You are on page 1of 18

Lịch sử văn minh thế giới

Câu 1. Nêu đặc điểm nghệ thuật Ai Cập cổ đại? Trình bày hiểu biết về Kim tự tháp?
* Thành tựu nghệ thuật:
- Kiến trúc điêu khắc:
Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất phải kể
đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để làm nơi yên
nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác
nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp
(Kheops) cao tới 146m, đáy hinh vuông, mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự
tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai Cập có câu “Tất cả mọi vật đều sợ thời gian,
nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim tự tháp”.
Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau qua
các công trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp
Khephren. Bức tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể
hiện Khephren là chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư tử.
* Sơ lược về kim tự tháp Ai Cập:
Kim tự tháp là những ngôi mộ của các vua Ai Cập thuộc vương triều III và vương triều IV
thời Cổ vương quốc. Các ngôi mộ ấy được xây ở vùng sa mạc ở Tây Nam Cairô ngày nay.
Kim tự tháp được bắt đầu xây dựng từ thời vua Giêde (Djeser), vua đầu tiên của vương
triều III, vương triều đầu tiên của thời Cổ vương quốc. Đây là một ngôi tháp có bậc cao 60m,
đáy là một hình chữ nhật dài 120m, rộng 106m. Xung quanh tháp Giêde có đền thờ và mộ
những thành viên trong gia đình và những người thân cận. Toàn bộ khu lăng này được bao bọc
bởi một vòng tường xây bằng đá vôi. Thời kì Kim tự tháp được xây dựng nhiều nhất và đồ sộ
nhất là thời vương triều IV. Vua đầu tiên của vương triều này là Xnêphru, đã xây cho mình hai
Kim tự tháp, cái thứ nhất cao 36,5m; cái thứ hai cao 99m. Các vua kế tiếp như Kêốp, Kêphren,
Mikêrin đều xây dựng những Kim tự tháp rất lớn: Kim tự tháp Kêốp (tên Ai Cập) là Hufu cao
146,5m; Kim tự tháp Kêphren cao 137m; Kim tự tháp Mikêrin cao 66m.
Trong số các Kim tự tháp ở Ai Cập cao lớn nhất, tiêu biểu nhất là Kim tự tháp của Kêốp,
con của Xnêphru. Kim tự tháp Kêốp xây thành hình thấp chóp, đáy là một hình vuông mỗi cạnh
230m, bốn mặt là những hình tam giác ngoảnh về bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Toàn bộ Kim
tự tháp được xây bằng những tảng đá vôi mài nhẵn, mỗi tảng nặng 2,5 tấn và có tảng nặng 30
tấn. Để xây Kim tự tháp này, người ta đã dùng đến 2300000 tảng đá với một khối lượng là
2408000m3. Phương pháp xây Kim tự tháp là ghép các tảng đá được mài nhẵn với nhau chứ
không dùng vữa, thế mà các mạch ghép kín đến mức một lá kim loại mỏng cũng không thể lách
qua được. Ở mặt phía Bắc của Kim tự tháp Kêốp, cách mặt đất hơn 13m, có một cái cửa thông
với hầm mộ, Kim tự tháp Kêốp có hai hầm mộ: một hầm mộ nằm ở sâu 30m dưới lòng đất và
một hầm mộ ở giữa Kim tự tháp cách mặt đất 40m. Người ta cho rằng theo thiết kế ban đầu,
hầm mộ ở sâu dưới đất, nhưng khi đã làm xong thì Kêốp thay đổi ý kiến, bắt phải xây ở trên
cao. Hơn 2000 năm sau, nhà sử học Hy Lạp Hêrôđôt đến Ai Cập còn được nghe cư dân ở đây
kể lại quá trình xây Kim tự tháp. Hêrôdôt cho biết, sau khi quyết định xây Kim tự tháp, Kêốp đã
huy động toàn thể nhân dân lao động trong nước đến công trường làm việc. Họ được tổ chức
thành từng đội gần 100000 người, cứ 3 tháng thì thay phiên một lần. Kim tự tháp được xây ở tả
ngạn sông Nin, nhưng nơi khai thác đá lại ở hữu ngạn. Vì vậy, người ta phải dùng thuyền chở
Lịch sử văn minh thế giới

đá từ nơi khai thác đến xây Kim tự tháp. Từ bến đá đến khu lồng mộ, người ta phải xây một con
đường bằng những tảng đá mài nhẵn, dài hơn 900m, rộng 18m và chỗ cao nhất là 15m. Chỉ
riêng việc xây con đường này đã mất 10 năm. Từ đây, người ta để đá lên xe trượt rồi dùng
người hoặc bò kéo để chở đá đến công trường. Không kể thời gian làm đường và hầm mộ dưới
đất, việc xây Kim tự tháp đã kéo dài 20 năm mới hoàn thành.
Việc xây dựng Kim tự tháp, như Hêrôđôt nói, "đã đem lại cho nhân dân Ai Cập cổ đại
không biết bao nhiêu tai họa". Nhưng nhân dân Ai Cập cổ đại, bằng bàn tay và khối óc của
mình, đã để lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá.
Trải qua gần 5000 năm, các Kim tự tháp hùng vĩ vẫn vững ở vùng sa mạc Ai Cập bất chấp
thời gian và mưa nắng. Và cũng chính vì vậy, từ thời cổ đại, người ta đã xếp Kim tự tháp Kêốp
là kì quan số một trong bảy kì quan thế giới. Đến nay, trong bảy kì quan ấy, cũng chỉ còn lại mỗi
Kim tự tháp mà thôi.

Câu 2. Trình bày hiểu biết về bộ luật Hammurabi của nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại?
* Nội dung chính:
Về cơ cấu, bộ luật Hammurabi bao gồm gần 300 phần được cấu kết kỹ càng hơn bất kỳ bộ
luật nào trước đó mà chúng ta được biết, bao gồm ba phần chính: phần mở đầu, phần nội dung
và phần kết luận.
+ Phần mở đầu của bộ luật khẳng định rằng đất nước Babilon là một vương quốc do các
thần linh tạo ra. Và chính các thần linh này đã trao đất nước cho vua Hammurabi để thống trị,
làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ. Hammurabi kể công lao của mình đối với đất
nước: “vì hạnh phúc của loài người, thần Anu (thần Trời) và thần Enlin (thần Đất) đã ra lệnh cho
trẫm, Hammurabi một vị vua quang minh và ngoan đạo, phát huy chính nghĩa ở đời, diệt trừ
những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho
trẫm giống như thần Samát (thần Mặt Trời, ánh sáng và xét xử), soi đến dân đen, tỏ ánh sáng
khắp mặt đất”. Vượt ra khỏi hạn chế lịch sử, giá trị xã hội của bộ luật được thể hiện ngay ở mục
đích ban hành luật “để cho người mạnh không hà hiếp kẻ yếu, để cho những người cô quả có
chỗ nương tựa ở thành Babilon, nơi mà thủ lĩnh của nó được thần Anu và thần Enlin khen ngợi,
ở đền Exajin mà nền móng của nó lâu bền cùng với trời đất, để cho tòa án trong nước tiện việc
xét xử, để cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định, để cho những kẻ bị thiệt thòi được
trình bày chính nghĩa, trẫm khắc những lời vàng ngọc của trẫm lên cột đá của trẫm trước bức
tượng của trẫm cũng tức là bức tượng của một vị vua công bằng”. Đây là giá trị nhân văn cao cả
của bộ luật mà không phải tất cả các bộ luật thời cổ đại ở phương Đông đều có được.
+ Phần nội dung chứa đựng 282 điều luật – đây là phần chủ yếu của bộ luật. Nội dung của
bộ luật chưa phân chia thành từng ngành luật riêng biệt, nhưng tác giả của bộ luật đã có ý thức
sắp xếp các điều khoản ra từng nhóm riêng theo nội dung của chúng. Phần nội dung, bộ luật tập
trung điều chỉnh bốn lĩnh vực chủ yếu là dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình và tố tụng nhưng
không có sự tách rời giữa các lĩnh vực. Các qui phạm của luật Hammurabi cũng giống như các
bộ luật khác ở phương Đông là mang tính hàm hỗn, các điều luật đều kèm theo chế tài. Ở mỗi
nội dung của điều luật đều chứa đựng những điểm tiến bộ và hạn chế so với luật pháp của các
quốc gia cổ đại khác.
Lịch sử văn minh thế giới

+ Trong phần kết luận, Hammurabi đề cao công lao của mình trước nhân dân, kêu gọi
những ông vua kế tục đền ơn và thực hiện những điều luật của Hammurabi: “Đây là pháp luật
do đức vua Hammurabi bách thắng đặt ra để đem lại hạnh phúc cho chân chính và đặt nền thống
trị nhân từ trong nước”. “Từ nay đến ngàn đời sau, các vua trong nước phải tuân theo những lời
chính nghĩa của trẫm đã khắc trên cột đá của trẫm, không được thay đổi việc xét xử do trẫm đã
quyết định”. Đồng thời, Hammurabi tuyên bố sẽ trừng trị tất cả những ai xem thường và có ý
định hủy bỏ bộ luật. Điều đó phần nào chứng tỏ vai trò to lớn của bộ luật này đối với sự phát
triển toàn thịnh của đất nước Lưỡng Hà thời Babylonia.
Câu 3. Trình bày đặc điểm nghệ thuật Trung Quốc thời kỳ cổ - trung đại? Nêu hiểu biết về
Vạn Lý Trường thành và Tử Cấm Thành

Những nét độc đáo của nghệ thuật Trung Hoa cổ - trung đại:

 Kiến trúc: Người Trung Quốc coi trọng sự hài hòa với tự nhiên, sự đối xứng, trật tự và
chiều sâu trong bố cục của công trình xây dựng. Tiêu biểu có kinh đô Trường An, Vạn Lý
Trường Thành, Lăng Ly Sơn, chùa Phật Quang (Ngũ Đài Sơn), Cố cung Bắc Sơn, Thiên
Đài, Di Hoa Viên, Thập Tam Lăng. 
 Điêu khắc:
o Thể hiện rất phong phú các tượng tròn (tượng Phật, thần thánh, người, thú,...), các
phù điêu trên các công trình kiến trúc (cung điện, lăng tẩm, chùa miếu) và chạm
trổ trên đồ đồng, đồ ngọc, ấn chương. 
o Nghệ thuật chạm trổ trên ngọc và đá quý đươc xem là nét độc đáo của nghệ thuật
điêu khắc Trung Hoa. 
 Hội họa:
o Phong phú, đa dạng với các đề tài về đời sống cung đình, tôn giáo, phong cảnh,
con người, chim, thú, hoa, lá, sinh hoạt dân gian,...
o Tranh chủ yếu được vẽ trên lụa, giấy hoặc vẽ trên tường với phong cách ước lệ,
chú trọng đường nét hơn màu sắc. Từ thời Đường trở đi, lỗi vẽ tranh thủy mặc
được hoàn thiện và nâng cao, trở thành nghệ thuật độc đáo, mang đậm nét truyền
thống. 
 Âm nhạc:
o Trung Quốc được mệnh danh là đất nước của nhạc lễ. Kinh Thi là bộ thơ ca ra đời
sớm.
o Nhạc vũ, ca vũ, hí khúc cũng rất phát triển. 

Vạn Lý Trường Thành được xây dựng như thế nào?


 Vạn Lý Trường Thành  được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ
16,
 Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây từ năm 220 TCN
và 200 TCN. Bức tường này không được xây dựng bởi nỗ lực của một nhóm mà là
việc ghép nối nhiều đoạn tường thành của các vùng, từng được xây dựng ở thời Chiến
Quốc.
Lịch sử văn minh thế giới

 Bức tường được nối vào nhau ở thời gian đó làm bằng đất nện với những tháp canh
được xây ở các khoảng cách đều nhau.
 Nó nằm xa hơn về phía bắc so với Vạn lý trường thành hiện tại với điểm cực đông
nằm ở Bắc Triều Tiên hiện nay chỉ còn ít phần của nó còn sót lại các bức ảnh cho thấy
những ụ đất thấp, dài.
 Một số đoạn tường thành được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 TCN, , nằm ở phía bắc xa hơn
phần Vạn Lý Trường Thành hiện nay của Trung Quốc xây dưới thời nhà Minh, và
hiện chỉ còn sót lại ít di tích.
 Bức tường dài tiếp theo được nhà Hán, nhà Tùy, và giai đoạn Thập Quốc xây dựng
tiếp với cùng kiểu thiết kế. Nó được làm bằng đất nện với nhiều tháp canh nhiều tầng
được xây cách nhau vài dặm.
 Vạn Lý Trường Thành ngày nay được xây ở thời nhà Minh, bắt đầu khoảng năm 1368
và kết thúc khoảng năm 1640.
 Ước tính có khoảng 25.000 tháp canh đã được xây dựng dọc theo bức tường.
Có năm đoạn thành chính:
1. 208 TCN (nhà Tần)
2. thế kỷ thứ 1 TCN (nhà Hán)
3. thế kỷ thứ 7 (nhà Tùy)
4. 1138 – 1198 (Thời Nam Tống)
5. 1368 – 1640 (từ vua Hồng Vũ đến vua Vạn Lịch của nhà Minh)
Ý nghĩa của Vạn Lý Trường Thành: Mục đích Xây
 Để bảo vệ  Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ,
người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và
Mãn Châu.
 Các mục đích khác của Vạn Lý Trường Thành bao gồm kiểm soát biên giới, cho phép
áp đặt thuế đối với hàng hóa vận chuyển theo con đường tơ lụa, quy định hoặc khuyến
khích thương mại và kiểm soát xuất nhập cảnh.
 Hơn nữa, đặc điểm phòng thủ của Vạn Lý Trường Thành đã được tăng cường bằng
việc xây dựng các tháp canh, doanh trại quân đội, trạm đóng quân, báo hiệu có giặc
thông qua các phương tiện khói hoặc lửa, và thực tế là con đường của Vạn Lý Trường
Thành cũng phục vụ như là một hành lang giao thông vận tải.
 Lý do để Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành bắt nguồn từ một câu “sấm”:
“Vong Tần giả, Hồ dã” (Tần mất là do Hồ). Tần Thủy Hoàng tưởng chữ “Hồ” là chỉ
giặc Hồ phương Bắc. Dù người làm mất nhà Tần hóa ra là Thái tử “Hồ” Hợi, di sản
mà hoàng đế thống nhất Trung Quốc để lại cũng đã đặt nền móng cho Vạn Lý Trường
Thành sau này.
 Về mặt quân sự, những bức tường này có ý nghĩa về mặt phân chia ranh giới hơn là
công sự bảo vệ có giá trị. Chắc chắn rằng chiến lược quân sự của Trung Quốc không
diễn ra quanh việc giữ vững bức tường thành.
Lịch sử văn minh thế giới

1. Tử Cấm Thành được xây dựng từ năm 1406 tới năm 1420, gồm 980 tòa nhà trên diện tích
720.000 m2.
3. Tử Cấm Thành được xây dựng trong 14 năm với những vật liệu cao cấp như gạch Tô Châu,
ngói men ngọc An Huy, đá quý Phòng Sơn, gỗ quí Phương Nam.
4. Đây là nơi ở của 24 vị hoàng đế, 14 hoàng đế triều Minh và 10 hoàng đế triều Thanh.
5. Đa số mái của các cung điện đều lợp ngói hoàng lưu li màu vàng, màu tượng trưng cho triều
đình Trung Quốc. Màu vàng trong thuyết ngũ hành là thổ, gốc của vạn vật, cho nên xưa nay màu
vàng được giới thống trị xem là màu tôn quý nhất.
6. Tường cung điện được sơn màu đỏ tươi, tượng trưng cho sự trang nghiêm, hạnh phúc, may
mắn. Thời xưa, trừ hoàng cung ra, chỉ có phủ thân vương và những đền miếu quan trọng mới
được dùng màu đỏ.
7. Tử Cấm Thành là một khu tổ hợp các công trình cổ, với nhiều hiện vật quý từ gốm và ngọc
bích. Tổng cộng tòa thành này có 9.999 căn phòng.
8. Mỗi phòng trong số 9.999 phòng đều được trang trí bởi các bức tượng. Phòng càng quan
trọng thì càng có nhiều tượng. Phòng quan trọng nhất có tới 10 bức tượng.
11. Tòa thành có tên Tử Cấm Thành một phần là vì bất kể ai ra vào đây đều phải được cho phép,
thường dân không được vào, nếu cố tình vi phạm sẽ bị xử tử.
12. Số 9 (cửu) được coi là con số tượng trưng cho hoàng đế, vì vậy có 9 cửa dẫn vào nội đình
(hậu cung). Các cửa này đều là những tòa lầu được trang trí lộng lẫy.
13. Hai tượng sư tử đồng đặt trên bệ đá ở cửa nội đình gồm một con đực và một con cái. Con
đực giữ một quả bóng lụa dưới chân, tượng trưng cho quyền lực. Con cái giữ một con sư tử con,
tượng trưng cho sự sống.
14. Phần móng của Tử Cấm Thành được lát các phiến đá dày 3 m để tránh có kẻ xâm nhập từ
phía dưới.
15. Để thể hiện sức mạnh của “Thiên tử” tức “con trời”, nơi hoàng đế sống phải là trung tâm của
thế giới. Do đó tất cả các cánh cổng, điện và các công trình của Tử Cấm Thành đều được sắp
xếp quanh tâm trục Bắc – Nam của Bắc Kinh thời cổ. Trung tâm Tử Cấm Thành là Hoàng
thành; trung tâm Hoàng thành là Cung thành, trung tâm Cung thành là Thái Hòa điện, trung tâm
Lịch sử văn minh thế giới

của Thái Hòa điện là Tu Mi Sơn, tượng trưng cho trung tâm của vũ trụ. Tầng tầng lớp lớp kiến
trúc ấy xoay quanh trục chính, hướng vào trung tâm và tôn quý trung tâm.
Câu 4. Trình bày 4 thành tựu KHKT lớn của người Trung Quốc?
Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân
loại, đó là: giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in.
+ Giấy: Nhờ sự phát triển của nghề dệt, tơ tằm, nhân dân lao động Trung Quốc đã phát
minh được cách làm một loại giấy thô sơ bằng tơ. Năm 105, một viên quan thời Đông Hán là
Thái Luân phát minh ra cách dùng vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách... để làm giấy. Từ đó nghề sản xuất
giấy trở thành một nghề mới, tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển nhanh chóng của nền văn
hóa Trung Quốc. Đến thế kỉ VIII, kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc được truyền sang phương
Tây.
+ Thuốc súng: Từ xưa, người Trung Quốc vẫn tin rằng người ta có thể luyện được vàng và
thuốc trường sinh bất lão. Cho đến thời Đường, mục đích chính của họ không đạt được mà lại
thường xuyên gây ra những vụ nổ, do tình cờ người ta đã tìm ra một chất liệu mới là thuốc súng.
+ La bàn: Vào thế kỉ X, người Trung Quốc bắt đầu biết mài lên đá nam châm để hút từ tính
rồi dùng miếng sắt đó vào việc làm la bàn. La bàn lúc bấy giờ còn rất thô sơ người ta cắt miếng
sắt có từ tính để nối vào bát nước hoặc treo vào dây ở chỗ kín gió.
+ Nghề in: bắt đầu phát minh từ thời Đường nhưng bấy giờ người ta chỉ biết in bản khắc
trên gỗ. Đến giữa thế kỉ XI, một người dân là Tất Thăng phát minh ra cách in chữ rời bằng đất
sét nung. Phát minh này là một tiến bộ nhảy vọt của nghề in.
Câu 5. Trình bày đặc điểm nghệ thuật Hy Lạp cổ đại? Nêu hiểu biết về một trong 7 kỳ
quan thế giới cổ đại (của Hy Lạp)
- Kiến trúc, điêu khắc:
Những công trình kiến trúc của Hy Lạp cổ đại không hùng vĩ như của Ai Cập cổ đại nhưng
nó lại nổi bật ở sự thanh thoát, hài hoà. Các công trình kiến trúc ở Hy Lạp cổ đại thường được
xây dựng trên những nền móng hình chữ nhật với những dãy cột đá tròn ở bốn mặt. Qua nhiều
thế kỉ, người Hy Lạp cổ đại đã hình thành ra ba kiểu cột mà ngày nay người ta vẫn thể hiện
trong trường phái “cổ điển”. Kiểu Đôric (thế kỉ VII TCN), trên cùng là những phiến đá vuông
giản dị không có trang trí; kiểu Lônic (TK. V TCN) cột đá tròn thon hơn, có đường cong ở bốn
góc phiến đá hình vuông như hai lọn tọc uốn; kiểu Côranh (thế kỉ IV TCN) có những cành lá
dưới những đường cong, thường cao hơn và bệ đỡ cầu kì hơn. Các công trình kiến trúc tiêu biểu
thời bấy giờ là đền Pactơnông (Parthenon) ở Aten, đền thờ thần Dớt (Zeus) ở núi Olempia, đền
thờ nữ thần Atena (Athena).
Các nhà điêu khắc ở Hy Lạp cổ đại cũng để lại nhiều tác phẩm tới bây giờ vẫn xứng đáng
là mẫu mực cho điêu khắc như các pho tượng Vệ nữ ở Milô, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng nữ
thần Atena, tượng thần Hecmet... Những nhà điêu khắc tiêu biểu thời đó như Phiđat (Phidias),
Mirông (Miron), Pêliklêt, (Polykleitos)...
Vườn Treo Babylon là một trong 7 kỳ quan thế giới cố đại được nhắc đến trong văn
hóa Hy Lạp cổ đại. Nó được ca ngợi là một thành tựu nổi bật về kỹ thuật xây dựng với một
chuỗi vườn bậc thang, có đủ các loại cây, cây bụi và cây leo đa dạng, tạo nên một ngọn núi xanh
Lịch sử văn minh thế giới

lớn được đắp bởi gạch bùn. Vườn treo được cho là được xây dựng tại thành phố cổ đại Babylon,
gần thành phố Hillah tỉnh Babil, Iraq ngày nay. Tên của nó được lấy nguồn gốc từ chữ Hy Lạp 
dùng để chỉ những cây cối được trồng trên một cấu trúc trên cao như là ban công hay sân
thượng.
Vườn treo là công trình duy nhất trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại mà vị trí vẫn chưa
được xác định chính xác. Có ba giả thuyết được đưa ra để giải thích cho vấn đề này. Thứ nhất,
công trình chỉ là một huyền thoại, và các mô tả được nhắc đến trong ghi chép của các tác giả Hy
Lạp và La Mã cổ đại như Strabo, Diodorus Siculus và Quintus Curtius Rufus đã tô vẽ một hình
ảnh lý tưởng hóa về một khu vườn phương Đông. Thứ hai, Vườn treo đã từng tồn tại tại
Babylon, nhưng đã bị phá hủy hoàn toàn trong khoảng thời gian thế kỷ 1 TCN. Thứ ba, khu
vườn được nhắc đến trong truyền thuyết thực chất là khu vườn treo do vua Sennacherib
của Assyria (704–681 TCN) xây dựng tại thủ đô Nineveh bên bờ sông Tigris, gần thành
phố Mosul thời hiện đại
Có một giả thuyết cho rằng khu vườn treo Babylon thật ra được xây dựng bởi vua
Sennacherib của Assyria (trị vì 704 – 681 TCN) trong cung điện tại Nineveh. Stephanie Dalley
chỉ ra rằng trong những thế kỷ sau này, hai địa điểm đã bị nhầm lẫn, và những khu vườn rộng
lớn ở cung điện Sennacherib đã bị gán cho Nebuchadnezzar II của Babylon. Các cuộc khai quật
khảo cổ cho thấy dấu tích của một hệ thống dẫn nước rộng lớn được cho là dưới thời
Sennacherib, theo như những dòng chữ được tìm thấy. Dalley cho rằng khu vườn là một phần
của hệ thống kênh, đập, và ống dẫn nước dài 80 km dùng để đưa nước tới Nineveh, và nước
được đưa lên các tầng cao khu vườn bằng bơm đinh vít.
=> Trải qua hàng thiên niên kỷ, vườn treo Babylon vẫn là biểu tượng của thế giới và là
nguồn cảm hứng cho các công trình xây dựng hiện đại sau này. Đó không chỉ là hiện thân cho
cái đẹp, cho đỉnh cao về kỹ thuật xây dựng mà chính là khát vọng xanh hóa các vùng đất bằng
bàn tay và trí tuệ của con người.

Câu 6. Trình bày về Kitô giáo và vai trò của Kitô giáo với văn minh phương Tây?
Kitô giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới, có nguồn gốc từ Địa Trung Hải vào khoảng 2000
năm trước. Kitô giáo tin rằng Đức Chúa Trời đã gửi con trai mình, Giêsu Kitô, xuống trần gian
để cứu rỗi nhân loại. Giêsu đã chịu chết trên thập giá và được phục sinh ba ngày sau đó, chứng
minh rằng ông là con trai của Đức Chúa Trời và có quyền năng để cứu rỗi tất cả mọi người.Kitô
giáo có nhiều nhánh khác nhau, nhưng tất cả đều tin rằng Giêsu Kitô là con trai của Đức Chúa
Trời và là người cứu rỗi nhân loại. Kitô giáo cũng tin rằng con người có trách nhiệm sống đạo
đức và tuân thủ các giá trị đạo đức như tình yêu, sự tha thứ, sự khoan dung và sự bình an.Kitô
giáo có nhiều nghi lễ và thánh lễ quan trọng, như Thánh Lễ Chúa Nhật, Lễ Phục Sinh và Lễ
Giáng Sinh. Các tín đồ Kitô giáo cũng thường cầu nguyện và đọc Kinh Thánh, đó là tài liệu
thánh của Kitô giáo, bao gồm cả Kinh Thánh Cũ và Kinh Thánh Mới.
Lịch sử văn minh thế giới

1. Sự ra đời Kitô giáo


– Kitô giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ I ở các tỉnh phía đông của đế quốc La Mã với chế độ chiếm
hữu nô lệ. Đế chế La Mã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, tạo ra nhiều mâu
thuẫn và xung đột gay gắt trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy đã làm nảy sinh những tư
tưởng được giải phóng và tự do. Bên cạnh đó, vùng Trung Cận đông là nơi tiếp giáp 3 châu lục,
dân cư ở đây vốn theo đa thần giáo, trong quá trình thống nhất của đế chế đã xuất hiện yêu cầu
thống nhất về tư tưởng, trong đó có nhu cầu về tôn giáo độc thần, vì vậy Kitô giáo đã ra đời trên
cơ sở của Do Thái giáo vốn đang tồn tại ở vùng này
– Sự ra đời của Kitô giáo gắn với tên tuổi của Giêsu Kitô. Ông sinh ra vào đầu Công nguyên,
theo truyền thuyết, bà Maria đã mang thai một cách màu nhiệm và sinh ra ông. Giêsu là người
thông minh. Trên cở sở kinh thánh và những nghiên cứu hiện có, ta có thể biết được vài điểm về
cuộc sống của Giêsu như sau:
+ Giêsu là người Do Thái.
+ Sống ở đầu thế kỷ I sau Công nguyên.
+ Khoảng 30 tuổi thì bắt đầu truyền, giảng đạo khoảng 3 năm.
+ Thu nhận và đào tạo 12 người thành Thánh tông đồ. Phêrô là Thánh tông đồ cả.
+ Bị sự ghen ghét của các phần tử Do Thái giáo.
+ Sau khi bị kết tội “mưu phản La Mã”, bị đóng đinh chết trên thập tự giá.
Sau khi Giêsu qua đời, Kitô giáo được hình thành.
2. Sự phát triển của Kitô giáo
– Kitô giáo trong thời kỳ cổ đại:
Đây là thời kỳ Kitô giáo xuất hiện và hoạt động trong cộng đồng người Do Thái nhưng bị những
người theo Do Thái giáo đả kích và chính quyền La Mã đàn áp. Sang thế kỷ II, tầng lớp quý tộc
dần theo Kitô giáo làm thay đổi vị trí và ảnh hưởng của nó, đến cuối thế kỷ II, Kitô giáo trở
thành quốc giáo của Đế chế La Mã.
– Kitô giáo trong thời trung cổ:
Kitô giáo chi phối mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhiều nước phong
kiến châu Âu. Quá trình mở rộng ảnh hưởng của đạo Kitô đã gây ra nhiều cuộc xung đột, mâu
thuẫn gay gắt giữa Kitô giáo với Do Thái giáo và Hồi giáo với những cuộc Thập tự chinh tàn
Lịch sử văn minh thế giới

khốc và đẫm máu. Ngay trong bản thân trong Kitô giáo cũng nảy sinh mâu thuẫn gay gắt, quyết
liệt dẫn đến sự phân hoá Kitô giáo lần thứ nhất vào năm 1054 thành 2 phái: Công giáo – thế lực
lớn nhất ở phía Tây La Mã. Chính thống giáo ở phía Đông La Mã.
– Kitô giáo trong thời kỳ cận – hiện đại:
Đến thế kỷ XVI, sự ra đời, phát triển của giai cấp tư sản và phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã xuất hiện yêu cầu cải cách Kitô giáo, Với những sự cải cách của Mactin Luthơ (1483 –
1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546) đã làm xuất hiện Giáo hội cải cách gọi là Tin lành.
Cũng thời kỳ này vua Anh tách Công giáo ở Anh khỏi sự chỉ đạo của Giáo Hoàng và lập ra Anh
giáo. Ngày nay, Kitô giáo có hơn 400 dòng khác nhau trong đó có 4 nhánh lớn là Công giáo,
Chính thống giáo, đạo Tin Lành và Anh giáo.
 Vai trò

Kitô giáo đã có một vai trò rất quan trọng trong văn minh phương Tây. Đầu tiên, Kitô giáo đã
đóng góp rất nhiều cho việc hình thành các giá trị đạo đức của phương Tây, như tình yêu, sự tha
thứ, sự khoan dung và sự bình an. Những giá trị này đã trở thành một phần không thể thiếu của
văn hóa phương Tây và đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của đời sống.Thứ hai, Kitô giáo đã
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển giáo dục và nghiên cứu khoa học. Trong suốt lịch
sử, các trường đại học và các viện nghiên cứu do Kitô giáo thành lập đã đóng góp rất nhiều cho
sự phát triển của văn hóa và khoa học phương Tây.Thứ ba, Kitô giáo đã đóng góp rất nhiều cho
việc phát triển nghệ thuật và văn hóa phương Tây. Những tác phẩm nghệ thuật và văn học được
tạo ra dưới sự ảnh hưởng của Kitô giáo đã trở thành những tài sản văn hóa quý giá của phương
Tây.Tuy nhiên, cũng có những tranh cãi về vai trò của Kitô giáo trong lịch sử phương Tây, đặc
biệt là trong việc đàn áp các tôn giáo khác và các hoạt động thần bí. Tuy nhiên, không thể phủ
nhận rằng Kitô giáo đã có một ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa và lịch sử phương Tây, và vẫn
đang tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong đời sống của nhiều người.
Câu 7. Trình bày về Phong trào phát kiến địa lý thế kỷ XV – XVI: nguyên nhân, các cuộc
phát kiến lớn, hệ quả và đánh giá ý nghĩa?
- Phong trào phát kiến địa lý:
Nguyên nhân: Thế kỉ XV, kinh tế hàng hoá ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị
trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước
Lịch sử văn minh thế giới

tới những nguồn vàng bạc từ phương Đông. Tại Tây Âu, tầng lớp giàu có cũng tăng lên do đó
nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm
hương, lụa tơ tằm, ngà voi... tăng vọt hẳn lên. Trong khi đó, con đường tơ lụa mà người phương
Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị đế quốc Thổ Nhĩ Kì theo đạo Hồi chiếm giữ, đi qua
chỉ có mất mạng, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển. Lúc đó người Tây Âu
đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu
buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước
phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thuỷ thủ dũng cảm.
Những cuộc phát kiến địa lí lớn thế kỉ XV-XVI: Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước
đi đầu trong phong trào phát kiến địa lí. Năm 1415 một trường hàng hải do hoàng tử Henri của
Bồ Đào Nha sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào Nha tổ chức những cuộc thám
hiểm men theo bờ biển phía tây Châu Phi. Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do B. Dias
chỉ huy đã tới được cực nam Châu Phi, họ đặt tên mũi đất này là mũi Hy Vọng. Năm 1497,
Vascô đơ Gama (Vasco de Gama ) đã cầm đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ.
Người Tây Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo hướng Mặt trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm
do C. Côlông (C. Colombus) chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung Châu Mĩ, nhưng ông lại
tưởng là đã tới được Ấn Độ. Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà
hàng hải người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Côlông không phải là Ấn
Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người Châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách
để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên America. Thật đáng tiếc cho C.
Côlông. Năm 1519 - 1522, F. Magienlan đã cầm đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên
đi vòng quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ
biển phía đông của Nam Mĩ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam Châu Mĩ và sang được
một đại dương
mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm của
Magienlan hầu như không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là
Thái Bình Dương. F.Magienlan đã bỏ mạng ở Philippin do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn
thám hiểm của ông cũng chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người bỏ
mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì những nguyên nhân khác nhau.
Nhưng thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người đã đi vòng quanh
thế giới.
- Ảnh hưởng đến văn minh thế giới:
Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh
cho giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới
về địa lí, thiên văn, hàng hải, sinh vật học...
Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá trên thế giới diễn ra
do các cá nhân có nguôn gốc văn hoá khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai
phá vùng đất mới, những quân nhân...
Một làn sóng di chuyển dân cư lớn trên thế giới trong thế kỉ XVI-XVIII với những dòng
người Châu Âu di chuyển sang Châu Mĩ, Châu Úc. Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời
khỏi quê hương xứ sở sang Châu Mĩ .
Hoạt đông buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ti buôn bán tầm cỡ quốc tế
được thành lập.
Lịch sử văn minh thế giới

Những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc
thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.
-Ý nghĩa:
- Mở ra một trang mới trong tiến trình phát triển của lịch loài người.
- Thúc đẩy quá trình khủng hoảng, tan rã của quan hệ phong kiến và sự ra đời của chủ nghĩa tư
bản ở châu Âu.
- Thị trường thế giới được mở rộng, hàng hải quốc tế phát triển.
Câu 8. Trình bày hiểu biết của em về Phong trào Văn hóa Phục Hưng (nguyên nhân, các
thành tựu lớn, nội dung tư tưởng, ý nghĩa)
- Nội dung chính của phong trào văn hóa Phục Hưng:
* Hoàn cảnh ra đời:
Văn hoá Tây Âu thế kỉ V - X dựa trên nền tảng nền kinh tế tự cung tự cấp, sự giao lưu trao
đổi rất hạn chế, văn hoá vì vậy cũng phát triển không đáng kể.
Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các thành thị, quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản
không còn chịu chấp nhận những giáo lí phong kiến lỗi thời, họ vận động khôi phục lại sự huy
hoàng của văn hoá Tây Âu thời cổ đại. Họ tìm thấy trong nền văn hoá cổ đại những yếu tố
phù hợp với mình, có lợi cho mình để đấu tranh chống lại những trói buộc của nền văn hoá trung
cổ.
Phong trào Văn hoá Phục hưng xuất hiện đầu tiên ở Ý, vì ở đây thế kỉ XIV đã xuất hiện
các thành thị tự do như những quốc gia nhỏ. Quan hệ sản xuất tư bản đã chiếm địa vị chi phối
đời sống văn hoá. Ý lại là trung tâm của đế quốc Rôma cổ đại, vì vậy ở đây còn giữ lại nhiều di
sản văn hoá cổ đại của Hy Lạp - Rôma. Hơn ai hết, các nhà văn hoá Ý có điều kiện khôi phục lại
nền văn hoá trước tiên khi có điều kiện. Từ Ý, phong trào lan sang Anh, Pháp, Tây Ban Nha,
Đức...
Tầng lớp giàu có ở các thành thị muốn thể hiện sự giàu sang của mình qua các dinh thự và
các tác phẩm nghệ thuật, điều đó cũng tạo điều kiện cho các nhà văn hoá thể hiện tài năng
* Những thành tựu nổi bật:
- Về văn học:
Cả ba thể loại, thơ, kịch, tiểu thuyết trong nền văn học Phục hưng đều có những thành tựu
quan trọng.
Về thơ, có hai đại biểu là Đantê (1265-1324) và Pêtracca (1304 - 1374). Đantê là người mở
đầu phong trào Văn hoá Phục hưng ở Ý. Ông xuất thân trong một gia đình kị sĩ suy tàn ở
Plorencia. Ông đả kích các thầy tu lúc đó và cổ vũ cho sự thống nhất của đất nước Ý. Tác phẩm
tiêu biểu của ông là: Thần khúc và Cuộc đời mới. Pêtracca là một nhà thơ trữ tình Ý. Trong tác
phẩm của mình, ông ca ngợi tình yêu lí tưởng, ca ngợi sắc đẹp, ca ngợi sự tự do tư tưởng và
chống lại sự gò bó kinh điển.
Về tiểu thuyết, có hai nhà văn nổi bật là Bôcaxiô (Boccacio), Rabơle (F. Rabelais) và
Xecvantec (Cervantes). Boccacio là một nhà văn Ý, tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện
Mười ngày. Qua tác phẩm Mười ngày, ông chế diễu thói đạo đức giả, công kích cuộc sống khổ
Lịch sử văn minh thế giới

hạnh, cấm dục vì cho đó là trái tự nhiên. Ông cổ vũ cho cuộc sống vui vẻ, biết tận hưởng mọi lạc
thú của cuộc sống. F. Rabơle là một nhà văn Pháp, ông có hiểu biết rộng rãi cả về khoa học
tự nhiên, văn học, triết học và luật pháp. Tác phẩm trào phúng nổi tiếng của ông là cuộc đời
không giá trị của Gargantua và Pantagruen. Migel de Cervantes là một nhà văn lớn của Tây
Ban Nha. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Don Quyjote. Thông qua hình ảnh chàng hiệp sĩ lỗi thời
Don
Quyjote, Cervantes ám chỉ tấng lớp quí tộc Tây Ban Nha với những quan niệm danh dự cổ hủ và
vẽ nên bức tranh một nước Tây Ban Nha quân chủ đang bị chìm đắm trong vũng lầy phong kiến
lạc hậu.
Về kịch, Nhà viết kịch vĩ đại thời phục hưng là một người Anh có tên là W. Sếchpia.
(William Shakespeare). Ông đã viết tới 36 vở bi, hài kịch. Những vở kịch nổi tiếng ảnh hưởng
tới nhiều nước trên thế giới như Rômêô và Giuyliet, Hamlet, Vua Lia, Ôtenlô...
- Hội hoạ, điêu khắc:
Nhà danh hoạ khổng lồ thời Phục hưng là Lêôna đơ Vanhxi (Leonardo da Vinci), ông là
một người Ý. Ông không những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên
nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng, Nàng Giôcôngđơ
(La Joconde), Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng
cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực
thăng, dù thoát hiểm... nhưng những kĩ thuật hồi đó không cho phép ông thực hiện những ý
tưởng của mình. Mikenlăngiơ (Michelangelo) ra đời ở Ý (1475-1564). Ông là một danh hoạ,
một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Tác phẩm tiêu biểu
của ông là bức hoạ Sáng tạo thế giới vẽ trên trần nhà thờ Xixtin gồm có 343 nhân vật. Còn bức
Cuộc phán xét cuối cùng thì được vẽ trên tường nhà thờ Xixtin. Về điêu khắc, ông để lại nhiều
bức tượng tiêu biểu như pho tượng Môidơ, Ngưòi nô lệ bị trói, đặc biệt là pho tượng Đavid. Pho
tượng Đavid của Mikenlăngiơ được tạc trên đá cẩm thạch cao tới 5,3 mét. Đavid ở đây không
phải là chú bé chăn cừu mà là chàng thanh niên đang độ tuổi mười tám đôi mươi, đang độ tuổi
sung sức, với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với
mọi khó khăn thử thách. Mượn hình tượng Đavid, Mikenlăngiơ thể hiện sức sống đang lên của
một lớp người đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con người khổng lồ và đã sản
sinh ra những con người khổng lồ.
Nghệ thuật thời Phục hưng còn có sự đóng góp của những nghệ sĩ nổi tiếng khác như
Raphaen (Raffaello), Giôtô (Giott), Bôtixeli (Botticelli)...
- Khoa học tự nhiên:
Thời Phục hưng còn có sự đóng góp của nhiều nhà khoa học dũng cảm, dám chống lại
những suy nghĩ sai lầm nghìn đời đã được giới quyền lực đảm bảo, thừa nhận. N. Côpecnic
(Nikolai Kopernik, 1473 - 1543) là một giáo sĩ người Ba Lan. Qua nhiều năm nghiên cứu, ông
đã đi tới một kết luận đáng sợ hồi đó là: Trái đất quay xung quanh Mặt trời chứ không phải là
Mặt trời quay xung quanh Trái đất. Thuyết Mặt trời là trung tâm đó của ông vậy là trái hẳn với
thuyết Trái đất là trung tâm đã được nhà thờ công nhận hàng nghìn năm. Điều phát hiện này
được ông trình bày trong tác phẩm Bàn về sự vận hành của các thiên thể. Nhưng sợ bị kết tội,
ông chưa dám công bố. Mãi tới khi cảm thấy sắp từ giã cõi đời ông mới công bố. Gioocđanô
Brunô (Giordano Bruno - 1548-1600), là một giáo sĩ trẻ người Ý. Ông tích cực hưởng ứng học
thuyết của Côpecnic khi giáo hội cấm lưu hành. Không những thế, ông còn phát triển thêm tư
Lịch sử văn minh thế giới

tưởng của Côpecnic. Ông cho rằng Mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung
tâm của Thái dương hệ. Trong vũ trụ, bên cạnh Mặt trời còn có nhiều hệ mặt trời khác. Đương
nhiên thời đó, ông bị đưa ra toà án tôn giáo. Toà án hồi đó buộc ông phải công bố lại là đã bị quỉ
ám thì sẽ tha tội chết nhưng ông thà
chết chứ không chịu nói trái với niềm tin của mình. Cuối cùng, ông đã bị thiêu trên dàn lửa.
Một nhà thiên văn học người Ý khác là Galilê ( Gallileo Gallilei, 1564 - 1642) tiếp tục phát triển
quan điểm của Côpecnic và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30
lần để quan sát bầu trời. Ông đã chững minh là Mặt trăng có bề mặt gồ ghề chứ không phải là
nhẵn bóng; Thiên hà là do vô số vì sao tạo thành. Ông đã giải thích hiện tượng sao chổi.
Ông là cha đẻ của khoa học thực nghiêm, phát hiện ra định luật rơi tự do và dao động con lắc.
Tiến xa hơn, nhà thiên văn học người Đức là Kêplơ (Kepler, 1571 - 1630) đã phát minh ra ba
qui luật quan trọng về sự vận hành của các hành tinh xung quanh Mặt trời. Ông đã chứng minh
rằng quĩ đạo chuyển động của các hành tinh không phải là hình tròn mà là hình elíp, càng đến
gần Mặt trời, vận tốc chuyển động càng tăng lên và càng xa Mặt trời thì vận tốc chuyển động
càng chậm lại.
Triết học cũng có những bước phát triển mới. Người mở đầu cho trường phái triết học duy
vật thời Phục hưng là một người Anh, F. Baicơn (Francis Bacon, 1561 - 1626). Ông đề cao triết
học duy vật Hy Lạp cổ đại, phê phán triết học duy tâm và triết học kinh viện.
- Những đóng góp đối với nền văn minh thế giới:
Phong trào Văn hoá Phục hưng tuy danh nghĩa là phục hưng lại sự huy hoàng của văn hoá
Hy-La cổ đại, nó có tiếp thu những yếu tố từ nền văn hoá Hy-La cổ đại, nhưng thực chất đây là
một nền văn hoá hoàn toàn mới, dựa trên nền tảng kinh tế-xã hội mới và hệ tư tưởng của giai
cấp tư sản đang lên. Qua các tác phẩm của mình, các nhà văn hoá thời Phục hưng đã thể hiện
những tư tưởng chính sau:
• Phong trào văn hoá Phục hưng chống lại những quan niệm không hợp thời của giáo hội
lúc bấy giờ cùng tầng lớp quí tộc phong kiến. Nhiều tác phẩm văn hoá đã công khai đả kích,
châm biếm thói đạo đức giả, dốt nát của tầng lớp quí tộc, phong kiến. Các nhà văn hoá thời Phục
hưng đấu tranh đòi văn hoá phải không bị kiểm soát bởi nhà thờ.
• Nhiều tác phẩm công khai ca ngợi quyền được sống tự do phóng khoáng, quyền được
hưởng thụ. Họ chủ trương văn hoá phát triển phải lấy mục đích vì hạnh phúc con người; đối
tượng ca ngợi phải là con người... Có thể nói tư tưởng chủ đạo là chủ nghĩa nhân văn
(humannisme).
• Phong trào Văn hoá Phục hưng còn ca ngợi tình yêu tổ quốc, tinh thần dân tộc và ý thức
các tác phẩm văn hoá phải hướng về phục vụ tầng lớp bình dân. Vì vậy các tác phẩm văn hoá
giai đoạn này phần nhiều không còn sử dụng chữ Latin mà sử dụng chữ viết riêng của mỗi dân
tộc.
• Nhiều nhà văn hoá thời Phục hưng đã dũng cảm chống lại những quan điểm phản khoa
học của những thế lực cầm quyền đương thời, bất chấp sự đe doạ của những hình phạt, kể cả dàn
thiêu. Các tác phẩm của họ đã giáng những đòn quyết liệt vào triết học kinh viện và chủ nghĩa
duy tâm đương thời, làm lung lay quyền uy của các tăng lữ.
• Phong trào Văn hoá Phục hưng là tấm gương phản chiếu sức sống mãnh liệt của xã hội
phương Tây lúc đó và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
Lịch sử văn minh thế giới

• Phong trào Văn hoá Phục hưng là một cuộc cách mạng trên mặt trận văn hoá, tư tưởng
của giai cấp tư sản đang lên chống lại xã hội phong kiến, để chuẩn bị mở đường cho một cuộc
cách mạng xã hội.
• Phong trào này đã đặt cơ sở, mở đường cho văn hoá Tây Âu phát triển trong những thế kỉ
tiếp theo sau.
• Phong trào Văn hoá Phục hưng còn có nhiều đóng góp quan trọng vào kho tàng văn hoá
nhân loại.

Câu 9. Những chuyển biến kinh tế - xã hội trong thời đại văn minh công nghiệp? ? Nêu
hiểu biết về James Watt và phát minh máy hơi nước của ông?
Nền văn minh công nghiệp ra đời ở các nước Tây Âu dựa trên những điều kiện sau đây:
- Truyền thống thủ công nghiệp – thương nghiệp của các nước Tây Âu
- Những kết quả của công cuộc phát kiến địa lí (đối với sự phát triển văn minh):
+ Phát triển giao lưu, tiếp xúc giữa các nền văn minh, giao lưu kinh tế - văn hóa Đông –
Tây
+ Tìm ra những vùng đất mới, mở rộng phạm vi sinh sống, buôn bán của người châu Âu
+ Phát triển khoa học
+ Thúc đẩy thương mại phát triển (đây là kết quả quan trọng nhất): chuyển trung tâm
thương mại từ Địa Trung Hải sang Đại Tây Dương, xuất hiện những quốc gia phát triển mới bên
bờ Đại Tây Dương (việc thay đổi trung tâm thương mại của phương Tây không chỉ mở rộng
phạm vi, quy mô của việc buôn bán mà còn mở rộng phạm vi, quy mô của nền văn minh phương
Tây tương lai); Tạo động lực thúc đẩy kinh tế Tây Âu phát triển theo hướng Tư bản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa tư bản ra đời và thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản: Kinh tế hàng
hóa TBCN có điều kiện phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề cho cuộc cách mạng công nghiệp (và
tiếp đó, những thành tựu của cách mạng công nghiệp lại khẳng định cho sự thắng thế hoàn toàn
của chủ nghĩa tư bản trước chủ nghĩa phong kiến trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai chế
độ này cuối thế kỉ XIX).
- Cuộc cách mạng công nghiệp là điều kiện quyết định cuối cùng dẫn đến sự ra đời của
nền văn minh công nghiệp. Nó đã trang bị các công cụ máy móc hiện đại để xây dựng nên nền
đại công nghiệp cho xã hội tư bản và rõ ràng cuộc cách mạng này đã khiến cho cuộc sống con
người tiện nghi, thoải mái hơn (văn minh hơn) và biểu hiện trước tiên là sự tiện nghi trong sản
xuất.
Ví dụ: Những tiến bộ kĩ thuật trong ngành dệt ở nước Anh cuối thế kỉ XVIII
Ngoài ý nghĩa là điều kiện ra đời, bản thân diễn biến của cách mạng công nghiệp cũng
chính là biểu hiện cho sự phát triển đầu tiên của nền văn minh công nghiệp.
- Các thành tựu văn minh thời kì CMCN
+ Các phát minh kĩ thuật

* Máy hơi nước


* Động cơ đốt trong
* Động cơ điêzen
Lịch sử văn minh thế giới

+ Những phát minh về điện:


* Pin Volta (người Italia): 1800 – sử dụng dòng điện một chiều
* Điện phát sáng: Bóng đèn điện Edison (1879) và xây dựng nhà máy điện
* Máy phát điện: dựa trên phát minh của Faraday (1831) về từ trường qua ống dây; máy tuốc-
bin phát điện (1880s)
* Lò luyện kim
+ Giao thông vận tải:
* Đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước 1804
* Tàu thủy: 1807, Fulton
* Xe hơi: Đức phát minh, Mĩ phát triển nhất (1914, Ford sản xuất oto hàng loạt, công nghiệp oto
Mĩ đứng đầu thế giới)
* Máy bay: 1903, anh em nhà Wright (thực ra ý tưởng có từ trước: Leonar de Vinci, khinh khí
cầu)
+ Phương tiện liên lạc:
* Điện báo Mooc-xơ (Morse – người Mĩ)
* Máy điện thoại: Graham Bell (Mĩ) 1876
+ Khoa học tự nhiên
 Vật lí:
* Isaac Newton: Định luật vạn vật hấp dẫn (quả táo)----nhà vật lí vĩ đại nhất của thế kỉ XVIII
* Phát minh ra tia X: 1895, Rơn-ghen (Wilhelm Roentgen) người Đức.
* “X”: yếu tố ảnh hưởng không lường được
Tia X có khả năng đâm xuyên qua các vật thể rắn mà ánh sáng không xuyên qua được. Có ý
nghĩa rất to lớn trong y học.
* Thuyết tương đối của Albert Einsetein: Tạo bước chuyển quan trọng trong ngành vật lí học –
Nhà khoa học lớn của thời đại (thế kỉ XX)
 Hóa học:
1869, Bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Dmitri Mendeleep: sắp xếp nhóm các
nguyên tố với khối lượng, tính chất riêng đồng thời dự đoán chính xác những nguyên tố mới,
chưa được tìm thấy lúc bấy giờ
 Sinh học:
* Charles Darwin: 1859, tác phẩm “Nguồn gốc các loài” --- thuyết tiến hóa tự nhiên (cổ điển):
đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên và thích nghi
* Mendel (Áo): di truyền học, gen (ruồi dấm, đậu Hà Lan)
 Y học:
* Adreas Vesalius (Bỉ): cuốn sách về cấu trúc cơ thể người
* Louis Pasteur (thế kỉ XIX): Sử dụng Vacxin
 Tâm lí học:
* Ivan Pavlov: Phản xạ có điều kiện (phản xạ máy móc – kích thích: tập tính)
* Sigmund Freud: Những hành động xuất phát từ những nhu cầu, ước muốn tiềm ẩn – giấc mơ
----- sáng lập Ngành Phân tâm học
+ Triết học và các học thuyết kinh tế - xã hội
 Triết học Ánh sáng thế kỉ XVIII: Đại diện là các nhà Khai sáng Pháp
* Mongteskio: Lĩnh vực tư pháp – nguyên tắc tam quyền phân lập – nhà nước quân chủ lập hiến
Lịch sử văn minh thế giới

* Vonte: Chế độ quân chủ với minh quân – chống chế độ quân chủ chuyên chế. Là con người
toàn diện, có ảnh hưởng to lớn trên nhiều lĩnh vực ------ Thế kỉ XVIII: Thế kỉ Vonte
* Rut-xô: Thay chế độ tư hữu lớn bằng chế độ tư hữu nhỏ - Thiết lập chế độ Cộng hòa, quyền tự
do, bình đẳng ---- Có ảnh hưởng to lớn đến Cách mạng Pháp (nhất là thời Gia-cô-banh)
 Nhóm Bách khoa toàn thư
* Các học thuyết kinh tế: Chế độ kinh tế, kinh doanh tự do. Đại diện: Adam Xmit, Ri-các-đô…
coi mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư sản là quy luật tự nhiên
* Các học thuyết xã hội thế kỉ XIX:
 Học thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc: John Stuart Mill (Anh),
Tocqueville (Pháp), phái Hiến chương
 Chủ nghĩa xã hội không tưởng: Xanh Xi-mông, Phu-ri-ê, Owen
 Chủ nghĩa xã hội khoa học
+ Văn học – nghệ thuật
Văn học:
* Văn học Pháp: Lãng mạn (Bảo thủ; tiến bộ: Victo Huygo), Hiện thực (Ban-dắc, Mô-pát-xăng,
Êmin Dô-la…)
* Văn học Nga: Lep Tôn-xtôi, Đôx-tô-exki, Tuôc-ghê-nhep…
Âm nhạc: Bách, Môda, Xtrox. Thế kỉ XIX: Bet-thô-ven, Chopin
Hội họa: Lãng mạn. Khác trường phái: Goya (Tây Ban Nha) với Chiến tranh chống Napoleon
Điêu khắc: Không bằng thời kì phục hưng Bartholdi: Bức tượng Nữ thần Tự do
Kiến trúc: Đa dạng, giao lưu, rộng mở. Sử dụng vật liệu mới: Thép, bê tông, kính dày. Tiêu
biểu: tòa nhà Quốc hội Mĩ 1793-1851, Quốc hội Anh 1840-1865
Điện ảnh: Ngày 28/12/1895, anh em Lumiere chiếu thành công bộ phim ngắn: “Chuyến xe lửa
đến”
Nhiếp ảnh: 1888, máy ảnh đầu tiên hiệu Kodak được sản xuất – George Eastman (Mĩ) – cuộn
phim trong lõi kín
 Nhận xét:
- Những tiến bộ kĩ thuật (nhất là trong giao thông, liên lạc) đã khiến cho các thành tựu của
văn minh công nghiệp được phổ biến rộng rãi (mặc dù xét ở một khía cạnh nào đó, nó còn giới
hạn chủ yếu trong tầng lớp thượng lưu)
- Đời sống tinh thần được nâng cao
- Cuối thế kỉ XIX, văn minh công nghiệp phát triển với tốc độ ngày càng tăng, Mĩ thay thế
châu Âu trong cuộc cách mạng giao thông vận tải – thông tin liên lạc
- Bước đầu bộc lộ mặt trái của văn minh công nghiệp (mặt trái của chủ nhân của nó thời kì
này là chủ nghĩa tư bản phương Tây): được phản ánh thông qua các học thuyết chủ nghĩa xã hội
không tưởng, chủ nghĩa xã hội khoa học.
Câu 10. Trình bày những thành tựu chính của Cuộc cách mạng KH KT- CN thế kỷ XX?
Phân tích ảnh hưởng của 1 số thành tựu văn minh tiêu biểu đối với đời sống xã hội hiện
nay?
1. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ ở thế kỷ XX:
* Nửa đầu thế kỷ XX:
Lịch sử văn minh thế giới

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, một cuộc cách mạng thực sự đã diễn ra trong ngành vật lí
đó là 3 phát minh quan trọng : điện tử (1896), tính phóng xạ (1898) và Thuyết tương đối.
Giữa thế kỉ XIX, con người vẫn còn quan niệm nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất
không thể phân chia được nữa. Nhưng với những phát hiện về tia X, tính phóng xạ, làm người ta
phải có những cách nhìn khác. Năm 1911, một nhà bác học người Anh là E.Rơdơpho đã tiến
hành thí nghiệm bắn phá nguyên tử. Thí nghiệm của E.Rơdơpho đã chứng minh nguyên tử
không phải đặc mà có rất nhiều khoảng trống. Từ kết quả của thí nghiệm đó, học trò của
E.Rơdơpho là Ninxơ Bo đã đưa ra lí thuyết về mẫu hành tinh nguyên tử. Theo Ninxơ Bo, các
nguyên tử có một nhân ở giữa, xung quanh có các điện tử chuyển động theo một quĩ đạo nhất
định như các hành tinh chuyển động quanh Mặt Trời. Một sự tương đồng giữa thế giới vi mô với
thế giới vĩ mô.
Năm 1932, con người còn phát hiện ra hạt nhân nguyên tử cũng chưa phải là thành phần
nhỏ nhất của vật chất. Hạt nhân nguyên tử còn gồm có prôtôn và nơtrôn. Năm 1934, Phêđơric và
Iren Quyri (con rể và con gái của nhà bác học Mari Quyri) đã phát hiện ra hiện tượng phóng xạ
nhân tạo và chất đồng vị phóng xạ. Năm 1938-1939, các nhà bác học Ôttô Han, Lida Metne
(Đức), Enricô Phecmi (Ialia) và Giôliô Quyri (Pháp) đã cùng phát hiện ra hiện tượng phản ứng
dây chuyền phá vỡ hạt nhân urani. Từ đó, năm 1942 Enricô Phecmi đã xây dựng được lò phản
ứng hạt nhân đầu tiên trên thế giới ngay dưới khán đài sân vận động của trường đại học Sicagô.
Thuyết tương đối của Anbe Anhxtanh đã làm một cuộc cách mạng thực sự của vật lí hiện đại.
Khi mới được công bố, nhiều người cho đây là một lí thuyết điên khùng. Ngay cả một số nhà
bác học lớn tuổi thời đó cũng không hiểu nổi lí thuyết của Anhxtanh. Nhưng với thời gian, nhiều
sự kiện thực nghiệm càng ngày càng chứng minh lí thuyết của Anhxtanh là đúng đắn . Lí thuyết
này không thể thiếu trong nhiều lĩnh vực như vật lí hạt nhân, kĩ thuật máy gia tốc, vật lí thiên
văn hiện đại. Có thể nói rất nhiều các phát minh lớn về vật lí của thế kỉ XX đều có liên quan đến
lí thuyết của Anhxtanh.
Trong lĩnh vực hoá học, sinh học... cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Những
thành tựu về khoa học cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã đưa và sử dụng như điện tín, điện thoại,
ra đa, máy bay, phim có âm thanh...
* Nửa sau thế kỷ XX:
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đạt được những thành tựu kì diệu trong mọi ngành
khoa học cơ bản và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, rõ nét nhất là trong các ngành điện tử-tin
học, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học, kĩ thuật lade, khoa học vũ trụ.
Máy tính và rôbôt là những sản phẩm tiêu biểu của công nghệ điện tử-tin học. Từ những
chiếc máy vi tính (compute) đầu tiên ra đời vào năm 1946 đến nay, máy tính đã trải qua bốn thế
hệ. Từ những chiếc máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bóng đèn điện tử chân không, rồi chất bán
dẫn, vi mạch (mạch tích hợp IC - Integrated Circuit), vi mạch với độ tích hợp cao. Từ máy tính
điện tử dẫn tới sự kết nối Internet, tạo ra mạng thông tin toàn cầu với khả năng trao đổi thông tin
cực nhanh, giá rẻ.
Đội ngũ rôbôt công nghiệp ngày càng đông đảo, thông minh hơn và lĩnh vực tham gia hoạt
động đang ngày càng mở rộng.
Nhiều loại vật liệu mới ra đời trong hoàn cảnh vật liệu thiên nhiên ngày càng vơi cạn dần.
Những loại vật liệu mới này còn có những tính năng hơn hẳn vật liệu tự nhiên như siêu bền, siêu
cứng, siêu nhẹ... Tên các loại vật liệu mới như composit, polyme, silic, sợi cáp quang... ngày
Lịch sử văn minh thế giới

càng trở nên phổ biến. Nhiều loại năng lượng mới đã được con người sử dụng để biến thành
điện năng như năng lượng nguyên tử, năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió...
Tia lade (laser) mới được phát minh ra từ những năm 60 của thế kỉ XX nhưng đến nay đã
được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, từ quân sự, thiên văn, y học, công nghệ in, thông tin liên
lạc... Công nghệ sinh học đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc, thậm chí đáng sợ.
Công nghệ sinh học tập trung vào bốn lĩnh vực: công nghệ gen, công nghệ tế bào, công
nghệ vi sinh, công nghệ enzim. Nhờ công nghệ sinh học, người ta đã tạo ra nhiều giống cây, con
mới với những đặc tính ưu điểm khác hẳn các giống trong tự nhiên; nhiều loại dược phẩm mới
ra đời, nhiều loại chất xúc tác mới xuất hiện...
Trong nghiên cứu vũ trụ, con người đã tiến những bước dài mà đi đầu là hai nước Liên Xô
và Mĩ. Các tàu vũ trụ của Liên Xô và Mĩ đã đi thăm dò những hành tinh xa xôi ngoài Trái Đất.
Liên Xô, Mĩ và giờ đây đang thêm nhiều nước khác đã phóng các vệ tinh nhân tạo đáp ứng nhu
cầu truyền hình, thông tin toàn cầu, điều tra tài nguyên, dự báo thời tiết, mạng định vị qua vệ
tinh...
2. Vai trò, ảnh hưởng đối với nền văn minh thế giới:
Những thành tựu của khoa học vũ trụ ngày càng phục vụ đắc lực cho cuộc sống của con
người trên hành tinh. Các vệ tinh nhân tạo đã giúp ích to lớn và có hiệu quả cho ngành khí tượng
dự báo thời tiết dài ngày và chính xác hơn, cho việc truyền tin và truyền hình, sản xuất nông
nghiệp, điều tra cơ bản và thăm dò tài nguyên cũng như lập bản đồ địa lí, địa chất và công tác
trắc địa...
Mặt khác, việc thám hiểm Mặt Trăng, các hành tinh và các vì sao đã làm phong phú thêm,
sâu sắc thêm sự hiểu biết của con người về vũ trụ, đẩy mạnh hơn cuộc cách mạng khoa học – kĩ
thuật trên toàn thế giới.
Cũng như nhiều ngành khoa học khác, khoa học vũ trụ trở thành một bộ phận không thể
thiếu được của cách mạng khoa học - kĩ thuật và nền văn minh nhân loại thế kỉ XX.

You might also like