You are on page 1of 33

Chương 1

Chủ đề 1: Việt Nam là nước thuộc địa hay thuộc địa nửa phong kiến?
Thuộc địa là một xã hội như thế nào?
Những người có nguồn gốc từ một mẫu quốc cư trú và làm việc tại thuộc địa của nước đó được gọi là thực dân.
Thuộc địa khác với quốc gia bù nhìn hay nước chư hầu vì thuộc địa không độc lập nên không có đại diện quốc tế, và những chức trách cao nhất đều chịu sự
chỉ đạo trực tiếp từ mẫu quốc..
Đặc điểm xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX:
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự đóng chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm, Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những
chính sách cải cách, bóc lột dân ta.
* Về kinh tế: Chế độ tư bản chủ nghĩa theo Thực dân Pháp đã xâm nhập vào Việt Nam giúp cho kinh tế hàng hoá và kinh tế tiền tệ (hàng hoá đa dạng hơn,
ngân hàng Đông Dương được thành lập) đã dần dần đẩy lùi và tiêu diệt nền kinh tế tự cung tự cấp – nền kinh tế vốn tồn tại hơn ngàn năm qua. Từ đó tạo ra nền
kinh tế mới, nền kinh tế vừa mang dáng vóc của phong kiến cổ xưa, vừa mang dáng vóc của tư bản chủ nghĩa năng động. Nhờ đó các ngành công nghiệp đã ra
đời: khai thac mỏ, giao thông vận tải,… Quan hệ ruộng đất cũng không còn giữ nguyên hiện trạng của nó (nhiều giống cây công nghiệp được trồng như: Cao
su, cà phê,…). Hình thức bóc lột của giai cấp địa chủ cũng thay đổi thấy rõ (họ lập nên các vườn cao su, bắt tá điền bỏ cày cấy mà vào các vườn cao su để cạo
mủ,…). Tuy nhiên, do thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta mà vẫn duy trì và kết hợp nền kinh tế
phong kiến và tư bản để thu lợi nhuận siêu ngạch nên nước ta vẫn bị kìm hãm trong sự lạc hậu, phụ thuộc nặng nề vào Pháp.
* Về chính trị: 
- Trước đây, vào thời kì phong kiến, giai cấp địa chủ (vua quan nhà Nguyễn) nắm mọi quyền lực trong bộ máy chính quyền nhà nước. 
- Sau khi thực dân Pháp đã chiếm trọn Nam Kỳ và Bắc Kỳ, khống chế hoàn toàn Trung Kỳ, mọi quyền hành đều nằm trong tay các viên quan cai trị người
Pháp. Nhưng thay vì tiêu diệt hoàn toàn bộ máy chính quyền vua quan nhà Nguyễn, chúng đã biến bộ máy chính quyền nhà Nguyễn thành tay sai đắc lực cho
chúng trong việc vơ vét, bóc lột và đàn áp nhân dân ta.
* Về văn hóa: Thực dân Pháp thi hành chính sách văn hóa nô dịch, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Chúng ngăn chặn ảnh hưởng văn hóa tiến bộ
trên thế giới vào Việt Nam, thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
* Về xã hội: Phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra một cách sâu sắc.
Các giai cấp cũ: 
Tá điền: Vốn nghèo nay còn bần cùng hơn nữa
Địa chủ: Bị Pháp biến thành tay sai, và địa chủ lúc này bị thay đổi tính chất không còn là giai cấp địa chủ nữa. Chúng phục tùng thực dân Pháp và trở thành
đối tượng của Cách mạng.
=>Như vậy với sự xâm chiếm của thực dân Pháp nhiều giai cấp tầng lớp biến mất đồng thời xuất hiện những tầng lớp mới. Tính chất của một nhà nước
phong kiến ở nước ta không còn nữa và Pháp đã biến Việt Nam ta thành một nước thuộc địa để phục vụ cho chúng
Nước ta đã trải qua không ít những biến động, những biến đổi này ảnh hưởng không nhỏ đến xã hội Việt Nam, thay đổi gần như hoàn toàn Việt
Nam, biến nước ta thành một nước thuộc địa. Ngoài ra, những biến đổi này ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế, chính trị Việt Nam; nó đưa mâu
thuẫn giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa nhân dân với đế quốc và tay sai tăng lên đến cao trào, đặt nước ta trước yêu cầu phải các mạng để chặt đứt
hai chiếc còng này. Nhưng để làm được điều đó cần có tổ chức lãnh đạo và đó là nguyên nhân, tiền đề cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau
này.
Chủ đề 2: “Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX mang tính giai cấp hay dân tộc?”
Trả lời: Các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là phong trào mang tính chất giai cấp.
Bối cảnh lịch sử:
Trước khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là một quốc gia phong kiến độc lập với nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp xâm
lược Việt Nam.
Tháng 6/1884, triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Partonot, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở hoàn toàn ở Việt Nam.
Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914   1918), chúng tiến hành
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh. 
Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào
Pháp. 

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.  

Giai cấp địa chủ, đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực dân được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa bỏ mà vẫn
bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa.

Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dânsố, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc lột, cuộc sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.

Tầng lớp tiểu tư sản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên... phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp
bênh nên hăng hái đấu tranh và là lực lượng quan trọng của cách mạng.

Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp. Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở
thành tay sai của chúng. Bộ phận tư sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản nước ngoài chèn ép nên có tinh thần dân tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.

Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ.
Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình
định của chúng ở nước ta.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến,  đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh
thần cách mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. 
Một số phong trào điển hình:
Tiêu biểu nhất là phong trào Cần Vương do vuaHàm Nghi phát động. Phong trào Cần Vương diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi
nghĩa vũ trang.
Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan ĐìnhPhùng lãnh đạo(1885 - 1896); cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và ĐinhCôngTráng tổ chức
(1885 - 1886); cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do NguyễnThiệnThuật đứng đầu(1885 - 1892). 
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong  kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt
ra.  
- Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan BộiChâu lãnh đạo. Ông tổ chức phong trào Đông Du(1906 — 1908) chủ trương nhờNhật Bản giúp đỡ. Phong
trào du học diễn ra gần hai năm, Pháp - Nhật Bản thoả hiệp trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam. Phong trào Đông Du tan rã..Sau khi cách mạng
Tân Hợi ở TrungQuốc(1911) thắng lợi, Phan Bội Châu về Trung Quốc thành lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương vũ trang chống Pháp ở trong nước,
khôi phục độc lập dân tộc.
- Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh(1872 - 1926) tổ chức . Những năm 1906 - 1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao dân trí, cổ
vũ tinh thần, cải thiện đời sống nhân dân bằng con đường bất bạo động, công khai khai hoá cải cách, chấn hưng văn hóa, côngnghệ, chống mê tín dị đoan.
- Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Hà Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở
TrungKỳ(1908); phong trào đấu tranh của Đảng Lập Hiến(1923), Đảng Thanh Niên(1926). Mạnh mẽ nhất là phong trào của Việt Nam Quốc dân Đảng(1929-
1930).
Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan BộiChâu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến hành lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ
XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của  dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập
tắt.  
🡺 Tóm lại các phong trào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã nổ ra với lực lượng chính là giai cấp nông dân, các cuộc khởi nghĩa này nổ ra liên tục và
phát triển khá mạnh ở các địa phương, cũng đã phát huy được tinh thầndân tộc và kêu gọi được nhân dân, tuy nhiên chưa có sự thống nhất một cách
chặt chẽ nên các cuộc khởi nghĩa này về sau đều bị đàn áp và thất bại.
Chủ đề 3: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.
1,Tư tưởng khác biệt của Nguyễn Ái Quốc trong sự nghiêp giải phóng dân tộc
Các phong trào yêu nước của nhân dân ta cuối thế kỉ XIX – đầu thế kí XX tuy thể hiện tinh thần yêu nước và ý chí mạnh mẽ đều đi đến thất bại.
Nguyên nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo, chưa có hệ tư tưởng khoa học dẫn đường, chưa có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bối cảnh
lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc lại sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về “tự do, bình đẳng, bác ái”, mở ra con đường mới về giải phóng dân
tộc.
2,Con đường và tư tưởng mà Nguyễn Ái Quốc đã chọn để giải phóng dân tộc
Trải qua gần 10 năm hoạt động không ngừng ở 40 quốc gia, ở hầu khắp các châu lục, vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ khảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và quyết tâm đi theo con đường Quốc tế III. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu, tổng kết, tìm ra
bản chất của các học thuyết, các cuộc cách mạng trên thế giới, chắt lọc, vận dụng và phát triển cho phù hợp với dân tộc mình. Người nhận thức, chỉ có kết hợp
chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính đảm bảo cho cách mạng
đi đến thắng lợi.
II, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục truyền bá chủ nghĩa Mác Lenin vào trong nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng
1. Về tư tưởng
Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, làm chuyển biến mạnh mẽ phong
trào yêu nước theo lập trường của giai cấp công nhân. Người tuyên truyền bằng các tác phẩm ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ quần chúng. Người đã
vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân xâm lược.
2. Về chính trị
Nguyễn Ái Quốc phác thảo hệ thống những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và sau này trở thành những nội
dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Người chỉ ra rằng phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao;
cách mạng muốn thành công, trước hết phải có một đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo..
3. Về tổ chức 
Người tiến hành đào tạo, huấn luyện ở Quảng Châu tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925). Chính những thanh niên trong
hội này đã tham gia phong trào “vô sản hoá” để được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện sự ra đời của Đảng.
III,Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Hoàn cảnh lịch sử: Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
Thời gian họp Hội nghị: Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công (Trung Quốc)
Thành phần : Nguyễn Ái Quốc (chủ trì), các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải
ngoại (Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn).
Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ
vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Nhiệm vụ: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng , thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng để đi tới xã hội cộng sản
 
Kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước.
Chủ đề 4: Trình bày hội nghị thành lập Đảng vào đầu năm 1930
A/ TÓM TẮT
1, Hoàn cảnh lịch sử
- Bối cảnh quốc tế: 
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. 
Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước
thuộc địa.
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công, mở ra thời đại mới cho lịch sử loài người, cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.  
- Bối cảnh trong nước:
Về chính trị: thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân (tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn)
Về kinh tế: thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo: cướp đoạt ruộng đất, chính sách thuế khoá nặng nề
Về văn hoá: thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân. 
Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi
vào khủng hoảng về đường lối cách mạng.
- Sau chính biến ngày 12/4/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu qua Bỉ, đến Thái Lan, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối cứu nước, Hội Việt
Nam thanh niên cách mạng tiếp tục truyền bá tư tưởng trong quần chúng nhân dân
Phong trào cách mạng dân tộc dân chủ dâng cao đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng thực sự của giai cấp công nhân.
 Từ nửa cuối năm 1929, Hội việt Nam thanh niên cách mạng bị phân hoá.
17/6/1929, Đông Dương cộng sản Đảng thành lập. 11/1929, An nam cộng sản Đảng ra đời.12/1929, thành lập Đông dương cộng sản liên đoàn. Các tổ chức
tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau.
 Nhiệm vụ hợp nhất các nhóm cộng sản lại với nhau đặt lên vai Nguyễn Ái Quốc
 Từ 3-7/2/1930, Hội nghị thành lập ở bán đảo Cửu Long (Hương Cảng- Trung Quốc)
2. Diễn biến hội nghị:
- Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6/1/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng – Trung Quốc), dự hội nghị có đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng
sản đảng.
- Tại hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán những quan điểm sai lầm của các tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là
phải tự phê bình và phê bình về những thành kiến giữa các tổ chức cộng sản
- Hội nghị hoàn toàn nhất trí tán thành việc hợp nhất 2 tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một Đảng duy nhất lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được thông qua.
- Tiếp đó, Hội nghị bàn về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thảo luận thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều
lệ vắn tắt, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Những ý kiến chỉ đạo đó của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán thành và thực hiện.
- Nhân dịp thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc viết lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột hãy gia nhập Đảng, đi theo
Đảng để đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và tư sản phản  cách mạng.
- Ngày 24/02/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam
B/ CÁC NỘI DUNG CHI TIẾT
1. Về ba tổ chức đảng 
a.      Đông Dương Cộng sản Đảng
-  Thành lập: Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương Cảng (Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa
ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị đó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long
đã tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng.
-  Ban chấp hành trung ương: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyễn Tuân
(Kim Tôn).
-  Phạm vi: phát triển ở Bắc kỳ và cử người vào Trung kỳ, Nam kỳ vận động thành lập đảng trong toàn thể Việt Nam.
-  Tuyên ngôn: Thời kỳ đầu tiên của cách mạng ở Đông Dương là tư sản dân chủ cách mạng, giai cấp vô sản “thực hành công nông liên hiệp” để đánh
đuổi đế quốc Pháp và lật đổ phong kiến địa chủ “thực hành thổ địa cách mệnh”
-             Khuyết điểm: điều kiện công nhận Đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức, Đảng có tính chất bè phái,
xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt.
-             Ý nghĩa: Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng là sự kiện đột phá chính thức kết thúc vai trò của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, có ảnh
hưởng đến sự ra đời của hai tổ chức cộng sản khác.
b.      An Nam Cộng sản Đảng
-  Thành lập: Trước ảnh hưởng ngày càng lớn của nhóm Đông Dương, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ quyết định cải tổ toàn bộ phận còn lại
thành tổ chức cộng sản. Các hội viên tiên tiến của Hội ở Trung Quốc và Nam Kì quyết định thành lập An Nam cộng sản Đảng vào tháng 8 năm 1929 [1]. Đại hội
Thành lập được tổ chức tại phòng 1, lầu 2, nhà số 1 đường Philippines (nay là đường Nguyễn Trung Trực), phường Bến Thành, Quận 1, thành phố Hồ Chí
Minh.
-  Ban chấp hành trung ương: Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Sĩ Sách
-  Phạm vi:  rộng khắp ở các tỉnh Nam Kỳ.
-  Tuyên ngôn:  “Ai tin theo chương trình của Quốc tế Cộng sản, hăng hái phấn đấu trong một bộ phận đảng, phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt
phí, có thể cho vào đảng được”
-  Khuyết điểm: điều kiện công nhận đảng viên chính thức, điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội quá khắt khe.
c.       Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (24/2 mới tham gia) 
-  Thành lập: Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ với tiền thân là tổ chức Tân Việt Cách mạng Đảng.
-  Ban chấp hành trung ương: chưa có
-  Phạm vi: chủ yếu ở vùng Bắc Trung Kỳ
-  Tuyên ngôn: “Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách
mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xóa nạn bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa trong
toàn xứ Đông Dương”.
-  Khuyết điểm: nội bộ tổ chức có nhiều luồng ý kiến khác nhau với lý tưởng riêng và có xu hướng chia rẽ, ra đời chưa có lực lượng, tổ chức, chánh
cương không cụ thể, chưa phải là một đoàn thể Bônsơvích chân chính "nhưng có tinh thần cộng sản"
Nhận xét: Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu
tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Những người
cộng sản của ba tổ chức này đã đánh giá nhau không đúng và chưa nhận thức được hiện tượng phân tán, chia rẽ về tổ chức của phong trào cộng sản sẽ dẫn
đến những nguy cơ gì. Vì vậy, yêu cầu bức thiết của cách mạng bấy giờ là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo.
1.  Nguyên nhân chọn Hương Cảng làm địa điểm thành lập Đảng
● Vì thời điểm ấy phong trào cách mạng ở Trung Quốc diễn ra mạnh mẽ.
● Ở đây tập trung nhiều nhà hoạt động cách mạng, tri thức, thanh niên đến từ Việt Nam đang hoạt động
● Không phải ở Việt Nam, nên ít phải lo đến mật thám của Pháp phát hiện ám sát
● Ở cảng, thuận tiện cho đi lại đường xa
1. Nguyên nhân thành lập Đảng. Ảnh hưởng của việc thiếu đi một Đảng duy nhất đến Cách mạng Đông Dương 
      Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác
nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Những cuộc khởi nghĩa (phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, khởi Nghĩa Yên thế,...);
những Đảng hội (Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách mạng Đảng,...) lần lượt khởi xướng. Tuy đã xác định đúng kẻ thù là thực dân Pháp
nhưng các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức
lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc. 
      Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để
“trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Và đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. 
     Việc thiếu 1 Đảng cộng sản duy nhất sẽ khiến khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước kéo dài suốt nửa cuối thế kỷ XIX đến ba thập niên
đầu thế kỷ XX, khiến cho ta xác định sai mục tiêu chiến lược, lực lượng, phương pháp cách mạng, Pháp sẽ chia rẽ các Đảng, khi các Đảng không hỗ trợ nhau
sẽ dễ dàng lần lượt bị tiêu vong.
1. Nội dung chính của các văn kiện được thông qua: 
a) Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định các giai đoạn, đối tượng và nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam:
     Chánh cương vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, nêu rõ chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản. Tiến trình cách mạng Việt Nam gồm hai giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là tư sản dân quyền cách mạng trong đó có nhiệm vụ thổ địa cách mạng và giai
đoạn thứ hai là thế giới cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
     Chánh cương vắn tắt khẳng định đế quốc và phong kiến đều là đối tượng phải đánh đổ trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng hai nhiệm vụ này không
thực hiện đồng loạt. Nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc phải đặt lên hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày sẽ
thực hiện từng bước, nhằm tập trung vào kẻ thù chính là bọn đế quốc xâm lược và bọn phong kiến tay sai.
     Chánh cương vắn tắt chỉ rõ những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tư sản dân quyền cách mạng về các phương diện xã hội, chính trị và
kinh tế. Chánh cương xác định, về phương diện xã hội là dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hoá; về
phương diện chính trị cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng
ra chính phủ công - nông binh, tổ chức ra quân đội công nông; về phương diện kinh tế phải thu hết sản nghiệp lớn như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v. của
đế quốc Pháp giao cho Chính phủ công - nông binh quản lý, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, v.v..
b) “Sách lược vắn tắt của Đảng” đề ra đường lối tập hợp và lôi kéo quần chúng
     Sách lược vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, gồm năm điểm, xác định Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại
bộ phận giai cấp mình và làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. 
     Đồng thời, Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong
kiến. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên và Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe giai cấp vô sản. Còn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, rồi làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng thì phải đánh đổ.
     Xuất phát từ đường lối đã xác định trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt chủ trương thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn
kết rộng rãi của toàn dân tộc chống đế quốc. Đồng thời, Sách lược vắn tắt vẫn nhấn mạnh nguyên tắc hợp tác giai cấp của Đảng, trong khi liên lạc với các giai
cấp, phải thận trọng, không nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thoả hiệp. Đảng phải đồng thời tuyên truyền và liên lạc với các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
c) “Chương trình tóm tắt của Đảng” nêu những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng trong giai đoạn tư sản dân quyền cách mạng
     Chương trình tóm tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, cũng gồm năm điểm, trong đó xác định những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách về xây
dựng Đảng; về tập hợp quần chúng công nông chuẩn bị thổ địa cách mạng và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến; làm cho công nông thoát khỏi ách của tư bản;
lôi kéo, tập hợp các tầng lớp tiểu tư sản, tư sản bậc trung, trí thức và trung nông v.v., đánh đổ bọn phản cách mạng v.v.; đoàn kết, hợp tác giai cấp nhưng không
hy sinh lợi ích của công nông; nêu khẩu hiệu "Việt Nam tự do"; đoàn kết với vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, nhất là vô sản Pháp.
d) “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” quy định những vấn đề quan trọng về mục tiêu, tổ chức, hoạt động và kỷ luật của Đảng
     Điều lệ vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, xác định tên gọi, tôn chỉ mục đích, lệ vào Đảng, hệ thống tổ chức, trách nhiệm đảng viên, quyền
lợi đảng viên, các cấp uỷ Đảng, kinh phí và kỷ luật của Đảng. Những vấn đề ghi trong Điều lệ vắn tắt của Đảng đã xác định tính chất và nguyên tắc tổ chức của
chính đảng mácxít chân chính và cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Ý nghĩa của các tác phẩm:
     Với sự ra đời của các tác phẩm này, đường lối và phương pháp, chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam - nhất là của cách mạng giải phóng dân
tộc, tính chất và nguyên tắc tổ chức Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam đã được hình thành và từng bước cụ thể hoá. 
Đây thực sự là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với toàn bộ quá trình cách mạng, nhất là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
Việt Nam. Các tác phẩm này thể hiện tinh thần cách mạng triệt để và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc khi kết hợp lý luận với thực tiễn, nhất là vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản. Thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, trước hết là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã chứng minh tính khoa học và cách mạng của những tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc trong các tác phẩm quan trọng này.
1. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng
     Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, Hồ Chí
Minh viết: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam.
      Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài
mấy chục năm đầu thế kỷ XX. "Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô
sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng".
     Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.
     Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử tiến hoá của dân tộc
Việt Nam, được mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
1. Ý nghĩa tên Đảng- Đảng Cộng Sản Việt Nam 
     Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho ba dân tộc Đông Dương. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ
Chí Minh giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể
bắt buộc các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp, mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ.
     Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”, nên Hội nghị nhất trí với cách giải thích
của Người và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó của Người tuân thủ những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, có
tính đến yếu tố dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời tạo ra sự tin cậy về chính trị để đoàn kết,
giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Chương 2
Chủ đề 1: SO SÁNH CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ THỨ NHẤT VÀ THỨ HAI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Nội dung chính của 2 bản cương lĩnh:
a. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản:
Do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng (tháng 2/1930) thảo luận, thông qua.
Gồm Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành nội dung
Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Chánh cương chỉ rõ:
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ của cách mạng:
● Về chính trị: đánh  đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ
công nông binh và tổ chức quân đội công nông.
● Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành
luật ngày làm tám giờ.
● Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
- Lực lượng cách mạng: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập, đồng thời
phải) liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới.
- Lãnh đạo cách mạng: Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp vô sản.
- Phương pháp cách mạng Việt Nam: Cương lĩnh đã khẳng định: phương pháp cách mạng cơ bản của Việt Nam là dùng sức mạnh tổng hợp của quần chúng
nhân dân để đánh đổ đế quốc phong kiến, đó là bạo lực cách mạng.
- Quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Vấn đề đoàn kết quốc
tế cũng là một nội dung quan trọng của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đoàn kết quốc tế là một vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng Việt Nam:
“Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới,
nhất là vô sản giai cấp Pháp”.
- Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mác - Lênin.
b,Cương lĩnh thứ hai - Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương
Tháng 10/1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng
do điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị (họp từ ngày 14/10 đến 31/10/1930) thông qua bản Luận cương
chánh trị, án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội
dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng.
- Luận cương xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
● Về mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương: một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, tư bản và
đế quốc chủ nghĩa.
● Tính chất của cách mạng Đông Dương: lúc đầu “là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền… có tính chất thổ địa và phản đế” sau đó phát
triển bỏ qua thời kỳ tư bản tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
● Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ các di tích phong kiến để thực hành thổ địa cách nạng triệt để và đánh đổ đế quốc làm
cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít với nhau, trong đó “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.
● Về lực lượng cách mạng: trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm
quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.
● Về phương pháp cách mạng: Luận cương nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “võ trang bạo động”.
● Về vai trò lãnh đạo của Đảng: “Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một
đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”.
● Về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Luận cương chính trị nhấn mạnh: vô sản Đông Dương phải liên lạc mật
thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp, với quần chúng cách mạng ở các nước thuộc địa, bán thuộc địa, nhất là Trung Quốc và Ấn
Độ. Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
1. Điểm giống nhau của 2 bản cương lĩnh:
● Về phương hướng chiến lược của cách mạng , cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và
thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn
cách. Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.
● Về nhiệm vụ cách mạng: đều chống đế quốc, chống phong kiến, lấy lại ruộng đất và giành độc lập cho dân tộc.
● Về lực lượng cách mạng : chủ yếu là công nhân và nông dân. Có thể thấy đây là hai lực lượng nòng cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to
lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.
● Về phương pháp cách mạng: sử dụng sức mạnh số đông dân chúng  Việt Nam về cả chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách
mạng là đánh đổ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.
● Về lãnh đạo cách mạng: xác định là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản là đội tiên phong
● Về vị trí quốc tế: cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, gắn bó chặt chẽ với các phong trào cách mạng nước ngoài.
2. Điểm khác nhau của 2 bản cương lĩnh:

Nội dung so
Cương lĩnh chính trị (2/1930) Luận cương chính trị (10/1930)
sánh

Phạm vi phản
Việt Nam. Ba nước Đông Dương.
ánh

Mâu thuẫn
Mâu thuẫn dân tộc. Không chỉ ra
chủ yếu

Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và tư sản Đánh phong kiến và đánh đế quốc là hai nhiệm vụ có quan hệ
Nhiệm vụ
phản cách mạng. khăng khít.

Làm cho Việt Nam độc lập, thành lập chính


phủ công-nông. Làm cho Đông Dương độc lập, chính phủ công-nông, tiến
Mục tiêu
Tịch thu sản nghiệp của đế quốc và tư sản hành cách mạng ruộng đất triệt để.
phản cách mạng chia cho dân nghèo.

Công- nông+ tiểu tư sản+trí thức. Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách
Còn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là
Lực lượng thì lợi dụng hoặc trung lập. đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
cách mạng => phát huy được sức mạnh của cả khối => chưa phát huy được khối đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá
đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng
đầu là giải phóng dân tộc. chống đế quốc và phong kiến.

Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong Giai cấp vô sản với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt
Lãnh đạo
của giai cấp. Nam.

Quan hệ với Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khắng


cách mạng thế khít của cách mạng thế giới, liên lạc với các Quan hệ với cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới.
giới dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới.

Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách dập khuôn máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá
nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh chính trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách
mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .
=> Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất
quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và
hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.
3. Tại sao lại có điểm giống và khác nhau đó?
- Hai văn kiện tồn tại sự giống nhau vì:
● Cả Cương lĩnh và Luận cương đều thấm nhuần tư tưởng và chủ nghĩa Mac - Lênin. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”.
● Ảnh hưởng vĩ đại từ cuộc Cách mạng Nga năm 1917. Sau khi Cách mạng Tháng 10 Nga thành công, đã thành lập Liên bang Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) điều này đã chỉ hướng cho nhân dân các quốc gia bị áp bức, nhân dân của các nước thuộc địa về con
đường đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có Việt Nam.
- Sự khác nhau giữa hai cương lĩnh là do:
● Sự nhận thức của người khởi thảo khác biệt: Cách nhìn, tầm nhìn, tầm nhận thức của Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú
● Yêu cầu về thực tiễn cũng có những thay đổi: Đặc điểm, tình hình xã hội Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung cũng như mâu
thuẫn gay gắt trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

Nhìn chung, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đúng đắn và hoàn thiện hơn so với Luận cương. Nguyễn Ái Quốc có cái nhìn liền mạch hơn khi chỉ rõ
được mâu thuẫn cấp thiết nhất. Còn Trần Phú tuy khởi thảo chi tiết hơn nhưng chỉ tập trung vào vấn đề giai cấp.
Cả hai văn kiện tuy có nhiều điểm khác biệt, song, đều đóng vai trò rất lớn. Đó là sự chuẩn bị tất yếu, đồng thời là nền tảng cho việc xây dựng lí luận, tư tưởng
đến tận bây giờ.
Chủ đề 2: Trình bày Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941). 
Trả lời: Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941) đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng.
1, Hoàn cảnh lịch sử.
  - Thế giới:
● Trên mặt trận châu Âu: Năm 1941 chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn khốc liệt. Ở châu Âu phát xít Đức gấp rút đẩy mạnh xâm lược các
nước Đông Âu làm bàn đạp để tấn công Liên Xô.
● Trên mặt trận châu Á- Thái Bình Dương: Quân Nhật tranh thủ sự thắng lợi của phe trục đã đẩy mạnh công cuộc xâm lược Đông Dương nhằm mục
đích biến nơi đây làm bàn đạp quân sự để phục vụ chiến tranh.
→ Thế giới hình thành 2 trận tuyến: Một bên là các lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu; một bên là khối phát xít do Đức đứng đầu làm cho tính chất cuộc
chiến tranh thay đổi.
  - Trong nước:
● Tháng 9-1940 Nhật nhảy vào Đông Dương, Pháp đầu hàng và câu kết với Nhật áp bức bóc lột nhân dân. Nhân dân các dân tộc ở Đông Dương phải
chịu hai tầng áp bức của Pháp – Nhật, mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với Pháp - Nhật trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Vận mệnh dân tộc
nguy vong không lúc nào bằng.
● Nhân dân các dân tộc ở Đông Dương ngày càng được cách mạng hóa. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi
nghĩa Nam Kì và cuộc binh biến Đô Lương.
● Tháng 2-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Cao Bằng, thí điểm xây dựng khối đoàn kết dân tộc để cứu nước,
mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ.
● Phong trào cách mạng ở căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai được duy trì và phát triển. Tháng 5-1941 Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành trung ương Đảng
họp tại Pác Bó ( Cao Bằng) do Nguyễn ái Quốc chủ trì.
2, Thành phần tham gia. 
  - Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng các đại biểu của Xứ ủy Trung Kỳ, Bắc Kỳ và
một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.
3. Hội nghị Trung ương Ban Chấp hành Đảng lần thứ VIII (5/1941)
a, Nhận định của Hội nghị
● Hội nghị đã tiến hành phân tích một cách sâu sắc tình hình trong nước, thế giới và nhận định: Chiến tranh thế giới đang lan rộng, phát xít Đức đang
ráo riết chuẩn bị đánh Liên Xô, phát xít Nhật sắp gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Chiến tranh sẽ làm các nước đế quốc suy yếu, phong trào
cách mạng thế giới sẽ phát triển một cách nhanh chóng: “ Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa
thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. 
b, Nội dung hội nghị
● Xác định kẻ thù: Kẻ thù của chúng ta lúc này là đế quốc phát xít Pháp – Nhật
● Nhiệm vụ: Hội nghị đã cụ thể hóa chủ trương chuyển hướng trong chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc làm nhiệm vụ trung tâm và
cao hơn hết thảy. Nghị quyết hội nghị chỉ rõ: “Cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, giải quyết hai
vấn đề phản đế và điền địa nữa mà là cuộc cách mạng cần giải quyết một vấn đề cần thiết: Dân tộc giải phóng”.Khẳng định: “ Cuộc cách
mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”
⮚ Đây chính là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện thời.
● Khẩu hiệu đấu tranh: Tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày" bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và
Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.
● Hình thức tập hợp lực lượng: Để phát huy sức mạnh dân tộc cần thành lập một mặt trận tổ chức dân tộc thống nhất. Theo sáng kiến của Nguyễn Ái
Quốc, Hội nghị đã nhất trí thành lập Mặt trận có tên gọi là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Hội nghị đã bầu ra ban chấp hành
trung ương Đảng: Đ/c Trường Chinh làm Tổng Bí thư; ban thường vụ gồm các đ/c: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt. Làm việc
theo nguyên tắc: Nêu cao tinh thần trách nhiệm đoàn kết nhất trí tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách phê bình và tự phê bình.
● Hình thức đấu tranh: Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang coi đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Hội nghị còn vạch rõ: Khởi
nghĩa vũ trang muốn thắng lợi phải chuẩn bị chu đáo và nổ ra đúng thời cơ, phải đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa.
4. Tầm quan trọng của Hội nghị và ý nghĩa
  - Tầm quan trọng:
● Hội nghị đã động viên toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới Cách mạng tháng Tám.
● Với chủ trương của hội nghị, Mặt trận Việt Minh ra đời, qua đó Đảng đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân vững chắc.Lực lượng vũ trang lần
lượt ra đời, căn cứ địa cách mạng thành lập, phong trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa toàn quốc.
  - Ý Nghĩa: 
● Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941) là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, cùng với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, đã hoàn chỉnh sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng, trực tiếp góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
● Kiên quyết giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp thiết hơn bao giờ hết.
● Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến luợc là chống đế quốc và phong kiến.
● Đề ra phương pháp cách mạng cụ thể là: Tích cực chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đi từ khởi nghĩa từng phần đến tiến
tới tổng khởi nghĩa.
Chủ đề 3:  CHỈ THỊ NHẬT - PHÁP BẮN NHAU VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚNG TA
I. Đặt vấn đề:
Thắng lợi Cách mạng tháng 8 1945 là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của chủ tịch HCM và ĐCS.
Để có được chiến thắng vang dội này vấn đề xác định thời cơ, chuẩn bị lực lượng để chớp thời cơ là những vấn đề hết sức quan trọng. Chỉ thị: “Nhật – Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” là một minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Hồ Chí Minh và
Đảng ta.
Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong
phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
II. Chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”:
Sau Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng (9-3-1945), toàn bộ nội dung Hội nghị được đồng chí Trường Chinh phản ánh một cách cô đọng, chính xác
trong bản Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng cho ban hành rộng rãi bản Chỉ thị
lịch sử nói trên.
1. Bản Chỉ thị phân tích rõ nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đảo chính Nhật - Pháp ở Đông Dương:
a. Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo như Đông Dương.
b. Tàu Mỹ sắp đánh vào Đông Dương. Nhật phải hạ Pháp để trừ cái hoạ bị Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ.
c. Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường bộ nối liền các thuộc địa miền Nam Dương với Nhật; vì sau khi Phi Luật Tân bị Mỹ chiếm,
đường thủy của Nhật đã bị cắt đứt".
1. Ba cơ hội tốt giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chóng chín muồi là:
a) Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng).
b) Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).
c) Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật).
1. Thay đổi khẩu hiệu:
Bản Chỉ thị chỉ rõ: sau cuộc đảo chính "đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương". Do đó phải thay
đổi khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật", thực hiện khẩu hiệu "Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông
Dương”.
III. Cách mạng Tháng Tám thành công hoàn toàn không phải là "một sự ăn may":
Thực tế lịch sử đã chứng minh diễn biến tình hình cả trước và trong Cách mạng Tháng Tám đều đã được Đảng ta dự báo và chủ động có các chủ trương, giải
pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp. Đảng đã có nhận định đúng đắn về quân Đồng minh, không ỷ lại vào quân Đồng minh và luôn luôn phải giữ quyền chủ động
trong tác chiến.
Có nhận định cho rằng: khi Nhật đã hất cẳng Pháp, việc Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại phát xít Nhật đã tạo ra "khoảng trống quyền lực" ở Việt Nam.
Thực tế chứng minh rất rõ, khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, quân Nhật vẫn rất mạnh. Có chăng sự tấn công của Liên Xô và quân Đồng minh chỉ làm cho quân
Nhật suy yếu, tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng Việt Nam mà thôi.
=>May mắn không phải tự nhiên có mà phải biết năp bắt và vận dụng thời cơ. May mắn phải do chính chúng ta tạo ra.
IV. Kết luận:
Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong
phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng và Việt Minh với khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật" thay cho khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, trực tiếp
dẫn đến thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám thành công hoàn toàn không phải là "một sự ăn may", mà là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài và đầy gian khổ, hy sinh của
nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam xứng đáng được hưởng thành quả trọng đại đó.
Chương 3
Chủ đề 1: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Đảng ngày 25-11-1945
1. Hoàn cảnh thế giới 
Sau thắng lợi vĩ đại của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới, phong trào giải phóng dân tộc
phát triển mạnh mẽ ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao.
2. Hoàn cảnh Việt Nam
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về nền độc lập của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám đã đem lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền, nhân dân ta
được giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời đã đứng trước những khó khăn, thách thức tưởng chừng khó vượt qua của thù trong, giặc ngoài và những
khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,... mà chế độ thực dân phong kiến để lại. Nước ta còn nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và các chính
quyền phản động trong khu vực. Nước ta còn chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của các nước xã hội chủ nghĩa và lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người chết, tiếp đó là lũ lụt, hạn hán kéo dài làm 50%
ruộng đất bị bỏ hoang. Sản xuất nông nghiệp đình đốn. Tài chính khô kiệt, kho bạc trống rống, ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp.
Trình độ văn hoá của nhân dân ta thấp kém, 90% số dân mù chữ. Ở miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng ồ ạt tràn qua biên giới, kéo theo là Việt Quốc, Việt Cách,
chúng lập chính quyền phản động ở một số nơi, cướp của giết người và chống phá chính quyền cách mạng. Ở miền Nam: quân Anh với danh nghĩa đồng minh
kéo vào nước ta tiếp tay cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. “Tổ quốc lâm nguy! Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc!”.Đảng ta trở
thành Đảng cầm quyền, đứng trước tình thế phức tạp, buộc Đảng lại phải rút vào hoạt động bí mật (dưới hình thức tuyên bố "Tự ý giải tán" từ ngày 11-11-
1945), nhưng vẫn duy trì phương thức lãnh đạo "khôn khéo", "kín đáo". Vì vậy, các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải có hình thức ban hành nghị quyết phù
hợp, linh hoạt, bảo đảm lãnh đạo kịp thời công cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ. Đến  ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc.
3. Nội dung chỉ thị
Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan, về tình hình của ta và địch, Chỉ thị chỉ rõ: Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc
cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước chưa được hoàn toàn độc lập.
Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong. Giai cấp vô sản vẫn phải hǎng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là
“Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”.
Chỉ thị xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
Chiến thuật của ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược. Mở rộng Việt Minh bao gồm mọi tầng lớp nhân dân (chú
trọng: vận động địa chủ, phong kiến và đồng bào Công giáo..v.v.).
Thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược. Kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc dân tộc. Độc lập về chính trị, thực hiện chế độ dân
chủ cộng hoà; cải thiện đời sống cho nhân dân.
Chỉ thị cũng đề ra nhiệm vụ cần kíp của nhân dân Đông Dương đối với cách mạng thế giới là phải tranh đấu để thực hiện triệt để hiến chương các nước liên
hiệp, ủng hộ Liên Xô, xây dựng hoà bình thế giới, mở rộng chế độ dân chủ ra các nước, giải phóng cho các dân tộc thuộc địa. Đối với cách mạng Việt Nam,
nhiệm vụ riêng, cần kíp là phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân.
Trong những nhiệm vụ đó, nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền. Để củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ “kháng chiến”
và “kiến quốc”, Chỉ thị vạch ra những biện pháp toàn diện và cơ bản để thực hiện:
- Về nội chính: Một mặt xúc tiến việc đi đến thành lập Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức.
- Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài; phối hợp chiến thuật du kích với phương
pháp bất hợp tác đến triệt để.
- Về ngoại giao: Nắm vững nguyên tắc thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực; kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng và
tương trợ”. Đối với Tưởng Giới Thạch, vẫn chủ trương Hoa - Việt thân thiện, coi Hoa kiều như dân tối huệ quốc. Đối với Pháp, thực hành độc lập về chính trị,
nhân nhượng về kinh tế.
- Về tuyên truyền: Kêu gọi đoàn kết, chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược. Phản đối chia rẽ nhưng chống sự thống nhất vô nguyên tắc với thế lực phản
quốc; chống mọi mưu mô phá hoại, chia rẽ của phái Tờrốtxki, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng và nâng cao sự tin tưởng của quốc dân vào thắng lợi cuối
cùng, khêu gợi chí cǎm hờn chống thực dân Pháp nhưng tránh khuynh hướng “vị chủng”. Chống thực dân Pháp xâm lược (khống nói đánh cả Ấn, Anh). Không
công kích nhân dân Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp xâm lược.
- Về kinh tế và tài chính: Mở lại các nhà máy do Nhật bỏ; khai thác các mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy; khuyến
khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Thực hiện khuyến nông, sửa chữa đê điều, lập quốc gia ngân
hàng, phát hành giấy bạc, định lại ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh.
- Về cứu tế: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chức “bữa cháo cầm hơi”… động viên thanh
niên nam, nữ tổ chức thành các đoàn “cứu đói”, và các “đội quân trừ giặc đói” để trồng trọt khai khẩn, lấy lương cho dân nghèo, hay quyên cho các quỹ cứu tế,
tổ chức việc tiếp tế, mua gạo nhà giàu bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo chỗ thừa sang chỗ thiếu ..v.v…
- Về vǎn hoá: Tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách
dạy học nhồi nhét, cổ động vǎn hoá cứu quốc, kiến thiết nền vǎn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá.
Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển.
Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, phát triển thêm đảng viên, đặc biệt chú trọng gây cơ sở xí nghiệp của Đảng cho
thật rộng, làm sao cho sự phát triển của Đảng ǎn nhịp với sự phát triển của công nhân cứu quốc; giữ vững sinh hoạt của Đảng; thành lập Đảng đoàn trong các
cơ quan hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội…
Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc. Thống nhất các tổ chức ấy lên toàn kỳ, toàn quốc; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu
quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới; mở rộng Mặt trận Việt Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ
ban Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Campuchia chống Pháp xâm lược.
Về chính quyền, chấn chỉnh lại các cán bộ và nếu vì lý do cần thống nhất dân tộc và xúc tiến ngoại giao thì có thể cải tổ Chính phủ trước khi họp Quốc
hội( chính phủ cải tạo vẫn là chính phủ lâm thời ). Xem xét lại các nghị định của các U.B.N.D xứ và địa phương để sửa chữa và thủ tiêu nếu cần. Giải quyết
hợp lí vấn đề ruộng đất và thuế khoá. Trừng trị bọn Phản quốc nhân tình hình đất nước khó khăn mà ngóc đầu, bọn đầu cơ tích trữ, bọn lạm dụng quyền hành.
Chỉ huy cuộc kháng chiến ơi Nam Bộ và Trung Bộ. Cải cách chính quyền nhân dân ơi địa phương và thanh trừng những Uỷ ban nhân dân và cải thiện cách làm
việc của các ủy ban nhân dân ấy
Về việc kháng chiến lẻ Nam Bộ và Nam Trung Bộ là phải cắt đứt dây liên lạc giữa các thành phố đã lọt vào tay địch, phong tỏa những thành phố ấy về kinh
tế, bao vây chính trị, nhiễu loạn về quân sự. Còn ở Lào thì phải gia tăng công việc võ trang tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân tham gia. Áp dụng triệt
để chiến tranh du kích và chiến thuật cường không nhà trống. Phải giữ vững liên lạc giữa những chiến khu đê lệnh chỉ huy được thông suốt. Phải chiếm được
những điểm chiến lược. Những nơi chiến tranh chưa lần tới cũng phải được chuẩn bị sẵn sàng 
Về việc chống đói, khuyến nông, làm cho tá điền và địa chủ nhân nhượng nhau để tiếp tục cày cấy như bình thường, thực hành khẩu hiệu không bỏ  thước
đất hoang, tổ chức tiếp tế, ngăn cấm đầu cơ tích trữ, thực hiện khẩu hiệu nhường cơm sẻ áo.
Về việc tổng tuyển cử, đưa người có năng lực ra ứng cử, người bất lực và thiếu phẩm chất đạo Đức cho nghỉ làm việc khác 

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25-11-1945 là Cương lĩnh hành động trước mắt của Đảng và nhân dân ta. Bản
Chỉ thị đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong thời kỳ mới giành được chính quyền,
đưa đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhờ có chủ trương đúng đắn, sáng suốt và nhiều quyết sách kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua những thách thức hiểm nghèo, tranh thủ từng thời gian hoà bình quý báu để xây dựng
thực lực, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Chủ đề 2: Trình bày nội dung, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp qua ba văn kiện: Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng; Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh; tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh 
Trả lời:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị Toàn
dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, được giải thích cụ thể trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh.
Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
- Kháng chiến toàn dân: Tất cả nhân dân đều tham gia đánh giặc, không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo... Mỗi người Việt Nam là một
chiến sĩ. Góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, huy động toàn thể dân tộc tham gia kháng chiến, cung cấp sức người, sức cửa phục vụ kháng chiến thì nhất định
sẽ thành công.
- Kháng chiến toàn diện: kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao... Bởi lẽ, Pháp đánh Việt Nam
không chỉ về mặt quân sự mà còn đánh trên nhiều lĩnh vực: chúng phá hoại kinh tế của ta, làm cho ta suy yếu về chính trị, thực hiện chính sách ngu dân, tìm
cách cô lập ta với quốc tế... Mặt khác, ta vừa phải thực hiện kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng chế độ mới.
- Kháng chiến trường kỳ: kháng chiến lâu dài, vì trên thực tế khi so sánh tương quan lực lượng, Pháp mạnh hơn ta rất nhiều, đó là một quân đội nhà
nghề, có trang bị vũ khí hiện đại, lại có sự hậu thuẫn của các nước đế quốc. Âm mưu của Pháp là “đánh nhanh thắng nhanh” để kết thúc chiến tranh. Còn Việt
Nam, quân đội mới được thành lập, còn non trẻ, vũ khí thô sơ. Nên buộc ta phải vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, nên ta phải tiến hành kháng chiến lâu dài,
đợi đến khi mạnh hơn Pháp mới đánh bại được chúng.
- Kháng chiến dựa vào sức mình là chính và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế: nghĩa là, lấy sức mạnh người, sức mạnh toàn dân tộc để phục vụ
kháng chiến, phát huy tiềm năng vốn có của cả dân tộc. Bên cạnh đó cần tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng không được ỷ lại, phụ thuộc vào sự giúp đỡ đó.
I. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng
Ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, vạch rõ những nét cơ bản về đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài của nhân dân ta.
- Bản chỉ thị gồm năm phần cơ bản:
   1- Cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta.
   2- Chương trình kháng chiến.
   3- Cơ quan chỉ đạo kháng chiến.
   4- Những điều răn trong khi kháng chiến.
   5- Khẩu hiệu tuyên truyền trong thời kỳ kháng chiến.
Bản Chỉ thị vạch rõ mục đích cuộc kháng chiến là đánh thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Tính chất cuộc kháng
chiến là lâu dài và toàn diện. Chính sách của kháng chiến là liên hiệp với nhân dân Pháp, chống thực dân Pháp xâm lược; đoàn kết với Campuchia và Lào; thân
thiện với các dân tộc yêu chuộng tự do hoà bình trên thế giới; đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến, bảo vệ dân và được lòng dân; phải tự
cấp tự túc về mọi mặt. Cách đánh là triệt để dùng du kích, vận động chiến; bảo toàn thực lực kháng chiến lâu dài; phá hoại nhiều hơn bắn, triệt để làm cho địch
tiêu hao, mệt mỏi, chán nản; vừa đánh vừa vũ trang thêm, đào tạo thêm cán bộ. Kháng chiến chia ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công.
Chương trình kháng chiến có 12 điểm cụ thể, trong đó có: đoàn kết toàn dân; quân, chính, dân nhất trí; động viên sức người, sức của và tài chính,
thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài; đánh Pháp, tiễu phỉ, trừ gian; giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất đất nước; củng cố chế độ
cộng hoà dân chủ, tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc và một số nội dung khác.
Chỉ thị còn nêu nhiều điểm cụ thể về cơ quan lãnh đạo kháng chiến: đoàn thể (Đảng), Chính phủ, Mặt trận dân tộc thống nhất; những điều răn dân và
quân ta khi kháng chiến; những khẩu hiệu tuyên truyền trong kháng chiến.
⮚ Chỉ thị Toàn dân kháng chiến là một trong những văn kiện mang tính chất cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.
II. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh
Ngày 19 – 12 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn
dân, kháng chiến toàn dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân.
Hoàn cảnh lịch sử:
Nước ta vừa giành được độc lập thị ngoại xâm đã ập tới. Ngày 23 – 9 – 1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng đã
nổ súng đánh ta ở Nam Bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với Chính phủ Pháp
để cứu vãn hòa bình. Người kí với đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định Sơ bộ ngày 6 – 3 – 1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính
phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phôngtenblô. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam. Còn nước
còn tát, Hồ Chí Minh kí với Chính Phủ Pháp tạm ước 14 – 9 – 1946. Ngày 16 – 09 – 1946, Người rời cảng Tulông (Pháp) trở về nước. Ngày 16 – 10, Người
gặp Đác-giăng-li-ơ ở vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải
Phòng ngày 23-11-1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi
quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí.
Trước tình hình đó, ngày 18, 19-12 năm 1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh
chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.
Từ ngày 3 đến ngày 19 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà Đông) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương, tại đây ngày 19
tháng 12, trên căn gác xép, Người viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
20 giờ ngày 19-12, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20-12 tại Hang Trầm (Chương Mĩ, Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.
Như vậy mặc dù Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng “cây muốn lặng, gió chẳng ngừng”, đối phương chủ trương gây chiến.
Không còn con đường nào khác, Hồ Chí Minh phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng
nhân từ của bọn xâm lược. “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Trong cuộc đấu tranh chống kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại
bạo lực phản cách mạng. Đó là quan điểm cơ bản mà Hồ Chí Minh luôn nắm vững trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ. Đó cũng là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh tuyên bố quyết tâm của nhân dân ta: “Thà hi sinh tất cả, chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Tiếp theo bản
Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của
cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến. Đó là Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, là những khát vọng của một dân tộc đã bị mất nước, bị nô lệ hơn 80 năm. Bởi vậy ta
có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ và các thế hệ người Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hi sinh chiến
đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy.
Trong lời kêu gọi này, Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm “chiến tranh toàn dân” một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói nét độc đáo,
đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là ở hai chữ toàn dân.
Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên lí của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quần chúng trong lịch sử,
Người luôn luôn nhắc nhở vai trò của dân: “Dựa vào dân, có dân là có tất cả”. Trong lịch sử dân tộc ta, Nguyễn Trãi đã từng nói: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân”. Tư tưởng “chiến tranh toàn dân” đã được Hồ Chí Minh nêu lên năm 1944 trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân: Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân và vũ trang toàn dân.
Chỉ thị này được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân.
Tiếp theo Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự
về kháng chiến toàn dân. “Toàn dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn dân tộc.
Hồ Chí Minh có một lời kêu gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân:
   “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
     Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”.
Hưởng ứng lời kêu gọi này, quân và dân Hà Nội, mùa đông năm 1946 đã nêu cao tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” nay đã trở thành
truyền thống của Thủ đô. Xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, bồi dưỡng ý chí chiến đấu, xây dựng và phát huy nhân tố chính trị tinh thần
của bộ đội, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở cho mọi mặt xây dựng quân đội là một quan điểm của tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng.
Kết thúc lời kêu gọi, Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắng:
   “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định thuộc về dân tộc ta.
     Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
     Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
Lời tiên đoán này của Chủ tịch Hồ Chí Minh chín năm sau đã trở thành sự thật với chiến thắng lịch sử Điên Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu. Ba mươi năm sau đội quân bách chiến bách thắng của Người đã cắm cờ chiến thắng lên nóc dinh độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh nười nghìn ngày
đem lại độc lập thống nhất cho đất nước.
III. Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của tổng bí thư Trường Chinh (9/1947)
Tổng Bí thư vạch rõ kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược, còn nhân dân Pháp là bạn của ta. Mục đích cuộc kháng chiến của nhân
dân ta là độc lập và thống nhất thật sự. Để đạt mục đích đó, quân dân ta phải đạt được ba mục tiêu về quân sự: tiêu diệt sinh lực địch trên đất ta; đè bẹp ý chí
xâm lược của địch; lấy lại toàn bộ đất nước.
Tác phẩm trình bày rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng, chiến tranh chính nghĩa, là "một
cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do độc lập, dân chủ và hoà bình".
Tác phẩm luận chứng rõ cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện, lâu dài và gian khổ.
Về nội chính, xúc tiến việc thành lập Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức.
Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích với phương pháp bất hợp tác
triệt để.
Về ngoại giao, nắm vững nguyên tắc thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực; kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc "bình
đẳng, tương trợ"; đối với Tưởng Giới Thạch vẫn chủ trương "Hoa - Việt thân thiện", đối với Pháp, thực hành độc lập về chính trị, nhân nhượng kinh tế.
Về tuyên truyền, kêu gọi đoàn kết chống thực dân Pháp xâm lược phản đối chia rẽ, nhưng chống sự thống nhất vô nguyên tắc với bọn phản quốc
chống âm mưu phá hoại và chia rẽ của bọn phản động, Việt gian, chống thực dân Pháp xâm lược (không nói đánh cả Ấn, Anh). Không công kích nhân dân
Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp xâm lược.
Về kinh tế tài chính, khôi phục sản xuất công nghiệp, cho tư nhân góp vốn kinh doanh các nhà máy, khai mỏ, khuyến khích giới công thương, mở
hợp tác xã, mở hội cổ phần; hỗ trợ và khuyến khích sản xuất nông nghiệp, sửa chữa đê điều, lập quốc gia ngân hàng, lập ngân quỹ toàn quốc và ngân quỹ xứ,
tỉnh, phát hành giấy bạc, định lại các ngạch thuế.
Về cứu tế, kêu gọi lòng yêu nước thương nòi, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, đẩy mạnh khai hoang tăng gia sản xuất, quyên góp tiếp tế cho dân
nghèo...
Về văn hoá, chống nạn mù chữ, cải cách giáo dục theo tinh thần mới, mở đại học và trung học, xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá,
dân tộc hoá, đại chúng hoá.
Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ rõ, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhất định thắng lợi nếu Đảng nắm vững chủ nghĩa Mác-
Lênin và bám chắc lấy quần chúng nhân dân, phát huy khả năng của toàn dân. Đồng chí khẳng định: "Dưới tay lái tài tình của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, con tàu Việt Nam với đoàn thuỷ thủ dũng cảm của nó, nhất định sẽ tránh được mọi đá ghềnh, vượt cơn sóng cả để cập bến vinh quang”.

Chủ đề 3: Trình bày nội dung chính cương của Đảng lao động Việt Nam thông qua đại hội đại biểu toàn quốc lần 2 của Đảng tháng 2 /1951
1.Tình hình thế giới và Việt Nam
- Sự hình thành và lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là sự ra đời của nước Nhân dân Trung Hoa => có lợi cho hoà bình và cách mạng.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương giành thắng lợi
- Đế quốc Mỹ can thiệp trực tiếp vào Dông Dương vừa giúp Pháp vừa tìm cơ hội hất cẳng Pháp
=> Do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam , Lào, Campuchia cần có một Đảng riêng nên ở Việt Nam Đảng ra hoạt động
công khai lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam thông qua đại hội đại biểu toàn quốc lần 2 tháng 2 /1951
2. Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam
a.Tính chất xã hội Việt Nam
- Gồm có 3 tính chất là dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến.
b. Đối tượng cách mạng việt Nam
- Đối tượng chính : chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
- Đối tượng phụ: phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động.
c. Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam
- Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
 - Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng.
 - Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
d. Lực lượng cách mạng Việt Nam
- Lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa
chủ) yêu nước và tiến bộ. Trong đó công, nông 1à nền tảng.
e. Sắp xếp loại hình cách mạng
- Gồm cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân.
f. Phương hướng tiến lên của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân
 3 giai đoạn
- GĐ1: hoàn thành giải phóng dân tộc.
- GĐ2: xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để khẩu hiệu người cày có ruộng, phát triển công nghiệp và hoàn thiện chế độ dân
chủ nhân dân, bảo vệ tổ quốc.
- GĐ3 (trọng tâm): xây dựng cơ sở cho CNXH và tiến lên CNXH.
g. Mục tiêu
Phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,thực hiện chủ trương tự do hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nông dân lao
động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.
h. Giai cấp lãnh đạo
- Chính quyền ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà : nhân dân dân chủ chuyên chính.
- Dựa vào mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng
- Do giai cấp công nhân lãnh đạo.
-Nguyên tắc tổ chức chính quyền:
+ Cơ quan địa phương: Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính.
+ Cơ quan chính quyền tối cao toàn quốc: quốc hội và Hội đồng chính phủ
3. Chính sách của Đảng lao động Việt Nam
Các chính sách đối với kháng chiến, chính quyền nhân dân, mặt trận dân tộc thống nhất, quân đội, kinh tế tài chính, cải cách ruộng đất, văn hóa giáo dục ,tôn
giáo, chính sách dân tộc, đối với vùng bị tạm chiếm, ngoại giao, đối với Miên, Lào
=> Ý nghĩa : Đảng Lao dộng Việt Nam là một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để.
Chủ đề 4: Trình bày chủ trương Đông Xuân 1953 - 1954
Bối cảnh:
Đến năm 1953, quân Pháp lâm vào tình thế khó khăn “tiến thoái lưỡng nan” trên chiến trường Việt Nam. Nhằm thoát khỏ sự bế tắc đó, với sự thoả thuận của
Chính phủ Mỹ, Chính phủ Pháp cử tướng Nava làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương.
Chúng đã đề ra “Kế hoạch Nava” nhằm mục đích trong vòng 18 tháng tiêu diệt phần lớn chủ lực của ta, giành thắng lợi chiến lược quyết định tạo điều kiện đưa
nước Pháp ra khỏi cuộc chiến tranh một cách danh dự.
Kế hoạch Nava gồm 2 bước:
Bước 1: giữ thế phòng ngự ở miền Bắc, tập trung đánh miền Nam mà đầu tiên ở Playku, Tây Nguyên
Bước 2: dồn toàn lực ra miền Bắc, chuyển sang tiến công chiến lược
Chủ trương của Quân đội Nhân dân Việt Nam
Cuối tháng 8 năm 1953, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam báo cáo với Tổng quân ủy một bản kế hoạch tác chiến với bốn nhiệm vụ:
1. Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở địch hậu, phá tan âm mưu bình định của địch, phá kế hoạch mở rộng quân ngụy Việt.
2. Bộ đội chủ lực dùng phương thức hoạt động thích hợp tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, có thể tác chiến lớn trên chiến trường đồng bằng để rèn luyện bộ
đội.
3. Có kế hoạch bố trí lực lượng tiêu diệt địch khi chúng đánh ra vùng tự do.
4. Tăng cường hoạt động lên hướng Tây Bắc (Lai Châu), Thượng Lào và các chiến trường khác để phân tán chủ lực địch.
Chủ trương chiến lược của Bộ Tổng Tham mưu là : Phân tán lực lượng địch ra 3 hướng, Phương châm tác chiến là "Tích cực, chủ động, cơ động và linh
hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh."
Diễn Biến
- Trong Đông xuân 53-54, ta chủ động mở hàng loạt các chiến dịch tấn công địch trên nhiều hướng, trên khắp chiến trường như Tây Bắc, Thượng Lào, Thượng
Lào, Trung Lào và Bắc Tây Nguyên, buộc chúng phải phân tán lực lượng thành 5 nơi: Đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ,Sê Nô, Plây cu, Luông pha băng.
🡪Tóm lại.Trong Đông Xuân 53-54, quân và dân ta đã chủ đông tấn công địch trên mọi hướng chiến lược khác nhau. Qua đó ta tiêu diệt nhiều sinh lực đich giải
phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn đồng thời buộc chúng phải phân tán khối quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ thành năm điểm đóng quân:Đồng bằng Bắc
Bộ , Điện Biên Phủ, Sê nô, Plây cu, Luông –pha- băng làm cho kế hoạch Na Va bước đầu bị pha sản, tạo thời cơ thuận lợi mđể mở trận quyết chiên chiến lược
ở Điện Biên Phủ.
- Nava xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, gồm 16.200 quân, đủ loại binh chủng, được bố trí thành ba phân khu với
49 cứ điểm.
- Pháp và Mỹ coi Điện Biên Phủ là “một pháo đài bất khả xâm phạm”, trung tâm của kế hoạch Nava
-Tháng 12/1953, Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ với mục tiêu: tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng Tây Bắc, tạo điều kiện cho Lào giải phóng
Bắc Lào.
- Ta huy động một lực lượng lớn chuẩn bị cho chiến dịch, khoảng 55.000 quân, hàng chục ngàn tấn vũ khí, đạn dược; lương thực, cùng nhiều ô tô vận tải,
thuyền bè; 21.000 xe đạp,... chuyển ra mặt trận.
- Đầu tháng 3/1954 công tác chuẩn bị hoàn tất, ngày 13/3/1954 ta nổ súng tấn công Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra qua 3 đợt:
- Đợt 1 (13 đến 17/3/1954): Ta tiến công tiêu diệt các căn cứ Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc, loại khỏi vòng chiến 2.000 địch.
- Đợt 2 (30/3 đến 26/4/1954):
+ Ta đồng loạt tiến công phía đông khu Trung tâm Mường Thanh, chiếm phần lớn các căn cứ của địch, tạo điều kiện bao vây, chia cắt, khống chế địch.
+ Mỹ khẩn cấp viện trợ cho Pháp và đe dọa ném bom nguyên tử ở Điện Biên Phủ.
+ Ta khắc phục khó khăn về tiếp tế, quyết tâm giành thắng lợi.
- Đợt 3 (1/5 đến 7/5/1954):
+ Ta tiến công khu Trung tâm Mường Thanh và phân khu Nam, tiêu diệt các căn cứ còn lại của địch.
+ Chiều 7/5, ta đánh vào sở chỉ huy địch.
+ 17 giờ 30 ngày 07/05/1954, Tướng Đơ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ Ban tham mưu địch đầu hàng và bị bắt sống.
- Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao, kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi.
Kết quả: 
Trong cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ:
- Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128.000 địch, 162 máy bay, thu nhiều vũ khí.
- Giải phóng nhiều vùng rộng lớn.
- Riêng tại Điện Biên Phủ, ta loại khỏi vòng chiến 16.200 địch, bắn rơi 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.
- Đập tan kế hoạch Nava.
Ý nghĩa
- Thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Na-va.
- Giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Pháp.
- Làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi.

Chương 4
Chủ đề 1: Trình bày hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 15 ( 1/1959)
I. Nguyên nhân dẫn đến hội nghị
1. Tình hình đất nước lúc bấy giờ
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử đã kết thúc thắng lợi, Hiệp nghị Giơnevơ (20/7/1954) được ký kết. Tuy nhiên nước ta bị tạm thời chia làm hai
miền: 
+ Miền Bắc đã được giải phóng và độc lập hoàn toàn, bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH
+ Còn miền Nam vẫn là một thuộc địa (kiểu mới) của đế quốc Mỹ
🡺 Nhân dân Việt Nam chẳng những phải củng cố và phát huy thắng lợi đã giành được, phải củng cố miền Bắc đã được độc lập, mà còn phải giải phóng miền
Nam.
2. Sự cần thiết của Nghị quyết 15
Trong hai năm 1957-1958, Ðảng đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào
cách mạng tiếp tục bị 
Nhận được những kiến nghị khẩn thiết của các tổ chức Ðảng và của cán bộ, đồng bào, chiến sĩ Miền Nam yêu cầu phải nhanh chóng thay đổi hình thức đấu
tranh, trên cơ sở xem xét thực tế tình hình, Bộ Chính trị đã cử ra một tổ tập trung nghiên cứu, đề xuất chủ trương, hình thức và phương pháp đấu tranh mới cho
cách mạng Miền Nam để đưa phong trào cách mạng thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, phát triển đi lên.
II. Nội dung hội nghị trung ương lần thứ 15:
● Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng triệu tập Hội nghị lần thứ 15. Dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị đã kiểm điểm tình hình
trong nước từ khi Hiệp định Geneva được ký kết và đề ra nhiệm vụ đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta.
● Dựa vào những đặc điểm tình hình của nước ta lúc bấy giờ, Hội nghị đã chỉ ra 2 mâu thuẫn cơ bản :
1. Mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến, và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam và một bên là
dân tộc Việt Nam, nhân dân cả nước Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam.
2. Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc.
🡺 2 mâu thuẫn trên thể hiện sự đối kháng rất gay gắt
- Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ
cho nhau, nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
● Hội nghị Trung ương đề ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ
vững hoà bình 
● Cụ thể: 
1. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là củng cố và phát huy thắng lợi đã giành được, là xây dựng cơ sở vững chắc để thực hiện thống nhất
nước nhà.
2. Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong kiến ở miền Nam để thực hiện thống nhất nước nhà.
       + Hội nghị xác định: "Miền nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ 
      + Xã hội miền Nam có hai mâu thuẫn 
      + Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị đế quốc và phong kiến
      +  Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm,
tay sai của đế quốc Mỹ
      + Phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang
    + Về khả năng phát triển của tình hình, Nghị quyết dự báo: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa
của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc khởi nghĩa vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta
     + Về lực lượng cách mạng, Nghị quyết xác định: lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, lấy liên minh công
nông làm cơ sở. 
     + Về vai trò của Đảng bộ miền Nam, Nghị quyết khẳng định: sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát-xít là một yếu tố
quyết định thắng lợi của phong trào cách mạng miền Nam toàn và khu an toàn, tăng cường mối quan hệ khăng khít giữa Đảng và quần chúng.
III. Ý nghĩa của hội nghị
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 BCH Trung ương khoá II (tháng 1-1959) có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của cách mạng miền Nam. Nó phản
ánh đúng và giải quyết kịp thời yêu cầu của cách mạng miền Nam trong việc khẳng định phương pháp đấu tranh dùng bạo lực cách mạng để tự giải phóng
mình là đúng đắn, phù hợp với tình thế cách mạng đã chín muồi, khi địch đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ và nhân dân ta.
- Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng, thể hiện sâu sắc tinh thần độc lập tự chủ, năng động sáng tạo trong đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và
địch, trong vận đụng lý luận Mác - Lênin vào cách mạng miền Nam.
 - Nghị quyết 15 đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, đã xoay chuyển tình thế, dẫn đến cuộc "Đồng khởi" oanh liệt của toàn miền Nam năm 1960,
là tiền đề quan trọng dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
🡺 Đáp ứng đúng yêu cầu lịch sử
Chủ đề 2: TRÌNH BÀY ĐƯỜNG LỖI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ 3 NĂM 1960
I. Hoàn cảnh lịch sử
- Thế giới: Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã phát triển vượt bậc và ngày càng được củng cố thêm, nối liền từ Âu sang Á,
là thành trì của hòa bình và an ninh các dân tộc. Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân ở các nước tư bản cùng với phong trào hòa bình trên
thế giới đã có sự phát triển nhanh chóng. Lực lượng so sánh trên thế giới đã biến đổi một cách căn bản, ưu thế rõ rệt thuộc về các lực lượng xã hội chủ nghĩa,
độc lập dân tộc và yêu chuộng hòa bình.
- Ở Việt Nam: Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi lịch sử. Chiến
thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp gây ra và đế quốc Mỹ giúp sức. Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, hòa bình
được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở các nước công nhận chủ quyền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
   Miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng đã chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc cải cách ruộng đất ở
miền Bắc đã hoàn thành thắng lợi; miền Bắc đã vượt qua nhiều khó khăn, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, hàn gắn những vết thương chiến tranh; hoàn
thành kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, giành được thắng lợi có tính chất quyết định trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Miền Bắc
ngày càng củng cố trở thành cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
   Cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai mặc dù bị khủng bố rất dã man nhưng vẫn giữ vững và không ngừng
mở rộng. Sự nghiệp đấu tranh của nhân dân cả nước ta nhằm thực hiện thống nhất nước nhà phát triển mạnh mẽ. Tình hình ấy đã hình thành ở nước ta hai chiến
lược cách mạng khác nhau đòi hỏi Đảng ta phải khẳng định đường lối, bước đi, chính sách và kiện toàn sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu mới
của cách mạng.
II. Lí do diễn ra đại hội
- Sự phát triển của cách mạng hai miền Bắc - Nam đòi hỏi Đảng phải nhanh chóng hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống nhất ý chí và hành
động, định hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai miền
- Mặt khác, đã gần 10 năm kể từ khi diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ 11 của Đảng (tháng 2-1951), cách mạng Việt Nam đã có nhiều thay đổi, thế và lực của đất
nước đã phát triển, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cho cả dân tộc ta trên con đường cách mạng gải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc
biệt, cùng với sự thách thức của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo nàn, lạc hậu, Đảng và dân tộc Việt Nam đã và đang đối mặt với nhiều
vấn đề thực tiễn phức tạp đặt ra yêu cầu cấp thiết Đảng phải sớm khẳng định những nhiệm vụ cụ thể cho sự nghiệp cách mạng ở hai miền đất nước.
III. Thời gian, địa điểm, thành phần tham gia
- Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
- Thời gian: 5/9/1960-10/9/1960
- Thành phần tham gia: Gồm 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50 vạn Đảng viên của cả nước đến tham dự và đại biểu của
16 đoàn quốc tê.
IV.Nội dung đường lối
Với cương vị là Chủ tịch Đảng, đồng chí Hồ Chí Minh đã đọc lời khai mạc Đại hội. Người đã khái quát nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và
chỉ rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn - Ủy viên Bộ Chính trị đọc; Báo cáo về sửa đổi Điều lệ
Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ đọc; Báo cáo bổ sung về Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) do đồng chí Nguyễn Duy
Trinh trình bày và nhiều tham luận khác.
Đại hội đã thảo luận và đánh giá cách mạng hai miền Nam - Bắc nước ta đang có những bước tiến quan trọng. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng cả nước và nhiệm vụ của từng miền; chỉ rõ vị trí, vai trò của cách mạng từng miền và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.
Đại hội xác định nhiệm vụ của toàn thể nhân dân ta trong giai đoạn cách mạng lúc này là tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng
cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự
nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta”. Còn cuộc cách mạng miền Nam “có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước”.
Trong điều kiện đất nước còn tạm thời bị chia cắt làm hai miền, thì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải biến miền Bắc thành hậu
phương vững chắc cho cả nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quá trình cải biến cách mạng ở miền Bắc là quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay gắt, phức tạp giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và
người cày có ruộng. Vì vậy, “nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập
dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp
phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”.
  *Đại hội đã xác định những nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) như:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát
triển nông nghiệp toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh,
mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến
công tác khoa học kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mở mang phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.
=> Các nhiệm vụ trên có quan hệ mật thiết với nhau.
  Đại hội cũng quyết định các chủ trương tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố sự nhất trí về chính trị của nhân dân, đoàn kết quốc tế và
đẩy mạnh xây dựng Đảng.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội đã khái quát 30 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng và rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu của cách mạng nước ta
trong 30 năm qua.
  Đại hội cũng đã xem xét về ngày thành lập Đảng, trong đó nêu rõ: “Từ mấy chục năm nay, Đảng ta lấy ngày 6 tháng Giêng dương lịch làm ngày kỷ
niệm thành lập Đảng. Nay căn cứ theo các văn kiện và tài liệu lịch sử, thì ngày bắt đầu cuộc Hội nghị hợp nhất để thành lập Đảng là ngày 3-2-1930 dương
lịch, tức ngày 5 tháng 1 theo âm lịch. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng quyết nghị từ nay trở đi sẽ lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi
năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.
  Trong hơn 5 ngày làm việc, Đại hội đã thông qua những vấn đề có tầm quan trọng quyết định tính chất sống còn đối với cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Ngày 10-9-1960, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai
đoạn mới; thông qua Nghị quyết về ngày thành lập Đảng; thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi) và Lời kêu gọi của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Lao động Việt Nam.
  Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê
Duẩn làm Bí thư thứ nhất; 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức là các đồng chí: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,
Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan. 2 ủy viên dự khuyết là đồng chí Trần
Quốc Hoàn và Văn Tiến Dũng. Ban Bí thư có 7 đồng chí: Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Anh, Tố Hữu và Lê Văn Lương.
  Đọc diễn văn bế mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đại hội lần thứ II đã đưa kháng chiến đến thắng lợi. Chắc chắn rằng Đại hội lần
thứ III này sẽ là nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa
bình thống nhất nước nhà”.
  Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam có một ý nghĩa rất trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách
mạng do Đại hội vạch ra là ngọn đèn pha sáng ngời chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới thống nhất nước nhà, tiến tới một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Thành công của Đại hội lần thứ III của Đảng là cơ sở cho “Toàn Đảng và toàn dân ta
đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên”.
Chủ đề 3: Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965) và 12 (12/1965)
1. Hoàn cảnh lịch sử:
● Đầu năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam và ném bom miền Bắc. 
● Mục tiêu của Mỹ là tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, bình định miền Nam, buộc phía Việt Nam phải ngồi vào bàn đàm phán theo điều kiện của Mỹ.
● Trên miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ từng bước được mở rộng về quy mô và cường độ. Mỹ đồng thời đẩy mạnh
"chiến tranh đặc biệt" ở Lào; gây sức ép nhằm buộc chính phủ Vương quốc Campuchia từ bỏ chính sách trung lập.
● Trên trường quốc tế, Mỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung và mở "chiến dịch hoà bình" hòng cô lập Việt Nam.
● Trong nước, chính quyền Mỹ thi hành các biện pháp bưng bít tin tức, không gọi lính trù bị, không tăng thuế, với hy vọng duy trì được sự ổn định nội
bộ, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của Quốc hội và nhân dân Mỹ đối với chiến tranh Việt Nam.
=> Việc Mỹ đổ quân vào miền Nam và "leo thang" đánh phá miền Bắc, nhằm phá hoại công cuộc xây dựng CNXH miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền
Bắc đối với miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của ta, buộc chúng ta kết thúc chiến tranh theo điều kiện có lợi cho Mỹ.
Những phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế như trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp các Hội nghị lần thứ mười một (3-1965) và
lần thứ mười hai (12-1965) để đánh giá tình hình mới và đề ra nhiệm vụ mới để lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam đoàn kết chặt chẽ, quyết
tâm đánh thắng quân xâm lược Mỹ, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.
2. Chủ trương của Đảng thông qua nội dung Nghị quyết: 
2.1. Nghị quyết 11 (tháng 3/1965)
Trước yêu cầu mới của cách mạng, từ ngày 25 đến 27-3-1965, tại Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 và ra Nghị quyết  về tình
hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt.
2.1.1. Tình hình:
Hội nghị nhận định: với những hành động mới của đế quốc Mỹ, "rồi đây địch có thể đưa thêm những đơn vị chiến đấu của Mỹ và của một số nước chư hầu vào
miền Nam ngày càng nhiều hơn, điều ấy sẽ làm cho tính chất “đặc biệt” của cuộc chiến tranh của chúng ở miền Nam từng bước có thể có biến đổi. Và cùng với
việc ấy, chúng có thể tăng cường các hoạt động ném bom, bắn phá miền Bắc thường xuyên hơn, bằng những lực lượng không quân lớn hơn, trên phạm vi rộng
hơn và nhằm nhiều mục tiêu hơn; và chúng cũng còn có thể dùng tàu chiến để phong tỏa đường biển và tập kích một số vùng ở bờ biển miền Bắc”.
2.1.2. Nhiệm vụ cấp bách:
2.1.2.1. Nhiệm vụ cơ bản của toàn Đảng, toàn quân và dân:
● Tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam.
● Đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra.
● Tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh
phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch.
● Ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam.
2.1.2.2. Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Bắc:
● Kịp thời chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển của tình hình.
● Về mặt kinh tế: xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp với tình hình địch ngày càng tăng cường phá hoại miền Bắc; đảm bảo yêu cầu
chiến đấu và yêu cầu chi viện cho miền Nam, đồng thời vẫn phù hợp với phương hướng về lâu dài của công cuộc công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa và chú ý đúng mức các yêu cầu về đời sống của nhân dân.
=> Trung ương Đảng chủ trương: tích cực đẩy mạnh phát triển nông nghiệp; chú trọng phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp; xây
dựng các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ.
● Về quốc phòng: tăng thêm lực lượng bộ đội thường trực; ra sức phát triển và củng cố về mọi mặt cho dân quân; đẩy mạnh công tác phòng
không nhân dân và tích cực phát động phong trào toàn dân bắn máy bay địch.
Phương châm: khẩn trương, tích cực, toàn diện, chu đáo, thận trọng và có trọng tâm.
● Ra sức tăng cường công tác phòng thủ, trị an bảo vệ miền Bắc, kiên quyết đánh bại kế hoạch địch ném bom, bắn phá, phong toả miền Bắc bằng
không quân và hải quân.
Phương châm: dựa vào sức mình là chính.
● Ra sức chi viện cho miền Nam để hạn chế dịch chuyển “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam thành “chiến tranh cục bộ” và ngăn chặn âm mưu địch mở
rộng “chiến tranh cục bộ” ra miền Bắc.
Đồng thời, miền Bắc phải ra sức giúp đỡ cách mạng Lào.
● Cần phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình hình mới: cần phải làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ so sánh lực lượng
giữa ta và địch, chỗ mạnh và yếu, thuận lợi cũng như khó khăn của ta và địch, hiểu rõ âm mưu của địch, thấy rõ miền Bắc đã ở trong thời chiến. Trên
cơ sở đó, làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ giải phóng miền Nam là trách nhiệm chung của nhân dân cả nước.
● Đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn quốc tế, vạch rõ âm mưu mới của đế quốc Mỹ đối với cách mạng miền
Nam và miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, cách mạng miền Bắc đã có bước chuyển hướng kịp thời về kinh tế, quốc phòng, tư tưởng và tổ
chức để tiến lên giành thắng lợi mới trong những giai đoạn tiếp theo của cách mạng.
2.2. Nghị quyết 12 (tháng 12/1965):
Đến năm 1965, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân miền Nam đã chiến đấu, giành những thắng lợi có ý nghĩa quan trọng. “Chiến lược "chiến tranh đặc
biệt" của địch phát triển đến mức cao nhất đã căn bản bị thất bại”.
Trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn, từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ trong thế bị động đã đưa vào miền Nam một lực lượng lớn quân đội viễn chinh Mỹ, đồng
thời tiếp tục mở rộng chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân ở miền Bắc nước ta. Cách mạng Việt Nam đứng trước những thử thách cực kỳ nghiêm
trọng.
Trước sự chuyển biến của tình hình, trong tháng 12-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 12 và ra Nghị quyết Về tình hình và
nhiệm vụ mới cho cách mạng hai miền.
2.2.1. Tình hình:
Hội nghị phân tích tình hình cách mạng miền Nam từ sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 và nhận định: 
● Đế quốc Mỹ không chỉ dựa vào lực lượng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ chủ yếu, mà đã trực tiếp xâm lược miền Nam nước ta.
● Mở rộng chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân ở miền Bắc.
● Âm mưu trước mắt của địch: tăng cường lực lượng, ra sức mở những cuộc tấn công nhằm tiêu diệt lực lượng của ta; ngăn chặn sự chi viện của miền
Bắc, bao vây và cô lập chiến trường miền Nam, tăng cường chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta.
● Phân tích một cách khoa học và toàn diện lực lượng so sánh giữa ta và địch.
2.2.2. Nhiệm vụ trước mắt:
2.2.2.1. Nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta:
● Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào.
● Giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
● Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần cố gắng vượt bực, tập trung lực lượng của cả nước, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh bại đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai trên chiến trường chính là miền Nam.
● Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc.
● Phương châm: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính; đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị.
2.2.2.2. Nhiệm vụ cụ thể:
● Miền Bắc:
● Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương.
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Hội nghị
đã phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và địch, khẳng định thất bại tất yếu của đế quốc Mỹ, vạch rõ nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng hai
miền, động viên quân đội và nhân dân cả nước giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực tự cường và ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bè
bạn quốc tế, tiến lên đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Kết luận chung về hai hội nghị:
● Tư tưởng chỉ đạo chiến lược: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công, liên tục tiến công, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
● Phương châm chiến lược chung: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh.
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam - Bắc: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm
vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.
Chủ đề 4: Chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam mùa xuân 1975
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Về phía địch
- “Cuộc khủng hoảng lòng tin” nước Mỹ trở nên đỉnh điểm, các cuộc biểu tình chống đối chấm dứt 
chiến tranh.
- Kinh tế suy thoái, lạm phát tăng.
- Nội bộ, các đảng phái bị chia rẽ.
- Viện trợ quân sự nguỵ quyền Sài Gòn bị cắt giảm.
- Đạn, nhiên liệu thiếu, hoả lực chi viện giảm gần 60%         
=> QUÂN ĐỊCH KHÔNG THỂ CHỐNG ĐỠ NỔI
b. Về phía ta
- Cuối năm 1974, tình hình đã có chuyển biến căn bản tạo điều kiện cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam đang chín muồi.
+ Lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân đã lớn mạnh.
+ Lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam đang giữ quyền chủ động tiến công địch trên chiến trường.
+ Những binh đoàn cơ động gồm nhiều binh chủng hợp thành ra đời.
+ Lương thực, vũ khí, xăng dầu, trang bị được vận chuyển vào chiến trường bảo đảm nhiệm vụ hậu cần.
-> Trước tình hình mới, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp tháng 10-1974 và tháng 1-1975 quyết định mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền
Nam 1975-1976, và dự kiến có thể giải phóng miền Nam sớm trong năm 1975.
c. Hoàn cảnh thế giới 
- Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) đến năm 1975, phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược đã lan rộng khắp
năm  châu. Hàng vạn cuộc biểu tình liên tiếp nổ ra, “Ngày Việt Nam”, “Tuần Việt Nam’, “Tháng Việt Nam” diễn ra ở nhiều nơi. 
- Tại các nước tư bản chủ nghĩa, các Đảng cộng sản, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng hòa bình, dân chủ, tiến bộ cũng có những hoạt
động tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam 
- Tại nước Mỹ, đã có hơn 200 tổ chức ở các bang và thành phố đứng ra tổ chức và lãnh đạo những cuộc đấu tranh.
2. Chủ trương
a. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành TW Đảng 
- Khẳng định kẻ thù của nhân dân Việt Nam là đế quốc Mỹ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu.
- Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 21 đã xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn hiện tại là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân.
- Khẳng định con đường thắng lợi của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng, nắm vững chiến lược tiến công trên cả 3 mặt trận: quân sự,
chính trị, ngoại giao.
b. Bộ Chính trị họp tháng 10 - 1974   
- Phương án hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 – 1976.
- Hội nghị rút ra nhận định rất quan trọng: Về tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, cách mạng đang ở thế thắng và tiến lên; trái lại địch chịu nhiều
thất bại liên tiếp nên đang ở thế thua. Mỹ đã rút ra, đang gặp nhiều khó khăn, nên không có khả năng quay trở lại 
- Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng về mặt quân sự, là chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn của ta năm 1975.
- Về mặt thời gian, Bước 1 (1975), tranh thủ thời cơ, bất ngờ mở cuộc tiến công lớn và rộng khắp. Bước 2 (1976), thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa
c. Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng tháng 1/1975
- Nội dung cuộc họp: Đánh giá tình hình sau Hiệp định Pari, so sánh lực lượng giữa ta và địch, nhận định thời cơ lịch sử, khẳng định quyết tâm chiến lược hoàn
thành cách  mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, …
     * Trước đây:
+ Khi nổ ra “đồng khởi” (1959 – 1960),  đội quân chính trị hùng hậu nhưng lực lượng vũ trang cách mạng còn nhỏ bé.
+ Trong “chiến tranh đặc biệt” và “chiến  tranh cục bộ” của  Mỹ, lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, phong trào đấu tranh chính trị có phát triển, nhưng
không đều;
     * Hiện nay:
+ Mỹ đã thua liên tiếp và phải rút quân về; ngụy quân, ngụy quyền không còn  chỗ dựa như trước.
+ Quân đội ta sung sức, có mặt khắp miền Nam. Quần chúng nhân dân trong vùng địch đòi hỏi vùng dậy và có khí thế mới.
3. Diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa mùa xuân 
a. Chiến dịch Tây Nguyên
- Vị trí: Là địa bàn chiến lược quan trọng mà ta và địch cố nắm giữ. Nhưng do nhận định sai hướng tiến công của ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng.
- Sau khi đánh nghi binh ở Plâyku và Kon Tum (10/03/1975), ta tiến công và giải phóng Buôn Mê Thuột. Ngày 12/03/1975, địch phản công chiếm lại nhưng
không thành.
- Ngày 14/03/1975, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân khỏi Tây Nguyên về giữa vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích
tiêu diệt.
- Ngày 24/03/1975, ta giải phóng Tây Nguyên.
Ý nghĩa: Chiến dịch Tây Nguyên đã mở ra quá trình sụp đổ hoàn toàn của ngụy quân, ngụy quyền. Đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ chuyển sang một thời kỳ
mới: Từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
b. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng
Ý nghĩa: Chiến thắng Huế Đà Nẵng đã gây nên tâm lí tuyệt vọng của ngụy quân đưa cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta tiến lên một bước mới
với sức mạnh áp đảo.
c. Chiến dịch Hồ Chí Minh 
- 11h30 ngày 30/4/1975 cờ cách mạng tung bay trên tòa nhà Phủ tổng thống, chiến dịch Hồ Chí Minh Lịch sử toàn thắng.
-> Thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. 
4. Kết quả, ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi 
a. Kết quả
- Ta: giành thắng lợi ta, đã  loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 triệu quân chủ lực ngụy, đập tan hoàn toàn bộ máy ngụy quyền từ Trung ương đến cơ sở. Giải
phóng, hoàn toàn miền Nam thống nhất nước nhà.
- Địch: Thất bại cay đắng nhất trong lịch sử nước Mỹ
b. Ý nghĩa lịch sử
- Chiến dịch Hồ Chí Minh là thắng lợi to lớn nhất, oanh liệt nhất trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ.
- Đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử 4000 năm của dân tộc.
- Mở ra một kỹ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.
- Làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng thế giới phát triển.
c. Nguyên nhân thắng lợi
- Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng thể hiện rõ qua đường lối quân sự đúng đắn.
- Phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân.
- Sự đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương.

Chương 5
Chủ đề 1:Quá trình hình thành đường lối xây dựng XHCN trong cả nước từ 1975-1985
I. Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV của Đảng(12/1976) và kế hoạch nhà nước năm năm (1976-1980)
1.1. Tình hình Việt Nam sau năm 1975 và đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng:
-Sau đại thắng mùa xuân 1975, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước đã hoàn toàn thống nhât,
có tài nguyên phong phú, dồi dào sức lao động của nhân dân,.. Đó là những thuận lợi ban đầu trong công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh của nước ta.
-Để xây dựng và phát triển đất nước trước mắt phải hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. 
-8/1975, khi nhân dân hai miền đang tập trung sức lực nhằm khắc phục hậu quả sau chiến tranh, ổn định tình hình tiến tới thống nhất đất nước về mặt nhà nước,
hội nghị toàn thể BCH Trung Ương lần thứ 24 của Đảng đã họp để quyết định những nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, đi lên CNXH. Đây là hội
nghị chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức cho việc thống nhất nước nhà. Ngoài thống nhất về mặt nhà nước, hội nghị còn khẳng định quyết tâm đưa cả nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường XHCN.
-Trên tinh thần đó, 3-1-1976, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị “Về việc lãnh đạo cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội chung” . 25/4/1976, cử tri cả nước đã phấn
khởi đi bỏ phiếu bầu Quốc Hội => Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đã biểu thị ý chí của toàn dân ta xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất.
-Đại hội đại biểu toàn quốc thứ IV của Đảng từ 14-20/12/1976, đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ
yếu của kế hoạch 5 năm năm 1976-1980. Quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam:
+Báo cáo chính trị đánh giá, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất.
Tình hình nước ta trong thời kì phát triển mới, nổi bật với ba đặc điểm lớn: Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, song còn nhiều khó khan do hậu quả
chiến tranh. Cách mạng XHCN ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa phe cách mạng và phản cách
mạng vẫn diễn ra gay go.
-Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn này là: 
+Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
+Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kĩ thuật, cách mạng về tư tưởng và văn hóa. Trong đó cách
mạng khoa học- kĩ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, con người
mới xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
-Về đường lối xây dựng kinh tế, đại hội nêu rõ: Đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Với nội dung quan trong là kế hoạch năm năm 1976-1980. 
=> Hạn chế của đại hội này là chưa tổng kết được kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chưa nhấn mạnh việc bức thiết phải làm sau chiến tranh
là khắc phục hậu quả chiến tranh, đặc biệt là chưa xác định được chặng đường đầu tiên tiến đến XHCN, nóng vội trong việc cải tạo và xây dựng CNXH ở một
nước vốn là nông nghiệp lạc hậu lại trải qua mấy chục năm chiến tranh.
1.2. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm(1976-1980):
-Cuối tháng 6/1977, Hội nghị lần thứ hai BCH TW Đảng họp bàn quyết định tập trung cao độ lực lượng cả nước thực hiện nhiệm vụ phát triển nông
nghiệp với 3 muc tiêu chính: Đảm bảo lương thực, thực phẩm. Cung ứng nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản cho công nghiệp. Tăng nhanh nguồn hàng xuất
khẩu.
-Tuy nhiên, do thiếu tính toán khoa học, lượng vốn đầu tư cho nông nghiệp không thích đáng mà chủ yếu tập trung cho công nghiệp nặng nên nhiều
chỉ tiêu quá cao mà sau này không thực hiện được. Chủ trương tổ chức lại nền nông nghiệp trong cả nước và đặc biệt là miền Nam không phù hợp là cho nền
nông nghiệp cũng không phát triển được.
-Trong giai đoạn này, nền kinh tế nước ta vốn đã thấp kém, thiên tai, dự trữ vật liệu bị cạn kiệt, viện trợ của các nước XHCN giảm sút, đế quốc Mỹ
và các nước khác bao vây cấm vận kinh tế làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng nghiêm trọng.
-Trong bối cảnh đó, 8/1979, Hội nghị lần thứ 6 BCH TƯ Đảng đã được triệu tập. tháo gỡ những ràng buộc của kế hoạch hóa tập trung, tạo điều kiện
cho lực lượng sản xuất ví dụ như những chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp, như ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, bán cho Nhà nước theo
giá thỏa thuận và được lưu thông tự do, khuyến khích xuất khẩu nông sản, sửa đổi cách phân phối ăn chia trong hợp tác xã. Ở miền Nam, cải tạo nông nghiệp
phải đảm bảo đúng các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, cưỡng eps; thừa nhận các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, công tư hợp
doanh, cá thể kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp. Tiến tới một bước cơ bản các chính sách lưu thông phân phối nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo
hướng kết hợp lợi ích tập thể, cá nhân và lợi ích nhà nước.
=> Tuy nhiên việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976-1980 chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển
chậm trong khi dân số tăng nhanh. 
-1/1981, chỉ thị về cải tiến công tác khoán, mở rộng về “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã công nghiệp. Đây
là một cải tiến mạnh mẽ, tuy nhiên chỉ thị 100 cơ chế quản lý tập trung quan liêu của Nhà nước chưa được tháo gỡ, cơ chế quản lý hợp tác xã còn nhiều mặt bất
hợp lý, mức khoán không ổn định, bộ máy quản lý gián tiếp của hợp tác xã cồng kềnh kém hiệu quả; tổng mức phát huy nhà nước tăng, phần dành phân phối
cho người lao động không đáng kể.
1.3. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985:
-Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1982) đã xác định phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và đặt mức phấn đấu cụ thế
từ năm 1983 đến năm 1985: Tập trung giải quyết nhu cầu ăn và mặc; hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng một số công trình quan trọng; kiện toàn và nâng
cao chất lượng của kinh tế quốc doanh; củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và thủ công nghiệp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và
quốc phòng; phải thiết lập cho được trật tự trong lĩnh vực lưu thông phân phối nhanh chóng ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, trước hết là đời
sống của công nhân, cán bộ, các lực lượng vũ trang. Hội nghị đã thể hiện một bước tiến mới trong nhận thức về lãnh đạo của Đảng. 
-Tuy nhiên trong khi nhấn mạnh đến chủ trương coi nông nghiệp là mặt trận hang đầu, Hội nghị lại chưa chỉ rõ những chính sách thiết thực để tập
trung cho nông nghiệp. Đường lối xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện có những điểm chưa phù hợp với thực tế, và chủ quan.
-6/1985, Hội nghị chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế “tập trung, quan liêu, bao cấp” thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và
kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
-14 tháng 9 năm 1985 Cuộc tổng điều chỉnh giá lương tiền lần thứ hai bắt đầu cùng với việc ban hành một số giá mới và tiền lương mới xã bỏ hoàn
toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho những người ăn lương. 
-Tuy vậy, vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong khi chưa chuẩn bị sẵn sàng là một sai lầm, hậu quả lớn nhất là đã dẫn đến hiện tượng
lạm phát phi mã trong 3 năm 1986-1988.
 => Kết luận:
-Qua các chủ trương cũng như thực tế thực hiện các chính sách về kinh tế của Đảng ta thời kì này chúng ta có thể nhận thấy:
+Có sự nóng vội trong công tác thực hiện xây dựng XHCN ở nước ta, khi chưa nhận thấy rõ tình hình nước ta đang là một nước nông nghiệp lạc hậu, xã hội thì
còn lao đao sau chiến tranh, vội vàng muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, tập trung phát triển công nghiệp khi nhận thức của chính Đảng, người dân
còn chưa rõ, mục tiêu xác lập không phù hợp, trình độ người dân nhìn chung chưa cao, kĩ thuật chưa có.
+Việc phát triển nền kinh tế bao cấp khiến cho bộ máy quản lí cồng kềnh, không hiệu quả, quan liêu, tham nhũng, lạm phát diễn ra, người dân bị phụ thuộc
không có động lực sản xuất làm cho năng suất giảm rõ rệt.
+Chính sách đối ngoại có phần bảo thủ, khi coi Mỹ là kẻ thù, không mở cửa quan hệ, khiến cho nền kinh tế của nước ta bị bao vây, cấm vận. Khiến nền kinh tế,
văn hóa, tư tưởng bị kìm kẹp, không mở rộng và phát triển được.
-Tuy nhiên, Đảng ta đã từng bước nhận ra và khắc phục những sai lầm nghiêm trọng, thay đổi chủ trương tiến bộ, phù hợp với xu hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, toàn cầu hóa hiện nay.
Chủ đề 2: ĐƯỜNG LỐI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ X VÀ XI?
1. Đại hội X (18-25/04/2006)
Hoàn cảnh: 
Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm
Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Các quyết định của Đảng về kinh tế thị trường: 
TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 
1. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là: 
Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
2. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Đảng và Nhà nước
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng về kinh tế: 
● Nghiên cứu xác định rõ và đầy đủ mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
● Đổi mới tư duy của nhân dân về nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
● Bổ sung, phát triển đường lối, các chủ trương, chính sách để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
● Nâng cao năng lực lãnh đạo và các cán bộ, dặc biệt là cán bộ liên quan đến kinh tế
Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước : 
Nhà nước phải có sự thay đổi mạnh mẽ trong phương thức quản lý: 
● Chiến lược, quy hoạch, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
● Phát triển lành mạnh các thị trường
● Ngăn ngừa và xử lý kịp thời những biến động xấu đối với ổn định kinh tế 
● Phát triển đồng hành các mặt khác cùng kinh tế.
● Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp. 
Để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, Đại hôi yêu cầu “Tách chức năng quản lý hành chính nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp, xóa bỏ “chế độ chủ quản”; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp” …
Nâng cao vai trò của các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa 
3. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh 
4. Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh 
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: 
● Kinh tế nhà nước
● Kinh tế tập thể
● Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)
● Kinh tế tư bản nhà nước
● Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội khẳng định “Quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ”, mọi công dân có quyền bình đẳng trong đầu tư kinh
doanh, tiếp cận cơ hội, nguồn lực kinh doanh” và lần đầu tiên xác định “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền
kinh tế. Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở
hữu”
2. Đại hội XI (12-19/1/2011)
Hoàn cảnh: 
Thời gian đầu sau Đại hội X, đất nước phát triển thuận lợi, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 
Nhưng từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn. 
Đường lối của Đảng về kinh tế thị trường: 
HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 
Đại hội chỉ rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “là một hình thức kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” và yêu cầu “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và
hiện đại”
Một là, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế
● Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và quyết định nền kinh tế của đất nước.
● Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. 
» Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân
● Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế
Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước
● Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển 
Đại hội chủ trương “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế”
Hai là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. 
Hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh, tạo ra môi trường phát triển phù hợp cho sự phát triển của các doanh nghiệp, bảo vệ thị trường nội địa, đồng
thời tuân thủ những quy định của các tổ chức quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham gia. 
Ba là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
● Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách và lực lượng vật chất
● Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của nhà nước và chức năng của tổ chức kinh doanh vốn và tài sản của nhà nước
III. Kết luận:
Đại hội IX của Đảng (2001) lần đầu tiên xác định “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội X của Đảng (2006) nêu rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là để “thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội XI của Đảng (2011) xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển
đất nước
Về cơ bản khải niệm kinh tế thị trường không có nhiều thay đổi từ Đại hội IX đến XI
Từ đại hội X kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng thì Đại hội XI chủ trương tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân, tập đoàn kinh tế tư nhân góp
vốn vào kinh tế nhà nước
 Đại hội đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm “phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và xác định đây là một trong tám phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.

You might also like