Professional Documents
Culture Documents
Xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp
- Từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Chính sách
thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Dưới chính sách của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc:
giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tầng lớp tiểu tư
sản Việt Nam
Chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của Pháp đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội
Việt Nam trên 3 mặt:
+ Tính chất xã hội Việt Nam: Thay đổi từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa
nửa phong kiến.
+ Phân hóa giai cấp xã hội sâu sắc: Các giai cấp đều bị phân hóa, đặc biệt là sự ra đời
của 2 giai cấp mới: giai cấp công nhân và tư sản Việt Nam. Thực tế lịch sử đã khẳng định
chỉ có giai cấp công nhân mới có khả năng đảm đương được nhiệm vụ trước yêu cầu lịch
sử của dân tộc.
+ Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam cũng có biến đổi:
Mâu thuẫn giữa nhân dân (trong đó chủ yếu là nông dân) với địa chủ phong kiến
(mâu thuẫn giai cấp)
Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp (mâu thuẫn dân tộc). Trong
đó mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu.
- Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu để giải quyết hai mâu thuẫn:
+ Một là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân.
+ Hai là xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng
đất cho nông dân. Trong đó chống Đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
b. Khai thác thuộc địa trên các lĩnh vực:
- Về chính trị: thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng
dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố mọi
sự chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống
trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa
chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước
trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực.
- Về kinh tế: thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất
(1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là
trọng điểm. Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế: tiến hành cướp đoạt
ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công
nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ cho chính sách khai thác
thuộc địa của chúng. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự
chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới…) nhưng
cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm
trong vòng lạc hậu.
Nông dân Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần 1 (1897- 1914)
Khai thác than ở Hòn Gai (Quảng Ninh) trong cuộc khai thác thuộc địa lần 2 (1919-
1929)
- Về văn hoá: thực dân Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hoá; xoá bỏ hệ thống giáo
dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam
nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè,
hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
Những người tham gia cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1886- 1887)
Khởi nghĩa Ba Đình là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối
thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra vào năm
1886-1887 tại Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) (1884-1913): Được biết đến là cuộc đối đầu vũ
trang giữa quân Pháp với những người nông dân ly tán của vùng Thái Nguyên. Đứng
đầu cuộc khởi nghĩa này là Hoàng Hoa Thám. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu năm 1884 và kết
thúc vào năm 1913.
Khởi nghĩa Yên Thế (1884- 1913)
+ Trong giai đoạn chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) phong trào khởi nghĩa
chống Pháp vẫn liên tiếp nổ ra nhưng đều không thành công.
+ Trước chiến tranh thế giới thứ nhất: Có 3 xu hướng: xu hướng bạo động (Phan Bội
Châu); xu hướng cải lương (Phan Chu Trinh); xu hướng cải cách (Lương Văn Can).