You are on page 1of 53

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA



BÁO CÁO BÀI TẬP BLENDED LEARNING

Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: TS. ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Viết Trung

MSSV: 2014886

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 – 2023


CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945)

Câu 1: Làm rõ chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX đã tác động như thế nào đối với kinh tế xã hội, Việt Nam ?

Sau khi đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp tập trung vào việc khai
thác thuộc địa bằng nhiều biện pháp, trong đó có:
- Nông nghiệp: Pháp tiếp tục cướp đoạt ruộng đất và khai khẩn đất hoang để sử dụng cho mục đích
riêng của mình. Tại Bắc Kì, đến năm 1902, đã có 182.000 hécta ruộng đất bị chiếm đoạt bởi Pháp.
Năm 1915, địa chủ người Pháp đã chiếm đoạt thêm 470.000 ha đất để lập đồn điền ở Bắc và Trung
Kì. Ngoài ra, Pháp cũng khuyến khích phát triển canh tác thu tô.
- Công nghiệp: Pháp tập trung vào việc khai thác mỏ than và kim loại để xuất khẩu, đồng thời đầu
tư vào các ngành công nghiệp nhẹ như sản xuất xi măng, gạch ngói, xay xát gạo, giấy, diêm...
- Giao thông vận tải: Pháp xây dựng hệ thống đường giao thông để tăng cường bóc lột và đàn áp
phong trào đấu tranh của nhân dân.
- Thương nghiệp: Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam và đánh thuế nặng vào hàng hóa nhập khẩu.
Trong khi đó, hàng hóa của Pháp được miễn hoặc đánh thuế rất nhẹ. Để tăng ngân sách, Pháp còn
áp đặt các loại thuế mới, đặc biệt là thuế rượu, muối và thuốc phiện.
Về mặt kinh tế, thực dân Pháp có những ảnh hưởng tích cực như khai thác tài nguyên và xây dựng
nền công nghiệp thuộc địa. Thành thị cũng phát triển và đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá. Tuy nhiên,
việc vơ vét sức người, sức của nhân dân thuộc địa là một trong những mục đích của công cuộc khai
thác. Đồng thời, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác một cách không bền vững, nông nghiệp và công
nghiệp phát triển không đồng đều và thiếu hẳn công nghiệp nặng. Vì vậy, nền kinh tế Việt Nam cơ
bản vẫn là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu và phụ thuộc vào nền kinh tế chính quốc.

Về mặt xã hội, xã hội Việt Nam đã trải qua sự xuất hiện của những tầng lớp mới bên cạnh những
giai cấp cũ liên tục bị phân hoá. Các tầng lớp mới bao gồm:
- Giai cấp địa chủ phong kiến: một số đại diện của tầng này đã đầu hàng và làm tay sai cho thực dân
Pháp, tuy nhiên, vẫn có một số địa chủ vừa và nhỏ với tinh thần yêu nước.
- Giai cấp nông dân: đông đảo và bị áp bức bóc lột nặng nề, tuy nhiên, họ đã sẵn sàng hưởng ứng và
tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Tầng lớp tư sản: bao gồm các nhà thầu khoán, chủ xưởng thủ công, chủ hãng buôn,... bị kìm hãm,
chèn ép, tuy nhiên, chưa có tinh thần cách mạng.
- Tiểu tư sản thành thị: bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, viên chức cấp thấp và những người
làm nghề tự do. Đây là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm giác
ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.
- Công nhân: bao gồm những người xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ,
nhà máy, xí nghiệp,... Đời sống của họ khổ cực, tuy nhiên, họ có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống
lại giới chủ nhằm cải thiện đời sống.
- Tình trạng đời sống của nhân dân vẫn còn khổ cực, mâu thuẫn xã hội sâu sắc.

Câu 2: Trình bày đặc điểm của từng giai cấp trong xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, mối quan
hệ giữa các giai cấp.
Các giai cấp, tầng lớp: Địa chủ, nông dân, công nhân, tư sản và tiểu tư sản.

Đặc điểm của từng giai cấp

Địa chủ: kinh doanh ruộng đất bóc lột địa tô. Thái độ: đa số đã đầu hàng trở thành tay sai của đế
quốc Pháp, áp bức bóc lột nhân dân (đại địa chủ). Trung và tiểu địa chủ thì ít nhiều có tinh thần yêu
nước, chống Pháp.

Nông dân: bị phân hóa thành nhiều bộ phận. Một bộ phận ở lại làng quê làm tá điền, một bộ phận ra
thành phố, đô thị làm các nghề phụ, một bộ phận làm công nhân trong các đồn điền, nhà máy…
Thái độ: căm thù đế quốc phong kiến, sẵn sàng tham gia đấu tranh khi có giai cấp nào khởi xướng.

Công nhân: làm thuê trong các nhà máy xí nghiệp, đồn điền, số lượng ngày càng đông, bị bóc lột
sức lao động tàn bạo. Thái độ kiên quyết chống đế quốc, giành độc lập dân tộc là động lực của cách
mạng.

Tư sản: là chủ các xưởng, nhà máy, các hãng buôn lớn bị Pháp chèn ép, thế lực kinh tế nhỏ bé, họ
chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn, chứ chưa có thái độ hưởng ứng hay tham
gia vào các cuộc vận động cách mạng.

Tiểu tư sản: gồm học sinh, giáo viên, viên chức, làm công ăn lương, buôn bán nhỏ. Đời sống bấp
bênh, có tinh thần yêu nước hăng hái, chống đế quốc.

Câu 3: Làm rõ nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX là chống đế quốc và phong kiến để
giành độc lập, giành ruộng đất cho dân cày, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là giành độc lập.

Câu 4: Phân tích nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị
phong kiến và tư sản ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1930.

Nguyên nhân khách quan: Cuộc đấu tranh của ta nằm trong tình thế bị động, nên Pháp đã dập tắt
nhanh chóng. Lực lượng ta và địch không cân xứng, ta đấu tranh khi địch vẫn còn mạnh, địch có
trang vũ khí hiện đại hơn ta.

Nguyên nhân chủ quan: Các phong trào yêu nước và các tổ chức của Đảng có những hạn chế về giai
cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi các lực
lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được 2 lực lượng cơ bản công nhân và nông dân cho nên
thất bại. Những cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, đa số các phong trào mang tính tự phác, trong nội bộ
chia rẽ. Ta chưa tập hợp được sức mạnh quần chúng nhân dân, chưa thấy được khả năng lãnh đạo
của giai cấp công nhân và chưa đoàn kết được họ. Chưa có chính Đảng lãnh đạo (Các phong trào
thất bại như: phong trào Cần Vương, phong trào khởi nghĩa Yên Thế, phong trào Đông Du, phong
trào Duy Tân).

Câu 5: Làm rõ tác dụng của các phong trào yêu nước đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam vào đầu năm 1930.

Các phong trào yêu nước vào thời điểm đó tuy thất bại nhưng nhờ các phong trào như vậy ta mới
thấy được sự yêu nước muốn giành lại độc lập của dân tộc Việt Nam lớn đến nhường nào, tạo tiền
đề cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Câu 6: Trình bày khái quát những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị điều
kiện cho sự ra đời của Đảng và giải thích vì sao Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng chính trị vô sản ?

Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất bản tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927) nhằm tuyên
truyền chủ nghĩa Mác – Lenin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp
tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Ngày 17/6/1929, Đông
Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ, mùa thu năm 1929 An Nam Cộng sản Đảng được
thành lập ở Nam Kỳ, ngày 1/1/1930 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.

Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng chính trị vô sản vì xuất
phát từ tình hình của cách mạng nước ta lúc đó:

Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính
sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức
chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về cơ bản vẫn là
nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp,
đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn
giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ dân tộc
nhằm đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ
chế độ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc phải thực hiện được cả hai
nhiệm vụ đó.

Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh mới.
Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng
phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo con đường phong
kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh theo khuynh hướng tư sản. Các hoạt động
yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con đường đó không đáp ứng được
yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có con đường giải phóng dân tộc mới
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê Nin lời giải
đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với
phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin.

Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập
quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm
thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu quê
hương, đất nước vô bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở thành động
lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước, và bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng như
những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho cả dân tộc.

Câu 7: Phân tích nội dung và ý nghĩa những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc hình thành
trong những năm 20 của thế kỷ XX.

Câu 8: Phân tích tính độc lập tự chủ và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận dụng và
phát triển chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam.

Phong cách là “lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền
nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động,
như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét
riêng biệt của chủ thể đó”. Tư duy, theo Từ điển tiếng Việt, là “giai đoạn cao của quá trình nhận
thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng,
khái niệm, phán đoán, suy lý”.

Có thể hiểu, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh là một trong những nét
độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh; là cơ sở cho việc hình thành những luận điểm, tư
tưởng đặc sắc mang dấu ấn Hồ Chí Minh, tạo nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà tư
tưởng, nhà lãnh đạo tiền bối và đương thời.

Với Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi, giáo điều, tránh
lối cũ, đường mòn và tự mình phải luôn tìm tòi, suy nghĩ. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ, làm
chủ bản thân và công việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Sáng tạo
là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; sẵn sàng từ bỏ những cái cũ,
lạc hậu, tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống
đặt ra. Nhờ tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật của cách
mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển chung của nhân loại.

Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo hình thành rất sớm ở Hồ Chí Minh, ngay từ thuở thiếu thời, lúc
Người mới bước vào tuổi thanh niên. Khác với các nhà cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh không lựa
chọn sang phương Đông mà quyết định sang phương Tây, cụ thể là nước Pháp để tìm đường cứu
nước, cứu dân. Đó là sự lựa chọn hết sức táo bạo trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Cũng với tấm
lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, nếu như Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp
giành độc lập dân tộc, Phan Chu Trinh chủ trương giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, cứu
nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tán thành
Quốc tế Cộng sản, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười
Nga.

Chính tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo đó đã tạo ra sự khác biệt trong cách đi, bước đi, quan điểm,
tư tưởng giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với các nhà yêu nước cách mạng tiền bối và cùng
thời với Người. Để đưa ra quyết định lựa chọn cứu nước theo con đường cách mạng vô sản, trong
suốt 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tự mình khảo sát, nghiên cứu các
cuộc cách mạng ở các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp…, đã sống, lao động, học tập, tiếp xúc với đủ
hạng người, từ tầng lớp thượng lưu, tinh hoa đến những người lao động nghèo khổ nhất ở châu Á,
Âu, Phi, Mỹ La-tinh. Điều đó giúp Người mở rộng tầm mắt, tăng cường vốn sống, hiểu biết về cuộc
sống, tình cảnh, số phận con người, nhất là người lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa.

Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, trở thành người cộng sản, tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Hồ Chí Minh thực sự có bước phát triển mới. Từ đây, độc lập, tự chủ mới thực sự đi
đến sáng tạo; trình độ tư duy của Người đã đạt đến tầm mức có thể so sánh, lựa chọn và tổng hợp
những cứ liệu từ thực tế Việt Nam và thế giới, những kinh nghiệm từ cuộc sống, những tư tưởng
của lớp người đi trước, để từ đó mà đúc kết, hình thành nên những luận điểm, tư tưởng, kết luận mới.

Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh coi đó là kim chỉ nam cho hành động, là “mặt trời
soi sáng”, “trí khôn”, “cái cẩm nang thần kỳ” có tính phương pháp luận chỉ dẫn hành động. Người
coi việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, với người và
với mình; là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lê-nin để giải
quyết các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Người không tự hạn chế, tự trói buộc mình và cũng
không trói buộc người khác hoặc để người khác trói buộc mình vào từng câu chữ. Tư duy của Hồ
Chí Minh là sự thấm nhuần lời chỉ dẫn của Lê-nin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là
một cái gì đó đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi
mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”.

Nhờ có tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo đó, nên trong quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn
Ái Quốc đã có khả năng phát triển nhiều luận điểm rất mới mẻ, bổ sung, phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Chẳng hạn, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản năm
1924, nhấn mạnh, cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông không giống như ở phương Tây. Mác đã
xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa
phải là toàn thể nhân loại; do vậy, phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố
nó bằng dân tộc học phương Đông”. Nguyễn Ái Quốc cũng đã sớm nhận ra vai trò chủ động, tích
cực của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nếu như Lê-nin và Quốc tế Cộng sản
đều cho rằng, cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc, cách mạng giải
phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi thì Hồ Chí Minh đã
nêu quan điểm ngược lại, khi cho rằng cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi
trước cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Nhân dân
Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng và đã trở thành Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh chính trị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chủ
trương tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng toàn dân tộc cũng như giải quyết vấn đề độc lập dân
tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam. Tuy nhiên, do trái với quan điểm, chỉ đạo của Quốc tế Cộng
sản, Nguyễn Ái Quốc đã chịu nhiều sự phê phán, chỉ trích nặng nề, phải “sống quá lâu trong tình
trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”. Thực tế đã chứng
minh rằng, chủ trương, cách giải quyết vấn đề dân tộc của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành lập
Đảng là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xu thế phát triển của thời
đại, thể hiện nhãn quan chính trị, tầm nhìn vượt trước của Người trong bối cảnh nhận thức chung
lúc bấy giờ.

Câu 9: Làm rõ tác dụng của phong trào công nhân đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
vào đầu năm 1930.

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân từ năm 1925 đến năm 1929 là điều kiện quyết
định sự ra đời các tổ chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.

Câu 10: Khái quát quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1911-1916, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, Người đánh giá cao tư
tưởng tự do, bình đẳng, bác ái về quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản: Cách mạng Mỹ
(1776) và Cách mạng Pháp (1789)… Nhận ra hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp
“chưa đến nơi” vì quần chúng nhân dân vẫn đói khổ.

Năm 1917-1920, Người quan tâm tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) nhận thấy chỉ có
Cách mạng Tháng Mười Nga là thành công và thành công đến nơi, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người tìm thấy trong Luận
cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam.

Năm 1923 thành lập Tâm tâm xã, tháng 2/1925 thành lập Cộng sản đoàn, tháng 6/1925 thành lập
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Với sự ra đời, hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh mẽ. 1926-1927, mỗi năm có gần chục
cuộc bãi công. 1928-1929, hơn 40 cuộc bãi công. Phong trào đang vươn lên mạnh mẽ, có sức quy tụ
dẫn đầu phong trào yêu nước. Cuối năm 1929, cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng
sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm
về Hương Cảng, Trung Quốc, chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng. Thành phần: 1 đại
biểu của Quốc tế Cộng sản, 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, 2 đại biểu của An Nam
Cộng sản Đảng.

Câu 11: Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng.

Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong bối cảnh lịch
sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp, các phong trào yêu nước đều thất bại thì Nguyễn Ái
Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về "tự do, bình đẳng, bác ái", với tầm
nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở
Người. Đồng thời, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin, Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách
mạng vô sản, giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy sự cần thiết
của một Đảng lãnh đạo và chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước thì mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính, đảm bảo cách mạng
phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.

Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và chuẩn bị
những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
- Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước. Người đã phác thảo
những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung
qua những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
- Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam nhằm làm
chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác
Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu
nước. Nội dung truyền bá là những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho
phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản
của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các lớp huấn luyện do Người
tiến hàng ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925,
Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo
cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí, từ đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các
thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là
thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục
phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ
tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong
trào công nhân và giác ngộ họ. Thông qua phong trào "vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước
được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng,
lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ,
tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời
của Đảng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Năm 1929,
Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, mặc dù chưa nhận được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về
yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, nhưng do sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái
Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược.
Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn bao giờ hết. Hội nghị
hợp nhất đã thống nhất thông qua Chán cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị
thông qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu 12: Phân tích các yếu tố dẫn tới sự ra đời của Đảng và mối quan hệ giữa các yếu tố đó.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đứng trước những thách thức hết sức nặng
nề khi rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp. Dưới ách độ hộ của thực dân Pháp, các phong trào yêu
nước của nhân dân ta đã liên tiếp diễn ra theo khuynh hướng tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản
nhưng đều lần lượt bị thất bại. Nguyên nhân chính của sự thất bại đó là do thiếu đường lối và một tổ
chức lãnh đạo đúng đắn. Trong khi đó, giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX
do chưa được trang bị lý luận tiên phong là chủ nghĩa Mác - Lênin nên các cuộc đấu tranh vẫn còn tự
phát, chưa trở thành phong trào độc lập. Vì vậy, đầu thế kỷ XX, đất nước ta bị lâm vào cuộc khủng
hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước đúng đắn. Trước tình hình đó, ngày 5 tháng 6 năm 1911, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua quá trình bôn ba đến hàng loạt các nước, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách mạng ở trên thế
giới và khi bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc đó là con đường cách mạng vô sản, từ đó Người đi đến khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chính là chủ nghĩa
Lênin”. Chính vì vậy, sau khi bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường cứu
nước đúng đắn và trở thành người cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin để nâng cao, hoàn thiện tư tưởng cách mạng của mình, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin, chuẩn bị những điều kiện cho việc thành lập Đảng cộng sản ở nước ta.
Trên cơ sở nắm rõ nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ
nhỏ trong dân cư và trong những năm đầu thế kỷ XX, các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
Việt Nam vẫn còn lẻ tẻ, rời rạc, đang hòa chung vào trong phong trào yêu nước của các giai cấp
tầng lớp khác chứ chưa trở thành một phong trào độc lập. Trong khi đó, chủ nghĩa yêu nước là giá
trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có vai trò cực kỳ to lớn và là nhân tố chủ đạo
quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược và cai
trị nước ta thì các phong trào yêu nước của nhân dân đã diễn ra liên tiếp và sôi nổi. Phong trào yêu
nước là yếu tố có trước phong trào công nhân và cả sự ra đời của giai cấp công nhân. Cho nên, trong
quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá trước hết đến
những người yêu nước, vào phong trào yêu nước và qua phong trào yêu nước tiếp tục truyền bá vào
giai cấp công nhân để giác ngộ giai cấp công nhân.
Bằng những hoạt động tích cực của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân, trang bị cho những người yêu nước,
những người công nhân Việt Nam một cách nhìn mới về cái đích cần đi tới và về vai trò, trách
nhiệm của họ trước vận mệnh của đất nước và dân tộc. Đồng thời, trên cơ sở thấm nhuần lý luận
chủ nghĩa Mác - Lê nin, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
từng bước vạch ra những quan điểm chính trị về đường lối cứu nước đúng đắn cho dân tộc và truyền
bá vào trong nước, khai thông sự bế tắc về đường lối chính trị trong phong trào yêu nước ở nước ta
đầu thế kỷ XX. Chính vì vậy, vào những năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư
tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến được với những người yêu nước Việt Nam,
thâm nhập vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân, thúc đẩy phong trào cách mạng Việt
Nam phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản, cụ thể: trong phong trào yêu nước,
những người yêu nước và các tổ chức yêu nước dần ngả hẳn theo khuynh hướng tư tưởng vô sản;
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thì phát triển từ tự phát lên tự giác.
Điều đó cho thấy, lúc này, hệ tư tưởng vô sản đã hoàn toàn chiếm ưu thế trong phong trào cách
mạng Việt Nam, điều kiện để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân đã hoàn toàn chín
muồi và sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nước ta vào cuối năm 1929 đầu năm 1930 chính là sự
phản ánh nhu cầu phát triển tất yếu của phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên,
một nước không thể cùng một lúc tồn tại nhiều tổ chức cộng sản mà mục tiêu đấu tranh cơ bản là
thống nhất. Vì vậy, từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản. Hội nghị đã nhất trí thống nhất
các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, từ hiện thực lịch sử những thập niên đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những năm 20 cho thấy,
quá trình vận động của phong trào cách mạng Việt Nam để đi đến thành lập Đảng cộng sản ở Việt
Nam đã hòa quyện các yếu tố: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó có nghĩa là ngay từ khi thành lập với quy luật tạo
dựng Đảng đã làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là người lãnh đạo, là lãnh tụ chính trị của
giai cấp và cả dân tộc. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc tập hợp dưới ngọn
cờ lãnh đạo của Đảng vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến lên CNXH.
Quy luật nêu ra trên đây không chỉ chi phối quá trình thành lập Đảng mà chi phối cả quá trình xây
dựng và phát triển của Đảng, trung tâm của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh
dân tộc, lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam, phát triển mạnh mẽ
phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong mọi thời kỳ cách mạng tạo nên sức mạnh tổng
hợp của cách mạng, tạo thành Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Trong xây dựng Đảng, bản chất giai
cấp công nhân của Đảng luôn được đề cao và nhận thức sâu sắc, đồng thời Đảng kế thừa và phát
triển những tinh hoa trí tuệ và văn hóa của dân tộc, thật sự là người lãnh đạo của toàn dân tộc, được
toàn dân tộc thừa nhận và tin cậy.

Câu 13: Làm rõ nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và đánh giá tác dụng của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua Nghị quyết của Ban
Bí thư lần thứ nhất, được thông qua vào tháng 3 năm 1935 Dưới đây là một số điểm chính của
Cương lĩnh này:

Chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản: Đảng xác định mình là đảng Cộng sản, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm căn cơ tư tưởng, và cam kết hỗ trợ phong trào Cộng sản trên toàn thế giới.

Chủ nghĩa Dân tộc - Dân chủ: Cương lĩnh đề xuất phải kết hợp giải pháp chủ nghĩa Mác - Lênin với
tư tưởng Dân tộc, hướng đến mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam Đồng thời, cương
lĩnh nhấn mạnh quan điểm dân chủ và quyền tự do cho nhân dân.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa: Đảng khẳng định mục tiêu cách mạng của mình là xây dựng xã hội
chủ nghĩa, giải phóng giai cấp lao động, chống lại thống trị tư bản và phong kiến.

Đường lối cách mạng qua các giai đoạn: Cương lĩnh xác định rõ đường lối cách mạng qua từng giai
đoạn cụ thể, bắt đầu từ giai đoạn độc lập dân tộc, sau đó là giai đoạn xã hội chủ nghĩa.

Chiến lược Đảng: Đảng quyết định sử dụng chiến lược giai đoạn, thay đổi chiến lược tùy thuộc vào
điều kiện cụ thể và giai đoạn của cách mạng.

Đánh giá tác dụng:

Gắn kết Đảng và nhân dân: Cương lĩnh chính trị đầu tiên giúp xác định hình ảnh và vị thế của Đảng
trong xã hội Việt Nam Đồng thời, nó giúp tạo ra sự đồng lòng và gắn kết giữa Đảng và nhân dân.
Hình thành nền tảng tư tưởng: Cương lĩnh chính trị này đã cung cấp một nền tảng tư tưởng mạnh
mẽ cho Đảng và phong trào cách mạng, đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Dân tộc.

Hướng dẫn chiến lược cách mạng: Cương lĩnh đã đề ra chiến lược cách mạng rõ ràng, giúp Đảng có
hướng dẫn và lãnh đạo mạch lạc trong quá trình đối mặt với thách thức và biến động lịch sử.

Tác động lâu dài: Cương lĩnh này đã có tác động lâu dài, với sự kiên trì và đồng lòng của Đảng và
nhân dân Việt Nam, đã giúp họ vượt qua nhiều khó khăn và thách thức trong quá trình cách mạng.

Câu 18: Phân tích nội dung văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới của Đảng (10 – 1936)

Chung quanh vấn đề Chiến sách mới 10/1936:

+ Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải chọn vấn đề
nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.

+ Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa
Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn
giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng.

Đây là nhận thức mới phù hợp với tinh thần của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, bước đầu
khắc phục hạn chế của LCCT; nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ,
phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương.

Câu 19: Phân tích sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược
và mục tiêu trước mắt trong giai đoạn 1936 – 1939.

Trong giai đoạn từ 1936 đến 1939, Đảng Cộng sản Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức và biến
động trong bối cảnh chính trị và xã hội quốc tế Dưới đây là một số điểm quan trọng về sự chỉ đạo
của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt trong
giai đoạn này:

Mục tiêu chiến lược của Đảng:

Giành độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa: Đảng tiếp tục giữ vững mục tiêu chiến lược là giành độc
lập cho dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa

Chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản: Đảng duy trì cam kết với chủ nghĩa Mác - Lênin và hỗ
trợ các phong trào Cộng sản trên thế giới

Mục tiêu trước mắt và Chiến lược giai đoạn:

Phản đối thực dân Pháp: Trong bối cảnh thực dân Pháp đang áp đặt chính sách đối với Việt Nam,
mục tiêu trước mắt của Đảng là chống lại thực dân và bảo vệ lợi ích quốc gia

Hình thành chiến lược giai đoạn: Đảng điều chỉnh chiến lược của mình để phản ánh tình hình cụ thể,
với việc tập trung vào chiến lược giai đoạn, nhằm đạt được mục tiêu trước mắt và chuẩn bị cho mục
tiêu chiến lược dài hạn
Quan hệ giữa hai mục tiêu:

Liên kết chặt chẽ: Đảng hiểu rằng mục tiêu trước mắt và mục tiêu chiến lược không thể tách rời
nhau Việc chống lại thực dân Pháp và bảo vệ lợi ích quốc gia là bước quan trọng để đạt được mục
tiêu chiến lược lâu dài của Đảng

Thích ứng linh hoạt: Đảng thể hiện sự linh hoạt trong chiến lược của mình, tùy thuộc vào điều kiện
cụ thể và sự biến động của tình hình Điều này bao gồm cả khả năng thích ứng với tình hình quốc tế,
nhất là trong bối cảnh thế giới chuẩn bị cho Thế chiến II

Đổi mới tổ chức và chiến thuật:

Giai đoạn đầu tiên của Chiến tranh thế giới: Trong thời kỳ này, Đảng tìm cách tận dụng thế cơ để
mở rộng phong trào cách mạng và gia tăng sức mạnh

Đổi mới tổ chức: Đảng đã thực hiện các biện pháp cải cách tổ chức để nâng cao khả năng lãnh đạo
và tổ chức của mình

Tổng cộng, trong giai đoạn 1936-1939, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện sự thông minh và linh
hoạt trong việc chỉ đạo chiến lược của mình, đồng thời kết hợp mục tiêu trước mắt và mục tiêu
chiến lược để đạt được sự độc lập và xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam

Câu 20: Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 có tính chất dân tộc hay không ? Vì sao ?

Cao trào cách mạng 1936-1939 là một thắng lợi lớn của Đảng Cộng sản Đông Dương Qua cao trào
này, Đảng được rèn luyện, trưởng thành trong việc lãnh đạo đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp
kết hợp với bí mật, bất hợp pháp; lực lượng cách mạng mở rộng và được thử thách

Qua lãnh đạo cao trào cách mạng 1936-1939, Đảng có thêm những kinh nghiệm:

+ Xác định rõ kẻ thù và xác định mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng là tập hợp đội quân
chính trị quần chúng, chuẩn bị cho khởi nghĩa sau này

+ Chủ trương xây dựng Mặt trận dân chủ hết sức rộng rãi là hình thức thích hợp bảo đảm thực hiện
mục tiêu trước mắt đã đề ra, đưa đến một cao trào mới

+ Để lãnh đạo được mặt trận rộng rãi, Đảng phải giữ vững tính độc lập về chính trị và tổ chức, dựa
chắc vào lực lượng công nông làm nền tảng

+ Giải quyết đúng các mối quan hệ mật thiết giữa mục tiêu đấu tranh với h ình thức và tổ chức đấu
tranh; giữa các hình thức tổ chức và hoạt động công khai, hợp pháp với bí mật, bất hợp pháp; vừa
tập hợp đông đảo quần chúng, vừa chuẩn bị đề phòng khi kẻ thù đàn áp, phải rút vào bí mật

Câu 21: Trên cơ sở nghiên cứu nội dung các Hội nghị Trung ương lần thứ 6, 7 và 8, hãy làm rõ quá
trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng

Quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng thường phản ánh tình hình xã hội, kinh tế và
chính trị của Việt Nam cùng với sự biến động quốc tế Dưới đây là một số điểm tổng quan:
Giai đoạn trước nền kinh tế thị trường (đến đầu những năm 1980):

Chiến lược chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa và tự chủ kinh tế: Đảng Cộng sản Việt Nam ban đầu theo
đuổi chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa, tập trung vào việc quản lý và sở hữu các phương tiện
sản xuất

Chuyển hướng sau chiến tranh và đổi mới kinh tế (từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm
1980): Sau chiến tranh và đối mặt với khó khăn kinh tế, Đảng bắt đầu thực hiện các biện pháp đổi
mới kinh tế, mở cửa cho thị trường và đưa ra các chính sách hướng ngoại

Giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế (từ những năm 1980 đến nay):

Chính sách Đổi mới: Đảng thực hiện chính sách Đổi mới nhằm mở cửa kinh tế, thu hút đầu tư nước
ngoài, và cải thiện năng suất

Chuyển hướng từ kinh tế trạng thái lên quốc doanh đến kinh tế thị trường: Quá trình này chứng kiến
sự chuyển đổi từ mô hình kinh tế trạng thái lên quốc doanh sang mô hình thị trường, với việc tăng
cường vai trò của doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài

Chuyển đổi trong cách tiếp cận xã hội và chính trị:

Chuyển đổi từ mô hình đơn đảng đến hệ thống đa đảng: Trong một số giai đoạn, có sự chuyển đổi từ
mô hình đơn đảng đến hệ thống đa đảng Tuy nhiên, Đảng vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo quan trọng

Hội nhập quốc tế và quan hệ đối ngoại:

Mở rộng quan hệ ngoại giao và kinh tế: Đảng hướng tới mở rộng quan hệ ngoại giao và kinh tế, tìm
kiếm cơ hội hợp tác và đối thoại với cộng đồng quốc tế

Câu 22: Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941) so với Luận cương chính trị của Đảng (10/1930)
có những nội dung chỉ đạo mới như thế nào ?

Luận cương chính trị của Đảng (10/1930):

Chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản: Luận cương chính trị đề cập đến việc Đảng định hình
tư tưởng của mình dưới tác động của chủ nghĩa Mác - Lênin và cam kết với phong trào Cộng sản
quốc tế

Chủ nghĩa Dân tộc - Dân chủ: Nói về việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Dân tộc,
hướng đến mục tiêu giành độc lập dân tộc và quyền tự do cho nhân dân

Cách mạng xã hội chủ nghĩa: Mục tiêu của cách mạng là xây dựng xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai
cấp lao động, và chống lại thống trị tư bản và phong kiến

Chiến lược và Đường lối cách mạng qua các giai đoạn: Luận cương định rõ chiến lược của Đảng và
đường lối cách mạng qua từng giai đoạn cụ thể

Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941):

Chống thực dân Nhật Bản: Do tình hình quốc tế và khu vực biến động, Đảng thấy cần thiết chấp
nhận chiến tranh chống Nhật Bản
Hợp nhất lực lượng dân quân và quân đội: Hội nghị nhấn mạnh sự cần thiết của việc hợp nhất các
lực lượng dân quân và quân đội để đối phó với thách thức của thực dân Nhật Bản

Tạo ra hình ảnh mới về mối quan hệ Đảng - Nhân dân: Trong bối cảnh chiến tranh, Đảng chú trọng
vào việc xây dựng một mối quan hệ chặt chẽ và đoàn kết với nhân dân, đặc biệt là trong việc tạo ra
một hình ảnh mạnh mẽ về lòng yêu nước và sự đoàn kết

Chấp nhận chiến tranh nhân dân: Đảng thừa nhận chiến tranh nhân dân là không thể tránh khỏi và
có thể mang lại giải pháp cho tình hình khó khăn của quốc gia

Hợp nhất chính trị và quân sự: Đảng thấy cần thiết phải có sự hợp nhất chặt chẽ giữa chính trị và
quân sự để đối phó với tình hình đặc biệt khó khăn này

Câu 23: Phân tích chủ trương chiến lược mới của Đảng trong giai đoạn 1939-1945

Chính sách thống trị thời chiến của Pháp-Nhật ở Đông Dương

-Ngày 1/9/1939, phát-xít Đức tấn công Ba Lan Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ .

+ Từ tháng 4/1940 đến đầu năm 1941, Đức đã chiếm đóng hầu hết các nước ở Châu Âu, ngoại trừ
nước Anh, Liên Xô và các quốc gia Bắc Âu trung lập

+ Ở Châu Á, Nhật Bản mở rộng chiếm đóng Trung Quốc, tiến xuống Đông Nam Á

+ 22/6/1941, Đức tấn công Liên Xô

+ 8/12/1941, Nhật tấn công bất ngờ Cảng Trân Châu ở quần đảo Hawaii của Hoa Kỳ, chiến tranh
lan sang Châu Á – Thái Bình Dương Hoa Kỳ chính thức tham chiến, đứng về phe Đồng minh (với
Anh, Pháp, Liên Xô) chống lại phe phát-xít (Đức, Ý, Nhật)

Quy luật lợi nhuận tối đa và sự phát triển không đồng đều của về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa
tư bản đã dẫn đến cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn đế quốc nhằm giành giật thị trường, nguồn
nguyên liệu và chia lại thế giới

Nhưng khi Đức tấn công Liên Xô thì tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa
các lực lượng dân chủ do Liên Xô và Hoa Kỳ làm trụ cột với phe phát-xít do Đức cầm đầu

Thế chiến thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến nước ta Chính phủ phản động Pháp thực
hiện chính sách đàn áp các lực lượng cộng sản và tiến bộ ở trong nước và thuộc địa

+ Ở Đông Dương, thực dân Pháp điên cuồng tiến công Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể
quần chúng do Đảng lãnh đạo

+ Một số quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936 -1939 bị thủ tiêu

+ Đồng chí Lê Hồng Phong bị bắt cuối tháng 9/1939 Nhiều cán bộ đảng viên bị bắt giam tù đày
+ Hàng vạn thanh niên bị bắt lính đưa sang Pháp

+ Thực dân Pháp tăng thuế, trưng thu, trưng dụng các xí nghiệp tư nhân cho quốc phòng, kiểm soát
trực tiếp, gắt gao sản xuất và phân phối, xuất khẩu và nhập khẩu

Trừ bọn tay sai của Pháp, địa chủ lớn và tư sản mại bản, tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội
Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại bởi chính sách phản động của đế quốc Pháp

Chủ trương chiến lược mới của Đảng

Do sớm dự báo được Thế chiến thứ hai sẽ nổ ra nên Đảng ta không bị bất ngờ về cuộc chiến tranh
này Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng đã có một số chủ trương, hoạt động thích hợp khi chiến tranh
bùng nổ

Cuối tháng 9/1939, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời chuyển hướng, rút vào hoạt
động bí mật

Đầu tháng 11/1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp tại Bà Điểm, Gia Định, có các đồng
chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu… tham dự

+ Hội nghị nhận định chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát-xít quân phiệt tàn bạo

+ Mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương

+ Đảng dự báo Nhật sẽ vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật

+ Hội nghị xác định mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng Đông Dương, làm
cho Đông Dương hoàn toàn độc lập

+ Chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ
phản động, chống tô cao, chống lãi nặng; thay khẩu hiệu thành lập chính quyền Soviet công nông
binh bằng khẩu hiệu lập Chính phủ cộng hòa dân chủ

+ Quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương bao gồm lực lượng chính
là công nhân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập
tạm thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ

+ Về phương pháp cách mạng, Hội nghị nêu ra một số chuyển hướng về tổ chức, xây dựng các đoàn
thể quần chúng bí mật, hướng các cuộc đấu tranh của quần chúng vào đế quốc và tay sai, “dự bị
những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc”

Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939 đã phát huy tinh thần sáng tạo, kịp thời nêu ra mục
tiêu chiến lược tập trung mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc và tay sai, chuẩn bị những điều kiện
giành chính quyền, đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược cách mạng dân
tộc dân chủ
Lãnh đạo phong trào chống Pháp-Nhật, chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang 1940-1945

Lợi dụng Pháp thua Đức ở châu Âu, ngày 22/9/1940, quân đội Nhật Bản tiến vào Lạng Sơn và đổ
bộ vào Hải Phòng

23/9/1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật

Nhân dân ta từ đây chịu cảnh một cổ hai tròng: đế quốc-phát xít

Khi Nhật tiến vào Lạng Sơn, quân Pháp rút chạy qua đường Bắc Sơn về Thái Nguyên Chính quyền
địch ở vùng này tan rã

Đêm 27/9/1940, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy chiếm đồn
Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ và các vùng trong châu Đội du kích Bắc Sơn được thành lập Cuộc khởi
nghĩa Bắc Sơn nhanh chóng giành được thắng lợi, nhưng sau đó nhanh chóng bị đàn áp Tuy vậy,
cuộc khởi nghĩa có ý nghĩa lịch sử vô cùng lớn: Mở đầu thời kỳ cách mạng nước ta kết hợp đấu
tranh vũ trang với đấu tranh chính trị đánh đổ chính quyền đế quốc, phong kiến, giành độc lập, tự do

Đầu tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) có các đồng chí
Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt tham dự

+ Hội nghị khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị
Trung ương Đảng tháng 11/1939

+ Xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là phát-xít Pháp-Nhật

+ Cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, phân công Trường Chinh làm quyền Bí thư Trung
ương Đảng, quyết định hai vấn đề cấp bách:

+ Một là, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích phát triển cơ sở cách
mạng, tiến tới lập căn cứ địa du kích, lấy Bắc Sơn-Vũ Nhai làm trung tâm

+ Hai là, chỉ thị cho Xứ ủy Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện bảo đảm cho
khởi nghĩa thành công

Tuy nhiên, cuối cùng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn nổ ra vào 23/11/1940 Chính quyền cách mạng
được thành lập, thực hiện một số cải cách dân chủ, dân sinh Lần đầu tiên, cờ đỏ sao vàng xuất hiện
Cuộc khởi nghĩa bị Pháp đàn áp dã man, gần 6000 người bị bắt, giết Một số đồng chí lãnh đạo của
Đảng như Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu bị bắt, xử bắn trước khởi nghĩa

Ngày 13/1/1941, binh lính yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Cung (tức ĐộiCung) đã nổi
dậy đánh chiếm đồn Chợ Rạng (Thanh Chương), kéo về Đô Lương rồi tiến về Vinh (Nghệ An)
Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt

Ba cuộc khởi nghĩa nổ ra ở ba miền tuy thất bại nhưng “đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc
khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương” Kinh
nghiệm lớn nhất của các cuộc khởi nghĩa là muốn thành công phải có đủ điều kiện khách quan và
chủ quan chín muồi, trên cơ sở cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế diễn ra trong bộ máy thống trị
của chủ nghĩa đế quốc và dựa vào cao trào cách mạng đã dâng lên trong cả nước

Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc và 8/2/1941, Người tới Pác Bó (Cao Bằng) Từ
ngày 10 đến 19/5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp tại Pác Bó do Nguyễn
Ái Quốc chủ trì

+ Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc

+ Khẳng định sự đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị
Trung ương tháng 11/1939, tập trung mũi nhọn chống đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc,
đồng thời nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có
ruộng

+ Chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cônghòa

+ Quyết định thay tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc

+ Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho

Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào,
Campuchia

+ Xác định hình thái của khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa
và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân

+ Dự báo cuộc chiến tranh thế giới thứ hai lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó cách
mạng nhiều nước mới thành công

+ Đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách
mạng Đông Dương đi đến thắng lợi; chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ; tăng thành phần vô sản
trong Đảng

+ Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức, bầu Trường Chinh làm Tổng Bí thư

Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn Hội nghị đã hoàn chỉnh việc
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc
Nghị quyết của Hội nghị có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945

Xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền:

Ngày 6/6/1941, Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi NhậtPháp
Cuối tháng 10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ Các hội Công nhân
cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc… đã được
thành lập ở nhiều tỉnh thành Ở Cao Bằng, xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh

Đảng rất chú trọng xây dựng các khu an toàn và căn cứ địa, lập các đội tự vệ vũ trang Trung đội
Cứu quốc quân hình thành từ khởi nghĩa Bắc Sơn

Thông qua Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng, lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của
công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương…

Tháng 8/1942, trên đường đi công tác ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng Giới
Thạch bắt giam đến tháng 9/1943

Tháng 9/1943, Hội nghị đại biểu các đảng phái, các đoàn thể yêu nước của người

Việt Nam ở Trung Quốc được triệu tập và Hội giải phóng Việt Nam làm nòng cốt

Để xúc tiến cho công việc khởi nghĩa, cuối tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp
ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên)

+ Hội nghị chủ trương mở rộng Việt Minh, liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu
nước trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh; đẩy mạnh công tác vận động thanh niên,
phụ nữ, dân tộc thiểu số và binh lính, tư sản và địa chủ yêu nước, lập Hội Văn hóa cứu quốc

+ Hội nghị vạch ra kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, phổ biến kinh nghiệm khởi nghĩa,
chiến thuật du kích, tổ chức huấn luyện các đội tự vệ, xây dựng lực lượng cách mạng ở thành
thị…

Trên cơ sở cao trào cách mạng của quần chúng, từ hai căn cứ địa trung tâm Cao Bằng và Bắc
Sơn-Vũ Nhai, nhiều căn cứ địa liên hoàn đã hình thành nối liền Cao Bằng với Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Bắc Giang, Vĩnh Yên… Nhiều đội du kích thoát ly ra đời

Trên mặt trận văn hóa và tư tưởng, Đảng ta cũng thu được nhiều thành tựu

+ Nhiều sách báo của Đảng và Việt Minh được xuất bản

+ Năm 1943, Đảng đưa ra Đề cương văn hóa Việt Nam, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học,
đại chúng

+ Hội văn hóa cứu quốc (thành viên của Việt Minh) ra đời

+ Tháng 6/1944, Đảng Dân chủ Việt Nam được thành lập, nhằm tập hợp trí thức yêu nước và tư
sản tiến bộ và gia nhập Mặt trận Việt Minh

Đầu tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” Cuối năm
1944, phong trào cách mạng sôi sục ở nhiều địa phương Ở các căn cứ địa cách mạng, quần
chúng đã sẵn sàng nổi dậy

Tháng 10/1944, từ Trung Quốc về tới Pác Bó, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tăng cường hoạt động vũ trang tuyên truyền, đẩy mạnh
xây dựng lực lượng chính trị, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này

22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh
đạo được thành lập Vài ngày sau, Đội đã đánh thắng hai trận đầu ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao
Bằng), cổ vũ mạnh mẽ phong trào đánh Nhật, đuổi Pháp

Lãnh đạo Cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tháng 3/1945
đến tháng 8/1945

Đầu năm 1945, quân Đức bên bờ thất bại, quân Nhật ở tình thế khốn quẫn

Ở Đông Dương, mâu thuẫn Nhật-Pháp đã lên tới đỉnh cao giống như “cái nhọt bọc sẽ phải vỡ
mủ” 8 giờ tối ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp

Thực dân Pháp đầu hàng Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương để phục vụ
cho chúng, chỉ quét thêm một lớp sơn độc lập giả hiệu cho chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim

Ngay trong đêm 9/3, Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng
(Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì, nhận định rằng:

+ Sau đảo chính, phát-xít Nhật là kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân Đông Dương

+ Khẩu hiệu Đánh đuổi phát-xít Nhật-Pháp được thay bằng khẩu hiệu Đánh đuổi phát-xít Nhật

+ Hội nghị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho
cuộc tổng khởi nghĩa Các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cần phải thay
đổi cho phù hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa: tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi
công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật; tổ chức các đội tự vệ cứu quốc, thành lập căn cứ
địa mới, thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam giải phóng quân; thành lập Ủy ban
nhân dân cách mạng ở những vùng du kích hoạt động; sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi
có đủ điều kiện

Nội dung của Hội nghị được trình bày trong Chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta (12/3/1945)

Cao trào kháng Nhật cứu nước được phát động

+ Phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần đã diễn
ra rất sôi nổi ở thượng du, trung du miền Bắc
+ Ở Việt Bắc, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân đã phối hợp với nhân dân
nổi dậy giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã ở các tỉnh Cao-Bắc-Lạng, Thái-Tuyên-Hà Một số
nơi đã thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng, các đội du kích Ở Quảng Ngãi, đã nổ ra cuộc khởi
nghĩa Ba Tơ, thành lập đội du kích Ba Tơ

+ Hàng nghìn cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà tù của thực dân Pháp đã đấu tranh buộc
địch phải trả lại tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động, tham gia lãnh
đạo phong trào kháng Nhật, cứu nước

Do chính sách vơ vét, bóc lột của Nhật-Pháp, nạn đói xảy ra nghiệm trọng ở các tỉnhphía Bắc
Hai triệu người Việt Nam bị chết đói Đảng đã kịp thời đề ra khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết
nạn đói” và coi đó là khẩu hiệu chính để phát động phong trào kháng Nhật, cứu nước

Cuộc đấu tranh đã diễn ra khắp nơi, đưa hàng triệu người đi từ đấu tranh cho quyền lợi kinh tế
hằng ngày đến giác ngộ chính trị khởi nghĩa giành chính quyền

Ngày 15/4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ do Ban Thường vụ Trung ương Đảng
triệu tập đã họp ở Hiệp Hòa (Bắc Giang)

+ Hội nghị quyết định đặt nhiệm vụ quân sự lên hàng đầu, gấp rút chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa

+ Thống nhất sáp nhập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân, lấy tên là
Việt Nam giải phóng quân

+ Quyết định xây dựng 7 chiến khu trong cả nước

Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp, chuẩn
bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nma, tức Chính phủ cách mạng lâm thời

Đầu tháng 6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc thành lập

Trong tháng 5 và tháng 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và nhiều chiến khu
được thành lập ở cả ba miền Chính quyền nhân dân đã được thành lập tại Khu giải phóng và
một số địa phương

Cao trào kháng Nhật, cứu nước phát triển lên tới đỉnh cao sau khi Đức ký văn bản đầu hàng Liên
Xô và Đồng minh đầu tháng 5/1945 và Nhật đầu hàng giữa tháng 8/1945

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945

Từ ngày 13/8 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào

+ Hội nghị nhận định: điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi và chủ trương lãnh đạo toàn dân tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương

+ Cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách
+ Đề ra đường lối đối nội, đối ngoại trong tình hình mớ và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương

Đêm 13/8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa

Ngày 16/8, tại Tân Trào, Đại hội quốc dân họp, nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa
của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh: quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt
Nam tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch

Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta”

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ ngày 14/8, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn
Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái Ngày 18/8, nhân dân
các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Khánh
Hòa giành được chính quyền

Tại Hà Nội, sáng ngày 19/8, hàng chục vạn quần chúng nội ngoại thành đã tiến về Quảng trường
Nhà hát thành phố dự cuộc mitstinh do Việt Minh tổ chức, hô vang các khẩu hiệu cách mạng
Sau cuộc mitstinh, quần chúng xuống đường biểu tình vũ trang, tiến về các ngả đường đánh
chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn như Phủ khâm sai, Tòa thị chính, Trại lính bảo an,
Sở cảnh sát

Chính quyền bù nhìn nhanh chóng đầu hàng và buộc quân Nhật phải để cho nhân dân giành
quyền làm chủ toàn bộ thành phố

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả nước, làm cho chính
quyền tay sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác nổi
dậy giành chính quyền, nhất là Huế và Sài Gòn

Ngày 23/8, khởi nghĩa ở Huế thành công, buộc vua Bảo Đại phải thoái vị Chiều ngày 30/8,
trước cửa Ngọ Môn, Bảo Đại đọc lời thoái vị, nộp ấn kiếm cho cách mạng Đại diện Chính phủ
lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xóa bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam

Ngày 25/8, khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã thành công trên cả nước trong vòng nửa tháng

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặtcho Chính
phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa độc lập, tự do

Câu 24: Làm rõ quá trình hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng trong
những năm 1930-1945
Ngày 24-2-1930 ,Đảng cộng sản Việt Nam đã hoàn thành việc hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ở Việt
Nam và thông qua cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam

1-Nhiệm vụ cách mạng: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho Việt Nam
hoàn toàn độc lập Song để dành thắng lợi từng phần trước hết Đảng phải tập trung lực lượng cách
mạng đánh đổ kẻ thù chủ yếu là đế quốc và bọn tay sai của chúng Tức là khi xác định kẻ thù, Đảng
xác định mâu thuẫn lớn nhất trong xã hội lúc bấy giờ bao gồm mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân
tộc. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu vẫn là mâu thuẫn dân tộc: giữa các tầng lớp với đế quốc Pháp Do
đó, nhiệm vụ cấp bách trước mắt là tập hợp lực lượng và xây dựng đoàn kết dân tộc để chống lại đế
quốc trên cả phương diện chính trị và kinh tế:

+ Về chính trị, Đảng chủ trương đánh đổ đế quốc và bọn phản động tay sai, đồng thời thu hồi quyền
hành của phong kiến Từ đó, sự lãnh đạo của Đảng được củng cố

+ Về mặt kinh tế, bước thứ nhất "Tịch thu toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc Pháp và địa chủ
phản cách mạng Còn các tầng lớp trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ phản cách mạng
thì phải sử dụng hoặc ít nhất làm họ trung lập "

2-Lực lượng cách mạng: Chủ trương cần kết hợp các yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp Công nhân
và giai cấp nông dân là lực lượng chính , là quân chủ lực của cách mạng, giai cấp công nhân là giai
cấp lãnh đạo Đồng thời phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông để lôi kéo họ về
phía giai cấp vô sản và tranh thủ các tầng lớp phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc có lòng
yêu nước để đưa họ vào mặt trận dân tộc thống nhất chế độ Lực lượng cách mạng gồm các giai cấp:
công nhân, nông dân, tiểu tư sản, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh công
nông Về nguyên tắc liên minh với các lực lượng và tầng lớp yêu nước khác, cương lĩnh nêu rõ:
không khi nào nhượng bộ một chút ít lợi ích

3-Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Đảng Cộng sản Đông Dương có trách nhiệm lãnh đạo phối
hợp cuộc kháng chiến của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia, lãnh đạo cách mạng Đông Dương

III-Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng(3/1935):

Trên cơ sở phong trào cách mạng đã được phục hồi và sự chuẩn bị trước đó, từ ngày 28 đến
31/03/1935 Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại một địa điểm ở phố Quan Công, Ma
Cao (Trung Quốc) nhằm xác định đường lối cho thời kỳ đấu tranh mới khi Đảng đã phục hồi

1-Nhiệm vụ cách mạng: Phát triển và củng cố Đảng: Cần củng cố lực lượng hiện tại, tăng cường
phát triển Đảng ở các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, kết nạp thêm
nông dân và trí thức Phải đưa thêm nhiều đảng viên xuất thân từ thành phần công nhân vào các cơ
quan lãnh đạo, bảo đảm tính giai cấp Ban Chấp hành Trung ương Đảng được uỷ quyền đào tạo cán
bộ dự bị mới cho Đảng Để thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê
bình và tự phê bình chống tả khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật Đảng
Thu phục quần chúng: Đại hội coi thu phục rộng rãi quần chúng là nhiệm vụ trung tâm cơ bản,
trước mắt của Đảng Các đảng bộ phải bênh vực quyền lợi thiết thân của quần chúng, quan tâm đến
các dân tộc thiểu số, thanh niên, phụ nữ và quần chúng lao động ngoại kiều; phải củng cố và phát
triển các tổ chức quần chúng, lợi dụng các hình thức công khai và nửa công khai để xây dựng và
phát triển các tổ chức quần chúng lãnh đạo quần chúng đấu tranh Lôi kéo các phần tử đi sai
đường:”vô luận là quần chúng ở dưới quyền lãnh đạo của các chính đảng và các đoàn thể phản động,
quốc gia cải lương, hay cách mạng tiểu tư sản, Đảng phải dùng đủ phương pháp mà kéo các đám
quần chúng đi sai đường ấy sang phe cộng sản, nhất là phải chú trọng kéo quần chúng ra khỏi ảnh
hưởng của tụi quốc gia cải lương,và nếu ảnh hưởng quốc gia cải lương còn mạnh thì cách mạng
Đông Dương khó thành công

Chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc: “Cần phổ biến những sự thắng lợi vĩ đại
của sự kiến thiết xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang, cần mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế
quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, đánh giá chưa khách quan vai trò
và thái độ cách mạng của tiểu tư sản và mặt yêu nước của tư sản dân tộc cũng như một bộ phận địa
chủ nhỏ Sở dĩ có hạn chế đó là do Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10/1930 chưa nắm
vững đặc điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam, vận dụng máy móc đường lối của
Quốc tế Cộng sản vào hoàn cảnh nước ta; chưa nhận thức rõ những quan điểm sáng tạo của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc đã nêu ra trong các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng

Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 3/1935: Đại hội đánh dấu sự khôi phục và phát triển của
tổ chức Đảng Là sự chuẩn bị cho thắng lợi của các phong trào tiếp theo Đại hội đại biểu lần I của
Đảng được xem như là mốc đánh dấu bước phát triển quan trọng của Đảng, Đảng đã phục hồi được
hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ được lập
lại, các tổ chức quần chúng của Đảng cũng dần được khôi phục và phát triển Đại hội chính là mốc
đánh dấu sự sống còn của Đảng Cộng Sản Việt Nam vì trước đó tất cả các tổ chức, đảng phái khác
như Việt Nam Quang phục hội, Việt Nam quốc dân đảng,… sau khi bị thực dân Pháp đàn áp đều
không còn hoạt động hoặc hoạt động rất hạn chế, cơ sở trong nước bị khủng bố hoàn toàn, chỉ còn
các cơ sở hoạt động tại hải ngoại

-Nhận xét chung: Trong giai đoạn này đã xác định được con đường của cách mạng Việt Nam là
cách mạng vô sản chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta. Tuy có những nhận định sai về nhiệm vụ chiến lược ở thời
kỳ sau nhưng chúng ta đã xác định chính xác nhiệm vụ ở Cương lĩnh đầu tiên của Đảng

Chủ trương đấu tranh từ năm 1936 đến năm 1939:

Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh(7/19360): Hội nghị họp vào tháng 7/1936 tại
Thượng Hải (Trung Quốc) Hội nghị đã đề ra những chủ trương thích hợp để đưa cách mạng nước
ta tiến lên trong tình hình mới, bổ khuyết những thiếu sót của Đại hội I

1-Nhiệm vụ cách mạng : Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân .Đồng thời, vào cuộc đấu tranh
nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt
Hạn chế: Chưa nêu được những khẩu hiệu thích hợp về dân tộc trong lúc còn tạm gác khẩu hiệu
chiến lược đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc cho các dân tộc Đông Dương

C-Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945:

I-Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng(11/1939):

Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với thực dân Pháp trở nên gay gắt

Do đó, trong các ngày 6, 7, 8/11/1939, Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định) để
bàn các chủ trương của Đảng trong tình hình mới, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Cừ

1-Nhiệm vụ cách mạng: hai nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế
quốc và giai cấp địa chủ phong kiến không thay đổi, nhưng phải được áp dụng cho phù hợp với tình
hình mới Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất,
chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng;
thay khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công – nông – binh bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ
cộng hòa Nhiệm vụ trung tâm trước mắt của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng Đông
Dương nói chung là đánh đổ đế quốc và tay sai , giành hoàn toàn độc lập cho dân tộc: "Bước đường
sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ
đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc
lập"

2-Lực lượng chính của Mặt trận là: công nhân, nông dân, đoàn kết với các tầng lớp tiểu tư sản thành
thị và nông thôn, đồng minh trong chốc lát hoặc cô lập giai cấp tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ
Mặt trận do giai cấp công nhân lãnh đạo

3-Phạm vi cách mạng: toàn Đông Dương

II- Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 7 (11 – 1940) tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh)

1-Nhiệm vụ cách mạng: Như thế cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại phải bao
gồm có hai tính: phản đế và thổ địa Cuộc cách mạng gồm nhất để" có tính dân tộc hơn, cho có một
mãnh lực dễ hiệu triệu hơn" Hội nghị cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự đoàn kết ba dân tộc ở Đông
Dương trong một chiến lược chống kẻ thù chung Pháp-Nhật và tay sai, giành độc lập ở từng dân tộc,
coi đó là vấn đề sống còn của ba dân tộc "Những dân tộc sống ở Đông Dương đều chịu dưới ách
thống trị của giặc Pháp-Nhật, cho nên muốn đánh đuổi chúng nó không chỉ dân tộc này hay dân tộc
kia mà đủ, mà phải có một lực lượng thống nhất của tất thảy các dân tộc Đông Dương họp lại " Sau
khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,"ta phải thi hành đúng chính sách dân tộc tự quyết" cho
dân tộc Đông Dương.

IV-Nhận xét:

-Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11/1939 đánh dấu sự trưởng thành của Đảng, cụ thể
hoá một bước đường lối cứu nước trên tinh thần của Cương lĩnh đầu tiên được hoạch định từ khi
thành lập Đảng Đây là sự chuyển hướng từ đấu tranh chính trị, hoà bình đòi quyền dân sinh dân chủ
sang đấu tranh vũ trang - bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa
vũ trang để giành chính quyền

-Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 7 (11 – 1940) chưa thật dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra trong hội nghị 11- 1939

Hội nghị Trung ương lần thứ tám đã phát triển, hoàn chỉnh những chủ trương được đề ra ở Hội nghị
Trung ương (tháng 11-1939) và (tháng 11-1940)

Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 5/1941 đã phát triển sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản ở
một nước thuộc địa, tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc như nước ta; có tác dụng quyết định
trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền

-Nhận xét chung: Như vậy, chủ trương mới của Đảng trong thời kỳ này đã hoàn chỉnh việc điều
chỉnh chiến lược cách mạng tư sản dân quyền để tập trung cho mục tiêu số một là giải phóng dân
tộc Đường lối dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu là ngọn cờ
dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc
lập

Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân đồng minh kéo
vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở
Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật ra đời, hoặc
Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940, quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần

3-Tổng Khởi Nghĩa

-Hội nghị cán bộ Đảng toàn quốc ở Tân Trào giữa tháng 8 - 1945 đã kịp thời quyết định Tổng khởi
nghĩa trên cả nước sau khi quân Nhật tuyên bố đầu hàng. Đồng minh và trước khi quân đội Đồng
minh vào Đông Dương giải giáp quân Nhật thời cơ khởi nghĩa thuận lợi nhất là nửa cuối tháng 8 -
1945 Khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi đúng như thế C Mác nói khởi nghĩa là một nghệ thuật

Điểm tuyệt diệu nhất của nghệ thuật đó là chớp đúng thời cơ khi phát động khởi nghĩa Đảng và Hồ
Chí Minh cũng đã sớm nhận thấy khó khăn phức tạp và nguy cơ mới xuất hiện đó là quân đội Đồng
minh kéo vào Phải giành thắng lợi trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương để với tư cách
người chủ đất nước tiếp quân

Đồng minh

Tin Nhật đầu hàng vô điều kiện đã nhanh chóng thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng trong toàn quốc,
từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, khắp cả Bắc, Trung, Nam Lúc này, các tầng
lớp trung gian đã ngả hẳn về cách mạng, hàng ngũ địch hoang mang, khủng hoảng, do dự, chia rẽ
đến cực điểm, quần chúng sẵn sàng hy sinh cho mục tiêu cuối cùng của cách mạng
Thời cơ cách mạng chín muồi, lực lượng cách mạng đã chuẩn bị chu đáo cộng với sự lãnh đạo sáng
suốt, tài tình của Đảng biết nắm lấy thời cơ, biết sử dụng lực lượng cách mạng đúng lúc, kết hợp
chính trị và vũ trang, lấy lực lượng chính trị của quần chúng giữ vai trò quyết định, kết hợp nông
thôn và thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp, từ thấp lên cao, từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn, đó chính là nguyên nhân chủ yếu đưa cuộc
Tổng khởi nghĩa tháng Tám đến thắng lợi.

Câu 25: Làm rõ đặc điểm, tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của cách mạng tháng tám năm 1945

Tính chất:

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân
chủ mới Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”

Đây là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:

+ Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng giải phóng dân tộc, tập trung giải quyết
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội VN là mâu thuãn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay
sai

+ Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết trong mặt trận Việt Minh

+ Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của Đảng với hình
thức cộng hòa dân chủ, trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một bộ phận của phe dân chủ chống phát xít

Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất của dân tộc

Cách mạng đã xây dựng nhà nước DCND đầu tiên ở VN, xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến Nhân
dân ta được hưởng quyền tự do, dân chủ

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có tính chất dân chủ nhưng chưa đầy đủ, sâu sắc

Mang đậm tính nhân văn, hoàn thành một bước cơ bản trong sự nghiệp giải phóng con người ở VN
khỏi áp bức dân tộc, bóc lột giai cấp và nô dịch tinh thần b Ý nghĩa lịch sử:

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám là một trong những
trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất, là một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất

Đập tan ách phát-xít Nhật trong 5 năm, ách thống trị của thực dân Pháp trong 87 năm, lật đổ chế độ
phong kiến mấy nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam vào kỷ nguyên

mới, kỷ nguyên độc lập tự do do nhân dân làm chủ đất nước
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh của mình Đảng ta từ một đảng hoạt động không hợp pháp trở thành một
đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước

Cách mạng Tháng Tám đã tạo ra những kinh nghiệm quý báu đóng góp vào kho tànglý luận cách
mạng dân tộc dân chủ ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, tạo ra thế và lực mới cho cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ sau này

Thắng lợi này đã chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở một nước thuộc địa, do toàn dân thực hiện, dưới sự lãnh đạ o của một Đảng Cộng sản, có đường
lối đúng đắn có thể giành thắng lợi

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc
thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính
quyền toàn quốc

Thắng lợi to lớn này là kết quả tổng hợp của những nhân tố bên trong (lực lượng toàn dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo) và nhân tố bên ngoài (thắng lợi của Liên Xô và Đồng minh đánh bại phe phát-
xít Đức-Ý-Nhật); là kết quả của ba cao trào cách mạng c

Kinh nghiệm lịch sử:

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến

+ Ngay từ khi Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn,
trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa Thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội

+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến không thể tách
rời nhau Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa hai nhiệm
vụ đó và xác định rằng: Tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là
chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện
từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất
của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến

Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công-nông

+ Thắng lợi lịch sử này là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam
với đạo quân chủ lực là liên minh công-nông dưới sự lãnh đạo của Đảng

+ Liên minh công-nông được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc
trong tổng khởi nghĩa Dựa trên nền tảng đội quân chủ lực đó, Đảng xây dựng được khối đại đoàn
kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền

Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

+ Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phátxít, mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ tay sai của
Pháp-Nhật

+ Cô lập cao độ kẻ thù chính là đế quốc phát-xít và bọn tay sai phản động, tranh thủ hoặc trung lập
những phần tử lừng chừng

Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi nhanh chóng, ít đổ máu

Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập
tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân

+ Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị
với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách
mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội,
Huế, Sài Gòn

+ Đây là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và
không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ một số địa phương rồi lan ra cả nước, từ khởi
nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy thống trị, lập ra nhà nước của nhân dân

Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ

+ Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Marx-Lenin và
kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa ở
nước ta

+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ Đảng ta đã chọn đúng thời cơ

Đó là lúc chính quyền phát-xít Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ sau khi Nhật đầu hàng và
nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa

+ Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm
điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước

Xây dựng một Đảng Marx-Lenin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền

+ Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng
bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó Điều đó đòi hỏi Đảng phải biết vận
dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Marx-Lenin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng

+ Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong
đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh và khắc phục những khuynh hướng
lệch lạc Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất
khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch Đảng
phát huy tr iệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để
lãnh đạo nhân dân đấu tranh

CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM,
HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945-1975)

Câu 1: Làm rõ bối cảnh Việt Nam sau khi giành chính quyền (8/1945) và những nhiệm vụ Việt
Nam đặt ra cần giải quyết.

Câu 2: Làm rõ chủ trương của Đảng trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ
(1945-1946).

Câu 3: Phân tích những sách lược của Đảng trong cuộc đấu tranh với kẻ thù đế quốc nhằm bảo
vệ chính quyền cách mạng từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946.

Xây dựng và bảo vệ chính quyền Cách mạng 1945 – 1946

Hoàn cành lịch sử nước ta sau Cách mạng Tháng Tám 1945

- Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân mới được thành lập đã phải đương đầu với
những khó khắn, thử thách rất nghiêm trọng Đất nước bị các thế lực đế quốc phản động bao vây
và tiến công

+ Đầu tháng 9/1945, theo thỏa thuận của Đồng minh ở Hội nghị Postdam, Chính phủ Trung Hoa
dân quốc Tưởng Giới Thạch đưa 200000 quân vào phía Bắc vĩ tuyến 16 nước ta và Anh đưa
quân vào phía Nam để tước vũ khí của quân đội Nhật Bản

+ Từ 23/9/1945, quân Pháp núp sau quân Anh đã trắng trợn đánh chiếm Sài Gòn rồi Nam Bộ
hòng đặt trở lại sự thống trị của Pháp ở Việt Nam

Các thế lực đế quốc, phản động nước ngoài tuy theo đuổi lợi ích riêng và có những thủ đoạn
khác nhau, song đều có mục tiêu chung là tiêu diệt chính quyền nhân dân, xóa bỏ thành quả của
cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam

+ Vừa đối phó với “giặc ngoài”, chính quyền nhân dân còn phải chống lại các tổ chức phản động
ở trong nước như “Việt Nam Quốc dân Đảng” (Việt Quốc), “Việt Nam Cách mạng Đồng chí
Hội” (Việt Cách), Đại Việt Các tổ chức này dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng
nhằm xóa bỏ chính quyền cách mạng
Các đảng phái này đòi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ
chức; lập chính quyền phản động ở Vĩnh Yên, Yên Bái, Móng Cái; dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc
nhân dân đi theo

Bên cạnh những thách thức về chính trị, quân sự, những khó khăn về kinh tế, xã hội cũng là
thách thức nặng nề đối với Đảng ta và chính quyền cách mạng

+ Nạn đói ở miền Bắc do Pháp-Nhật gây ra chưa được khắc phục, 50% ruộng đất

bị bỏ hoang, 6 tỉnh Bắc Bộ bị lũ lụt, hạn hán nghiêm trọng

+ Công nghiệp đình đốn, nhiều nhà máy chưa được hồi phục sản xuất

+ Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ

+ Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ còn 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách,
thuế chưa thu được

+ Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp Quân Tưởng tung tiền quốc tế, quan
kim ra thị trường gây ra nhiều rối loạn

+ 95% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn rất nặng

Bên cạnh những khó khăn, thách thức cực kỳ to lớn mà nhân dân ta phải đối phó, chúng ta cũng
có những thuận lợi hết sức cơ bản:

+ Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, các phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ và hòa bình
trên thế giới sau chiến tranh có tác động cổ vũ cuộc đấu tranh của nhân dân ta bảo vệ nên độc lập
mới giành được và kiềm chế các thế lực đế quốc

+ Liên Xô có uy tín quốc tế cao, có vai trò tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế, khôi phục đất
nước nhanh chóng, đồng thời giúp đỡ một số nước Đông Âu xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội, giúp đỡ các phong trào giải phóng dân tộc

Tuy nhiên, trong những năm đầu cách mạng thành công, chúng ta bị cách biệt với thế giới bên
ngoài cho nên chưa nhận được sự viện trợ trực tiếp từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa

+ Thế mạnh và thuận lợi lớn nhất là nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ
đất nước Toàn dân tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn
kết xung quanh Đảng, quyết tâm xây dựng, bảo vệ chính quyền và chế độ mới, cuộc sống mới,
quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập, thốn g nhất của Tổ quốc Nhân dân ta có tình
thần sáng tạo, dùng nhiều hình thức đấu tranh, nhiều giải pháp để giữ vững độc lập, tự do

+ Chính quyền nhân dân cách mạng đã có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở do Đảng lãnh đạ và
được toàn dân ủng hộ
+ Lực lượng vũ trang toàn dân bao gồm quân đội, dân quân, tự vệ và công an, mặc dù còn nhiều
thiếu thốn, khó khăn, nhưng họ đều xuất phát từ nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, được Đảng
và Hồ Chủ tịch chăm lo xây dựng và lãnh đạo trực tiếp, có tinh thần yêu nước và tinh thần chiến
đấu

+ Đảng ta từ hoạt động bí mật đã trở thành Đảng cầm quyền, có uy tín cao, có lãnh tụ sáng suốt,
được toàn dân tin tưởng, có hệ thống tổ chức trong toàn quốc, có đường lối, phương pháp đúng
đắn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới

Với những khó khăn và thuận lợi như vậy, ta có thể thấy nước ta lâm vào tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc”, chính quyền nhân dân có nguy cơ bị lật đổ, nền độc lập mới giành được có thể bị mất
nhưng nhưng toàn đảng, toàn dân, toàn quân sẵn sàng đương đầu và trụ vững trong mọi khó
khăn

Chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc của Đảng:

Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chủ tịch đã nêu ra sáu việc
cấp bách:

+ Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói

+ Mở phong trào chống nạn mù chữ

+ Sớm tổ chức tổng tuyển cử

+ Mở phong trào giáo dục cần kiệm, liêm chính

+ Bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò

+ Tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết

Khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn và Nam Bộ, Đảng ta đã phát động phong trào cả nướcủng hộ
đồng bào miền Nam kháng chiến

Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc

+ Chỉ thị nhận định những thay đổi căn bản của tình hình thế giới và trong nước sau Thế chiến
thứ hai

+ Nêu rõ những thuận lợi cơ bản và những thử thách lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
mà nhân dân ta đang tiến hành

+ Đánh giá các kẻ thủ, chỉ rõ kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược

+ Nêu rõ nhiệm vụ trước mắt chủ yếu là củng cố chính quyền, chống Pháp xâm lược, bài trừ nội
phản, cải thiện đời sống nhân dân
+ Đề ra công tác trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, xây dựng Đảng,
mở rộng Mặt trận Việt Minh và Mặt trận thống nhất Việt-Lào-Miên chống Pháp xâm lược

Xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa và tổ chức kháng chiến ở miền Nam

Xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa

Để sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc giành được thắng lợi, nhiệm vụ trung tâm là củng cố chính
quyền nhân dân

+ Trong hoàn cành vô cùng phức tạp, cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 đã diễn ra

thành công, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tổng tuyển cử
thắng lợi là một đòn mạnh đánh vào âm mưu chia rẻ, lật đổ, xâm lược của đế quốc và tay sai,
xác định quyền làm chủ của nhân dân

+ Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I họp kỳ đầu tiên, trao quyền cho Chủ tịch Hồ Chí Minh lập
Chính phủ chính thức, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa

Đảng phát động phong trào tăng gia sản xuất, chống đói, chống nạn mù chữ

+ Chính phủ ta cho mở lại các nhà máy do Nhật bỏ lại, tiến hành khai thác mỏ

+ Cho tư nhân được góp vốn kinh doanh ở các xí nghiệp, khuyến khích giới công thương lập
hợp tác xã và hội cổ phần, tham gia kiến thiết nước nhà

+ Ban hành chế độ ngày làm 8 giờ

+ Tổ chức khuyến nông, sửa chữa đê điều, tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian
chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công cho cả nam và nữ, giảm tô 25%, bãi bỏ thuế
thân và các loại thuế vô lý khác

+ Về tài chính, Chính phủ lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc, tổ chức tuần lễ vàng, lập
ngân quỹ quốc gia, giáo dục, y tế, xây dựng đời sống mới Đã có 2,5 triệu người biết chữ sau
Cách mạng

Đảng ta rất coi trọng, quan tâm lãnh đạo việc xây dựng lực lượng vũ trang

+ Chính phủ ra sắc lệnh giải tán hai đảng phản động Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng và Đại Việt
Quốc dân Đảng nhằm trấn áp bọn phản cách mạng

+ Ra sắc lệnh an trí những người nguy hiểm chống chế độ mới, sắc lệnh lập toàn án quân sự
trừng trị bọn phản động

Đảng chỉ đạo tích cực phát triển các đoàn thể cứu quốc và thống nhất những tổ chức ấy trong
toàn quốc, sửa lại điều lệ các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới, tổ chức thêm
những đoàn thể cứu quốc mới Đông đảo các trí thức, quan lại trong chế độ cũ, các công, thương
gia cũng hăng hái tham gia sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhấn mạnh việc giữ gìn bộ máy nhà nước trong sạch trong những
ngày đầu Cách mạng thành công Người chỉ rõ: “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho
đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để
đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”, Người còn nhấn mạnh: nếu
nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì

Tổ chức kháng chiến ở miền Nam:

Khi TD Pháp đánh chiếm Nam Bộ, Trung ương Đảng đã cử đồng chí Hoàng Quốc Việt vào Nam
để cùng Đảng bộ Nam Bộ chỉ đạo kháng chiến Đảng bộ Nam Bộ đã có những quyết định quan
trọng lãnh đạo nhân dân kháng chiến, nắm chắc lực lượng vũ trang, thành lập Ủy ban kháng
chiến, tăng cường công tác trừ gian, xây dựng lại cơ sở trong các đô thị bị tạm chiếm, phát triển
chiến tranh nhân dân, khôi phục chính quyền cách mạng những nơi bị tan rã

Đảng ta phát động phong trào cả nước ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ Trong
một thời gian ngắn, hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ đã có những chi đội (ngang với trung
đoàn) Nam tiến, lên đường vào Nam giết giặc

Thực hiện sách lược hòa hoãn, tranh thủ thời gian chuẩn bị toàn quốc kháng chiến

Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng

Đứng trước tình thế dân tộc ta phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, trong khi sức mạnh quân
sự, chính trị, kinh tế của chúng ta còn hạn chế, Đảng và Hồ Chủ tịch đã xác định: quân Tưởng ra
sức thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng song kẻ
thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng

Cho nên muốn tập trung lực lượng chống Pháp, cần phải nhân nhượng, hòa hoãn với quân
Tưởng để có thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt và chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng
chiến toàn quốc có thể xảy ra

Ngày 11/11/1945, Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán nhưng sự thật là rút vào hoạt động bí mật để
làm mất mục tiêu quất rối của kẻ thù Đảng vẫn lãnh đạo chính quyền và Mặt trận Việt Minh

Đảng đánh giá quân Tưởng tuy đông nhưng có mâu thuẫn nội bộ và có nhiều khó khăn khác
Quân Tưởng tuy không thể không hợp tác với chính quyền ta nhưng chúng vẫn tìm mọi cách gây
rối, khiêu khích, đòi đưa tay chân là các đảng phái phản động vào chính quyền của ta

Trong quan hệ với quân Tưởng, Đảng nắm vững chủ trương “thêm bạn bớt thù” trên cơ sở phát
huy thực lực của ta
Chính quyền ta hợp tác tích cực với quân Tưởng trong việc giải giáp quân đội Nhật và tự kiềm
chế trước những hành động khiêu khích của quân Tưởng, tránh để xảy ra xung đột về quân sự
Chính quyền và nhân dân ta tuy còn gặp muôn vàn khó khăn nhưng đã cung cấp cho lương thực,
thực phẩm cho 20 vạn quân Tưởng

Về chính trị, Đảng và Chính phủ ta đã có nhiều hành động đáp ứng những yêu cầu của quân
Tưởng:

+ Chủ động mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 18
thành viên, trong đó có đại biểu của hai đảng Việt Quốc, Việt Cách

+ Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, đã chính thức thông qua Chính phủ liên hiệp và chấp
nhận 70 ghế trong Quốc hội của Việt Quốc, Việt Cách không qua bầu cử, nâng tổng số đại biểu
Quốc hội lên 403 người

Như vậy, Đảng và Hồ Chủ tịch đã có sự mềm dẻo về sách lược nhưng giữ vững nguyên tắc:

+ Nắm chắc vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững chính quyền cách mạng, giữ vững mục tiêu độc
lập, thống nhất đất nước, không để kẻ thù nắm quần chúng

+ Trừng trị nghiêm khắc những tên đầu sỏ phản cách mạng

Sách lược trên đã làm thất bại âm mưu của quân Tưởng muốn tiêu diệt chính quyền nhân dân,
bảo đảm cho nhân dân ta tập trung sức kháng chiến chống xâm lược của Pháp ở miền Nam
Chính quyền nhân dân không những được giữ vững mà còn được củng cố về mọi mặt

Tạm hòa hoãn với thực dân Pháp, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc

Đầu năm 1946, Chính phủ mới ở Pháp đứng trước tình hình kiệt quệ về kinh tế, không ổn định
về chính trị Ở Việt Nam, quân Pháp vấp phải sự kháng cự của nhân dân ta ở miền Nam

Vì vậy, Chính phủ Pháp mưu tính kế hoạch mua bán quyền lợi với Anh, Mỹ và Tưởng để được
thay chân quân Anh ở miền Nam và đưa quân ra miền Bắc Việt Nam để thay quân Tưởng

Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa-Pháp (còn gọi là Hiệp ước Trùng Khánh) được ký kết

+ Pháp nhân nhượng một số quyền lợi kinh tế cho chính quyền Tưởng ở Trung Quốc để Pháp
được đưa quân ra miền Bắc Việt Nam

+ Tưởng nhân nhượng với Pháp để rút quân về nước đối phó với Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc

Trước tình hình có sự thay đổi đó, ngày 3/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảngra Chỉ thị
Tình hình và chủ trương

Trung ương Đảng đề ra chủ trương mới: nhân nhượng, hòa hoãn với Pháp để cho Pháp đưa quân
vào miền Bắc nhằm đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm, tận dụng khả
năng hòa bình để xây dựng lực lượng cách mạng về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới

Chỉ thị nêu rõ: “Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh Vấn đề là biết mình
biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ
trương cho đúng” 4

Chỉ thị nhấn mạnh lập trường của Đảng ta: Nếu Pháp chỉ thừa nhận quyền tự trị của Việt Nam
thì nhất định đánh, nếu Pháp công nhận quyền tự chủ thì có thể hòa

Theo chủ trương mới của Đảng, ngày 6/3/1946, Chính phủ ta ký với đại diện Chính phủ Pháp
Hiệp định sơ bộ, quy định:

+ Chính phủ Pháp công nhân Việt Nam là một quốc gia tự do có nghị viện, chính phủ, quân đội
và tài chính riêng nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp

+ Việt Nam đồng ý cho 15000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng, sau 5 năm phải rút
quân về nước

+ Hai bên đình chỉ xung đột ở miền Nam để mở cuộc đàm phán đi đến ký kết hiệp định chính
thức

Ngày 9/3/1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hòa để tiến Chỉ thị phân

tích chủ trương hòa hoãn với Pháp đề:

+ Tránh tình thế bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động,
chúng sẽ đúc thành một khối và được bọn đế quốc Anh, Mỹ giúp sức để đánh ta…

+ Bảo toàn thực lực giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được, chấn
chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào Tóm lại để chuẩn bị
đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới

Chỉ thị Tình hình và chủ trương và Chỉ thị Hòa để tiến là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
hết sức đúng đắn, nhạy bén phù hợp với sự chuyển biến của tình hình đất nước, ứng phó kịp thời
và có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù

Tận dụng khả năng hòa hoãn, chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn
quốc

Tình hình đất nước sau Hiệp định sơ bộ còn nhiều phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải lãnh đạo nhân
dân thống nhất ý chí, hành động trên hai phương diện: đấu tranh ngoại giao và đấu tranh chính
trị với Pháp

Cuối tháng 3/1946, Chính phủ Pháp phải thỏa thuận: Quốc hội Việt Nam cử một phái đoàn sang
Pháp và Pháp cử một phái đoàn sang Việt Nam để chuẩn bị điều kiện cho việc ký Hiệp định
chính thức ở Paris

Ngày 19/4/1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt được tiến hành để chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính
thức tại Pháp Hội nghị thảo luận ba vấn đề:

+ Những mối liên hệ ngoại giao của Việt Nam

+ Chế độ tương lai của Đông Dương

+ Quyền lợi văn hóa của người Pháp ở Việt Nam

Quan điểm của Đảng và nhân dân ta là:

+ Nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia sẻ, ba kỳ phải theo chung một chế độ cộng
hòa dân chủ

+ Nước Việt Nam là một nước tự chủ, có Chính phủ riêng tổ chức theo đúng Hiến pháp, có nghị
viện riêng, tổ chức theo lối phổ thông tuyển cử

+ Có quân đội riêng dưới quyền chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh

+ Có tài chính riêng, có ngân hàng quốc gia, có quyền phát hành giấy bạc, thuế quan độc lập

+ Có quyền ngoại giao trực tiếp với nước ngoài, gửi đại sứ hoặc lãnh sự đến các nước khác và gia
nhập Liên hợp quốc

+ Quân đội Pháp ở Đông Dương trên vĩ tuyến 16 hay dưới vĩ tuyến 16 phải có giới hạn về số lượng
và sau 5 năm phải rút quân và chỉ được đóng ở một số hải cảng

Phía Pháp ngoan cố giữ lập trường thực dân nên Hội nghị trù bị Đà Lạt bế tắc

Từ 16/4 đến 16/5/1946, Đoàn đại biểu Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm nước Pháp

Ngày 31/5/2016, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm chính thức nước Pháp theo lời mời của Chính phủ
Pháp

Cuộc đàm phán tại Fontainebleau từ 6/7 đến 10/9/1946 thất bại do thái độ ngoan cố của Pháp

Để giành thêm thời gian xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký với Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946, thỏa thuận một số điều về quan hệ kinh tế, văn hóa
giữa hai nước, đình chỉ xung đột quân sự ở miền Nam Việt Nam và sẽ tiếp tục đàm phán vào tháng
1/1947

Những hoạt động trên đất Pháp của đoàn đại biểu Việt Nam đã làm cho nhân dân Pháp hiểu và ủng
hộ nhân dân ta, làm cho dư luận quốc tế chú ý đến Việt Nam và hiểu được nguyện vọng hòa bình
tha thiết của ta

Tận dụng thời gian hòa hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt,
chủ động đối phó với khả năng chiến tranh xảy ra trên phạm vi cả nước

+ Về kinh tế: tiến hành đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lương thực để chuẩn bị hậu phương cho cuộc
kháng chiến lâu dài

+ Về quân sự: vũ trang toàn dân, xây dựng dân quân, tự vệ Ngày 22/5/1946, Vệ quốc đoàn chuyển
thành Quân đội quốc gia Việt Nam Cuối năm 1946, có 80000 bộ đội thường trực, gần 1 triệu quân
tự vệ

+ Về chính trị: Đảng xúc tiến tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc Tháng 5/1946, Hội Liên hiệp
Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) ra đời, nòng cốt là Mặt trận Việt Minh Các đoàn thể
quần chúng và đảng phái dân chủ cũng lần lượt ra đời: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
(5/1946), Đảng Xã hội Việt Nam (7/1946), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (10/1946)

Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (cuối tháng 10, đầu tháng 11/1946) đã ủy nhiệm Chủ tịch Hồ
Chí Minh thành lập Chính phủ mới và thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa

Đây là bản Hiến pháp thật sự dân chủ, xác nhận quyền và nghĩa vụ làm chủ của nhân dân

Cuối tháng 9/1946, quân Tưởng rút quân hết khỏi miền Bắc Các đảng phái thân Tưởng là Việt
Quốc, Việt Cách tan rã hoặc chạy theo quân Tưởng sang Trung Quốc

Trong khi đó, sau khi ký Tạm ước 14/9, quân Pháp vẫn ráo riết tiến công quân ta và khủng bố nhân
dân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm ở miền Bắc

Ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn kiện quan trọng Công việc khẩn cấp bây giờ

Ngày 20/11/1946, Pháp nổ súng tấn công chiềm đóng Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà
Nẵng

Đây là khởi điểm của kế hoạch mở rộng quy mô chiến tranh xâm lược trên toàn bộ đất nước ta và
Đông Dương

Khả năng hòa hoãn và giải quyết cuộc chiến tranh bằng phương pháp hòa bình không còn nữa, nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng buộc phải cầm súng kháng chiến chống xâm lược.

Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm:

Phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân, vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợitóc” và giữ
vững chính quyền nhân dân.

Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chĩa mũi nhọn cách mạng vào kẻthù chính, hòa
hoãn với kẻ thù có thể hòa hoãn.

Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân,sẵn sàng ứng
phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước.

Câu 4: Vì sao Đảng và Chính phủ ta đã quyết định phát động toàn quốc kháng chiến tháng 12 năm
1946. Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, Nhân dân Việt Nam không có con đường nào
khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 18 và 19/12/1946,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), ra quyết định lịch sử: phát
động toàn quốc kháng chiến.
Câu 5: Tổ chức và Lãnh đạo: Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra sự quan trọng của
tổ chức và lãnh đạo. Hồ Chí Minh, với tư cách là lãnh tụ tối cao của Đảng, đã đưa ra chiến lược
chiến tranh toàn diện, kết hợp cả quân đội và nhân dân, làm cho cảm giác đoàn kết và sự đồng lòng
trong toàn dân.
Chiến Lược "Đồng lòng quyết chiến": Đường lối này là sự kết hợp giữa chiến lược quân sự và chiến
lược nhân dân, nổi bật với khái niệm "dân chiến, quân đội đồng lòng." Điều này thể hiện sự kết hợp
hài hòa giữa quân và dân, tạo ra một lực lượng mạnh mẽ và bền vững.
Khả năng chịu đựng và Động viên tinh thần: Đường lối kháng chiến đã thể hiện sức mạnh tinh thần
và khả năng chịu đựng của nhân dân Việt Nam. Sự kiên trì, sự hy sinh, và lòng yêu nước đã giúp họ
vượt qua những thử thách khó khăn.
Chiến Thuật Phạm Vi Rộng: Chiến lược của Đảng đã bao gồm cả các chiến thuật từ chiến trường
lớn đến chiến trường nhỏ, từ quân đội chính trị đến đội quân dân dụng. Sự linh hoạt này giúp tối đa
hóa sức mạnh của toàn bộ xã hội và tạo ra áp lực liên tục đối với quân địch.
Quan hệ Quốc Tế và Hỗ Trợ: Đảng đã khéo léo tận dụng quan hệ quốc tế để hỗ trợ cho cuộc chiến,
từ việc tìm kiếm sự giúp đỡ từ các quốc gia bạn đồng minh đến việc tạo ra áp lực quốc tế chống lại
thực dân Pháp.
Giá Trị Cách Mạng: Đường lối này đã góp phần quan trọng vào giá trị cách mạng của Việt Nam,
bằng cách xây dựng niềm tin vào sự đoàn kết của nhân dân và quân đội. Sự hy sinh, tinh thần tự do,
và ý chí chiến đấu đã trở thành nguồn động viên cho sự phát triển của đất nước sau chiến tranh.
Câu 6: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được hiệu
quả lớn, giúp giành độc lập cho Việt Nam thông qua sự đoàn kết mạnh mẽ của quân đội và nhân dân.
Tổ chức chặt chẽ, lãnh đạo sáng tạo, chiến lược linh hoạt, và sự chịu đựng của nhân dân đã tạo ra
một cơ sở vững chắc cho sự phát triển cách mạng và giá trị cốt lõi của xã hội Việt Nam.
Câu 7: Chính Sách Nông Dân Giữa Cuộc Chiến: Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra chính sách
"đất làm ruộng, người làm chủ" để thỏa mãn nhu cầu của nông dân. Quy định này nhấn mạnh quyền
lợi của người nông dân đối với đất đai mà họ làm việc.
Chính Sách Xóa Bỏ Địa Chủ và Cải Cách Ruộng Đất: Đảng thực hiện chính sách xóa bỏ địa chủ để
loại bỏ hệ thống địa chủ phong kiến và cải cách ruộng đất để chia đất đai một cách công bằng. Các
nông dân được khuyến khích tham gia vào việc quản lý và sử dụng đất đai theo nguyên tắc cộng
đồng.
Xây Dựng Cộng Đồng Nông Dân Tự Quản Lý: Tại nhiều khu vực, các cộng đồng nông dân đã tự
quản lý đất đai, tổ chức sản xuất, và chia sẻ công việc. Điều này đã tăng cường lòng đoàn kết trong
cộng đồng và tạo ra một hệ thống sản xuất đất đai có tính công bằng.
Kết Hợp Nông Nghiệp và Chiến Tranh: Trong quá trình kháng chiến, ngoài việc giải quyết vấn đề
ruộng đất, Đảng cũng tập trung phát triển nông nghiệp nhằm đảm bảo nguồn lực cho chiến tranh và
đời sống nhân dân.
Tổng cộng, chính sách giải quyết vấn đề ruộng đất của Đảng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng
chiến đã hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, cung cấp quyền lợi cho nông dân và
tạo ra một hệ thống sản xuất đất đai ổn định.
Câu 8: Hoàn Cảnh Lịch Sử gồm:
Bối Cảnh Toàn Cầu: Đảng Lao động Việt Nam được thành lập trong bối cảnh thế giới đang chịu ảnh
hưởng của Cách mạng Xã hội ở Nga và những biến cố toàn cầu sau Chiến tranh Thế giới I.
Tình Hình Việt Nam: Việt Nam là một nước thuộc địa, bị áp bức và chia cắt dưới sự chiếm đóng của
thực dân Pháp. Nền kinh tế và xã hội gặp nhiều khó khăn, nhân dân phải chịu đựng gánh nặng của
chế độ thuộc địa và phong kiến.
Nội dụng Chính Cương Đảng Lao Động Việt Nam:
Chủ Nghĩa Marx - Lenin: Đảng Lao động Việt Nam hình thành với tư tưởng cơ bản là chủ nghĩa
Marx - Lenin, tập trung vào việc giải phóng giai cấp công nhân và nông dân từ ách đô hộ và thực
dân.
Mục Tiêu Độc Lập Dân Tộc: Chính cương Đảng nhấn mạnh mục tiêu lớn là độc lập dân tộc, giành
quyền tự do cho nhân dân Việt Nam khỏi sự chi phối của thực dân Pháp.
Chiến Lược Đồng Chính Thức và Nhân Dân: Đảng xây dựng chiến lược cách mạng "đồng chính
thức và nhân dân," kết hợp sức mạnh của cả quân và dân để đánh bại thực dân và tạo ra một xã hội
công bằng.
Lập Hiến Nghị Định Trên Cơ Sở Tự Chủ Dân Tộc: Tài liệu đặt ra nguyên tắc tự chủ dân tộc và lập
hiến nghị định theo lối tự chủ, đòi hỏi nhân dân Việt Nam tự quản lý chính mình.
Liên Kết Quốc Tế: Đảng Lao động Việt Nam xác định tầm quan trọng của việc xây dựng liên kết
quốc tế để hỗ trợ cuộc chiến tranh giành độc lập và cách mạng ở Việt Nam.
Sự Nghiệp Xây Dựng Xã Hội Cộng Bằng: Nội dung chính cương còn thể hiện cam kết xây dựng
một xã hội công bằng, giải quyết vấn đề xã hội và kinh tế bất công.
Trong bối cảnh lịch sử khó khăn và áp bức của thực dân Pháp, Đảng Lao động Việt Nam được hình
thành với một nội dung chính cương đặt ra mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội công
bằng, tự chủ.
Câu 9:
Ý Nghĩa Lịch Sử của Cuộc Kháng Chiến Chống Pháp: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ là một dấu son chói lọi trong lịch sử hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đã phát triển thành quả của cách mạng
Tháng Tám năm 1945, là niềm tự hào chân chính của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến kết thúc
thắng lợi, có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với nước ta và có ý nghĩa đối với phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc trên thế giới.
Đối với nước ta, cuộc kháng chiến của nhân dân ta thắng lợi đã buộc Pháp phải công nhận độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương, âm mưu kéo dài và mở rộng
chiến tranh Đông Dương của Pháp – Mĩ thất bại hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược đã bảo vệ và phát triển những thành quả của cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm
dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ trên đất nước ta. Đồng thời, Miền Bắc
được giải phóng hoàn toàn, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện hoàn
thành triệt để cách mạng ruộng đất, xóa bỏ vĩnh viễn chế độ bóc lột của giai cấp địa chủ, phong kiến.
Cùng với đó là tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.
Đối với thế giới, tiếp theo cách mạng tháng Tám 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là
một đòn giáng mạnh mẽ vào hệ thống thực dân, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ.
Đồng thời đập tan âm mưu của đế quốc Mĩ muốn thay chân Pháp, nô dịch nhân dân các nước trên
bán đảo Đông Dương, ngăn chặn sự phát triển của phong trào cách mạng ở Đông Nam Á.
Đó là bài học kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến. Nhiệm vụ chống đế quốc
được đặt lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải được nâng dần lên từng bước cho phù hợp
với yêu cầu của nhiệm vụ chống đế quốc. Chúng ta cũng đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo đường
lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh vào từng thời điểm cụ thể của cuộc
kháng chiến.
Bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp:
Đoàn Kết Quốc Dân: Bài học quan trọng nhất từ cuộc kháng chiến chống Pháp là sức mạnh của
đoàn kết quốc dân. Sự đồng lòng của quân và dân đã tạo ra một lực lượng không thể chối cãi.
Chiến Lược Toàn Diện: Mô hình chiến lược "đồng chính thức và nhân dân" đã chứng minh tính
hiệu quả, kết hợp sức mạnh quân sự và sự hỗ trợ từ nhân dân.
Tầm Quan Trọng của Lãnh Đạo: Lãnh đạo mạnh mẽ và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc
biệt là Hồ Chí Minh, đã chói lọi trong việc hướng dẫn cuộc chiến và duy trì lòng tin của nhân dân.
Tình Thần Hy Sinh và Kiên Trì: Sự hy sinh và kiên trì của nhân dân đã làm nên chiến thắng. Bài
học này đã trở thành một phần quan trọng trong tư duy và văn hóa của người Việt Nam.
Quản Lý Tài Nguyên và Chiến Lược Quốc Tế: Cuộc kháng chiến cung cấp bài học quản lý tài
nguyên chiến lược và tận dụng hỗ trợ quốc tế để đạt được mục tiêu độc lập.
Cuộc kháng chiến chống Pháp không chỉ giúp Việt Nam giành độc lập mà còn tạo ra những bài học
sâu sắc về tinh thần đoàn kết, chiến lược, và quản lý tài nguyên mà người Việt vẫn giữ trong lòng
đất nước.
Câu 10: Đại hội lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 9 năm 1960, và nó đánh
dấu một bước quan trọng trong lịch sử phát triển của Đảng và cách mạng Việt Nam. Đại hội này đã
xác định Đường lối Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa, đồng thời phản ánh sự thích ứng của Đảng với
bối cảnh lịch sử và thách thức mới. Dưới đây là một số điểm quan trọng về nội dung Đường lối
Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa từ Đại hội lần thứ III:
Chủ Nghĩa Marx - Lenin: Đảng tiếp tục tuyên bố mình theo chủ nghĩa Marx - Lenin, là cơ sở lý luận
cho đường lối cách mạng, với mục tiêu giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội cộng bằng.
Nông Dân Làm Chủ: Đặc điểm quan trọng của Đường lối Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa là chấm dứt
chính sách tập trung sản xuất và áp đặt lên nông dân, chuyển sang việc tạo điều kiện cho nông dân
tự quản lý sản xuất.
Cải Cách Nông Nghiệp và Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa: Đảng cam kết thực hiện cải cách nông
nghiệp để nâng cao sản xuất và đời sống nông dân, từ đó tạo nền tảng cho việc xây dựng xã hội chủ
nghĩa.
Quản Lý Nhà Nước: Đảng nhấn mạnh về việc xây dựng một hệ thống quản lý nhà nước mới, có sự
tham gia tích cực của nhân dân, theo nguyên tắc từ dưới lên.
Chống Thất Truyền và Xây Dựng Quân Đội Nhân Dân: Đảng tập trung vào công tác chống thất
truyền và tăng cường xây dựng quân đội nhân dân, đảm bảo an ninh quốc gia và sự ổn định trong
nước.
Quan Hệ Quốc Tế: Đảng nhấn mạnh mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là việc xây dựng liên minh với
các quốc gia có chủ nghĩa xã hội và cách mạng.
Phát Triển Kinh Tế: Đề xuất một chiến lược phát triển kinh tế cụ thể để đảm bảo sự đa dạng hóa và
làm mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam.
Câu 11: Đại hội III (9/1960) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc với các điểm chính:
Nông Dân Làm Chủ: Chấm dứt chính sách tập trung sản xuất và áp đặt lên nông dân. Thay vào đó,
tạo điều kiện cho nông dân tự quản lý sản xuất và đất đai.
Cải Cách Nông Nghiệp: Thực hiện cải cách nông nghiệp để nâng cao chất lượng và hiệu suất sản
xuất. Sử dụng kỹ thuật mới và công nghệ tiên tiến.
Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa: Hình thành hệ thống quản lý nhà nước mới, có sự tham gia tích cực
của nhân dân, dựa trên nguyên tắc từ dưới lên.
Chống Thất Truyền và Xây Dựng Quân Đội Nhân Dân: Tăng cường công tác chống thất truyền và
xây dựng quân đội nhân dân mạnh mẽ để bảo vệ an ninh quốc gia.
Quan Hệ Quốc Tế và Liên Kết Cách Mạng: Tăng cường quan hệ quốc tế và xây dựng liên minh với
các quốc gia có chủ nghĩa xã hội và cách mạng trên thế giới.
Phát Triển Kinh Tế: Đề xuất chiến lược phát triển kinh tế đa dạng, tập trung vào sản xuất và công
nghiệp để nâng cao đời sống nhân dân.
Nền Giáo Dục và Văn Hóa: Tăng cường phát triển giáo dục và văn hóa, đặt nền tảng cho sự phát
triển toàn diện của xã hội.
Đường lối này rõ ràng thể hiện sự chuyển đổi từ mô hình tập trung và quản lý trên cơ sở quốc gia
sang mô hình tạo điều kiện cho sự tự quản lý và đồng chủ nghĩa của nhân dân, đồng thời nhấn mạnh
vào các khía cạnh quan trọng của phát triển kinh tế và xã hội.
Câu 12:
Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ ở miền Nam (Nam Việt Nam) trong thời kỳ
Chiến tranh Việt Nam (1955-1975) được Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo và đối phó theo nhiều
cách khác nhau. Dưới đây là một số điểm chính về cách Đảng chỉ đạo đánh thắng chiến lược này:
Tổ Chức Bí Mật: Đảng tăng cường tổ chức bí mật và lực lượng quân sự trong cộng đồng dân cư để
tiếp nhận và hỗ trợ các chiến sĩ "quân và dân" tham gia chiến tranh đặc biệt.
Giao Thông Đường Sông: Sử dụng các tuyến giao thông đường sông để vận chuyển và cung ứng
lực lượng, vũ khí, và hậu cần, đồng thời phòng thủ chặt chẽ để ngăn chặn sự xâm nhập của quân
địch.
Quân Dân Dụng và Quân Quốc Dân: Tận dụng sự tham gia của quân dân dụng và quân quốc dân,
kết hợp với lực lượng quân đội chính trực, tạo ra mô hình "quân và dân" tham gia vào chiến tranh.
Hậu Cần và Y Tế: Xây dựng hệ thống hậu cần và y tế linh hoạt, chăm sóc cho các chiến sĩ và nhân
dân, giữ cho lực lượng chiến đấu luôn trong tình trạng tốt nhất.
Giao Thiết Bị và Vũ Khí: Sử dụng các kỹ thuật giao thiết bị và vũ khí nhỏ gọn để tránh sự phát hiện
của quân địch, đồng thời tăng cường khả năng tấn công và thoát hiểm.
Tiếp Nhận Hỗ Trợ Quốc Tế: Tìm kiếm và tiếp nhận hỗ trợ quốc tế, đặc biệt từ các quốc gia ủng hộ
cách mạng, để nâng cao khả năng chiến đấu và phòng thủ.
Phản Tác Động Tâm Lý: Mục tiêu là tạo ra các chiến công đặc biệt để làm yếu đối tác địch, gây áp
lực tâm lý và giữ cho quân địch không an tâm trong việc kiểm soát vùng lãnh thổ.
Kết Hợp Chiến Lược Quân Sự và Dân Chủ: Kết hợp chiến lược quân sự với chiến lược dân chủ, tạo
điều kiện cho sự tham gia tích cực của nhân dân trong cuộc chiến tranh, từ việc bảo vệ làng xóm
đến cung ứng thông tin tình báo.

Bằng cách thức này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt" một
cách hiệu quả, đạt được sự đoàn kết cao trong nhân dân và gây nhiều khó khăn cho chiến lược quân
sự của đế quốc Mỹ ở miền Nam.

CHƯƠNG 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN HÀNH
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY)

Câu 10: Những nội dung mới trong chỉ đạo công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng được nêu tại
Đại hội VIII là gì ?

Một là, Nghị quyết Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 đã nêu rõ thực trạng giáo dục - đào tạo ở nước ta trong
thời gian qua; vạch rõ định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; nhiệm vụ và mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2000; những
giải pháp chủ yếu và phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục - đào tạo.

Hai là, Nghị quyết Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 đã đánh giá thực trạng khoa học và công nghệ;
nêu ra định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá; mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2000; những giải
pháp chủ yếu và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và công nghệ.

Câu 11: Làm rõ chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc trong Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa VIII (7/1998).

Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm 1998, đã ra Nghị
quyết chuyên đề về: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", xác định những
quan điểm cơ bản:

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Quan điểm chỉ rõ vai trò to lớn của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và
tương lai đất nước. văn hóa không phải là kết quả thụ động, yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc
đi sau kinh tế, phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là mục tiêu, vừa
động lực thúc đẩy kinh tế. “Văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ
con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp".

Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến
là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển
phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng,
giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa
tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống;
dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm …

Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Đây là tư tưởng tiến bộ và nhân văn, phù hợp với thực tiễn của cộng đồng 54 dân tộc
đang sinh sống ở Việt Nam và xu thế chung của cộng đồng quốc tế đang hướng tới xây dựng một
công ước quốc tế về đa dạng văn hóa hiện nay.

Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm xác định trách nhiệm của mọi người dân Việt Nam
đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà; công nhân, nông dân, trí thức là
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân, giữ vai
trò quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.

Năm là, văn hóa là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Quan điểm chỉ rõ: Cuộc đấu tranh giai
cấp trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa hiện nay đang diễn ra hết sức nóng bỏng, quyết liệt, phức tạp.
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và khác với các hoạt động kinh tế. Tuy không trực tiếp
tạo ra của cải vật chất, nhưng các hoạt động văn hóa luôn mang ý nghĩa chính trị - xã hội, có tác
động sâu sắc đối với đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm lý, tập quán cộng đồng. Vì vậy, cần phải tiến
hành một cách kiên trì, thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, duy ý chí; phát huy tinh thần tự nguyện,
tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong xây dựng và phát triển văn hóa; đẩy mạnh
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ
đời sống và hoạt động của xã hội, vào từng con người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng,
cũng như mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người trong xã hội.

Câu 12: Làm rõ nhận thức mới của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Mô hình CNXH nêu trên thể hiện quan điểm Mác - Lê-nin về CNXH. Một mặt, lấy phục vụ con
người làm mục đích, tức là "tất cả vì con người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con
người làm động lực chủ yếu để xây dựng thành công CNXH, tức là "tất cả do con người". Ðồng thời,
mô hình trên cũng thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH. Mô hình ấy biểu
hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó không phải là một mô hình khép kín và cứng
nhắc. Mô hình CNXH thời kỳ đổi mới ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ
sung những nét mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn
phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và
cái riêng để tạo nên một mô hình có tên gọi: mô hình CNXH Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn
kết hợp lý tiến trình phát triển của CNXH với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía
trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công CNXH.
Thực tế 24 năm qua đã chứng minh, với mô hình này, chúng ta đã thu được những thành tựu, to lớn,
có ý nghĩa lịch sử. Thời điểm hiện nay đã có yêu cầu bức thiết và những điều kiện cơ bản đã chín
muồi cho việc bổ sung phát triển Cương lĩnh trong đó có mô hình CNXH của nước ta.

Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Ðảng về con đường quá độ lên CNXH của nước ta có
những đổi mới sâu sắc. Nếu trước đây thường nói, nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa", thì từ Ðại hội lần thứ IX trong các văn kiện chính thức của Ðảng, Nhà nước
diễn đạt là: Nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa".

Việc "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" được giải thích rõ về hai phương diện: Thứ nhất, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa". Thứ hai, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần "tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học-công
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại".

Câu 13: Đặc điểm của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được nêu trong Đại
hội IX (4/2001) là gì ? Làm rõ về nội dung tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong mô hình kinh tế
trên.

Đại hội chỉ rõ, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là vấn đề
có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
“sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học
và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh
vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”. Phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nội dung cơ bản của đường lối phát triển kinh tế trong thời kỳ mới là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với
phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường quốc phòng - an ninh” Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung
tâm; thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; tiếp tục tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước; giải quyết tốt các vấn
đề xã hội.

Gắn liền với toàn bộ công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc
phòng và an ninh, cần phải ra sức chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Đó là nhiệm vụ then
chốt, là cội nguồn thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.

Câu 14: Tại sao Đảng chủ trương trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức ?

Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở mức độ nhiều hay ít. Kinh tế
nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác,
chăn nuôi, thời tiết... tức là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai, lao động
thủ công lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.

Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng phát triển và bắt đầu suy
thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa
thường xuyên... Trong bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát
triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong phú về thế giới vật
chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Lực lượng sản xuất mới được hình
thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông
minh mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người.

Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một hình thái kinh tế mới. Đó là
một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào
ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các
ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi này hiện nay đã
trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh
tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ
vai trò thứ yếu.

Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là động vật duy nhất có năng lực
sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính.
Bởi vậy, kinh tế tri thức là một lịch sử tất yếu.

Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa trên những tri thức sáng
tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại
hoàn toàn mới, gọi là máy móc thông minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng được những
chức năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất phức tạp, biết thực
hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số việc..., đóng vai trò chính trong các hệ tự
động hóa toàn phần của sản xuất và trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết
hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ thông tin hoặc
công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong
đó công nghệ thông tin và truyền thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của
lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã thúc đẩy hình thành
nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.

Câu 15: Làm rõ phương châm đối ngoại của Đảng: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Về đối ngoại, Đại hội XIII khẳng định "bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc", tức là đặt lợi
ích quốc gia- dân tộc lên trước hết và trên hết; đồng thời, chỉ ra nguyên tắc chung là phải luôn nỗ
lực đạt được lợi ích quốc gia- dân tộc tới mức cao nhất có thể. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-
dân tộc không có nghĩa nước ta theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ. Đại hội XIII nhấn mạnh thúc đẩy lợi
ích quốc gia- dân tộc phải "trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi", cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Trong giai đoạn hiện nay, lợi ích quốc gia- dân tộc cao nhẩt là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bên cạnh
đó, Đại hội XIII bổ sung bảo đảm an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xã hội trật tự,
kỷ cương cũng là những lợi ích quan trọng của quốc gia- dân tộc. Các thành tố nói trên có quan hệ
chặt chẽ, tương hỗ và thống nhất với nhau, không thể coi nhẹ thành tố nào, đồng thời là căn cứ quan
trọng nhất để xác định đối tác- đối tượng, hợp tác- đấu tranh trong đối ngoại, là "bất biến" để ứng
phó với tình hình diễn biến nhanh, phức tạp.

Câu 16: Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011).

- Nhận thức rõ hơn về mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định xã hội xã hội chủ nghĩa có 8 đặc
trưng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Tám
đặc trưng trên vừa mang giá trị, ý nguyện và khát vọng của dân tộc Việt Nam, vừa mang giá trị phổ
quát của nhân loại và tầm nhìn của thời đại.

- Xác định rõ hơn phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Gần 10 năm qua, Đại hội XII và nhiều nghị quyết của Đảng đã tiếp tục cụ thể hóa, phát triển các
phương hướng cơ bản được nêu trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).

Tiếp tục nhận thức công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách toàn diện hơn: công nghiệp hóa
gắn hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, tức là phù hợp xu
thế phát triển của nhân loại; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quản lý, sử dụng có hiệu quả tài
nguyên, bảo vệ môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các nước đi trước đã
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là phù hợp với thực tế Việt Nam.

Xác định rõ hơn phương hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Tiếp tục
hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; phát
triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế; nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.

Phương hướng xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng như mối liên hệ giữa xây
dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được xác định rõ hơn. Tư duy lý luận về vai trò của văn hóa đối
với phát triển bền vững được khẳng định, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu và động lực của phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sức mạnh nội
sinh của phát triển bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
biệt là văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị; tư duy bước đầu về xây
dựng hệ giá trị chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, chủ động hội nhập
quốc tế; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là tất yếu chính trị.

- Xác định được các mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Trong quá trình thực hiện các phương
hướng cơ bản, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa
đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...

Gần 10 năm qua, Đại hội XII đã bổ sung mối quan hệ giữa “Nhà nước và thị trường”, đến Nghị
quyết Trung ương 5 khóa XII đã phát triển thành mối quan hệ “giữa Nhà nước -thị trường và xã hội”;
đã điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành mối quan
hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời cụ
thể hóa nội dung các mối quan hệ lớn.

Câu 17: Làm rõ những điểm mới về đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) so với Cương
lĩnh 1991.

Về đặc trưng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”: Đây là đặc trưng bao quát
những nội dung cơ bản nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Các đặc trưng
khác chỉ là xác định những mặt, những lĩnh vực cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa như: nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế, nền văn hoá, con người, vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhà nước, quan hệ
đối ngoại… trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đặc trưng này cần phải thể hiện được sự khác biệt
và tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội trước đây. Trong dự thảo
Cương lĩnh nêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã thể hiện khá rõ bản chất
của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, nhưng theo tôi cần bổ sung thêm “nhân ái” vào đặc
trưng này làm nổi lên bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Một xã hội mà nhân dân được làm chủ,
được đối xử công bằng, được sống trong một môi trường văn minh nhưng thiếu tình yêu thương
giữa con người với con người, thiếu lòng nhân ái vị tha, khoan dung, thiếu trách nhiệm với đồng
loại, thiếu tình yêu đối với thiên nhiên… thì chưa phải là xã hội xã hội chủ nghĩa. Các khái niệm:
dân chủ, công bằng, văn minh mặc dù ở khía cạnh nào đó đã thể hiện được những nội dung trên
nhưng không thể thay thế được khái niệm “nhân ái”, bởi vì chủ nghĩa nhân đạo, lòng nhân ái đó là
nội dung cốt lõi, là ước mơ hàng ngàn đời của nhân loại được thể hiện trong tư tưởng, học thuyết
của các nhà tư tưởng tiến bộ, các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng từ thời cổ đại đến cận đại và
được Mác, Ăngghen, Lênin kế thừa, chọn lọc, tiếp thu xây dựng thành học thuyết chủ nghĩa xã hội
khoa học, trong đó điều cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin như Bác Hồ kính yêu đã lĩnh hội được và
chỉ dạy cho cán bộ, đảng viên: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa.
Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác-Lênin được”. Vì vậy, cần phải bổ sung khái niệm “nhân ái” để nhấn mạnh đặc trưng bao trùm
của chủ nghĩa xã hội thành mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta hướng tới.

Về đặc trưng: “Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”: Đặc trưng này thể hiện mặt đời
sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội; thể hiện mối quan hệ biện chứng, sự kết hợp hài hoà giữa cái
truyền thống và cái hiện đại, giữa giá trị bản sắc dân tộc với những giá trị văn hoá tinh hoa, tinh tuý
của nhân loại trong nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đặc trưng cốt lõi của chủ nghĩa xã hội
là xã hội nhân đạo, vì con người, lấy giải phóng con người là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ngoài những đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì cần phải
nhấn mạnh một đặc trưng rất nhân đạo, rất chủ nghĩa xã hội đó là nền văn hoá thấm đậm tính nhân
văn (bản thân khái niệm tiên tiến khía cạnh nào đó đã bao hàm nhân văn, nhưng không phải cái gì
tiên tiến cũng là nhân văn; bản sắc dân tộc cũng bao hàm tính nhân văn nhưng không bao quát hết
và không thay thế được khái niệm nhân văn). Như vậy theo tôi, cần bổ sung và diễn đạt lại đặc
trưng này thành: “Có một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thấm đậm tính nhân văn”.

Về đặc trưng: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”:
Đặc trưng này thể hiện về tiêu chí con người trong chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên trong đặc trưng này
mới chỉ thể hiện được những điều kiện để con người phát triển như: có cuộc sống ấm no, được tự do,
có hạnh phúc và các điều kiện khác để phát triển toàn diện. Trong đặc trưng này chưa phác hoạ
được những đặc trưng bản chất của con người trong chủ nghĩa xã hội như thế nào. Trong quá trình
cách mạng Việt Nam, vấn đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được đặt ra từ rất sớm. Bác Hồ
kính yêu đã nhiều lần chỉ dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ
nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa là phải đi đến hoàn toàn không có chủ nghĩa cá nhân. Trong đầu
óc mọi người đều có sự đấu tranh giữa cái “thiện” và cái “ác”, hoặc nói theo cách mới là đấu tranh
giữa tư tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân”. Trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã khẳng định vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa và đã nêu lên một số đặc trưng của con người mới…. Vì vậy trong Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) lần này cần bổ sung thêm đặc trưng bản chất của con người xã hội chủ nghĩa để lấy
đó làm chuẩn giá trị, làm mục tiêu để xây dựng con người mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Theo tôi, con người xã hội chủ nghĩa phải là con người có ý chí vươn lên, ý thức tự giác, có
tấm lòng vị tha, khoan dung, nhân hậu, có tinh thần trách nhiệm cao với cộng đồng, với Tổ quốc,
đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân-có nghĩa là bản thân
con người xã hội chủ nghĩa đã gột sạch chủ nghĩa cá nhân. Nói tóm lại là: có ý thức tự giác, tính
nhân đạo, tinh thần trách nhiệm cao, hết lòng vì cộng đồng.

Câu 18: Làm rõ những quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong Nghị quyết Hội nghi TW lần thứ 9
(5-2014).

Đảng ta đưa ra 5 quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước;
văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan điểm này được khẳng định
trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so với
kinh tế, chính trị, hạn chế được hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình
trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Quan điểm này thể hiện mô hình hài hòa giữa đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất
với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.

Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển
văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt lõi, trọng tâm của việc xây dựng nền văn
hóa đó là xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người bởi lẽ. Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, vì nếu không xác định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hoàn
thiện con người thì dẫn đến nguy cơ xa rời bản chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người.
Con người là chủ thể sáng tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo
ra nên nhân cách con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì thế,
xây dựng nhân cách con người đứng vững trước những khó khăn, thách thức của kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ trọng của văn hóa Việt Nam hiện
nay.

Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng;
phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong
phát triển kinh tế. Quan điểm này xác định trọng tâm của xây dựng môi trường văn hóa là xây dựng
gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa.

Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này đã khẳng
định các chủ thể trọng yếu có vai trò to lớn, là nguồn lực và động lực để xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Nhìn một cách tổng quát, 5 quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ
thể, cấp bách của Đảng ta nhằm định hướng cho quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người
Việt Nam. Các quan điểm này đã phản ánh một bước phát triển mới về tư duy lý luận văn hóa của
Đảng. Nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận thể hiện tập trung ở các quan điểm
này sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn của chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn.
Câu 19: Làm rõ phương châm đối ngoại của Đảng được nêu trong Đại hội XI (1/2011) là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” . Cùng
với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc
là cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các
lợi ích đó.

Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ trong phần đối ngoại của
Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Nói như vậy không có nghĩa Đảng ta chưa từng
xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Từ khi Đảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân
tộc luôn luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng
định “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung
sức xây dựng và phát triển kinh tế” . Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh “bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc” là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc .

Thứ hai, về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác
đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước;
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới” . Phục vụ các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất nước là nhiệm vụ
nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Điểm mới trong phần đối ngoại
của văn kiện Đại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh an ninh khi nêu rõ nhiệm vụ “bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ luôn luôn là một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu rõ điều này trong
nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai
trò của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước.

Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại, tái khẳng định các
nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới, Đại hội XI nêu: “bảo đảm lợi ích
quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”. Bên cạnh những nguyên tắc
nhất quán này, văn kiện Đại hội XI, phần định hướng giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới,
lãnh thổ, ranh giới trên biển và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết
các vấn đề tồn tại trên cơ sở các “nguyên tắc ứng xử của khu vực”.

Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Đại hội khẳng định: thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại hội XI là
“hội nhập quốc tế” và “thành viên có trách nhiệm”.
Về hội nhập quốc tế, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được thông qua tại Đại hội X sang
“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” . Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp
trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh
và văn hóa-xã hội....

Thứ năm, về định hướng đối ngoại, bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt
động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, Đại hội XI nêu định hướng
về: giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ; ưu tiên đối tác và định hướng quan hệ
ASEAN; đối ngoại Đảng; ngoại giao nhân dân và; định hướng tổ chức thực hiện. Về đối ngoại quốc
phòng, an ninh, Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh”, “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, song phương và đa phương vì lợi ích quốc
gia và trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc” . Với
định hướng này, đối ngoại quốc phòng, an ninh sẽ tiếp tục phát triển và có vai trò ngày càng quan
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bối
cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.

Thứ sáu, về triển khai các hoạt động đối ngoại, Đại hội XI nêu: “Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt
động đối ngoại”. Khi hội nhập quốc tế mở ra tất cả các lĩnh vực thì việc triển khai đối ngoại tất yếu
phải toàn diện và để các hoạt động này không chồng chéo, không triệt tiêu lẫn nhau thì việc triển
khai phải được thực hiện đồng bộ. Tính toàn diện của đối ngoại Việt Nam được quy định bởi sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối
ngoại; tính toàn diện trong mục tiêu của chính sách đối ngoại và; sự đa dạng của các mối quan hệ
đối ngoại trong quá trình hội nhập.

Triển khai đồng bộ và toàn diện các hoạt động đối ngoại, nói cách khác là xây dựng một nền đối
ngoại toàn diện, sẽ tạo nên xung lực tổng hợp của các lĩnh vực, các loại hình, các kênh đối ngoại,
nhưng cũng tạo nên một số thách thức mới. Nếu không có kế hoạch tổng thể và nếu không có sự chỉ
đạo thống nhất và phối hợp nhịp nhàng giữa các kênh, các lĩnh vực đối ngoại thì sẽ dẫn đến lãng phí
nguồn lực và làm suy giảm hiệu quả của các hoạt động đối ngoại.

Câu 20: Từ thực tiễn xây dựng đất nước, hãy làm rõ chủ trương tiếp tục đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền
vững được nêu trong Đại hội XII (1/2016).

Văn kiện Đại hội XII đã nêu phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ tới, trong đó có những điểm mới như sau:

Tiếp tục thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có giá trị định
hướng, cần được tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội XII đã có bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh".

Văn kiện Đại hội cũng đã nêu khái quát những nội dung quan trọng về các bộ phận cấu thành, vai
trò của thị trường, vai trò của Nhà nước, vai trò của nhân dân và mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: "Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng
vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu
để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ,
chính sách, các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội”

Câu 21: Đại hội XII (1/2016) chủ trương “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo
thuận lợi phát triển của kinh tế tư nhân …, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh
tế”. Phân tích chủ trương của Đảng và đánh giá sự đóng góp của kinh tế tư nhân đối với sự phát
triển kinh tế Việt Nam.

Đại hội yêu cầu phải: "Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở
tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Tiếp tục
hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận
hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ nguồn lực cho sản xuất kinh
doanh và quản lý giá phải theo cơ chế thị trường. Đồng thời, Nhà nước sử dụng thể chế, nguồn lực,
công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân
chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã
hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”

Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển
mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp
khỏi nghiệp. Khuyến khích hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào
các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình
độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối
với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong
chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Khuyến
khích thành lập các trung tâm nghiên cứu - triển khai của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.

Kinh tế tư nhân có vai trò là “động lực quan trọng của nền kinh tế”, sẽ có cuộc cách mạng mới về tư
duy, thống nhất tư tưởng, nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị, cũng như toàn xã hội về
việc hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh.
Bởi, kinh tế tư nhân với tư cách là “một động lực quan trọng”, thì về mặt cơ chế, chính sách, pháp
luật của Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để phát huy tốt nhất động lực đó. Điều này cũng đồng
nghĩa với việc phải coi phát triển kinh tế tư nhân là một bộ phận của công cuộc phát triển lực lượng
sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những
phương tiện cần được ưu tiên để đạt đến mục đích nâng cao năng suất lao động xã hội - yếu tố quyết
định sự thắng lợi của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

You might also like