Professional Documents
Culture Documents
Chương 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH
CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
1. Quá trình chuyển biến của xã hội Việt Nam từ 1858 – 1930 và tác động của nó đến sự ra
đời của ĐCS Việt Nam.
a) Quá trình chuyển biến của xã hội Việt Nam từ 1858 – 1930
❖ Tình hình xã hội Việt Nam từ 1858 – 1930
- Đầu TK XIX, các nước tư bản phương Tây có nền CN phát triển cực thịnh, họ chạy đua và tranh
giành nhau trên bảng xếp hạng các quốc gia giàu có nhất. Chính vì thế, họ cần thêm tài nguyên
để phát triển và mở rộng lãnh thổ để có nơi giao thương buôn bán. Trong khi đó, châu Á là một
lục địa có lãnh thổ rộng lớn và rất nhiều tài nguyên => các nước phương Tây đua nhau đưa tàu
đến để săn lùng thuộc địa.
- Trước khi Pháp xâm lược: VN là chế độ "Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền” (mọi
quyền lực đều nằm trong tay vua) , được điều hành bởi triều đình nhà Nguyễn. Tuy nhiên, ở giai
đoạn này, chế độ phong kiến VN đang có những biểu hiện khủng, suy yếu nghiêm trọng:
• Nông nghiệp sa sút: Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, nhưng cuối cùng đất
đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, cường hào; đê điều thì không được chăm sóc, nạn
mất mùa, đói kém xảy ra liên miên.
• Công thương nghiệp bị đình đốn. Chính sách “bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn khiến cho
đất nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài.
• Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc “cấm đạo”, đuổi giáo sĩ
phương Tây
• Nhiều cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã nổ ra
- Trong cuộc chạy đua thôn tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc truyền đạo Thiên
Đạo để chuẩn bị tiến hành cuộc xâm lược. TK XVII, các giáo sĩ Pháp đã tới VN truyền đạo, một
số giáo sĩ kết hợp truyền giáo với việc dò xét tình hình, vẽ bản đồ, chuẩn bị cho cuộc xâm nhập
của tư bản Pháp.
- Năm 1857, Hoàng đế Pháp là Napoléon III lập ra Hội đồng Nam Kỳ để bàn cách can thiệp vào
nước ta, tiếp đó cho sứ thần tới Huế đòi được “tự do buôn bán và truyền đạo”. Viện cớ nước ta
ngược đãi giáo sĩ phương Tây, Pháp đã tiến hành tấn công Việt Nam . Sau nhiều lần khiêu khích
thì sáng ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - TBN đã nổ phát súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.
- Thời điểm đó chế độ phong kiến dưới triều đại nhà Nguyễn đã lâm vào giai đoạn khủng hoảng
trầm trọng. Trước sự xâm chiếm của Pháp, Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp (với các
hiệp ước vào các năm 1862, 1874, 1883).
- Sau khi thỏa thuận bằng nhiều hiệp ước thì đến ngày 6/6/1884 triều đình nhà Nguyễn đã đầu
hàng hoàn toàn với hiệp ước Patơnốt khiến nước ta trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong
quốc nô, Tổ quốc ta bị dày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
- Năm 1884, Thực dân Pháp chính thức thiết lập được sự thống trị trên toàn đất nước ta. Nhân dân
ta rơi vào thân phận nô lệ, mất độc lập, tự do. Từ đây VN từ một nước độc lập, có chủ quyền đã
trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
- Tuy triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp nhưng nhân dân Việt Nam không chịu
khuất phục, phong trào đấu tranh nổ ra liên tục, khắp các địa phương. Thực dân Pháp phải dùng
vũ lực để bình định, đàn áp sự nổi dậy của nhân dân.
❖ Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất 1897-1914
4.Chủ trương của Đảng đề ra tại Hội nghị lần thứ tám BCHTW Đảng (Từ ngày 10 đến ngày
19/5/1941)
- Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu, cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
với đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Bởi vì dưới hai tầng áp bức Nhật - Pháp, “quyền lợi tất cả
các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”
- Thứ hai, Khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược” và giải thích: “Cuộc cách
mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách
mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải
giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết
định tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu
tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo , chia lại ruộng đất công cho
công bằng, giảm tô, giảm tức. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, nếu không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc,
thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề
dân tộc”