 241]
Những từ “lũng lẵng”, “nhẩy”, “hẩy”,… là từ địa phương vùng quê
của tác giả, không có trong từ điển Tiếng Việt.
“Lấm cúi xuống xâu khoai đeo lũng lẵng dưới cái tay nải.(…). Đến
lúc buốt, Lấm giẫy nẩy kêu rầm lên. Lấm bảo với chú: “Cái đá Tây quái
nhẩy”[Giữa thành phố, tr 232]
Ông lão dỗi cơm hẩy” [ Ông dỗi, tr 240]
“Lũng lẵng” là tính từ làm rõ nghĩa cho động từ “đeo”. “Lũng lẵng”
có thể hiểu lủng lẳng. “Hẩy”, “nhỉ” đều là tình thái từ có nghĩa là những từ
được thêm vào câu để tạo câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán và để
biểu thị các sắc thái tình cảm của người nói. “Hẩy” tương đương với từ “à”,
“hả” trong tiếng phổ thông để tạo câu hỏi. “Nhẩy” tương đương với từ “nhỉ”
tạo nên sắc thái thân mật, gần gũi.
Tiếp thu ngôn ngữ bình dân, lời văn của Tô Hoài gần gũi, giản dị.
Mỗi bức tranh phong cảnh làng quê, về con người ở nơi đây hiện lên thật
sống động, chân thực. Không phải chỉ đến Tô Hoài, các nhà văn mới coi
trọng học tiếng nói của quần chúng nhân dân. Có điều khác biệt là không
phải ai cũng kể chuyện dân quê, nhẹ nhàng, tự nhiên đi vào lòng người như
Tô Hoài.

71
4.1.2.3. Ngôn ngữ đa thanh
Tô Hoài có khả năng sử dụng đối thoại, độc thoại đa dạng, nhiều tầng,
nhiều lớp: giữa nhà văn với nhân vật; nhà văn với độc giả và nhân vật, tạo
nên tiếng nói đa thanh, nhiều giọng điệu.
“Trong một truyện, cũng giống như Nam Cao trong Chí Phèo, Tô
Hoài đã sử dụng một thứ ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu của người
kể chuyện đã sử dụng một thứ ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu của
người kể chuyện hoà lẫn vào giọng điệu nhân vật.” [6, tr 310].
Ngôn ngữ đa thanh đựơc thể hiện qua một số tác phẩm như Nhà
nghèo, Chớp bể mưa nguồn, Ông giăng không biết nói, Một chuyến định đi
xa, Ông dỗi, Vàng phai…
Vàng phai kể lại mối tình của anh Hẹn và cô Mây. Nhà văn đã thuật
lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với biết bao xốn xang.
Lời người kể đan xen với anh Hẹn: “Mây hay cười quá. Đôi má
phung phính lúm lại và đỏ hây lên. Cặp mắt long lanh giữa đôi mí húp híp.
Cái mắt mới tình tứ sao!”
Lời Mây: “Anh Hẹn, anh hay làm thơ quá”
Lời Hẹn: “Em nói khen dối”
Lời người kể chuyện: “Những lời vụn vặt ấy trao đổi nhau. Và đôi
tình nhân ấy đứng với nhau sao rất khờ khạo. Hẹn đứng xa Mây tới một
xoạc chân dài.”
Lời người kể hoà với nhân vật: “Có khi Hẹn cũng muốn men chân gần
xíu xít một chút. Nhưng chỉ muốn thôi chứ không dám. Rồi Hẹn cũng đâm ra
bạo. Bởi vì nếu chẳng liều một tí thì biết bao giờ mới dám cầm tay bạn tình.”
Lời của Hẹn: “Cái thắt lưng bạch này Mây chuội nhà hả?”
Lời của Mây: “Vâng, em chuội lấy. Trông được đấy chứ…”
Lời của người kể: “Mây nhấc mảnh thắt lưng lên. Hẹn cầm lấy ngắm
và nhân tiện nắm ngay bàn tay Mây.”

72
Lêi cña HÑn: “C¸i th¾t l­ng lôa B¹ch nµy M©y
chuéi nhµ h¶”
Lêi cña M©y: “V©ng, em chuéi lÊy. Tr«ng ®­îc
®Êy chø...”
Lêi cña ng-êi kÓ: “M©y nhÊc m¶nh th¾t l­ng
lªn. HÑn cÇm lÊy ng¾m vµ nh©n tiÖn n¾m ngay bµn tay
M©y.
Khi cô Mây bỏ anh Hẹn đi lấy bác quyền Vực, lời người kể chuyện có
phần xót xa đứng về phía anh Hẹn. Phần cuối tác phẩm, không có lời của cô
Mây, nhà văn viết về những dòng suy nghĩ của anh Hẹn và đồng cảm với
nỗi buồn của anh khi bị người yêu bỏ rơi. Lời người kể chuyện hòa quyện
đồng cảm với tâm tư của nhân vật: “Chao ôi! Ai đo được nỗi khổ lòng của
anh chàng Hẹn bây giờ. Khi cái việc tày đình kia đến tai thì anh ta choáng
váng cả người. Biết bao nhiêu điều mơ ước đã đặt vào người con gái ấy. Thơ
của anh chàng đến thế mà cô ta chóng quên thật. Người đâu lại có người vô
tâm và phụ tình nhanh chóng vậy, hả trời?”. Có thể hiểu đây là lời của tác
giả nói với nhân vật, lời của nhân vật nói với chính mình, với độc giả, lời
của tác giả với độc giả.
Nếu như đối thoại giữa tác giả- người kể chuyện với nhân vật trước
biến cố, có vẻ khách quan; trình bày là chính, thì sự đối thoại trong và sau
biến cố lại thiên về chủ quan. Nó chứa đựng sự cảm thông và niềm xót
thương. Sử dụng kiểu ngôn ngữ này không đơn thuần chỉ là một thủ pháp
nghệ thuật mà chủ yếu ẩn chứa những quan niệm, cách nhìn, cách đánh giá
cuộc sống của nhà văn.
Ng«n ng÷ ®a thanh cũng được sử dụng thành công trong sáng
tác của Nam Cao. Nhưng khác với Tô Hoài, Nam Cao sử dụng nhiều độc
thoại nội tâm của nhân vật. Nhân vật gi·i bµy tâm tr¹ng suy nghĩ của
mình tr-íc hoµn c¶nh vµ nh÷ng biÕn cè cuéc ®êi.

73
Th«ng qua việc nhân vật tự mổ xẻ, phân tích về bản thân, Nam Cao
b×nh gi¸ vÒ x· héi. Vì quan tâm đến khía cạnh đời thường nên
nhân vật của Tô Hoài, những người dân quê ấy lại có những suy nghĩ hết
sức vụn, nhỏ nhặt. Họ đã nếm trải vui buồn, sướng khổ nhưng mọi thứ đều
bị cuốn đi theo nhịp điệu của cuộc sống thường nhật. Nhân vật người kể
chuyện của Tô Hoài không giống như của Nam Cao ít tranh biện với người
đọc, với nhân vật. Người kể cũng có khi đứng ngoài kể lại khách quan câu
chuyện, có khi lại hòa vào với nhân vật làm một để kể lại câu chuyện cuộc
đời họ.
Nhờ ngôn ngữ ®a thanh, phức điệu nên truyện của Tô Hoài có
cách kÓ chuyÖn linh ho¹t, hÊp dÉn, ®ång thêi ng-êi
®äc c¶m nhËn ®-îc c¸i nh×n, suy nghÜ cña ng-êi kÓ
vµ c¸c nh©n vËt tham gia c©u chuþªn. Tõ ®ã, ng-êi
®äc tiÕp cËn víi t¸c phÈm đ-îc nhiÒu diÖn vµ hiÓu
®-îc nh÷ng ý nghÜa s©u sa n»m trong líp c©u ch÷ cña
truyÖn.
4.2.2.4. Sử dụng nhiều câu văn ngắn gây ấn tượng
Đọc truyện ngắn của Tô Hoài, người đọc thực sự ấn tượng vì những
đoạn trần thuật sử dụng triệt để những câu văn ngắn. Câu không rườm rà về
cấu trúc ngữ pháp, ít dạng câu đặc biệt chủ yếu là câu đơn C-V hoặc câu có
bộ phận song song như một C-V1,V2,V3 hoặc C1,C2,C3 –V. Câu văn ngắn
như vậy mô tả rõ mức độ, cấp độ, tính chất nhanh chậm gấp gáp của thoạt
động hay sự vật. Giáo sư Hà Minh Đức trong tuyển tập Tô Hoài cho rằng:
“Truyện ngắn của Tô Hoài có phong vị riêng, ông viết không dài, câu
chuyện thu gọn lại trên năm bảy trang giấy. Ở đây hiện ra vài sự việc và tâm
trạng của một số người”.[27, tr 20]

74
Những câu văn ngắn thường được sử dụng để miêu tả những tình
huống căng thẳng gấp gáp. “Võ sĩ Nành trèo lên sân khấu. Võ sĩ Nành cởi
trần, mặc quần nâu lửng. Đứng giữa rạp, võ sĩ thóp bụng lại khoạng hai
chân, xuống tấn trung bình đánh huỵch một cái. Hai tay cong lên, lấy gân.
Rồi mắt, rồi mũi, rồi má, trợn trừng trợn trạc, võ sĩ loay hoay đấm đá, gạ đỡ
linh tinh ra bốn phía. Tiếng trống thúc đều đều... Một lúc, võ sĩ Nành khom
lưng, xuống chảo mã vòng khuỷu một tay, một tay xòe trước mật, yêu cái
cằm, trong mắt nhìn ra mọi người. A, bát tổ, hết bài, trẻ con vừa cười vừa
kêu. Ngoài kia tiếng vỗ tay rầm lên như sấm động.” [Mùa ăn chơi, tr 229].
Nhờ các câu văn ngắn, người đọc có thể hình dung được sự quyết liệt của
trận đấu võ và tư thế khỏe khoắn, những động tác nhanh mạnh chính xác của
các võ sĩ.
Không chỉ những sự việc đến nhanh, đột ngột, Tô Hoài còn sử dụng
những câu văn ngắn trong cả tình huống chờ đợi, nhớ nhung, ngượng nghịu.
Những cảnh huống mà đáng lẽ câu văn dài sẽ chuyển tải tốt hơn.
Lụa và Nguyên yêu nhau tha thiết nhưng học buộc phải chia tay nhau.
Những giây phút ấy, hai người chẳng biết nói câu nào. Họ ngẩn ngơ nhìn
nhau rồi nhìn xung quanh. “Hai người ngồi chéo khoeo, luồn hai tay dưới
đầu gối, mắt đờ đẫn, nhìn bâng quơ. Lụa bứt mấy ngọn cỏ. Chừng như đã
lâu, đôi bên chưa nói với nhau một câu nào. Sự im lặng ngẩn ngơ trên những
nét mặt băn khoăn. Lại có tiếng lạt xạt nhỏ của con chim ri dó dáy trong tụm
lúa sau gáy” [Lụa, tr 161].
Miêu tả nỗi buồn, sự đau khổ, các nhà văn thường sử dụng những câu
văn dài để diễn tả tâm trạng day dứt khôn nguôi. Nỗi đau buồn của anh Tại
khi người yêu đi lấy người khác cũng được diễn tả bằng những câu văn ngắn
gọn: “Anh Tại không khóc. Anh lại cười. Anh cười nhạt, gằn lại. Trước
ngày cưới Pha, mấy lần anh hẹn Pha đi nói chuyện mà Pha không đi. Pha
nhất định không dính líu rắc rối với Tại nữa. Những người con gái, hay quên

75
quá. Đầu tiên, Tại lây sự bị quên đó là điều rất tủi cực và đáng để tâm thù
lắm... Anh không định đánh què. Mà anh định cắt lưỡi nó đi. Phải cầm một
con dao bầu thực nhọn và thực sắc, đưa ngay vào cuống họng nó. Anh nghĩ
thế ra lối hăng lắm...” [Một người đi xa về, tr 208].
Dưới đây là đoạn miêu tả bà Móm buồn vì anh con trai bỏ nhà ra đi
“Bà lão Móm cũng chỉ nghe làng nước đồn đại mơ hồ như thế. Bây giờ thì
bà lão ở một mình. Một mình trong cái nhà rộng thênh thênh. Có những buổi
mùa hè từng mảng mây trăng đùn lên ở chân trời tây. Không có mưa. Có ỳ
ầm tiếng sấm tận đâu đâu. À đấy là chớp bể, đấy là mưa nguồn...Bà Móm
ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!” [ Chớp bể mưa nguồn, tr 175]
Chỉ xin so sánh với một đoạn trích nhỏ trong tác phẩm Lão Hạc của
nhà văn Nam Cao. Lão Hạc suy tính về việc bán con Vàng và kể lại chuyện
đó với ông giáo: “Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể
rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn
dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn dất
để làm ăn ở làng này: tôi là người nhiều chứ nghĩa, nhiều lí luận, người ta
kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão;
lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi
nào con lão về thì nosẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng
được, để thế để tôi trong coi ch nó... Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không
biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo
cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được
hăm nhăm đồng bạc với năm đồng bạc vừa bán cho là ba mươi đồng bạc,
muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của
lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...” [Trích Lão Hạc,
Tuyển tập Nam Cao]
Cả dòng tâm sự của bà Móm đau khổ vì anh con trai ra đi, Tô Hoài
dùng đến 9 câu, 7 dòng còn sự suy tính của lão Hạc xung quanh việc bán

76
con vàng và gửi tiền ma chay cho ông giáo trước khi chết được nhà văn
Nam Cao viết chỉ trong có 2 câu mà lên tới 12 dòng.
So sánh về cách sử dụng câu văn của Nguyên Hồng với Tô Hoài, ta
càng thấy sự khác biệt giữa hai nhà văn này. Câu văn của Nguyên Hồng chủ
yếu là dạng câu phức, khung câu mở rộng hết cỡ, thành phần câu không phải
là một từ mà thường các cụm từ giống như gié lúa “nhánh mẹ đẻ ra nhánh
con”, như “cây trái xum xuê”, “như một đoàn tàu chợ”. Ví dụ câu văn trích
từ truyện ngắn Tàu đêm trong tập Địa ngục như sau: “Vùng quê tôi chỉ trông
vào cái khung cửi lên lúc sợi khan đã đói rồi sau đây vừa không mua được
sợi, vừa làm không thể nào kịp với giá thóc gạo thì đói quá, đói đến nỗi
không nhà nào không mấy người chết và ai còn sồng chỉ thấy có hai lỗ mắt,
đói bán hết mọi cái, trong làng chỉ còn nhà hoang với người nằm hấp hối,
rau má, rau dệu cũng không còn lại mà ăn, lắm người sau phải dỡ cả nhà bán
mà cũng chẳng ai mua, lắm người mấy hôm cố lê đi chặt củi nào gánh được
ra đến chợ bán đâu được năm hào được lẻ ngô sống ăn và uống nước đoạn
thì chết ngay ở giữa chợ; lắm người bòn vét được tất cả bát, đĩa, ấm chén
đem bán được đồng bạc rồi cứ cầm đồng bạc ấy ngẩn ngơ cho đến chiều
đoạn lả đi ở cổng làng.” Văn Nguyên Hồng là hiện thực bề bộn, lấm láp ùa
vào từ ngữ, kết thành nhánh, “lúc lủi” cho các thành phần câu. Một câu văn
có 9 dòng.
Như vậy, những câu văn ngắn gây ấn tượng cũng là đặc điểm riêng
biệt trong ngôn ngữ của Tô Hoài. Nó giúp nhà văn miêu tả liên tục các sự
việc, hành động, cử chỉ của nhân vật. Nhưng ít nhiều cũng có hạn chế khi
miêu tả nội tâm của nhân vật.
4.2. Giọng điệu trần thuật
4.2.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật
Giọng điệu là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn học, góp
phần tạo nên diện mạo riêng biệt trong sáng tác của nhà văn. Nếu như trong

77
đời sống xã hội giọng điệu chính là lời nói, giọng nói của mỗi người biểu thị
thái độ của cá nhân mình trước hiện thực cuộc sống, trước con người và
cảnh vật mà mình đối thoại, quan sát thì trong văn học, giọng điệu chính là
sự bộc lộ “thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối
với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô,
gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, sơ, thành kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [18 tr 134]
Giọng điệu tùy thuộc vào thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ... của
mỗi người. “Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra một
tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong một hệ thống nhân vật”
[18, tr 113]
Trong một tác phẩm có thể tồn tại những giọng điệu, những sắc điệu
khác nhau song bao giờ tác phẩm cũng có một giọng điệu chủ đạo nào đó.
Trong tác phẩm văn xuôi, giọng điệu chủ yếu thể hiện qua lời người kể
chuyện và lời của nhân vật.
4.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách
mạng
4.2.2.1. Giọng điệu dí dỏm
Giọng điệu ở mỗi tác phẩm có sự khác nhau về sắc thái nhưng nhìn
chung Tô Hoài có chất giọng mang bản sắc riêng. Giọng khách quan, dí dỏm
pha chút mỉa mai tinh quái là chất giọng chủ đạo. Từ điểm nhìn khách quan,
nhà văn mô tả những sự việc, nhưng qua những dòng miêu tả nhận xét, nhà
văn bộc lộ sự dí dỏm của mình.
Mở đầu truyện Chớp bể mưa nguồn dựng lại cảnh bà Móm đi tự tử.
Thực ra bà Móm giả bộ tự tử để dọa con trai và con dâu mình. Thông
thường khi người ta rơi vào tình cảnh phải đi tự tử là lúc họ rất tuyệt vọng
bế tắc, làm cách ấy để giải thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Vì lẽ ấy, họ thường
làm việc này một cách lặng lẽ không để ai hay biết. Nhưng ngược lại bà

78
Móm lại cố tình làm ầm lên để cả làng cả xóm biết việc bà đang đi tự tử. Vì
vậy mà việc tự tử của bà Móm thật hài hước. “Chẳng biết có một điều gì bực
dọc, bà Móm giận con trai và nàng dâu. Không giận vừa vừa, mà lại giận
quá. Thế là cơn tức bừng bừng lên. Bà xắn hai mép váy, xăm xăm chạy ra
ngoài ao giếng. Bà la vang cho bốn bên hàng xóm và cho vợ chống thằng cả
Mí biết rằng bà đương đi đầm đầu xuống ao đây. Không có ai ra can bà. Vậy
bà nhảy phóc xuống ao thực. Đánh ùm một cái. Rồi bà bíu hai tay vào cái
cọc cầu ao. Bà rúc đầu vào giữa bụi cây cúc tần mọc lòa xòa xuống vệ nước.
Mồm bà ngoác ra kêu thực to. Kêu không phải vì sặc nước. Không phải để
hắt hơi. Bà ngoảc ra kêu thực to. Kêu như có nhà ai cháy ở trong xóm (…)
Ai cũng tưởng bà lão chỉ kêu được có vài câu thì chối cổ, phải lóm ngóp bò
lên. Chẳng ngờ họng bà khoẻ quá. Bà lão vẫn kêu rầm. Mãi sau, có người
sốt ruột xuống kéo bà lão lên, đưa hộ về nhà. Bà lão liền lên ngay. Ở dưới
nước một lúc đã thấy chán.” Hành động tự tử của bà Móm rất mau lẹ, nực
cười: bà xắn mép váy -> xăm xăm chạy ->nhảy phóc, ùm ->rúc đầu -> kêu
to, kêu rầm-> (có người kéo lên) lên ngay vì ở dưới nước thấy chán. Ngay
cả việc lí việc bà được cứu lên cũng thật buồn cười: bà kêu to quá, họng
khoẻ quá nên ảnh hưởng đến hàng xóm làm người ta sốt ruột đành kéo bà
lên, còn bà được dịp là leo lên ngay vì ở dưới thấy chán quá. Để châm biếm,
tác giả đã nêu ra hàng loạt những mâu thuẫn: tự tử>< tự lên ngay vì dưới ấy
chán quá, tự tử thường âm thầm >< cố tình cho hàng xóm biết, bà lão ><
họng khoẻ quá.
Tô Hoài còn lấy sự hài hước dí dỏm để chế giễu cuộc sống của một số
người đều đều buồn tẻ đến mức vô cảm giống như vợ chồng chuột (Truyện
Gã chuột bạch) chỉ suốt ngày quanh quẩn vớí ăn, ngủ đánh vòng, ngủ đứng.
Tiếng đánh vòng lóc cóc đều đặn giống tiếng guồng tơ quay. Chúng khá yêu
nhau, yêu nhau thần tình. Hai vợ chồng cùng đánh vòng, hai cái vòng quay
tít, rộn lên những tiếng đằm thắm. Gã chuột bạch có vẻ mơ mộng thường

79
đứng ngẩn ngơ trên nóc lồng. Chúng yêu nhau có vẻ đắm say như vậy
nhưng vợ gã chết mà gã dường như cũng chẳng biêt, chẳng mảy may động
lòng. Cuối truyện, tác giả đã chua thêm một câu “gã cũng không biết là
mình goá vợ”, gã “thậm thọt, chạy đi lại nhanh thoăn thoắt...”
Nguyễn Công Hoan dùng tiếng cười trào phúng để đả kích phê phán
những cái xấu xa, giả dối của xã hội phong kiến thực dân. Còn ở Tô Hoài,
tiếng cười nhẹ nhàng hóm hỉnh. Tiếng cười xuất phát từ những thói tật hàng
ngày. Tô Hoài lấy giọng điệu nhẹ nhàng dí dỏm khi thì mát mẻ, khi thì mỉa
mai làm phương tiện phê phán.
Ông bà cả Luỹ [Bóng đè] tất tả lo lắng, tìm đủ mọi cách để chữa chạy
cho mợ Phán “con dâu ngoan” khỏi bị bóng đè, dùng cả đến thuật Mường,
thuật Mán, thuật Tầu, lại cả thuật Nhật Bản. Bà đích thân xem bói, sắm sửa
đồ vàng mã, mua chuối, mua hoa , đóng oản, thổi xôi, giếng gà… Chỉ yên
được một dạo, mợ Phán lại mắc bệnh trở lại. Cuối cùng ông trưởng Lũy phải
đích thân kê chõng ngủ ngay cảnh cửa phòng mợ thì đêm đến không thấy
tiếng rền rĩ nữa. Khỏi bệnh, vậy mà mợ Phán lại thở dài não nuột “Mợ Phán
buồn gì thế? Mợ khỏi bóng đè rồi kia mà...Người kể nhẹ nhàng kín đáo chỉ
buông ra một câu bâng quơ, tưởng như vô tình nhưng nó lại nặng như một
lời buộc tội, như một sự thừa nhận hành động ngoại tình bấy lâu nay của
nhân vật mợ.
Trước những mặt trái của cuộc sống đời thường, Tô Hoài thể hiện cái
nhìn tinh quái giầu chất nhân văn, một giọng điệu dí dỏm nhưng có cái gì
xót xa. Nhà văn không thể làm ngơ trước những thói tật, hủ tục của người
dân quê: tục tảo hôn, tục đòi nợ, vợ chồng đánh chửi lẫn nhau. Chuyện hôn
nhân là một chuyện hệ trọng cả đời. Nhưng dường như với cái Ngói, và cu
Phúc còn quá non nớt để hiểu rõ điều đó [Vợ chồng trẻ con]. Cái Ngói mười
hai tuổi, cu Phúc mười tuổi, người ta so hai tuổi hợp thế là người ta hỏi cái
Ngói làm vợ cho thằng cu Phúc. Đám cưới, cô dâu nào cũng vừa vui vừa

80
buồn nhưng không đến mức sợ hãi, khóc như cái Ngói, “nó khóc um lên. Nó
gọi bà hương Cải ầm ỹ. Rồi nói chun lại, khiến cho mấy cô kia phải hai tay.
Làm như người ta doạ trẻ sắp đem giết thịt nó”. Tiếng khóc ấy không phải
của một người trưởng thành, khóc ngậm ngùi từ nay xa cha mẹ, bứơc chân
vào nhà chồng, mọi thứ đều xa lạ. Cái Ngói khóc “um lên” là tiếng khóc của
một đứa trẻ khi không bằng lòng hay ấm ức vì một việc gì đó. Vì vậy, lòng
Ngói nhanh chóng nguôi ngoai khi ngày đầu đám bạn của Ngói là Ngây, Bí,
Đào đã đến ngủ cùng, chơi tam cúc. Khác với cái Ngói, cu Phúc còn ngây
thơ, hồn nhiên hơn. Nó còn nằm trong đống rơm khi mọi người tất tả chuẩn
bị cưới. Đến khi đón dâu, anh chàng còn quên cả giầy. Với cu Phúc “chuyện
lấy vợ” dường như là xa lạ. Mọi người cứ làm đám cưới còn cu Phúc “có để
ý đâu đến điều vặt ấy! Cứ tu rượu tì tì. Mắt cu Phúc hoa sao lên, rồi lại rúc
đầu vào đống rơm. Nó cù nhau với mấy con ranh khác.”
Giọng điệu hài hước châm biếm có lúc bật lên qua các từ ngữ, qua
cách gọi tên, hình ảnh, lời trữ tình ngoại đề, nhưng có khi ẩn trong nhịp câu
văn, trong lời trần thuật khách quan. Cách gọi các con vật như chuột là
“nàng” [Truyện gã chuột bạch], gà trống ri là “chàng đa tình”, gà mái là “chị
ả nõn nường”[Con gà trống ri], gọi mèo là “gã tinh quái”… cách gọi như
thế tạo ra giọng kể hài hước, các con vật cũng có đặc tính của con người:
đỏng đảnh, điệu đà, đa tình, tinh quái.
Cái cười của Tô Hoài là cái cười thâm trầm, sâu sắc. Nó thể hiện con
mắt tinh nhạy và sự gắn bó tha thiết với cuộc đời của ngòi bút Tô Hoài.
4.2.2.2. Giọng điệu dửng dưng
Truyện ngắn của Tô Hoài còn có giọng điệu dửng dưng. Chủ yếu tác
giả chọn ngôi kể thứ ba, kể khách quan lại chuyện người ở quê hương mình
như một người đứng ngoài cuộc. Kể về những thói xấu, cái nghèo, cái đói
của làng quê. Tô Hoài kìm nén cảm xúc, kể như mạch đập của cuộc sống
đang diễn ra.

81
Chuyện tình của Nguyên và Lụa [Lụa] tha thiết như vậy nhưng cuối
cùng vẫn họ đành phải chia tay nhau. Phần cuối truyện tác giả buông một
câu lạnh lùng: “Tháng chạp năm ấy, cô Lụa lấy chồng người bên làng Phú
Gia. Sang tháng hai, Nguyên cũng lấy vợ, người xóm dưới, cùng làng.
Không ai nghĩ đến chuyện đi đâu. Vào Sài Gòong đương xa lăng lắc. Đi tu
phải cạo đầu trọc mà cũng khổ lắm. Những lời quả quyết kia cả hai người
cũng đã quên.” [ Lụa, tr 162]. Tô Hoài không hề miêu tả tâm lí của họ. Liệu
Nguyên và Lụa có đau khổ không? Họ có băn khoăn gì khi phải quyết định
như vậy… Tô Hoài hoàn toàn chỉ kể lại sự việc. Tự bản thân những hành
động của họ đã tố cáo họ. Tình yêu ấy cũng chẳng có gì là sâu sắc. Họ cũng
nhanh chóng quên đi để lại tiếp tục hoà nhịp cuộc sống.
Khi miêu tả về cái chết, các tác giả thường gây cho bạn đọc một nỗi ám
ảnh, ghê rợn, hoặc sự đau thương trong lòng. Nhưng Tô Hoài vẫn kể nhẩn
nha, lạnh lùng, kể chi tiết, tỉ mỉ. Đêm gác rừng kể lại câu chuyện anh Muh,
một người gác rừng chứng kiến ba kẻ đánh bạc trên sông đánh giết lẫn nhau.
“Một bàn tay chắn chắc, nổi cuồn cuộn, vòng chặt lấy một chét cổ. Ở cái cổ,
gân cũng dồn lên. Hai cái mắt nổi lục lạc. Hai mắt của gã bóp cổ cũng lồi ra.
Ánh đèn quắc vào, có lẽ ghê rợn như một cảnh hành hình dưới địa ngụ. Đến
hắn nọ mới giơ một tay lên. Trong bàn tay ấy có một hào bạc giấy. Người này
giựt vội lấy, và nới lỏng bàn tay bóp cổ ra. Gã nọ lồm cồm bò dậy. Bất thình
lình gã đấm cho kẻ địch một quả vào mặt. Nhưng gã này tránh được. Trong
khi ấy, hắn đạp cho gã kia một đạp, bắn tọt ngay xuống sông. Một tiếng ùm
vang lên. Sóng đánh óp ép vào mạn thuyền, rồi im hẳn. Nhưng nghe có tiếng
quào quào vào gỗ, như một người đương níu, trèo lên.” Ngay cả, Muh là
người chứng kiến cảnh tượng rùng rợn ấy. Tác giả không hề miêu tả tâm lí
của Muh, nỗi sợ hãi trong lòng hay tiếc thương kẻ xấu số. Với Muh chỉ có
thắc mắc liệu ngày mai cái xác có nổi lên hay không, hay lại chuyện ma rừng
hiện lên đánh bạc nhưng chả lẽ ma rừng lai tranh nhau một hào bạc giấy.

82
Cũng như vậy, tác giả miêu tả cái chết vì chó dại của lái Khế: “Lúc
mụ về đến nhà thì lão lái Khế đã không còn là lão lái Khế. Lão mê rồi. Quần
áo, lão xé toang, không cò dính một mảnh vải vào người. Lão không biết rét.
Mụ vợ lão đi vào, lão chồm ngay lên. Mụ chạy tụt ra. Vồ trượt vợ, lão ta ngã
lăn như một quả dừa rụng”[ Khách nợ, tr 280]. Tâm trạng vợ con lái Khế
như thế nào. Hầu như tác giả không hề đề cập đến. Trước mắt người đọc,
hình ảnh một lái Khế đang điên cuồng vì bệnh dại.
Câu chuyện này khiến ta chợt nghĩ đến Lão Hạc của nhà văn Nam
Cao, tác giả cũng miêu tả cái chết của lão Hạc vì bả chó: “Lão Hạc đang vật
vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sóc.
Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái,
nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã
đến hai giờ đồng hồ mới chết” [Lão Hạc trích Tuyển tập Tô Hoài].
Cả Tô Hoài và Nam Cao đều miêu tả hai cái chết thật dữ dội. Nhưng
kết thúc của bi kịch ấy lại rất khác nhau. Tô Hoài viết: “Đám ma lái khế,
bốn người khiêng cái hòm ra tha ma sau làng. Theo sau quan tài, vợ lão
khóc tỉ, thằng con lếch thếch đi bên cạnh mẹ. Bố nó cao lớn thế mà nó lại
gầy đét như chiếc que tăm”. [ Khách nợ, tr 281]
Nam Cao lại viết “Lão con Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt!
Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi trai
lão trở về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái mà ông cụ thân
sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi
một sào...” Rõ ràng, so với Nam Cao trong đoạn truyện này, Tô Hoài kể
bằng giọng dửng dưng lạnh lùng hơn. Tuy vậy, một nỗi chua xót vẫn tự
nhiên dâng ngập trong lòng người đọc. Lái Khế hung hăng hốc hách là thế
cuối cùng cũng phải chết thảm, lão chết vợ con lão sẽ ra sao... Đời con lão
chắc cũng chẳng khá hơn gì đời lão.

83
Sở dĩ, Tô Hoài kể với giọng điệu dửng dưng vì ông không thiên về
miêu tả nội tâm cảm xúc của nhân vật, chỉ đặc tả những nét ngoại hình cử
chỉ, hành động của nhân vật để qua đó người đọc tự hình dung, tưởng tượng
về nhân vật. Bên cạnh đó, Tô Hoài kìm nén những cảm xúc chủ quan kể lại
câu chuyện như những gì vốn xảy ra ở thực tế khách quan.
4.2.2.3. Giọng điệu trữ tình man mác
Tô Hoài vừa hóm hỉnh, vừa lạnh lùng chỉ ra những thói xấu, những
tính cách hẹp hòi, những hình, những dạng của đời, có chê trách. Nhưng
đằng sau đó là một thái độ xót xa, thương cảm. Xót xa vì họ bị cuộc sống
khổ cực làm mất đi bản chất lương thiện, những tình ý sâu kín rụt rè đáng
yêu cũng bị chìm hẳn vào những lo toan, những tính toán chi li, những vụ
lợi nhỏ nhặt.
Tiếng khóc vỡ oà của bà Móm ở cuối truyện Chớp bể mưa nguồn
khiến người đọc hiểu hơn về nỗi lòng của bà. Bà không phải là người nanh
ác. Bà cũng muốn cho con có hạnh phúc. Bà thương con nhưng tình thương
này bị những cái vụn vặt đời thường che lấp mất. Bà thật sự buồn khổ, cô
đơn khi anh con trai bỏ bà ra đi. “Chao ôi! Chớp bể mưa nguồn. Chắc ở bên
Sài Gòn đương mưa to lắm. Bà Móm ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!”.
Đọc Lá thư tình đầu tiên, người đọc cảm thấy dư âm một cái gì đó
thiết tha luyến tiếc lắng đọng trong tâm hồn, thương cho anh Cuông chân
thật với tình yêu đơn phương trong sáng và cao đẹp. Câu chuyện khiến
người đọc lại nhớ đến tình Trương Chi. Khác với Trương Chi, ôm những
tình cảm tuyệt vọng trong lòng xuống tuyền đài vẫn chưa tan thì anh Cuông
nhờ có tình yêu anh sống đẹp hơn, tốt hơn và giữ mãi trong mình những tình
cảm với cô Mì.
Tô Hoài xót xa cho những kiếp người nghèo khổ, những mảnh đời bất
hạnh. Tô Hoài ít nói về cái vui, niềm sung sướng hạnh phúc. Truyện ngắn
trước Cách mạng tháng Tám của Tô Hoài, có ít nhiều ám ảnh về cái chết.

84
Cái gái đã chết vì rắn cắn [Nhà nghèo], kẻ đánh bạc xấu số bị dìm chết dưới
sông [Một đêm gác rừng], Lái khế vốn to béo hung hăng nhưng cuối cùng bị
chết vì chó dại cắn [Khách nợ], vợ gã chuột bạch đã bị chết vì nghẹn
[Truyện gã chuột bạch]và đặc biệt cả một đàn gà vịt cũng bị chết gần hết khi
một trận dịch tràn tới [Một cuộc bể dâu]. Những xác gà, xác vịt nằm chỏng
chơ trong chuồng, cả một đàn gà con cũng rơi vào tình cảnh như vậy. “Cửa
chuồng đã mở, chỉ thấy có chị gà gái mẹ dẫn bốn con nhỏ lủi thủi ra. Nhòm
vào trong: năm chú gà con kia đã nằm mỗi chú một xó chết còng queo từ
bao giờ. Và chỉ có từ sáng tới buổi trưa, cả bốn con gà còn lại này cũng mỗi
con nằm chết rụi ở một góc vườn”. Ngay gà chọi, một tay hảo hán giang hồ
được ví như người anh hùng Từ Hải cũng không thoát khỏi bi kịch ấy:
“Thảm hại quá. Ôi! Con gà chọi, ôi! con gà chọi anh hùng, con gà chọi anh
hùng chỉ còn đứng mở mắt thao láo một mắt ra nhìn, mà ngẫm nghỉ về cái
chết của mình sắp đến”. Tô Hoài cũng hay nói về sự tan vỡ trong tình yêu:
Anh Hẹn với cô Mây [Vàng phai], anh Tại với cô Pha [Một người đi xa về],
anh Nguyên với cô Lụa [Lụa], đôi trai gái [Ông trăng không biết nói], đôi
trai gái [Một chuyến định đi xa]. Họ yêu nhau say đắm, thề non hẹn biển
cuối cùng họ cũng tự dời bỏ nhau. Tình yêu thoáng chốc bị tan vỡ đã gợi
trong lòng người đọc một sự chua xót.
Bức tranh làng quê của Tô Hoài không căng thẳng dữ dội như trong
truyện của Ngô Tất Tố mà bình dị, lam lũ. “Chiều tối hôm đó, trời đã xâm
xẩm. Không mưa không nắng mà cô Lụa cũng đội nón xùm xụp, đi sang
xóm Đình. Đã nhọ mặt người, đường cái vắng không có ai. Ngõ nhà ông
phó An nghe tiếng gọi ơi ới. Đàn chó nhâu nhâu chạy ra sủa. Cô Lụa theo
người nhà ra đánh chó, đi thẳng vào trong sân.”[ Lụa, tr 159 ]. Tô Hoài
không tô vẽ cho bức tranh nông thôn thêm đẹp, không có ánh chiều bảng
lảng, có đàn trâu thung thăng trở về, có cánh chim chiều cô đơn bay trong
cùng gió, có người lữ thứ trở về. Ông viết theo nhịp điệu của đời sống. Cô

85
Lụa sang nhà ông Phó An để trả lễ trầu cau vì cô không đồng ý lấy cậu con
trai ông. Lời văn trần thuật nhanh, gấp gáp hơn theo bước chân cứng cỏi
mạnh mẽ của cô Lụa. Làng quê sao mà vắng vẻ, đượm buồn. Mới xâm xẩm
mà con đường không có ai. Tiếng gọi ơi ới, tiếng chó nhâu nhâu càng gợi ra
không gian thanh vắng.
Ngay cả mùa xuân tháng hai rộn ràng vui tươi với những ngày hội
làng nhưng đâu đấy vẫn có nét buồn. “Lµng NghÜa §« vµo mïa
xu©n, sang ®Çu th¸ng hai cã “nh÷ng c©y xoan gÇy,
th©n mèc tr¾ng, gi¬ lªn nh÷ng c¼ng tay ®en ®ñi, tr¬
trôi, ®· trë tõng tóm l¸ t¬. ” [Mùa ăn chơi]
Giọng điệu buồn man mác được thể hiện qua những từ ngữ giàu sức
gợi cảm và câu cảm thán, câu đặc biệt: “Thảm hại quá. Ôi! Con gà chọi,
ôi!” [Một cuộc bể dâu], “Chao ôi! Chớp bể mưa nguồn. Chắc ở bên Sài Gòn
đương mưa to lắm. Bà Móm ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!” [ Chớp bể
mưa nguồn], “Đổi thay. Đổi thay. Thương ôi! Dưới gót năm tháng cái gì mà
không xê lệch đi. Hai bên má anh Tại đã có mờ mờ hai vết hõm. Khi anh
nhếch mép cười, để lộ ra hai chiếc răng vàng choé” [ Một người đi xa về],
“Chao ôi! Ai đo được lòng nỗi khổ của anh chàng Hẹn bây giờ. Khi cái việc
tầy đình kai đến tai thì anh ta choáng váng cả người…” [ Vàng phai]
Giọng điệu buồn man mác được nén lại trong mỗi truyện ngắn Tô
Hoài. Nó xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, sự gắn bó tha thiết của ông
với cuộc đời. Tô Hoài nhận ra quanh đâu đây mình vẫn còn nhiều kiếp
nghèo, những con người khốn khó. Nó thể hiện lòng đồng cảm của nhà văn
với cuộc sống của người dân quê.
4.2.2.4. Giọng điệu suồng sã, tự nhiên
Bên cạnh giọng điệu hóm hỉnh pha chút buồn, một giọng điệu nữa
cũng khá nổi bật trong các truyện ngắn của ông đó là giọng điệu suồng sã tự

86
nhiên. Chất suồng sã tự nhiên được thể hiện qua cách gọi nhân vật và đặc
biệt qua đối thoại
Tô Hoài đặt cho nhân vật những cái tên rất bình dị: anh Duyện, anh
Hẹn, anh Toại, anh Hối, anh Lấm, anh Cuông, bà Móm, bà Múi, ông Chỉnh,
ông Luỹ, tên các cô gái có phần thơ mộng hơn cô Mì, cô Mị, cô Mây…
Cách gọi nhân vật cũng rất suồng sã: anh cu, anh chàng, gã, ông lão,
bà lão, lão, bà, ả, chị chàng…
Ngay những cuộc đối thoại, nội dung cũng là những việc bình thường.
Đây là cuộc trò chuyện trước ngày hội võ.
“- Hôm nào nhỉ?
- Mai.
- Nhớ rủ tớ nhé.
Đến đàn bà, con gái cũng nào nức:
- Mai chị rủ em đi xem đấu võ nhé!
( Những tình thái từ nhé, nhỉ gợi sắc thái thân mật trong cuộc nói chuyện.)
Những cuộc cãi lộn hàng ngày của các đôi vợ chồng cũng nhẹ nhàng
bước vào trang truyện của Tô Hoài.
Người chồng hỏi:
- Mẹ mày làm gì thế?
- Tìm cái chai.
- Chai nào?
- Chai đựng dầu chứ còn chai nào nữa!
...
- Tưởng mẹ mày mang chai đi mua dầu?
...
- Ai đi mua dầu. Thôi chết tôi rồi! Cái chai đâu?
....
- Tưởng nhà ta có hai cái chai.

87
- Bán một cái hôm nọ để mua thuốc cao cho thằng Bang rồi không.
Còn cái chai nữa ở nhà đâu?
...
- Thế thì tớ không biết. Lúc nãy tớ bán nốt cái chai ấy rồi. Tưởng nhà
có hai cái thì đằng ấy đem một đi mua dầu. Ai biết đâu. Tớ bán cho thằng
đồng nát được hai xu rưỡi. Một chinh đem mua kẹo chia cả nhà đấy.
...
- Ối giời đất ơi! Hại tôi rồi! Làm hại tôi rồi. Có mỗi một cái để đựng
dầu mà cũng bán tào bán huyệt của tôi đi.
...
- Cái gì mà nói dai thế. Người đâu có người...
...
- Ối giời ôi! Người ta làm hại tôi, người ta cấm đoán tôi...
- Bố mày, ông mày cấm đoán gì mày
Xưng hô của nhân vật trong hội thoại cũng hết sức dân giã như mẹ mày, tớ,
bố mày, ông mày…
Vì Tô Hoài quan tâm đến những chuyện đời thường, mối quan hệ
tình cảm gia đình, làng xóm, bạn bè, trai gái với một cảm quan hiện thực.
Chính vì vậy, ứng xử giữa các nhân vật rất gần gũi như chính trong cuộc
sống đời thường. Giọng điệu suồng sã tự nhiên đã làm cho nhân vật sống
động hơn. Họ như đang sống, đang bước ra từ trang sách để trò chuyện với
bạn đọc.

Tiểu kết
Có thể nói ngôn ngữ giọng điệu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước
Cách mạng tháng Tám có tính phức hợp. Đó là sự hòa trộn giữa ngôn ngữ
giàu tính tạo tình, tinh tế chuẩn xác với một ngôn ngữ bình dân nôm na dễ
hiểu, giữa ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ độc thoại và đối thoại

88
của nhân vật, sự hòa trộn giữa các giọng điệu trữ tình buồn man mác với
giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu suồng sã tự nhiên với dửng dưng
lạnh lùng. Tuy nhiên, nét nổi bật trong ngôn ngữ, giọng điệu của Tô Hoài là
ngôn ngữ dân giã, tự nhiên và giọng điệu dí dỏm hài hước cùng với những
câu văn ngắn gây ấn tượng. Ngôn ngữ Tô Hoài phong phú, sống động tuôn
chảy theo dòng thời gian, theo nhịp điệu cuộc sống. Một thứ ngôn ngữ được
chắt lọc tinh tế nhưng rất đời, rất tình.

89
KẾT LUẬN

1. Với 70 năm sáng tác, Tô Hoài đã cho ra đời một khối lượng tác
phẩm đồ sộ gồm 160 đầu sách. Ông là một tấm gương lao động nghệ thuật
bền bỉ, nỗ lực không ngừng. Ở mỗi chặng đường, Tô Hoài đều có những
thành tựu khác nhau nhưng bao giờ ông cũng đóng góp một tiếng nói riêng,
một cách nhìn, một phong cách độc đáo. Với thể loại truyện ngắn, thực sự
Tô Hoài đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả.Trong đó, truyện ngắn
trước Cách mạng đã giúp ông khẳng định được vị trí của mình trong nền văn
học Việt Nam. Tô Hoài được đánh giá là một trong số những cây bút hàng
đầu bên cạnh các tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên
Hồng, Thạch Lam…
2. Từ thế giới nhân vật, kết cấu, tình huống đến ngôn ngữ giọng điệu,
truyện ngắn Tô Hoài đều có những nét riêng độc đáo. Nhân vật trong tác
phẩm của ông chủ yếu là người dân làng Nghĩa Đô sống bằng nghề canh
cửi. Nhờ khiếu quan sát, sự miêu tả tường tận tỉ mỉ ngoại hình, hành động,
cử chỉ mà bức chân dung những người dân quê ấy hiện lên thật sinh động
với nhiều dáng vẻ, tính cách, số phận khác nhau. Đó là những con người
bình dị khốn khổ với biết bao khát vọng. Nhân vật loài vật của Tô Hoài
được miêu tả hết sức sinh động. Đó là những con vật gần gũi quen thuộc, có
buồn, có vui, có lặn lội vất vả một nắng hai sương giống như người dân làng
Nghĩa Đô vậy. Ngôn ngữ giọng điệu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước
Cách mạng tháng Tám có tính phức hợp. Đó là sự hòa trộn giữa ngôn ngữ
giàu tính tạo tình, tinh tế chuẩn xác với một ngôn ngữ bình dân nôm na dễ
hiểu, giữa ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ độc thoại và đối thoại
của nhân vật, sự hòa trộn giữa các giọng điệu trữ tình buồn man mác với
giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu suồng sã tự nhiên với dửng dưng
lạnh lùng. Tuy nhiên, nét nổi bật trong ngôn ngữ, giọng điệu của Tô Hoài là

90
ngôn ngữ dân giã, tự nhiên và giọng điệu dí dỏm hài hước cùng với những
câu văn ngắn gây ấn tượng. Kết cấu và tình huống trong truyện Tô Hoài rất
đơn giản. Đa số các tác phẩm của ông được kết cấu theo thời gian tuyến
tính, cũng có kết cấu đảo lộn trật tự theo dòng tâm lí của nhân vật nhưng
không nhiều. Kết cấu đơn giản thường diễn ra ba màn cảnh. Tô Hoài còn sử
dụng những kết truyện bất ngờ và phần trữ tình ngoại đề làm cho câu
chuyện có nhiều giọng điệu, trở nên sâu sắc hơn. Tình huống truyện của Tô
Hoài đều là những tình huống đời thường trong cuộc sống với những sự việc
vụn vặt lẻ tẻ dường như chẳng có gì đáng kể để nói, để viết. Nhưng tài năng
của Tô Hoài ở chỗ làm cho những chuyện tưởng chừng như không có gì ấy
lại là có chuyện. Bức chân dung con người đời thường hiện lên sinh động
gợi cho người đọc suy nghĩ về cuộc sống của họ.
3. Ngày nay, truyện ngắn vẫn là một thể loại chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống văn học. Trong đó, Tô Hoài là người đã có đóng góp không
nhỏ vào bước phát triển của truyện ngắn Việt Nam. Truyện ngắn của ông
đến nay, vẫn có nhiều độc giả vẫn yêu thích và say sưa đọc. Bởi nhà văn đã
giúp họ nhận ra ở mỗi câu chuyện những bài học cuộc sống, những tâm tình
về số phận con người, những hoài bão, ước mơ cao đẹp. Tô Hoài đã tạo ra
truyện ngắn có vẻ đẹp riêng giữa một rừng hoa văn học đầy hương sắc. Với
việc nghiên cứu về đặc điểm truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng, chúng
tôi hi vọng rằng có một cái nhìn hoàn chỉnh hơn về Tô Hoài, nhà văn của
đời, của thơ văn, của những kiếp người nghèo khổ.

91
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Duy Anh chủ biên, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, NXB Thanh
Niên, năm 2000
2. Lại Nguyên Ân, 150 Thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 1999
3. Lê Huy Bắc, Giọng và giọng điệu trong tác phẩm văn xuôi hiện đại,
Tạp chí văn học, số 99, năm 1988
4. M.Bakhtin, Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch,
Trường viết văn Nguyễn Du, năm 1992
5. Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn , NXB Khoa học xã hội,
năm 1994
6. Phan Cự Đệ chủ biên, Truyện ngắn Việt Nam -lịch sử- thi pháp- chân
dung, NXB Gi¸o dôc, n¨m 2007
7. Phan Cự Đệ, Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật”, NXB Văn học , Hà
Nội, năm 1971.
8. Nguyễn Đăng Điệp, Tô Hoài sinh ra để viết, Nghiên cứu văn học số
9, Viện văn học , năm 2004,
9. Hà Minh Đức sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu, Tuyển tập Tô Hoài,
NXB Văn học, năm 1987
10. Hà Minh Đức, Tô Hoài Đời văn và tác phẩm : Trò chuyện, ghi chép
và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài”, NXB Văn học, 2007.
11. Hà Minh Đức, Lời giới thiệu tuyển tập truyện ngắn Tô Hoài, tập I,
NXB Văn học Hà Nội, năm 1996.
12. Hà Minh Đức, Hữu Nhuận, Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm”,
NXB Giáo dục, năm 2001
13. Trần Ngọc Dung, Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt
Nam, Thời kì đầu từ những năm 1930 đến 1945: Nguyễn Công Hoàn,

92
Thạch Lam, Nam Cao”, Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Hà
Nội, năm 1992
14. CMac, F.Angghen, Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội, 1977
15. Nhiều tác giả, Nhà văn hiện đại thế kỉ XX, NXB Hội nhà văn 1999
16. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng tiếng Việt, NXB Giáo dục, năm 1995
17. Hoµng V¨n Hµnh, Tõ l¸y trong tiÕng ViÖt, NXB
Khoa häc x· héi. Hµ Néi, 1985,
18. Chủ biên Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc
Gia, năm 1999
19. T« Hoµi, Mét sè kinh nghiÖm viÕt v¨n cña t«i NXB
V¨n häc Hµ Néi, n¨m 1989
20. Tô Hoài, Tôi viết bằng tình yêu cuộc sống, Tạp chí Văn học, số 6,
năm 2003
21. Tô Hoài, Nghệ thuật và phương pháp viết văn, NXB Văn học, năm 1997
22. Tô Hoài, Sổ tay viết văn, NXBH.Tác phẩm mới, năm 1977
23. Tô Hoài, Hồi kí, NXB Hội nhà văn, 2005
24. Tô Hoài, Người ven thành kí và truyện, NXB Văn học, năm 1972
25. Tô Hoài, Cỏ dại, NXB trẻ 1988
26. Đàm Trọng Huy, Tô Hoài, Lịch sử văn học Việt Nam, 2002, tập 3,
NXB Đại học sư phạm Hà Nội, tr 512
27. Tô Hoµi, Tuyển tập Tô Hoµi, NXB Văn học, Tập 1. - 1987. - 434tr
tập 2, năm 1994
28. T« Hoµi, Chuét thµnh phè, tËp truyÖn ng¾n NXB
Hoa Tiªn- Sµi Gßn, n¨m 1967
29. Lại Thị Thu Huyền Luận văn thạc sĩ khoa Ngữ văn, Chân dung văn
học Tô Hoài, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2006
30. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB
Giáo dục, năm 1995

93
31. Phong Lê giới thiệu, Thanh Vân tuyển chọn, Tô Hoài về tác gia và
tác phẩm, NXB Giáo Tô Hoài; năm 2001
32. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB Giáo
dục, năm 2003
33. Nguyễn Long, Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn
Tô Hoài về miền núi, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 6, năm 19
34. NguyÔn V¨n Long, TiÕp cËn vµ ®¸nh gi¸ v¨n häc
ViÖt Nam sau c¸ch m¹ng th¸ng T¸m NXB Gi¸o, dôc
n¨m 2001
35. Chủ biên Phương Lựu, Lí luận văn học, NXB Giáo dục năm 2003
36. Nguyễn Đăng Mạnh, Bài khái luận tổng tập văn học, tập 30A NXB
Khoa học Xã hội, năm 1975
37. Vương Trí Nhàn, Sổ tay truỵên ngắn, NXB Hội nhà văn, năm 1988.
38. Mai Thị Nhung, Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, NXB Giáo dục,
năm 2006
39. Mai Thị Nhung, Sắc thái giọng điệu chủ đạo trong sáng tác của Tô
Hoài, Tạp chí khoa học, ĐHSP Hà Nội, số 5, năm 2004
40. Mai Thị Nhung, Đặc điểm thế giới nhân vât Tô Hoài, tạp chí ngihên
cứu lí luận và lịch sử văn học, số 4, năm 2005
41. Ngô văn Phú và Phong Vũ (tuyển chọn và biên soạn): Các nhà văn
được giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Hội nhà văn, năm 1997
42. Vũ Quần Phương, Tô Hoài, văn và đời, Tạp chí Văn học, số 8, năm
1994
43. Vò D-¬ng Quý, Trên đường bình văn, NXB Giáo dục, năm 1998
44. Vò D-¬ng Quý, Ng« TÊt Tè, NguyÔn C«ng Hoan, Vò
Träng Phông, NXB Gi¸o dôc, n¨m 2002
45. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội, năm

94
1993
46. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Giáo dục, Hà
Nội, năm 1993
47. Trần Hữu Tá, Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, N XB
Trẻ “Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp. HCM”, năm 2001.
48. Trần Hữu Tá, Tô Hoài, giáo trình văn học Việt Nam 1945-1975, tập
II, NXB Giáo dục, năm 1990
49. Bùi Việt Thắng, Bình luận về truyện ngắn, NXB Văn học, năm 1999
50. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể
loại, NXB Quốc Gia, năm 2000
51. Hoàng Văn Thành, chủ biên Từ điển từ láy tiếng Việt, NXB Giáo dục,
Hà Nội, năm 1995, :
52. Nguyễn ĐìnhThi, Công việc của người viết tiểu thuyết, NXB Văn
học, Hà Nội, năm 1964
53. Trần Đăng Xuyền, Nhà văn hiện thực cuộc sống và cá tính sáng tạo,
NXB Văn học, Hà Nội, năm 2002
54. Trần Đăng Xuyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học xã
hội, năm 2004
55. Trần Đăng Xuyền, Nhà văn và cá tính sáng tạo, NXB Khoa học xã
hội, năm 2000
56. Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin năm 1999,

95
Tô Hoài, tranh Nguyễn Sáng

Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí

Tô Hoài, ảnh Nguyễn Đình Toán

Tô Hoài, tác gia và tác phẩm,


NXB Giáo dục năm 2001 Bí thư thành ủy Phạm Quang Nghị trao
thưởng cho nhà văn Tô Hoài, tạp chí thi đua
khen thưởng 2010

96
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge
 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one

You might also like