You are on page 1of 383

Dành tặng gia đình Lewis: Melanie, Jonathan và Helen

Nhờ tiếng đàn hạc bổng trầm,

Người cao tiếng hát truyền lời của ta:

Hỡi người từ đáy bùn đen,

Đạp lên gian khó vẫn tươi với đời.

– Alfred, Lord Tennyson, In Memoriam A. H. H


MỞ ĐẦU
York, 1847.
“Con sợ,” cô bé ngồi trên giường nói. “Ông ở cùng con nhé?”

Aloysius Starkweather bực bội kêu khùng khục mấy tiếng trong họng khi kéo ghế tới bên
giường và ngồi xuống. Lão không hề bực bội như bề ngoài thể hiện. Thực ra, lão thích
được cháu gái tin tưởng, vì lão thường là người duy nhất có thể trấn an con bé. Tính cục
cằn của lão chưa từng khiến nó khó chịu, dù bản tính nó vốn mong manh yếu đuối.

“Không việc gì phải sợ hết, Adele,” lão nói. “Con sẽ thấy thôi mà.”

Cô bé ngước đôi mắt to tròn nhìn lão. Thường thì lễ nhận chữ rune đầu tiên sẽ được tổ
chức trong những căn phòng rộng rãi hơn của Học Viện York, nhưng vì Adele nhút nhát
yếu đuối nên mọi người nhất trí sẽ tổ chức nghi lễ tại phòng ngủ của cô bé. Lúc này đây,
Adele đang ngồi trên mép giường, lưng rất thẳng. Cô bé mặc đồ lễ màu đỏ, mái tóc vàng
óng được thắt ruy băng cũng màu đỏ. Mắt cô bé có phần quá lớn so với gương mặt nhỏ
nhắn, đã thế cánh tay lại xương xẩu. Ở cô bé toát ra vẻ mong manh dễ vỡ như một chiếc
cốc sứ.

“Các Tu Huynh Câm ấy,” cô bé nói. “Họ sẽ làm gì con?”

“Đưa tay cho ông,” lão nói và cô bé tin tưởng chìa tay ra. Ông lật nó lại, và trông thấy cả
những đường gân xanh nhạt dưới da. “Họ sẽ dùng thanh stele – con biết stele là gì mà –
để vẽ một Ấn Ký cho con. Thường thì người ta sẽ bắt đầu bằng chữ rune Voyance, sau
này con sẽ được học về nó, nhưng trong trường hợp của con, họ sẽ vẽ chữ rune Sức mạnh
trước.”

“Vì con không mạnh khỏe.”

“Để thể chất của con được tốt hơn.”

“Thế có vẻ giống nước xuýt thịt bò.” Adele chun mũi.

Lão cười. “Mong là không khó chịu như vậy. Con sẽ thấy đau nhói như bị kiến cắn,
nhưng con phải dũng cảm và không được khóc, vì Thợ Săn Bóng Tối không khóc vì đau.
Rồi cảm giác ấy sẽ qua, con sẽ khỏe mạnh và khá hơn nhiều. Đến lúc đó là xong buổi lễ,
chúng ta sẽ xuống nhà và cắt bánh kem ăn mừng.”

Adele huơ chân hăm hở. “Và một bữa tiệc nữa!”
“Đúng, một bữa tiệc. Và quà tặng.” Lão vỗ vỗ túi, nơi đang cất giấu một cái hộp nhỏ
được bọc giấy xanh đẹp đẽ, chứa cái nhẫn gia đình còn nhỏ hơn. “Ông để quà của con ở
ngay đây này. Con sẽ được có nó ngay khi lễ nhận Ấn Ký kết thúc.”

“Trước giờ chưa ai tổ chức tiệc cho con hết.”

“Đây là để chúc mừng con trở thành Thợ Săn Bóng Tối,” Aloysius nói. “Con biết vì sao
nó quan trọng, phải không? Những Ấn Ký đầu tiên ấy sẽ chứng tỏ con là Nephilim, như
ông, như bố mẹ con. Chúng có nghĩa rằng con đã là một thành viên của Clave, một phần
trong gia đình chiến binh này. Khi ấy, con sẽ là một con người khác biệt và tốt đẹp hơn
những kẻ khác.”

“Tốt đẹp hơn những kẻ khác,” cô bé chậm rãi nhắc lại khi cửa phòng mở và hai Tu
Huynh Câm bước vào. Aloysius thấy chút sợ hãi ánh lên trong mắt cháu gái. Cô bé rụt
tay khỏi tay lão. Lão nhíu mày – lão không thích nhìn thấy vẻ sợ sệt nơi con cháu, dù lão
không thể chối bỏ sự thật rằng các Tu Huynh Câm thật quái đản với cung cách im lặng và
lối di chuyển như lướt đó. Họ vừa tới bên giường Adele thì cửa lại mở và bố mẹ Adele
bước vào: bố cô bé, con trai của Aloysius, mặc đồ đi săn đỏ sẫm, vợ anh mặc váy đỏ chiết
eo, đeo dây chuyền mặt chữ rune enkeli. Họ cười với cô con gái, con bé cũng gượng run
run cười đáp, kể cả khi có các Tu Huynh Câm đứng xung quanh.

Adele Lucinda Starkweather. Giọng tu huynh Cimon vang lên. Con đã đến tuổi. Giờ là
lúc con được nhận Ấn Ký Thiên Thần đầu tiên. Con có hiểu được niềm vinh dự này, và
con sẽ làm tất cả để xứng với nó chứ?

Adele ngoan ngoãn gật đầu. “Có ạ.”

Và con có chấp nhận Ấn Ký Thiên Thần, sẽ tồn tại trên cơ thể con mãi mãi như một cách
nhắc nhở con nợ Thiên Thần những gì, và nhiệm vụ thiêng liêng của con với thế giới
không?

Cô bé lại gật đầu. Trái tim Aloysius căng tràn kiêu hãnh. “Con chấp nhận,” cô bé nói.

Vậy chúng ta bắt đầu. Thanh stele loang loáng trong bàn tay trắng bệch dài ngoằng của
Tu Huynh Câm. Anh ta cầm cánh tay run rẩy của Adele và ấn mũi stele lên da cô bé, rồi
bắt đầu vẽ.

Những đường đen sậm uốn lượn xuất hiện từ mũi stele, và Adele ngạc nhiên nhìn biểu
tượng Sức mạnh thành hình trên vùng da xanh xao của bụng cánh tay, một biểu tượng
tinh tế với những đường nét đan lồng vào nhau, dọc ngang các đường gân, ôm lấy cánh
tay nó. Cơ thể cô bé gồng căng, hàm răng nhỏ cắn chặt môi dưới. Cô bé ngước nhìn
Aloysius, và lão giật mình khi thấy gì trong đó.

Đau đớn. Thấy hơi đau khi nhận Ấn Ký cũng là bình thường, nhưng cái lão thấy trong
mắt Adele… là đau đớn vô cùng tận.

Aloysius bật dậy, khiến cái ghế bị đẩy tuốt ra sau. “Dừng lại!” Lão hét, nhưng đã quá
muộn. Chữ rune đã được hoàn thành. Tu Huynh Câm rút thanh stele lại và chăm chú
quan sát. Có vết máu trên mũi stele. Adele khẽ nức nở vì vẫn nhớ lời ông dặn không được
khóc – nhưng rồi vùng da rướm máu của cô bé bắt đầu bong khỏi xương, thẫm lại và
cháy bên dưới chữ rune như thể bị thiêu đốt, và cô bé không thể không ngửa đầu hét và
hét…

London, 1873
“Will?” Charlotte Fairchild mở he hé cửa phòng tập của Học Viện. “Will, em có trong đó
không?”

Chị nghe có tiếng lầm bầm bực dọc. Cửa mở, cho thấy một căn phòng rộng rãi, trần cao ở
phía bên kia. Chính Charlotte cũng đã lớn lên ở đây, và chị biết mọi nơi ván lát sàn bị
vênh, mấy đích ngắm được vẽ từ thời lâu lắc lâu lơ trên bức tường phía bắc, những ô cửa
sổ vuông vức xưa tới độ phần khuôn dưới dày hơn khuôn trên. Ở giữa phòng là Will
Herondale, tay phải đang nắm chặt con dao.

Cậu quay đầu nhìn Charlotte, và chị lại nghĩ Will đúng là một cậu bé kì cục – dù ở mười
hai tuổi, cậu cũng chẳng còn bé bỏng gì nữa. Cậu trông rất xinh trai, với mái tóc đen dày
hơi xoăn ở đuôi – giờ thì mướt mồ hôi và bết cả vào trán. Da cậu hồi mới đến Học Viện
mang sắc nâu rám của người sống trong nắng gió vùng thôn quê, dù sáu tháng sống nơi
thành phố đã tẩy sạch màu sắc ấy, khiến cho hai gò má ửng hồng thêm phần nổi bật. Mắt
cậu mang sắc xanh lam long lanh hiếm có. Hẳn rồi đây Will trưởng thành sẽ rất đẹp trai,
nếu cậu không suốt ngày cau có làm méo mó các đường nét khuôn mặt.

“Chuyện gì nào, Charlotte?” Cậu gắt.

Giọng cậu vẫn mang một chút âm hưởng xứ Wales, với cách phát âm hơi uốn lưỡi ở các
nguyên âm mà nghe chắc cũng hay ra trò nếu âm sắc không chua lòe chua loét như vậy.
Cậu quệt tay áo ngang trán khi chị vừa định bước qua cửa, nhưng dừng lại. “Chị đã tìm
em hàng giờ liền rồi,” chị hơi gắt, nhưng gắt gỏng chẳng mấy xi nhê với Will, và lại càng
chẳng ảnh hưởng gì tới Will đang buồn bực, mà cậu nhóc này thì chẳng mấy khi tươi
tỉnh. “Em có nhớ hôm qua chị bảo rằng hôm nay chúng ta sẽ chào đón người mới tới Học
Viện chứ?”

“À, em nhớ,” Will phi dao. Nó chệch ra ngoài vòng tròn, khiến cậu càng nhăn nhó tợn.
“Em chỉ không quan tâm thôi.”

Cậu con trai đằng sau Charlotte phát ra tiếng khụt khịt. Âm thanh ấy nghe giống tiếng
cười thật, nhưng sao cậu ấy có thể cười được chứ? Chị được biết trước rằng cậu con trai
tới từ Học Viện Thượng Hải sức khỏe không tốt, nhưng vẫn giật mình khi nhìn cậu ấy
bước ra khỏi xe ngựa: Cậu ấy trông xanh xao và run rẩy như ngọn lau trong gió, mái tóc
đen xoăn điểm nhiều sợi bạc như một ông lão tuổi bát tuần, chứ không phải một cậu bé
mới trạc mười hai. Mắt cậu to tròn và mang màu đen bàng bạc, đẹp đến lạ lùng mà ám
ảnh trên một gương mặt quá ư thanh tú.

“Will, em nên lịch sự,” chị nói, và kéo cậu con trai đằng sau lưng ra, đẩy cậu ấy vào
trong phòng trước. “Kệ Will đi, cậu ấy đang lên cơn hâm ấy mà. Will Herondale, xin giới
thiệu với em, đây là James Carstairs, tới từ Học Viện Thượng Hải.”

“Jem,” cậu bé kia nói. “Mọi người đều gọi tôi là Jem.” Cậu ấy dấn thêm một bước vào
phòng, mắt nhìn Will với vẻ tò mò thân thiện. Charlotte kinh ngạc vì giọng cậu ấy không
mang chút khẩu âm nào, nhưng mà nói gì thì nói, bố cậu ấy cũng là người Anh kia mà.
“Bồ gọi mình như vậy cũng được.”

“Ờ, nếu như ai nấy đều gọi bồ là Jem, vậy tôi gọi như thế cũng chẳng phải là được gia ơn,
nhỉ?” Giọng Will chua lè, và với một con người còn trẻ như thế, cậu quá có tài khó chịu.
“James Carstairs này, tôi nghĩ bồ sẽ thấy nếu tránh xa tôi và để tôi được yên sẽ có lợi cho
cả đôi bên đấy.”

Charlotte thầm thở dài. Chị đã mong cậu bé trạc tuổi Will này có thể là công cụ tước đi
thái độ cắm cảu và thích xù lông nhím của Will, nhưng có vẻ lúc bảo chẳng thèm quan
tâm chuyện có thêm một nhóc Thợ Săn Bóng Tối nữa trong Học Viện là Will nói thật.
Cậu không muốn có bạn, và cũng chẳng cần ai làm bạn với mình. Chị nhìn Jem, tưởng sẽ
thấy cậu ấy chớp mắt vì ngạc nhiên hay tổn thương, thế nhưng cậu ấy chỉ hơi cười, như
thể Will là con mèo con định cắn mình. “Từ hồi rời Thượng Hải tới giờ tôi chẳng luyện
tập gì,” cậu ấy nói. “Tôi cần một người tập cùng – đánh đấm một chút.”

“Tôi cũng thế,” Will nói. “Nhưng tôi cần một người ngang tài ngang sức, chứ không
phải một kẻ ốm yếu lẻo khoẻo trông như sắp xuống mồ tới nơi. Nhưng chắc bồ làm đích
ngắm cho tôi cũng được.”
Charlotte, vốn đã biết rõ tình hình James Carstair – mà chị lại chẳng muốn cho Will biết
– hoảng hốt. Trông như sắp xuống mồ tới nơi, ôi lạy Chúa lòng lành. Bố chị đã nói gì
nhỉ? Rằng Jem phải phụ thuộc vào thuốc phiện để duy trì mạng sống, và đó là một dạng
thuốc thang chỉ có thể kéo dài cuộc đời chứ chẳng thể giữ mạng cho cậu ấy. Ôi, Will.

Chị định tiến tới chắn giữa hai cậu bé, như thể chị có thể bảo vệ Jem khỏi sự độc địa của
Will, lần này cậu nói chính xác hơn cậu tưởng – rồi lại thôi.

Jem không hề biến sắc. “Nếu ‘trông như sắp xuống mồ tới nơi’ có nghĩa là sắp chết, vậy
bồ nói đúng đó,” cậu ấy bảo. “Người ta bảo tôi chỉ còn sống được hai năm, cùng lắm là
ba năm nữa.”

Đến cả Will cũng không giấu nổi vẻ bàng hoàng. Má cậu đỏ lựng. “Tôi…”

Nhưng Jem đã tiến về đích ngắm vẽ trên tường; rồi cậu ấy đưa tay, rút con dao khỏi ván
gỗ, sau đó quay lại và đi thẳng về phía Will. Cậu bé gầy nhỏ ấy cao ngang Will, lúc này
hai đứa trẻ đứng cách nhau có chút xíu và nhìn nhau chăm chú. “Nếu muốn bồ có thể
dùng tôi làm đích ngắm,” Jem nói nhẹ tênh như đang bàn chuyện thời tiết. “Tôi thì chẳng
sợ gì, vì có vẻ bồ phi dao không chuẩn lắm.” Cậu ấy quay người và phi dao. Nó cắm
thẳng vào hồng tâm, hơi rung một chút. “Hoặc,” Jem quay lưng lại, tiếp tục nói, “bồ có
thể để tôi dạy bồ. Vì tôi phi rất chuẩn.”

Charlotte trố mắt nhìn. Nửa năm nay chị đã nhìn Will đẩy những người cố tiếp cận mình
ra xa – các gia sư, bố chị, Henry chồng sắp cưới của chị, rồi cả anh em nhà Lightwood
nữa – bằng thái độ thù địch và kiểu ăn nói độc mồm độc miệng hệt như lúc này. Nếu
không phải đã tận mắt chứng kiến Will khóc, chị hẳn cũng từ bỏ hi vọng rằng có ngày
cậu đối tốt với ai từ lâu rồi. Nhưng giờ cậu đang nhìn Jem Carstairs, một cậu con trai
trông mong manh như được làm từ thủy tinh, vẻ khó chịu dần chuyển sang ngập ngừng
do dự. “Bồ sẽ không chết thật,” cậu nói, giọng kì cục nhất từ trước tới nay, “phải
không?”

Jem gật đầu. “Người ta bảo tôi sẽ chết.”

“Tôi rất tiếc,” Will nói.

“Không,” Jem nói khẽ. Cậu ấy kéo áo và rút một con dao khỏi thắt lưng. “Đừng bình
thường như thế. Đừng tiếc nuối gì hết. Cứ nói bồ sẽ luyện tập cùng tôi đi.”

Cậu ấy chìa dao, chuôi quay về phía Will. Charlotte nín thở, không dám nhúc nhích. Dù
không biết tiếp đây mình sẽ thấy gì, nhưng chị có cảm giác đó là một sự kiện trọng đại.
Will đưa tay cầm con dao, ánh mắt chưa từng rời gương mặt Jem. Ngón tay cậu lướt qua
tay cậu bé kia khi cầm lấy vũ khí. Charlotte nghĩ đấy là lần đầu tiên cậu nhóc chịu tự
nguyện chạm vào người khác.

“Tôi sẽ tập cùng bồ,” cậu nói.


1

CHUYỆN KINH KHIẾP

Tận hưởng thứ hai vì sức khỏe

Thứ ba vì giàu có

Thứ tư là ngày đẹp nhất,

Thứ năm cho đức tin

Thứ sau co mất mát, và

thứ bay cho bất hạnh

– Đồng dao

“Tháng mười hai rất hợp để kết hôn đấy,” cô thợ may miệng ngậm ghim vẫn liến thoắng
nói chuyện nhờ nhiều năm luyện tập. “Như người ta vẫn nói đấy, ‘Tháng mười hai tuyết
rơi mau hạt, hôn nhân và tình yêu sẽ mãi bền lâu.’” Chị ta gài cái ghim gút cuối cùng vào
lễ phục và lùi một bước. “Xong rồi. Cô nghĩ sao? Nó được làm theo mẫu của Worth đấy.”

Tessa ngắm mình trong cái gương tại phòng riêng. Chiếc váy bằng lụa màu vàng sẫm
đúng theo tập tục của Thợ Săn Bóng Tối, những con người hằng tin rằng màu trắng chỉ
dành cho thời khắc đưa người ta về nơi an nghỉ cuối cùng, chứ không phải khi kết hôn,
mặc kệ thiên hạ đua nhau dùng sắc màu ấy kể từ ngày nữ hoàng Victoria kết hôn trong tà
váy trắng. Đường đăng ten viền lấy đường may ôm khít theo khuôn ngực và rủ ở ống tay
áo.

“Đẹp quá!” Charlotte vỗ tay và nhoài người tới. Đôi mắt nâu của chị sáng lên niềm vui
thích. “Tessa, màu này hợp với em đấy.”

Tessa quay người trước gương. Màu vàng mang lại chút sắc hồng cho đôi má cô. Chiếc
áo lót hình đồng hồ cát ôm khít và tôn lên mọi đường cong, còn mặt dây chuyền thiên sứ
vỗ về cô bằng những tiếng tích tắc. Bên dưới nó là mặt dây chuyền ngọc lục bảo Jem
tặng. Cô đã kéo dài sợi dây để có thể đeo cả hai cùng lúc, vì không muốn tháo bỏ cái nào.
“Chị không thấy đường đắp ren có phần quá rườm rà à?”

“Không hề!” Charlotte lại ngồi thẳng, một tay vô thức đặt lên bụng như chở che. Dáng
người chị vẫn thon thả – mà nói thẳng ra là gầy – nên chẳng mặc corset cũng được, và
giờ khi sắp có bé, chị đã chuyển sang mặc đồ rộng thùng thình, khiến chị trông hơi giống
một chú chim nhỏ. “Đây là ngày cưới của em mà, Tessa. Ăn diện là đúng. Cứ tưởng
tượng mà xem.”

Tessa đã dành ra không ít đêm để tưởng tượng. Cô vẫn chưa rõ mình và Jem sẽ kết hôn ở
đâu, vì Hội Đồng còn đang tranh cãi về chuyện của họ. Nhưng khi tưởng tượng đến đám
cưới, cô luôn nghĩ đến nhà thờ, cô có lẽ khoác tay Henry đi trên hành lang, đầu không hề
quay ngang quay ngửa, chỉ chú mục nhìn thẳng về phía vị hôn phu, như một cô dâu nên
thế. Jem sẽ mặc đồ đi săn – không phải bộ dùng trong chiến đấu, mà được thiết kế đặc
biệt trông từa tựa đồ lính, chính cho dịp này: màu đen với những dải vàng ở cổ tay, và
các chữ rune vàng nổi bật trên cổ áo và đường xẻ tà.

Anh sẽ trông rất trẻ. Cả hai đều còn rất trẻ. Tessa biết kết hôn ở tuổi mười bảy, mười tám
là không bình thường, nhưng họ đang chạy đua với tử thần cơ mà.

Tử thần muốn cướp mạng sống Jem.

Cô đặt tay lên cổ, và cảm nhận được nhịp rung quen thuộc của thiên sứ, đôi cánh cọ vào
lòng bàn tay cô. Cô thợ may lo lắng nhìn Tessa. Chị ta là người thường, không phải
Nephilim, nhưng có Tâm Nhãn hệt như những người phục vụ Thợ Săn Bóng Tối. “Cô
muốn bỏ ren áo sao?”

Trước khi Tessa kịp trả lời thì nghe có tiếng gõ cửa và giọng nói quen thuộc vang lên.
“Jem đây. Tessa ơi, em có ở đó không?”

Charlotte bật dậy. “Ôi, cậu ấy không được nhìn thấy em mặc váy cưới!”

Tessa đớ ra. “Sao lại không được?”

“Đó là phong tục của Thợ Săn Bóng Tối – là điềm rủi đấy!” Charlotte đứng lên. “Nhanh
lên! Trốn sau tủ quần áo đi!”

“Tủ quần áo? Nhưng…” Tessa ré lên khi Charlotte tóm eo cô và lôi cô ra sau tủ quần áo
hệt như cảnh sát dẫn độ một tay tội phạm đặc biệt ngoan cố. Khi được buông ra, Tessa
phủi phủi váy và nhăn mặt trêu Charlotte, và cả hai đều lén lút ló ra khi cô thợ may, sau
một phút bối rối, ra mở cửa.

Mái tóc bạc của Jem xuất hiện tại khe cửa. Anh trông hơi luộm thuộm, áo gi-lê xộc xệch.
Anh bối rối nhìn quanh trước khi ánh mắt dừng lại ở Charlotte và Tessa thập thò sau tủ.
“Cảm ơn Chúa,” anh nói. “Anh không biết mọi người đi đâu mất. Gabriel Lightwood ở
dưới nhà, và anh ta đang trình bày chuyện kinh khiếp lắm.”
“Viết thư cho họ đi, Will,” Cecily Herondale nói. “Làm ơn đi mà. Một lá thôi cũng
được.”

Will vuốt ngược mái tóc đen đẫm mồ hôi và lườm cô em. “Vào vị trí cho anh,” anh chỉ
nói thế rồi chỉ dao. “Ở đó và đó.”

Cecily thở dài, và di chuyển chân. Cô thừa biết mình sai tư thế; cô cố tình làm thế để
chọc tức Will, và chuyện ấy chẳng khó tẹo nào. Nhưng ấy là tất cả những gì cô nhớ về
anh mình hồi mười hai tuổi. Ngày ấy, chỉ cần thách anh làm gì, như leo lên cái mái dốc
đứng của nhà họ chẳng hạn, cũng dẫn đến cùng một kết quả: đôi mắt anh rực lên ngọn lửa
xanh bực bội, hàm bạnh ra, và đôi lúc là Will bị gãy tay hoặc gãy chân nữa.

Tất nhiên người anh trai này, Will sắp trưởng thành, không còn là ông anh như trong kí
ức của cô từ thuở thiếu thời. Anh đã trưởng thành, cao lớn hơn nhưng cũng khép kín hơn.
Anh được hưởng mọi nét đẹp từ mẹ, và sự cứng đầu của bố – và cô sợ, cả những thói tật
của bố, nhưng ấy chỉ là điều cô đoán già đoán non từ chuyện tán dóc của những cư dân
Học Viện.

“Cầm cao dao lên,” Will nói. Giọng anh lạnh lùng và chuyên nghiệp hệt như cô gia sư
của cô.

Cecily cầm lên. Cô mất một thời gian mới quen được cảm giác khoác lên mình bộ đồ đi
săn: áo chùng và quần vải rộng rãi, eo đeo thắt lưng. Giờ cô mặc nó mà cử động thoải
mái hệt như khi mặc chiếc váy ngủ rộng rãi nhất. “Em không hiểu sao anh không tính
biên thư. Chỉ một lá thôi mà.”

“Anh không hiểu vì sao em không tính về nhà,” Will nói. “Nếu em đồng ý trở về
Yorkshire, em có thể ngừng lo cho bố mẹ và anh có thể thu xếp…”

Cecily ngắt lời, vì đã nghe bài phát biểu này ngàn lần có lẻ. “Anh đánh cược với em
không, Will?”

Cecily vừa hài lòng vừa hơi thất vọng khi thấy ánh sáng lóe lên trong mắt Will, giống hệt
như bố mỗi lần có người gạ cá cược. Đàn ông quá dễ đoán.

“Cá cược kiểu gì?” Will tiến một bước. Anh đang mặc đồ đi săn; Cecily có thể thấy
những Ấn Ký uốn lượn nơi cổ tay, chữ rune mnemosyne trên cổ. Cô mất một thời gian
mới hiểu Ấn Ký không đơn giản là mấy hình vẽ loằng ngoằng méo mó, và giờ cô đã quen
với chúng rồi – như cô quen với đồ đi săn, với hành lang âm vang tiếng vọng của Học
Viện, với những cư dân đặc biệt của nó.
Cô chỉ bức tường phía trước. Một đích ngắm cũ kĩ được sơn đen trên tường: một hồng
tâm ở trong một vòng tròn lớn hơn. “Nếu em phi trúng hồng tâm ba lần, anh phải biết thư
cho bố mẹ và cho họ biết anh ra sao rồi. Anh phải kể cho họ nghe về lời nguyền và lí do
anh bỏ đi.”

Gương mặt Will nghiêm lại hệt như mỗi lần cô đưa ra đề nghị đó. “Em không thể nào phi
trúng đích ba lần liên tiếp đâu, Cecy.”

“Vậy thì anh có cá cược cũng không phải lo ngại nhiều đâu nhỉ, William.” Cô cố tình gọi
tên cúng cơm của anh. Cô biết anh ghét nghe cô gọi thế, dù khi bạn thân của anh – không,
là parabatai của anh mới đúng; từ hồi đến Học Viện, cô đã học được rằng hai khái niệm
đó khá khác nhau – Jem gọi thế, Will dường như bị ảnh hưởng đôi chút. Có lẽ đó là vì
anh còn nhớ hồi cô chạy đuổi theo anh trên cặp chân lũn cũn, gọi Will, Will, bằng giọng
hơi hụt hơi nhưng đặc xứ Wales. Cô chưa từng gọi anh là “William, mà chỉ “Will,” hoặc
tên vùng Wales của anh, Gwilym.

Mắt anh nheo lại, đôi mắt màu xanh dương sẫm giống hệt màu mắt cô. Ngày xưa khi mẹ
cảm thán rằng rồi đây Will sẽ làm tan nát vô số trái tim thiếu nữ, Cecily nghi ngờ lắm.
Will hồi đó toàn chân với cẳng, gầy nhẳng đầu bù tóc rối. Nhưng khi lần đầu bước vào
phòng ăn Học Viện và thấy anh kinh ngạc đứng lên, cô đã hiểu lời mẹ; lúc ấy cô đã nghĩ:
Đó không thể nào là Will.

Anh đã dõi đôi mắt ấy vào cô, đôi mắt của mẹ, và cô thấy sự giận dữ trong đó. Anh
không mừng được thấy cô, không một chút nào. Và cái cậu bé gầy gò tóc đen rối như tổ
quạ, quần áo dính toàn lá cây giờ đã là một người đàn ông cao lớn, đáng sợ. Những lời cô
muốn nói với anh biến mất ngay nơi đầu lưỡi, và cô đã lườm trả. Và cũng kể từ hồi đó,
Will chịu đựng sự hiện diện của cô như thể cô là viên đá trong giày anh, là một nỗi bực
bội nho nhỏ nhưng thường trực.

Cecily hít một hơi sâu, ngẩng cao đầu, và chuẩn bị phi con dao đầu tiên. Will không biết,
không hề biết, về những giờ cô một mình trong phòng này luyện cân chỉnh dao trong tay,
phát hiện cú ném tốt sẽ bắt đầu từ đằng sau. Cô buông xuôi cả hai tay rồi vung tay phải ra
sau đầu trước khi dồn trọng lượng cơ thể để phi dao đi. Mũi dao nhắm thẳng vào đích. Cô
phóng dao đi và rụt tay lại, hít thật sâu.

Con dao cắm chính giữa hồng tâm.

“Một,” Cecily nói và nở nụ cười kẻ cả với Will.

Anh lạnh lùng nhìn cô, rút dao khỏi tường và trả lại.
Cecily ném tiếp. Cú ném thứ hai, giống như cú đầu, cắm chặt vào đích, hơi rung như một
ngón tay trêu ngươi.

“Hai,” Cecily cất giọng sầu thảm.

Quai hàm Will bạnh ra khi lại rút dao và đưa cô em. Cô cười cười nhận lấy. Sự tự tin
chảy rần rần trong người cô như một dòng máu mới. Cô biết mình có thể. Cô luôn có thể
leo cao ngang Will, chạy nhanh bằng, nín thở lâu ngang…

Cô phi dao. Nó cắm đích và cô nhảy lên vỗ tay, quên mất bản thân trong một giây ngây
ngất niềm vui chiến thắng. Tóc cô xổ ra và xòa xuống gương mặt; cô vuốt tóc và cười toe
toét với Will. “Anh sẽ viết thư. Anh đồng ý cược với em rồi!”

Ngạc nhiên thay, anh mỉm cười. “Ờ, anh sẽ viết,” anh nói. “Anh sẽ viết rồi ném vào lò
sưởi.” Anh giơ tay ngăn cơn giận bùng nổ của cô. “Anh nói mình sẽ viết, chứ có bảo sẽ
gửi đâu.”

Cecily bật ra một hơi bực bội. “Anh dám lừa em!”

“Anh đã bảo em không có tố chất của Thợ Săn Bóng Tối, vì em dễ bị lừa quá. Anh sẽ đi
viết thư đây, Cecily. Mà nói cho cùng, liên hệ với bố mẹ là trái Luật.”

“Làm như anh quan tâm đến Luật ấy!” Cecily giậm chân, và đột nhiên thấy bực hơn bao
giờ hết, vì cô ghét con gái giậm chân.

Will nheo mắt. “Và em không quan tâm tới việc trở thành Thợ Săn Bóng Tối. Thế này
được không? Anh sẽ viết một lá thư và đưa cho em nếu em đồng ý tự mình chuyển thư
giùm – và không được quay lại nữa.”

Cecily chùn lòng. Cô nhớ rất nhiều lần cãi cọ với Will, về những con búp bê sứ của cô bị
anh ném ra khỏi cửa sổ gác mái, nhưng cô cũng nhớ về một người anh tốt bụng – người
đã băng đầu gối bị trầy xước cho cô, giúp cô buộc lại tóc khi chúng xổ ra. Sự tốt bụng đó
đã biến mất khỏi Will đang đứng trước mặt Cecily lúc này. Mẹ thường khóc trong một,
hai năm đầu Will bỏ nhà ra đi; mẹ đã vừa ôm Cecily vừa nói rằng các Thợ Săn Bóng Tối
sẽ “rút yêu thương khỏi anh.” Mẹ bảo họ là những con người lạnh lùng, những kẻ đã cấm
cản chuyện kết hôn của hai vợ chồng bà. Will bé nhỏ của bà muốn gì ở họ đây?

“Em sẽ không đi,” Cecily nói, và chăm chú nhìn anh. “Nếu anh còn ép, em sẽ… em sẽ…”

Cửa phòng gác mái mở, và Jem đứng ngược sáng nơi ngưỡng cửa. “À,” anh nói, “lại dọa
dẫm nhau rồi. Hai người thế này suốt buổi chiều, hay mới bắt đầu thôi?”
“Anh ấy khơi mào trước,” Cecily nói, và hất hàm về phía Will, dù cô biết làm thế là vô
ích. Jem, parabatai của Wil, đối xử với cô với sự tử tế nhưng xa cách dành cho em gái
một người bạn, nhưng anh luôn đứng về phía Will. Tốt bụng thật đấy, nhưng chắc chắn
anh đặt Will trên mọi thứ khác nơi trần đời.

Ờ, gần như mọi thứ. Cô cực kì ấn tượng với Jem khi mới đến Học Viện – anh mang một
vẻ đẹp phi thường, không thuộc về nhân gian, với mái tóc và đôi mắt bàng bạc cùng vẻ
ngoài thanh tú. Anh trông như hoàng tử trong truyện thần tiên, và hẳn cô sẽ bám cứng lấy
anh nếu không rõ ràng rằng anh yêu Tessa Gray say đắm. Mắt anh luôn dõi theo chị tới
bất kì đâu, và giọng nói cũng thay đổi khi nói chuyện với chị. Cecily từng nghe mẹ vui vẻ
kẻ rằng có một chàng trai hàng xóm nhìn một cô gái như thể cô ấy là “ngôi sao duy nhất
trên bầu trời”, và đó chính là cách Jem nhìn Tessa.

Cecily không thấy vọng vì điều ấy; Tessa tính tình dễ chịu và tốt bụng, hơi rụt rè, và yêu
thích sách hệt như Will. Nếu đó là típ con gái Jem muốn, cô và anh sẽ không bao giờ hợp
nhau – và càng ở lâu trong Học Viện, cô càng nhận ra chuyện sống cùng Will khó khăn
thế nào. Anh chăm chăm bảo vệ Jem, và anh thường xuyên quan sát cô như để đề phòng
cô làm tổn thương Jem. Không – còn lâu mới có chuyện đó.

“Tôi chỉ đang tính trói Cecily lại rồi thả xuống làm mồi cho lũ vịt ở công viên Hyde
thôi,” Will nói, vuốt ngược mái tóc ướt rồi tặng Jem một nụ cười hiếm hoi. “Bồ giúp tôi
nhé.”

“Không may thay, có lẽ bồ phải hoãn kế hoạch giết em lại một thời gian nữa. Gabriel
Lightwood ở dưới nhà, và tôi có hai từ dành cho bồ. Hai trong số những từ bồ thích, ít
nhất khi bồ đặt chúng cạnh nhau.”

“‘ngốc vô đối’?” Will hỏi. “‘Giàu xổi vô dụng’?”

Jem cười tươi. “‘Đậu mùa quỷ,’” anh nói.

Sophie cầm cái khay trên tay thăng bằng tuyệt đối dễ dàng sau một thời gian dài luyện
tập trong khi dùng tay kia gõ cửa phòng Gideon Lightwood.

Cô nghe có tiếng bước chân vội vã, và cửa mở rộng. Gideon đứng trước mặt cô, mặc
quần vải, đeo dây đai quần, và áo sơ mi trắng xắn tay tới tận khuỷu. Tay anh ướt như thể
vừa vội vàng vuốt mái tóc ướt. Tim cô hơi nảy lên trong ngực trước khi đập ổn định lại.
Cô buộc mình phải cau mày với anh.
“Anh Lightwood,” cô nói. “Tôi mang ít bánh nướng như anh yêu cầu, và Bridget cũng
làm cho anh một đĩa sandwich.”

Gideon lùi một bước để cô vào phòng. Nó giống mọi căn phòng khác trong Học Viện: đồ
nội thất tối màu, chiếc giường lớn bốn cọc, một lò sưởi lớn, những ô cửa sổ cao cao mà
từ đó anh có thể nhìn xuống trảng sân bên dưới. Sophie cảm nhận được ánh mắt của anh
nhìn theo cô đi qua phòng để đặt cái khay xuống chiếc bàn trước lò sưởi. Cô đứng thẳng
lên và quay sang anh, tay khoanh lại trước tạp dề.

“Sophie…” anh cất tiếng.

“Anh Lightwood,” cô ngắt ngang. “Anh còn cần gì nữa không?”

Anh nhìn cô, nửa bực bội, nửa rầu rĩ. “Anh ước em gọi anh là Gideon.”

“Tôi đã nói rồi, tôi không được phép gọi tên thánh của anh.”

“Anh là Thợ Săn Bóng Tối; anh không có tên thánh. Sophie, làm ơn mà.” Anh tiến một
bước về phía cô. “Trước khi tới sống ở Học Viện, anh đã tưởng chúng ta có thể làm bạn.
Nhưng từ hồi anh đến, em luôn tỏ vẻ lạnh lùng.”

Tay Sophie không tự chủ áp lên mặt. Cô nhớ cậu chủ Teddy, con trai người chủ cũ, và
cách hắn tóm cô trong góc tối rồi ấn cô vào tường, tay lần sờ dưới ngực cô, thì thầm bên
tai cô rằng cô biết đường nên ngọt nhạt hơn với hắn, nếu cô biết thế nào là tốt cho mình.
Ý nghĩ đó đến giờ vẫn khiến cô buồn nôn.

“Sophie.” Đuôi mắt Gideon nheo lại tỏ ý lo lắng. “Sao vậy? Nếu anh làm gì không đúng
với em, dù chỉ một chút thôi, xin em hay nói để anh khắc phục…”

“Không có gì không đúng, dù chỉ một chút. Anh là một quý ông, còn tôi là người hầu;
nếu anh có đối xử quá quắt cũng là thường tình. Làm ơn đừng khiến tôi khó xử, thưa anh
Lightwood.”

Gideon vừa nâng tay liền hạ tay xuống. Vẻ thiểu não của anh khiến Sophie mềm lòng.
Mình sợ mất tất cả, còn anh ấy chẳng có gì để mất, cô nhắc mình. Đó cũng là điều cô tự
dặn bản thân vào tối đó, khi nằm trên chiếc giường hẹp, khi kí ức về đôi mắt mang màu
trời dông tố ám ảnh tâm trí cô. “Anh tưởng chúng ta là bạn,” anh nói.

“Tôi không thể là bạn của anh.”

Anh dấn thêm bước nữa. “Nếu như anh đề nghị em…”
“Gideon!” Đó là Henry, đứng trước cánh cửa mở, thở hổn hển, mặc một trong những
chiếc áo gi-lê màu xanh vàng xấu tệ của mình. “Em trai cậu tới đây. Ở dưới nhà…”

Mắt Gideon mở to. “Gabriel đến đây?”

“Ờ. Đang la hét gì đó về bố cậu, nhưng cậu ấy không nói thêm gì nữa trừ khi cậu có mặt.
Cậu ấy thề như vậy. Đi nào.”

Gideon lưỡng lự, mắt hết nhìn Henry lại nhìn Sophie, người đang cố làm như vô hình.
“Tôi…”

“Đi ngay nào, Gideon.” Henry ít khi gắt, và những lúc anh lớn tiếng, hiệu quả thật đáng
ngạc nhiên. “Người cậu ấy toàn máu.”

Gideon tái mặt, và vội vàng vớ lấy thanh kiếm anh treo trên cái mắc đôi bên cửa. “Tôi đi
ngay đây.”

Gabriel Lightwood dựa người vào bức tường bên trong cửa Học Viện, áo khoác đã biến
đâu mất, sơ mi và quần bị nhuộm đỏ sẫm. Qua cánh cửa mở, Tessa có thể thấy cỗ xe
ngựa nhà Lightwood đậu ngoài thềm, với gia huy ngọn lửa ở một bên xe. Chắc Gabriel tự
đánh xe tới đây.

“Gabriel,” Charlotte dịu dàng nói, như đang cố dỗ một con ngựa hoảng hốt. “Gabriel, nói
cho chúng tôi nghe có chuyện gì đi.”

Gabriel – cao gầy, tóc nâu dính máu – xoa mặt, mắt mở to. Tay anh ta cũng dính máu.
“Anh trai tôi đâu? Tôi phải nói chuyện với anh tôi.”

“Cậu ấy đang xuống. Tôi đã bảo Henry đi gọi cậu ấy, còn Cyril đang chuẩn bị xe ngựa
của Học Viện. Gabriel, cậu bị thương à? Cậu cần iratze không?” Charlotte nói dịu dàng
như thể chàng trai này chưa từng trịch thượng nhìn chị từ đằng sau ghế của Benedict
Lightwood, chưa từng thông đồng với ông bố hòng cướp Học Viện khỏi tay chị.

“Nhiều máu quá,” Tessa nói và bước tới. “Gabriel, đấy không phải toàn máu của anh,
phải không?”

Gabriel nhìn cô. Đây là lần đầu tiên, Tessa nghĩ, cô không thấy anh ta làm bộ cao giá.
Trong mắt anh ta chỉ còn sợ hãi, sợ hãi và… bối rối. “Không… là của họ…”

“Họ? Họ nào?” Đó là Gideon vội vã chạy xuống cầu thang, tay phải cầm sẵn kiếm. Cùng
với anh là Henry, và Jem, đằng sau họ là Will và Cecily. Jem giật mình dừng lại trên cầu
thang, và Tessa nhận ra anh trông thấy cô mặc váy cưới. Mắt anh mở to, nhưng những
người khác đã vội vã lách người bước qua, và anh bị lôi xuống như một chiếc lá trôi
trong dòng nước.

“Bố bị thương à?” Gideon hỏi tiếp và dừng lại trước cậu em. “Còn em thì sao?” Anh đưa
tay chạm mặt em, tay tóm cằm Gabriel và xoay về phía mình. Dù Gabriel cao hơn, nhưng
gương mặt in rõ vẻ của một cậu em trai – nhẹ nhõm khi anh mình tới, và giọng nói hống
hách đượm chút tủi thân.

“Bố…” Gabriel cất tiếng. “Bố là con giun.”

Will cười vài tiếng. Anh mặc đồ đi săn như thể vừa từ phòng tập xuống, và tóc ướt xoăn
lại bám vào thái dương. Anh không nhìn Tessa, và cô cũng quen với chuyện đấy rồi. Will
hiếm khi nhìn cô khi trừ khi bắt buộc. “Gabriel, rất mừng vì giờ anh nhìn nhận mọi việc
giống chúng tôi, nhưng tuyên bố thế này cũng kì cục thật.”

Gideon lườm Will một cái trước khi tiếp tục nói chuyện với em mình. “Ý em là sao,
Gabriel? Bố làm sao?”

Gabriel lắc đầu. “Bố là con giun,” anh ta lại nói, giọng không biểu lộ cảm xúc gì.

“Anh biết. Ông ấy làm nhục dòng họ Lightwood, và dối gạt cả hai chúng ta. Ông ấy làm
nhục và hủy hoại mẹ. Nhưng chúng ta không cần giống ông ấy.”

Gabriel đẩy tay anh mình, hàm răng lóe lên trong cơn cau có giận dữ. “Anh không nghe
em nói,” anh ta bảo. “Ông ấy là con giun. Con giun ấy. Một thứ trời ơi đất hỡi hơi giống
một con mãng xà. Từ hồi Mortmain không gửi thuốc nữa, tình hình ông ấy dần tệ đi. Biến
đổi. Những vết mẩn trên tay ông ấy dần lan khắp người. Tay, cổ, mặt…” Đôi mắt xanh lá
của Gabriel nhìn sang Will. “Đó là đậu mùa, phải không? Cậu biết tất cả, đúng không?
Cậu không phải chuyên gia sao?”

“Này, đừng có làm ra cái vẻ mặt như thể tôi tạo ra thứ bệnh đó,” Will nói, “chỉ vì tôi tin
nó tồn tại. Có rất nhiều chuyện kể về nó – những câu chuyện cổ trong thư viện…”

“Đậu mùa quỷ?” Cecily nói, gương mặt nhăn nhó không hiểu. “Will, anh ấy nói gì thế?”

Will mở miệng, và hai gò má hơi ửng đỏ. Tessa nín cười. Cecily đến Học Viện đã mấy
tuần, nhưng sự hiện diện của cô ấy vẫn khiến Will vừa bực bội vừa khó chịu. Anh có vẻ
không biết phải xử sự thế nào trước mặt em gái đã không còn bé bỏng như ngày nào, và
anh nhất quyết không chào mừng cô ấy. Nhưng Tessa đã thấy anh luôn dõi mắt nhìn theo
Cecily, cũng với tình yêu thương bảo bọc thi thoảng cô thấy anh đối với Jem. Chắc chắn
sự tồn tại của bệnh đậu mùa quỷ, và nguyên nhân người ta nhiễm bệnh là điều cuối cùng
anh muốn giải thích với Cecily. “Em không cần biết,” anh lầm bầm.

Ánh mắt Gabriel nhìn sang Cecily, và môi hé mở ngạc nhiên. Tessa có thể thấy anh ta
choáng ngợp vì Cecily. Chắc cả bố lẫn mẹ Will phải đẹp lắm, Tessa nghĩ, vì Cecily xinh
xắn và Will thì điển trai, cả hai cùng sở hữu mái tóc đen óng mượt và đôi mắt xanh sẫm
hút hồn. Cecily ương bướng nhìn Gabriel, vẻ mặt đậm nét tò mò; chắc cô ấy đang tự hỏi
chàng trai này có vẻ ghét anh mình này là ai.

“Bố chết rồi à?” Gideon lên giọng hỏi. “Đậu mùa quỷ giết ông ấy rồi sao?”

“Không,” Gabriel nói. “Nó chỉ biến đổi ông ấy thôi. Vài tuần trước ông ấy chuyển về
trang viên Chiswick. Ông ấy không nói vì sao. Rồi vài ngày trước ông ấy nhốt mình trong
thư phòng. Ông ấy không ra ngoài, cũng chẳng ăn uống. Sáng nay em tới thư phòng định
kéo ông ấy ra. Cửa bị tuột khỏi bản lề. Có… một vệt nhớt dẫn xuống sảnh. Em đi theo nó
xuống nhà và vào vườn.” Anh ta nhìn quanh sảnh tiếp khách giờ đã chìm trong im lặng.
“Ông ấy hóa thành giun. Ý em là thế đó.”

“Ờ thế chắc,” Henry phá tan sự im lặng, “ta không giẫm trúng được nó đâu nhỉ?”

Gabriel bực bội nhìn anh. “Tôi đã tìm khắp vườn. Tôi tìm thấy vài người hầu. Và khi tôi
nói ‘tìm thấy’ họ, chắc hẳn mọi người hiểu đúng ý tôi đó. Họ bị xé thành… thành từng
mảnh.” Anh ta nuốt khan và nhìn trang phục dính toàn máu cùng me. “Tôi nghe thấy một
âm thanh – một tiếng rú rít. Tôi quay lại và thấy nó lao về phía mình. Một con giun mù to
tướng như rồng trong truyền thuyết. Miệng nó há ngoác, toàn những cái răng sắc nhọn
như dao. Tôi quay người chạy vào chuồng ngựa. Nó trườn đuổi theo, nhưng tôi kịp nhảy
lên xe ngựa và đánh xe qua cổng. Sinh vật đó – bố – không đuổi theo. Tôi nghĩ nó sợ bị
người thường trông thấy.”

“À,” Henry nói. “Vậy là bự chà bá nên không giẫm được rồi.”

“Đáng ra em không nên bỏ chạy,” Gabriel nói và nhìn anh trai. “Em nên ở lại và chiến
đấu. Có lẽ em có thể nói phải quấy với nó. Có lẽ bố vẫn còn chút nhân tính.”

“Hoặc có lẽ nó sẽ cắn anh làm đôi,” Will nói. “Căn cứ vào lời anh miêu tả quá trình hóa
quỷ thì ông ấy vào giai đoạn cuối của bệnh đậu mùa quỷ rồi.”

“Will!” Charlotte giơ tay lên trời. “Sao em không nói trước?”

“Chị biết đấy, đống sách về bệnh đậu mùa quỷ đầy trong thư viện,” Will nói bằng giọng
bị tổn thương. “Em có ngăn ai đọc đâu.”
“Ờ, nhưng nếu Benedict sẽ hóa thành một con giun khổng lồ, ít nhất em cũng phải báo
trước chứ,” Charlotte bảo.

“Trước hết,” Will bảo. “Em không biết ông ấy sẽ hóa thành một con giun bự. Giai đoàn
cuối của bệnh đậu mùa quỷ là hóa quỷ. Người bệnh có thể hóa thành bất cứ loại nào. Thứ
hai, phải mất vài tuần quá trình biến đổi mới hoàn tất. Em đã nghĩ một thằng ngu có số
má như Gabriel đây cũng phải nhận thấy và báo cho ai đó.”

“Báo cho ai?” Jem hỏi cắc cớ. Anh đã tiến lại gần Tessa hơn trong lúc mọi người nói
chuyện. Khi họ đứng gần nhau, mu bàn tay họ chạm vào nhau.

“Clave. Bưu tá. Chúng ta. Bất kì ai,” Will nói và bực bội nhìn Gabriel má bắt đầu đỏ lên
vì bực dọc.

“Tôi không phải thằng ngu có số má…”

“Không có số má không thể chứng minh độ thông minh,” Will lầm bầm.

“Và như tôi đã nói, bố nhốt mình trong thư phòng suốt một tuần qua…”

“Và anh không hề để ý nhiều gì à?” Will bảo.

“Cậu không hiểu bố bọn tôi,” Gideon nói bằng giọng đều đều đôi lúc vẫn dùng khi buộc
phải nhắc đến gia đình mình. Anh quay lại với em trai và đặt tay lên vai Gabriel, nói rất
khẽ để những người còn lại không nghe được.

Jem, bên cạnh Tessa, ngoắc ngón út vào ngón út của cô. Đó là hành động anh thường làm
tỏ sự trìu mến, một hành động Tessa đã quen sau vài tháng qua, đủ để cô đôi khi chìa tay
ra mà chẳng buồn suy nghĩ mỗi khi anh đứng cạnh. “Đây là váy cưới của em à?” Anh thì
thầm.

Tessa không đáp vì Bridget xuất hiện, cầm bộ đồ đi săn, và Gideon đột ngột quay lại với
tất cả và nói. “Chiswick. Chúng ta phải đi. Gabriel và tôi, nếu những người khác không
đi.”

“Chỉ hai anh đơn thương độc mã?” Tessa giật mình buột miệng. “Nhưng sao anh không
nhờ những người khác đi cùng?”

“Clave,” Will nói, đôi mắt xanh ánh niềm hứng thú. “Anh ấy không muốn Clave biết
chuyện bố mình.”
“Thế cậu có muốn Clave biết chuyện bố cậu không?” Gabriel nóng nảy nói. “Nếu đây là
chuyện nhà cậu?” Môi anh ta cong lên. “Thôi đi. Cậu cũng đâu biết ý nghĩa là lòng
trung…”

“Gabriel.” Giọng Gideon khiển trách. “Đừng nói với Will cái kiểu đấy.”

Gabriel ngạc nhiên, và Tessa khó lòng trách anh ta. Như mọi cư dân khác trong Học
Viện, Gideon biết về lời nguyền của Will, về niềm tin khiến anh luôn tỏ vẻ thù địch và
khó chịu, nhưng đó là chuyện họ biết với nhau, và không kể với bất kì ai khác.

“Chúng tôi sẽ đi cùng hai anh. Tất nhiên chúng tôi sẽ đi cùng,” Jem nói, buông tay Tessa
và tiến lên. “Gideon đã giúp đỡ chúng tôi. Chúng ta không hề quên, đúng không,
Charlotte?”

“Tất nhiên không,” Charlotte nói và quay người lại. “Bridget, đồ đi săn…”

“May mà tôi mặc sẵn đồ đi săn rồi,” Will nói khi Henry cởi áo khoác và đổi sang áo
khoác đi săn và đeo thắt lưng vũ khí; Jem cũng hành động tương tự và đột nhiên sảnh
trước náo nhiệt hẳn – Charlotte thì thầm trò chuyện với Henry, tay đặt ngay trước bụng.
Tessa thôi nhìn giây phút riêng tư đó và thấy mái đầu đen bên cạnh mái đầu trắng. Jem
đứng bên cạnh Will, tay đã rút thanh stele, và vẽ một chữ rune bên cổ Will. Cecily nhìn
anh mình và nhăn mày.

“Em cũng may mà đã mặc sẵn đồ đi săn rồi,” cô ấy tuyên bố.

Will ngẩng phắt lên, khiến Jem bực bội kêu vài tiếng phản đối. “Cecily, hoàn toàn không
được.”

“Anh không có quyền bảo em được hay không được làm gì.” Mắt cô ấy lóe sáng. “Em sẽ
đi.”

Will quay sang nhìn Henry, nhưng anh ấy nhún vai tỏ vẻ áy náy. “Cô ấy có quyền. Cô ấy
đã luyện tập gần hai tháng…”

“Em ấy còn nhỏ!”

“Hồi mười lăm tuổi bồ cũng bắt đầu xông pha trận mạc rồi,” Jem lẳng lặng nói, và Will
quay phắt sang. Trong giây phút đó mọi người dường như đều nín thở, kể cả Gabriel. Jem
nhìn thẳng vào mắt Will, kiên định, và đây không phải lần đầu tiên Tessa cảm nhận được
cuộc đối thoại không lời giữa họ.

Will thở dài và hơi nhắm mắt. “Tiếp theo Tessa sẽ bảo cũng muốn đi.”
“Tất nhiên là em đi,” Tessa nói. “Có thể em không phải Thợ Săn Bóng Tối, nhưng em
cũng được huấn luyện rồi. Jem không được đi khi không có em.”

“Em đang mặc váy cưới,” Will phản đối.

“Ờ, vì giờ tất cả đều đã thấy nó nên em sẽ không mặc nó trong tiệc cưới nữa,” Tessa nói.
“Xui xẻo mà.”

Will lầm bầm gì đó bằng tiếng Wales – không ai hiểu, nhưng bằng giọng của chịu trận.
Bên kia, Jem hé nở nụ cười lo lắng với Tessa. Bỗng cửa Học Viện mở, cho chút nắng thu
rọi vào. Cyril đứng ngay tại cửa, thở không ra hơi.

“Cỗ xe thứ hai đã sẵn sàng,” anh ấy nói. “Vậy những ai sẽ đi?”

Gửi Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Từ: Hội Đồng

Thưa ông,

Chắc hẳn ông cũng biết nhiệm kì Quan Chấp Chính kéo dài mười năm của ông sắp kết
thúc. Đã tới lúc chọn ra người kế nhiệm.

Về phần chúng tôi, chúng tôi nghiêm túc cân nhắc đề cử Charlotte Branwell, nhũ danh
Fairchild. Cô ấy đã thực hiện xuất sắc cương vị người đứng đầu Học Viện Luân Đôn, và
chúng tôi tin cô ấy nhận được sự đồng thuận của ông, vì chính ông đã chỉ định cô ấy kế
nghiệp cha.

Vì ý kiến và thái độ của ông có giá trị nhất với chúng tôi, chúng tôi rất mong nhận được
đánh giá của ông về vấn đề này.

Chúc ông muôn vàn điều tốt đẹp,

Victor Whitelaw, Điều Tra Viên, thay mặt Hội Đồng


2

KẺ DIỆT GIUN
Và ấy – một sinh vật điên loạn

Tội lỗi cũng nhiều, và gieo rắc hoảng kinh

– Edgar Allan Poe, The Conqueror Worm

Khi cỗ xe ngựa lăn bánh qua cổng nhà Lightwood tại Chiswick, Tessa được chiêm
ngưỡng kĩ càng nơi này, vì lần trước cô tới là vào buổi đêm tối om. Một con đường rải đá
dài rợp bóng cây dẫn tới căn nhà sơn trắng rộng rãi có một lối đánh xe vòng tròn ngay
đằng trước, và những con đường lát đá khác rẽ ra chạy vào vườn. Căn nhà trông rất giống
những bức hình vẽ điện thờ La Mã và Hy Lạp cổ điển, với những đường nét đối xứng
mạnh mẽ cùng những hàng cột trắng. Một cỗ xe ngựa đang đậu trước thềm nhà.

Và khu vườn thật đẹp. Kể cả trong thời tiết tháng mười, muôn hoa vạn lá vẫn đang đua
hương khoe sắc: hoa hồng đỏ nở muộn cùng hoa cúc mang sắc cam đồng, vàng tươi và
vàng sậm gọn gàng viền theo con đường chạy qua các hàng cây thân gỗ. Khi Henry cho
xe dừng lại, Tessa được Jem giúp rời xe. Cô nghe có tiếng nước chảy: nghe giống tiếng
một dòng suối bị đổi dòng để chảy trong vườn. Đây quả là một chốn xinh đẹp, và cô khó
lòng liên hệ nó với cùng cái nơi Benedict tổ chức bữa tiệc quỷ, dù cô nhận ra con đường
chạy sang bên hông nhà cô đã đi tối đó. Nó dẫn đến bên chái nhà trông như mới được xây
thêm…

Xe ngựa nhà Lightwood do Gideon điều khiển dừng lại phía sau họ. Gabriel, Will và
Cecily bước ra. Anh em Herondale vẫn đang bận cãi cọ khi Gideon đi xuống, Will vừa ra
rả lên lớp cô em vừa hoa tay múa chân loạn xạ. Cecily cau mày với anh, vẻ bực bội trên
gương mặt khiến cô ấy trông rất giống anh mình, và hẳn trong những hoàn cảnh khác sẽ
khiến Tessa thích thú lắm.

Gideon, trông còn tái hơn trước, xoay người một vòng, thanh kiếm được tuốt trần cầm
chắc trong tay.

“Xe ngựa của Tatiana,” anh nói cụt lủn khi Jem và Tessa tới bên. Anh chỉ cỗ xe dừng
dưới thềm. “Hẳn em tôi quyết định về bất ngờ.”

“Sao lại đúng lúc này…” Gabriel có vẻ bực, nhưng đôi mắt xanh đượm nét sợ hãi.
Tatiana là em gái họ, vừa mới kết hôn. Nhìn gia huy hình bụi cây gai vẽ trên xe, Tessa
đoán đấy hẳn là gia huy nhà chồng cô ta. Cả nhóm đứng im quan sát khi Gabriel tiến về
xe ngựa, rút một thanh kiếm cong dài khỏi thắt lưng. Anh ta thò đầu vào, và chửi thề ầm
ĩ.

Anh lùi ra, nhìn thẳng vào mắt Gideon. “Có máu trên ghế,” anh ta nói. “Và… thứ này.”
Anh chọc kiếm vào bánh xe, và khi kiếm được rút lại, trên đó dính một vệt nhớt bốc mùi
tanh tưởi.

Will rút dao thiên thần khỏi áo và hô lớn, “Eremiel!” Khi nó bừng sáng như một ngôi sao
trắng xanh dưới nắng thu, anh chỉ về hướng bắc, rồi hướng nam. “Khu vườn bao quanh
nhà, chạy ra tận dòng sông,” anh nói. “Tôi biết – tôi đã đuổi theo con quỷ Marbas khắp
vườn đêm nọ. Dù Benedict ở đâu, tôi nghi ông ta sẽ không rời vùng này. Vậy lộ liễu
quá.”

“Chúng tôi sẽ lo phần tây ngôi nhà. Cậu xử lí phần phía đông,” Gabriel nói. “Cứ hét lên
nếu thấy gì và chúng tôi sẽ tới yểm trợ.”

Gabriel quệt quệt lưỡi kiếm vào đá lát đường, đứng lên, và theo anh trai vòng sang hông
nhà. Will đi hướng khác, theo sau là Jem, Cecily và Tessa. Will dừng lại ở góc nhà, lướt
nhìn khu vườn một lượt, cẩn trọng xem có cảnh tượng hay âm thanh gì bất thường không.
Một lát sau, anh ra hiệu cho những người khác theo sau.

Khi họ tiến lên, gót giày Tessa vấp phải một viên đá ngay dưới bờ giậu. Cô loạng choạng,
và ngay lập tức ổn định lại, nhưng Will đã liếc nhìn và nhăn mặt. “Tessa,” anh nói. Từng
có hồi anh gọi cô là Tess, nhưng thời ấy đã qua rồi. “Em không nên đi cùng tụi anh. Em
chưa sẵn sàng. Em nên đợi trong xe thì hơn.”

“Còn lâu,” Tessa cứng đầu đáp.

Will nhìn sang Jem đang chuẩn bị nín cười. “Tessa là vợ sắp cưới của bồ. Bồ nói chuyện
với cô ấy đi.”

Jem, một tay cầm cây gậy–kiếm, chắn phía trước cô. “Tessa, giúp anh một chuyện, được
không?”

“Anh nghĩ em không chiến đấu được,” Tessa nói, lùi lại và nhìn thẳng vào đôi mắt xám
bạc của anh. “Vì em là con gái.”

“Anh nghĩ em không chiến đấu được vì em đang mặc váy cưới,” Jem nói. “Nói cho ngay,
anh nghĩ đến Will cũng chẳng đánh đấm được gì khi mặc thứ đó ấy chứ.”

“Có lẽ không,” Will, kẻ có tai thính như tai dơi, nói. “Nhưng tôi sẽ là cô dâu lộng lẫy.”
Cecily giơ tay chỉ đằng xa. “Gì thế kia?”

Cả bốn người cùng quay ra nhìn bóng dáng đang chạy về phía họ. Ánh nắng chiếu thẳng,
và trong một lúc, khi mắt Tessa đang dần thích nghi, cô chỉ thấy lờ mờ. Cái bóng mờ dần
rõ ràng thành một cô gái đang hớt hải chạy. Mũ cô ta đã biến mất; mái tóc màu nâu sáng
tung bay trong gió. Cô ta cao gầy, mặc chiếc váy màu hồng tím sáng có lẽ từng rất đẹp
nhưng giờ rách rưới và dính máu. Cô ta vừa kêu thét vừa chạy về phía họ và lao vào vòng
tay Will.

Anh loạng choạng lui mấy bước, suýt đánh rơi Eremiel. “Tatiana…”

Tessa không biết do Will đẩy cô ta ra hay cô ta tự buông, nhưng khi Tatiana tách Will
một chút, Tessa có thể thấy gương mặt cô gái. Cô ta có gương mặt gầy, góc cạnh, tóc
màu cát giống Gideon, mắt xanh như Gabriel, và hẳn trông cũng xinh nếu không mang
nét cắm cảu. Dù cô ta đang khóc nấc nhưng vẫn có gì đó rất kịch, như thể cô ta biết mọi
ánh mắt đang dồn vào mình – nhất là Will.

“Một con quái vật khổng lồ,” cô ta sụt sùi. “Một sinh vật – nó tóm lấy Rupert yêu dấu
khỏi xe ngựa và kết liễu anh ấy.”

Will đẩy cô ta ra xa hơn một chút. “‘Kết liễu’ là sao?”

Tatiana chỉ. “Ở… ở đó,” cô ta nức nở. “Nó lôi anh ấy tới khu vườn Ý. Lúc đầu anh ấy
cũng tránh được kết cục vào bụng nó, nhưng nó đuổi anh ấy khắp vườn. Dù em hét thế
nào, nó cũng không chịu nhả anh ấy ra!” Cô ta lại bắt đầu tức tưởi khóc tiếp.

“Cô hét,” Will nói. “Cô chỉ làm có vậy thôi?”

“Em hét to lắm đó.” Tatiana có vẻ ấm ức. Cô ta rời hẳn khỏi Will và nhìn anh bằng đôi
mắt xanh. “Em thấy anh vẫn hẹp hòi như trước.” Ánh mắt cô nàng lướt qua Tessa, Cecily
và Jem. “Chào anh Carstairs,” cô nàng kiểu cách nói như thể họ đang trong một bữa tiệc
vườn. Mắt cô ta nheo lại khi nhìn đến Cecily. “Còn cô là…”

“Ôi, nhân danh Thiên Thần!” Will đi thẳng qua cô ta; Jem, mỉm cười với Tessa, đi theo.

“Cô chắc chắn là em gái Will,” Tatiana nói với Cecily khi hai cậu con trai biến mất ở
đằng sau. Còn về phần Tessa thì cô ta lờ đi tuốt luốt.

Cecily ngờ vực nhìn cô ta. “Đúng, dù tôi không hiểu thế thì có vấn đề gì không. Tessa…
chị đi không?”
“Có chứ,” Tessa nói và đi cùng; dù Will – và Jem – có muốn cô đi cùng hay không, cô
không thể nhìn họ dấn thân vào chốn nguy hiểm mà không biết họ ở nơi nao. Sau một lát,
cô nghe tiếng bước chân ngập ngừng của Tatiana đằng sau.

Họ đi xa ngôi nhà, về phía khu vườn kiểu cách thấp thoáng sau những hàng giậu cao cao.
Xa xa, nắng phản chiếu trên căn nhà kính và gỗ có mái hình bát úp. Hôm ấy là một ngày
mùa thu đẹp trời: gió hanh và không khí đẫm mùi lá cỏ. Tessa nghe có tiếng xào xạc và
liếc nhìn ngôi nhà đằng sau. Mặt tiền trắng phẳng vươn cao, thi thoảng lại xuất hiện một
ban công cong cong duyên dáng.

“Will,” cô thầm thì khi anh kéo đôi tay đang vòng quanh cổ anh xuống. Anh tháo găng
tay của cô, vứt chúng xuống cùng chỗ với mặt nạ cùng đám kẹp ghim của Jessie nơi nền
ban công đá. Tiếp theo, anh bỏ mặt nạ của chính mình và ném sang bên, hất những lọn
tóc đen ướt ra khỏi trán. Gờ dưới chiếc mặt nạ để lại vệt hằn như một vết sẹo nông trên
đôi gò má cao của anh, nhưng khi Tessa định chạm vào, anh dịu dàng nắm tay cô và ép
xuống.

“Đừng,” anh nói. “Hãy để anh chạm vào em đã. Anh đã muốn…”

Mặt đỏ như cà chua, Tessa thôi nhìn căn nhà và quên đi kí ức hôm nào. Cả nhóm đến chỗ
hở nơi hàng giậu phía bên phải. Đằng sau đó chắc chắn là “khu vườn Ý”, được bao quanh
bởi những hàng rào mắt cáo. Bên trong vòng tròn khu vườn là những hàng tượng tạc
những người hùng và nhân vật thần thoại. Thần Venus cầm bình rót nước ở đài phun
chính giữa, những bức tượng trắng tạc những sử gia và chính khách vĩ đại – Caesar,
Herodotus, Thucydides – nhìn nhau bằng cặp mắt vô hồn từ hai bên những con đường tỏa
ra từ chính giữa. Ở đây còn có tượng các nhà thơ và kịch gia. Tessa, vội vã đi qua
Aristotle, Ovid, Homer – mắt ông được tạc bịt băng, ý rằng ông bị mù – Virgil và
Sophocles, trước khi nghe thấy một tiếng rít chói tai.

Cô quay phắt lại. Cách cô vài bước chân là Tatiana đứng đờ đẫn, mắt như muốn lòi tròng.
Tessa vội chạy ngược lại, những người khác đuổi ngay sau; cô tới chỗ cô gái kia trước, và
Tatiana ngầy ngật nắm tay cô, như thể quên mất Tessa là ai. “Rupert,” Tatiana nức nở,
nhìn chăm chăm về phía trước, và Tessa nhìn theo, thấy chiếc giày đàn ông trồi ra từ sau
một hàng giậu. Lúc đầu cô nghĩ anh ta hẳn ngã nhoài trên đất, cơ thể bị hàng rào mắt cáo
che khuất, nhưng khi cúi người nhìn tới, cô nhận ra chiếc giày – và một chút ít da thịt bị
gặm nham nhở, máu me trồi ra khỏi ống giày, nhưng tất cả cũng chỉ có thế.
“Một con giun dài mười hai mét?” Will lầm bầm tán dóc với Jem khi di chuyển qua khu
vườn Ý, giày họ – nhờ chữ rune Vô thanh – không tạo ra tiếng động gì trên con đường
đá. “Nghĩ xem chúng ta có thể dùng nó câu con cá to thế nào đi.”

Môi Jem giật giật. “Không vui tí nào đâu.”

“Có chút mà.”

“Bồ không thể làm tình huống bớt xấu bằng mấy lời đùa giun dế đấy đâu, Will. Chúng ta
đang nói đến bố của Gideon và Gabriel đấy.”

“Chúng ta không chỉ bàn về ông ta; chúng ta còn đuổi theo ông ta trong khu vườn đầy
những bức tượng trang trí vì ông ta đã hóa thành giun.”

“Một con giun quỷ,” Jem nói, dừng lại cảnh giác nhìn qua một bờ giậu. “Một con rắn lớn.
Thế có giúp cho sự hài hước không phải lúc của bồ không?”

“Từng có hồi sự hài hước không phải lúc của tôi khiến bồ thích thú chút ít,” Will thở dài.
“Xem con giun đã biến chuyện thành thế nào này.”

“Will…”

Tiếng hét chói tai cắt đứt lời nói của Jem. Cả hai cậu con trai quay phắt lại, vừa kịp thấy
Tatiana Blackthorn lùi vào vòng tay Tessa. Tessa ôm cô gái kia, đỡ cô ta khi Cecily đi
qua quãng hở, rút con dao thiên thần khỏi thắt lưng dễ dàng như một Thợ Săn Bóng Tối
lão luyện. Will không nghe thấy tiếng em, nhưng con dao thiên thần sáng lên trên tay cô,
chiếu sáng gương mặt Cecily và khiến bụng dạ Will nhộn nhạo khó chịu.

Anh bắt đầu chạy, Jem nối gót. Tatiana lả đi trong vòng tay Tessa, gương mặt chau lại
trong cơn ủ rũ. “Rupert! Rupert!” Tessa đang cố gắng đỡ cô gái kia, và Will muốn dừng
lại giúp cô – nhưng Jem đã làm, tay đặt lên tay Tessa, và thế cũng hợp lí. Đấy là vị trí của
cậu ấy, vì Jem là chồng sắp cưới của cô.

Will cố lắm mới thôi chú ý vào đó, mà quay sang nhìn em gái đang đi các hàng giậu, con
dao giơ cao khi cô bước lách qua phần thi thể còn lại của Rupert Blackthorn.

“Cecily!” Will tuyệt vọng gọi. Cô định quay lại…

Và thế giới bùng nổ. Một đài phun đất và bùn bắn tóe phía trước họ, phun thẳng lên trời.
Những đống đất và bùn rơi xuống như mưa đá. Ở giữa dòng phun là một con rắn mù to
tướng màu xám trắng nhạt. Màu của người chết, Will nghĩ. Một thứ mùi tanh tưởi bốc ra
từ nó giống hệt mùi mộ. Tatiana kêu lên một tiếng và ngất xỉu, khiến Tessa phải ngồi
xuống theo.

Con giun bắt đầu lắc lư cố thoát khỏi mặt đất. Miệng nó há to – đó không giống miệng
mà như một vết cứa đôi cái đầu to tướng, được viền lởm chởm răng cá sấu thì đúng hơn.
Tiếng rít sung sướng phát ra từ cổ nó.

“Dừng lại!” Cecily hét. Cô giơ con dao thiên thần sáng lòa lên phía trước; cô không hề sợ
hãi. “Lùi lại, thứ quỷ tha ma bắt!”

Con giun lao thẳng về phía cô. Cô nhanh chóng thủ thế, con dao cầm chắc trong tay, khi
cái mồm to tướng của nó phóng xuống, nhưng Will đã kịp nhảy xổ tới, đẩy cô sang bên.
Cả hai lăn vào một hàng giậu khi đầu con giun cắm đất đúng nơi cô vừa đứng, tạo thành
cái hố to tướng.

“Will!” Cecily đẩy anh sang, nhưng không kịp. Con dao của cô đã chém phải cẳng tay
anh, để lại một vết phỏng đỏ trên đó. Mắt cô sáng rực ngọn lửa xanh sẫm. “Không cần
thiết!”

“Em không được huấn luyện!” Will quát, gần như mất trí vì bực bội và hoảng hốt. “Em
sẽ khiến mình bị giết đấy! Ở nguyên đó cho anh!” Anh định chộp con dao, nhưng cô
tránh và đứng dậy. Một lát sau con giun lại há ngoác mồm ra bổ xuống. Will đã làm rơi
dao khi cố cứu em; nó cách anh vài bước. Anh nhảy sang bên, tránh cái mồm con quái
trong gang tấc, và rồi Jem ở đó, cầm cây gậy kiếm trong tay. Anh đâm kiếm lên, mạnh,
vào bên người con giun. Một tiếng gầm rú điên loạn bật ra từ họng nó, và nó quằn quại,
máu đen túa ra như mưa. Rít một tiếng, nó biến mất sau một hàng giậu.

Will quay lại. Anh chẳng thấy Cecily, vì Jem đã lao vào chắn giữa cô và Benedict, và
người cậu ấy toàn bùn và máu đen. Đằng sau Jem, Tessa đã kéo Tatiana vào lòng mình,
váy họ chồng lên nhau, chiếc váy màu hồng chói của Tatiana lẫn vào chiếc váy cưới màu
vàng đã bẩn của Tessa. Tessa đang cúi xuống như định ngăn cô gái kia thấy bố mình, và
rất nhiều máu quỷ bắn lên tóc và trang phục của Tessa. Cô ngước lên, mặt tái xanh, và
nhìn vào mắt Will.

Trong giây phút đó, khu vườn, tiếng động, mùi tanh của máu và quỷ đều biến mất, chỉ
còn mình anh trong không gian lặng như tờ cùng Tessa. Anh muốn chạy tới bên cô, ôm
cô vào lòng. Bảo vệ cô.

Nhưng đấy là việc của Jem, không phải của anh. Không phải của anh.
Giây phút đó trôi qua, và Tessa đứng lên, cố sức kéo Tatiana theo, vòng tay cô gái kia
qua vai mình kể cả khi Tatiana đang dựa vào cô, gần như đã bất tỉnh.

“Em phải đưa cô ấy rời khỏi đây. Cô ấy sẽ bị giết mất,” Will nói và nhìn khắp khu vườn.
“Cô ấy không được huấn luyện.”

Miệng Tessa mím lại tỏ vẻ cứng đầu quen thuộc. “Em không muốn bỏ anh lại.”

Cecily hoảng hốt. “Anh không nghĩ… Không phải sinh vật kia đã trốn rồi sao? Cô ấy là
con gái ông ta. Nếu nó… nếu ông ta… còn chút tình thân nào…”

“Ông ta ăn thịt con rể mình, Cecy,” Will gắt. “Tessa, đi cùng Tatiana nếu em muốn cứu
mạng cô ấy. Và đứng bên nhà cùng cô ấy. Cô ấy mà quay lại đây thì tai họa đấy.”

“Cảm ơn bồ,” Jem lầm bầm khi Tessa kéo cô gái kia bước thấp bước cao đi mất, và Will
thấy ba chữ đó như ba mũi kim găm vào trái tim anh. Mỗi khi Will làm gì bảo vệ Tessa,
Jem lại nghĩ đó là vì mình, chứ không phải vì chính Will. Will luôn ước Jem đúng. Mỗi
mũi kim đều có cái tên của riêng nó. Tội lỗi. Xấu hổ. Yêu thương.

Cecily hét lên. Một bóng đen che khuất mặt trời, và hàng giậu trước Will bị rẽ làm đôi.
Anh thấy mình đang nhìn vào cái cổ họng đỏ lòm của con giun to tướng. Dãi dớt nhểu ra
từ răng nó. Will rút thanh kiếm nơi thắt lưng, nhưng con giun đã giãy lên vì một con dao
găm đâm trồi ra từ một bên cổ nó. Will nhận ra tác giả của cú đâm đó là ai mà chẳng cần
quay lại. Đó là Jem. Anh nghe thấy parabatai của mình gào lên cảnh báo, và rồi con giun
lại lao về phía Will, và anh đâm thẳng kiếm lên, qua khoang miệng nó. Máu túa ra, bắn
vào đồ đi săn của Will , tạo ra những tiếng xèo xèo. Có gì đó va mạnh vào đầu gối và vì
bất ngờ, anh ngã mạnh, vai đập thẳng xuống nền cỏ.

Anh ho khan khi không khí bị tống ra khỏi phổi. Cái đuôi mảnh, chia đốt của con giun đã
quấn quanh đầu gối anh. Anh ngất đi, thấy những vì sao, gương mặt lo lắng của Jem, bầu
trời xanh trên kia…

Một mũi tên cắm sâu vào đuôi con giun, ngay dưới đầu gối Will. Benedict buông lỏng, và
Will lăn trên mặt đất và cố gắng chống đầu gối lên, đúng lúc thấy Gideon và Gabriel
Lightwood vội vã chạy về phía họ trên con đường đất. Gabriel cầm cung. Anh ta vừa
chạy vừa lắp tên, và Will hơi ngờ ngợ nhận ra Gabriel Lightwood vừa bắn bố đẻ để cứu
mạng mình.

Con giun lùi ra sau, và có bàn tay đặt dưới cánh tay Will, kéo anh đứng lên. Jem. Cậu ấy
buông anh ra, và anh quay lại thấy parabatai của mình đã lăm lăm cây gậy kiếm và chằm
chằm nhìn thẳng. Con giun quỷ hình như đang quằn quại đau đớn, vật đầu từ bên này
sang bên kia, những cú bổ của nó làm bật gốc cả những lùm cây bụi. Lá bay đầy trời, và
nhóm Thợ Săn Bóng Tối ho hắng vì hít phải bụi đất. Will nghe thấy tiếng ho của Cecily
và rất muốn bảo cô về nhà, nhưng anh biết cô sẽ không nghe.

Không hiểu sao, bằng những cú bổ như thế, con giun đã khạc được thanh kiếm ra; vũ khí
rơi lanh canh xuống bên cạnh mấy bụi hồng, bị nhuốm máu đen. Con giun bắt đầu trườn
ngược ra sau, để lại một vệt nhớt và máu. Gideon nhăn nhó và chạy tới cầm thanh kiếm
nằm chỏng chơ bằng bàn tay đeo găng.

Đột nhiên Benedict dựng thẳng người như một con rắn hổ mang, hàm mở ra và nhểu
nhớt. Gideon giơ kiếm: thứ vũ khí ấy trong nhỏ vô cùng so với cơ thể đồ sộ của con quái.

“Gideon!” Đó là Gabriel, mặt trắng bệch, giương cung; Will quay lách người khi mũi tên
bay qua anh và găm vào cơ thể con giun. Con giun kêu lên và quay lại, trườn bỏ trốn
nhanh bất ngờ. Trong lúc đó, đuôi nó cuốn vào một bức tượng và quấn chặt – bức tượng
vỡ tan thành bụi, bay xuống cái hồ trang trí đã cạn khô.

“Lạy Thiên Thần, nó vừa bóp nát Sophocles rồi,” Will cảm thán khi con giun biến mất
đằng sau khối kiến trúc lớn mang hình dạng giống một đền thờ Hy Lạp. “Ngày nay không
còn ai tôn trọng giá trị cổ điển à?”

Gabriel, thở dốc, hạ cung. “Đồ ngốc,” anh ta hằn học nói với anh mình. “Anh nghĩ gì mà
lao đến chỗ ông ấy như thế?”

Gideon quay lại, chỉ thanh kiếm dính máu vào Gabriel. “Không phải ‘ông ấy’, mà là nó.
Đấy không còn là bố chúng ta nữa, Gabriel. Nếu em không thể đối diện với sự thật
rằng…”

“Em đã bắn ông ấy!” Gabriel gắt. “Anh còn muốn gì ở em nữa, Gideon?”

Gideon lắc đầu như thể chán ghét cậu em; kể cả Will, vốn chẳng ưa Gabriel, cũng thấy
hơi thông cảm cho anh ta. Anh ta buộc phải bắn con quái.

“Chúng ta phải đuổi theo nó,” Gideon bảo. “Nó vừa lẩn ra đằng sau công trình toi tiền
kia…”

“Cái gì kia cơ?” Will nói.

“Công trình toi tiền, Will,” Jem nói. “Đấy là cấu trúc trang trí. Tôi nghĩ nó không có gì
bên trong.”
Gideon lắc đầu. “Nó là vách thạch cao thôi. Nếu hai anh em tôi đi vòng qua một bên, còn
cậu và James theo hướng kia…”

“Cecily, em làm gì thế?” Will hỏi, ngắt lời Gideon; anh biết anh nói nghe giống một phụ
huynh vô tâm, nhưng anh mặc kệ. Cecily đã nhét dao trở lại thắt lưng và hình như định
trèo lên một trong những cây thông đỏ nho nhỏ bên trong hàng giậu đầu tiên. “Đây không
phải lúc trèo cây!”

Cô bực bội nhìn anh, mái tóc đen lòa xòa qua mặt. Cô mở miệng định trả lời, nhưng trước
khi kịp cất tiếng thì đã có tiếng như đất dậy, và công trình toi tiền kia vỡ tan thành hàng
ngàn mảnh thạch cao. Con giun phóng thẳng về phía họ với tốc độ phải ngang ngửa đoàn
tàu mất lái.

Khi họ tới được sân nhà Lightwood, cổ và lưng Tessa đã mỏi nhừ. Cô đã thít chặt corset
bên dưới cái váy cưới nặng nề, và sức nặng của Tatiana đang thổn thức đè lên khiến vai
trái cô đau đớn.

Cô nhẹ nhõm hẳn khi thấy mấy cỗ xe ngựa – nhẹ nhõm, nhưng cũng giật mình. Cảnh
tượng trong sân thật yên bình – mấy cỗ xe vẫn ở nguyên chỗ cũ, đám ngựa gặm cỏ, mặt
tiền ngôi nhà không hề suy suyển. Sau khi nửa đỡ nửa lôi Tatiana vào cỗ xe ngựa đầu
tiên, Tessa mở toang cửa và giúp cô ta vào, nhăn nhó khi bộ móng sắc của cô gái kia bấu
vào vai cô khi cô ta đưa mình và cả chiếc váy vào trong.

“Ôi Chúa ơi,” Tatiana sụt sùi. “Thật kinh khủng, kinh khủng quá sức. Clave sẽ biết biến
cố gì đã xảy tới với bố tôi. Trời ơi, ông ấy có thể nghĩ tới tôi, dù chỉ một phút không?”

Tessa chớp mắt. “Thứ đó,” cô nói. “Tôi không nghĩ nó có thể nghĩ đến ai đâu, phu nhân
Blackthorn.”

Tatiana bối rối nhìn cô, và trong giây phút đó Tessa tiếc vì đã thương hại cô gái kia. Cô
không thích phải rời khu vườn, nơi có lẽ cô sẽ giúp được những người còn lại ít nhiều –
nhưng Tatiana đã tận mắt chứng kiến bố đẻ xé xác chồng mình. Cô ta đáng được thông
cảm hơn Tessa đang cảm thấy.

Tessa nhẹ nhàng hơn. “Tôi biết cô vừa trải qua cú sốc quá lớn. Nếu cô nằm xuống…”

“Cô cao quá,” Tatiana nói. “Mấy anh chàng kia có phàn nàn không?”

Tessa giật mình.


“Và cô mặc đồ cưới,” Tatiana nói. “Vậy không phải quá kì cục sao? Không phải mặc đồ
đi săn sẽ hợp với hoàn cảnh này hơn à? Tôi hiểu nói thế này là cực kì không phải,
nhưng…”

Đột nhiên có tiếng lạo xạo. Tessa lùi ra khỏi xe và liếc nhìn quanh; âm thanh vang tới từ
trong nhà. Henry, Tessa nghĩ. Henry đã một mình vào trong nhà. Tất nhiên, sinh vật kia ở
ngoài vườn, nhưng thế nào thì đó cũng là nhà Benedict. Cô nghĩ tới phòng khiêu vũ chật
ních những con quỷ vào lần trước cô đến, và cô xốc váy bằng cả hai tay. “Ở nguyên đây,
phu nhân Blackthorn,” cô bảo. “Tôi phải xem âm thanh đó từ đâu ra.”

“Đừng!” Tatiana ngồi bật dậy. “Đừng bỏ tôi lại!”

“Tôi rất tiếc.” Tessa lùi vài bước và lắc đầu. “Tôi phải đi. Làm ơn ở nguyên trong xe!”

Tatiana hét gì đó theo, nhưng Tessa đã chạy vội lên thềm nhà. Cô đi qua cửa trước và vào
tiền sảnh rộng rãi lát đá cẩm thạch đen và trắng như ô bàn cờ. Một ngọn đèn chùm lớn
buông xuống từ trần, nhưng không một ngọn đèn nào được thắp sáng; nguồn sáng duy
nhất là ánh nắng chiếu xuống qua những ô cửa sổ cao cao. Một cặp cầu thang tráng lệ
cong cong dẫn lên trên. “Henry!” Tessa gọi. “Henry, anh ở đâu?”

Một tiếng hét trả lời rồi thêm những tiếng thình thịch ở tầng trên. Tessa chạy vội lên cầu
thang, loạng choạng vì giẫm phải gấu váy và làm rách một mảng to tướng. Cô bực bội
kéo váy gọn sang một bên và tiếp tục chạy, theo hành lang dài có tường được sơn màu
xanh lam nhạt và treo hàng tá những bức tranh bản khắc lồng khung mạ vàng, qua một
cánh cửa, và vào một căn phòng khác.

Đấy chắc chắn là phòng đàn ông, thư viện hoặc thư phòng, căn cứ vào rèm bằng vải tối
màu dày dặn, tranh sơn dầu vẽ những con tàu chiến treo trên tường. Tường dán giấy có
màu xanh lá sẫm, dù hình như nó đã dính mấy vệt tối màu kì cục. Nơi này có mùi là lạ –
giống mùi bên bờ sông Thames, nơi những thứ kì cục thối rữa dưới ánh mặt trời yếu ớt.
Và nồng hơn cả là mùi máu. Giá sách bị đổ, kính vỡ và vụn gỗ khắp nơi, và trên tấm
thảm Ba Tư bên cạnh đó là Henry đang vật lộn với sinh vật da xám xịt và có cả tá tay.
Henry đang la hét và đấm đá, còn thứ đó – chắc chắn là quỷ rồi – đang dùng móng vuốt
xé trang phục của anh, cái mõm như mõm sói táp vào mặt anh.

Tessa hoảng hốt nhìn quanh, cầm cây cời lò bên cạnh lò sưởi, và phi. Cô cố nhớ lại quá
trình luyện tập – suốt nhiều giờ dưới sự giảng dạy tận tình của Gideon về cách xác định
lực, tốc độ và cách cầm – nhưng cuối cùng có vẻ cô phi nguyên cây sắt dài vào ngực sinh
vật kia hoàn toàn theo bản năng, và chỗ đó đáng ra sẽ là lồng ngực nếu kia là một con vật
thuộc về trái đất.
Cô nghe gì đó kêu răng rắc khi vũ khí trúng đích. Con vật rú lên như chó tru và buông tha
Henry, thanh cời lo rơi lanh canh xuống sàn. Máu đen túa ra, khiến căn phòng sặc sụa
mùi khói và thối rữa. Tessa loạng choạng lùi ra sau, chân giẫm phải gấu váy đã rách rời.
Cô ngã bịch xuống đúng lúc Henry bật lên, và lầm bầm chửi thề, dùng con dao sáng
những chữ rune chém ngang cổ con quỷ. Nó kêu mấy tiếng nghèn nghẹt rồi thu nhỏ như
giấy bị gấp lại.

Henry đứng lên, mái tóc đỏ cam bết máu. Bộ đồ đi săn của anh bị rách ở vai, máu đỏ sẫm
trào ra từ vết thương. “Tessa,” anh kêu lên rồi đến bên, giúp cô đứng dậy. “Lạy Thiên
Thần, chúng ta là một cặp đồng cảnh ngộ,” anh nói đúng theo kiểu của Henry ảo não, và
lo lắng nhìn cô. “Em không bị thương chứ?”

Cô nhìn mình và hiểu ý anh: váy cô đầy máu đen, và trên cánh tay cô có vết thương xấu
xí vì cô ngã trúng miếng kính vỡ. Cô chưa thấy đau mấy, nhưng có máu chảy. “Em khá
ổn,” cô nói. “Chuyện gì vậy, Henry? Thứ kia là gì và sao nó ở đây?”

“Quỷ bảo vệ ấy mà. Anh đang lục bàn Benedict, và chắc anh đã di chuyển hay chạm phải
gì đó đánh thức nó. Một luồng khói đen bay ra từ ngăn kéo, và trở thành thứ đó. Nó lao
vào anh…”

“Và cào anh,” Tessa lo lắng nói. “Anh bị chảy máu…”

“Không, do anh cả thôi. Ngã trúng con dao của mình ấy mà,” Henry ngượng ngùng nói
và rút thanh stele khỏi thắt lưng. “Đừng kể với Charlotte nhé.”

Tessa suýt cười; rồi nhớ ra, cô chạy vội ra kéo rèm. Cô nhìn thấy vườn, nhưng chán thay,
đó không phải khu vườn Ý; ở phía bên này nhà không nhìn thấy được. Những hàng giậu
tỉa hình khối hộp và bãi cỏ phẳng lì bắt đầu ngả nâu khi đông sắp tới trải dài trước mắt
cô. “Em phải đi,” cô nói. “Will, Jem và Cecily – họ đang chiến đấu với sinh vật đó. Và nó
đã giết chồng Tatiana Blackthorn. Em vừa đỡ cô ấy trở vào xe ngựa vì cô ấy gần như đã
lả.”

Im lặng. Rồi: “Tessa,” Henry nói bằng giọng kì cục, và cô quay lại, thấy anh đang bận vẽ
iratze trong bụng cánh tay. Anh đang nhìn chăm chăm vào bức tường đối diện – bức
tường lúc trước Tessa tưởng bị bôi bẩn và lốm đốm máu. Giờ cô thấy những dấu vết đó
không phải vô tình mà có, mà là những con chữ dài cả tấc chạy dọc tường, viết bằng gì
đó như máu đen khô.

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT THƯƠNG TIẾC.

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT HỐI HẬN.


QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT GIỚI HẠN.

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT NGỪNG BƯỚC.

Và bên dưới mấy dòng nguệch ngoạc đó là câu cuối, như thể được ai đó viết ra trước khi
không còn điều khiển được tay mình nữa. Cô tưởng tượng Benedict nhốt mình trong căn
phòng này, từ từ hóa rồ trong khi biến đổi, viết mấy chữ này lên tường bằng thứ máu
đang dần chuyển đen của ông ta.

CẦU CHÚA ĐOÁI THƯƠNG LINH HỒN CHÚNG TA.

Con giun xông tới – và Will lăn tròn ra trước, tránh được cái miệng đợp tới của nó trong
gang tấc. Anh dừng lại trong tư thế co người, rồi đứng lên, chạy theo chiều dài sinh vật
tới khi đến cái đuôi đang vung vẩy của nó. Anh quay lại và thấy con quái đang sừng sững
như rắn hổ mang trước Gideon và Gabriel – nhưng ngạc nhiên nay, có vẻ nó sững lại, rít
lên nhưng không tấn công. Nó nhận ra con mình ư? Có tình cảm với họ? Khó nói lắm.

Cecily leo được nửa cây thông đỏ, và bám vào một cành. Mong rằng cô sẽ hiểu chuyện
và ở nguyên đó, Will lao về phía Jem và giơ tay để parabatai có thể thấy anh. Trước đây
rất lâu họ đã nghĩ ra một loạt động tác để giao tiếp với nhau khi đang dở tham chiến, đề
phòng người này không nghe được tiếng người kia. Mắt Jem sáng lên ra chiều đã hiểu, và
anh ném cây gậy cho Will. Cú ném hoàn hảo kết thúc khi Will bắt được cây gậy và gạt
chốt. Lưỡi kiếm bật ra, và Will chém mạnh xuống lớp da dày của sinh vật nọ. Con giun
giật mình và rú lên khi Will lại đâm, chém đứt rời đuôi nó. Benedict quằn quại, máu đen
phun ra như suối, ướt đầm người Will. Anh hét lên tránh, nhưng vẫn bị bỏng.

“Will!” Jem lao tới. Gideon và Gabriel đang chém vào đầu con giun, cố hết sức để khiến
nó tập trung vào họ. Khi Will lau máu khỏi mắt bằng tay không cầm vũ khí, Cecily nhảy
từ trên cây xuống thẳng vào lưng con giun.

Will hoảng hốt ném cây gậy kiếm đi. Anh chưa từng ném vũ khí giữa trận chiến, nhưng
em gái anh đang nhất quyết bám vào lưng con giun quỷ khổng lồ, như con bọ chét tí hin
bám vào lông chó. Khi anh hoảng hốt nhìn, Cecily rút dao khỏi thắt lưng và đâm mạnh
vào người con quỷ.

Nó nghĩ mình đang làm gì chứ? Như thể con dao nhỏ đó có thể giết một sinh vật bự thế
kia! “Will, Will,” Jem đang nói bên tai anh, giọng giục giã, và Will nhận ra anh vừa nói
thành tiếng, và lạy Thiên Thần, con giun đang quay đầu về phía Cecily, miệng mở to đầy
những răng…
Cecily buông chuôi dao và nhảy khỏi người con giun. Hàm nó táp trượt cô trong đường
tơ kẽ tóc và cắn mạnh phải người nó. Máu đen túa ra và con giun ngẩng phắt đầu, rú một
tràng dài nghe như tiếng nữ thần báo tử. Một vết thương lớn bên người nó và thịt nó đang
treo tòng teng nơi quai hàm. Trong khi Will nhìn, Gabriel giương cung và bắn.

Mũi tên xé gió bay và cắm thẳng vào con mắt đen không mí của con giun. Sinh vật giật
ngược lên – rồi đầu nó chúi về trước và nó co lại, biến mất như mọi con quỷ khác khi
sinh mệnh rời bỏ chúng.

Cây cung của Gabriel rơi xuống đất nhưng Will gần như chẳng nghe thấy. Nền đất nện
ướt đầm máu giun. Ở giữa tất cả, Cecy từ từ đứng lên, nhăn nhó, cổ tay phải cong theo
một góc độ kì cục.

Will không hề có cảm giác mình đang chạy tới – anh chỉ nhận ra khi bị Jem giữ lại. Anh
bực bội quay sang parabatai. “Em gái tôi…”

“Mặt bồ,” Jem đáp với sự bình tĩnh đáng ngạc nhiên nếu xét đến tình huống này. “Người
cậu toàn máu quỷ, William, và nó làm bồ bị bỏng. Tôi phải vẽ iratze cho bồ trước khi bồ
bị quá nặng.”

“Thả tôi ra,” Will khăng khăng, và cố thoát, nhưng bàn tay lành lạnh của Jem đang giữ cổ
anh, và anh cảm nhận được cảm giác nóng bỏng của thanh stele gây ra trên cổ tay anh, rồi
cảm giác đau anh không hề biết mình cảm thấy đang dần dịu bớt. Jem buông anh ra và
khẽ kêu đau; Jem cũng bị dính ít máu quỷ ở tay. Will dừng lại, lưỡng lự – nhưng Jem đã
vẫy tay bảo anh đi, và tự mình dùng thanh stele.

Anh chỉ chậm lại một chút, nhưng khi Will tới chỗ em gái, Gabriel đã có mặt trước.
Gabriel đang giữ cằm cô, đôi mắt xanh lá nhìn khắp gương mặt cô. Cô kinh ngạc ngước
nhìn anh ta khi Will tới và vỗ vai cô.

“Tránh xa em gái tôi ra,” anh gắt và Gabriel lùi lại, miệng mím chặt. Gideon tới ngay sau
đó và tất cả vây quanh Cecily khi Will nhanh chóng một tay giữ em, một tay dùng thanh
stele. Cô nhìn anh bằng đôi mắt xanh lấp lánh khi anh vạch chữ rune iratze lên một bên
cổ, và mendelin ở bên kia. Mái tóc đen của cô đã xổ ra khỏi bím tóc, và cô giống hệt cô
gái nhỏ nghịch ngợm trong kí ức của anh, bướng bỉnh và chẳng biết sợ là gì.

“Em có sao không, cariad1?” Từ đó vô thức bật ra khỏi miệng anh – một từ âu yếm hồi
nhỏ hay dùng mà anh tưởng mình đã lãng quên.

“Cariad?” Cô nhắc lại, mắt sáng lên vì không tin nổi. “Em hầu như chẳng hề hấn gì.”
1
Một từ tỏ ý trìu mến trong tiếng Wales, tương tự như bé cưng.
“Không hẳn,” Will nói và chỉ cổ tay bị thương cùng các vết xước xát trên mặt và tay đang
bắt đầu liền dưới tác dụng của iratze. Cơn giận sục sôi trong anh, tới độ anh không nghe
thấy tiếng ho hắng của Jem ở đằng sau – âm thanh thường khiến anh hành động nhanh
như chớp. “Cecily, em có thể đã…”

“Đấy là điều dũng cảm nhất tôi từng thấy ở một Thợ Săn Bóng Tối,” Gabriel ngắt lời.
Anh ta không nhìn Will mà nhìn Cecily, với vẻ vừa ngạc nhiên vừa… gì đó. Có bùn và
máu trên tóc anh ta, và mọi người đều vậy, nhưng đôi mắt xanh lại rất sáng.

Cecily đỏ mặt. “Em chỉ…”

Cô ngừng lại, mắt mở lớn khi nhìn qua Will. Jem lại ho và lần này Will đã nghe thấy; anh
quay lại vừa kịp thấy parabatai của mình khuỵu gối xuống.
3

TỚI GIỜ PHÚT CUỐI


Này đừng hòng, chớ mong ta tuyệt vọng,

Hay buông tha chút sinh mệnh cuối cùng.

Lệ trong ta dù đã khô cạn,

Nhưng hi vọng vẫn mãi dâng đầy

Rằng bình minh tới, ta còn trên cõi đời.

– Gerard Manley Hopkins, Carrion Comfort

Jem đang dựa người vào bên xe ngựa Học Viện, mắt nhắm, mặt trắng bệch như giấy.
Will đứng cạnh, tay nắm chặt vai Jem. Khi vội vàng chạy đến, Tessa đã biết rằng đây
không phải hành động thân tình giữa con trai với nhau. Anh đang giữ rất chặt để Jem còn
đứng được.

Cô và Henry đã nghe thấy tiếng kêu chối chết của con giun. Gabriel tìm thấy họ, chắc
chừng một lúc rất lâu sau, khi họ đang chạy xuống bậc thềm nhà. Anh hổn hển kể họ
nghe rằng con quái đã chết, và rồi chuyện Jem, tất cả đều khiến Tessa tái mét mặt mày,
như thể cô đột ngột bị ai đó giáng cho một cú tát trời đánh.

Đó toàn là những từ cô lâu rồi không nghe nhưng luôn phấp phỏng chờ đợi, và thi thoảng
bắt gặp trong những cơn ác mộng khiến cô giật mình choàng tỉnh, chấp chới không thở
nổi – “Jem,” “gục,” “thở”, “máu,” “Will,” “Will ở cùng cậu ấy,” “Will…”

Tất nhiên Will phải ở bên Jem.

Những người khác đã tụ tập lại cả, anh em nhà Lightwood cùng em gái họ. Tatiana nín
thinh, hoặc có lẽ Tessa không nghe được tiếng sụt sùi của cô ta. Tessa biết Cecily cũng ở
gần, và Henry ngượng nghịu đứng ngay sau cô, như thể anh muốn an ủi cô nhưng không
biết mở đầu thế nào.

Will nhìn Tessa khi cô đi tới gần hơn, một lần nữa suýt giẫm phải gấu váy. Trong giây
phút đó họ hiểu nhau tuyệt đối. Chỉ khi có chuyện liên quan tới Jem họ mới nhìn thẳng
vào mắt nhau. Trong những vấn đề liên quan đến Jem, họ đều kiên cường và không
khoan nhượng. Tessa thấy Will nắm chặt tay áo Jem. “Cô ấy đến rồi,” anh nói.
Jem từ từ mở mắt. Tessa phải cố lắm mới giấu được nét bàng hoàng. Đôi đồng tử của anh
nở to, mống mắt là một vành bạc mảnh bao quanh màu đen. “Ni shou shang le ma, quin
ai de?” anh thì thào.

Jem đã dạy tiếng Hán cho Tessa, vì bị cô nì nèo mãi. Ít nhất cô cũng hiểu “quin ai de” là
gì. Em yêu, tình yêu của anh. Cô nắm tay anh và siết chặt. “Jem?”

“Em bị thương sao, em yêu?” Will nói. Giọng anh nhàn nhạt, và trong phút ấy máu chảy
rần rần lên má Tessa, và cô nhìn tay mình đang nắm tay Jem; ngón tay anh trắng hơn tay
cô, trông như bàn tay búp bê sứ. Sao cô lại không nhận ra anh ốm tới chừng này chứ?

“Cảm ơn anh đã dịch, Will,” cô hỏi và không rời mắt khỏi vị hôn phu. Jem và Will người
đều dính đầy máu đen, nhưng cằm và cổ Jem còn có thêm những đốm máu đỏ nữa. Máu
của chính anh.

“Em không bị thương,” Tessa thì thầm, và rồi cô nghĩ. Đừng nói như vậy, đừng. Hãy
mạnh mẽ lên vì anh ấy nào. Cô đứng thẳng, nắm chặt tay Jem. “Thuốc của anh ấy đâu?”
Cô hỏi Will. “Anh ấy không dùng trước khi rời Học Viện à?”

“Đừng nói về anh như thể anh không ở đây,” Jem nói, nhưng không hề giận. Anh quay
đầu và thì thầm gì đó với Will, và Will gật đầu và buông vai anh ra. Tessa thấy được vẻ
căng thẳng trong tư thế của Will; anh trong tư thế sẵn sàng đỡ Jem ngay nếu chàng trai
kia loạng choạng hay ngã, nhưng Jem vẫn đứng được. “Tôi khỏe hơn khi có Tessa ở bên.
Tôi nói rồi mà,” Jem nói, vẫn bằng giọng nhẹ nhàng như cũ.

Nghe tới đó, Will cúi đầu nên Tessa không thấy được mắt anh. “Hiểu rồi,” anh nói.
“Tessa, cậu ấy không mang thuốc theo. Chắc cậu ấy rời Học Viện khi chưa dùng đủ
thuốc, nhưng còn lâu cậu ấy mới chịu thừa nhận. Phải có người cùng cậu ấy về Học Viện
và giám sát cậu ấy…”

Jem hít một hơi rệu rã. “Những người khác...”

“Tôi sẽ đánh xe cho bồ. Vậy là tiện nhất; Balios và Xanthos biết đường. Henry có thể đi
xe nhà Lightwood.” Will nói kiên quyết, quá kiên quyết tới độ chẳng ai thèm cảm ơn;
hình như anh cũng không muốn thế. Anh giúp Tessa đưa Jem vào xe, rất cẩn thận không
chạm vào vai cô hay tay cô. Anh đi sang thông báo tình hình với những người còn lại. Cô
loáng thoáng nghe Henry bảo cần lấy đống nhật kí của Benedict trước khi cô đóng cửa
lại, để mình và Jem được yên tĩnh.
“Trong nhà có gì thế?” Jem hỏi khi cỗ xe lọc cọc đi qua cổng rời khỏi nhà Lightwood.
Anh tái xanh, đầu ngửa dựa vào nệm xe, mắt nhắm hờ, gò má ửng lên vì sốt. “Anh nghe
Henry nói về thư phòng của Benedict…”

“Ông ta hóa điên trong đó,” cô nói và ấp bàn tay lạnh của anh trong đôi tay mình. “Trong
những ngày trước khi biến đổi, trong thời gian Gabriel bảo ông ta không chịu rời phòng,
chắc ông ta hết tỉnh táo rồi. Ông ta hình như đã dùng máu viết lên tường những câu liên
quan đến ‘Quân đoàn hủy diệt’. Rằng chúng không biết xót thương, rằng chúng sẽ không
bao giờ ngừng bước.”

“Chắc ý ông ta là đạo quân người máy.”

“Chắc vậy.” Tessa hơi rùng mình và dịch vào gần Jem hơn. “Chắc em hóa ngốc rồi –
nhưng hai tháng rồi mọi chuyện yên ắng quá…”

“Em quên mất Mortmain?”

“Không. Chưa từng quên.” Cô đưa mắt ra cửa sổ, nhưng không nhìn cảnh vật bên ngoài;
cô đã kéo rèm vì ánh nắng có vẻ làm đau mắt Jem. “Có lẽ em hi vọng ông ta đang chú ý
tới điều gì khác.”

“Chúng ta cũng đâu biết thế nào.” Jem lồng tay vào tay cô. “Cái chết của Benedict có lẽ
là một tấn bi kịch, nhưng chuyện ấy kiểu gì cũng sẽ đến. Nó không liên quan đến em.”

“Còn những thứ khác trong thư viện. Sách vở, giấy tờ của Benedict. Nhật kí nữa. Henry
sẽ mang tất cả về Học Viện để nghiên cứu. Trong đó có tên em.” Tessa ngừng lại. Sao cô
có thể làm phiền lòng Jem vì những thứ đó trong khi anh không khỏe chứ?

Như đọc được suy nghĩ của Tessa, ngón tay anh di chuyển xuống cổ tay cô, và đặt nhẹ
lên mạch đập. “Tessa, đây chỉ là một cuộc tấn công ngẫu nhiên. Nó sẽ không kết thúc.
Anh muốn em nói cho anh nghe sự thật, toàn bộ sự thật, dù nó cay đắng hay đáng sợ, và
anh sẽ chia sẻ với em. Anh sẽ không bao giờ để em hay bất kì ai trong Học Viện gặp
nguy hiểm.” Anh mỉm cười. “Mạch đập của em nhanh quá.”

Sự thật, toàn bộ sự thật, dù nó cay đắng hay đáng sợ. “Em yêu anh,” cô nói.

Anh nhìn cô và gương mặt gầy bừng sáng khiến nó thêm đẹp. “Wo xi wang ni ming tian
ke yi jia gei wo2.”

“Anh…” Cô nhíu mày. “Anh muốn kết hôn? Nhưng chúng ta đã đính hôn rồi. Em không
nghĩ một người có thể đính hôn hai lần.”
2
Anh mong ngày mai em sẽ kết hôn cùng anh.
Anh cười, và chuyển thành ho hắng; Tessa sợ cứng người, nhưng cơn ho nhanh qua và
anh không thổ huyết. “Anh nói là nếu có thể mai anh sẽ cưới em.”

Tessa giả bộ hất tóc. “Ngày mai không tiện cho em đâu chàng ơi.”

“Nhưng đồ em mặc quá hợp rồi,” anh cười nói.

Tessa nhìn cái váy vàng rách rưới của mình. “Nếu em định kết hôn trong lò mổ,” cô đùa.
“À thôi kệ. Đằng nào em cũng không thích cái váy này lắm. Quá diêm dúa.”

“Anh thấy em rất đẹp.” Giọng anh dịu dàng.

Tessa tựa đầu và vai anh. “Rồi sẽ đến lúc,” cô nói. “Một ngày khác, một chiếc váy khác.
Khi anh khỏe và tất cả đều hoàn hảo.”

Giọng anh vẫn nhẹ nhàng, nhưng mang sự mệt mỏi đáng sợ. “Không có gì là hoàn hảo
đâu, Tessa.”

Sophie đang đứng bên cửa sổ căn phòng nhỏ của mình, rèm được vén sang bên, mắt cô
chăm chăm nhìn ra sân. Mấy cỗ xe ngựa đã đi được vài giờ, và Sophie đáng ra phải đi
dọn lò sưởi, nhưng chổi và xô vẫn nằm im dưới chân cô.

Cô nghe rõ tiếng hát của Bridget ngân nga vọng lên từ căn bếp bên dưới.

“Bá tước Richard có cô con gái;

Một tiểu thư duyên dáng tuyệt trần.

Và cô yêu chàng William tốt bụng,

Nhưng trái tim chàng đâu dành tặng nàng ta.”

Đôi lúc, khi Bridget cực kì có hứng hát, Sophie đã tính rón rén xuống nhà và đẩy chị ta
vào lò sưởi như Hansel và Gretel đã đẩy mụ phù thủy. Nhưng Charlotte chắc chắn không
đồng tình. Kể cả nếu Bridget đang hát về tình yêu bị ngăn cấm giữa các tầng lớp xã hội
đúng lúc Sophie vừa lầm bầm chửi thề vừa xoắn chặt tấm rèm trong tay, cô vẫn thấy đôi
mắt màu xanh xám trong đầu trong khi lòng đang phân vân và lo lắng – Gideon có ổn
không? Anh có bị thương không? Anh có thể đánh lại cha mình? Chuyện sẽ kinh khủng
thế nào nếu anh phải…

Cổng Học Viện cọt kẹt mở, và một chiếc xe ngựa phi vào; Will đánh xe. Sophie nhận ra
anh, không đội mũ, mái tóc đen lòa xòa trong gió. Anh nhảy xuống từ ghế xà ích và vòng
sang bên giúp Tessa xuống xe – kể cả từ xa thế này Sophie cũng thấy cái váy vàng của cô
ấy giờ hóa ra cái thứ gì – và rồi Jem, dựa cả người vào parabatai của mình.

Sophie hít một hơi. Dù cô không còn yêu đơn phương Jem nữa, nhưng cô vẫn rất quan
tâm đến anh. Cũng khó mà không quan tâm được khi anh tốt bụng, ấm áp như thế. Anh
chưa từng không tỏ ra tốt bụng vô cùng với cô. Suốt mấy tháng qua cô thấy nhẹ cả lòng
khi anh không bị “ếm” như Charlotte gọi – dù hạnh phúc không chữa lành cho anh,
nhưng anh có vẻ khỏe hơn, khá hơn…

Ba người biến mất trong Học Viện. Cyril từ chuồng ngựa tới và đang xử lí Balios và
Xanthos bất trị. Sophie hít thật sâu và buông rèm. Charlotte sẽ cần cô, muốn cô giúp đỡ
Jem. Nếu cô có thể làm gì… Cô rời cửa sổ và vội vã đi theo hành lang và chạy xuống cầu
thang hẹp dành riêng cho người hầu.

Tại sảnh dưới nhà, cô gặp Tessa mặt mày xám ngoét và hốc hác, bần thần đứng ngoài
phòng Jem. Qua khe cửa để hé, Sophie thấy Charlotte đang cúi đầu nhìn Jem ngồi trên
giường, còn Will dựa vào lò sưởi, tay khoanh trước ngực, vẻ căng thẳng in hằn trên mọi
đường nét cơ thể anh. Tessa ngẩng đầu khi thấy Sophie, chút sắc hồng trở lại với gương
mặt cô ấy. “Sophie,” cô ấy khẽ kêu. “Sophie, Jem không khỏe. Anh ấy lại… lại ốm.”

“Sẽ ổn thôi mà, cô Tessa. Tôi từng thấy cậu ấy ốm nặng, nhưng cậu ấy vượt qua được
hết, như hết mưa trời lại hửng thôi.”

Tessa nhắm mắt. Mắt cô ấy thâm quầng. Cô không cần nói ra suy nghĩ trong lòng cả hai,
rằng rồi sẽ đến ngày Jem bị trận ốm quật ngã.

“Tôi nên đi lấy nước nóng,” Sophie bảo, “và khăn…”

“Tôi nên đi lấy những thứ đó,” Tessa nói. “Và tôi cũng định vậy, nhưng Charlotte bảo tôi
nên thay váy ra, vì máu quỷ có thể gây tác hại khôn lường nếu nó tiếp xúc với da thịt. Chị
ấy đã bảo Bridget đi lấy khăn và thuốc đắp, còn Tu Huynh Enoch sẽ đến ngay thôi. Và
Jem có lẽ sẽ không nghe, nhưng…”

“Đủ rồi,” Sophie kiên định. “Cô chẳng giúp gì được cho cậu ấy nếu khiến mình ốm theo.
Tôi sẽ giúp cô thay váy. Nào, chúng ta cùng xử lí nó, và nhanh lên.”

Tessa hấp háy mở mắt. “Sophie lí trí thân mến à, tất nhiên chị đúng.” Cô ấy dợm bước về
phòng mình. Đến cửa, cô ấy dừng lại, và quay nhìn Sophie. Đôi mắt xám to tròn nhìn một
lượt gương mặt cô gái kia, và rồi Tessa gật đầu hình như với chính bản thân, như thể cô
ấy biết mình đoán đúng suy nghĩ của Sophie. “Anh ấy vẫn ổn. Không hề hấn gì.”

“Cậu chủ Jem ư?”


Tessa lắc đầu. “Gideon Lightwood.”

Sophie đỏ mặt.

Gabriel không chắc vì sao mình vào phòng khách Học Viện, trừ nguyên nhân là anh trai
bảo anh vào đây đợi, và kể cả sau bao nhiêu chuyện vừa qua, anh vẫn quen nghe lời
Gideon. Anh ngạc nhiên trước sự đơn bạc của căn phòng, chẳng hề giống phòng khách
tráng lệ tại căn nhà ở Pimlico hay ở Chiswick của gia đình Lightwood. Tường được dán
giấy in hình hoa hồng đại đóa đã bạc màu, mặt bàn dính vết mực và ngang dọc những vết
do dao rạch thư và ngòi bút để lại, còn vỉ lò sưởi đen màu bồ hóng. Trên bệ lò sưởi có
treo một chiếc gương đã mờ, khung mạ vàng.

Gabriel ngắm mình trong đó. Bộ đồ đi săn của anh bị rách toạc ở cổ, và trên quai hàm
anh có vết đỏ của vết thương dài sắp lành. Máu dính đầy bộ đồ đi săn của anh – Máu của
mi, hay bố mi đây?

Anh vội vàng xua suy nghĩ đó đi. Anh thấy thật lạ khi mình trông giống mẹ, Barbara. Bà
cao lênh khênh, có mái tóc nâu xoăn và đôi mắt mang màu xanh lục trong trẻo nhất trần
đời, như cỏ mọc trên triền đê đằng sau nhà. Gideon lại giống bố: thân hình chắc nịch to
bè, đôi mắt nhiều sắc xám hơn là xanh. Thật nực cười, vì Gabriel lại là đứa con thừa
hưởng tính cách của bố: cứng đầu và dễ nổi nóng, lâu tha thứ. Gideon và Barbara giống
người hòa giải hơn, bình tĩnh và vững vàng, kiên trung với niềm tin của mình. Cả hai
người giống…

Trong chiếc váy xuông, Charlotte Branwell đi qua cửa phòng khách, đôi mắt sáng như
mắt một chú chim nhỏ. Hễ thấy chị, Gabriel lại bị ấn tượng bởi dáng người nhỏ nhắn, và
sự chênh lệch giữa họ. Quan Chấp Chính Wayland nghĩ gì khi trao cho con người nhỏ bé
ấy trọng trách nắm giữ Học Viện cùng mọi Thợ Săn Bóng Tối ở Luân Đôn chứ?

“Gabriel.” Chị nghiêng đầu. “Anh trai cậu nói cậu không bị thương.”

“Tôi ổn,” anh đáp gọn lỏn, và ngay lập tức nhận ra mình ăn nói thật láo xược. Anh không
hẳn muốn vậy. Bố đã nhồi nhét vào đầu óc anh suốt bao năm qua rằng Charlotte là đồ
ngu ngốc, vô dụng, ba phải, và dù anh biết anh trai mình không đồng tình – không đồng
tình nên mới rời bỏ gia đình mà tới đây sống – nhưng anh khó mà gạt bỏ những lời dạy
dỗ đó. “Tôi tưởng chị ở chỗ Carstairs.”

“Tu Huynh Enoch cùng các Tu Huynh Câm khác đã tới. Họ không cho chúng tôi ở lại
phòng Jem. Will đang đi lại ngoài hành lang như con báo bị nhốt trong lồng ấy. Cậu bé
tội nghiệp.” Charlotte vội nhìn Gabriel trước khi đi ra lò sưởi. Ánh mắt chứa sự thông tuệ
của chị nhanh chóng bị che lấp bởi mí mắt hạ xuống. “Nhưng nói vậy đủ rồi. Tôi biết em
gái cậu đã được đưa tới trang viên nhà Blackthorn tại Kensington,” chị nói. “Cậu muốn
tôi giúp gửi thư cho ai không?”

“Thư… thư gì?”

Chị dừng lại trước lò sưởi, chắp tay sau lưng. “Cậu cần phải đi đâu đó, Gabriel, trừ khi
cậu muốn tôi đá cậu ra khỏi cửa sống cảnh màn trời chiếu đất.”

Đuổi mình ra khỏi cửa? Người phụ nữ xấu tính này thực sự muốn đuổi anh ra khỏi Học
Viện? Anh nghĩ tới điều bố luôn nói: Nhà Fairchild chẳng quan tâm đến ai ngoài bản
thân họ và Luật. “Tôi… nhà ở Pimlico…”

“Quan Chấp Chính sẽ sớm đưa ra thông báo mọi chuyện xảy ra tại nhà Lightwood,”
Charlotte nói. “Mọi trang viên của gia đình cậu ở Luân Đôn sẽ bị tịch biên, ít nhất là tới
khi họ lục soát xong và xác định được rằng bố cậu không để lại thứ gì có thể cho Hội
Đồng dùng làm bằng chứng.”

“Bằng chứng gì?”

“Về kế hoạch của bố cậu,” chị nói, không hề bối rối. “Về quan hệ giữa ông ta với
Mortmain, những gì ông ta biết về kế hoạch của Mortmain. Về Quân đoàn Hủy diệt.”

“Tôi chưa từng nghe đến Quân đoàn Hủy diệt chết tiệt đó,” Gabriel cự nự, rồi đỏ mặt.
Anh đã chửi thề trước mặt một phu nhân. Dù Charlotte không hề giống những phu nhân
khác.

“Tôi tin cậu,” chị nói. “Nhưng tôi không biết Quan Chấp Chính Wayland có tin không,
do vậy cậu nên đề phòng thì hơn. Nếu cậu cho tôi địa chỉ…”

“Tôi không có,” Gabriel buồn bực nói. “Chị nghĩ tôi nên đi đâu đây?”

Chị chỉ nhìn, một bên mày nhướng lên.

“Tôi muốn ở cùng anh tôi,” cuối cùng anh nói, biết giọng mình nghe dằn dỗi và cáu kỉnh,
nhưng không biết phải làm thế nào.

“Nhưng anh cậu ở đây,” chị bảo. “Và cậu đã tỏ rõ quan điểm về Học Viện và chủ quyền
của tôi. Jem đã cho tôi biết cậu tin thế nào. Rằng bố tôi đã đẩy cậu của cậu vào chỗ tự sát.
Cậu biết không, chuyện đó không đúng, nhưng tôi chẳng mong cậu tin tôi. Nhưng tôi lại
thắc mắc vì sao cậu muốn ở đây.”
“Học Viện là chốn nương thân.”

“Bố cậu có định để nó làm chốn nương thân không?”

“Tôi không biết! Tôi không biết kế hoạch của ông ấy!”

“Thế sao cậu lại chấp nhận kế hoạch đó?” Giọng chị nhẹ nhàng nhưng không khoan
nhượng.

“Vì ông ấy là bố tôi!” Gabriel hét. Anh quay người không nhìn Charlotte nữa, hơi thở
hổn hển. Chẳng mấy ý thức được mình làm gì, anh khoanh tay ôm chặt lấy mình, như thể
hành động đó có thể giúp anh không gục ngã.

Kí ức về vài tuần vừa qua, những kí ức Gabriel cố hết sức đẩy vào nơi sâu kín nhất của
trí óc, đang chực chờ tuôn ra ngoài ánh sáng: những tuần sống trong ngôi nhà sau khi
người hầu bị đuổi đi hết, nghe tiếng động phát ra từ những căn phòng trên tầng, tiếng gào
thét trong đêm, máu trên cầu thang vào mỗi sáng, bố la hét những chuyện không đầu
không đũa đằng sau cánh cửa thư viện khóa chặt, như thể ông không thể nói được một từ
tiếng Anh nào nữa…

“Nếu chị đuổi tôi ra ngoài đường,” Gabriel nói, nghe tuyệt vọng cùng cực, “vậy làm ngay
đi. Tôi không muốn nghĩ tôi có nhà khi tôi không có. Tôi không muốn nghĩ tôi sẽ được
gặp lại anh mình khi tôi chẳng còn cơ hội.”

“Cậu nghĩ cậu ấy sẽ không đuổi theo tìm cậu, dù cho cậu ở đâu?”

“Tôi nghĩ anh ấy sẽ ủng hộ người mình quan tâm nhất,” Gabriel nói, “và người đó không
phải tôi.” Anh từ từ đứng thẳng, buông tay. “Đuổi tôi hoặc cho tôi ở lại. Tôi sẽ không cầu
xin chị.”

Charlotte thở dài. “Không cần đâu,” chị bảo. “Trước đây tôi chưa từng đuổi người không
có nơi nương tựa, và giờ cũng vậy. Tôi chỉ yêu cầu cậu một điều. Nếu muốn cho ai vào
sống trong Học Viện, trong đầu não của Enclave, tôi cần tin người ấy có thiện ý. Đừng
khiến tôi hối hận vì tin lầm cậu, Gabriel Lightwood.”

Bóng tối đang vươn dần tỏa khắp thư viện. Tessa ngồi trong vùng sáng bên một ô cửa sổ,
cạnh ngọn đèn sắc xanh. Cuốn sách đã mở đặt trên đùi cô suốt vài giờ, nhưng cô không
tài nào tập trung được. Mắt cô lướt qua những câu chữ trên giấy mà không hiểu, và cô
thường phải dừng lại cố nhớ xem nhân vật này là ai, và vì sao họ làm chuyện họ đang
làm.
Cô đang định đọc lại chương năm thì nghe có tiếng sàn gõ cọt kẹt. Giật mình, cô ngước
lên và thấy Will đứng trước mặt, tóc ướt, tay cầm găng.

“Will.” Tessa đặt sách xuống bệ cửa sổ bên cạnh. “Anh làm em giật mình.”

“Anh không định ngắt ngang,” anh khẽ nói. “Nếu em đang đọc…” Anh bắt đầu quay đi.

“Đừng,” cô nói và anh dừng lại, ngoái đầu nhìn. “Giờ em không tài nào đọc vào đầu
được. Đầu óc em cứ xao nhãng mãi.”

“Anh cũng thế,” anh nói và quay cả người lại. Người anh không còn dính máu nữa. Quần
áo anh sạch sẽ, da hầu như không còn vết tích gì, dù cô có thể thấy những vệt màu trắng
hồng của sẹo nhờ công dụng của iratze đang lên da non nơi cổ anh, biến mất bên dưới cổ
áo.

“Có tin mới từ… từ Jem không?”

“Không có gì thay đổi,” anh nói, dù cô cũng đoán được đến đó rồi. Nếu chỉ cần có một
chút thay đổi thôi, Will sẽ không ở đây giờ này. “Các Tu Huynh vẫn chưa cho ai vào, kể
cả Charlotte cũng không được. Mà sao em ở đây?” Anh hỏi tiếp. “Ngồi trong bóng tối thế
này?”

“Benedict viết lên tường thư phòng,” cô khẽ khàng nói, “Em nghĩ là trước khi hóa thành
thứ đó, hoặc trong quá trình ấy. Em không biết nữa. ‘QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT
KHÔNG BIẾT THƯƠNG TIẾC. QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT HỐI HẬN.
QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT GIỚI HẠN. QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT
KHÔNG BIẾT NGỪNG BƯỚC.’”

“Quân đoàn Hủy diệt? Chắc ông ta định nói đến đám người máy của Mortmain. Nhưng
mấy tháng rồi chúng ta có thấy bóng dáng chúng đâu.”

“Vậy không có nghĩa là chúng sẽ không trở lại,” Tessa nói. Cô nhìn xuống bàn trong thư
viện, mặt veneer xước xát. Hẳn Will và Jem đã cùng nhau ngồi ở đây rất nhiều lần để học
hành, rồi khắc tên viết tắt của mình lên đó, hệt như những cậu nam sinh chán học thường
làm. “Em ở đây chỉ khiến mọi người gặp nguy hiểm.”

“Tessa, chúng ta từng nói chuyện này rồi. Em không gây nguy hiểm gì hết. Đúng là
Mortmain muốn có em, nhưng nếu em không ở đây và được bảo vệ, ông ta sẽ dễ dàng
tóm được em, và sẽ lợi dụng sức mạnh của em để gây ra hậu quả gì đây? Chúng ta không
biết – chỉ biết ông ta muốn gì đó từ em, và lợi thế của chúng ta là làm sao cho ông ta
không động được đến em. Bọn anh bảo vệ em không phải vì bác ái gì đâu. Đấy không
phải tính cách của Thợ Săn Bóng Tối.”
Nghe tới đó, cô ngước lên. “Em nghĩ anh rất bác ái đấy chứ.” Nghe tiếng cự nự của anh,
cô nói. “Chắc chắn anh phải biết điều anh làm rất mẫu mực. Đúng là Clave lạnh lùng.
Chúng ta là cát bụi và bóng tối. Nhưng anh giống người hùng của thời cổ đại, như
Achilles và Jason.”

“Achilles bị chết vì mũi tên độc, còn Jason một mình chết trong đơn độc, vì chính con
thuyền mục của mình. Số phận của anh hùng là thế đấy; có Thiên Thần mới biết vì sao có
người muốn trở thành anh hùng.”

Tessa nhìn anh. Đôi mắt xanh của anh mang bọng mắt thâm quầng, tay anh đang vô thức
lo lắng lần sờ vải tay áo, như thể anh không ý thức được hành động của mình. Đã mấy
tháng rồi, cô nghĩ. Đã mấy tháng trôi qua kể từ ngày chỉ có hai người đối mặt với nhau.
Họ chỉ vô tình đụng mặt nhau ngoài hành lang, trong sân, và ngượng ngùng nói vài câu
xã giao. Cô nhớ những câu nói đùa của anh, những cuốn sách anh cho cô mượn, ánh cười
trong đôi mắt anh. Nhớ lại một Will thoải mái hơn của ngày xưa, cô buột miệng:

“Em không quên dc điều anh có lần đã nói với em,” cô bảo.

Anh ngạc nhiên nhìn cô. “Sao cơ? Điều gì?”

“Rằng đôi lúc, khi anh không thể quyết định phải làm gì, anh giả bộ mình là nhân vật
trong truyện, vì họ dễ quyết định đời mình hơn.”

“Em,” Will nói, “có lẽ không nên nhờ anh tư vấn khi muốn kiếm tìm hạnh phúc.”

“Không phải hạnh phúc. Không hẳn. Em chỉ muốn giúp… muốn làm điều tốt…” Cô
ngừng lời và thở dài. “Và em đã thử hòa vào rất nhiều cuốn sách, nhưng nếu trong đó có
gì đó có thể dẫn đường chỉ lối, em không tìm được. Anh nói anh là Sydney Carton…”

Will kêu một tiếng rồi ngồi xuống cái ghế đối diện cô qua cái bàn chính giữa. Rèm mi
của anh rợp xuống, che đi đôi mắt.

“Và em nghĩ em biết có lẽ nhiều người khác cũng vậy,” cô nói. “Nhưng em không muốn
là Lucie Manette, vì cô ta chẳng làm gì để cứu Charles; cô ta phó mặc tất cả cho Sydney.
Và cô ấy đối xử tệ bạc với anh ấy.”

“Với Charles?” Will nói.

“Với Sydney,” Tessa trả lời. “Anh ấy muốn là người tốt đẹp hơn, nhưng cô ấy không
thèm giúp.”

“Cô ấy không thể. Cô ấy đã đính hôn với Charles Darney.”


“Nhưng, vậy cũng không được,” Tessa nói.

Will vội vàng đứng dậy nhanh như khi anh ngồi xuống. Anh nhoài tới, tay đặt trên bàn.
Mắt anh rất xanh dưới ánh sáng xanh của ngọn đèn. “Đôi lúc một người phải lựa chọn là
người tốt hay là người đáng trọng,” anh nói. “Đôi lúc một người không thể có được cả hai
điều đó.”

“Cái nào tốt hơn?” Tessa thì thầm.

Môi Will cong lên thành nụ cười đắng chát. “Chắc còn tùy vào cuốn sách.”

Tessa ngửa đầu nhìn anh. “Anh hiểu cảm giác đó,” cô nói, “khi anh đọc một cuốn sách,
và anh biết đó sẽ là một tấn bi kịch; anh có thể cảm nhận được cái lạnh và bóng tối đang
đến, thấy cái lưới đang dần thu lại quanh nhân vật sống và thở trong những trang sách đó.
Nhưng anh bị buộc vào câu chuyện như thể bị kéo đằng sau cỗ xe ngựa, và anh không thể
buông tay hay đổi hướng đi.” Đôi mắt xanh của anh sẫm lại tỏ ý hiểu – tất nhiên Will
hiểu – và cô vội nói tiếp. “Giờ em có cảm giác hệt như vậy, chỉ có điều ở đây không phải
nhân vật trong truyện mà là những người bạn bè thân thiết của em. Em không muốn ngồi
yên khi bi kịch đổ xuống đầu chúng ta. Em muốn thay đổi kết cục, chỉ có điều em đang
vật vã tìm cách mà thôi.”

“Em lo cho Jem,” Will nói.

“Đúng,” cô bảo. “Và cho cả anh nữa.”

“Đừng,” Will khàn giọng nói. “Đừng phí tình cảm cho anh, Tess.”

Trước khi cô kịp trả lời, cửa thư viện đã mở. Đó là Charlotte, trông kiệt sức và hốc hác.
Will vội vàng ra đón chị.

“Jem sao rồi?” anh hỏi.

“Cậu ấy đã tỉnh và nói chuyện được,” Charlotte nói. “Cậu ấy vừa dùng ít ngân phiến, các
Tu Huynh Câm đã giúp cậu ấy ổn định, và ngừng chảy máu trong.”

Nghe tới chảy máu trong, Will trông như thể sắp bệnh; Tessa tưởng tượng chắc trông
mình cũng thế.

“Giờ một người có thể vào thăm cậu ấy,” Charlotte nói tiếp. “Nói cho chính xác, cậu ấy
muốn thế.”
Will và Tessa liếc nhìn nhau. Tessa biết điều cả hai cùng nghĩ. Ai nên vào đây? Tessa là
vợ sắp cưới của Jem, nhưng Will là parabatai của anh. Will vừa định lùi lại thì Charlotte
đã cất tiếng, nghe mệt mỏi tới tận xương tủy:

“Cậu ấy muốn em vào, Will ạ.”

Will giật mình. Anh vội nhìn Tessa. “Em…”

Tessa không thể nào chối bỏ được cảm giác ngạc nhiên và hơi ghen tị nhói lên trong lồng
ngực khi nghe lời Charlotte nói, nhưng cô vội vàng đẩy nó đi. Cô yêu Jem đến độ muốn
bất cứ điều gì anh muốn cho bản thân anh, và anh luôn có lí do. “Anh đi đi,” cô nhẹ
nhàng nói. “Tất nhiên anh ấy muốn gặp anh.”

Will bước ra cửa cùng Charlotte. Được nửa đường, anh quay gót và trở lại chỗ Tessa.
“Tessa,” anh nói, “trong lúc anh ở cùng Jem, em làm điều này giúp anh nhé?”

Tessa ngước lên và nuốt khan. Anh rất gần, quá gần. Mọi đường nét, hình dáng, góc cạnh
của Will đều được thu vào tầm mắt cô, cũng như giọng nói của anh vang trong tai cô.
“Vâng, dĩ nhiên rồi,” cô nói. “Chuyện gì nào?”

Gửi: Edmund và Linette Henry

Trang viên Ravenscar

West Riding, Yorkshire

Bố mẹ kính yêu,

Con biết con bỏ đi vào lúc sáng sớm trước khi bố mẹ thức dậy, chỉ với một lá thư giải
thích sự biến mát của con như vậy thật không phải. Con không dám đối diện với bố mẹ, vì
biết bản thân đã quyết định làm gì, và vì rằng con là đứa con gái bất hiếu nhất đời.

Sao con có thể giải thích quyết định của mình, sao con nói ra được đây? Kể cả tới giờ,
con vẫn thấy chuyện mình làm thật rồ dại. Mỗi ngày con lại càng thấm thía điều đó hơn.
Bố, bố không hề gạt con khi bảo cuộc đời Thợ Săn Bóng Tối giống như cơn mê sảng…

Cecily bực bội gạch mấy dòng vừa viết rồi vo vún tờ giấy và gục đầu lên bàn.

Cô đã mấy lần viết thư, nhưng chưa lần nào ưng ý. Có lẽ cô không nên viết vào lúc này,
khi thần kinh còn chưa bớt căng thẳng kể từ lúc trở về Học Viện. Mọi người dường như
đang mải lo lắng cho Jem, còn Will chỉ kiểm tra qua loa xem cô có bị thương gì không
lúc trong vườn, và kể từ đó chẳng nói gì thêm với cô. Henry đã chạy đi tìm Charlotte,
Gideon giữ Gabriel lại nói chuyện, còn Cecily một mình bước lên thềm Học Viện.

Cô đã vào phòng riêng, không buồn cởi đồ đi săn, và nằm co ro trên giường. Khi nằm
trong bóng tối, nghe âm thanh của Luân Đôn văng vẳng vọng vào, lòng cô đột nhiên nhói
lên nỗi nhớ nhà da diết. Cô nghĩ tới những ngọn đồi xanh rì của Wales, tới bố mẹ, và vội
vàng bật dậy như bị ai đẩy, lật đật chạy ra bàn và cầm bút cùng giấy, trong lúc vội vàng
còn làm mực dây cả vào tay. Nhưng cô chẳng biết viết gì cho đúng. Cô cảm thấy như mọi
nỗi hối hận và cô đơn đang tuôn trào mọi lỗ chân lông, nhưng cô lại biết làm sao để dồn
những cảm xúc ấy vào câu chữ để bố mẹ đọc mà không quá buồn bã.

Đúng lúc đó, cô nghe có tiếng gõ cửa. Cecily với cuốn sách cô bỏ trên bàn, dựng lên như
thể đang đọc, rồi nói lớn: “Mời vào.”

Cửa mở; đó là Tessa, ngần ngừ đứng ngoài cửa. Chị không còn mặc chiếc váy cưới rách,
mà đã chuyển sang chiếc váy vải muslin màu xanh giản dị, trên cổ đeo hai sợi dây chuyền
lấp lánh: mặt dây chuyền thiên sứ, cùng mặt ngọc lục bảo là món quà cầu hôn của Jem.
Cecily tò mò nhìn Tessa. Dù hai cô gái có quen nhau, nhưng không thân. Tessa có chút e
dè khi ở gần Cecily khiến cô nghi ngờ nhưng không sao chứng minh được; mà hơn thế, ở
Tessa có gì đó kì lạ và bí ẩn. Cecily biết cô ấy có thể Biến Hình – có thể hóa thành bất kì
ai, và Cecily không thể nào bỏ qua cảm giác bất thường về điều ấy. Sao ta có thể biết
được đâu là gương mặt thật của một người khi người ta có thể dễ dàng thay nó như thay
quần áo?

“Có chuyện gì vậy,” Cecily hỏi, “hả chị Gray?”

“Cứ gọi chị là Tessa thôi,” cô gái kia nói và đóng cửa lại. Đây không phải lần đầu tiên
Tessa bảo cô gọi cô ấy bằng tên, nhưng thói quen và tính ngang bướng khiến Cecily
không nghe theo. “Chị tới xem em có ổn không và em có cần gì chăng.”

“À.” Cecily thấy hơi thất vọng. “Em khá ổn.”

Tessa hơi tiến một chút. “Là Kì vọng lớn à?”

“Đúng.” Cecily không nói rằng mình đã thấy Will đọc, và đọc thử để tìm hiểu suy nghĩ
của anh. Đến giờ thì cô vẫn chẳng tìm được gì hết. Pip bệnh tật, Estella xấu tính tới độ
Cecily chỉ muốn cho cô ta vài cái bạt tai.

“Estella,” Tessa nói khẽ. “‘Đến giây phút cuối cùng của đời tôi, anh vẫn không thể chọn
mà phải chấp nhận tính cách tôi thôi, một chút phần tốt đẹp, và một phần xấu xa.’”
“Vậy chị thuộc nằm lòng mấy cuốn sách luôn, hệt như Will? Hay chỉ thuộc cuốn chị
thích thôi?”

“Trí nhớ của chị không tốt như Will,” Tessa nói và tiến đến gần hơn một chút. “Hoặc
cũng có thể do anh ấy có chữ rune mnemosyne giúp sức. Nhưng chị thích cuốn tiểu thuyết
này.” Đôi mắt xám của Tessa nhìn gương mặt Cecily. “Sao em còn mặc đồ đi săn?”

“Em đang tính lên phòng tập,” Cecily nói. “Em thấy ở đó em suy nghĩ được tốt hơn, và
có vẻ ở trên đó em làm gì cũng được.”

“Tập nữa à, Cecily, em vừa chiến đấu đấy!” Tessa phản đối. “Chị biết đôi lúc phải vài lần
dùng chữ rune mới giúp vết thương lành lặn hoàn toàn… Trước khi em tập tiếp, để chị
gọi ai đó giúp em đã: Charlotte, hoặc…”

“Hoặc Will?” Cecily gắt. “Nếu có ai quan tâm, họ đã đến rồi.”

Tessa dừng lại bên cạnh giường. “Em đừng nghĩ Will không quan tâm đến em.”

“Anh ấy không ở đây, đúng không?”

“Anh ấy nhờ chị,” Tessa nói, “vì anh ấy đang ở cùng Jem,” như thể giải thích được mọi
điều. Cecily chắc phần nào cũng đúng vậy thật. Cô biết Will và Jem là bạn thân, và còn
hơn thế nữa. Cô đã đọc về parabatai trong Codex, và biết mối ràng buộc đó không tồn tại
trong thế giới của người phàm, một mối quan hệ còn gần gũi hơn anh em và người thân
ruột thịt. “Jem là parabatai của anh ấy. Anh ấy đã thề sẽ có mặt vào những giờ phút như
thế này.”

“Anh ấy sẽ ở đó, dù có thề hay không. Anh ấy sẽ ở đó vì bất kì ai trong mọi người.
Nhưng anh ấy chẳng thèm đến xem em có cần thêm iratze không.”

“Cecy…” Tessa cất tiếng. “Lời nguyền của Will...”

“Nó không có thật!”

“Em biết không,” Tessa trầm ngâm nói, “nó có thật, theo một khía cạnh nào đó. Anh ấy
tin rằng không ai có thể yêu thương anh ấy, và nếu anh ấy để người ta yêu quý mình, họ
sẽ chết. Chính vì thế mà anh ấy bỏ gia đình lại. Anh ấy muốn gia đình được an toàn, và
giờ em ở đây – mà theo định nghĩa của anh ấy, vậy cực kì không an toàn. Anh ấy không
dám đến thăm và xem thương tích cho em, vì với Will, tất cả đều là lỗi của anh ấy.”

“Em chọn con đường này. Làm Thợ Săn Bóng Tối. Và không chỉ vì em muốn ở cùng
Will.”
“Chị biết,” Tessa nói. “Nhưng chị đã ngồi cùng Will khi anh ấy mê sảng vì dính màu ma
cà rồng, bị sặc nước thánh, và chị biết anh ấy gọi tên ai. Tên em đấy.”

Cecily ngạc nhiên ngước lên. “Will gọi tên em?”

“Ừ.” Một nụ cười mỉm xuất hiện bên khóe môi Tessa. “Tất nhiên khi chị hỏi, anh ấy
không cho chị biết đấy là tên ai, và chị phát điên…” Tessa ngừng lại và nhìn đi chỗ khác.

“Vì sao?”

“Tò mò thôi,” Tessa nhún vai dù má ửng đỏ. “Đây là nhược điểm của chị. Nhưng nói tóm
lại, anh ấy yêu quý em. Chị biết rằng Will luôn trong ngoài bất nhất, nhưng việc anh ấy
không ở đây lúc này chỉ càng chứng minh cho chị thấy rằng em quý giá thế nào với anh
ấy. Will thường đẩy mọi người anh ấy yêu thương ra xa, và anh ấy càng yêu thương em,
anh ấy sẽ càng cố gắng không để lộ.”

“Nhưng không có lời nguyền…”

“Thói quen trui rèn sau nhiều năm tháng thì khó bỏ lắm,” Tessa nói và đôi mắt rất buồn.
“Đừng nhầm mà tin rằng anh ấy không yêu em vì anh ấy giả bộ không quan tâm, Cecily.
Nếu cần em cứ hỏi thẳng, nhưng đừng nhầm mà bỏ đi vì cho rằng anh ấy thực bụng như
thế. Đừng đẩy anh ấy ra khỏi trái tim em. Vì nếu em làm vậy, em sẽ hối hận.”

Gửi: Thành viên Hội Đồng

Từ: Quan Chấp Chính Josiah Wayland.

Xin hãy thứ lỗi vì tôi chậm hồi đáp, thưa quý vị. Tôi chỉ mong mình không đưa ra ý kiến
trong phút nóng vội, mà mong mọi lời tôi nói là kết quả hợp tình hợp lí sau khi đã suy
nghĩ thấu suốt.

Tôi sợ mình không đồng tình với đề đạt Charlotte Branwell làm người kế vị của quý vị.
Dù tốt bụng, nhưng cô ta quá đồng bóng, cảm tính, dễ nổi nóng và bất tuân mệnh lệnh,
nên thật tình không hợp làm Quan Chấp Chính. Như chúng ta đều biết phái đẹp có những
điểm yếu mà nam giới không có, và buồn thay, cô ta có tất cả. Không, tôi không thể đề
đạt cô ta. Tôi mong các vị sẽ cân nhắc một người khác – cháu họ của tôi, George
Penhallow, người sẽ hai mươi lăm tuổi vào tháng mười một này, cậu ta là một Thợ Săn
Bóng Tối giỏi và một chàng trai chính trực. Tôi tin cậu ta có được sự kiên định và sức
mạnh để dẫn dắt Thợ Săn Bóng Tối vào một kỉ nguyên mới.
Nhân danh Raziel,

Quan Chấp Chính Josiah Wayland


4

LÍ TRÍ VÀ YÊU ĐƯƠNG


Dùng lí trí mà yêu đương,

Là quá sức đối với trí óc đàn ông.

– Shakespeare, Troilus and Cressida

“Tôi tưởng bồ sẽ bịa ra được một bài hát cơ,” Jem nói.

Will tò mò nhìn parabatai của mình. Jem, dù đã yêu cầu Will đến, có vẻ không chào đón
anh lắm. Jem đang bình thản ngồi trên giường, mặc áo sơ mi và quần vải sạch sẽ, dù
chiếc áo rộng thùng thình và trông Jem gầy hơn bao giờ hết. Vẫn còn vết máu khô dính
trên xương quai xanh của Jem, trông như một mặt dây chuyền xấu xí. “Bịa ra bài hát về
đề tài gì?”

Jem nhếch mép. “Chúng ta đánh bại con giun?” Cậu ấy nói. “Sau tất cả những câu đùa
của bồ…”

“Mấy giờ vừa rồi tôi không có hứng chớt nhả,” Will nói, liếc nhìn mấy cái khăn đỏ máu
trên táp đầu giường, một chậu lưng nửa nước hồng.

“Đừng nghiêm trọng hóa vấn đề, Will,” Jem nói. “Mọi người cứ nhặng xị quanh tôi và tôi
không thể gạt đi được; tôi muốn bồ đến vì – vì bồ không thế. Bồ khiến tôi cười.”

Will giơ tay lên trời. “À, đúng rồi,” anh nói. “Thế bài này thì sao?”

“Ô hay chửa, tôi không còn nhọc công vô ích,

Để chứng minh đậu mùa quỷ làm sa đọa tâm thần.

Vậy nên dù tiếc công mình nhưng nó không phải uống phí

Nhưng ta đã diệt trừ xong con giun quỷ xấu xa.

Giờ chống mắt lên, ta nói đúng rồi mà.”

Jem bật cười. “Bài đó dở ẹc.”

“Đấy là ứng tác mà!”


“Will, có thứ gọi là nhịp điệu đấy…” Ngay lập tức tiếng cười của Jem biến thành tràng
ho sù sụ. Will vội chạy tới khi Jem gập người, đôi vai gầy so lại. Có máu lốm đốm trên
ga giường trắng.

“Jem…”

Jem đưa một tay chỉ cái hộp trên táp đầu giường. Will với lấy; hình người phụ nữ thướt
tha rót nước khỏi bình đã trở nên cực kì quen thuộc với anh. Anh ghét thấy hình ảnh đó.

Anh mở hộp – và sững sờ. Thứ trông như đường tinh trắng chẳng còn che nổi đáy hộp.
Có lẽ trước khi các Tu Huynh Câm phục thuốc Jem, trong đó còn chứa nhiều hơn; Will
không biết nữa. Anh chỉ biết đáng ra trong đó phải còn nhiều hơn nhiều. “Jem,” anh gằn
giọng, “sao chỉ còn từng này?”

Jem ngừng ho. Có máu trên môi Jem, và khi Will quan sát, quá choáng váng tới không di
chuyển nổi, Jem đưa tay và dùng tay áo quệt máu. Vải linen lập tức bị nhuộm đỏ. Cậu ấy
trông như lên cơn sốt, nước da tái xanh bóng lên, nhưng không hề tỏ vẻ bối rối.

“Will,” Jem nói khẽ.

“Hai tháng trước,” Will bắt đầu, nhận ra mình đang lên cao giọng, và cố lắm mới ép
xuống dược. “Hai tháng trước, tôi đã mua đủ lượng ngân phiến cho bồ dùng cả năm.”

Trong ánh mắt của Jem có sự thách thức pha lẫn buồn bã. “Tôi phải tăng liều lượng.”

“Tăng? Tăng bao nhiêu?”

Giờ Jem không dám nhìn anh. “Tôi phải dùng hai, có lẽ ba lần mỗi ngày.”

“Nhưng bồ dùng càng nhiều càng hại người,” Will nói và khi Jem không đáp, anh lên
giọng và bật ra đúng hai tiếng: “Vì sao?”

“Tôi không muốn sống một nửa cuộc đời…”

“Dùng kiểu này bồ chẳng sống một một phần năm cuộc đời ấy chứ!” Will hét và hít một
hơi. Biểu cảm của Jem thay đổi, và Will phải dộng cái hộp đang cầm xuống bàn để ngăn
mình đấm thẳng vào tường.

Jem ngồi thẳng, mắt nảy lửa. “Sống mang nhiều ý nghĩa hơn là không chết,” anh nói.
“Nhìn cách bồ sống đi, Will. Bồ cháy sáng như một ngôi sao. Tôi chỉ dùng đủ thuốc để
giữ mạng mình nhưng không phải để sống khỏe. Có lẽ dùng nhiều hơn một chút trước khi
chiến đấu, để có thêm năng lượng, nhưng tôi sống chẳng ra sống, chỉ như đã vào lúc xế
chiều của đời người…”
“Nhưng sao giờ bồ lại thay đổi liều lượng? Có phải từ sau khi đính hôn không?” Will hỏi.
“Là vì Tessa à?”

“Bồ không được trách cô ấy. Đây là quyết định của tôi. Cô ấy không hề hay biết.”

“Cô ấy muốn bồ sống, James…”

“Tôi không sống được!” Và Jem đứng dậy, má đỏ lựng; Will nghĩ đây là lần đầu tiên anh
thấy Jem giận tới mức này. “Tôi không sống được lâu, nhưng tôi muốn được chọn sống
sao cho xứng với cô ấy, được cháy sáng vì cô ấy như tôi ước ao, thà vậy trong thời gian
ngắn còn hơn sống lay lắt kéo dài hơi tàn. Đây là lựa chọn của tôi, William, và bồ không
thể lựa chọn thay tôi.”

“Có lẽ tôi có thể. Tôi luôn là người đi mua ngân phiến cho bồ…”

Sắc hồng trở lại trên gương mặt Jem. “Nếu bồ không chịu nữa, vậy tôi tự đi mua. Tôi sẵn
sàng cơ mà. Chính bồ nói bồ muốn là người đó. Và nói tới đó…” Anh rút chiếc nhẫn nhà
Carstairs ra khỏi tay và đưa cho Will. “Cầm đi.”

Will nhìn nó rồi ngước nhìn Jem. Trong đầu anh đang hiện hình hàng tá điều kinh khủng
anh có thể nói hoặc làm. Anh đã biết một người khó lòng mà đổi tính quá nhanh. Anh đã
giả bộ xấu tính suốt bao nhiêu năm đến độ cứ có chuyện anh lại tính giả bộ, như một
người đàn ông vô thức đánh xe ngựa trở về ngôi nhà anh ta đã sống cả đời, dù cho anh ta
đã chuyển khỏi đó. “Giờ bồ muốn kết hôn với tôi?” Cuối cùng anh nói.

“Bán cái nhẫn đi,” Jem nói. “Để lấy tiền. Tôi nói rồi, bồ không phải trả tiền mua thuốc
cho tôi; tôi từng trả tiền cho bồ một lần, và tôi còn nhớ y nguyên cảm giác đó. Không vui
vẻ gì.”

Will nhăn mày, và nhìn biểu tượng nhà Carstairs lấp lánh trong lòng bàn tay trắng xanh,
đầy những sẹo của Jem. Anh nhẹ nhàng cầm tay bạn, nắm tay cậu ấy lại. “Từ khi nào mà
bồ hóa ra liều lĩnh còn tôi lại cẩn trọng vậy? Từ khi nào tôi phải trông chừng bồ khỏi
chính bồ thế? Luôn là bồ trông chừng tôi cơ mà.” Mắt anh nhìn gương mặt Jem. “Giúp
tôi hiểu xem nào.”

Jem đứng rất im. Rồi Jem nói, “Lúc đầu khi mới nhận ra mình yêu Tessa, tôi nghĩ có lẽ
tình yêu sẽ khiến tôi khỏe mạnh. Tôi không bị đột quỵ trong một thời gian dài. Rồi khi tôi
hỏi cưới cô ấy, tôi đã nói với cô ấy như thế. Tình yêu đang chữa lành cho tôi. Vậy nên lần
đầu tôi tôi bị… lần đầu tiên nó lại xảy ra sau đó, tôi đã không dám nói, miễn để cô ấy
nghĩ điều đó làm tôi bớt yêu cô ấy. Tôi dùng thêm thuốc, để tránh một cơn bệnh lại đến.
Rồi dần dà liều thuốc tôi phải dùng để đứng được còn nhiều hơn cả để tôi đi lại trong một
tuần. Tôi không còn nhiều năm, Will. Tôi có lẽ còn chẳng còn vài tháng. Và tôi không
muốn Tessa biết. Làm ơn đừng nói với cô ấy. Không phải chỉ vì cô ấy, mà còn vì tôi
nữa.”

Gần như ngược với ý chí của mình, Will cảm giác mình hiểu bạn; anh nghĩ anh sẵn sàng
làm bất cứ điều gì, nói dối thế nào cũng được, chịu mọi hiểm nguy, miễn là Tessa yêu
anh. Anh còn dám làm…

Hầu hết mọi chuyện. Nhưng không bao gồm phản bội Jem. Đó là điều duy nhất anh
không làm. Và Jem đứng đó, tay đặt trong tay Will, đôi mắt cầu xin sự thông cảm, thấu
hiểu của Will. Nhưng sao Will lại không hiểu được chứ? Anh nhớ hồi mình ở trong
phòng khách nhà Magnus, cầu xin anh ta đưa mình tới xứ quỷ, vì không muốn sống thêm
một giờ một khắc nào của cuộc đời anh đã không chịu nổi.

“Vậy bồ sẽ chết vì tình,” cuối cùng Will nói, chính anh còn thấy lời mình nghe nghiệt
ngã.

“Chết nhanh hơn một chút vì tình. Người ta còn chết vì ối thứ tồi tệ hơn kìa.”

Will buông tay Jem; Jem nhìn từ cái nhẫn tới bạn mình, đôi mắt lộ ý hỏi. “Will…”

“Tôi sẽ tới Whitechapel,” Will bảo. “Tối nay. Tôi sẽ mua hết ngân phiến ở đó cho bồ, tất
cả những gì bồ cần.”

Jem lắc đầu. “Tôi không thể yêu cầu bồ làm việc trái lương tâm.”

“Lương tâm của tôi,” Will thì thầm. “Bồ là lương tâm của tôi. Bồ luôn là vậy, James
Carstairs. Tôi sẽ làm điều này vì bồ, nhưng tôi cần bồ hứa trước đã.”

“Hứa gì?”

“Nhiều năm trước, bồ bảo tôi đừng tìm cách chạy chữa cho bồ,” Will bảo. “Giờ tôi muốn
bồ bỏ yêu cầu đó đi. Ít nhất hãy để tôi tự do tìm phương kế.”

Jem băn khoăn nhìn anh. “Cứ hễ khi nào tôi tưởng tôi hiểu bồ đến từng chân tơ kẽ tóc, bồ
lại làm tôi ngạc nhiên. Ừ, bồ muốn thế nào cũng được. Cứ tìm kiếm đi. Hãy làm điều bồ
phải làm. Tôi không ràng buộc những ý định tốt đẹp nhất của bồ; thế là không tốt, và nếu
tôi ở vào vị thế của bồ, tôi cũng hành động như vậy thôi. Bồ biết thế, phải không?”

“Tôi biết.” Will bước lên một bước. Anh đặt tay lên vai Jem, cảm nhận được xương nhô
lên bên dưới tay mình như cánh một con chim. “Đây không phải lời hứa xuông, James.
Tin tôi đi, không ai hiểu rõ hơn tôi về hi vọng hão huyền đâu. Tôi sẽ tìm. Nếu có gì giúp
được bồ, tôi sẽ tìm bằng được. Nhưng tới lúc đó – tính mạng là của bồ, nên bồ muốn
sống thế nào thì tùy.”

Ngạc nhiên thay, Jem mỉm cười. “Tôi biết,” cậu ấy nói. “Nhưng được bồ nhắc thật quý
hóa quá.”

“Tôi vốn quý hóa mà,” Will nói. Mắt anh nhìn gương mặt Jem, gương mặt quen thuộc
với anh như chính gương mặt mình. “Và kiên định nữa. Bồ sẽ không được rời bỏ tôi.
Không phải khi tôi còn sống.”

Mắt Jem mở to, nhưng cậu ấy không nói gì. Chẳng có gì để nói hết. Will buông tay khỏi
vai parabatai và đi ra cửa.

Cecily vẫn đứng nguyên chỗ cũ, con dao nằm nguyên trong tay phải. Cô nhìn thẳng, rồi
giơ dao phi đi. Nó cắm vào tường, ngay ngoài vòng đích.

Nói chuyện với Tessa không làm cô thoải mái hơn; nó còn làm tình hình thêm tệ. Ở Tessa
có một nỗi buồn lẩn quất bí bách khiến Cecily cảm thấy dễ nổi nóng và căng thẳng. Dù
giận Will lắm, nhưng cô không thể nào không cảm nhận được rằng Tessa cũng lo sợ cho
anh; ấy là một nỗi khiếp sợ sâu kín trong lòng mà cô ấy không chịu nói ra, và Cecily rất
muốn biết đó là gì. Sao cô có thể bảo vệ anh mình khi cô không biết cái gì đe dọa anh?

Sau khi lấy lại dao, cô lại giơ nó ngang vai và phi đi. Lần này nó bay xa vòng tròn hơn,
khiến cô bực bội thở dài một tiếng. “Uffern nef3!” Cô lầm bầm bằng tiếng Wales. Mẹ cô
hẳn sẽ hoảng hốt lắm, nhưng mà bà đâu có ở đây.

“Năm,” một giọng nói ề à vang từ hành lang bên ngoài vào.

Cecily giật mình quay lại. Một bóng đen ngoài cửa tiến vào và cô nhận ra Gabriel
Lightwood, với mái tóc nâu rối và đôi mắt xanh sắc lạnh như thủy tinh. Anh ta cao ngang
Will, có khi còn cao hơn, và gầy hơn. “Tôi không hiểu ý anh, anh Lightwood.”

“Cách ném của cô,” anh ta nói và nhẹ nhàng vung tay. “Tôi chấm năm điểm. Kĩ thuật và
kĩ năng của cô có lẽ cần luyện thêm, nhưng rõ ràng cô có năng khiếu. Cô chỉ cần luyện
tập thôi.”

“Will đang dạy tôi,” cô nói khi anh ta tới gần hơn.

Khóe miệng anh ta hơi nhếch. “Ờ.”

3
Tiếng Wales, nghĩa là quỷ tha ma bắt.
“Có vẻ anh có thể dạy tốt hơn, nhỉ?”

Anh ta dừng lại, rút dao khỏi tường. Nó lóe sáng khi được anh ta xoay trong tay. “Tôi có
thể,” anh ta nói. “Tôi được học từ người giỏi nhất, và tôi đã huấn luyện cô Collins và cô
Gray…”

“Tôi nghe rồi. Tới khi anh chán. Một người không tận tâm có vẻ không thể là một thầy
giáo tốt.” Cecily vẫn nói khách sáo như cũ; cô nhớ Gabriel đã đỡ cô đứng lên lúc ở nhà
Lightwood, nhưng cô biết Will không ưa anh ta, và giọng anh ta sặc mùi chảnh chọe cành
cao.

Gabriel chạm đầu ngón tay vào mũi dao. Một giọt máu ứa ra. Tay anh ta bị chai, mu bàn
tay lốm đốm tàn nhang. “Cô đã thay đồ đi săn ra.”

“Nó dính toàn máu không hà.” Cô nhìn anh ta một lượt. “Có vẻ anh chưa thay.”

Vẻ kì cục bỗng thấp thoáng trên gương mặt Gabriel rồi biến mất, nhưng cô đã thấy anh
trai mình giấu cảm xúc quá nhiều lần nên nhận ra ngay. “Tôi không có quần áo ở đây,”
anh ta nói, “và cũng không biết mình sẽ ở đâu. Tôi tưởng có thể trở về ở một trang viên
của nhà mình, nhưng…”

“Anh tính ở lại Học Viện?” Cecily ngạc nhiên hỏi khi hiểu ra vấn đề. “Charlotte nói
sao?”

“Chị ấy sẽ đồng ý.” Gương mặt Gabriel thoáng biến đổi, vẻ dằn dỗi đột nhiên xuất hiện
thay thế vẻ cứng cỏi lúc trước. “Anh trai tôi ở đây mà.”

“Ờ,” Cecily nói. “Anh tôi cũng sống tại đây luôn.”

Gabriel ngừng một lát, gần như thể anh ta chưa từng nghĩ tới chuyện đó. “Will,” anh ta
nói. “Cô quả thật rất giống cậu ta. Thật… khó chịu.” Anh ta lắc đầu như để xua đi cảm
giác bối rối. “Tôi vừa gặp anh cô,” anh ta nói. “Chạy như bay xuống sân cứ như thể bị Tứ
Kị Mã4 đuổi ấy. Chắc cô không biết có chuyện gì đâu nhỉ?”

Có mục đích. Trái tim Cecily nảy lên. Cô cướp dao khỏi tay Gabriel, lờ đi tiếng kêu giật
mình của anh ta. “Không hề,” cô nói, “nhưng tôi sẽ tìm hiểu cho kì được.”

Vào thời điểm thành phố Luân Đôn dường như lắng dịu khi ngày làm việc kết thúc, khu
East End lại bừng dậy. Will đi qua các con phố với hai bên là những quầy bán quần áo và
4
Tứ Kị Mã (Four Horsemen of the Apocalypse) là nhân vật trong Kinh Thánh, gồm Chiến Tranh, Chết Chóc, Bệnh
Dịch và Nạn Đói, nếu xuất hiện sẽ báo trước ngày tàn của thế giới.
giày dép cũ. Những người bán đồ ve chai và thợ mài dao đẩy xe qua các con hẻm, cất
tiếng rao bán hàng hóa. Mấy tay đồ tể đứng ngoài cửa, tạp dề lấm tấm máu, thịt lợn treo
lủng lẳng ngay cửa sổ. Phụ nữ vừa phơi đồ vừa í ới gọi nhau trên phố, bằng giọng mang
hơi hướng dân gốc vùng Bow Bells5, làm Will nghe mà cứ tưởng họ nói tiếng Nga.

Mưa phùn lất phất làm ướt mái tóc Will khi anh đi qua quầy bán buôn thuốc lá giờ đã
đóng cửa và rẽ vào một con phố nhỏ hơn. Anh có thể thấy ngọn tháp của nhà thờ
Whitechapel xa xa. Bóng tối tụ ở đó, sương dày mềm mại và có mùi sắt cùng rác thải.
Một máng xối hẹp chạy ngay giữa phố, ăm ắp thứ nước bốc mùi thối hoắc. Phía trước đó
là một ô cửa, với hai bên là hai ngọn đèn khí đốt. Khi đi ngang qua, Will đột nhiên chui
vào đó và thò tay.

Có một tiếng hét, rồi anh lôi một người mảnh mai, mặc áo choàng đen về phía mình –
Cecily, với chiếc áo choàng nhung khoác vội bên ngoài bộ đồ đi săn. Mái tóc đen xổ
xuống nơi vành mũ, và đôi mắt xanh giống hệt anh đang nhìn anh, và cô bực bội gắt.
“Thả em ra!”

“Em làm gì lại đi theo anh tới khu xóm liều của Luân Đôn vậy, con nhỏ ngốc nghếch
này?” Will khẽ lắc tay cô.

Mắt cô nheo lại. “Sáng nay thì cariad, mà tối đã con nhỏ ngốc nghếch rồi hả?”

“Những con phố này nguy hiểm lắm,” Will nói. “Và em chẳng biết gì về chúng. Em còn
không thèm dùng chữ rune che mờ. Tuyên bố mình chẳng sợ gì khi sống ở nông thôn là
một chuyện, nhưng đây là Luân Đôn.”

“Em chẳng sợ Luân Đôn,” Cecily bướng bỉnh nói.

Will cúi tới sát hơn, gần như rít lên bên tai cô. “Fyddai’n wneud unrhyw dda yn ddweud
wrthych i fynd adref?”

Cô bật cười. “Không, anh có bảo em về nhà cũng chẳng ăn thua đâu. Rwyt ti fy mrawd ac
rwy eisiau mynd efo chi.”

Will chớp chớp mắt khi nghe cô em nói. Anh là anh trai em và em muốn đi cùng anh.
Anh đã quen nghe Jem nói những lời tương tự 6 thế, và dù khó mà tưởng tượng Cecily có
điểm nào giống Jem, nhưng cô quả có tương đồng với Jem ở một điểm: cực kì cứng đầu.
Khi Cecily nói muốn gì, đó không phải là một mong ước vẩn vơ mà là quyết tâm sắt đá.
5
Chỉ những người sống ở vùng nghe thấy tiếng chuông của nhà thờ St. Mary-le-Bow; họ có khẩu âm, thổ ngữ riêng,
và tiếng Anh của họ thường được coi là tiếng Anh của tầng lớp lao động.
6
Tiếng Anh chỉ dùng I và you trong trò chuyện.
“Em không thèm quan tâm xem anh đi đâu sao?” Anh nói. “Nếu anh xuống địa ngục thì
sao?”

“Em luôn muốn thấy địa ngục,” Cecily bình thản nói. “Không phải mọi người đều có
mong ước đó sao?”

“Hầu hết chúng ta dành cả đời để đấu tranh tránh xa nó,” Will nói. “Nếu em nhất quyết
muốn biết thì anh xin nói: Anh tới sới ifrit để mua thuốc phiện từ những kẻ quỷ tha ma
bắt phóng đãng, ưa bạo lực. Chúng có thể sẽ để mắt tới em, và quyết định bán em đi.”

“Anh không ngăn chúng à?”

“Đó còn tùy xem chúng định trả anh bao nhiêu.”

Cô lắc đầu. “Jem là parabatai của anh,” cô nói. “Anh ấy là người anh em được Clave trao
cho anh. Nhưng em là em gái ruột của anh. Sao anh có thể làm bất cứ điều gì vì anh ấy
nhưng lại chỉ muốn em về nhà?”

“Sao em biết anh mua thuốc phiện cho Jem?”

“Em không ngốc, Will.”

“Ừ, thế mới tiếc chứ,” Will lầm bầm. “Jem… Jem là tất cả phần tốt đẹp của con người
anh. Anh không mong em hiểu. Anh nợ cậu ấy điều này.”

“Vậy em là gì?” Cecily hỏi.

Will thở dài. “Em là điểm yếu của anh.”

“Còn Tessa là trái tim anh,” cô nói, không hề giận mà chỉ trầm ngâm ngẫm nghĩ. “Em đã
bảo rồi, em không ngốc đâu,” cô bổ sung khi thấy vẻ hoảng hốt của anh. “Em biết anh
yêu chị ấy.”

Will đặt tay lên đầu, như thể câu nói của cô làm anh bị thiên đầu thống. “Em còn nói với
ai nữa không? Đừng đấy, Cecily. Không ai được biết, và cứ thế đi.”

“Làm gì có ai để em nói.”

“Ừ, cứ vậy, nghe chưa?” Giọng anh lại nghiêm khắc. “Chắc em phải thấy xấu hổ lắm vì
anh trai em… có tình cảm không nên có với vợ sắp cưới của parabatai…”

“Em không xấu hổ vì anh, Will. Dù anh thấy thế nào, anh cũng không hành động theo
cảm tính, và có lẽ tất cả chúng ta đều khao khát điều chúng ta không thể có.”
“Ồ?” Will nói. “Vậy em khao khát cái gì mà em không thể có nào?”

“Anh trở về nhà.” Một lọn tóc đen dính vào má cô vì hơi ẩm, khiến cô trông như đang
khóc, dù Will biết cô không hề.

“Học Viện đã là nhà của anh rồi.” Will thở dài và ngửa đầu dựa vào mái tò vò đá. “Anh
không thể đứng ngoài này tranh cãi với em cả đêm, Cecy. Nếu em quyết tâm theo anh
đến địa ngục, anh không thể ngăn em.”

“Cuối cùng anh cũng hiểu ra rồi đấy. Em biết anh mà; dù sao chúng ta cũng là anh em.”

Will kìm cảm giác muốn lắc cho cô tỉnh ra thêm lần nữa. “Em sẵn sàng chưa?”

Cô gật đầu, và Will giơ tay gõ cửa.

Cửa mở, và Gideon đứng ngay tại cửa phòng mình, chớp mắt như thể anh vừa ở chỗ tối
và vừa ra ngoài sáng. Quần áo anh nhăn nhúm, một bên tay áo trượt xuống nửa tay.

“Anh Lightwood?” Sophie ngần ngừ nói. Cô đang bưng một cái khay trên tay, để nào là
bánh nướng và trà, nên khó lòng xoay xở. “Briget bảo tôi anh muốn một khay…”

“À, đúng. Tất nhiên. Hãy vào đi.” Như thể chợt bừng tỉnh, Gideon đứng thẳng và nhường
đường cho cô vào. Anh đã tháo giày và quẳng vào một góc. Cả căn phòng thiếu đi sự gọn
gàng thường thấy. Đồ đi săn được vắt trên cái ghế lưng cao – Sophie thầm nhăn nhó khi
nghĩ anh không hiểu móc treo để làm gì sao, một quả táo cắn dở được để bừa trên táp đầu
giường, còn nằm còng queo giữa giường là Gabriel Lightwood đang ngủ say sưa.

Anh ta rõ ràng đang mặc đồ của anh mình, vì chúng quá cộc. Lúc ngủ trông anh ta trẻ
hơn, gương mặt mất đi nét căng thẳng. Một tay anh ta ôm lấy cái gối như tìm nguồn an
ủi.

“Anh không đánh thức nó được,” Gideon nói, vô thức ôm khuỷu tay. “Anh nên đưa nó về
phòng riêng, nhưng…” Anh thở dài. “Nhưng không nổi.”

“Cậu ấy sẽ ở lại à?” Sophie hỏi khi đặt khay xuống táp đầu giường. “Ở lại Học Viện ấy?”

“Anh… Anh không biết nữa. Chắc vậy. Charlotte bảo rằng nó được chào đón. Hình như
chị ấy dọa nó sợ rồi.” Khóe miệng Gideon hơi nhếch lên.

“Cô Branwell?” Sophie nổi giận như vẫn thường vậy khi nghĩ cô chủ của mình bị người
ta chỉ trích. “Nhưng cô ấy là người hòa nhã nhất!”
“Ừ… chính vì thế nên anh nghĩ chị ấy dọa nó sợ. Chị ấy ôm Gabriel và bảo nếu nó ở lại
đây, vậy chuyện với bố anh sẽ chìm vào quên lãng. Anh không chắc chị ấy muốn nhắc tới
chuyện nào của bố anh nữa,” Gideon lạnh nhạt nói. “Chắc là chuyện Gabriel ủng hộ ông
ấy chiếm Học Viện.”

“Anh không nghĩ cô chủ nói đến chuyện gần đây nhất sao?” Sophie vén lọn tóc xổ ra
khỏi mũ. “Với con…”

“Giun khổng lồ hả? Không, kì lạ làm sao. Nhưng nói chung cậu em trai anh không bao
giờ nghĩ sẽ được người khác tha thứ. Vì bất cứ chuyện gì. Nó chỉ biết tuân theo những
mệnh lệnh hà khắc nhất. Có lẽ nó nghĩ Charlotte đang định chơi nó, hoặc rằng Charlotte
bị điên. Chị ấy chỉ phòng cho Gabriel, nhưng anh nghĩ toàn bộ chuyện vừa qua làm nó
hoảng quá. Nó đến nói chuyện với anh, rồi ngủ quên mất.” Gideon thở dài, nhìn em mình
với vẻ vừa mừng, vừa buồn bã và bực dọc khiến Sophie thấy đồng cảm.

“Em gái anh...,” cô dợm nói.

“À, Tatiana không bao giờ định sống ở đây,” Gideon nói. “Nó bỏ tới nhà Blackthorn, nhà
chồng nó rồi. Nó không ngốc – thật ra nó còn nghĩ mình thông minh hơn nhiều người –
nhưng lại ích kỉ, tự cao tự đại, không bao giờ lãng phí tình cảm cho cậu em này của anh.
Mà Gabriel lại đã thức trắng mấy ngày rồi. Chờ đợi trong căn nhà hoang vắng, bị cấm đặt
chân vào thư viện, cứ ở ngoài gõ cửa mà không nghe được câu trả lời nào từ bố…”

“Anh muốn bảo vệ Gabriel,” Sophie nhận xét.

“Tất nhiên rồi; nó là em của anh cơ mà.” Anh tiến lại giường và vò mái tóc nâu rối của
Gabriel; cậu con trai kia động đậy và kêu vài tiếng khó chịu nhưng không tỉnh.

“Tôi cứ tưởng cậu ấy sẽ không tha thứ vì anh đã chống lại bố mình,” Sophie nói. “Anh đã
nói… rằng anh sợ điều đó. Và cậu ấy coi hành động của anh là sự phản bội dòng họ
Lightwood.”

“Chắc giờ nó đang bắt đầu nghi ngờ dòng họ Lightwood rồi. Hệt như anh hồi ở Madrid.”
Gideon đi xa giường.

Sophie cúi đầu. “Tôi rất tiếc,” cô nói. “Rất tiếc vì chuyện bố anh. Dù người ta có nói gì
về ông ấy đi chăng nữa, dù ông ấy có làm gì, ông ấy vẫn là bố anh.”

Anh quay mặt về phía cô. “Nhưng, Sophie…”


Cô không chỉnh anh vì gọi tên của cô. “Tôi biết ông ấy đã làm những chuyện tồi tệ,” cô
nói. “Nhưng thế nào anh vẫn phải được khóc thương ông ấy. Không ai có thể lấy đi sự
buồn thương của anh, nó thuộc về anh và chỉ mình anh.”

Đầu ngón tay anh khẽ chạm vào má cô. “Em có biết tên mình có nghĩa là ‘thông thái’
không? Đó quả là một cái tên tương xứng với người.”

Sophie nướt nước bọt. “Anh Lightwood…”

Nhưng những ngón tay anh đã xòe ra ôm má cô và anh cúi xuống hôn cô. “Sophie,” anh
thở dài và rồi môi họ chạm vào nhau, nhẹ nhàng hơn nếu so với áp lực anh dựa vào cô.
Nhẹ nhàng và dịu dàng cô đưa tay – bàn tay thô nhám vì suốt ngày giặt giũ bưng bê, cọ vỉ
lò sưởi, quét dọn và đánh bóng, cô buồn bực, nhưng anh có vẻ không hề bận tâm hay để
ý – đặt lên vai anh.

Rồi cô nhích lại gần hơn, và gót giày cô vướng phải cái thảm, khiến cô trượt ngã, Gideon
đỡ cô. Họ cùng nhau ngã lăn ra sàn, mặt Sophie đỏ lựng vì ngượng – lạy Chúa lòng lành,
anh chắc nghĩ cô cố tình lôi kéo anh, rằng cô là một ả điên dâm đãng muốn gạ tình anh.
Mũ của cô tuột ra, những lọn tóc đen xõa xuống. Thảm mềm mại dưới lưng cô, và
Gideon, bên trên, đang lo lắng thì thầm gọi tên cô. Cô quay mặt sang bên, má vẫn nóng
bừng, và nhìn vào gầm giường anh.

“Anh Lightwood,” cô nói và chống khuỷu tay ngồi dậy. “Có bánh nướng trong gầm
giường hả?”

Gideon sững lại, chớp mắt, trông hệt như con thỏ bị chó săn dồn vào đường cùng. “Sao?”

“Đó.” Cô chỉ cái đống đen thùi lùi dưới cái giường bốn cọc. “Có cả núi bánh nướng dưới
giường anh. Có chuyện gì thế?”

Gideon ngồi dậy, đưa tay vuốt mái tóc rối khi Sophie lùi khỏi anh làm bộ váy phát ra
những tiếng sột soạt. “Anh…”

“Anh đòi ăn bánh nướng. Gần như mỗi ngày. Anh gọi tôi mang chúng cho anh, anh
Lightwood. Sao anh làm vậy khi không muốn ăn?”

Má anh đỏ lên. “Đó là cách duy nhất anh nghĩ ra để được gặp em. Em không chịu nói
chuyện, không chịu nghe anh khi anh cố bắt chuyện…”

“Vậy nên anh nói dối?” Nhặt cái mũ lên, Sophie đứng dậy. “Anh có biết tôi phải làm bao
nhiêu việc không, anh Lightwood? Mang than và nước nóng, quét dọn, đánh bóng, dọn
dẹp cho anh và những người khác – và tôi không ngại hay than vãn, nhưng sao anh dám
thêm việc cho tôi, khiến tôi phải bê cái khay nặng lên xuống cầu thang, chỉ để mang cho
anh thứ anh không muốn?”

Gideon vội vàng đứng dậy, quần áo giờ thêm phần nhàu nhĩ. “Hãy thứ lỗi cho anh,” anh
nói. “Anh không nghĩ kĩ.”

“Không,” Sophie nói và bực bội nhét tóc vào dưới cái mũ. “Anh chưa bao giờ nghĩ kĩ,
đúng không?”

Đến đó, cô sải bước rời phòng, để lại Gideon buồn bã nhìn theo.

“Làm tốt lắm, anh trai,” Gideon chớp chớp đôi mắt xanh ngái ngủ với Gideon và nói.

Gideon bực bội nhìn cậu em.

“Henry.” Charlotte bước trên sàn hầm mộ. Những ngọn đuốc phù thủy tỏa ánh sáng rực
rỡ gần như ánh sáng ban ngày, dù chị biết giờ đã gần nửa đêm. Henry đang cúi đầu bên
cái bàn gỗ lớn nhất trong đám bàn nằm rải rác giữa phòng. Có gì đó bốc mùi gây gây
đang cháy trong cốc trên một cái bàn khác, tỏa ra một bụm khói lớn màu oải hương. Một
tờ giấy to tướng, loại hàng thịt vẫn dùng để gói hàng, được trải trên bàn của Henry, và
anh viết nhằng nhịt trên đó những con số và phép tính bí ẩn, rồi vừa hí hoáy vừa lầm bầm
một mình. “Henry, anh không mệt sao? Anh đã ở dưới này mấy tiếng rồi?”

Henry giật mình ngước lên, đẩy cái kính anh đeo khi làm việc lên trên mái tóc đỏ cam.
“Charlotte!” Anh có vẻ kinh ngạc, hoặc vui sướng, khi thấy chị; Charlotte lạnh nhạt nghĩ
chắc chỉ có Henry mới kinh ngạc khi thấy vợ trong nhà của mình. “Thiên thần của anh.
Em làm gì dưới đây vậy? Ở đây lạnh cóng ấy chứ. Thế không tốt cho em bé.”

Charlotte bật cười, nhưng không hề phản đối khi Henry vội vàng chạy tới dịu dàng ôm
chị. Kể từ khi anh biết họ sắp có con, anh đối xử với chị như một món đồ sứ dễ vỡ. Giờ
anh đang hôn lên đỉnh đầu Charlotte rồi ngắm nghía gương mặt chị. “Này, em gầy đi đấy.
Có lẽ thay vì ăn tối, em nên bảo Sophie mang cho em loại trà bia tăng lực mới phải? Anh
nên đi và…”

“Henry. Chúng ta đã quyết định không ăn bữa khuya từ mấy tiếng trước rồi – mọi người
đều mang bánh kẹp về phòng. Jem còn ốm quá không ăn uống gì được, còn anh em nhà
Lightwood mệt mỏi lắm rồi. Và anh cũng biết Will thế nào khi Jem không khỏe. Tessa
cũng thế. Ngôi nhà này sắp rời ra thành từng mảnh thật rồi.”
“Bánh kẹp?” Henry nói, hình như anh chỉ nắm được có mỗi điểm đấy trong cả tràng
thông báo vừa qua của Charlotte, và trông có vẻ thèm ăn.

Charlotte mỉm cười. “Henry, trên nhà còn bánh phần anh đấy, nếu anh bỏ công việc lại
được. Chắc em không nên cằn nhằn anh – em đã xem nhật kí của Benedict, và nó hay lắm
nhưng anh đang làm gì thế?”

“Một Cổng Dịch Chuyển,” Henry hào hứng nói. “Một phương tiện di chuyển ấy mà. Thứ
gì đó có thể giúp một Thợ Săn Bóng Tối từ nơi này trên thế giới tới nơi khác chỉ trong vài
giây. Mấy cái nhẫn của Mortmain đã khiến anh nảy ra ý tưởng đó.”

Mắt Charlotte mở lớn. “Nhưng mấy cái nhẫn của Mortmain là đồ ma thuật…”

“Nhưng cái này thì không. Ờ, còn một thứ nữa. Lại đây nào. Đây là dành cho Buford.”

Charlotte để chồng cầm tay và kéo chị đi qua phòng. “Em đã nói với anh cả trăm lần rồi,
Henry, còn lâu con trai em mới tên là Buford… Lạy Thiên Thần, đấy là nôi sao?”

Henry hào hứng. “Còn hơn cả nôi ấy chứ!” Anh tuyên bố và giang tay chỉ cái giường trẻ
con bằng gỗ trông vững chãi, treo giữa hai cái cọc để nó có thể lắc lư từ bên này sang bên
kia. Charlotte phải thừa nhận đấy là một món đồ trông rất được. “Đây là nôi tự lắc!”

“Cái gì cơ?” Charlotte choáng váng hỏi.

“Nhìn nhé.” Henry hãnh diện tiến lên và ấn một cái nút vô hình nào đấy. Cái nôi bắt đầu
nhẹ nhàng đu đưa qua lại.

Charlotte thở dài một hơi. “Thật tuyệt vời, ông xã.”

“Em không thích nó sao?” Henry vui vẻ. “Đây, giờ cho nó lắc hơn một chút nào.” Nhìn
cái nôi, Charlotte bỗng có cảm giác như đang trôi dập dềnh trên biển động.

“Này,” chị nói. “Henry, em có chuyện muốn nói với anh. Một chuyện quan trọng.”

“Quan trọng hơn cả con chúng ta được lắc ru ngủ mỗi đêm?”

“Clave đã quyết định phóng thích Jessamine,” Charlotte nói. “Em ấy sẽ trở về Học Viện.
Trong hai ngày nữa.”

Henry ngờ vực nhìn chị. Đằng sau anh, cái nôi còn lắc nhanh hơn, như một cỗ xe ngựa
đang ngả nghiêng phi đi. “Em ấy trở về đây?”

“Henry, Jessie không còn nơi nào để đi.”


Henry mở miệng định nói, nhưng trước khi thốt ra được lời nào, một tiếng nứt gãy kinh
khủng vang lên, và cái nôi bật khỏi chốt và bay vèo qua phòng, đập đánh sầm vào bức
tường xa nhất, rồi vỡ vụn.

Charlotte hơi sững sờ, tay giơ lên che miệng. Henry nhíu mày. “Có lẽ sửa thêm một
chút…”

“Không, Henry,” Charlotte nghiêm nghị nói.

“Nhưng…”

“Không đời nào.” Có sự bực bội trong giọng Charlotte.

Henry thở dài. “Được rồi, bà xã.”

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT THƯƠNG TIẾC. QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT
KHÔNG BIẾT HỐI HẬN. QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT GIỚI HẠN. QUÂN
ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT NGỪNG BƯỚC.

Mấy dòng viết trên tường cứ chong chóng hiện lên trong đầu Tessa khi cô ngồi bên
giường Jem, ngắm nhìn anh ngủ. Cô không rõ giờ là mấy giờ, nhưng chắc chắn ‘đã khuya
lắc khuya lơ rồi’, theo cách nói của Bridget, chắc chắn đã quá nửa đêm. Jem còn thức khi
cô vào, ngay khi Will đi, tỉnh táo và ngồi dậy uống ít trà và ăn bánh, nhưng anh thở gấp
hơn và xanh xao hơn.

Sophie vào sau đó để thu dọn thức ăn, và mỉm cười với Tessa. “Dồn gối cho anh ấy đi,”
cô ấy thì thầm gợi ý, và Tessa làm theo, dù Jem đã vui vẻ nhìn cô bận rộn. Tessa không
có nhiều kinh nghiệm trong phòng bệnh. Chăm sóc anh trai khi anh ấy say xỉn là công
việc gần với y tá nhất mà cô từng làm. Nhưng giờ cô không ngại chăm sóc Jem, không
ngại ngồi nắm tay anh khi anh thở nhè nhẹ, mắt khép hờ, lông mi rợp xuống đôi gò má.

“Không được anh hùng cho lắm,” anh đột nhiên nói mà không mở mắt, dù giọng vững
vàng.

Tessa giật mình và nhoài tới. Lúc nãy cô đã lồng tay vào tay anh, và đôi bàn tay nắm lấy
nhau của họ đặt bên cạnh anh. Ngón tay anh lành lạnh, nhịp đập chậm. “Ý anh là sao?”

“Hôm nay,” anh khẽ nói, rồi ho. “Lúc anh gục xuống và thổ huyết ra sân nhà
Lightwood…”

“Thế nơi đó càng đẹp,” Tessa nói.


“Giờ em nói giống hệt Will.” Jem cười ngái ngủ. “Và em đang đánh trống lảng, hệt như
cậu ấy.”

“Tất nhiên rồi. Làm như em sẽ nghĩ anh kém đi vì anh bị ốm ấy; anh biết em sẽ không thế
mà. Và hôm nay anh rất anh dũng đấy chứ. Dù Will đã nói lúc trước,” cô bổ sung, “rằng
người hùng chỉ đi đến kết cục xấu, và anh ấy không tưởng tượng ra vì sao có người lại
muốn thành người hùng.”

“À.” Jem thoáng bóp nhẹ tay cô, rồi buông ra. “Ừ, Will nhìn nhận vấn đề đấy dưới góc
nhìn của người hùng, đúng không? Nhưng đối với những người khác, đấy là một câu trả
lời dễ.”

“Vậy à?”

“Tất nhiên. Người hùng chấp nhận gian khó vì chúng ta cần họ. Chứ không phải vì bản
thân họ.”

“Anh nói về họ cứ như thể anh không phải người hùng vậy.” Cô đưa tay vuốt tóc khỏi
trán anh. Anh áp mặt vào tay cô, mắt nhắm. “Jem… anh có bao giờ…” Cô ngần ngừ.
“Anh có bao giờ nghĩ về cách kéo dài mạng sống của anh nhưng không cần cai thuốc
chưa?”

Nghe mới đó, anh mở mắt. “Ý em là sao?”

Cô nghĩ đến Will, nằm trên sàn gác mái, bị sặc nước thánh. “Trở thành ma cà rồng. Anh
sẽ bất tử…”

Anh lục đục ngồi thẳng dậy dựa vào gối. “Tessa, đừng. Em đừng… nghĩ đến cách đó.”

Cô tránh nhìn anh. “Anh ghét trở thành cư dân Thế Giới Ngầm đến vậy sao?”

“Tessa…” Anh thở dài. “Anh là Thợ Săn Bóng Tối. Nephilim. Như bố mẹ, tổ tiên anh.
Đó là của thừa kế của anh. Anh trân trọng món quà họ tặng anh, dòng máu của Thiên
Thần, sự tin tưởng được đặt nơi anh, lời thề anh mang. Và anh cũng không nghĩ mình sẽ
trở thành một ma cà rồng giỏi. Hầu hết ma cà rồng căm ghét bọn anh. Đôi lúc họ biến đổi
một Nephilim để cho vui, nhưng ma cà rồng bị nhiều người khinh ghét. Bọn anh mang
ánh nắng ban ngày và ngọn lửa của thiên thần trong huyết quản, và ấy là mọi điều ma cà
rồng căm ghét. Họ sẽ xa lánh anh, và Nephilim cũng thế. Anh sẽ không còn là parabatai
của Will, không còn được chào đón ở Học Viện nữa. Không, Tessa. Anh thà chết và được
chuyển kiếp để lại được nhìn thấy mặt trời, còn hơn sống ở nơi tận cùng của thế giới
không có ánh sáng.”
“Vậy làm Tu Huynh Câm vậy,” cô nói. “Codex nói rằng các chữ rune của họ có sức
mạnh giúp họ bất tử.”

“Tu Huynh Câm không được kết hôn, Tessa.” Anh hất hàm. Tessa từ lâu đã biết bên dưới
vẻ dịu dàng của Jem là tính cứng đầu chẳng kém gì Will. Giờ cô đã thấy rồi, thép nằm
dưới lụa.

“Anh biết em thà thấy anh được sống và không lấy em còn hơn…” Cổ họng cô nghẹn lại
ở chữ đó.

Ánh mắt anh dịu lại. “Con đường của Tu Huynh Câm không rộng mở với anh. Ngân
phiến làm vấy bẩn máu anh, nên anh không thể sống sót sau những chữ rune họ vẽ lên
anh. Anh sẽ phải ngừng dùng thuốc đến khi đào thải được toàn bộ ra khỏi cơ thể, và như
vậy cũng gần như giết anh.” Anh hẳn phải thấy gì trên gương mặt cô, vì anh dịu giọng lại.
“Và cuộc đời của họ chẳng có gì ngoài bóng tối và bóng tối, im lặng và… không có tiếng
nhạc.” Anh nuốt khan. “Hơn nữa, anh cũng không muốn sống bất tử.”

“Em có thể sống mãi,” Tessa nói. Cô vẫn chưa hiểu hết được sự nghiệt ngã của nó. Rất
khó để hiểu cuộc đời mình sẽ không bao giờ kết thúc cũng như khó hiểu rằng nó có ngày
chấm dứt.

“Anh biết,” Jem nói. “Và anh rất tiếc, vì anh nghĩ đó là một gánh nặng không ai nên
mang. Em biết anh tin rằng chúng ta sẽ được tái sinh. Anh sẽ trở lại, nhưng không phải
trong hình hài này. Những linh hồn yêu nhau sẽ bị hút về phía nhau ở kiếp sau. Anh sẽ lại
được thấy Will, bố mẹ anh, họ hàng của anh, Charlotte và Henry…”

“Nhưng anh sẽ không thấy em nữa.” Đây không phải lần đầu tiên cô nghĩ đến điều đó, dù
cô thường đẩy ý nghĩ đó sang một bên mỗi khi nó nảy ra. Nếu em sống bất tử, vậy em chỉ
có một kiếp sống. Em sẽ không trở lại và thay đổi như anh đâu, James. Em sẽ không gặp
lại anh ở nơi thiên đường, hoặc bên bờ dòn sông lớn kia, hay ở kiếp nào khác sau kiếp
này.

“Giờ anh đang thấy em đấy thôi.” Anh vươn tay chạm vào má cô, đôi mắt màu xám bạc
trong trẻo nhìn thẳng vào mắt cô.

“Và em cũng thấy anh,” cô thì thầm, và anh mỉm cười mệt mỏi, nhắm mắt. Cô đặt tay lên
tay anh, má áp lên lòng bàn tay anh. Cô ngồi đó, không nói không rằng, tay anh mát lạnh
trên da cô, tới khi hơi thở anh chậm lại và tay anh mềm đi trong tay cô: anh đã ngủ. Mỉm
cười ảo não, cô nhẹ nhàng buông tay anh để bàn tay đặt trên chăn, xuôi thân anh.
Cửa phòng ngủ mở; Tessa quay người trên ghế và thấy Will đứng tại cửa, vẫn mặc áo
khoác và đeo găng tay. Gương mặt tiều tụy, phiền muộn của Will khiến cô đứng lên và
theo anh ra ngoài hành lang.

“Anh vừa từ East End về,” Will nói. Giọng anh mang theo nỗi đau thương cô chưa từng
nghe lại từ ngày trong phòng khách, khi cô bảo anh rằng cô đã hứa hôn cùng Jem. “Anh
đã đi mua thêm ngân phiến. Nhưng hết rồi.”

Tessa suýt ngã khi họ ra tới cầu thang. “Hết là sao? Jem vẫn còn ngân phiến cơ mà?”

Will quay ra nhìn cô, và bước giật lùi xuống cầu thang. “Hết rồi,” anh nói cụt lủn. “Cậu
ấy không muốn em biết, nhưng không có cách nào giấu được. Hết thuốc rồi, và anh
không mua được thêm. Anh luôn là người đi mua thuốc. Anh biết các nguồn hàng –
nhưng hoặc họ đã biến mất hoặc đã hết nhẵn hàng. Đầu tiên anh đi tới chỗ đó – cái chỗ
em cùng Jem đến và tìm thấy anh. Họ không có ngân phiến.”

“Vậy nơi khác…”

“Anh đến mọi chỗ rồi,” Will nói và quay phắt lại. Họ bước vào hành lang ở tầng hai Học
Viện; thư viện và phòng khách nằm ở đây. Cả hai cửa đều mở, cho luồng ánh sáng vàng
ùa ra hành lang. “Mọi chỗ. Ở nơi cuối cùng, có người bảo với anh rằng đã khan hàng từ
vài tuần nay. Không còn lấy một chút nào.”

“Nhưng còn Jem,” Tessa nói và cảm giác bàng hoàng như bị lửa thiêu đốt tâm can,
“không có ngân phiến…”

“Cậu ấy sẽ chết.” Will dừng lại một lát trước cửa thư viện; mắt anh nhìn thẳng vào mắt
cô. “Vừa chiều nay cậu ấy đồng ý cho anh đi tìm cách cứu chữa. Và giờ cậu ấy sẽ chết vì
anh không thể giữ mạng cậu ấy đến ngày đó.”

“Không,” Tessa nói. “Anh ấy sẽ không chết; chúng ta sẽ không để chuyện đó xảy ra.”

Will bước vào thư viện, Tessa đi bên cạnh, mắt anh nhìn khắp căn phòng quen thuộc, cái
bàn sáng ánh đèn, những giá sách cũ. “Có những cuốn sách,” anh nói như thể cô chưa hề
cất lời. “Sách anh tham khảo, sách về những loại độc dược hiếm.” Anh bước ra xa, về
một giá sách gần đó, đôi bàn tay đeo găng vội vàng vuốt những gáy sách. “Từ nhiều năm
trước, trước khi Jem cấm anh tìm kiếm thêm. Anh đã quên mất…”

Tessa tiến tới cạnh, váy quét vào mắt cá chân cô. “Will, dừng lại.”

“Nhưng anh phải ghi nhớ chúng.” Anh tới một giá sách khác, rồi giá khác, thân hình cao
gầy của anh tạo ra một cái bóng dài trên sàn. “Anh phải tìm…”
“Will, anh không thể kịp đọc hết sách trong thư viện. Dừng lại.” Cô đã tiến tới sau anh,
gần tới độ có thể thấy cổ áo khoác của anh ướt vệt nước mưa. “Thế này chẳng giúp được
Jem.”

“Vậy cái gì đây? Cái gì đây?” Anh với lấy một cuốn sách khác, nhìn chằm chằm rồi
quẳng xuống sàn; Tessa giật mình.

“Dừng lại,” cô nhắc lại và kéo tay áo anh, kéo anh quay lại nhìn cô. Mặt anh đỏ lựng, hơi
thở hổn hển, tay gồng cứng như thép dưới tay cô. “Hồi trước khi anh tìm cách chữa, anh
không biết những gì giờ đây anh biết. Anh không có đồng minh hiện anh có. Chúng ta sẽ
nhờ Magnus Bane. Anh ta có tai mắt trong Thế Giới Ngầm; anh ta biết mọi loại phép
thuật. Anh ta đã giúp anh giải lời nguyền; anh ta có thể giúp cả Jem nữa.”

“Làm gì có lời nguyền nào,” Will nói như đang nhắc thoại kịch; mắt anh chẳng biểu lộ
cảm xúc gì.

“Will… nghe em này. Hãy tới gặp Magnus. Anh ta có thể giúp.”

Anh nhắm mắt và hít thật sâu. Cô không thể nào không quan sát anh khi cô biết anh
không nhìn thấy cô – hàng mi dày đen rợp xuống gò má, những mạch máu xanh mờ trên
mí mắt. “Đúng,” cuối cùng anh nói. “Đúng. Dĩ nhiên. Tessa… cảm ơn em. Anh không hề
nghĩ đến.”

“Anh đang buồn,” cô nói, đột nhiên ý thức được mình vẫn cầm tay anh, và rằng họ đứng
gần tới độ cô có thể hôn lên má anh, hoặc ôm cổ an ủi anh. Cô bước lùi lại, buông tay anh
ra. Anh mở mắt. “Và anh đã nghĩ anh ấy cấm anh tìm phương thuốc. Anh biết em sẽ
không bao giờ chịu như thế. Em đã nghĩ tới Magnus từ trước rồi.”

Mắt anh nhìn một lượt cô. “Nhưng em chưa từng hỏi?”

Cô lắc đầu. “Jem không muốn thế. Nhưng giờ… Tất cả đã thay đổi.”

“Ừ.” Anh ngả người ra sau, ánh mắt vẫn nhìn ngắm gương mặt cô. “Anh sẽ xuống nhà
gọi Cyril đánh xe đến. Gặp anh ngoài sân nhé.”

Gửi: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Từ: Thành viên Hội Đồng

Thưa ông,
Chúng tôi vô cùng âu lo khi nhận được thư ông. Theo như chúng tôi thấy, ông đã trao
trọn niềm tin khi giao cho Charlotte Branwell vị trí lãnh đạo Học Viện Luân Đôn, và cô
ấy tỏ ra là một lựa chọn hoàn hảo. Điều Tra Viên Whitelaw của chúng ta đã nói rất tốt về
cô ấy và cung cách cô ấy xử lí thách thức đối với quyền lực của mình của Benedict
Lightwood.

Theo ý chúng tôi, George Penhallow không phải người kế nghiệp phù hợp với vị trí Quan
Chấp Chính. Không giống cô Branwell, anh ta không chứng tỏ được năng lực lãnh đạo.
Quả là cô Branwell còn trẻ và hành xử cảm tính, nhưng vai trò Quan Chấp Chính cần
người có cảm tính. Chúng tôi rất mong ông bỏ ý định tiến cử anh Penhallow, người còn
quá trẻ và non nớt để đảm đương vị trí này, và hãy từ từ cân nhắc thêm về ứng cử viên
Branwell.

Nhân danh Raziel,

Thành viên Hội Đồng


5

TRÁI TIM CHIA NỬA


Ừ thì dù Thượng Đế tra xét tôi tường tỏ,

Ngài sẽ chẳng thể tìm được gì đâu;

Mặc cho Ngài lùng sục khắp huyết quản,

Ngài sẽ chẳng thấy gì ngoài tình yêu.

– Algernon Charles Swinburne, Laus Veneris

Gửi: Thành viên Hội Đồng

Từ: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Lòng tôi trĩu nặng trong phút cầm bút viết thư cho quý vị. Rất nhiều người trong số quý
vị đã biết tôi nhiều năm, và trong cương vị Quan Chấp Chính, tôi là cấp trên của rất
nhiều người. Tôi tin mình đã làm tốt chức trách, và tận tụy phục vụ Thiên Thần. Nhưng,
nhân vô thập toàn, và tôi tin mình đã sai lầm khi bổ nhiệm Charlotte Branwell vào vị trí
lãnh đạo Học Viện Luân Đôn.

Khi tôi trao trọng trách này cho cô ta, tôi tin cô ta sẽ theo bước cha mình và chứng tỏ là
một người lãnh đạo tận tâm, chấp hành tốt luật lệ của Clave. Tôi cũng tin chồng cô ta sẽ
kiềm chế được bản tính nữ giới thường bốc đồng bộp chộp. Nhưng không may thay,
những gì tôi mong đợi lại không thành hiện thực. Henry Branwell thiếu sự mạnh mẽ để
cầm cương vợ mình, và vì được thỏa sức, cô ta không thèm nghĩ đến chuyện phục tùng.
Mới ngày hôm kia thôi, tôi phát hiện ra Charlotte đã ra lệnh đưa gián điệp Jessamine
Lovelace trở về Học Viện sau khi cô ta được phóng thích khỏi Thành phố Câm Lặng, dù
cho tôi đã đề nghị đưa cô ta về Idris. Tôi cũng nghi ngờ cô Branwell sử dụng tai mắt là
những kẻ không quý mến gì Nephilim và có thể còn là đồng minh với Mortmain, như
người sói Woolsey Scott chẳng hạn.

Hội Đồng không phục vụ Quan Chấp Chính, mà luôn là ngược lại. Tôi là biểu tượng sức
mạnh của Hội Đồng và Clave. Khi thẩm quyền của tôi bị khinh nhờn, vậy chứng tỏ thẩm
quyền của chúng ta đều bị khinh nhờn. Tốt hơn hết, hãy để một chàng trai sẵn sàng làm
tròn bổn phận – tuy anh ta chưa có cơ hội chứng tỏ năng lực, hơn là một kẻ đã được thử
thách và cho thấy rằng mình không có đủ tài đức.

Nhân danh Thiên Thần,

Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Will nhớ rồi.

Vào một ngày khác cách đây vài tháng, ở trong phòng Jem, mưa táp vào các ô cửa sổ
Học Viện, để lại những vệt nước trắng xoá…

“Và chỉ có thế?” Jem đã hỏi. “Là toàn bộ sự thật đấy à?” Jem ngồi trên bàn, một chân gác
lên cái ghế bên dưới, và trông rất trẻ. Cây vĩ cầm được dựng dựa vào ghế. Cậu ấy đang
chơi đàn khi Will bước vào và thông báo không hề ngượng mồm rằng thời gian giả bộ đã
chấm dứt – anh phải thú nhận, và anh muốn thú nhận ngay.

Thế là kết thúc bản nhạc Bach. Jem bỏ cây vĩ cầm sang bên, mắt luôn chăm chú nhìn
Will không dời một khắc nào, vẻ căng thẳng bùng nổ đằng sau đôi mắt bạc khi Will đi đi
lại lại và nói, nói rồi đi đi lại lại, tới khi cạn cả vốn từ.

“Chỉ có thế thôi,” Will nói khi kể xong. “Và tôi không trách bồ nếu bồ ghét tôi. Tôi hiểu
mà.”

Jem không nói gì một hồi lâu. Ánh mắt Jem vẫn nhìn thẳng vào mặt anh, vững vàng và
bàng bạc dưới ánh lửa chập chờn. “Tôi không thể nào ghét bồ, William.”

Bụng dạ Will khi ấy quặn lại khi nhớ đến một gương mặt khác, một đôi mắt màu xám
xanh kiên định ngước nhìn anh. “Em đã cố ghét anh, Will, nhưng không nổi,” cô đã nói
thế. Vào khoảnh khắc ấy, Will đau đớn nhận ra mình không kể “toàn bộ sự thật” với Jem.
Còn một điều nữa. Đó là tình yêu anh dành cho Tessa. Nhưng đó là gánh nặng của anh,
không phải của Jem. Anh phải giấu nhẹm nó để Jem được hạnh phúc. “Tôi xứng đáng bị
bồ ghét,” Will đã run run nói với Jem như thế. “Tôi đẩy bồ vào vòng nguy hiểm. Tôi tin
tôi bị nguyền rủa và những ai quan tâm đến tôi sẽ chết; tôi để mình quan tâm đến bồ, để
bồ là anh em của tôi, để bồ phải chịu hiểm nguy.”

“Làm gì có nguy hiểm nào.”

“Nhưng tôi tin là có. Nếu tôi gí súng vào đầu bồ, James, và kéo cò, vậy liệu chuyện tôi
không biết có đạn trong ổ quay hay chăng có quan trọng không?”
Mắt Jem mở to, rồi anh bật cười nhẹ nhàng. “Bồ tưởng tôi không biết bồ có bí mật à?”
Jem nói. “Bồ tưởng tôi nhắm mắt kết bạn bừa chắc? Tôi không biết bản chất gánh nặng
bồ mang, nhưng tôi biết nó có tồn tại.” Cậu ấy đứng lên. “Tôi biết bồ nghĩ mình là độc
dược đối với những người xung quanh,” Jem nói tiếp. “Tôi biết bồ nghĩ có một lực thối
nát nào đó từ bồ sẽ làm hại tôi. Tôi muốn cho bồ thấy không đời nào có chuyện đó, rằng
tình yêu thương không mong manh dễ vỡ đến vậy. Tôi thành công chứ?”

Will nhún vai một cái, hết nói nổi. Anh cứ ước Jem sẽ giận mình. Vậy chuyện sẽ dễ dàng
hơn. Anh chưa từng thấy mình nhỏ bé như vậy khi đối diện với lòng nhân hậu lớn lao của
Jem. Anh nghĩ tới quỷ Satan của Milton. Con quỷ ngượng ngùng đứng đó/Và biết rằng
lòng tốt mới tệ làm sao. “Bồ đã cứu mạng tôi,” Will nói.

Một nụ cười nở trên gương mặt Jem, rạng rỡ như ánh bình minh tỏa chiếu sông Thames.
“Tôi cũng chỉ mong được vậy.”

“Will?” Một giọng dịu dàng kéo anh khỏi cơn hồi tưởng. Tessa, ngồi đối diện anh trong
cỗ xe ngựa, đôi mắt xám giống màu mưa trong không gian tối. “Anh đang nghĩ gì thế?”

Anh cố lắm mới thôi hồi tưởng, và nhìn chăm chú gương mặt cô. Gương mặt Tessa. Cô
không đội mũ, và mũ áo choàng vải gấm thêu kim tuyến cũng đã được bỏ xuống. Gương
mặt cô xanh xao – hơi mở rộng ở phần gò má và nhọn lại ở cằm. Anh nghĩ mình chưa
từng thấy gương mặt nào có khả năng biểu cảm thế này: Mỗi nụ cười của cô lại làm trái
tim anh chia nửa như sét bổ đôi một thân cây, và vẻ buồn rầu của cô cũng vậy. Ngay giây
phút cô nhìn anh với vẻ lo âu làm anh nghẹn lòng. “Jem,” anh nói, cực kì thành thật.
“Anh đang nhớ lại phản ứng của cậu ấy khi nghe anh kể về lời nguyền của quỷ Marbas.”

“Anh ấy chỉ buồn cho anh thôi,” cô nói ngay. “Em biết mà; anh ấy cũng bảo với em như
thế.”

“Buồn chứ không thương hại,” Will nói. “Jem luôn cho anh chính xác cái anh muốn đúng
như anh cần, kể cả khi anh không biết mình muốn gì. Tất cả các parabatai đều tận tâm.
Bọn anh phải như vậy, phải trao rất nhiều thứ của mình cho người kia, kể cả nếu có yếu
đi cũng chấp nhận. Nhưng Jem lại khác. Rất nhiều năm nay anh muốn cậu ấy sống, và
cậu ấy giúp anh sống sót. Anh nghĩ cậu ấy không ý thức được điều đấy, nhưng có lẽ cậu
ấy biết.”

“Có lẽ,” Tessa nói. “Anh ấy hình như chưa từng cho rằng mình đã phí phạm bất cứ một
nỗ lực nào.”

“Cậu ấy không nói gì với em về chuyện đó ư?”


Cô lắc đầu. Đôi bàn tay nhỏ đeo găng trắng của cô đang nắm lại đặt trên đùi. “Anh ấy chỉ
nói về anh với sự tự hào vô bờ bến, Will ạ,” cô nói. “Anh ấy ngưỡng mộ anh nhiều thế
nào anh không biết được đâu. Khi anh ấy biết về lời nguyền, anh ấy đau lòng vì anh,
nhưng còn như được… được…”

“Chứng thực?”

Cô gật đầu. “Anh ấy luôn tin anh là người tốt,” cô nói. “Và điều đó đã được chứng
minh.”

“Ồ, anh không biết,” anh cay đắng nói. “Là người tốt, và là kẻ bị nguyền rủa không phải
là một.”

Cô nhoài người và đưa hai bàn tay nắm tay anh. Sự tiếp xúc giống như đưa một ngọn lửa
trắng vào huyết quản anh. Anh không cảm nhận được da cô, chỉ có lớp vải găng tay,
nhưng thế cũng đủ. Em thổi bùng đống trò tàn là anh lên thành lửa. Anh từng có lần tự
hỏi vì sao người ta luôn ví von tình yêu với lửa. Đám cháy lớn trong huyết quản anh lúc
này đã cho anh đáp án. “Anh là người tốt, Will,” cô nói. “Không ai hơn em có thể tự tin
tuyên bố rằng anh thật sự tốt ra sao.”

Anh chậm rãi nói, không muốn cô buông tay. “Em biết không, hồi bọn anh mười lăm
tuổi, Diêm La, con quỷ đã giết bố mẹ Jem, cuối cùng cũng bị giết. Chú của Jem quyết
định chuyển từ Trung Quốc về sống tại Idris và bảo Jem đến ở cùng. Jem từ chối – vì
anh. Cậu ấy nói không rời xa parabatai của mình. Đó là một phần của lời thề. ‘Người
thân của bạn là người thân của tôi.’ Anh tự hỏi, nếu mình có cơ hội được trở về nhà, liệu
anh có dám hành động như cậu ấy không.”

“Anh sẽ,” Tessa nói. “Đừng nghĩ em không biết Cecily muốn anh cùng cô ấy về nhà. Và
đừng nghĩ em không biết anh ở lại vì Jem.”

“Và vì em nữa,” anh buột miệng. Cô rụt tay lại, và anh thầm rủa xả mình: Sao mày ngu
thế? Sao mày có thể hành động như vậy sau hai tháng rồi? Mày vẫn luôn cẩn trọng cơ
mà. Tình yêu của mày dành cho cô ấy chỉ là gánh nặng cô ấy phải chịu đựng vì lịch sự
thôi. Nhớ lấy.

Nhưng Tessa chỉ kéo rèm cửa sổ sang bên khi cỗ xe dừng lại. Họ đã vào một khu trại
nuôi ngựa, trên lối vào có treo biển: đề nghị mọi xà ích xuống dắt ngựa đi qua cổng vòm
này. “Chúng ta đến rồi,” cô nói như thể anh chưa từng nói gì. Có lẽ anh chưa nói gì thật,
Will nghĩ bụng. Có lẽ anh không nói thành lời. Có lẽ anh vừa mất trí thôi. Chắc chắn
không đời nào anh nói vậy.
Cửa xe mở, đưa theo làn gió mát lành của vùng Chelsea ùa vào. Anh thấy Tessa ngẩng
đầu khi Cyril giúp cô xuống. Anh bước xuống nền đá cuội đứng cạnh cô. Nơi này có mùi
sông Thames. Trước khi bờ đê xây dựng, dòng sông tiến vào rất gần những dãy nhà này,
những góc cạnh của chúng được làm cho dịu đi nhờ ánh đèn khí đốt trong buổi tối. Giờ
dòng sông bị ngăn ra xa, nhưng người ta vẫn ngửi thấy mùi tanh mằn mặn của nước.

Mặt tiền của nhà số 16 được xây dựng theo phong cách George bằng gạch mộc đỏ, có ô
cửa sổ nhô ra bên trên cửa chính. Có một khoảng sân lát và vườn đằng sau hàng rào thanh
nhã bằng sắt uốn. Cổng đã mở sẵn. Tessa đi qua và tới thềm rồi gõ cửa, Will chỉ sau cô
vài bước.

Người ra mở cửa là Woolsey Scott, mặc áo choàng ngủ bằng lụa thêu kim tuyến khoác
ngoài quần vải và áo sơ mi. Anh ta đeo kính độc tròng, và nhìn cả hai với vẻ chán ghét.
“Chán thật,” anh ta nói. “Nếu biết là hai người thì tôi đã sai quản gia ra đuổi rồi, nhưng
tôi tưởng người khác gõ cửa cơ.”

“Là ai?” Tessa hỏi, Will thấy câu hỏi đó chẳng vấn đề gì, vì Tessa vẫn hay hỏi; nếu để cô
lại trong phòng, cô sẽ bắt đầu hỏi về đồ nội thất và cây cối.

“Người đưa rượu ngải đắng.”

“Uống lắm cái thứ đó vào rồi anh sẽ nghĩ mình là người khác thôi,” Will nói. “Chúng tôi
đang tìm Magnus Bane; nếu anh ấy không ở đây, cứ nói và chúng tôi không làm phiền
anh thêm.”

Woolsey thở dài như thể cực kì bị thuyết phục. “Magnus,” anh ta gọi. “Anh chàng mắt
xanh của anh này.”

Có tiếng chân trong hành lang đằng sau Woolsey, và Magnus xuất hiện trong nguyên bộ
lễ phục, như thể anh ta vừa đi dự dạ hội về. Áo sơ mi trắng hồ cứng, áo vét đuôi tôm, và
tóc lỉa chỉa đen như mực. Đôi mắt anh ta nhìn từ Will sang Tessa. “Muộn thế này sao
rồng lại đến nhà tôm thế?”

“Tới có chuyện muốn nhờ anh,” Will nói và sửa lại khi thấy lông mày Magnus nhướng
lên. “À, muốn hỏi anh.”

Woolsey thở dài và bước lùi khỏi cửa. “Thôi được. Vào phòng khách đi.”

Không ai đề nghị cầm mũ và áo khoác cho họ, và khi họ vừa vào phòng khách, Tessa liền
cởi găng tay và đứng hơ tay trước lửa, người hơi run. Tóc sau gáy cô bị ướt, và Will vội
nhìn đi chỗ khác trước khi nhớ ra cảm giác được vuốt tóc cô, cảm nhận những lọn tóc
quấn quýt nơi ngón tay. Anh thấy chuyện dễ dàng hơn hẳn khi ở Học Viện, có Jem và
những người khác làm anh phân tán tư tưởng, để nhớ rằng mình không được nghĩ về
Tessa theo cách đó. Nhưng ở đây, cảm nhận như thể anh có thể đối mặt với cả thế giới
khi có cô ở bên – cảm giác cô ở đây vì anh, chứ không phải vì sức khỏe của chồng sắp
cưới – điều ấy dường như không thể.

Woolsey ngồi phịch xuống một chiếc ghế bọc vải hoa. Anh ta đã tháo cái kính độc tròng
và tay đang đung đưa sợi dây vàng treo kính. “Tôi không thể đợi xem có chuyện gì.”

Magnus tiến tới bên lò sưởi và dựa vào bệ lò, trông rất giống một quý ông nhàn nhã. Căn
phòng được sơn xanh nhạt, và trang trí những bức họa vẽ các cánh đồng đá hoa cương
rộng mênh mông, biển xanh lấp lánh, phụ nữ và đàn ông mặc trang phục thời xưa. Will
nghĩ mình nhận ra một bức tranh chép lại tranh của Alma-Tadema – hoặc ít nhất nó phải
là bức chép lại, đúng không nhỉ?

“Đừng nhìn tường chòng chọc nữa, Will,” Magnus nói. “Cậu đã ngừng quấy quả tôi vài
tháng rồi. Thế sao giờ cậu lại đến?”

“Tôi không muốn gây rắc rối cho anh,” Will lầm bầm. Đấy chỉ là một phần sự thật. Khi
lời nguyền Will tin mình mắc phải được Magnus chứng minh là giả hiệu, anh đã tránh
mặt Magnus – không phải vì anh giận pháp sư, hoặc không cần anh ta nữa, mà vì trông
thấy Magnus lại khiến anh đau lòng. Anh đã viết cho anh ta một bức thư ngắn, thông báo
rằng bí mật của anh đã không còn là bí mật nữa. Anh đề cập tới chuyện Jem hứa hôn với
Tessa. Anh đã bảo Magnus đừng phúc đáp. “Nhưng chuyện này… chuyện này rất nghiêm
trọng.”

Đôi mắt mèo của Magnus mở to. “Nghiêm trọng kiểu gì?”

“Liên quan đến ngân phiến,” Will nói.

“Tuyệt,” Woolsey nói. “Đừng nói là đám người sói của tôi lại dùng thứ đó nhé?”

“Không,” Will nói. “Làm gì còn nữa đâu.” Anh thấy vẻ ngờ ngợ hiểu ra của Magnus và
tiếp tục giải thích tình huống theo cách tốt nhất có thể. Magnus không thay đổi thái độ,
hệt như Church khi nghe người ta nói chuyện với mình. Magnus chỉ mở to đôi mắt màu
xanh vàng tới khi Will kể xong xuôi.

“Và không có ngân phiến…?” Cuối cùng Magnus nói.

“Cậu ấy sẽ chết,” Tessa nói và quay lưng với lò sưởi. Má cô ửng hồng, nhưng Will không
rõ vì hơi ấm từ ngọn lửa hay vì mức độ nghiêm trọng của tình hình. “Không chết ngay,
nhưng trong độ một tuần. Cơ thể anh ấy không thể làm việc nếu không có thứ bột đó.”
“Cậu ấy dùng thuốc thế nào?”

“Hòa với nước, hoặc hít… Mà thế đã sao?” Will hỏi.

“Chẳng sao cả,” Woolsey nói. “Tôi chỉ thắc mắc thôi. Thuốc phiện quỷ là thứ rất hay ho
mà.”

“Với chúng tôi, những người quý mến anh ấy, đấy không phải thứ để người ta hiếu kì,”
Tessa nói. Cô hất cằm, và Will nhớ điều mình từng nói với cô, rằng hãy tỏ ra giống
Boadicea. Cô dũng cảm, và anh yêu cô bởi điều ấy, dù cho đây là cô đang bảo vệ một
người khác.

“Sao hai người lại tới gặp tôi vì vấn đề này?” Giọng Magnus bình tĩnh.

“Anh đã từng giúp chúng tôi,” Tessa nói. “Chúng tôi nghĩ biết đâu anh sẽ lại giúp được.
Anh giúp vụ de Quincey… và lời nguyền của Will…”

“Tôi không phải người hầu của các vị,” Magnus nói. “Tôi giúp vụ de Quincey do Camille
đề nghị, và Will vì cậu ấy giúp tôi để trả công. Tôi là pháp sư. Và tôi không giúp Thợ Săn
Bóng Tối miễn phí.”

“Và tôi không phải Thợ Săn Bóng Tối,” Tessa bảo.

Im lặng. Rồi, “Hừ,” Magnus lên tiếng và quay lưng với lò sưởi. “Tessa, tôi nên chúc
mừng mới phải, nhỉ?”

“Tôi…”

“Về chuyện cô hứa hôn với James Carstairs.”

“À.” Cô đỏ mặt và tay đưa lên cổ, nơi cô luôn đeo mặt dây chuyền của mẹ Jem, món quà
anh tặng cô. “Đúng. Cảm ơn anh.”

Will có cảm giác đôi mắt Woolsey đang lướt qua cả ba người họ – Magnus, Tessa và anh
– từng người từng người một, trí óc đằng sau đôi mắt đó đang dò xét, suy diễn, thưởng
thức.

Vai Will gồng cứng. “Tôi sẵn lòng giao bất cứ thứ gì,” anh nói. “Lần này. Một ân huệ
nữa, hoặc bất cứ cái gì anh muốn, để đổi lấy ngân phiến. Nếu anh muốn tiền, tôi sẽ có thể
thu xếp – hoặc cố…”
“Có lẽ tôi từng giúp quý vị,” Magnus nói. “Nhưng vụ này…” Anh ta thở dài. “Nghĩ đi, cả
hai người. Nếu có người mua hết ngân phiến tại đất nước này, vậy kẻ đó ắt phải có lí do.
Và ai có lí do nào?”

“Mortmain,” Tessa thì thầm trước khi Will kịp lên tiếng. Anh vẫn nhớ y nguyên câu nói
của mình:

“Lũ lâu la của Mortmain đã mua sạch ngân phiến ở East End. Tôi vừa xác nhận xong.
Nếu bồ hết thuốc còn hắn là người duy nhất nắm nguồn hàng…”

“Vậy ta bị hắn thao túng,” Jem nói. “Tất nhiên là trừ khi bồ đồng ý để tôi chết, và đấy là
phương án hay nhất.”

Nhưng với lượng ngân phiến đủ dùng cho mười hai tháng, Will những tưởng không còn
hiểm họa nào. Anh đã nghĩ rằng Mortmain sẽ nghĩ ra cách khác để quấy rầy và hành hạ
họ, vì chắc chắn ông ta sẽ nhận thấy kế hoạch kia không thành. Will không nghĩ lượng
thuốc dùng cho một năm lại bị xài hết trong vẻn vẹn tám tuần.

“Anh không muốn giúp chúng tôi,” Will nói. “Anh không muốn trở thành kẻ thù của
Mortmain.”

“Ờ, cậu trách được anh ấy sao?” Woolsey trong bộ đồ lụa vàng đứng lên. “Cậu có thể trả
cái giá nào để khiến anh ấy chịu liều mạng đây?”

“Tôi sẽ đưa anh ấy bất cứ cái gì,” Tessa nói nhẹ nhàng khiến Will thấy mềm cả xương.
“Bất cứ thứ gì, nếu anh có thể giúp Jem.”

Magnus đưa tay lên bứt tóc. “Chúa ơi, hai người. Để tôi đi hỏi vậy. Tìm xem có tuyến
buôn bán khác thường nào nữa không. Già Molly…”

“Tôi tới rồi,” Will nói. “Không hiểu bà ấy bị ai dọa cho sợ hết hồn, nhất quyết không chịu
chui ra khỏi mộ.”

Woolsey khịt mũi. “Và thấy thế mà cậu không hiểu gì hả, nhóc Thợ Săn Bóng Tối? Kéo
dài mạng cho bạn cậu thêm vài tháng, một năm nữa có đáng không? Đằng nào cậu ấy
cũng chết. Và cậu ấy càng chết sớm, cậu càng sớm có được vị hôn thê của cậu ấy, người
mà cậu yêu ấy.” Anh ta vui vẻ nhìn Tessa. “Tôi chắc mẩm cậu phải hào hứng đếm đến
ngày cậu ấy đi đời nhà ma ấy chứ.”

Will không biết chuyện gì xảy ra sau đó; mọi thứ đột ngột trắng xóa, và cái kính độc
tròng của Woolsey bay vèo qua phòng. Đầu Will đập vào cái gì đó phát đau, còn gã
người sói nằm dưới anh, vừa đấm đá vừa chửi thề, và họ lăn lộn trên thảm, cổ tay anh
nhói đau do bị Woolsey cào. Cái đau khiến đầu óc anh thanh tỉnh, và anh biết Woolsey
đang ghìm mình xuống đất, mắt chuyển vàng, răng nhe ra sắc như dao, sẵn sàng bập vào
da thịt anh.

“Dừng. Dừng lại!” Tessa, đứng bên cạnh lò sưởi, đã cầm lấy cây cời lò; Will bị nghẹt thở
và đưa tay đẩy mặt Woolsey ra. Woolsey hét và đột nhiên áp lực biến mất khỏi ngực
Will; Magnus đã kéo người sói lên và đẩy sang bên. Rồi tay Magnus tóm lưng áo Will, và
Will bị kéo ra khỏi phòng, Woolsey chăm chú nhìn theo, một tay đưa lên chạm vào chỗ
bị cái nhẫn bạc của Will làm bỏng má.

“Thả tôi ra. Thả ra!” Will chống cự, nhưng tay Magnus chắc như gọng kềm. Anh ta lôi
tuột Will ra ngoài hành lang và vào một thư viện mờ mờ tỏ tỏ. Will vùng ra khi Magnus
buông tay, khiến anh lảo đảo ngã người vào cái ghế sofa nhung đỏ. “Tôi không thể để
Tessa ở cùng Woolsey…”

“Không phải lo cô ấy bị Woolsey xâm hại đâu,” Magnus lạnh nhạt nói. “Woolsey biết
cách cư xử, chứ không như cậu.”

Will từ từ quay lại, lau máu khỏi mặt. “Anh lườm tôi,” anh nói với Magnus. “Anh trông
hệt như Church khi chuẩn bị cắn ai.”

“Gây chiến với thủ lĩnh Vệ đoàn Lupus,” Magnus cay đắng nói. “Cậu biết đàn của anh ta
sẽ làm gì cậu nếu có cớ. Cậu muốn chết hả?”

“Không,” Will nói, khiến bản thân cũng hơi bất ngờ.

“Tôi không biết sao mình lại đi giúp cậu nữa.”

“Anh thích thứ hỏng hóc.”

Magnus bước hai bước và tóm mặt Will bằng những ngón tay dài, buộc anh phải ngẩng
mặt lên. “Cậu không phải Sydney Carton,” anh ta nói. “Cậu chết vì James Carstairs thì
ích gì, khi đằng nào cậu ta cũng chết.”

“Cứu được cậu ấy thì giá nào cũng xứng hết…”

“Chúa ơi!” Magnus nheo mắt. “Đáng cái gì nào?”

“Mọi thứ tôi đã mất!” Will hét. “Tessa!”


Magnus bỏ tay khỏi mặt Will. Anh lùi vài bước và từ từ hít vào thở ra, như thể đang thầm
đếm đến mười. “Tôi xin lỗi,” cuối cùng Magnus nói. “Vì những lời Woolsey nói.”

“Nếu Jem chết, tôi không thể ở cùng Tessa,” Will nói. “Vì vậy sẽ giống như tôi đợi cậu
ấy chết, và hưởng niềm vui từ cái chết của cậu ấy, nếu nhờ đó mà tôi có cô ấy. Và tôi
không phải loại người đó. Tôi không muốn trục lợi từ cái chết của cậu ấy. Cậu ấy phải
sống.” Anh hạ tay, tay áo dính máu. “Chỉ có cách đấy mọi việc mới có ý nghĩa. Còn
không…”

“Sẽ là chịu đựng đau đớn, khổ sở vô ích? Tôi không biết nói thế này có ích gì cho cậu
không, nhưng đời là thế. Người tốt chịu khổ, kẻ xấu sống sung sướng, và đạo đức lắm khi
bị băng hoại.”

“Tôi muốn được nhiều hơn,” Will nói. “Anh đã khiến tôi khao khát nhiều hơn. Anh cho
tôi thấy tôi bị nguyền rủa chỉ vì tôi chọn tin như thế. Anh bảo tôi rằng có những khả
năng, những ý nghĩa. Và giờ anh quay lưng với cái anh tạo ra.”

Magnus cười cộc lốc. “Cậu đúng là đánh chết không bỏ được cái tính ấy.”

“Tôi nghe thấy đó.” Will chống người đứng dậy, nhăn nhó. “Vậy anh sẽ giúp tôi chứ?”

“Ừ.” Magnus lần túi áo và rút ra gì đó đung đưa trên dây xích, gì đó sáng lên màu đỏ
nhạt. Một viên đá đỏ hình vuông. “Cầm lấy.”

Anh ta nhét nó vào tay Will.

Will bối rối nhìn anh ta. “Đây là của Camille.”

“Tôi đã tặng nó cho cô ấy,” Magnus nói, và nhếch mép cười chua chát. “Tháng trước cô
ta trả hết quà lại cho tôi. Cậu nên giữ nó. Nó báo động khi có quỷ, hoặc những tạo vật của
Mortmain đến gần.”

“Tình yêu đích thực là bất diệt,” Will nói, dịch dòng chữ ở mặt sau trong ánh sáng hắt từ
hành lang vào. “Tôi không đeo được, Magnus. Nó đẹp quá, không hợp với nam giới.”

“Cậu cũng thế. Về nhà và tắm rửa đi. Tôi sẽ gọi cậu ngay khi có tin.” Anh ta chăm chú
nhìn Will. “Trong lúc đó cố làm sao cho xứng với sự giúp đỡ của tôi.”

“Nếu anh dám đến gần, tôi sẽ dùng cây cời lò đập vào đầu anh đấy,” Tessa nói và huơ
cây cời giữa cô và Woolsey Scott như thể đấy là một thanh kiếm.
“Tôi không nghi ngờ gì chuyện đó,” anh ta nói và nhìn cô với vẻ tôn trọng miễn cưỡng và
lấy cái khăn tay thêu chữ viết tắt tên mình lau máu trên cằm. Will cũng chảy máu, và kia
là máu của anh và của Woolsey; chắc chắn giờ này Will đang ở trong một căn phòng
khác cùng Magnus, khiến máu lại dây ra khắp các chỗ. Will chẳng mấy để ý tới chuyện
gọn gàng, và càng không để tâm hơn khi đang khích động. “Tôi thấy cô bắt đầu giống
đám Thợ Săn Bóng Tối cô ngưỡng mộ rồi. Cô bị gì nhập mà đi đính hôn với một kẻ trong
số đó? Lại là một kẻ sắp chết nữa chứ.”

Lửa giận bùng lên trong Tessa, và cô tính lấy que cời lò đập Woolsey một trận dù cho
anh ta có đến gần cô hay không. Nhưng anh ta di chuyển nhanh dễ sợ khi đánh nhau với
Will, và cô không nghĩ mình có cơ hội. “Anh không biết James Carstairs. Đừng nói về
anh ấy.”

“Yêu cậu ấy hả?” Woolsey cố nói cho ra vẻ khó chịu. “Nhưng cô cũng yêu Will.”

Tessa sững sờ. Cô biết Magnus tường tỏ tình cảm của Will với cô, nhưng ý nghĩ rằng tình
cảm cô đáp lại anh bị phơi bày lồ lộ trên gương mặt thật quá đáng sợ, khiến cô không
chịu được. “Không phải.”

“Nói dối,” Woolsey nói. “Thật nhé, nếu một trong hai người chết thì đã làm sao nào? Cô
vẫn có lựa chọn hai cơ mà.”

Tessa nghĩ đến Jem, khuôn mặt anh, mắt nhắm tập trung khi chơi vĩ cầm, đôi môi anh
cong lên khi mỉm cười, ngón tay anh cẩn thận lồng vào tay cô – mỗi đường nét của anh
đều thân thương khó tả. “Nếu anh có hai đứa con,” cô nói, “liệu anh có dám nói chẳng
sao hết nếu một đứa chết, vì anh vẫn còn đứa kia không?”

“Người ta có thể yêu hai đứa con. Nhưng trong tình yêu, trái tim cô chỉ nên trao cho một
người,” Woolsey nói. “Đó là bản chất của tình yêu, không phải sao? Đó là tiểu thuyết nói
vậy, còn tôi không có kinh nghiệm cá nhân.”

“Tôi đã hiểu một vài điều về tiểu thuyết,” Tessa nói.

“Và là gì?”

“Rằng chúng không có thật.”

Woolsey nhướng mày. “Cô rất thú vị,” anh ta nói. “Hình như tôi đã thấy hai chàng trai
kia thấy gì ở cô, nhưng…” Anh ta nhún vai. Cái áo choàng vàng giờ dính một vệt màu
dài. “Tôi vốn chẳng bao giờ hiểu hết được phụ nữ.”

“Thế anh thấy họ có gì bí ẩn nào?”


“Chủ yếu là họ tồn tại trên đời làm gì.”

“Chắc anh phải có mẹ chứ,” Tessa nói.

“Tôi có người đẻ ra mình,” Woolsey nói chẳng hào hứng lắm. “Tôi chẳng còn mấy nhớ
về bà ta.”

“Có lẽ, nhưng anh sẽ không có mặt trên đời nếu không nhờ người phụ nữ đó, phải không?
Dù cho anh nghĩ chúng tôi là thứ vô tích sự thế nào, chúng tôi cũng thông minh hơn, kiên
quyết hơn và kiên nhẫn hơn đàn ông. Đàn ông có thể mạnh hơn, nhưng phụ nữ giỏi chịu
đựng hơn.”

“Đấy là chuyện cô đang làm à? Chịu đựng ư? Chắc chắn một người phụ nữ đã đính hôn
nên hạnh phúc hơn mới phải.” Đôi mắt xanh nhạt của anh ta nhìn cô chòng chọc. “Có câu
rằng nếu một trái tim tự chia nhau, thì tim ấy không thể còn được. Cô yêu cả hai, và điều
đó sẽ xé tan cô ra.”

“Nhà,” Tessa nói.

Anh ta nhướng một bên mày. “Cái gì?”

“‘Nếu một nhà tự chia nhau, thì nhà ấy không thể còn được 7’. Chứ không phải trái tim.
Có lẽ anh đừng nên trích dẫn khi không nhớ đúng.”

“Và có lẽ cô nên ngừng thương thân trách phận,” anh ta nói. “Người nào may mắn lắm
mới có được một tình yêu lớn trong đời. Cô lại tìm được hai.”

“Câu nói từ miệng một người chẳng hề yêu ai.”

“Ồ!” Woolsey loạng choạng lùi lại, tay đè lên tim, ra điệu bất tỉnh. “Thỏ cũng có nanh
vuốt kìa. Được thôi, nếu cô không muốn nói chuyện cá nhân, vậy chúng ta chuyển sang
gì đó chung chung hơn nhỉ? Bản chất của cô chăng? Magnus có vẻ tin cô là pháp sư,
nhưng tôi lại không chắc. Tôi nghĩ trong huyết quản cô có chút máu tiên, vì khả năng
biến hình diệu kì kia còn là gì nếu không là phép ảo ảnh? Và còn ai giỏi phép thuật và ảo
ảnh hơn Tiên Tộc?”

Tessa nghĩ tới tiên nữ tóc xanh tại bữa tiệc của Benedict đã nói biết mẹ cô, và hơi thở của
cô nghẹn lại trong cổ. Nhưng trước khi cô kịp nói thêm lời nào nữa với Woolsey, Magnus
và Will đã quay lại – Will, đúng như cô đoán, vẫn lôi thôi hệt như lúc trước, và đang
nhăn nhó. Anh nhìn từ Tessa sang Woolsey và cười cộc lốc. “Có vẻ anh đã đúng,

7
Kinh thánh Mark 3:25
Magnus,” anh nói. “Tessa không gặp nguy hiểm nào từ anh ta. Nhưng tôi không dám nói
ngược lại.”

“Tessa yêu quý, bỏ cây cời lò xuống,” Magnus nói và chìa tay. “Woolsey xấu tính thật,
nhưng có cách khác để xử lí anh ta.”

Lườm Woolsey lần cuối, Tessa đưa cây cời lò cho Magnus. Cô ra lấy găng tay và áo của
Will, rồi trong lúc bận rộn đó, cô nghe thấy tiếng cười của Woolsey. Cô chẳng mấy để
tâm; giờ cô chỉ tập trung vào Will. Nhìn nét mặt Will là cô biết dù anh và Magnus đã nói
gì riêng với nhau, nó cũng không giải quyết được chuyện thuốc phiện của Jem. Anh trông
phờ phạc và hơi chán chường, máu lốm đốm trên đôi gò má cao chỉ khiến màu xanh của
mắt anh thêm ấn tượng.

Magnus dẫn họ rời phòng khách ra cửa trước, và không khí lạnh tạt vào người Tessa như
một cơn sóng. Cô đeo găng tay và gật đầu chào Magnus đóng cửa, để lại hai người ngoài
bầu trời đêm.

Sông Thames lấp lánh đằng sau hàng cây, con đường, hàng cây và mấy ngọn đèn khí đốt
trên cầu Battersea chiếu xuống nước tạo thành một dạ khúc của sắc xanh và vàng. Cô
thấy cỗ xe đen thùi lùi đằng sau rặng cây bên cạnh cổng. Trên cao, trăng xuất hiện rồi lại
khuất sau những đám mây xám đang lãng đãng bay.

Will vẫn im lặng. “Tessa,” anh nói.

Giọng anh nghe thật đặc biệt, kì lạ và nghẹn ngào. Tessa vội vàng bước xuống đứng cạnh
anh, ngước nhìn gương mặt anh. Tính khí Will vẫn thường thay đổi nhanh như ánh trăng;
nhưng cô cũng chưa từng thấy vẻ mặt anh của lúc này bao giờ.

“Anh ấy có giúp không?” Cô hỏi khẽ. “Magnus ấy?”

“Anh ấy sẽ cố, nhưng – cách anh ấy nhìn anh – anh ấy thương cho anh, Tess. Vậy là
chúng ta không còn hi vọng, phải không? Nếu đến cả Magnus cũng nghĩ chúng ta không
còn phương kế nào, vậy anh chẳng thể làm gì nữa, đúng không?”

Cô đặt tay lên cánh tay anh. Anh không nhúc nhích. Ở gần anh đến độ này, cảm giác và
sự hiện diện quen thuộc của anh sau mấy tháng trời họ tránh mặt nhau, chẳng mấy khi nói
chuyện thật là lạ. Anh còn không muốn nhìn thẳng vào cô. Và giờ anh ở đây, mang theo
mùi xà phòng, nước mưa, máu và rất Will… “Anh đã làm rất nhiều,” cô thầm thì.
“Magnus sẽ cố giúp, còn chúng ta sẽ tiếp tục tìm cách, và có thể có gì đó mình chưa nghĩ
ra. Anh không được từ bỏ hi vọng.”
“Anh biết. Anh biết chứ. Nhưng anh vẫn cảm nhận được một nỗi sợ trong tim, như thể
mình đã vào phút lâm chung. Anh từng thấy tuyệt vọng, Tessa, nhưng chưa từng sợ đến
độ này. Nhưng anh đã biết – vẫn luôn biết…”

Rằng Jem sẽ chết. Cô không nói. Cả hai người điều biết thế, nhưng không muốn nói ra.

“Anh là ai?” Anh thì thầm. “Nhiều năm trời anh giả bộ là người khác, và rồi anh được
vinh hạnh trở lại làm mình, nhưng anh không còn biết mình là ai nữa. Anh là một đứa trẻ
bình thường, rồi một chàng trai không tốt lắm, và giờ anh không biết làm cả hai con
người ấy. Anh không biết mình là ai, và khi Jem không còn, sẽ chẳng còn ai soi đường
dẫn lối cho anh.”

“Em biết anh là ai. Anh là Will Herondale,” cô chỉ nói có thế, và đột nhiên anh ôm chầm
lấy cô, đầu tựa vào vai cô. Lúc đầu cô sững ra trong cơn sửng sốt, và rồi cô cẩn thận ôm
anh trong khi anh run rẩy. Anh không khóc; đây là một cảm xúc khác, một cơn bộc phát,
như thể anh bị nghẹn. Cô biết mình không nên chạm vào anh, nhưng cô không thể tưởng
tượng Jem muốn cô đẩy Will ra vào lúc như thế này. Cô không thể là Jem của Will,
không thể là kim chỉ nam, nhưng cô có thể giúp anh vơi bớt gánh nặng.

“Anh có thích cái hộp thuốc lá xấu ỉn có người tặng tôi này không? Nó bằng bạc nên tôi
không động vào được,” Woolsey nói.

Magnus, đứng bên cửa sổ phòng khách, rèm vén sang bên vừa đủ để quan sát Will và
Tessa trước thềm nhà, ôm lấy nhau như mạng sống của họ phụ thuộc vào đó, ậm ừ không
rõ ý tứ ra sao.

Woolsey trừng mắt. “Họ vẫn ở ngoài đó à?”

“Ờ.”

“Mấy chuyện tình cảm thật là lằng nhằng rắc rối,” Woolsey nói. “Cứ như chúng ta lại hóa
hay. Chỉ là vấn đề xác thịt.”

“Quả vậy.” Will và Tessa cuối cùng cũng buông nhau ra, nhưng vẫn nắm tay nhau. Tessa
có vẻ đang đỡ Will bước xuống thềm. “Anh có nghĩ mình sẽ kết hôn nếu anh không có
các cháu nối dòng không?”

“Chắc phải vậy thôi. Cầu Chúa phù hộ nước Anh, Harry, thánh George, và Vệ đoàn
Lupus!” Woolsey cười; anh ta tự rót cho mình một ly rượu vang từ cái bình thon cổ đặt
trên tủ búp phê, và đang lắc ly, nhìn màu sắc thay đổi của rượu. “Anh đưa Will mặt dây
chuyền của Camille,” anh ta nói.

“Sao anh biết?” Đầu óc Magnus chỉ đặt một nửa vào cuộc trò chuyện, nửa còn lại đang
theo dõi Will và Tessa bước về xe ngựa. Không hiểu sao, dù họ khác biệt về chiều cao và
vóc dáng, cô gái lại có vẻ là người đỡ người kia.

“Anh đeo thứ đó lúc cùng cậu ta rời phòng, nhưng khi quay lại thì không thấy nó đâu
nữa. Chắc anh không cho cậu ta biết nó đắt tới mức nào nhỉ? Rằng cậu ta đang đeo viên
hồng ngọc đắt hơn cả Học Viện?”

“Tôi không cần nó,” Magnus nói.

“Kỉ vật đau buồn gợi nhớ người cũ hả?”

“Không hợp với màu da của tôi.” Will và Tessa đã vào xe ngựa, và người xà ích đang
giật cương. “Anh nghĩ cậu ấy có cơ hội không?”

“Ai cơ?”

“Will Herondale. Được hạnh phúc.”

Woolsey thở dài thườn thượt và đặt ly xuống. “Thế có khả năng anh hạnh phúc nếu cậu ta
không hạnh phúc không?”

Magnus không nói gì.

“Anh yêu cậu ta à?” Woolsey hỏi – vì tò mò chứ không ghen tuông gì. Magnus tự hỏi có
trái tim như người này là thế nào, hay thà không có tim còn hơn.

“Không,” Magnus nói. “Tôi từng tự hỏi mình thế, nhưng không. Đó là một thứ tình cảm
khác. Tôi thấy mình nợ cậu ấy. Tôi từng nghe nói rằng khi anh cứu một mạng người, anh
phải có trách nhiệm với cái mạng đó. Tôi cảm giác mình phải có trách nhiệm với chàng
trai kia. Nếu cậu ấy không tìm được hạnh phúc, tôi sẽ có cảm giác như mình đã phụ cậu
ấy. Nếu cậu ấy không có được người con gái mình yêu, tôi sẽ có cảm giác mình phụ cậu
ấy. Nếu tôi không thể giữ parabatai bên cạnh Will, tôi sẽ thấy mình phụ cậu ấy.”

“Vậy anh sẽ phụ cậu ấy thôi,” Woolsey nói. “Trong lúc đó, khi anh ủ rũ và đi tìm ngân
phiến, tôi nghĩ mình nên đi du lịch. Ngắm cảnh thôn quê. Thành phố vào đông khiến tôi
buồn bã quá.”

“Cứ làm gì anh thích.” Magnus buông rèm, che đi cảnh cỗ xe ngựa của Will và Tessa đi
khuất.
Gửi: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Từ: Điều Tra Viên Victor Whitelaw

Josiah,

Tôi cực kì quan tâm muốn nghe chuyện lá thư ông gửi Hội Đồng liên quan đến vấn đề
Charlotte Branwell. Vì chúng ta đã quen biết lâu, tôi hi vọng ông có thể nói chuyện thoải
mái với tôi hơn với họ. Ở cô ấy có vấn đề gì khiến ông khó chịu? Bố cô ấy là bạn tốt của
cả hai ta, và tôi không biết cô ấy có từng làm ra chuyện nhục nhã nào.

Vô cùng quan tâm,

Victor Whitelaw
6

ĐỂ BÓNG TỐI BUÔNG


Hãy để tình yêu chìm cùng đau khổ

Để bóng đêm giữ mái tóc nàng mãi đen huyền:

Ôi, thật ngọt ngào khi say men mất mát:

Khi nhảy cùng thần chết, xuống nấm mồ xanh.

– Alfred, Lord Tennyson, In Memoriam A.H.H.

Gửi: Điều Tra Viên Victor Whitelaw

Từ: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Khi cầm bút viết lá thư này cho ông, tôi thấy hơi bối rối, Victor, vì chúng ta đã biết nhau
nhiều năm. Tôi có cảm giác hơi giống nữ tiên tri Cassandra biết sự thực nhưng không ai
tin bà ta. Có lẽ tôi mắc tội quá kiêu căng xấc xược khi đưa Charlotte Branwell vào vị trí
hiện nay và điều ấy đang chọc tức tôi.

Cô ta thường xuyên coi nhẹ quyền của tôi, và tôi rất lo sự bất ổn đó sẽ gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến Clave. Cái đáng ra phải là thảm họa với cô ta – vỡ lở chuyện cô ta
nuôi ong tay áo, cô Lovelace là đồng lõa tham dự mưu đồ của Ông Chủ – lại chuyển
thành một thắng lợi. Enclave chúc tụng những kẻ sống tại Học Viện như những người đã
phát hiện ra Ông Chủ và tống khứ hắn ra khỏi Luân Đôn. Về chuyện hắn mất tăm mất
tích chừng vài tháng nay – đã tạo tiếng tốt cho Charlotte, tôi ngờ rằng là một bước rút
lui chiến lược và để nuôi quân. Dù tôi là Quan Chấp Chính và dẫn dắt Clave, tôi có một
cảm giác rất mãnh liệt rằng tất cả sẽ lụn bại trong tay Charlotte Branwell, và tất cả
những cống hiến của tôi bấy lâu nay sẽ tan thành mây khói…

Gửi: Điều Tra Viên Victor Whitelaw

Từ: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Victor,

Tôi rất cảm ơn ông đã quan tâm đến tôi, và không có một đánh giá nào về Charlotte
Branwell mà tôi lại ngại ngần trình bày trước Hội Đồng.
Cầu cho ông luôn đặt trọn niềm tin vào sức mạnh của Thiên Thần trong thời khắc khó
khăn.

Josiah Wayland

Bữa sáng lúc đầu khá yên tĩnh. Gideon và Gabriel xuống cùng nhau, cả hai đều thờ ơ,
Gabriel gần như chẳng nói gì, ngoài nhờ Henry chuyển bơ cho. Cecily ngồi ở cuối bàn và
vừa ăn vừa đọc sách; Tessa rất muốn thấy tiêu đề, nhưng Cecily đặt sách ở góc khuất tầm
nhìn của cô. Will, đối diện với Tessa, mắt quầng thâm vì thiếu ngủ sau chuyến đi hồi tối;
Tessa cũng hờ hững chọc chọc đĩa cơm rang, im lặng tới khi cửa mở và Jem bước vào.

Cô ngạc nhiên ngước lên và thấy mừng vô hạn. Anh không còn có vẻ ốm yếu bất thường,
chỉ mệt mỏi và xanh xao thôi. Anh nhẹ nhàng ngồi vào ghế bên cạnh cô. “Chào.”

“Trông em khá hơn nhiều đấy, Jemmy,” Charlotte mừng rỡ nói.

Jemmy? Tessa ngạc nhiên nhìn Jem; anh nhún vai và cười chịu trận.

Cô nhìn Will bên kia bàn và thấy Will đang quan sát họ. Ánh mắt cô nhìn thẳng vào anh
chỉ một thoáng, tỏ ý hỏi. Liệu có khả năng rằng Will bằng cách nào đó đã tìm ra nguồn
ngân phiến mới từ lúc về nhà tới sáng nay không? Nhưng không, anh cũng ngạc nhiên hệt
như cô.

“Cũng khá thôi,” Jem nói. “Các Tu Huynh Câm giúp em rất nhiều.” Anh tự rót cho mình
một tách trà, và Tessa nhìn thấy cổ tay gầy của anh lồ lộ những xương và gân. Khi anh
đặt bình trà xuống, cô nắm tay anh bên dưới bàn, và anh nắm lấy. Những ngón tay gầy
guộc của anh như trấn an cô.

Giọng hát của Bridget vẳng ra từ nhà bếp.

“Này người yêu dấu, gió hôm nay thật lạnh,

Từng giọt mưa cóng buốt tận tim.

Và tình yêu đầu của đời em,

Bị giết chết trên bãi cỏ xanh đó.

Em sẽ làm thế này vì người mình yêu da diết,

Như mọi thiếu nữ bi lụy vì tình:


Em sẽ ngồi rơi lệ bên nấm mồ xanh.”

“Lạy Thiên Thần, bực cô ấy quá,” Henry nói và đặt tờ báo thẳng xuống đĩa và khiến mép
bàn dính đầy lòng đỏ trứng. Charlotte mở miệng như định nhắc nhở, và ngậm lại. “Toàn
mấy chuyện chia li, chết chóc, yêu đơn phương.”

“Ờ, hầu hết các bài hát đều về đề tài đó mà,” Will nói. “Hai người đều có lòng với nhau
là tuyệt vời nhất, nhưng hát về đề tài đó đâu có hay.”

Jem ngước lên, nhưng trước khi anh kịp nói gì, một âm thanh vang dội đã vọng khắp Học
Viện. Tessa giờ đã rất quen với ngôi nhà tại Luân Đôn này nên biết đó là tiếng chuông
cửa. Tất cả đồng loạt nhìn Charlotte, như thể đầu họ được gắn lò xo.

Charlotte, giật mình, bỏ dĩa xuống. “Ôi, quỷ thần thiên địa ơi,” cô nói. “Có chuyện này
đáng ra tôi phải nói với mọi người, nhưng…”

“Thưa cô chủ.” Đó là Sophie, vừa vào phòng với cái khay bưng trên tay. Tessa không thể
nào không để ý chuyện dù Gideon nhìn Sophie chằm chằm, nhưng cô ấy có vẻ cố tình
tránh ánh mắt anh, đôi má hơi ửng hồng.”Quan Chấp Chính Wayland đang ở dưới nhà và
muốn nói chuyện với cô.”

Charlotte cầm lá thư gập đôi trên khay, nhìn, thở dài rồi nói. “Được. Em đưa ông ấy lên
nhà nhé.”

Sophie ra khỏi phòng trong tiếng váy sột soạt.

“Charlotte?” Henry tỏ vẻ bối rối. “Có chuyện gì vậy?”

“Quả vậy.” Will bỏ dao xuống đĩa. “Quan Chấp Chính ư? Tới giữa lúc chúng ta đang ăn
sáng? Gì sẽ tới tiếp theo đây? Điều Tra Viên đến thưởng trà? Và đi cắm trại với hội Tu
Huynh Câm?”

“Ăn bánh thịt vịt trong công viên,” Jem lầm bầm nói, rồi anh và Will nhấm nháy cười với
nhau ngay trước khi cửa mở và Quan Chấp Chính bước vào.

Quan Chấp Chính Wayland có dáng người to lớn, ngực rộng, tay to, và chiếc áo choàng
biểu trưng cho địa vị Quan Chấp Chính luôn có vẻ kì cục buông xuống từ đôi vai rộng
của ông ta. Ông ta có bộ râu vàng hoe như người Viking, và lúc này trông thật u ám.
“Charlotte,” ông ta không hề chào hỏi mào đầu. “Chú tới nói với cháu về chuyện
Benedict Lightwood.”
Có tiếng xột xoạt khe khẽ: Tay Gabriel nắm chặt khăn trải bàn. Gideon đặt hờ tay lên cổ
tay em trai, giữ cậu em lại, nhưng Quan Chấp Chính đã nhìn họ. “Gabriel,” ông ta nói.
“Chú cứ nghĩ cháu sẽ tới nhà Blackthorn ở cùng em gái.”

Tay Gabriel cầm chặt quai tách trà. “Họ rất đau lòng vì sự ra đi của Rupert,” anh ta nói.
“Cháu không nghĩ mình nên quấy quả họ lúc này.”

“Không phải cháu cũng thương tiếc bố mình sao?” Quan Chấp Chính nói. “Người ta vẫn
thường nói chia sẻ nỗi buồn sẽ làm nỗi buồn vơi bớt.”

“Quan Chấp Chính…,” Gideon lên tiếng và lo lắng nhìn em.

“Nhưng có lẽ dọn đến đó ở cũng hơi ngại, vì em gái các cháu đang trách móc các cháu về
vụ sát hại kia.”

Gabriel kêu một tiếng như bị dội nước sôi. Gideon ném khăn ăn xuống và đứng dậy.

“Tatiana làm gì?” Anh hỏi.

“Cháu nghe rõ rồi đấy,” Quan Chấp Chính nói.

“Đấy không phải sát hại,” Jem nói.

“Cứ cho là thế đi,” Quan Chấp Chính bảo. “Còn theo thông tin chú nhận được thì là vậy.”

“Chú có được thông báo rằng Benedict đã biến thành một con giun bự chảng không?”
Will hỏi, nhưng Gabriel ngạc nhiên nhìn anh, như thể anh ta không nghĩ Will sẽ bảo vệ
mình.

“Will, làm ơn,” Charlotte nói. “Quan Chấp Chính, hôm qua cháu đã báo với chú rằng
Benedict Lightwood được phát hiện đã vào giai đoạn cuối của bệnh astriola…”

“Cháu nói rằng có một trận chiến, và ông ta bị giết,” Quan Chấp Chính đáp. “Nhưng theo
những gì chú được báo cáo thì ông ta mắc bệnh đậu mùa, và kết quả là ông ta bị truy lùng
và giết mà không hề chống cự.”

Will, mắt sáng bất thường, mở miệng. Jem đưa tay bịt mồm bạn lại. “Cháu không hiểu,”
Jem nói, mặc cho Will ư a phản đối, “sao chú biết được rằng Benedict Lightwood đã chết
mà không biết ông ta trong tình trạng nào. Nếu không có thi thể, ấy là vì ông ta đã giống
quỷ hơn giống người, và đã biến mất sau khi bị giết, như quỷ vậy. Nhưng những người
hầu mất tích – cái chết của chồng Tatiana…”
Quan Chấp Chính tỏ vẻ mệt mỏi. “Tatiana Blackthorn nói một nhóm Thợ Săn Bóng Tối
từ Học Viện đã giết bố mình và Rupert chết trong vụ loạn đả.”

“Cô ta có nói tới chuyện bố cô ta đã ăn thịt chồng cô ta không?” Henry hỏi, cuối cùng đã
ngước mắt khỏi tờ báo. “Ồ, đúng rồi. Anh ta để lại một chiếc giày đầm đìa máu thịt trong
vườn đấy. Trên đó có dấu răng. Cháu rất muốn biết sao đó có thể là tai nạn được.”

“Em nghĩ đó được tính là hành động tự vệ,” Will nói. “Chuyện ăn con rể ấy. Dù em nghĩ
mọi người đều có lúc cãi vã với người nhà.”

“Chú không thực sự có ý rằng,” Charlotte nói, “con giun – Benedict đáng ra nên bị trấn
áp và giam giữ đó chứ, Josiah? Ông ta vào giai đoạn cuối của bệnh đậu mùa quỷ rồi! Ông
ta đã hóa điên và biến thành giun!”

“Cũng có thể là ông ta biến thành giun rồi mới hóa điên,” Will lịch thiệp nói. “Chúng
cháu không hoàn toàn chắc.”

“Tatiana buồn thương vô hạn,” Quan Chấp Chính nói. “Cô ấy đang tính đòi bồi hoàn…”

“Vậy để cháu trả.” Đó là Gabriel, đã đẩy ghế đứng dậy. “Cháu sẽ trả cho cô em gái ngớ
ngẩn của mình toàn bộ lương trong phần đời còn lại nếu nó muốn, nhưng cháu sẽ không
thừa nhận mình đã làm gì sai – cháu không làm, những người khác cũng thế. Đúng, cháu
đã bắn tên xuyên mắt ông ấy. Mắt con quái vật đó. Và có thể quay ngược thời gian, cháu
vẫn làm như vậy. Dù thứ đó có là gì, nó cũng không còn là bố cháu nữa.”

Im lặng. Đến cả Quan Chấp Chính cũng dường như chẳng biết phải nói sao. Cecily đặt
sách xuống và chăm chú nhìn từ Gabriel sang Quan Chấp Chính và ngược lại.

“Xin thứ lỗi, thưa Quan Chấp Chính, nhưng dù Tatiana có nói gì thì nó cũng không biết
rõ ẩn tình câu chuyện,” Gabriel nói. “Chỉ mình cháu ở đó với bố khi ông ấy bị bệnh.
Cháu một mình cùng ông ấy khi ông ấy hóa điên trong hai tuần cuối. Cuối cùng cháu đến
đây; cháu xin anh mình giúp,” Gabriel nói. “Charlotte tốt bụng cho cháu mượn lực lượng
Thợ Săn Bóng Tối viện trợ. Khi chúng cháu trở lại nhà, sinh vật từng là bố cháu đã xé
xác em rể cháu. Cháu đảm bảo với chú là bố cháu đã hết nước cứu. Chúng cháu phải
chiến đấu để giữ mạng mình.”

“Vậy vì sao Tatiana…”

“Vì cô ấy thấy nhục,” Tessa nói. Từ hồi Quan Chấp Chính vào phòng tới giờ, cô mới lên
tiếng. “Cô ấy nói vậy với cháu. Cô ấy tin đấy sẽ là vết nhơ cho gia tốc nếu người ta biết
được chuyện đậu mùa quỷ; cháu đoán cô ấy cố bịa ra một câu chuyện khác, hi vọng chú
sẽ kể lại với Hội Đồng. Nhưng cô ấy không nói thật.”
“Quan Chấp Chính, chú nói thật đi,” Gideon nói. “Chú thấy câu chuyện nào có lí hơn?
Rằng tất cả chúng cháu phát rồ phát dại rồi đi giết bố cháu, hai thằng con trai lấp liếm sự
thật, hay rằng Tatiana nói dối nào? Chú cũng biết là con bé chưa bao giờ suy nghĩ chín
chắn mà.”

Gabriel đứng dậy, hai tay tì lên lưng ghế của anh trai. “Nếu chú tin rằng cháu có thể dễ
dàng giết bố mình, chú cứ việc đưa cháu đến Thành phố Câm Lặng để tra hỏi.”

“Đấy có lẽ là quy trình hành động hợp lí nhất,” Quan Chấp Chính nói.

Cecily dộng mạnh tách trà xuống khiến mọi người trên bàn giật mình. “Vậy không công
bằng,” cô nói. “Anh ấy nói thật. Tất cả đều nói thật. Chú phải hiểu rõ chứ.”

Quan Chấp Chính nhìn cô đánh giá một hồi lâu, rồi tiếp tục câu chuyện với Charlotte.
“Cháu mong chú tin cháu?” Ông ta nói. “Thế mà cháu lại che đậy việc mình làm với chú.
Gieo nhân nào gặt quả nấy đấy, Charlotte.”

“Chú Josiah, cháu đã thông báo về chuyện tại nhà Lightwood ngay khi mọi người trở lại
và cháu biết tất cả đều ổn…”

“Cháu đáng ra phải báo cáo sớm hơn,” Quan Chấp Chính nói ngang phè phè. “Ngay khi
Gabriel đến. Cháu xử lí không đúng quy định. Như vậy, cháu đã để chú vào vị trí phải
bao biện cho cháu, dù cho cháu không tuân thủ quy định và hành động khi không được
Quan Chấp Chính cho phép.”

“Không có thời gian…”

“Có đủ,” Quan Chấp Chính nói, giọng cho thấy không bàn cãi gì thêm hết. “Gideon và
Gabriel, hai đứa đi theo chú tới Thành phố Câm Lặng để chịu tra vấn.” Charlotte định
phản đối, nhưng Quan Chấp Chính đã giơ tay. “Trả lại trong sạch cho Gabriel và Gideon
là thiết thực nhất; nó sẽ tránh mọi rắc rối và cho phép chú nhanh chóng gạt bỏ yêu cầu
bồi hoàn của Tatiana. Hai đứa.” Quan Chấp Chính Wayland quay sang anh em
Lightwood. “Vào xe ngựa của chú và đợi ở đó. Ba người chúng ta sẽ cùng tới Thành phố
Câm Lặng; khi các Tu Huynh Câm xong việc với các cháu, nếu họ không tìm được gì thú
vị, chúng ta sẽ đưa các cháu trở lại đây.”

“Nếu họ không tìm được gì,” Gideon nói bằng giọng chán ghét. Anh tóm vai em mình và
kéo Gabriel ra khỏi phòng. Khi Gideon đóng cửa lại, Tessa nhận ra gì đó lấp lánh trên tay
anh ta. Anh ta đã đeo nhẫn nhà Lightwood lại rồi.
“Được rồi,” Quan Chấp Chính nói, và tập trung vào Charlotte. “Sao cháu không báo cho
chú ngay khi các Thợ Săn Bóng Tối dưới quyền cháu trở về và nói với cháu rằng
Benedict đã chết?”

Charlotte chăm chăm nhìn tách trà. Miệng chị mím chặt. “Cháu muốn bảo vệ hai anh em
nhà đó,” chị nói. “Cháu muốn họ có được chút yên tĩnh. Chú phải để họ được yên một
chút sau khi tận mắt chứng kiến bố mình chết rồi muốn tra gì thì tra chứ!”

“Khó lắm,” Quan Chấp Chính tiếp tục, phớt lờ thái độ của chị đi. “Mấy cuốn sách và giấy
tờ của Benedict. Tatiana đã kể về chúng. Chú đã cho người soát nhà ông ta, nhưng không
tìm thấy nhật kí, bàn làm việc thì trống trơn. Đây không phải vụ điều tra của cháu,
Charlotte; đống giấy tờ đó thuộc về Clave.”

“Chú tìm gì trong đó?” Henry nói và bỏ tờ báo khỏi đĩa. Anh có vẻ cực kì không để tâm
đến đáp án, nhưng trong mắt anh lóe lên một tia sáng dữ dội phản bội lại vẻ dửng dưng
của mình.

“Thông tin về mối liên hệ giữa Benedict và Mortmain. Thông tin về bất cứ thành viên
nào khác của Clave có thể dây dưa với Mortmain. Bằng chứng về nơi ở của Mortmain…”

“Và đội quân người máy của ông ta?” Henry nói.

Quan Chấp Chính dừng lại giữa câu. “Đội quân người máy?”

“Quân đoàn Hủy diệt, được tạo ra nhằm diệt chủng Thợ Săn Bóng Tối, và ông ta quyết
dùng chúng để tấn công chúng ta,” Charlotte, có vẻ đã phục hồi, nói khi bỏ khăn ăn
xuống. “Nói chính ra, nếu chúng ta có thể tin những trang viết càng về sau càng khó hiểu,
chuyện đó sẽ sớm xảy ra hơn chúng ta tưởng.”

“Vậy là cháu quả có giữ nhật kí của ông ta. Điều Tra Viên đoan chắc điều đó.” Quan
Chấp Chính day mắt.

“Tất nhiên là cháu giữ. Và tất nhiên cháu sẽ giao cho chú. Cháu vẫn định vậy.” Bình tĩnh
vô cùng, Charlotte cầm cái chuông bạc nho nhỏ bên cạnh đĩa và rung lên; khi Sophie xuất
hiện, chị liền thì thào gì đó với cô gái kia một hồi, rồi Sophie, nhún chào Quan Chấp
Chính, rời khỏi phòng.

“Đáng ra cháu phải để đống giấy tờ ở nguyên vị trí, Charlotte. Quy định là vậy,” Quan
Chấp Chính nói.

“Cháu không có lí gì lại không được xem chúng…”


“Cháu phải tin sự đánh giá của chú, và của Luật. Bảo vệ hai cậu con trai nhà Lightwood
không được ưu tiên hơn tìm hang ổ của Mortmain, Charlotte. Cháu không điều hành
Clave. Cháu là một phần của Enclave, và cháu sẽ báo cáo với chú. Rõ chứ?”

“Vâng, thưa Quan Chấp Chính,” Charlotte nói khi Sophie trở lại phòng cùng một bọc
giấy và lẳng lặng giao cho Enclave. “Lần sau một thành viên đức cao vọng trọng của
chúng cháu hóa thành giun và ăn một thành viên đáng kính khác, chúng cháu sẽ báo cho
chú ngay.”

Quan Chấp Chính bạnh quai hàm. “Bố cháu là bạn của chú,” ông ta nói. “Chú tin ông ấy,
vì thế nên chú tin cháu. Đừng khiến chú hối hận vì đã bổ nhiệm cháu, hoặc ủng hộ cháu
trong cuộc đối đầu với Benedict Lightwood.”

“Chú ngả về phía Benedict!” Charlotte hét. “Khi ông ta đưa ra đề nghị cho cháu hai tuần
để làm nhiệm vụ bất khả thi kia, chú đồng ý liền! Chú không hề bảo vệ cháu một câu
nào! Nếu cháu không phải phụ nữ, chú đã chẳng hành động như thế.”

“Nếu cháu không phải phụ nữ,” Quan Chấp Chính nói. “Chú chẳng phải làm vậy.”

Nói tới đó, ông ta phất áo choàng đen điểm những chữ rune lấp lánh đi mất. Cửa vừa
đóng lại, Will đã rít lên: “Sao chị lại đưa ông ta đống giấy tờ đó? Chúng ta cần chúng…”

Charlotte, đã ngồi ngả ra ghế, mắt nhắm hờ, nói, “Will, chị đã thức trắng đêm để chép
những phần quan trọng lại rồi. Phần nhiều là…”

“Tào lao?” Jem gợi từ.

“Khiêu dâm?” Cùng lúc đó, Will nói.

“Có lẽ là cả hai,” Will nói. “Bồ chưa từng nghe tới tào lao khiêu dâm à?”

Jem toét miệng cười, nhưng Charlotte đã vùi mặt vào tay. “Nếu hai em muốn biết thì vế
trước đúng hơn vế sau,” chị nói. “Chị chép lại toàn bộ những gì có thể, nhờ sự trợ giúp vô
giá của Sophie.” Tới đó chị ngước lên. “Will… em cần phải nhớ đây không còn là vụ
chúng ta xử lí nữa. Mortmain là vấn đề của Clave, nhưng bét ra đó là họ thấy thế. Từng
có lúc chỉ mình chúng ta lo vụ Mortmain, nhưng…”

“Chúng ta chịu trách nhiệm bảo vệ Tessa!” Will nói kiên quyết tới độ đến Tessa cũng giật
mình. Will hơi tái khi nhận ra mọi người đều ngạc nhiên nhìn mình, nhưng vẫn tiếp tục.
“Mortmain vẫn muốn Tessa. Chúng ta không được huyễn hoặc rằng ông ta đã bỏ cuộc.
Ông ta có thể đến cùng đám người máy, ông ta có thể đến cùng những trò ma thuật, với
lửa và những kẻ phản phúc, nhưng ông ta sẽ đến.”
“Tất nhiên chúng ta sẽ bảo vệ cô ấy,” Charlotte nói. “Chúng ta không cần người khác
nhắc nhở đâu, Will. Cô ấy là người của chúng ta. Và nói đến người của chúng ta…” Chị
nhìn xuống đĩa thức ăn. “Mai Jessamine sẽ về.”

“Cái gì?” Will đánh đổ trà ra khăn trải bàn. Mọi người bàn tán xôn xao, chỉ có Cecily là
tỏ vẻ bối rối, còn Tessa, sau khi hít một hơi thật sâu, liền im lặng. Cô nhớ lại lần cuối
cùng gặp Jessamine, tại Thành phố Câm Lặng; khi đó cô ấy xanh xao và mắt đỏ hoe,
khóc lóc và hoảng hốt. “Jessie phản bội chúng ta, Charlotte. Thế mà chị còn cho nó về
đây?”

“Con bé không còn người thân, tài sản bị Clave tịch thu, và không thể sống một thân một
mình. Hai tháng bị tra hỏi tại Thành phố Xương khiến Jessamine gần như hóa điên. Chị
không nghĩ con bé có thể gây hại cho ai trong chúng ta.”

“Ngày trước chúng ta cũng đâu nghĩ nó có thể gây chuyện tày đình gì,” Jem nói, giọng
nghiêm khắc hơn mức Tessa nghĩ anh có thể. “Vậy mà hành động của nó đã suýt khiến
Tessa rơi vào tay Mortmain, còn chúng ta bị người khác coi khinh.”

Charlotte lắc đầu. “Người sống tại đây cần có lòng bác ái. Jessamine không giống như
xưa nữa – mà các em hẳn phải hiểu nếu từng tới thăm nó ở Thành phố Câm Lặng.”

“Em không định đi thăm kẻ phản phúc,” Will lạnh lùng nói. “Nó vẫn nói tào lao về
chuyện Mortmain ở Idris hả?”

“Ừ, chính vì thế mà hội Tu Huynh Câm cuối cùng cũng bỏ cuộc; họ không khai thác
được thông tin hữu dụng nào. Nó không nắm giữ bí mật, không biết thông tin giá trị nào.
Và nó cũng hiểu điều đó. Nó cảm thấy mình vô giá trị. Nếu các em có thể đặt mình vào vị
trí của Jessie…”

“Ồ, em nghĩ chắc chắn nó lại diễn trò trước mặt chị, nào là khóc lóc rồi xé váy áo…”

“Này, làm gì có chuyện nó xé váy áo,” Jem nói và nhếch mép cười với parabatai của
mình. “Bồ biết Jessamine thích váy áo của mình đến mức nào mà.”

Nụ cười đáp lại của Will miễn cưỡng nhưng là thật. Charlotte thấy kẽ hở và nhấn tiếp.
“Chị dám hứa khi gặp lại Jessamine, các em sẽ thấy một con người hoàn toàn khác. Hãy
chờ một tuần, chỉ một tuần thôi, và nếu không ai chịu nổi nó ở đây, chị sẽ sắp xếp cho nó
chuyển đến Idris.” Chị đẩy cái đĩa sang bên. “Còn bây giờ chúng ta sẽ đi rà lại bản chép
giấy tờ của Benedict. Ai giúp chị nào?”
Gửi: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Từ: Hội Đồng

Thưa ông,

Từ khi nhận được thư ông, chúng tôi đã nghĩ bất đồng quan điểm của chúng ta trong vấn
đề Charlotte Branwell là do cách nhìn nhận. Dù có thể ông không trực tiếp ra lệnh cho
Jessamine Lovelace trở về Học Viện, nhưng việc đó đã được hội Tu Huynh Câm đồng ý,
và họ lại là người nắm quyền trong những vấn đề thế này. Dù cô ta làm sai, nhưng theo
chúng tôi thấy cho phép cô gái này trở về mái ấm duy nhất cô ta biết là hành động bác
ái. Còn về Woolsey Scott, anh ta đứng đầu Vệ đoàn Lupus, tổ chức lâu nay chúng ta vẫn
coi là đồng minh.

Lời nói bóng gió của ông rằng cô Branwell tin tưởng những kẻ không thực lòng thực dạ
trung tín với Clave khiến chúng tôi cực kì khó nghĩ. Tuy nhiên, vì không có bằng chứng
cụ thể, chúng tôi đành bỏ qua nó.

Nhân danh Raziel,

Thành viên Hội Đồng Nephilim

Quan Chấp Chính sử dụng cỗ xe ngựa bốn bánh thượng hạng được sơn đỏ bóng lừ, có
bốn chữ C biểu trưng cho Clave ở bên sườn, được kéo bởi một đôi ngựa đực lông xám
không chê vào đâu được. Hôm đó là một ngày ẩm ướt, lất phất mưa phùn; tay xà ích ngồi
thu lu trên ghế trước, gần như bị cái mũ và áo choàng vải dầu nuốt mất. Nhíu mày một
cái, Quan Chấp Chính, vốn chẳng hề nói một từ nào với Gideon và Gabriel từ lúc họ rời
phòng ăn của Học Viện, giục họ lên xe, vào sau rồi chốt cửa lại.

Khi cỗ xe ngựa phóng đi khỏi nhà thờ, Gabriel quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Mắt và
bụng anh nhói lên cảm giác hơi ấm nóng. Nó xuất hiện rồi biến mất từ ngày hôm trước,
đôi lúc dâng lên mạnh mẽ đến độ anh tưởng mình sắp nôn mửa.

Con giun bự chảng… giai đoạn cuối của căn bệnh astriola… bệnh đậu mùa quỷ.

Khi Charlotte và những người khác lần đầu buộc tội bố anh, anh không muốn tin. Việc
Gideon bỏ nhà ra đi có vẻ giống như hành động điên rồ, một sự phản bội lớn tới độ chỉ có
thể giải thích bằng nguyên do là anh ấy bị điên. Bố anh thề rằng Gideon sẽ phải suy nghĩ
lại hành động của mình, rằng anh ấy sẽ quay lại đỡ đần công việc trong nhà và làm những
việc người nhà Lightwood phải làm. Nhưng anh ấy không quay lại, và khi ngày dần ngắn
hơn và tối hơn, khi Gabriel càng ít trông thấy bố, anh bắt đầu băn khoăn, rồi sợ hãi.

Benedict bị truy lùng và giết.

Bị truy lùng và giết. Gabriel cứ chong chong nhớ lại mấy từ đó trong đầu, nhưng không
hiểu nổi. Anh đã giết một con quái vật như anh vẫn được dạy, nhưng con quái vật đó
không phải bố của anh. Bố anh vẫn còn sống ở nơi nào đó, và bất cứ lúc nào Gabriel nhìn
ra ngoài cửa sổ nhà, anh sẽ thấy ông đang sải bước đi, với cái áo khoác dài xám xịt bay
bay trong gió, gương mặt góc cạnh nổi bật giữa không gian.

“Gabriel.” Đó là giọng anh trai, cắt ngang dòng hồi tưởng và mơ mộng của anh. “Gabriel,
Quan Chấp Chính vừa hỏi em.”

Gabriel ngước lên. Quan Chấp Chính đang quan sát anh, đôi mắt đen tỏ ý chờ đợi. Xe
ngựa đang lăn bánh qua đường Fleet, cánh phóng viên, luật sư biện hộ, người bán hàng
rong đang nhộn nhịp đi qua đi lại.

“Chú vừa hỏi cháu,” Quan Chấp Chính nói, “Học Viện đón tiếp cháu nồng nhiệt chứ.”

Gabriel chớp mắt. Anh nhớ được rất ít về mấy ngày điên rồ vừa qua. Charlotte vòng tay
ôm anh. Gideon lau rửa máu trên tay anh. Gương mặt của Cecily như một đóa hoa xinh
đẹp tràn ngập giận dữ. “Chắc cũng ổn,” anh khàn khàn nói. “Đấy đâu phải nhà cháu.”

“Ờ, nhà Lightwood rất đẹp,” Quan Chấp Chính nói. “Nhưng tất nhiên được xây bằng máu
và chiến lợi phẩm.”

Gabriel chăm chú nhìn ông ta, không hiểu. Gideon đang nhìn ra ngoài cửa sổ, vẻ mặt
trông hơi giống người ốm. “Cháu tưởng chú muốn nói chuyện với cháu về Tatiana,” anh
nói.

“Chú biết Tatiana,” Quan Chấp Chính nói. “Nó không có được lí trí của bố cháu và sự
hiền hậu của mẹ cháu. Chú sợ con bé giống món hàng hớ hơn. Tất nhiên Hội Đồng sẽ bác
đơn xin bồi hoàn của nó.”

Gideon nhúc nhích trên ghế và ngờ vực nhìn Quan Chấp Chính. “Nếu chú không mấy tin
nó, vậy sao chúng cháu ở đây?”

“Vì chú muốn nói chuyện riêng với các cháu,” Quan Chấp Chính nói. “Cháu phải hiểu,
hồi đầu giao Học Viện cho Charlotte, chú đã nghĩ có bàn tay phụ nữ điều hành sẽ tốt cho
nơi ấy. Granville Fairchild là người đàn ông nghiêm khắc nhất chú từng biết, và dù ông
ấy điều hành Học Viện theo Luật, nhưng đó là một nơi lạnh lẽo, không chào đón người
ngoài. Ở đây, tại Luân Đôn, thành phố vĩ đại nhất thế giới này, thế mà một Thợ Săn Bóng
Tối lại không có được cảm giác như được ở nhà.” Ông ta nói êm ru. “Chú nghĩ trao
quyền điều hành nơi đó vào tay Charlotte sẽ thay đổi được tình hình.”

“Charlotte và Henry,” Gideon sửa lại.

“Henry chỉ là bù nhìn thôi,” Quan Chấp Chính nói. “Tất cả chúng ta đều biết rằng cô
ngựa xám đó là con ngựa mạnh hơn trong cuộc hôn nhân đó. Henry chẳng bao giờ xen
vào việc điều hành, và sự thật quả đúng như vậy. Nhưng Charlotte thì không được như
chú mong mỏi. Cô ta đáng ra phải ngoan ngoãn và tuân theo mệnh lệnh của chú, nhưng
lại làm chú thất vọng vô cùng.”

“Chú ủng hộ cô ấy trong cuộc cạnh tranh với bố cháu,” Gabriel buột miệng và ngay lập
tức hối hận. Gideon lườm anh và Gabriel khoanh tay, mím chặt môi lại.

Quan Chấp Chính nhướng mày. “Vì bố cháu sẽ dễ bảo ư?” Ông ta nói. “Cả hai hướng
đều tệ, vậy nên chú phải chọn bên nào ít tệ hơn. Chú vẫn hi vọng sẽ kiềm chế được cô ấy.
Nhưng giờ thì…”

“Thưa chú,” Gideon xen vào, nói bằng giọng lịch sự nhất. “Sao chú nói chuyện này với
chúng cháu?”

“À,” Quan Chấp Chính nói và nhìn ra ngoài ô cửa sổ dính vệt nước mưa. “Chúng ta đến
nơi rồi.” Ông gõ cửa xe ngựa. “Richard! Dừng xe tại Argent Rooms.”

Gabriel liếc nhìn anh mình, người cũng nhún vai tỏ vẻ bối rối. Argent Rooms là một hội
trường âm nhạc và câu lạc bộ dành riêng cho các quý ông khét tiếng tại Piccadilly Circus.
Các quý cô mang danh xấu thường xuyên lui lại chốn này, và có những tin đồn rằng nơi
đây thuộc về các cư dân Thế Giới Ngầm, và trong một vài tối còn có màn “ảo thuật” biểu
diễn pháp thuật thực sự.

“Chú thường tới đây cùng bố các cháu,” Quan Chấp Chính nói khi cả ba đã đứng trên vệ
đường. Gideon và Gabriel đang ngước nhìn qua màn mưa về phía mặt tiền nhà hát phong
cách Ý nhìn trông rất mất thẩm mĩ, rõ ràng vốn là những tòa nhà khiêm tốn hơn được sửa
sang lại mà thành. Nó có ba cửa tò vò và được sơn màu xanh chói mắt. “Từng có lần cảnh
sát rút giấy phép kinh doanh vì nơi đây cho phép nhảy can can. Nhưng hồi đó nó nằm
dưới sự điều hành của người phàm. Giờ nơi này dễ chịu hơn nhiều. Chúng ta vào chứ
nhỉ?”

Giọng ông ta không cho phép họ từ chối. Gabriel đi theo Quan Chấp Chính qua lối vào
hình vòm cuốn, nơi tiền được trao tay và vé được nhét vào tay từng người. Gabriel bối rối
nhìn vé của mình. Đây là một dạng quảng cáo, hứa hẹn một màn trình diễn tuyệt nhất
Luân Đôn!

“Bữa tiệc sức mạnh,” anh đọc cho Gideon nghe khi họ đi theo một hành lang dài. “Động
vật được huấn luyện, nữ đô lực sĩ, nghệ sĩ nhào lộn, các tiết mục xiếc, và những giọng ca
thiên thần.”

Gideon lầm bầm gì đó.

“Và các diễn viên uốn dẻo,” Gabriel vui vẻ nói thêm. “Hình như có một cô có thể đặt
chân lên đỉnh…”

“Lạy Thiên Thần, nơi này chẳng khá hơn rạp xiếc rẻ tiền là mấy,” Gideon nói. “Gabriel,
đừng nhìn gì trừ khi anh cho phép.”

Gabriel trợn mắt khi bị anh mình tóm tay lôi vào nơi rõ ràng là một sảnh lớn – một gian
phòng rộng rãi có trần vẽ những bức hình sao lại kiệt tác của những họa sĩ lớn người Ý,
kể cả bức Venus chào đời của Botticelli, giờ bị nhòe nhoẹt chẳng ra hình dạng gì. Những
ngọn đèn khí đốt được treo trên những giá treo bằng thạch cao mạ vàng, khiến căn phòng
ngập trong ánh sáng vàng vọt.

Mấy cái ghế băng bọc nhung được kê dọc tường, trên đó là những bóng người ngồi khuất
trong bóng tối – những quý ông với hai bên trái phải đều là những quý cô mặc đồ quá ư
lòe loẹt và đang cười hô hố. Âm nhạc vọng xuống từ sân khấu trước phòng. Quan Chấp
Chính vừa cười vừa đi thẳng về phía đó. Người phụ nữ đội mũ chóp cao, mặc áo đuôi
tôm đang đi đi lại lại uốn éo trên sân khấu, hát một bài có tựa là “It’s Naughty, but It’s
Nice.” Khi cô ta quay lại, mắt cô ta sáng lên ánh xanh lục dưới ánh đèn khí đốt.

Người sói, Gabriel nghĩ.

“Hai cháu đứng đây đợi chú một lát,” Quan Chấp Chính nói và đi lẫn vào đám đông.

“Hay thật,” Gideon lầm bầm và kéo Gabriel lại gần hơn khi một cô ả mặc váy xa-tanh bó
chằng bó chịt õng ẹo đi qua. Cô ta bốc mùi rượu gin và một mùi nguy hiểm ngọt ngào, từ
tựa mùi đường cháy ở James Carstairs.

“Ai mà biết Quan Chấp Chính là một kẻ đạo đức giả thế chứ?” Gabriel nói. “Ông ta
không thể đợi đưa chúng ta tới Thành phố Câm Lặng rồi hẵng đến đây được à?”

“Ông ta không định đưa chúng ta tới Thành phố Câm Lặng.” Môi Gideon mím chặt.

“Không à?”
“Đừng ngốc thế, Gabriel. Tất nhiên là không rồi. Ông ta muốn cái khác từ chúng ta. Anh
chưa biết là gì. Ông ta đưa chúng ta đến đây để làm chúng ta bị khớp – và ông ta sẽ
không làm thế nếu không chắc chắn bắt thóp được chúng ta, để ngăn chúng ta kể cho
Charlotte hoặc người nào khác về nơi này.”

“Có lẽ ông ta thực sự thường xuyên đến đây với bố.”

“Có lẽ, nhưng đấy không phải lí do lúc này chúng ta ở đây,” Một lúc sau Gideon mới nói.
Anh càng giữ tặt tay em trai khi Quan Chấp Chính xuất hiện trở lại, cầm theo một cái
bình nhỏ đựng gì đó như soda, nhưng Gabriel đoán không đời nào nó lại đựng một thứ rẻ
tiền như thế.

“Gì vậy, có gì cho chúng cháu ư?” Gabriel hỏi và thấy ông anh lườm mình và Quan Chấp
Chính cười cáu kỉnh. Gabriel nhận ra mình không hề biết liệu Quan Chấp Chính có gia
đình hay con cái không. Với anh, ông ta chỉ là Quan Chấp Chính. “Hai đứa có biết,” ông
ta nói, “mình gặp nguy hiểm gì không?”

“Nguy hiểm? Từ ai, Charlotte chắc?” Gideon có vẻ ngờ vực.

“Không phải từ Charlotte.” Quan Chấp Chính tiếp tục nhìn họ. “Bố các cháu không chỉ
phạm Luật thôi đâu; ông ấy nhục mạ nó. Ông ấy không chỉ dây dưa với quỷ, mà còn ăn
nằm với chúng. Hai đứa là người nhà Lightwood – hai thành viên cuối cùng của gia tộc
Lightwood. Hai đứa không có bà con cô bác. Chú có thể tước bỏ tư cách Nephilim của cả
nhà cháu, rồi đuổi hai đứa lẫn cô em út ra đường, mặc thây cho các cháu chết đói hoặc ăn
xin giữa thế giới người phàm, và chú làm vậy không hề vượt quyền của Clave cũng như
Hội Đồng. Và hai đứa nghĩ ai sẽ bảo vệ mình nào? Ai sẽ lên tiếng biện hộ cho các cháu?”

Gideon tái mặt, và tay anh giữ tay Gabriel chặt tới độ mấu tay trắng bệch. “Vậy không
công bằng,” anh nói. “Chúng cháu không hề biết. Em trai cháu tin bố. Nó không đời nào
lại phải chịu trách nhiệm…”

“Nó tin Benedict? Không phải nó bắn cú kết liễu à?” Quan Chấp Chính nói. “Ồ, tất cả
đều liên can, nhưng chính nó kết liễu bố mình… điều đó cho thấy nó hiểu rõ bố mình là
thứ gì.”

Gabriel biết Gideon đang lo lắng nhìn mình. Bầu không khí trong Argent Rooms nóng
nực và ngột ngạt đến không thở nổi. Người phụ nữ trên sân khấu giờ đang hát bài All
Through Obiging a Lady và bước đi bước lại, dộng hết lần này tới lần khác cái ba-toong
xuống, khiến sàn nhà rung lên từng chặp.
“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước thôi, các cháu. Các cháu có thể và sẽ phải thay ông
ấy gánh tội nếu chú muốn. Gideon, cháu sẽ làm gì khi em trai và Tatiana bị tước chữ
rune? Cháu sẽ khoanh tay đứng nhìn à?”

Bàn tay phải của Gabriel giật giật; anh cực kì muốn đưa tay thộp cổ Quan Chấp Chính
nếu Gabriel không giữ chặt anh từ trước. “Chú muốn gì từ chúng cháu?” Gideon hỏi,
giọng kiềm chế. “Chú không đưa chúng cháu tới để dọa dẫm, trừ khi chú muốn gì đó. Và
nếu đấy là thứ chú có thể dễ dàng yêu cầu và không phạm luật lệ, chú đã làm ở Thành
phố Câm Lặng rồi.”

“Rất thông minh.” Quan Chấp Chính nói. “Có chuyện này chú muốn nhờ hai cháu. Hãy
làm, và chú sẽ thấy được rằng dù các trang viên nhà Lightwood có bị xung công, nhưng
các cháu vẫn giữ được danh dự và tên tuổi, đất đai tại Idris và địa vị Thợ Săn Bóng Tối
của mình.”

“Chú muốn chúng cháu làm gì?”

“Theo dõi Charlotte, và đặc biệt phải để ý tới thư từ của cô ta. Hãy báo cho chú biết cô ta
nhận và gửi những thư gì, nhất là gửi và nhận thư của ai ở Idris.”

“Chú muốn chúng cháu theo dõi cô ấy.” Giọng Gideon đều đều.

“Chú không muốn có thêm bất ngờ nào như chuyện bố cháu,” Quan Chấp Chính nói. “Cô
ta lẽ ra không được giữ bí mật tình trạng bệnh tật của ông ấy với chú.”

“Cô ấy bắt buộc phải giữ bí mật,” Gideon nói. “Đấy là điều kiện thỏa thuận giữa cô ấy và
bố tôi…”

Quan Chấp Chính mím môi. “Charlotte Branwell không được quyền thỏa thuận chuyện
động trời như vậy khi chưa hỏi ý chú. Cô ta không nên và không được vượt mặt chú như
thế. Cô ta cùng cả nhóm Thợ Săn Bóng Tối tại Học Viện hành xử như thể họ sống ở xứ
tự trị tồn tại ngoài vòng luật pháp của chúng ta. Nhìn chuyện Jessamine Lovelace mà
xem. Cô ta phản bội tất cả chúng ta, suýt khiến chúng ta tiêu mạng. James Carstairs sắp
chết vì nghiện thuốc. Cô Gray là một kẻ biến hình hoặc một pháp sư, và không được phép
sống tại bất kì Học Viện nào, rồi vụ đính hôn nực cười chẳng ra đâu vào đâu. Và Will
Herondale – Will Herondale là kẻ dối trá và mất dạy rồi sẽ có ngày trở thành phường đầu
trộm đuôi cướp nếu còn sống được đến ngày đó.” Quan Chấp Chính dừng lại, thở dốc.
“Charlotte có thể điều hành nơi đó như thể mình là một chúa đất, nhưng không phải vậy.
Đấy là một Học Viện và cô ta có trách nhiệm báo cáo tình hình lên Quan Chấp Chính. Và
các cháu cũng có trách nhiệm đó.”
“Charlotte chẳng làm gì để phải nhận lấy sự phản bội từ cháu,” Gideon nói.

Quan Chấp Chính chỉ thẳng vào mặt anh. “Chú muốn nói tới chính vấn đề này. Cháu
không trung thành với cô ta; không thể với cô ta. Mà phải là với chú. Cháu hiểu chưa?”

“Và nếu cháu từ chối?”

“Cháu sẽ mất tất cả. Nhà cửa, đất đai, tên họ, tiền lương, mục đích.”

“Chúng cháu sẽ làm,” Gabriel nói trước khi Gideon kịp lên tiếng. “Chúng cháu sẽ giúp
chú theo dõi cô ấy.”

“Gabriel…” Gideon lên tiếng.

Gabriel nhìn anh trai. “Đừng,” anh nói. “Quá đủ rồi. Anh không muốn nói dối, em hiểu.
Nhưng chúng ta trước hết phải trung thành với gia tộc mình. Nhà Blackthorn sẽ tống Tati
ra ngoài đường, và nó sẽ không thể sống nổi mất, rồi còn đứa bé …”

Gabriel trắng bệch. “Tatiana có bầu?”

Dù tình huống kinh khủng, Gabriel vẫn thoáng thấy thỏa mãn vì biết một điều anh mình
không biết. “Vâng,” anh nói. “Anh sẽ biết nếu vẫn sống cùng người nhà mình.”

Gideon nhìn quanh phòng như thể tìm kiếm một gương mặt thân quen, rồi lại xụi lơ nhìn
em mình và Quan Chấp Chính. “Anh…”

Quan Chấp Chính Wayland mỉm cười lạnh lùng với Gabriel, rồi với Gideon. “Vậy chúng
ta thỏa thuận chứ?”

Sau một lúc lâu, Gideon mới gật đầu. “Được.”

Gabriel khó lòng quên vẻ mặt Quan Chấp Chính lúc đó. Đó là vẻ hỉ hả, nhưng còn một
thêm chút xíu ngạc nhiên nữa. Rõ ràng ông ta mong vậy, và chỉ có vậy từ anh em nhà
Lightwood.

“Bánh nướng á?” Tessa nghi ngờ.

Miệng Sophie nhếch lên thành một nụ cười. Cô đang quỳ trước lò sưởi với một cái giẻ và
một xô nước xà phòng. “Nếu cô chụp cho tôi cái mũ ba góc, tôi cũng giật mình ngang
vậy,” cô ấy xác nhận. “Hàng tá bánh nướng luôn. Trong gầm giường, đã cứng như đá.”
“Ôi Chúa ơi,” Tessa nói, ngồi lên giường và chống hai tay ra sau. Mỗi khi Sophie vào
phòng Tessa dọn dẹp, cô luôn phải kiềm cảm giác muốn chạy ra giúp cô gái kia đốt lò
sưởi hay quét bụi. Tessa đã thử vài lần, nhưng sau khi Sophie nhẹ nhàng ấn cô ngồi
xuống ghế đến lần thứ tư, cô đành bỏ cuộc.

“Và chị giận?” Tessa nói.

“Tất nhiên! Cứ đi thêm việc cho tôi, khiến tôi bưng bánh đi lên đi xuống, rồi giấu chúng
như thế - tôi sẽ chẳng ngạc nhiên gì nếu cuối mùa thu này nơi đây đầy chuột!”

Tessa gật đầu, nghiêm túc suy ngẫm tới vấn đề có lũ gặm nhấm đó trong nhà. “Nhưng chị
không thấy vui vui khi anh ấy làm vậy chỉ để được gặp chị nhiều hơn?”

Sophie ngồi thẳng người. “Tôi không vui vui gì hết. Anh ấy không biết nghĩ. Anh ấy là
Thợ Săn Bóng Tối, còn tôi là người phàm. Tôi chẳng mong chờ gì từ anh ấy. Cùng lắm
anh ấy cũng chỉ coi tôi là nhân tình, còn anh ấy sẽ kết hôn với một nữ Thợ Săn Bóng
Tối.”

Cổ Tessa nghẹn lại khi cô nhớ đến Will trên mái nhà đã đề nghị cô một điều như thế,
khiến cô thấy xấu hổ và nhục nhã, và cô đã cảm thấy mình nhỏ bé, vô giá trị đến độ nào.
Đấy chỉ là lời nói dối, nhưng vẫn khiến cô đau lòng.

“Không,” Sophie nói, nhìn xuống đôi bàn tay đỏ ửng, chai sần. “Tốt nhất tôi không nên
nuôi ý tưởng đó nơi anh ấy. Cứ thế này sẽ chẳng gieo đau buồn cho ai.”

“Tôi nghĩ hai anh em nhà Lightwood tốt hơn chị tưởng đó,” Tessa gợi ý.

Sophie hất tóc khỏi mặt, đưa tay khẽ chạm vào vết sẹo ngoằn ngoèo trên má. “Đôi lúc tôi
nghĩ trên đời này chẳng có người đàn ông nào tốt hết.”

Cả Gideon và Gabriel đều không nói năng gì khi xe ngựa lọc cọc đi qua các con phố của
khu West End để trở về Học Viện. Mưa đang trút xuống, táp ào ào vào xe khiến Gabriel
ngờ rằng liệu có ai nghe thấy anh nếu anh cất tiếng không.

Gideon đang nhìn giày, và không hề ngước lên suốt đường trở về Học Viện. Đến nơi,
Quan Chấp Chính với tay qua Gabriel và mở cửa cho họ.

“Chú tin tưởng hai cháu,” ông ta nói. “Giờ hãy làm cho Charlotte cũng tin đi. Và đừng kể
với ai về cuộc nói chuyện của chúng ta. Còn chiều nay, các cháu ở cùng Tu Huynh Câm.”
Gideon rời xe không nói lời nào, và Gabriel đi theo. Xe ngựa quay đầu và lao vào buổi
chiều Luân Đôn xám xịt. Bầu trời mang sắc đen vàng, mưa rơi từng hạt nặng như hạt chì,
sương mù dày đặc khiến Gabriel hầu như không thấy cổng Học Viện khi chúng đóng lại
sau khi cỗ xe đi qua. Anh hoàn toàn không hề thấy tay anh trai thò ra, thộp cổ áo anh, và
lôi anh ra bên hông Học Viện.

Anh suýt ngã khi Gideon ấn anh vào bức tường đá của nhà thờ cổ. Họ đang ở gần chuồng
ngựa, được một trụ cột che khuất nửa phần, nhưng nó không che chắn nổi cơn mưa.
Những giọt nước lạnh ngắt nhỏ xuống đầu và cổ Gabriel rồi chảy vào trong áo.
“Gideon…” anh phản đối, khi trượt chân trên một phiến đá lát ướt bùn.

“Im.” Mắt Gideon trừng lớn và mang sắc xám trong ánh sáng tối, chỉ pha một chút xíu
ánh xanh lục.

“Anh nói đúng.” Gabriel hạ giọng. “Chúng ta nên sắp xếp câu chuyện. Khi họ hỏi chúng
ta làm gì chiều nay, chúng ta phải có cùng câu trả lời, nếu không họ sẽ chẳng tin…”

“Anh nói im.” Gideon đẩy vai em trai vào tường, mạnh tới độ Gabriel kêu đau. “Chúng ta
sẽ không kể cho Charlotte nghe cuộc nói chuyện với Quan Chấp Chính. Nhưng chúng ta
cũng sẽ không làm gián điệp. Gabriel, em là em anh, và anh yêu thương em. Anh sẽ làm
tất cả để bảo vệ em. Nhưng anh sẽ không bán linh hồn của hai anh em ta.”

Gabriel nhìn anh trai. Mưa làm ướt tóc Gideon và chảy vào cổ áo anh. “Chúng ta có thể
sẽ chết nơi đầu đường xó chợ nếu không chịu làm theo lời Quan Chấp Chính nói.”

“Anh sẽ không nói dối Charlotte,” Gideon nói.

“Gideon…”

“Em có thấy vẻ mặt Quan Chấp Chính không?” Gideon ngắt ngang. “Khi chúng ta đồng
ý làm gián điệp, và phản bội lại lòng tốt của người đã cho chúng ta chỗ trú chân? Ông ta
không hề ngạc nhiên. Ông ta không hề mảy may nghi ngờ về chúng ta. Ông ta chẳng
mong chờ gì ở nhà Lightwood ngoài sự phản phúc. Đó là bản chất của chúng ta.” Anh
nắm chặt cánh tay Gabriel. “Sống không có nghĩa là chỉ tồn tại,” anh bảo. “Chúng ta có
danh dự, chúng ta là Nephilim. Nếu ông ta tin như thế, chúng ta thực sự chẳng có gì.”

“Vì sao?” Gabriel hỏi. “Sao anh chắc chúng ta nên đứng phe Charlotte là phe chính
nghĩa?”

“Vì bố chúng ta không ở phe đó,” Gideon nói. “Vì anh biết Charlotte. Vì anh đã sống
cùng những con người này vài tháng và họ là người tốt. Vì Charlotte Branwell luôn đối
tốt với anh. Và Sophie yêu quý cô ấy.”
“Còn anh yêu Sophie.”

Gideon mím môi.

“Cô ấy là người phàm và là người hầu,” Gabriel nói. “Em không biết anh kì vọng gì từ
mối quan hệ đó, Gideon.”

“Chẳng gì hết,” Gideon gắt. “Anh chẳng kì vọng gì. Nhưng anh tin anh nên cho em thấy
bố đã nuôi chúng ta lớn lên cùng niềm tin rằng chỉ làm điều đúng khi có phần thưởng.
Anh không chối bỏ và đi ngược lại lời hứa với Charlotte; em hiểu rõ cho anh, Gabriel.
Nếu em không muốn trung thành với Charlotte, anh sẽ đưa em tới sống cùng Tatiana và
nhà Blackthorn. Anh chắc chắn họ sẽ đón nhận em. Còn anh sẽ không nói dối Charlotte.”

“Không, có chứ,” Gabriel nói. “Cả hai chúng ta sẽ nói dối Charlotte. Nhưng chúng ta
phải gạt cả Quan Chấp Chính nữa.”

Gideon nheo mắt. Nước mưa nhỏ xuống từ lông mi anh. “Ý em là sao?”

“Chúng ta sẽ làm đúng như Quan Chấp Chính yêu cầu và đọc thư của Charlotte. Sau đó
chúng ta sẽ báo cáo cho ông ta, nhưng báo sai sự thật.”

“Nếu đằng nào cũng nói láo, sao chúng ta phải đọc thư?”

“Để biết không nên nói gì,” Gabriel nói, nếm thấy vị nước mưa trong miệng. Nó có vị
giống như vừa rơi từ mái Học Viện xuống, đăng đắng và bẩn thỉu. “Để nói hớ cho ông ta
biết sự thật.”

“Nếu bị bắt quả tang, chúng ta sẽ đối mặt với hậu quả nghiêm trọng nhất.”

Gabriel nhổ nước mưa khỏi miệng. “Vậy ý anh thế nào? Anh sẽ liều chấp nhận những
hậu quả nghiêm trọng vì những cư dân của Học Viện, hay thế nào? Vì em… em hành
động thế này vì anh, và vì…”

“Vì?”

“Vì em đã phạm sai lầm. Em đã lầm về bố chúng ta. Em tin ông, và đáng ra không nên
thế.” Gabriel hít sâu. “Em đã sai và em sẽ đền đắp, và nếu có cái giá phải trả, vậy em sẽ
trả.”

Gideon nhìn em mình rất lâu. “Đây là toàn bộ kế hoạch của em? Khi em đồng ý yêu cầu
của Quan Chấp Chính, trong Argent Rooms?”
Gabriel nhìn đi chỗ khác, về phía khoảng sân loang loáng nước mưa. Trong đầu anh hiện
lên hình ảnh hai anh em hồi thơ bé, đứng ở nơi sông Thames chảy qua rìa nhà, và Gideon
chỉ cho anh thấy những con đường an toàn đi qua vùng sình lầy. Anh trai anh là người
luôn chỉ cho anh con đường an toàn. Từng có thời họ tin tưởng nhau tuyệt đối, và anh
không biết nó đã kết thúc từ bao giờ, nhưng tim anh đau vì điều đó còn hơn khi mất bố.

“Anh có tin em không,” anh cay đắng nói, “nếu em nói ý định của em đúng là thế? Vì đó
là sự thật.”

Gideon đứng im một lúc lâu. Rồi Gabriel bị kéo đi, mặt ập vào lớp vải lông cừu ướt nước
mưa của áo khoác Gideon khi anh trai anh ôm ghì lấy anh, nói khẽ. “Được rồi, em trai.
Mọi chuyện rồi sẽ ổn.”

Gửi: Thành viên Hội Đồng

Từ: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Được thôi, thưa quý vị. Trong trường hợp đó, tôi chỉ mong quý vị kiên nhẫn và đừng
hành động khinh suất. Nếu quý vị muốn bằng chứng, tôi sẽ cung cấp.

Tôi sẽ sớm viết thư thông báo tin tức về vấn đề này.

Nhân danh Raziel và mong bảo vệ danh dự của Ngài,

Quan Chấp Chính Josiah Wayland


7

DÁM ƯỚC NGUYỀN


Nếu năm xưa một lần quay trở lại

Và lựa chọn đúng sai hiển lộ trước mắt tôi

Liệu tôi có chấp nhận niềm vui đi kèm khổ sở

Hay dám ước nguyền chúng ta chẳng từng gặp nhau?

–Augusta, Lady Gregory, If the Past Year Were Offered Me Again

Gửi: Quan Chấp Chính Wayland

Từ: Gabriel và Gideon Lightwood

Thưa chú,

Chúng cháu rất cảm kích vì được chú phó thác nhiệm vụ giám sát hành vi của cô
Branwell. Phụ nữ, như chúng ta biết, cần được theo dõi sát sao để họ không gây ra sai
lầm. Chúng cháu rất buồn phải thông báo rằng có tin xấu.

Nhiệm vụ quan trọng nhất của phụ nữ là tề gia, và một trong những phẩm hạnh lớn nhất
của người phụ nữ là tiết kiệm. Nhưng cô Branwell có vẻ chi tiêu hoang phí và chẳng
quan tâm đến gì ngoài chưng diện.

Dù cô ta ăn mặc giản dị khi chú đến thăm, nhưng chúng cháu rất buồn phải báo rằng lúc
rảnh rỗi, cô ta thích mặc thứ lụa thượng hạng nhất và đeo những loại đá quý đắt nhất ta
có thể tưởng tượng. Chú yêu cầu chúng cháu để ý và xâm phạm sự riêng tư của người
phụ nữ kia, và chúng cháu đã làm theo. Chúng cháu sẽ báo lại tỉ mỉ chi tiết thư cô ta gửi
thợ may, nhưng chúng cháu sợ ngài sẽ tá hỏa mất. Chú chỉ cần biết rằng tiền trả cho mấy
cái mũ phải ngang thu nhập hằng năm của một điền trang lớn hoặc một đất nước nhỏ.
Chúng cháu không hiểu sao một người phụ nữ nhỏ bé như thế lại cần nhiều mũ đến vậy.
Có vẻ như cô ta không có mọc dư cái đầu nào để mà phải che đậy.

Các quý ông không nên bình phẩm về trang phục của một người phụ nữ, nhưng nhiệm vụ
của chúng cháu là báo cáo những điểm xấu của cô Branwell. Cô ta chi tiêu rất bủn xỉn
cho những nhu cầu trong nhà. Mỗi tối chúng cháu chỉ được ăn cháo loãng trong khi cô ta
ngồi tại bàn, người lấp lánh toàn đá quý và những món phụ kiện lặt vặt lóng la lóng lánh.
Có lẽ chú cũng thấy thế là không tốt cho những Thợ Săn Bóng Tối dũng cảm của chú.
Chúng cháu đã suy yếu đến độ suýt bị một con quỷ Behemoth giết hôm thứ ba tuần trước,
và tất nhiên những sinh vật đó chủ yếu được cấu thành từ loại vật chất nhầy nhớt. Phải
nói là khi phong độ tốt, ăn uống đầy đủ, mỗi anh em chúng cháu có thể giẫm bẹp cả tá
con Behemoth một lúc.

Chúng cháu rất mong chú có thể giúp chúng cháu trong vấn đề này, và xem xét chuyện
cô Branwell chi quá nhiều tiền cho mũ mão… và những thứ trang phục phụ nữ chúng
cháu ngại nêu tên.

Chân thành,

Gideon và Gabriel Lightwood.

“Phụ kiện lặt vặt là gì?” Gabriel hỏi, nghiêm túc chớp mắt nhìn lá thư mình vừa giúp viết
ra. Thật ra, Gideon viết hầu hết; Gabriel chỉ đi bút trên giấy mà thôi. Anh bắt đầu ngờ
rằng đằng sau gương mặt nghiêm túc kia là một tính cách hài hước ngầm.

Gideon vẫy tay. “Không quan trọng. Dán thư lại rồi giao Cyril ra ngoài gửi đi.”

Đã vài ngày trôi qua kể từ trận chiến với con giun khổng lồ, và Cecily lại đang trong
phòng tập. Cô bắt đầu tự hỏi liệu cô có nên chuyển đồ đạc vào phòng này luôn không, vì
có vẻ cô dành hầu hết thời gian tại đây. Phòng Charlotte dành cho cô hầu như chẳng có
đồ trang trí hay bất cứ thứ gì gợi nhắc cho cô về một mái ấm. Cô chẳng đem theo đồ cá
nhân từ Wales đến, vì không nghĩ mình sẽ ở lại lâu.

Ít ra phòng tập cho cô cảm giác an toàn. Có lẽ vì không có căn phòng nào giống vậy ở
nhà cô; đây là một nơi chỉ thuộc về Thợ Săn Bóng Tối. Ở nó không có điểm gì có thể làm
cô nhớ nhà. Tường treo hàng tá loại vũ khí. Bài học đầu tiên của cô với Will, khi anh vẫn
còn bừng bừng giận dữ vì cô xuất hiện, liên quan tới học thuộc tên và công năng của tất
cả. Kiếm katana của Nhật, gươm bản rộng hai lưỡi, dao kết liễu mỏng, phi tiêu và chùy,
kiếm cong của người Thổ, cung và ná, cùng những ống phi tiêu độc. Cô nhớ anh đã gằn
từng tên ra như thể chúng là độc dược.

Cứ giận nếu anh muốn, anh trai, cô đã nghĩ. Giờ em có thể giả bộ em muốn làm Thợ Săn
Bóng Tối, vì như vậy anh sẽ buộc phải để em ở đây. Nhưng em sẽ cho anh thấy những
con người kia không phải người thân của anh. Em sẽ đưa anh về nhà.
Giờ cô lấy một thanh kiếm khỏi tường, và cầm chắc trong tay. Will đã dạy khi cầm kiếm
hai tay chặn, cô phải cầm thấp dưới lồng ngực, chĩa thẳng. Lực giữ thanh kiếm nên dồn
vào hai chân, và lực vung kiếm phải là ở vai chứ không phải cánh tay, để ra cú kết liễu
mạnh nhất.

Cú kết liễu. Trong rất nhiều năm cô đã giận anh vì bỏ gia đình đi sống cùng những Thợ
Săn Bóng Tối ở Luân Đôn, vì đã giao bản thân cho những kẻ bị mẹ cho rằng là lũ giết
người máu lạnh, sống cuộc sống chỉ biết đến vũ khí, máu me và chết chóc. Những dãy
núi xanh rì của Wales không là gì với anh ư? Gia đình họ thiếu thốn cái gì nào? Sao anh
lại quay lưng với màu xanh nhất của biển khơi để đổi lấy cuộc sống vô vị như thế?

Nhưng giờ cô ở đây, chọn dành thời gian một mình trong phòng tập với bộ sưu tầm vũ
khí vô tri vô giác. Sức nặng của thanh kiếm trong tay cô đang an ủi cô; nó gần như là rào
cản giữa cô và cảm xúc của cô.

Cô và Will đã lang thang khắp thành phố cách đây vài đêm, từ sới thuốc phiện đến sới
bạc, sới ifrit, một nơi đủ thứ màu sắc, mùi và ánh sáng. Anh không dễ chịu lắm, nhưng cô
biết rằng cho phép cô đi cùng anh làm một việc thận trọng như thế cũng là một hành động
tốt lắm rồi.

Không hiểu sao khi lên kế hoạch đến đây cô đã nghĩ rằng sợi dây ràng buộc anh với nơi
này không bền chắc lắm, mối liên kết giữa anh và những con người này chẳng mạnh mẽ
như tình thân máu mủ ruột rà. Nhưng suốt đêm đó, khi chứng kiến anh hi vọng rồi thất
vọng khi anh hỏi mua ngân phiến và hết hàng, cô đã hiểu – à, cô đã được nghe, đã biết từ
trước, nhưng hiểu lại khác – rằng mối liên kết ràng buộc anh với nơi này mạnh như mọi
mỗi ràng buộc máu mủ.

Giờ cô mệt mỏi, và dù cô cầm kiếm đúng như Will dạy – tay phải nằm dưới chặn kiếm,
tay trái nắm đốc kiếm – nó trượt khỏi tay cô và chúi xuống, cắm mũi xuống sàn.

“Ôi trời,” một giọng nói vọng vào từ cửa. “Tôi e chỉ có thể chấm cho cố gắng đó ba điểm.
Có lẽ là bốn, thưởng cho việc cô tập kiếm khi đang mặc váy dài.”

Cecily, người quả thật chẳng buồn thay sang đồ đi săn, ngửa đầu và lườm Gabriel
Lightwood đang đứng ở cửa trông như một con gia tinh tọc mạch. “Có lẽ tôi chẳng hứng
nghe ý kiến của anh.”

“Có lẽ.” Anh bước một bước vào phòng. “Thiên Thần cũng biết anh trai cô chẳng bao giờ
thèm lắng nghe tô.”

“Có lẽ ở điểm này anh em tôi cùng chung ý kiến,” Cecily nhận xét và rút kiếm khỏi sàn.
“Còn lại thì không giống nhau lắm.” Gabriel đã đứng đằng sau cô. Cả hai đều in hình
trong một chiếc gương tập; Gabriel cao hơn cô nhiều, và cô thấy rõ gương mặt anh qua
vai cô. Gương mặt anh xương xương kì lạ; nhìn từ góc độ này thì thấy anh đẹp trai,
nhưng nhìn ở góc khác lại trông anh kì quặc. Có một vết sẹo nhỏ trăng trắng ở cằm, như
thể anh bị một lưỡi dao mỏng đâm vào. “Cô có cần tôi chỉ cho cách cầm kiếm, đúng
không?”

“Tùy anh.”

Anh không trả lời và chỉ vòng tay quanh, chỉnh cách cô cầm đốc kiếm. “Cô không được
chúc mũi kiếm,” anh nói. “Cầm thế này – mũi kiếm hướng thẳng – để nếu đối thủ tấn
công, hắn sẽ lao thẳng vào kiếm của cô.”

Cecily chỉnh cách cầm theo. Đầu óc cô đang nghĩ ngợi rất lung. Bao lâu nay cô cứ nghĩ
Thợ Săn Bóng Tối là đám quái vật. Những con quái vật đã bắt cóc anh trai cô, và cô là
người hùng phi ngựa đến giải cứu anh, dù cho anh không thấy mình cần được cứu.
Nhưng kì lạ thay, dần dần cô nhận ra họ con người đến độ nào. Cô cảm nhận được hơi
ấm tỏa ra từ người Gabriel, hơi thở anh làm lay động tóc cô, và cô thấy là lạ khi ý thức
được nhiều điểm khác ở người con trai kia: cảm giác về sự hiện diện của anh, cái chạm
của anh, mùi hương của anh…

“Tôi đã thấy cách cô chiến đấu lúc ở nhà Lightwood,” Gabriel Lightwood nói thầm. Bàn
tay chai sần của anh áp lên tay cô, và Cecily cố lắm mới không rùng mình.

“Tệ à?” Cô cố giả giọng đùa cợt.

“Nhiệt huyết. Có những người chiến đấu vì bổn phận và cũng có những người chọn cầm
vũ khí vì thích thế. Cô là vì thích.”

“Tôi không...” Cecily lên tiếng, rồi ngưng ngang khi cửa phòng tập mở.

Đó là Will, cơ thể săn chắc, vai rộng đứng dềnh dàng choán hết cửa. Đôi mắt xanh của
anh đang nổi dông tố. “Đang làm gì ở đây, hả?” anh hỏi.

Tối kia họ mới hòa thuận thế cơ mà! “Em đang tập,” Cecily nói. “Anh đã bảo rằng em
chẳng thể nào khá lên nếu không chịu tập tành cơ mà.”

“Anh không hỏi em. Anh đang hỏi gã Gabriel Lightworm đằng kia.” Will hất hàm về
hướng chàng trai còn lại. “Xin lỗi. Là Lightwood mới phải.”

Gabriel từ từ bỏ tay đang vòng qua người Cecily. “Kẻ dạy em gái cậu cầm kiếm rõ ràng
đầy thói hư tật xấu. Tôi chỉ đang giúp thôi.”
“Em đồng ý để anh ấy dạy,” Cecily nói, không hiểu sao mình lại đỡ lời cho Gabriel,
nhưng chắc là cô muốn chọc giận Will.

Cô đã thành công. Mắt anh nheo lại. “Và hắn có nói với em rằng bao nhiêu năm nay, hắn
luôn tìm cách trả đũa vụ anh xúc phạm em gái hắn không? Và còn cách nào tốt hơn là lợi
dụng em nào?”

Cecily quay phắt lại nhìn Gabriel đang mang vẻ mặt vừa bực bội vừa giận dỗi. “Phải thế
không?”

Gabriel không trả lời cô mà chỉ nói chuyện với Will. “Nếu chúng ta sống chung dưới một
mái nhà, Herondale, vậy chúng ta phải học cách đối xử tốt với nhau. Cậu không thấy vậy
à?”

“Khi nào tôi còn bẻ tay anh dễ như nhìn anh, tôi còn không thấy vậy.” Will đưa tay ra lấy
thanh trường kiếm khỏi tường. “Giờ ra khỏi đây, Gabriel. Và để em gái tôi yên.”

Nhăn mặt, Gabriel lách qua Will và rời phòng.

“Vậy có cần thiết không, Will?” Cecily hỏi ngay khi cửa đóng lại.

“Anh hiểu Gabriel Lightwood, còn em thì không. Anh nghĩ em nên giao cho anh phần
đánh giá tính cách hắn. Hắn muốn dùng em để làm tổn thương anh...”

“Thật đấy, anh không thể tưởng tượng ra một động cơ nào anh ấy có thể có mà không
liên quan đến anh à?”

“Anh hiểu hắn,” Will nhắc lại. “Hắn là một kẻ lừa lọc và phản phúc...”

“Con người sẽ thay đổi.”

“Không nhiều đến mức đó.”

“Có anh đó thôi,” Cecily nói, sải bước qua phòng và ném kiếm xuống ghế băng.

“Em cũng thế,” Will nói, khiến cô ngạc nhiên. Cô quay lại.

“Em thay đổi? Em thay đổi ra làm sao?”

“Khi em đến đây,” anh nói, “em nhai đi nhai lại rằng sẽ đưa anh về cùng em. Em không
thích luyện tập. Em giả bộ thế khác, nhưng anh nhìn là biết tỏng. Rồi em thôi ỉ ôi, ‘Will,
anh phải về nhà’ và chuyển thành ‘Viết thư đi, Will.’ Và em bắt đầu thích tập luyện.
Gabriel Lightwood là thằng mất dạy, nhưng hắn đúng ở một điểm: Lúc ở nhà Lightwood,
em say máu chiến đấu với con giun đó. Dòng máu Thợ Săn Bóng Tối giống như thuốc
súng trong huyết quản em, Cecy à. Một khi nó được đốt thì sẽ không dễ dập. Càng ở lại
đây lâu, em sẽ càng giống anh – quá lưu luyến đến độ không nỡ rời.”

Cecily nheo mắt nhìn anh mình. Áo anh mở cúc cổ, để lộ gì đó màu đỏ sậm lấp lánh nơi
hõm cổ. “Anh đeo dây chuyền phụ nữ à, Will?”

Will giật mình đặt tay lên cổ, nhưng trước khi anh kịp trả lời, cửa phòng tập lại mở và
Sophie đứng đó, gương mặt mang sẹo đeo một biểu cảm lo lắng.

“Cậu chủ Will, cô Herondale,” cô nói. “Tôi đang tìm hai người. Cô Charlotte muốn mọi
người đến phòng khách ngay; có chuyện gấp.”

Cecily luôn là đứa trẻ cô độc. Thật khó mà không thành ra như thế khi anh chị mình
người thì chết người thì bỏ đi, mà bố mẹ cô lại thấy lũ trẻ đồng trang lứa chơi với cô
không hợp. Cô đã sớm học được cách tự giải khuây khi quan sát mọi người, giữ những
nhận định lại chỉ riêng cho mình, để lúc rảnh rỗi sẽ đem ra suy ngẫm.

Thói quen đó không dễ bỏ, và dù từ hồi đến Học Viện tám tuần trước, Cecily không còn
đơn độc, nhưng cô vẫn coi các cư dân ở đây là đối tượng cho cô nghiên cứu kĩ càng. Dù
gì thì dù, họ cũng là Thợ Săn Bóng Tối – đầu tiên là kẻ thù, và rồi, khi thấy điều đó càng
lúc càng không đúng, cô chỉ còn coi họ là đối tượng quan sát cho vui.

Bây giờ, vừa bước chân vào phòng khách, cô đã để ý quan sát họ. Trước hết là Charlotte,
ngồi đằng sau bàn của mình. Cecily không quen biết Charlotte lâu, nhưng cô biết
Charlotte thuộc típ phụ nữ luôn bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh. Chị nhỏ nhắn nhưng
mạnh mẽ, hơi giống mẹ của Cecily, chỉ có điều không có thói quen lầm bầm bằng tiếng
Wales.

Rồi đến Henry. Có lẽ anh là người đầu tiên trong tất cả khiến Cecily nghĩ dù Thợ Săn
Bóng Tối khác biệt, nhưng họ không phải sinh vật ngoài hành tinh nguy hiểm. Henry
chẳng có gì đáng sợ, với chân tay dài ngoằng, gân guốc khi dựa vào bàn của Charlotte.

Tiếp đó mắt cô liếc sang Gideon Lightwood, thấp và đậm người hơn em trai – Gideon,
với đôi mắt xám xanh thường nhìn theo Sophie trong Học Viện cứ như một chú cún đang
mong mỏi chủ nhân. Cô tự hỏi liệu những người khác có nhận thấy tình cảm anh dành
cho cô hầu gái không, và bản thân Sophie nghĩ gì.

Rồi đến Gabriel. Cecily không biết nghĩ sao về anh. Mắt anh sáng, và cơ thể căng như lò
xo khi dựa vào ghế của anh trai. Ngồi trên ghế sofa đối diện anh em nhà Lightwood là
Jem, với Tessa bên cạnh. Anh ngước lên khi cửa mở và trông tươi tỉnh hẳn khi thấy Will.
Đó là một điểm đặc biệt ở cả hai người họ, và Cecily phân vân không biết có phải mọi
parabatai đều như vậy không, hay họ là một trường hợp độc nhất vô nhị. Nhưng thế nào
đi nữa, hẳn phải rất đáng sợ khi gắn kết với một người khác, nhất là một người yếu ớt
như Jem.

Trong lúc cô quan sát, Tessa đặt tay lên tay Jem và khẽ khàng nói gì đó khiến anh mỉm
cười. Tessa liếc qua Will, nhưng anh chỉ bình thản đi qua phòng đến dựa vào bệ lò sưởi.
Cecily không rõ anh làm vậy vì thực sự bị lạnh hay vì nghĩ mình trông nổi bật hơn hẳn
khi đứng trước ngọn lửa bập bùng.

Chắc em phải thấy xấu hổ lắm vì anh trai em… có tình cảm không nên có với vợ sắp cưới
của parabatai. Will đã nói vậy với cô. Nếu anh là người khác, hẳn cô sẽ bảo anh chẳng
việc gì phải giấu giếm bí mật. Cái kim trong bọc lâu rồi cũng đến ngày lòi ra. Nhưng
trong vì người này là Will, nên cô không chắc. Anh có kinh nghiệm nhiều năm che giấu
sự thật và giả bộ rồi. Anh là một diễn viên kì cựu. Nếu cô không phải em gái anh, nếu cô
không thấy vẻ mặt anh những lúc Jem không nhìn, cô sẽ nghĩ mình chỉ võ đoán.

Kinh khủng, nhưng chắc chắn rằng anh sẽ phải mãi giấu kín bí mật của mình. Anh phải
che giấu nó trong chừng nào Jem còn sống. Nếu James Carstairs không quá tử tế, Cecily
nghĩ cô hẳn sẽ ghét anh ấy vì anh mình. Không chỉ vì anh ấy sắp kết hôn cùng người con
gái Will yêu, mà còn do cô sợ rằng khi anh ấy qua đời, Will sẽ không bao giờ gượng dậy
nổi. Nhưng ta không thể trách cứ một người vì họ chết. Ta có thể trách người cố tình bỏ
đi như anh trai cô đã bỏ cô và bố mẹ lại, nhưng không phải chết, vì đó là một quyền năng
nằm ngoài tầm kiểm soát của bất cứ người trần mắt thịt nào.

“Rất mừng là tất cả đã có mặt,” Charlotte nói bằng giọng căng thẳng khiến Cecily bừng
tỉnh khỏi dòng suy tưởng. Charlotte đang buồn bã nhìn cái khay bạc bóng lừ trên bàn, và
trên đó có một lá thư để mở cùng một cái gói nhỏ bọc giấy dầu. “Tôi vừa nhận cái thứ
trời đánh này. Từ Ông Chủ.”

“Từ Mortmain?” Tessa nhoài tới, và cái mặt dây chuyền thiên sứ cô ấy luôn đeo đong
đưa, lấp lánh trong ánh lửa. “Ông ta viết thư cho chị?”

“Chắc chắn không phải để hỏi thăm sức khỏe rồi,” Will nói. “Ông ta muốn gì?”

Charlotte hít thật sâu. “Để chị đọc.”

Cô Branwell thân mến,

Xin lỗi đã gây phiền hà cho gia đình cô trong thời gian qua. Tôi rất buồn, dù tôi phải
thừa nhận mình không hề ngạc nhiên khi biết tin sức khỏe cậu Carstairs giảm sút.
Tôi tin cô biết tôi, mừng sao, sở hữu một lượng lớn – tôi phải nói là rất lớn – lượng thuốc
cậu Carstairs cần để duy trì sức khỏe. Vì chúng ta đều thấy mình rơi vào tình huống vô
cùng tréo ngoe, và tôi sẵn sàng khiến đôi bên cùng có lợi. Tôi rất vui được đưa điều kiện
trao đổi: Nếu cô đồng ý phó thác cô Gray cho tôi, tôi sẽ gửi cô một lượng lớn ngân
phiến.

Tôi xin gửi cô món quà chứng tỏ hảo ý. Vui lòng viết thư cho tôi biết ý cô. Nếu cô đọc
đúng dãy số in ở cuối lá thư cho người máy của tôi, tôi chắc chắn sẽ nhận được tin.

Chân thành,

Axel Mortmain

“Có vậy thôi,” Charlotte nói, gấp lá thư làm đôi rồi bỏ vào khay. “Ông ta có hướng dẫn
cách gọi người máy sẽ chuyển câu trả lời của chúng ta cho ông ta, cùng một dãy số như
ông ta đã nhắc đến, nhưng không có gì cho biết vị trí của Mortmain.”

Tất cả bàng hoàng im lặng. Cecily, đã ngồi xuống chiếc ghế bành đơn in hoa, liếc sang
Will và thấy anh vội nhìn đi chỗ khác như muốn che giấu cảm xúc. Da Jem tái như màu
tro, còn Tessa – Tessa ngồi rất yên, và ánh lửa hắt những cái bóng nhảy nhót trên gương
mặt cô ấy.

“Mortmain muốn em,” cuối cùng cô ấy nói, phá ngang sự im lặng. “Đổi lại, Jem sẽ có
ngân phiến.”

“Thật nực cười,” Jem nói. “Không chấp nhận được. Chúng ta nên giao lá thư này cho
Clave để xem họ có thể tìm ra gì về nơi ở của ông ta, chỉ vậy mà thôi.”

“Họ sẽ không tra ra được gì đâu,” Will bình tĩnh nói. “Ông Chủ đã chứng minh hết lần
này đến lần khác rằng ông ta thông minh ra sao mà.”

“Đấy không phải thông minh,” Jem nói, “mà là hình thái độc địa nhất của tống tiền…”

“Tôi có tán đồng đâu,” Will nói. “Theo tôi, chúng ta nên coi cái gói kia là một món quà,
và từng đó ngân phiến sẽ giúp được bồ, còn đâu thì mặc kệ ông ta.”

“Thư của Mortmain liên quan đến em,” Tessa nói, ngắt ngang cuộc nói chuyện của hai
chàng trai. “Quyết định nên thuộc về em.” Cô rướn người về phía Charlotte. “Em chấp
nhận.”

Tất cả im phắc. Charlotte trông xám ngoét; Cecily cảm thấy tay mình nhớp nháp mồ hôi
khi chúng xoắn lấy nhau đặt trên đùi cô. Anh em Lightwood có vẻ cực kì khó chịu.
Gabriel trông như ở nơi nào cũng được, miễn không phải ở đây. Cecily không thể trách
họ. Sự căng thẳng giữa Will, Jem và Tessa giống như cả thùng thuốc súng chỉ cần một
mồi lửa là nổ tanh bành.

“Không được,” cuối cùng Jem cũng lên tiếng và đứng lên. “Tessa, em không được đi.”

Cô cũng đứng dậy theo anh. “Em được đi. Anh là chồng sắp cưới của em. Em không cho
phép anh chết khi em còn giúp được anh, và Mortmain cũng đâu định đánh đập em…”

“Chúng ta không biết ông ta định làm gì! Ông ta không đáng tin!” Will đột ngột nói, rồi
cúi đầu, tay nắm chặt bệ lò sươi đến độ những ngón tay trắng bệch. Cecily biết anh đang
cố bắt mình im miệng.

“Nếu Mortmain muốn anh, chắc chắn anh sẽ đi,” Tessa nói, nhìn anh trai Cecily tỏ ý cấm
anh cãi lại. Will nhăn nhó khi nghe thấy lời cô ấy nói.

“Không,” Jem nói. “Anh cũng sẽ cấm cậu ấy.”

Tessa quay sang Jem với vẻ bực bội lần đầu tiên Cecily thấy ở cô ấy. “Anh không được
cấm em – cũng như không được cấm Will…”

“Anh có thể,” Jem nói. “Vì một lí do rất đơn giản. Thuốc phiện không phải phương thuốc
chữa bệnh, Tessa. Nó chỉ kéo dài mạng anh thôi. Anh sẽ không cho phép em phí hoài
cuộc đời mình để đổi mấy vài ngày tàn cho anh. Nếu em tới chỗ Mortmain, em sẽ chẳng
nhận được gì. Anh vẫn sẽ không dùng thuốc.”

Will ngẩng đầu. “James…”

Nhưng Tessa và Jem đang chằm chằm nhìn nhau. “Anh không được phép,” Tessa thở phì
phò. “Anh không được phép xúc phạm em bằng cách ném trả sự hi sinh của em vì anh
vào mặt em như vậy.”

Jem sải bước qua phòng và cầm phắt cái gói – và lá thư – khỏi bàn của Charlotte. “Anh
thà mắng mỏ em còn hơn để mất em,” anh nói, và trước khi ai kịp làm gì, anh đã ném cả
hai vào lửa.

Căn phòng rộn lên tiếng la hét. Henry vội chạy tới, nhưng Will đã khuỵu xuống trước ghi
lò và thò cả hai tay vào lửa.

Cecily bật dậy khỏi ghế. “Will!” Cô hét, và chạy vội tới. Cô tóm vai áo khoác và kéo tay
anh khỏi đám lửa. Anh ngã ngồi, cái bọc cháy dở rơi khỏi tay anh. Gideon chạy lại chậm
hơn một chút, dùng chân dập tắt mấy ngọn lửa nhỏ, để lại một giấy cháy và thứ bột trắng
trên thảm.

Cecily trân trối nhìn lò sưởi. Lá thư có hướng dẫn cách gọi người máy của Mortmain đã
biến mất, bị cháy ra tro.

“Will,” Jem nói. Anh ấy trông như người ốm. Jem khuỵu xuống bên cạnh Cecily vẫn còn
giữ vai anh trai, và rút thanh stele khỏi túi ao. Tay Will đỏ sậm, trắng xám ở những chỗ
rộp da, và lốm đốm đen vết bồ hóng. Cecily nghe thấy tiếng thở anh gấp và giật cục –
những âm thanh đau đớn, giống như hồi chín tuổi anh bị ngã từ mái nhà xuống và gãy
xương tay trái. “Byddwch yn iawn, Will,” cô nói khi Jem ấn mũi stele vào cẳng tay anh
cô và vẽ vội. “Anh sẽ ổn.”

“Will,” Jem nói rất khẽ. “Will, tôi rất xin lỗi. Tôi rất xin lỗi. Will…”

Hơi thở hổn hển của Will chậm dần khi chữ iratze có tác dụng, da anh chuyển về màu
bình thường. “Vẫn còn lại ít ngân phiến dùng được,” Will nói và ngả người dựa vào
Cecily. Anh có mùi khói và sắt. Cô cảm nhận được trái tim đập thình thịch qua lưng anh.
“Tốt hơn hết chúng ta nên gom lại trước khi…”

“Đây.” Tessa đã quỳ xuống. Cecily mơ hồ ý thức được rằng những người khác đang
đứng. Charlotte thảng thốt đưa một tay che miệng. Tay phải Tessa cầm một chiếc khăn
tay, trong đó chứa chắc chừng nửa nắm ngân phiến, toàn bộ phần Will cứu được khỏi
đống lửa. “Cầm lấy,” cô nói và nhét vào tay không cầm thanh stele của Jem. Hình như
anh ấy định nói gì đó, nhưng cô đã đứng thẳng dậy. Trông cực kì buồn thảm, Jem nhìn
theo bóng cô ấy rời phòng.

“Ôi Will? Chúng ta biết làm gì với em đây?”

Will ngồi đó, thấy cực kì lố bịch khi ngồi trong chiếc ghế bành bọc vải hoa trong phòng
khách, để mặc Charlotte ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ phía trước, bôi thuốc mỡ lên tay
anh. Mấy vết bỏng đã chẳng còn đau mấy sau ba chữ iratze, và da anh đã trở lại màu sắc
bình thường, nhưng Charlotte vẫn một mực bắt anh bôi thuốc.

Những người khác đã đi cả, trừ Cecily và Jem; Cecily ngồi trên tay ghế ngay cạnh anh,
còn Jem quỳ trên cái thảm bị cháy, thanh stele vẫn cầm trong tay, không chạm vào Will
nhưng ở khá gần. Họ không chịu đi, kể cả sau khi những người khác đã rút khỏi và
Charlotte đuổi Henry về hầm làm việc. Dù gì thì cũng chẳng còn việc gì để làm. Cách
hướng dẫn liên lạc với Mortmain đã mất, cháy ra tro, và họ cũng chẳng còn phải quyết
định gì nữa.

Charlotte nhất quyết bắt Will ở lại và bôi thuốc mỡ cho anh, còn Cecily và Jem cũng
không chịu ra ngoài. Will phải thừa nhận mình cũng thích có em gái ngồi bên tay ghế,
thích cái lườm tỏ ý bảo vệ anh trước bất cứ ai dám lại gần, kể cả Charlotte tốt bụng và vô
hại với lọ thuốc mỡ và mấy lời càm ràm chất chứa yêu thương. Còn Jem, ngồi dưới chân
anh, hơi dựa vào ghế của anh như cậu ấy vẫn làm không biết bao nhiêu lần mỗi khi Will
phải băng bó vết thương sau trận ẩu đả hay vừa nhận chữ rune iratze vì vết thương anh
lãnh trong trận chiến.

“Bồ còn nhớ lần Meliorn cố đấm văng răng bồ vì tội dám gọi anh ta là thằng vô công rồi
nghề tai nhọn chứ?” Jem nói. Cậu ấy đã dùng ít ngân phiến Mortmain gửi đến, và đôi má
đã hồng hào trở lại.

Will không thể nào không cười. Đó là một điều trong mấy năm qua khiến anh thấy mình
may mắn: rằng anh có người trong đời hiểu anh, biết anh đang nghĩ gì trước khi anh nói
ra. “Tôi định đấm cho hắn bay răng rồi đấy chứ,” anh nói, “nhưng khi tôi đi tìm hắn, hắn
đã di dân đến Mỹ châu mất rồi. Chắc chắn là để tránh cơn thịnh nộ của tôi.”

“Hừm,” Charlotte lên tiếng hệt như mỗi lần nghĩ Will đang tự cao tự đại. “Theo như chị
biết, có thể nguyên nhân là anh ta có quá nhiều kẻ thù ở Luân Đôn.”

“Dydw I ddim yn gwybod pwy yw unrhyw un o’r bobl yr ydych yn siarad amdano,”
Cecily đều đều nói.

“Em có thể không biết bọn anh đang nói về ai, nhưng cũng chẳng ai ngoài anh biết em
đang nói gì,” Will bảo, dù giọng không có ý quở trách. Anh nghe thấy sự kiệt sức trong
giọng chính mình. Cả đêm mất ngủ đã tác động tới anh rồi đây. “Nói tiếng Anh đi,
Cecy.”

Charlotte đứng lên, quay lại bàn, và đặt cái lọ thuốc mỡ xuống. Cecily giật một lọn tóc
Will. “Để em xem tay anh nào.”

Anh giơ tay lên. Anh vẫn nhớ ngọn lửa, cảm giác đau nhức bỏng rát, và hơn hết là gương
mặt bàng hoàng hoảng hốt của Tessa. Anh biết cô hiểu vì sao anh làm thế, vì sao anh
hành động không suy nghĩ, nhưng ánh mắt cô – như thể trái tim cô tan nát vì anh.

Anh chỉ ước cô vẫn còn ở đây. Thật tốt khi được ở đây cùng Jem, Cecily và Charlotte,
được hưởng tình cảm của họ, nhưng không có cô luôn khiến anh thấy thiếu gì đó, một
mảnh mang hình hài Tessa bị tách khỏi tim anh mà anh không bao giờ lấy lại được.
Cecily chạm vào tay anh, giờ trông khá bình thường, trừ những cặn bồ hóng trong móng
tay. “Thật kinh ngạc,” cô nói và vỗ nhẹ tay anh, cẩn thận để không dính phải thuốc mỡ.
“Will luôn thích chuốc khổ vào mình,” cô đế thêm, giọng mang nỗi vui vẻ. “Em không
đếm nổi anh ấy bị gãy xương bao nhiêu lần khi tụi em còn bé – rồi xước xát, sứt sẹo.”

Jem dựa sát ghế hơn, mắt chăm chăm nhìn đống lửa. “Là tay tôi bị bỏng có phải hơn
không,” cậu ấy nói.

Will lắc đầu. Mệt mỏi khiến anh cảm nhận mọi điều trong phòng êm dịu hơn, làm mờ
giấy dán tường lòe loẹt thành một màu sẫm duy nhất. “Không. Tay bồ không được bị
bỏng. Chúng là để chơi vĩ cầm. Tôi cần tay để làm gì chứ?”

“Tôi đáng ra phải biết bồ sẽ làm gì,” Jem khẽ nói. “Tôi luôn biết bồ sẽ làm gì. Tôi đáng ra
phải biết bồ sẽ thọc tay vào lửa.”

“Và đáng ra tôi phải biết bồ sẽ ném cái gói đó vào lò,” Will nói, không hề giận dỗi gì hết.
“Đó… đó là điều cao cả rồ dại. Tôi hiểu lí do bồ hành động như vậy.”

“Tôi đang nghĩ đến Tessa.” Jem co chân và tựa cằm lên đầu gối, rồi cười khe khẽ. “Điều
cao cả rồ dại. Đó không phải lĩnh vực chuyên môn của bồ à? Tự nhiên tôi lại là kẻ làm
chuyện ngớ ngẩn và bồ ngăn tôi lại?”

“Chúa ơi,” Will nói. “Chúng ta đổi chỗ từ khi nào vậy?”

Ánh lửa hắt bóng lên tóc và mặt Jem khi cậu ấy lắc đầu. “Tình yêu thật là lạ,” Jem nói.
“Nó thay đổi chúng ta.”

Will cúi nhìn Jem, và cảm xúc của anh lúc này chẳng phải là đố kị hay gì khác, mà là ước
ao được tâm sự với bạn thân, được thổ lộ mọi cảm xúc giữ kín trong lòng. Không phải họ
có cùng một cảm xúc ư? Chẳng phải họ yêu theo cùng một cách, dành tình cảm cho cùng
một người ư? Nhưng anh chỉ nói, “Tôi ước bồ không liều như thế.”

Jem đứng lên. “Tôi luôn ước vậy cho bồ.”

Will nhướng cặp mắt buồn ngủ và mệt mỏi, khiến anh thấy Jem chỉ là một cái bóng
ngược sáng. “Bồ đi à?”

“Ừ, đi ngủ.” Jem khẽ chạm vào bàn tay đã lành của Will. “Nghỉ ngơi đi, Will.”

Mắt Will đã nhắm hờ ngay lúc Jem quay người rời phòng. Anh không nghe tiếng đóng
cửa. Đâu đó ngoài hành lang, Bridget đang hát, át cả tiếng lửa cháy lách tách. Will không
thấy khó chịu như thường lệ, mà cảm giác đó giống một khúc ru mẹ thường hát cho anh
nghe, để đưa anh vào giấc ngủ.

“Cái gì tỏ hơn nắng

Cái gì thẫm hơn đêm?

Cái gì sắc hơn giáo?

Có gì mềm hơn bông?

Sự thật tỏ hơn nắng,

Dối trá thẫm hơn đêm.

Đòn thù sắc hơn giáo,

Và tình mềm hơn bông.”

“Một bài hát đố,” Cecily nói, giọng ngái ngủ. “Em luôn thích những bài kiểu đó. Anh nhớ
cái hồi mẹ hay hát cho chúng ta nghe chứ?”

“Chút chút,” Will thừa nhận. Nếu không quá mệt, chắc anh đã chẳng thèm thừa nhận. Mẹ
hay hát, giọng ca ngập tràn mọi ngóc ngách ngôi nhà, mẹ hát khi bước bên dòng nước
của nhánh sông Mawddach, hoặc giữa đám thủy tiên hoa vàng mọc trong vườn. Llawn
yw’r coed o ddail a blode, llawn o goriad merch wyf inne.

“Em nhớ biển không?” Anh hỏi, cơn mệt mỏi khiến giọng anh nặng hẳn. “Hồ Tal-y-
Llyn? Không có gì xanh như vậy ở Luân Đôn này.”

Anh nghem thấy tiếng Cecily hít một hơi sâu. “Tất nhiên em nhớ. Em tưởng anh quên từ
lâu rồi.”

Những hình ảnh trong giấc mơ thành hình trong mí mắt Will, giấc ngủ ào đến như dòng
thác, kéo anh khỏi bờ biển ngập nắng. “Anh không nghĩ mình có thể đứng dậy khỏi cái
ghế này, Cecy,” anh lẩm bẩm. “Anh sẽ ngủ lại đây tối nay.”

Bàn tay cô đưa lên, lồng vào tay anh. “Vậy em sẽ ở cùng anh,” cô nói, và giọng em gái
anh trở thành một phần của dòng sông mộng cuối cùng cũng cuốn lấy và lôi anh theo.

Gửi: Gabriel và Gideon Lightwood

Từ: Quan Chấp Chính Josiah Wayland


Chú vui mừng khôn xiết khi nhận được thư của các cháu. Hình như chú chưa nói rõ cho
các cháu hiểu. Chú muốn các cháu báo cáo chi tiết trong những lá thư Charlotte gửi họ
hàng và những người tại Idris yêu mến cô ta. Chú không muốn nghe mấy lời ba lăng
nhăng về cô thợ may nào đó. Chú cũng chẳng quan tâm đến cách ăn vận của cô ta hay
thực đơn hằng ngày của các cháu.

Hãy chỉ gửi thư có nội dung liên quan. Chú rất trông chờ một lá thư mang nhiều tính Thợ
Săn Bóng Tối và ít hâm dở hơn.

Nhân danh Raziel,

Quan Chấp Chính Wayland


8

LỬA CỦA LỬA


Ngươi có thể gọi hi vọng – là lửa của lửa!

Bởi nó là cái đau của khát vọng nhân sinh.

– Edgar Allan Poe, Tamerlane

Tessa ngồi trước bàn trang điểm và đờ đẫn chải tóc. Bên ngoài trời lạnh nhưng nồm,
dường như mang theo nước sông Thames, cùng mùi sắt và bụi bặm của thành phố. Kiểu
thời tiết này thường khiến mái tóc dày, xoăn của cô rối ở đoạn đuôi. Chẳng phải cô bận
tâm gì đến chuyện tóc tai, chỉ đơn giản là hành động chải tóc lặp đi lặp lại này cho phép
cô bắt bản thân trấn tĩnh.

Trong đầu cô hết lần này đến lần khác hiện lên vẻ mặt bàng hoàng của Jem khi Charlotte
đọc thư của Mortmain, rồi đôi bàn tay bị bỏng của Will, chút ngân phiến ít ỏi cô gom
được trên sàn. Cô thấy Cecily ôm Will, vẻ sầu não của Jem khi xin lỗi Will, Tôi xin lỗi,
rất rất xin lỗi.

Cô không chịu nổi. Cả hai đều chịu đau đớn, mà cô yêu cả hai. Nguồn cơn nỗi đau của họ
là cô – Mortmain muốn cô cơ mà. Cô là nguyên nhân khiến Jem chẳng còn nguồn cung
ngân phiến, và sự thiểu não của Will. Khi cô quay phắt người rời phòng, ấy là vì cô
không thể chịu đựng lâu hơn. Vì sao ba người họ quan tâm nhiều đến nhau lại khiến nhau
đau đớn đến vậy?

Cô đặt lược xuống và ngắm mình trong gương. Cô mệt mỏi, mắt thâm quầng, trông giống
hệt Will cái hôm anh ngồi cùng cô trong thư viện và giúp Charlotte xử lí đống giấy tờ của
Benedict, dịch một vài đoạn bằng tiếng Hy Lạp, Latin hay Purgatic, cái bút lông ngỗng
lướt nhanh trên giấy, mái đầu đen cúi xuống. Thật lạ khi nhìn Will trong ánh nắng ban
ngày và nhớ lại chàng trai đã ôm cô như thể cô là phao cứu hộ trong dông tố tại thềm nhà
Woolsey. Gương mặt dưới nắng ngày của Will không hề bình thản, cũng chẳng phóng
khoáng, thoải mái. Anh không lạnh nhạt, nhưng chẳng hề ngước lên hay cười với cô hoặc
hành động gì đó cho thấy chuyện tối qua là có thật.

Cô đã muốn kéo anh sang bên và hỏi xem anh có nghe được gì từ Magnus không, và để
nói với anh: Không ai hiểu cảm giác của anh bằng em, và không ai hiểu nỗi niềm của em
bằng anh, vậy sao chúng ta không cùng nhau chia sẻ? Nhưng nếu Magnus đã liên lạc,
Will hẳn đã nói rồi; anh luôn thành thật. Họ đều thành thật. Nhưng lắm khi cô nghĩ, nếu
họ biết dối trá một chút, có lẽ mọi chuyện đã không tồi tệ thế này.

Giờ cô biết mình thật ngu xuẩn khi một mực đòi nộp mình cho Mortmain, nhưng suy
nghĩ đó áp đảo cô mạnh mẽ như một thứ cảm xúc dâng trào. Cô không thể là nguyên
nhân gây ra toàn bộ những chuyện không vui, rồi khoanh tay chẳng làm gì để thay đổi.
Nếu cô nộp mình cho Mortmain, Jem sẽ sống lâu hơn, Jem và Will sẽ có nhau; và chuyện
hẳn sẽ như vậy nếu cô chưa từng đặt chân tới Học Viện.

Nhưng giờ, trong cái lạnh lẽo của buổi đêm, cô biết mình chẳng thể làm gì để quay ngược
thời gian, để xóa đi những cảm xúc tồn tại giữa họ. Cô thấy trống vắng, như thể thiếu đi
một mảnh thuộc về cô, nhưng cũng cảm thấy đờ đẫn. Một phần trong cô muốn chạy đến
bên Will, để xem tay anh đã lành chưa và nói với anh rằng cô hiểu. Nhưng một phần khác
lại giục giã cô lao sang phòng Jem và xin anh tha thứ. Họ chưa từng giận nhau và cô
không biết làm sao để đối phó với một Jem đang giận dữ. Anh có muốn hủy hôn không?
Anh thất vọng về cô chăng? Ý nghĩ Jem sẽ thất vọng về cô khiến cô khó lòng chịu nổi.

Kẹt. Cô ngước lên và nhìn quanh phòng – một tiếng động mơ hồ. Có lẽ cô tưởng tượng ra
chăng? Cô đã mệt rồi; có lẽ đã đến lúc cô gọi Sophie đến giúp cô thay váy, rồi về giường
đọc sách thôi. Cô đang đọc dở cuốn Lâu đài Otranto và thấy đấy là cách tuyệt vời giúp cô
quên đi những phiền muộn.

Cô vừa đứng lên và tới rung chuông gọi người hầu thì tiếng động đó lại vang lên, rõ ràng
hơn trướ. Kẹt, kẹt, ở cửa phòng cô. Hơi run sợ, cô đi ra mở toang cửa.

Church đang nằm thu lu bên kia cửa, bộ lông màu xám xanh rối bù, trông cau kỉnh vô
cùng. Cổ nó đeo một sợi ruy băng buộc một cuộn giấy nho nhỏ. Tessa quỳ xuống, rút cái
nơ ra. Ngay lập tức, con mèo chạy biến đi mất.

Tờ giấy rơi khỏi sợi ruy băng, và Tessa mở ra. Những con chữ quen thuộc chạy trên mặt
giấy.

Gặp anh trong phòng nhạc.

J.

“Hết rồi,” Gabriel nói.


Anh và Gideon đang trong phòng khách. Trời khá tối, rèm lại buông xuống; nếu họ
không mang theo đèn phù thủy, chắc nơi đây phải tối như hũ nút. Gabriel đang vội vàng
lục đống thư từ trên bàn Charlotte lần thứ hai.

“Hết rồi là sao?” Gideon đứng bên cửa nói. “Anh thấy cả chồng thư ở đó cơ mà. Chắc
chắn phải có lá nào…”

“Chẳng có gì hay ho,” Gabriel nói và đóng sầm ngăn bàn lại. “Hay tai tiếng. Có thư gửi
một ông chú nào đấy ở Idris. Hình như ông ta bị gout.”

“Hay đấy,” Gideon lầm bầm.

“Không hiểu Quan Chấp Chính tin Charlotte dính dáng đến chuyện gì nhỉ? Phản bội Hội
Đồng chăng?” Gabriel cầm thếp thư của Charlotte lên và nhăn mặt. “Chúng ta có thể
khiến ông ta tin chị ấy vô tội nếu biết ông ta nghi ngờ điều gì.”

“Anh thì không cho rằng ông ta muốn tin rằng chị ấy vô tội,” Gideon nói. “Anh thấy hình
như ông ta muốn bắt thóp chị ấy hơn.” Anh ấy chìa tay. “Đưa anh lá thư đó.”

“Thư gửi ông chú hả?” Gabriel ngờ vực, nhưng vẫn làm theo. Anh giơ cao đèn phù thủy,
để ánh sáng chiếu xuống bàn khi Gideon cúi đầu, trưng dụng bút của Charlotte để thảo
một lá thư gửi Quan Chấp Chính.

Gideon đang thổi cho khô mực thì cửa phòng khách mở. Gideon giật nẩy mình. Ánh sáng
vàng rọi vào phòng, sáng hơn nhiều so với đá phù thủy; Gabriel giơ tay che mắt, chớp
chớp. Anh nghĩ mình nên dùng chữ rune Dạ nhãn mới phải, nhưng phải mất thời gian cái
đó mới mất tác dụng và anh không muốn bị nghi ngờ. Ngay khi mắt quen với luồng sáng
mới, anh nghe thấy giọng anh mình hoảng hốt kêu lên:

“Sophie?”

“Tôi đã bảo anh đừng gọi tôi như vậy rồi mà, anh Lightwood.” Giọng cô lạnh tanh.
Gabriel đã nhìn được, và anh thấy cô hầu gái đứng tại cửa, tay cầm một ngọn đèn sáng.
Cô đang nheo mắt. Mắt cô nheo tít lại khi thấy Gabriel cầm thư của Charlotte. “Hai anh –
Đấy là thư của cô Branwell?”

Gabriel vội vàng bỏ thư xuống bàn. “Tôi… Chúng tôi…”

“Hai anh đọc thư của cô chủ?” Sophie trông bực tức, như kiểu một nữ thần báo thù, với
ngọn đèn trong tay. Gabriel vội nhìn anh trai, nhưng Gideon có vẻ hoảng đến không thốt
nổi nên lời.
Trong đời Gabriel chưa từng nhớ có khi nào thấy anh mình để mắt tới một cô nàng Thợ
Săn Bóng Tối dù có xinh đến đâu đi nữa đến lần thứ hai. Nhưng anh ấy đang nhìn cô
người hầu mặt sẹo này như thể cô là vầng thái dương vừa ló dạng. Điều đó thật khó giải
thích, nhưng là không thể chối cãi. Anh có thể thấy vẻ hoảng sợ trên gương mặt anh trai
khi thiện cảm của Sophie với anh ấy đang vỡ tan tành ngay trước mắt.

“Đúng,” Gabriel nói. “Đúng, chúng tôi quả là đang xem thư của cô ấy.”

Sophie lùi một bước. “Tôi sẽ đưa cô Branwell tới ngay…”

“Đừng…” Gabriel giơ tay. “Không phải như cô nghĩ đâu. Đợi đã.” Anh kể vắn tắt mọi
chuyện: lời đe dọa của Quan Chấp Chính, yêu cầu giám sát Charlotte, và giải pháp của
họ. “Chúng tôi chưa từng có ý định tiết lộ một chữ nào cô ấy viết,” anh nói hết. “Chúng
tôi muốn bảo vệ cô ấy.”

Vẻ ngờ vực của Sophie vẫn chưa biến mất. “Và sao tôi phải tin một chữ nào của anh, anh
Lightwood?”

Cuối cùng Gideon cũng lên tiếng. “Cô Collins,” anh ấy nói. “Làm ơn. Tôi biết rằng sau…
chuyện không may… với đống bánh nướng, cô không còn tin tưởng tôi, nhưng làm ơn
hãy tin rằng tôi không hề phản bội lòng tin của Charlotte với tôi, tôi không hề lấy oán báo
ân.”

Sophie đắn đo một chút, rồi cụp mắt. “Tôi xin lỗi, anh Lightwood. Tôi ước mình tin được
anh, nhưng trước hết tôi phải trung thành với cô Branwell đã.”

Gabriel cầm phắt lá thư anh trai vừa viết lên. “Cô Collins,” anh nói. “Làm ơn đọc bức thư
này. Chúng tôi định gửi nó cho Quan Chấp Chính. Nếu sau khi đọc xong cô vẫn quyết đi
tìm cô Branwell, chúng tôi sẽ không ngăn cản cô.”

Sophie nhìn từ anh sang Gideon. Rồi nghiêng đầu, cô tiến đến và đặt đèn xuống bàn.
Nhận lá thư từ tay Gideon, cô mở ra và đọc lớn:

“Gửi: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Từ: Gideon và Gabriel Lightwood

Thưa chú,

Chú một lần nữa cho chúng cháu thấy sự thông thái của chú khi yêu cầu chúng cháu đọc
các lá thư cô Branwell gửi Idris. Chúng cháu đã xem những thư phúc đáp và nhận thấy
cô ta thường xuyên liên lạc với ông chú Roderick Fairchild.
Thưa chú, nội dung những bức thư này rất kinh khủng và sẽ khiến chú thất vọng. Đọc
xong chúng cháu còn chẳng mấy tin vào bình đẳng giới nữa.

Cô Branwell thể hiện thái độ vô cảm, vô tâm và chẳng dịu dàng gì với những căn bệnh
ông chú mắc phải. Cô ta đề nghị ông ấy dùng ít rượu đi để khỏi bệnh gout, cho thấy dấu
hiệu không lẫn vào đâu được rằng cô ta sung sướng trước tình trạng bệnh tật phù nề kinh
khủng, và hoàn toàn lờ tảng chuyện ông ấy có nhắc đến những vật chất đáng ngờ mọc
trong tai và mồm, mũi.

Chúng cháu không hề thấy cô ta thể hiện chút dịu dàng nào người ta vẫn mong chờ từ
một người phụ nữ đối với những người bà con nam giới, và sự tôn trọng mà bất kì người
phụ nữ trẻ nào cũng phải có dành cho trưởng bối. Chúng cháu e rằng cô Branwell quá
say men quyền lực. Phải có ai đó ngăn cô ta lại trước khi quá muộn và rất nhiều Thợ Săn
Bóng Tối dũng cảm hẳn sẽ ngã xuống vì không nhận được sự quan tâm chăm sóc dịu
dàng.

Chân thành,

Gideon và Gabriel Lightwood

Mọi người im lặng sau khi cô đọc xong. Sophie đứng đó tưởng như mãi mãi, trợn mắt
nhìn tờ giấy. Cuối cùng cô nói, “Ai viết?”

Gideon hắng giọng. “Tôi.”

Cô ngước lên. Cô mím môi, nhưng chúng đang run run. Trong giây phút hoảng hốt,
Gabriel nghĩ cô sắp khóc. “Ôi, lạy Chúa,” cô nói. “Và đây là bức đầu tiên?”

“Không, còn một bức khác gửi trước rồi,” Gabriel thừa nhận. “Về đống mũ mão của
Charlotte.”

“Mũ của cô chủ?” Sophie bật cười, và Gideon nhìn cô như thể anh chưa từng thấy gì
tuyệt diệu đến vậy. Gabriel phải thừa nhận trông cô cũng khá xinh khi cười, và vết sẹo
chẳng ảnh hưởng gì tới nhan sắc cô lúc đó. “Và Quan Chấp Chính có nổi cơn tam bành
không?”

“Sẵn sàng giết người ấy chứ,” Gideon nói.

“Vậy cô có định báo với cô Branwell không?” Gabriel hỏi, vì không thể chịu đựng cảm
giác căng thẳng này lâu thêm.
Sophie ngừng cười. “Không,” cô nói, “vì tôi không muốn làm hại các anh trong mắt
Quan Chấp Chính, và hơn nữa, tôi nghĩ tin này sẽ làm cô chủ đau lòng. Lão chết tiệt đó
lại dám thậm thụt theo dõi cô ấy chứ!” Ánh mắt cô sáng lên. “Nếu các anh cần người
giúp phá thối âm mưu của Quan Chấp Chính, tôi sẵn lòng giúp. Giờ đưa tôi lá thư, và mai
tôi đi gửi cho.”

Phòng nhạc không còn bụi bặm như Tessa vẫn nhớ – nó trông như mới được lau dọn; gỗ
khung cửa sổ và sàn nhà sáng bóng, cây đại dương cầm ở góc phòng cũng vậy. Lửa bập
bùng trong lò sưởi, tỏa ánh sáng bao viền thân hình Jem khi anh ngoái đầu, nhìn cô và
cười ngỏn nghẻn.

Mọi thứ trong căn phòng đều toát lên vẻ nhẹ nhàng, nhàn nhạt như màu nước – ánh lửa
thổi hồn vào những nhạc cụ được phủ vải trắng khiến chúng như những hồn ma, sắc đen
bóng của đàn dương cầm, ngọn lửa hắt ánh sáng vàng in lên kính cửa sổ. Cô còn thấy cả
mình và Jem đối diện nhau: cô gái mặc bộ váy màu xanh đen, chàng trai gầy gò tóc bạc,
mặc chiếc áo khoác đen hơi rộng so với thân hình mảnh khảnh.

Gương mặt anh trong bóng tối mang nét yếu đuối, đôi môi mềm hằn vẻ lo lắng. “Anh cứ
lo em không tới.”

Nghe đến đó, cô bước một bước, muốn ôm chầm lấy anh, nhưng rồi kiềm chế. Cô phải
nói chuyện trước đã. “Tất nhiên em sẽ đến,” cô nói. “Jem, em rất xin lỗi. Rất, rất xin lỗi.
Em không giải thích được – em như hóa rồ ấy. Em không thể chịu nổi ý nghĩ anh bị tổn
hại gì vì em, vì không hiểu sao em lại có liên hệ với Mortmain.”

“Đấy không phải lỗi của em. Em đâu có lựa chọn điều đó…”

“Em không hiểu. Will nói đúng; Mortmain không đáng tin. Kể cả cho em có nộp mình
cho ông ta, cũng chẳng có gì đảm bảo ông ta sẽ thực hiện đúng cam kết. Và em sẽ đặt vũ
khí vào tay kẻ thù của anh. Em không biết ông ta định làm gì với em, nhưng chắc chắn
chẳng tốt lành gì cho Thợ Săn Bóng Tối; cái đó chúng ta có thể chắc. Rồi biết đâu hóa ra
cuối cùng em lại làm hại mọi người.” Mắt Tessa cay cay, nhưng cô cố không khóc. “Hãy
tha thứ cho em, Jem. Chúng ta không nên lãng phí thời gian bên nhau cho những màn
giận dỗi. Em hiểu lí do anh làm vậy – sau những hành động của em.”

Đôi mắt anh dịu lại và bàng bạc khi cô nói. “Zhe shi jie shang, wo shi zui ai ne de,” anh
khẽ thì thầm.

Cô hiểu. Em là người anh yêu nhất trên thế gian này.


“Jem…”

“Em biết mà; em phải biết. Anh không bao giờ có thể để em rời xa anh, để dấn thân vào
nguy hiểm khi anh còn một hơi thở.” Anh giơ tay lên, trước khi cô kịp tiến thêm bước
nào về phía anh. “Đợi đã.” Anh cúi xuống, và khi đứng lên, anh đang cầm hộp đàn vĩ
cầm và cây vĩ. “Anh… Có cái này anh muốn tặng em. Một món quà cưới, khi chúng ta
kết hôn. Nhưng giờ anh muốn trao cho em, nếu em đồng ý.”

“Quà?” Cô ngạc nhiên. “Sau khi… Nhưng chúng ta vừa cãi vã mà!”

Anh nở một nụ cười đẹp làm cả gương mặt anh bừng sáng, khiến cô quên mất anh gầy và
hốc hác thế nào. “Nghe nói đấy là một phần không thể thiếu trong mọi cuộc hôn nhân thì
phải. Chúng ta coi như thực tập trước đi.”

“Nhưng…”

“Tessa, em tưởng rằng có tồn tại một trận cãi vã nào, dù lớn hay nhỏ, có thể làm anh
ngừng yêu em sao?” Anh có vẻ ngạc nhiên, và cô đột nhiên nghĩ đến Will, những năm
tháng Will thử thách tình bạn của Jem, khiến anh phát điên vì những lời nói dối, lẩn tránh
và tự hại mình, ấy vậy mà qua bao nhiêu chuyện như thế, tình cảm của Jem dành cho
người anh em kết nghĩa vẫn không hề sứt mẻ, hay giảm sút.

“Em sợ,” cô nói khẽ. “Và em… em không có quà tặng anh.”

“Không, em có đó.” Anh nói nhỏ nhưng chắc chắn. “Ngồi xuống đi nào, Tessa. Em còn
nhớ chúng ta gặp nhau như thế nào không?”

Tessa ngồi trên một chiếc ghế thấp có tay mạ vàng, cái váy nhăn lại quanh cô. “Em xông
vào phòng anh lúc nửa đêm nửa hôm như một mụ điên.”

Jem cười tươi. “Em duyên dáng bước vào phòng anh và thấy anh đang chơi vĩ cầm.” Anh
đang siết lại ốc trên cây vĩ; xong xuôi, anh đặt nó xuống và dịu dàng lấy cây vĩ cầm ra
khỏi hộp. “Em không phiền nếu giờ anh chơi nhạc cho em nghe chứ?”

“Anh biết em thích nghe anh đàn mà.” Cô nói thực lòng. Cô còn thích nghe anh nói về vĩ
cầm, dù cô chẳng hiểu mấy về nó. Cô có thể nghe anh say sưa huyên thuyên hàng giờ về
nhựa cô-lô-phan, núm lên dây đàn, cuộn xoắn ốc, kĩ thuật kéo vĩ, cách bấm dây, và cách
vuốt dây la mà không chán.
“Wo wei ni xie de8,” anh nói khi kê đàn lên vai trái và kẹp dưới cằm. Anh đã bảo cô rằng
rất nhiều nghệ sĩ vĩ cầm dùng miếng kê vai, nhưng anh thì không. Anh có một vết trông
như vết bớt ở cổ, do tì đàn.

“Anh… tạo ra gì đó cho em?”

“Anh sáng tác gì đó cho em,” anh sửa lại, và bắt đầu chơi.

Cô ngạc nhiên quan sát. Anh bắt đầu một cách đơn giản, nhẹ nhàng, tay nắm hờ cây vĩ,
tạo ra những âm thanh êm tai dịu ngọt. Tiếng nhạc vọng tới, ngọt ngào và mát lành như
nước, ngập tràn hi vọng và đáng yêu như bình minh. Cô sung sướng ngắm nhìn những
ngón tay anh di chuyển và những nốt nhạc tinh tế vang ra từ cây đàn. Âm thanh trầm dần
khi cây vĩ di chuyển nhanh hơn, cẳng tay Jem đánh lên xuống, cơ thể gầy gò của anh
dường như nhòa nhạt vào cử động từ vai. Những ngón tay anh nhẹ nhàng trượt lên xuống,
và âm vực trầm dần, như đám mây dông hợp tại đường chân trời sáng rỡ, như dòng sông
trở thành thác lũ. Những nốt nhạc đổ xuống chân cô, bay lên ôm ấp cô; cả cơ thể Jem
dường như di chuyển trong tiếng nhạc anh tạo ra, dù cô biết chân anh tì chặt xuống sàn.

Tim cô đập thình thịch để bắt kịp tiếng nhạc; mắt Jem nhắm, khóe miệng anh trễ xuống
như thể anh đang đau đớn. Một phần trong cô muốn đứng lên, muốn vòng tay ôm anh;
phần khác lại không muốn làm gì để ngừng tiếng nhạc dịu ngọt êm ái kia. Như thể anh đã
dùng vi làm chổi vẽ để tạo ra một bức tranh thể hiện rõ tâm hồn anh. Khi những nốt nhạc
cuối cùng lên cao và cao hơn nữa, lên tới tận cõi thiên thai, Tessa biết mặt mình ươn ướt,
nhưng chỉ khi tiếng nhạc nhỏ dần và anh hạ cây đàn xuống, cô mới nhận ra mình đã khóc.

Jem từ từ đặt đàn trở vào hộp và đặt cây vĩ cạnh bên. Anh đứng thẳng và quay mặt nhìn
cô. Anh có vẻ xấu hổ, dù cái áo trắng ướt đẫm mồ hôi và mạch cổ anh đập gấp gáp.

Tessa không nói nên lời.

“Em thích chứ?” Anh nói. “Anh có thể tặng em… trang sức, nhưng anh muốn một thứ gì
đó hoàn toàn thuộc về em. Một thứ không ai khác được nghe hay sở hữu. Anh lại không
giỏi ăn nói, vì thế anh dồn cảm xúc mình dành cho em vào nhạc.” Anh dừng lại. “Em
thích chứ?” Anh lại hỏi, với kiểu nói hạ giọng ở cuối câu, cho thấy anh đang chờ đợi một
lời chê bôi.

Tessa ngẩng đầu để anh thấy nước mắt trên gương mặt cô. “Jem.”

8
Anh vì em mà viết ra nó.
Anh quỳ xuống trước cô, gương mặt toàn ăn năn hối lỗi. “Ni jue de tong man, qin ai
de9?”

“Không, không,” cô nói, vừa khóc vừa cười. “Em không đau. Em không hề không hạnh
phúc. Không hề.”

Một nụ cười nở trên gương mặt anh, làm đôi mắt anh sáng niềm hân hoan. “Vậy là em
thích.”

“Em có cảm giác mình trông thấy hồn anh trong những nốt nhạc. Và nó rất đẹp.” Cô cúi
người và chạm nhẹ vào mặt anh, làn da trơn láng trên đôi gò má cao, mái tóc mượt như
lông vũ lướt qua mu bàn tay cô. “Em thấy dòng sông, thuyền chở hoa và màu trời đêm.”

Jem thở ra một hơi và ngồi phịch xuống cạnh ghế của cô như thể sức lực đã lìa bỏ anh.
“Đó là một thứ phép màu hiếm hoi,” anh nói. Anh dựa đầu vào người cô, thái dương áp
vào đầu gối cô, và cô tiếp tục vuốt tóc anh, để những ngón tay cảm nhận sự mềm mại của
nó. “Bố mẹ anh đều yêu nhạc,” anh đột nhiên nói. “Bố anh chơi vĩ cầm, mẹ anh chơi thất
huyền cầm. Anh chọn chơi vĩ cầm, dù có thể chọn học chơi nhạc cụ kia. Đôi lúc anh thấy
tiếc, vì có một số làn điệu Trung Hoa không thể chơi được trên vĩ cầm, và mẹ hẳn sẽ rất
thích anh học chơi. Mẹ thường kể cho anh nghe chuyện Bá Nha, nổi tiếng với ngón đàn
thất huyền cầm một thời. Ông có người bạn tâm giao là tiều phu Tử Kì, và thường chơi
đàn cho người kia nghe. Tương truyền khi Bá Nha đàn một khúc sông nước, Tử Kì liền
biết ngay rằng ông đang tả cảnh nước chảy cuồn cuộn, và khi ông chơi khúc ca ngợi cảnh
núi non, bạn ông liền thấy những đỉnh núi. Và Bá Nha bảo, ‘Đó là vì các hạ hiểu nhạc của
ta.’” Jem nhìn tay mình, đang co lại đặt trên đầu gối. “Người Trung Hoa thường dùng từ
‘tri âm’ để chỉ ‘bạn thân’ hoặc ‘bạn tâm giao’, nhưng thực ra nghĩa của từ đó là ‘hiểu
nhạc.’” Anh đưa tay nắm tay cô. “Khi anh đàn, em thấy cái anh thấy. Em hiểu nhạc
anh10.”

“Em chẳng biết gì về nhạc, Jem. Em không phân biệt được bản xô-nát và tổ khúc…”

“Không.” Anh quay lại, quỳ trên gối, ôm tay ghế cô. Họ gần nhau tới độ cô nhìn thấy rõ
tóc anh mướt mồ hôi bết vào cổ và thái dương, ngửi được mùi cô-lô-phan và đường cháy
nơi anh. “Anh không muốn nói tới kiểu nhạc đó. Anh muốn nói…” Anh bực bội kêu một
tiếng, nắm tay cô và áp lên ngực anh, trái tim anh. Nhịp tim đều đặn truyền vào lòng bàn
tay cô. “Mọi trái tim đều có giai điệu của riêng nó,” anh nói. “Em hiểu giai điệu của anh.”

9
Em đau sao, em yêu?
10
Câu này lấy ý từ câu Bá Nha nói với Tử Kì rằng, “Giỏi thay! Các hạ có thể nghe thấu cái chí thú trong khúc nhạc,
ý của các hạ cũng là ý của ta vậy.”
“Rồi sau đó vị cầm giả và người tiều phu kia ra sao?” Tessa thì thầm hỏi.

Jem cười buồn. “Tử Kì chết, và Bá Nha đàn khúc nhạc cuối cùng bên mộ bạn. Rồi ông
đập vỡ cây thất huyền cầm và không bao giờ chơi đàn nữa.”

Tessa thấy lệ nóng trong mắt, và cô cố ép nước mắt chảy ngược vào trong. “Một câu
chuyện bi thảm.”

“Thế sao?” Tim Jem trễ một nhịp và đập dồn dưới tay cô. “Khi Bá Nha còn sống và hai
người là bạn, ông đã viết một vài trong số những bản nhạc hay nhất chúng ta từng biết.
Liệu nếu một mình, ông có sáng tác được chăng? Tessa, trái tim ta cần có một tấm gương
để soi nó. Chúng ta thấy phần tốt đẹp hơn của mình trong mắt người yêu thương ta. Và có
một vẻ đẹp mà chỉ có cuộc sống ngắn ngủi mới tạo ra.” Anh cụp mắt, rồi ngước lên nhìn
cô. “Anh sẽ trao cả con người anh cho em,” anh nói. “Anh sẽ trao cho em hai tuần đáng
giá hơn những gì những người đàn ông khác trao cho em trong cả đời.”

“Chẳng có gì mà anh chưa trao em hết, em chẳng hề không hài lòng với…”

“Anh có,” anh nói. “Anh muốn cưới em. Anh sẽ đợi em mãi mãi, nhưng…”

Nhưng chúng ta không có mãi mãi. “Em không có gia đình,” Tessa chầm chậm nói, mắt
nhìn sâu vào mắt anh. “Không người giám hộ. Không ai… phiền lòng… nếu em cưới gấp
hơn.”

Mắt Jem mở to hơn một chút. “Anh… em thật lòng chứ? Anh không muốn em không có
thời gian cần để chuẩn bị.”

“Anh nghĩ em cần chuẩn bị gì nào?” Tessa nói, và chỉ trong một thoáng thôi, đầu óc cô
lại nghĩ về Will, cách anh thọc tay vào lửa để cứu thuốc của Jem, và khi ấy, lúc quan sát
Will, cô không thể nào không nhớ lại cái ngày trong phòng khách, khi anh nói yêu cô, và
khi anh bỏ đi, cô đã cầm chặt thanh cời lò, để cảm giác bỏng rát đau đớn trên xác thịt
giúp cô quên đi nỗi đau trong tim, dù chỉ là trong một thoáng ngắn ngủi.

Will. Hôm ấy cô đã nói dối – nói vậy không đúng, cô chỉ nói bóng gió. Cô đã để anh nghĩ
rằng cô không yêu anh. Ý nghĩ ấy vẫn khiến cô đau lòng, nhưng cô không hối hận. Chẳng
còn cách nào khác. Cô biết rõ Will, thành ra thừa hiểu rằng dù cho cô có chia tay Jem,
anh cũng sẽ không ở bên cô. Anh không chịu nổi một tình yêu đánh đổi bằng hạnh phúc
của parabatai. Và nếu có một phần nào đó trong tim cô thuộc về Will và mãi mãi chỉ
mình Will, cô sẽ không để ai phát hiện ra. Cô cũng yêu Jem – giờ tình cảm ấy còn mãnh
liệt hơn hồi cô nhận lời đính ước cùng anh.
Đôi lúc người ta phải chọn giữa tử tế và danh dự, Will đã nói vậy. Đôi lúc chúng ta
không thể có cả hai.

Có lẽ nó thực sự phụ thuộc vào cuốn sách, cô nghĩ. Nhưng ở đây, trong cuốn sách về đời
cô, cách mất danh dự chỉ là không tử tế. Kể cả nếu cô làm tổn thương Will trong phòng
khách, qua thời gian tình cảm anh dành cho cô sẽ phai nhạt, rồi có ngày anh sẽ cảm ơn cô
đã để anh tự do. Cô tin vậy. Anh không thể mãi yêu cô.

Cô đã đặt chân trên con đường này từ lâu. Nếu cô muốn đi theo nó trong tháng tới, vậy cô
phải đi qua ngày mai đã. Cô biết cô yêu Jem, và dù một phần trong cô cũng yêu Will,
nhưng đây là món quà tốt nhất cô trao tặng cả hai, nhưng Will và Jem đều không được
biết đến nó.

“Anh không biết,” Jem nói và ngước lên nhìn cô, vẻ mặt vừa hi vọng vừa không tin. “Hội
Đồng vẫn chưa đồng ý… và em chưa có váy cưới…”

“Em không quan tâm đến Hội Đồng. Và em chẳng quan tâm mình mặc gì, miễn là anh
không để ý. Jem, em sẽ kết hôn với anh bất cứ khi nào anh muốn.”

“Tessa,” anh thở một hơi. Anh vươn tay về phía cô như người chết đuối vớ được cọc, và
cô cúi đầu hôn nhẹ lên môi anh. Anh hôn phớt cô một, rồi hai lần, tới khi môi cô hé mở
và cô nếm thấy vị ngòn ngọt của đường cháy. “Em quá xa xôi,” anh thì thầm, rồi tay anh
ôm cô, và chẳng còn khoảng cách nào giữa họ khi anh kéo cô xuống ghế, họ cùng nhau
quỳ trên sàn, tay vòng ôm lấy nhau.

Anh ôm cô thật chặt, và tay cô vuốt ve gương mặt anh, đôi gò má cao. Quá cao, quá rõ
ràng, xương mặt anh, nhịp máu chảy quá gần da, xương quai xanh cứng như cái vòng cổ
kim loại.

Tay anh vuốt ngược từ eo lên vai cô; môi anh lướt trên xương quai xanh của cô, hõm cổ,
khi những ngón tay cô xoắn áo anh, kéo lên để lòng bàn tay cô áp vào da anh. Anh quá
gầy, tay cô còn sờ rõ xương sống của anh. Anh ngồi ngược sáng, và cô có thể thấy ánh
lửa và bóng tối nhảy nhót trên gương mặt anh, lửa nhuộm sắc vàng cho mái tóc Jem.

Anh yêu em, anh đã nói vậy. Anh yêu em nhất thế gian này.

Cô cảm nhận được đôi môi nóng bỏng của anh áp vào hõm cổ cô, rồi xuống thấp hơn.
Những nụ hôn của anh kết thúc ở nơi lớp váy áo bắt đầu. Cô cảm nhận được nhịp tim
mình dưới môi anh, như thể nó cố vươn tới anh, cố đập vì anh. Cô cảm nhận bàn tay anh
ngượng ngập vuốt lên cơ thể cô, xuống tới dây thắt váy.
Cửa cọt kẹt mở, và họ vội vàng tách nhau ra, cả hai đều thở dốc như vừa chạy nước rút.
Tessa nghe tiếng máu chảy rần rần trong tai khi cô nhìn ra ngoài cửa chẳng có bóng dáng
ai. Bên cạnh cô, Jem đã chuyển từ thở dốc sang cười khanh khách.

“Cái gì…” cô cất tiếng.

“Church,” anh nói, và Tessa nhìn xuống, thấy con mèo nhàn nhã bước trong phòng nhạc.
Chính nó đã đẩy cửa mở, và hiện trông rất ư chảnh chọe.

“Em chưa từng thấy con mèo nào trông chảnh chọe thế,” cô nói khi Church – vẫn phớt lờ
cô như mọi khi – lon ton chạy tới bên Jem và dụi đầu vào người anh.

“Khi anh nói có lẽ chúng ta cần người giám hộ, anh không hề nghĩ tới chuyện này,” Jem
nói, nhưng vẫn gãi đầu con mèo, và nhếch mép cười với cô. “Tessa,” anh nói. “Em thật
lòng chứ? Khi nói sẽ kết hôn cùng anh ngay ngày mai ấy?”

Cô ngẩng đầu và nhìn thẳng vào mắt anh. Cô không thể chịu nổi ý nghĩ chờ đợi và phí
phạm thêm một tích tắc nào của đời anh. Cô đột nhiên và cực kì muốn được bện đời mình
với anh – cùng anh trải qua ốm đau, bệnh tật, qua mọi thăng trầm của đời người – ràng
buộc với anh bởi lời thề nguyền và tình yêu mà không cần kìm giữ lại.

“Vâng.”

Khi Jem thông báo thì phòng ăn chưa đông lắm, vì mọi người chưa xuống ăn sáng đông
đủ.

“Tessa và tôi sẽ kết hôn,” anh nói rất bình tĩnh khi đặt cái khăn xuống đùi.

“Tin này là tin bất ngờ hả?” Gabriel hỏi; anh ta mặc đồ đi săn như thể định luyện tập
ngay sau bữa sáng. Anh ta đã lấy sạch thịt hun khói, và bị Henry ai oán nhìn. “Không
phải hai người đã đính hôn rồi sao?”

“Chúng tôi vốn định sẽ tổ chức vào tháng mười hai,” Jem nói và đưa tay xuống dưới bàn
nắm tay Tessa để trấn an. “Nhưng đã thay đổi quyết định. Chúng tôi dự định sẽ kết hôn
vào ngày mai.”

Tin tức khiến mọi người kích động vô cùng. Henry sặc trà và Charlotte phải vỗ lưng cho
anh, nhưng chính chị trông cũng như sốc tới không nói nổi nên lời. Gideon đặt tách
xuống đĩa đánh cạch, kể cả Gabriel cũng ngừng đưa dĩa lên miệng. Sophie, vừa từ bếp
vào bê theo một ổ bánh mì, kêu lên một tiếng. “Không thể!” Cô ấy nói. “Váy cưới của cô
Gray bị rách rồi, còn chiếc mới lại chưa may!”

“Cô ấy mặc váy nào cũng được,” Jem nói, “nhưng không cần mặc màu vàng, vì cô ấy
không phải Thợ Săn Bóng Tối. Tessa có mấy chiếc váy đẹp; cô ấy cứ chọn cái nào mình
thích nhất là được.” Anh ngượng ngập nghiêng đầu nhìn Tessa. “Nếu em thấy ổn.”

Tessa không đáp, đúng lúc đó Will cùng Cecily vừa tới cửa. “Ôi cổ em bị ngoẹo rồi,”
Cecily vừa cười vừa nói. “Không thể tin được là em có thể ngủ được trong tư thế đó…”

Cô ấy ngừng nói khi cả hai anh em hình như cảm nhận được bầu không khí trong phòng
và dừng lại, liếc nhìn xung quanh. Will có vẻ thoải mái hơn so với ngày hôm trước, và
hài lòng khi có Cecily bên cạnh, dù tâm trạng tốt đó rõ ràng đã bốc hơi ngay khi anh nhìn
thấy vẻ mặt những người khác trong phòng. “Có chuyện gì thế?” Anh hỏi.

“Tessa và tôi vừa quyết định dời ngày cưới,” Jem nói. “Sẽ vào vài ngày tới đây.”

Will không nói gì, và thái độ không hề thay đổi, nhưng mặt anh trắng bệch. Anh không
nhìn Tessa.

“Jem, còn Clave,” Charlotte nói, dừng vỗ lưng Henry và đứng lên. Gương mặt chị đượm
vẻ lo âu. “Họ chưa tán thành chuyện kết hôn của em. Em không thể chống đối họ…”

“Bọn em cũng không thể đợi họ,” Jem nói. “Họ có thể dùng dằng nhiều tháng, có khi cả
năm – mà chị cũng thừa biết họ thích trì hoãn hơn là đưa ra đáp án họ e chị sẽ không
thích.”

“Và giờ hôn nhân của bọn em không phải quan tâm hàng đầu của họ,” Tessa nói. “Đống
giấy tờ của Benedict Lightwood, tìm kiếm Mortmain – đấy mới là ưu tiên. Còn đây là
vấn đề cá nhân.”

“Clave chẳng coi chuyện gì là vấn đề cá nhân hết,” Will nói. Giọng anh nghe trống rỗng
và kì lạ, như anh ở rất xa. Mạch cổ anh đập rộn. Tessa nghĩ tới mối quan hệ hòa hảo giữa
họ trong vài ngày qua và tự hỏi liệu tin này có hủy diệt nó, đập tan nó thành hàng ngàn
mảnh như khi ta đập chiếc đĩa sứ mỏng manh vào đá không. “Bố mẹ anh…”

“Clave có quy định luật về chuyện kết hôn với người phàm. Nhưng chẳng có luật nào
cấm đoán Nephilim kết hôn với một người như Tessa. Nếu ép tôi quá, tôi sẽ hành động
như bố của bồ. Tôi sẽ từ bỏ thân phận Thợ Săn Bóng Tối.”

“James…”
“Tôi những tưởng bồ, hơn ai hết, sẽ hiểu,” Jem nói, và ánh mắt anh nhìn Will vừa bối rối
vừa đau đớn.

“Tôi không nói mình không hiểu. Tôi chỉ muốn bồ suy nghĩ…”

“Tôi nghĩ rồi,” Jem ngả lưng ra ghế. “Tôi đã có giấy đăng kí của người phàm, được kí
nhận hợp pháp. Chúng tôi có thể đi vào nhà thờ và kết hôn ngay hôm nay. Tôi rất muốn
mọi người đều có mặt, nhưng nếu không được, chúng tôi vẫn sẽ cưới.”

“Kết hôn với một cô gái chỉ để biến cô ta thành góa phụ,” Gabriel Lightwood nói. “Nhiều
người sẽ nói hành động đó không hề tốt chút nào.”

Jem sững sờ bên cạnh Tessa, tay đờ ra trong tay cô. Will định xông tới, nhưng Tessa đã
đứng lên và nhìn xoáy vào Gabriel Lightwood.

“Tôi cấm anh nói như thể Jem được toàn quyền lựa chọn còn tôi thì không,” cô nói và
không hề dời mắt khỏi gương mặt anh ta. “Tôi chẳng bị ai ép uổng, và cũng không hề ảo
tưởng gì về sức khỏe của Jem. Tôi chọn ở bên anh ấy dù là bao nhiêu ngày hay bao nhiêu
phút chúng tôi được ban, và đấy là phúc phận của tôi.”

Mắt Gabriel lạnh như biển ngoài khơi Newfoundland. “Tôi chỉ lo cho cô thôi, cô Gray.”

“Anh đi mà lo cho thân mình,” Tessa gắt.

Giờ đôi mắt xanh lá nheo lại. “Ý cô là?”

“Tôi tin quý cô đây muốn nói,” Will dài giọng, “rằng cô ấy không hề giết bố mình. Hay
vì anh vượt qua cú sốc đó quá nhanh nên chúng tôi không cần lo cho cảm giác của anh,
hả Gabriel?”

Cecily kêu khẽ một tiếng. Gabriel đứng lên và nhìn nét mặt anh ta, Tessa lại thấy chàng
trai đã thách đấu một chọi một với Will ngay lần đầu tiên cô gặp – một kẻ ngạo mạn,
cứng nhắc, và đáng ghét. “Nếu cậu còn dám…” anh ta nói.

“Ngưng ngay,” Charlotte nói – và rồi ngừng lại khi từ ngoài cửa sổ vọng vào tiếng cánh
cổng gỉ sét của Học Viện cọt kẹt mở và tiếng vó ngựa nện lộp cộp xuống đường. “Ôi, lạy
Thiên Thần. Jessamine.” Charlotte vội vàng đứng dậy và thảy khăn ăn xuống đĩa. “Đi
nào, chúng ta phải xuống đón con bé.”

Hóa ra lắm khi một chuyến đi không đúng thời điểm lại là một đòn đánh lạc hướng tuyệt
hảo. Mọi người ồn ào huyên náo, Gabriel và Cecily bối rối, vì cả hai không mấy rõ
Jessamine là ai hay cô ta đóng vai trò gì trong cuộc sống tại Học Viện. Họ lộn xộn đi
xuống hành lang, Tessa đi chậm lại một chút; cô thấy khó ở, như thể áo lót bị thắt quá
chặt. Cô nghĩ đến đêm trước đã ôm Jem trong phòng nhạc khi họ hôn và thì thầm hàng
giờ liền về ngày cưới, về hôn nhân – như thể họ sẽ sống cùng trời đất. Như thể hôn nhân
sẽ ban cho anh cuộc đời bất tử, dù cô biết sự thật chẳng được như họ mong muốn.

Khi cô bước xuống cầu thang ra sảnh chính, vì mải suy nghĩ nên cô bị vấp. Một bàn tay
kéo cô đứng vững. Cô ngước lên, và thấy Will.

Họ đứng đó một lúc, sững lại như tượng. Những người khác đã xuống cầu thang, âm
thanh vang lên như khói bốc cao. Tay Will đặt hờ trên cánh tay Tessa, gương mặt anh
gần như vô cảm, như được tạc từ đá hoa cương. “Anh đồng tình với những người còn lại,
phải không?” Cô hỏi, gay gắt hơn ý định. “Rằng em không nên kết hôn cùng Jem vào
hôm nay. Anh đã hỏi em rằng em có yêu anh ấy nhiều tới độ muốn kết hôn và khiến anh
ấy hạnh phúc, và em đã trả lời rằng có. Em không biết mình có thể khiến anh ấy hạnh
phúc trọn vẹn hay không, nhưng em sẽ cố.”

“Nếu có ai có thể làm điều ấy, người đó là em,” anh nói, mắt nhìn xoáy vào mắt cô.

“Những người khác nghĩ em ảo tưởng về sức khỏe của anh ấy.”

“Hi vọng không phải ảo tưởng.”

Những lời đó mang ý khuyến khích, nhưng giọng anh còn chất chứa một nỗi niềm khác,
một nỗi đau đớn làm cô hoảng sợ.

“Will.” Cô tóm cổ tay anh. “Giờ anh sẽ không bỏ em lại – không để em một mình tìm
cách cứu chữa chứ? Em không thể khi không có anh.”

Anh hít một hơi sâu, hơi nhắm hờ đôi mắt xanh thâm quầng. “Tất nhiên không. Anh sẽ
không rời xa cậu ấy, hay em. Anh sẽ giúp. Chỉ là…”

Anh ngừng lại, quay mặt đi. Ánh sáng chiếu qua cửa sổ cao cao soi tỏ gò má, cằm và quai
hàm anh.

“Chỉ là làm sao?”

“Em nhớ những điều khác anh nói với em trong phòng khách,” anh nói. “Anh muốn em
hạnh phúc, và cậu ấy hạnh phúc. Nhưng khi em bước trong thánh đường để đến bên và
kết đôi cùng cậu ấy thì cũng là lúc em đi trên con đường vô hình được tạo từ ngàn mảnh
vỡ trái tim anh, Tessa ạ. Anh sẵn sàng hi sinh mạng sống vì hai người. Anh đã tưởng rằng
biết đâu khi em nói không yêu anh, tình cảm của anh rồi sẽ vơi dần rồi biến mất, nhưng
không phải thế. Chúng vẫn lớn lên từng ngày. Giây phút này anh càng yêu em hơn bao
giờ hết, anh yêu em đến tuyệt vọng, và một giờ nữa thôi, anh sẽ còn yêu em nhiều hơn
thế. Anh biết nói thế này là không phải với em, khi em chẳng thể làm gì.” Anh hít một
hơi run rẩy. “Và em sẽ căm ghét anh.”

Tessa cảm thấy như mặt đất sụp xuống dưới chân cô. Cô nhớ đã tự nhủ gì vào đêm trước:
rằng chắc chắn tình cảm Will dành cho cô sẽ phai nhòa. Qua nhiều năm, nỗi đau đớn anh
phải chịu sẽ không còn lớn bằng cô. Co đã tin thế. Nhưng giờ… “Em không căm ghét
anh, Will. Anh luôn là một con người cao thượng – còn hơn mức em dám yêu cầu ở
anh…”

“Không,” anh chua chát nói. “Anh nghĩ em chẳng mong chờ gì ở anh.”

“Em mong chờ tất cả ở anh, Will,” cô nói khẽ. “Hơn cả mức anh kì vọng ở chính anh.
Nhưng anh còn cho em nhiều hơn thế.” Giọng cô yếu ớt dần. “Người ta bảo ta không thể
chia đôi trái tim nhưng…”

“Will! Tessa!” Đó là giọng Charlotte, đang gọi họ từ sảnh lớn. “Hai em lần chần gì đấy?
Và ai đi gọi Cyril tới nhé? Có lẽ chúng ta cần người giúp đánh xe ngựa nếu các Tu
Huynh Câm định ở lại.”

Tessa nhìn Will, nhưng khoảnh khắc kia đã qua; thái độ của anh lại như gỗ đá; vẻ tuyệt
vọng tràn ngập gương mặt anh đã biến mất. Anh đã khép mình như bị khóa sau hàng
ngàn cánh cửa. “Em xuống đi. Anh theo sau ngay.” Anh nói không cảm xúc, quay người,
và chạy thẳng lên cầu thang.

Tessa đặt tay lên tường trong lúc đờ đẫn bước xuống. Cô đã suýt làm gì vậy? Cô đã suýt
nói gì với Will chứ?

Nhưng em yêu anh.

Trời ơi, nói ra thì ích lợi gì nào, hay chỉ tạo ra một gánh nặng đè lên vai anh, vì anh biết
tình cảm của cô mà chẳng thể làm gì. Và vậy anh sẽ bị ràng buộc với cô, anh không thể
tự do tìm một người khác để yêu – một người không đính ước cùng bạn thân nhất của
anh.

Một người khác để yêu. Cô bước ra thềm Học Viện, cảm nhận được gió thổi xuyên qua
váy như một lưỡi dao. Những người khác đang tụ tập ở đó với một chút ngại ngần, nhất
là Gabriel và Gideon Lightwood, như thể họ đang tự hỏi mình làm cái quái gì ở đây.
Tessa chẳng mấy để tâm đến họ. Cô thấy tim đau nhưng không phải vì lạnh, mà vì nghĩ
tới chuyện Will sẽ phải lòng một người khác.
Nhưng đấy là ích kỉ. Nếu Will có thể yêu một ai khác, cô sẽ đau khổ, sẽ im lặng cắn môi,
như anh đã chịu đựng nỗi đau đớn đó khi cô đính ước cùng Jem. Cô nghĩ mình nợ anh
trong lúc nhìn cỗ xe ngựa đen được điều khiển bởi một người đàn ông mặc áo chùng da
dê của Tu Huynh Câm đang đi qua cổng. Cô nợ Will cách hành xử cũng cao thượng như
anh.

Cỗ xe ngựa đến chân thềm và dừng lại. Tessa cảm thấy Charlotte chộn rộn nhúc nhích
đằng sau. “Một cỗ xe nữa sao?” Chị nói và Tessa nhìn theo, thấy quả có một chiếc xe
ngựa khác, đen sì không mái che đang lẳng lặng bám theo chiếc đầu tiên.

“Hộ tống thôi,” Gabriel nói. “Có lẽ Tu Huynh Câm lo cô ấy sẽ trốn.”

“Không,” Charlotte nói, giọng nhuốm màu bối rối. “Con bé sẽ không…”

Tu Huynh Câm đánh chiếc xe đầu tiên buông dây cương và xuống ngựa, đi tới bên cửa xe
ngựa. Đúng lúc đó, chiếc thứ hai dừng lại ngay đằng sau, và anh ta quay đầu. Tessa
không thấy vẻ mặt anh ta, vì gương mặt anh ta ẩn dưới mũ trùm, nhưng gì đó trong cái
hình dáng anh ta tỏ rõ sự khinh ngạc. Cô nheo mắt – trông lũ ngựa kéo cỗ xe thứ hai có gì
là lạ: cơ thể chúng óng ánh không hề giống mồ hôi của lũ động vật, mà giống kim loại, và
cách di chuyển của chúng nhanh nhẹn khác thường.

Tay xà ích của cỗ xe thứ hai nhảy xuống đánh thình, và Tessa thấy ánh kim loại lóe lên
khi bàn tay hắn đưa lên cổ áo choàng – và giật xuống.

Dưới đó là cơ thể kim loại lấp lánh với cái đầu tròn ung ủng không mắt, các đinh ốc đồng
cố định các khớp khuỷu tay, đầu gối và vai. Và ở bộ phận, cứ cho là cánh tay phải đi,
được gắn với cái nỏ đồng làm vội. Nó đang giơ cánh tay đó lên và gập lại. Một mũi tên
thép, đuôi bằng kim loại đen, xé gió bay và cắm thẳng vào ngực Tu Huynh Câm thứ nhất,
khiến anh ta ngã ra bay vài thước trên sân trước khi chạm đất, máu ứa ra ướt đầm ngực áo
choàng quen thuộc.
9

KHẮC KIM LOẠI


Hắn rút thứ quặng lỏng

Đổ vào khuôn làm ra

Đầu tiên là công cụ

Rồi đến đồ uốn rèn

Súng hỏa mai, kim khí

Đều do hắn tạo ra.

– John Milton, Paradise Lost

Tessa bàng hoàng nhận ra Tu Huynh Câm cũng chảy máu đỏ như bất cứ người trần mắt
thịt nào.

Cô nghe Charlotte la hét ra lệnh, rồi Henry phóng xuống cầu thang, chạy thẳng ra chiếc
xe ngựa đầu tiên. Anh giật mở cửa, và Jessamine lảo đảo lao vào vòng tay anh. Cơ thể cô
lả đi, mắt nhắm hờ. Cô ấy vẫn mặc chiếc váy trắng rách rưới Tessa thấy từ hồi tới thăm
bạn tại Thành phố Câm Lặng, và mái tóc vàng đẹp đẽ của cô ấy bị cạo tới sát da đầu như
bệnh nhân bị sốt. “Henry,” cô ấy thút thít, và giữ chặt ve áo anh. “Hãy giúp em, Henry.
Hãy cho em vào trong Học Viện, làm ơn…”

Henry đứng lên, quay lại, ôm Jessamine trong tay, đúng lúc cửa cỗ xe thứ hai bật mở và
đám người máy ùa ra, hợp nhóm với kẻ đầu tiên. Chúng dường như phình lên khi bước
ra, như một món đồ chơi giấy của trẻ con – một, hai, ba, rồi Tessa chẳng đếm nữa khi
những Thợ Săn Bóng Tối quanh cô rút vũ khí khỏi thắt lưng. Cô thấy ánh kim loại loang
loáng khi lưỡi kiếm bật ra khỏi cây gậy chống của Jem, nghe mọi người lầm bầm tiếng
Latin khi những con dao thiên thần bừng sáng quanh cô như một vòng tròn lửa thánh.

Và lũ người máy xông tới. Một kẻ phóng thẳng về phía Henry và Jessamine, trong khi
những tên khác bổ nhào lên thềm. Cô nghe Jem gọi tên mình, và nhận ra bản thân không
hề được trang bị khí giới. Cô không định luyện tập gì trong ngày hôm nay. Cô hoảng hốt
nhìn quanh tìm bất cứ thứ gì, ví dụ như một tảng đá to, hay thậm chí một que củi. Trong
sảnh treo đầy những vũ khí – là đồ trang trí, nhưng vũ khí vẫn là vũ khí. Cô chạy bổ vào
trong và giật thanh kiếm treo trên giá xuống rồi quay gót lao ra ngoài.
Khung cảnh trước mắt thật hỗn loạn. Jessamine đã xuống xe, đang thu lu bên cạnh bánh
xe ngưa, tay bưng kín mặt. Henry đứng sau, cầm dao thiên thần chém tới lui đẩy lùi tay
người máy muốn vượt qua anh, những cánh tay hình giáo của nó cứ chực đâm Jessamine.
Đám người máy còn lại đã tản ra khắp thềm và đang đấu một chọi một với các Thợ Săn
Bóng Tối.

Tessa nâng kiếm, mắt nhìn khắp sân. Lũ người máy này khác những con cô từng thấy.
Chúng di chuyển lanh lẹ hơn, bước đi không giật cục như trước, các khớp nối bằng đồng
gập và duỗi trơn tru.

Ở bậc thấp nhất, cả Gideon và Gabriel đều đang dốc sức chiến đấu với một con quái vật
cơ khí cao ba mét, đôi bàn tay nhọn hoắt của nó đâm xuống tới tấp như những ngọn giáo.
Gabriel đã lãnh một vết thương dài trên vai, máu đang tứa ra đầm đìa, nhưng anh ta và
anh trai đánh trên cơ con quái vật, một người chặn đầu, một tấn công từ đằng sau. Jem
vừa đứng dậy khỏi tư thế lom khom để thúc thẳng gậy vào cái đầu kim loại của một
người máy khác. Tay nó co giật và nó cố lùi, nhưng vũ khí đã cắm sâu vào cái sọ kim loại
của nó. Jem rút kiếm, và khi người máy lại tấn công, anh chém đứt lìa một chân nó. Nó
ngã lộn nhào sang một bên sân lát đá.

Gần Tessa hơn, ngọn roi của Charlotte đang quất nhoang nhoáng như chớp, cắt đứt cánh
tay cung của gã người máy đầu tiên. Nhưng nó chẳng hề chậm bước tiến một chút nào.
Khi nó vươn cánh tay thứ hai bèn bẹt và đầy móng vuốt, Tessa chắn giữa và vung kiếm
đúng như Gideon dạy, dùng toàn lực chém từ trên xuống để tậm dụng thêm trọng lực.

Lưỡi kiếm chém trúng đích, cắt đứt lìa cánh tay thứ hai của sinh vật nọ. Lần này chất lưu
màu đen ào ào phun ra từ vết thương. Người máy vẫn tiếp tục xông tới, cúi xuống như
định húc Charlotte bằng cái đầu có lưỡi kiếm ngắn, sắc. Chị hét lên khi nó đâm phải cẳng
tay chị. Sau đó chị quất roi, và ngọn roi bằng hợp kim vàng bạc cuốn quanh cổ sinh vật
và siết chặt. Charlotte kéo giật cổ tay, và cái đầu rơi xuống, lăn lông lốc; cuối cùng sinh
vật nghiêng ngả, chất lưu đen phun ào ào.

Tessa thở hổn hển và ngửa đầu; mồ hôi khiến tóc cô bết vào trán và thái dương, nhưng cô
phải dùng cả hai tay giữ kiếm và chẳng thể gạt tọc. Qua đôi mắt cay xè, cô thấy Gabriel
và Gideon đã đánh ngã đối thủ và đang chém nó; đằng sau họ, Henry thụp xuống vừa kịp
tránh cú đánh từ sinh vật đã dồn anh sát xe. Bàn tay như chùy của nó đấm qua cửa sổ, và
kính rơi như mưa xuống Jessamine, còn cô ấy vừa hét vừa che đầu. Henry chém ngược
dao thiên thần lên, cắm phập vào ngực người máy. Tessa đã quen thấy dao thiên thần
thiêu đốt quỷ, biến chúng thành cát bụi, nhưng người máy chỉ loạng choạng lùi lại rồi tiếp
tục tiến tới, với con dao cắm ở ngực sáng như đuốc.
Hét lên một tiếng, Charlotte bắt đầu chạy xuống thềm về phía chồng. Tessa nhìn quanh –
nhưng không thấy Jem. Tim cô đập thình thịch. Cô bước một bước.

Bỗng đâu một kẻ mặc áo choàng tuyền đen xuất hiện lù lù trước mắt cô. Găng tay và đôi
giày đen che đi chân tay kẻ kia. Tessa chẳng thấy gì ngoài gương mặt trắng bệch trong
mũ trùm đen, vừa quen thuộc và đáng sợ như một cơn ác mộng trở thành sự thật.

“Xin chào, cô Gray,” bà Black nói.

Dù đã nhòm đầu vào mọi căn phòng mình nghĩ đến, Will vẫn chẳng thấy Cyril đâu. Anh
bực bội, và tâm trạng khó chịu này lại càng tăng tiến do vụ thú nhận với Tessa lúc ở cầu
thang. Sau hai tháng luôn cẩn thận khi ở gần cô khiến anh có cảm giác mình bước đi trên
dao, anh lại buột miệng nói ra tất cả cảm xúc của mình như máu chảy khỏi vết thương hở,
và chỉ câu gọi của Charlotte mới khiến anh không biến sự ngu ngốc của mình thành thảm
họa.

Nhưng, lời đáp của cô khiến anh bực bội suy nghĩ suốt đường đi trong hành lang và qua
bếp. Người ta bảo ta không thể chia đôi trái tim nhưng…

Nhưng sao? Cô định nói gì?

Tiếng hát của Bridget vang ra từ phòng ăn, nơi cô ấy cùng Sophie đang dọn bàn.

“‘Mẹ yêu hỡi, giường con mẹ hãy dọn

Sao cho mềm vừa đủ tấm thân con

William chết vì tình dành cho con

Còn con sẽ chết vì tim con tan nát.’

“Họ chôn nàng trong sân nhà thờ cổ.

Kế bên mộ chàng William

Từ mộ chàng mọc lên bông hồng đỏ

Còn mộ nàng là tầm xuân xanh.

“Chúng vươn lên tháp nhà thờ cổ

Cho đến khi cao hết chừng hết mức


Chúng quấn quýt, minh chứng tình đôi họ

Đỏ sắc hồng lẫn cùng tầm xuân xanh.”

Will đang tự hỏi Sophie phải kiềm chế thế nào mới không cầm đĩa đập vào đầu Bridget
thì ngực anh bỗng đau như bị ăn một đấm. Anh loạng choạng dựa vào tường mà kêu lên
một tiếng, tay đưa lên cổ. Anh cảm nhận được có gì đang đập ở đó, như trái tim thứ hai
đập trên tim anh. Sợi dây chuyền Magnus đưa lành lạnh, anh vội vàng kéo nó ra khỏi áo
nhìn thì hiểu ra – mặt dây chuyền đỏ sậm đang nhấp nháy như tâm một ngọn lửa.

Anh ngờ ngợ nhận ra Bridget đã ngừng hát, và cả hai cô gái túm tụm tại cửa phòng, kinh
ngạc nhìn anh. Anh buông dây chuyền, để nó rơi xuống ngực.

“Sao vậy, cậu Will?” Sophie hỏi. Cô đã ngừng gọi anh là cậu Herondale từ khi biết
chuyện lời nguyền, dù đôi lúc anh vẫn có cảm giác cô không ưa anh lắm. “Cậu khỏe
chứ?”

“Tôi không sao,” anh nói. “Nhưng chúng ta phải nhanh chóng xuống nhà. Ở đó đang có
chuyện cực kì không ổn.”

“Nhưng bà chết rồi,” Tessa há hốc miệng và lùi một bước. “Tôi đã thấy bà chết…”

Cô ngừng lại và ré lên khi đôi bàn tay kim loại dài ngoằng từ đằng sau cuốn lấy cô như
những dải băng vải, nhấc bổng cô lên. Thanh kiếm rơi xuống thềm khi một người máy
tóm chặt cô, còn bà Black cười lạnh.

“Chà chà, cô Gray. Cô không mừng chút nào khi thấy tôi ư? Dù gì tôi cũng là người đầu
tiên chào đón cô tới Luân Đôn cơ mà. Tôi dám nói từ đó đến nay, cô đã coi nơi đây như
nhà mình rồi.”

“Thả tôi ra!” Tessa đá mạnh, nhưng người máy chỉ dộng đầu vào đầu cô, làm cô cắn vập
môi. Cô nghẹn và nhổ ra: nước bọt và máu lấm tấm trên gương mặt vẫn trắng bệch của bà
Black. “Tôi thà chết còn hơn đi cùng bà…”

Kẻ còn lại trong đôi Chị Em Hắc Ám lau vết bẩn bằng găng tay và cau mặt khó chịu.
“Không may thay, cô không được quyền thỏa hiệp. Mortmain muốn cô sống.” Bà ta búng
tay với người máy. “Đưa ả lên xe.”

Người máy tiến lên một bước, tay giữ chắc Tessa – và đổ gục. Tessa chẳng kịp đưa tay ra
chống khi cả hai cùng ngã lăn ra đất, người máy đè lên người cô. Cổ tay phải cô đau buốt,
nhưng cô vẫn phải chống tay và kêu một tiếng đau đớn khi lách người ra và lùi vài bước.
Tiếng kêu bực dọc của bà Black ong ong trong tai cô.

Cô bối rối ngước lên. Bà Black đã biến đâu mất. Người máy vừa giữ Tessa đang nằm
nghiêng dưới thềm, một phần cơ thể kim loại của nó đã bị xả ra mất. Tessa thoáng thấy
các bộ phận bên trong khi nó xoay người: các bánh răng và bộ phận cơ khí, cùng những
đường ống trong đẩy chất lưu đen kịt đi. Jem đứng đằng sau, đang thở dốc, người lấm
tấm máu đen nhờn của người máy. Gương mặt anh trắng tái và nghiêm nghị. Anh vội
vàng nhìn cô, để đảm bảo cô vẫn ổn, rồi lao xuống thềm, lại tiếp tục chém người máy. Nó
quằn quại như con rắn giãy chết, rồi cánh tay còn lại của nó phóng ra chộp cổ chân Jem
và kéo mạnh.

Chân Jem trượt đi, và anh ngã phịch xuống sàn, lăn xuống vài bậc cầu thang, vẫn bám
chặt lấy con quái vật kim loại. Tiếng động khi người máy trượt xuống, khi kim loại ma
sát với đá, thật ghê rợn. Khi họ cùng nhau chạm đất, lực tác động khiến họ tách nhau ra.
Tessa hoảng hốt nhìn khi Jem loạng choạng đứng lên, máu đỏ của anh hòa cùng chất lỏng
đen dính bẩn quần áo. Cây gậy kiếm của anh đã rời tay – nằm trên một bậc cầu thang đá,
ở nơi anh đánh rơi.

“Jem,” cô thì thầm, và vội vàng ngồi quỳ lên. Cô cố bò tới, nhưng cổ tay mất lực, cô
chống khuỷu tay cố với cây gậy…

Đúng lúc có kẻ ôm cô, kéo cô đứng lên, và cô nghe thấy giọng bà Black rít bên tai.
“Đừng chống cự, cô Gray, hoặc cô sẽ gặp chuyện rất, rất tệ.” Tessa vặn vẹo cố thoát,
nhưng gì đó mềm mềm đã ịn ngay vào mồm và mũi cô. Cô ngửi thấy một mùi tanh ngọt
khó chịu, rồi bóng tối ập xuống che mất tầm nhìn và đưa cô vào trạng thái bất tỉnh nhân
sự.

Với dao thiên thần trong tay, Will lao khỏi cửa Học Viện và vào trận hỗn chiến.

Anh theo thói quen tìm Tessa trước, nhưng chẳng thấy cô đâu – cảm ơn Chúa. Chắc cô đã
biết đường trốn đi rồi. Một cỗ xe ngựa màu đen đỗ ở chân thềm. Dựa vào một bánh xe,
giữa đống kính vỡ, là Jessamine. Ở hai bên cô là Henry và Charlotte: Henry cầm kiếm
còn Charlotte dùng roi, đẩy lùi ba người máy chân dài ngoằng tay kiếm và đầu tròn nhẵn
thín. Cây gậy của Jem nằm trên thềm, dính chất lỏng đen nhớt khắp cả. Gần cửa, Gabriel
và Gideon đang chiến đấu với hai người máy khác như một cặp chiến binh lão luyện đã
nhiều năm cùng nhau chinh chiến. Cecily đang quỳ bên xác một Tu Huynh Câm, cái áo
choàng của anh ta bị nhuộm đỏ sậm.
Cổng Học Viện mở, và một cỗ xe ngựa khác đang phóng hết tốc lực qua đó để rời Học
Viện. Nhưng Will chẳng mấy nghĩ đến nó, vì đang mải bận tâm tới Jem nơi chân thềm.
Cậu ấy trắng bêch như giấy nhưng vẫn đứng thẳng, và đang lùi dần khi một người máy
tấn công đến. Nó loạng choạng như người say, một nửa người và một tay đã bị chặt mất,
nhưng Jem không có vũ khí.

Cảm giác minh mẫn lạnh lùng của chiến trận bao trùm Will, và mọi thứ xung quanh anh
dường như chậm lại. Anh biết Sophie và Bridget lăm lăm vũ khí đang lao ra từ hai bên
anh – Sophie chạy về phía Cecily, còn Bridget, mái tóc đỏ tung bay và cầm dao chém
loang loáng, đang bận chém một người máy đô con bất thường thành những mảnh kim
loại với sự dữ dội mà vào lúc khác hẳn sẽ khiến anh kinh ngạc lắm lắm. Nhưng thế giới
của anh đã thu hẹp chỉ còn có đám người máy và Jem. Cậu ấy vừa ngẩng lên, thấy anh và
chìa tay.

Nhảy xuống bốn bậc thang và trượt theo thành cầu thang, Will nhặt cây gậy của Jem và
ném. Jem bắt được vũ khí đúng lúc người máy lao tới, và chém sinh vật kia thành hai nửa
gọn gàng. Nửa trên rơi xuống, dù chân và nửa thân dưới – giờ đang phun ào ào thứ chất
lưu xanh lè và đen đúa – tiếp tục lao về trước. Jem nghiêng người né và chém tiếp, cắt
đứt đầu gối thứ kia. Nó cuối cùng cũng ngã, nhưng các bộ phận vẫn cử động.

Jem quay đầu và ngước nhìn Will. Mắt họ giao nhau một lát, và Will mỉm cười – nhưng
Jem thì không; cậu ấy trông trắng như muối, còn Will không hiểu mô tê gì. Jem bị thương
chăng? Người Jem toàn máu với chất lưu nên Will chịu không biết Jem có đổ máu gì hay
không. Cảm giác lo lắng chạy rần rần khắp người, Will bắt đầu bước xuống, hướng về
phía Jem – nhưng anh chưa kịp đi vài bước, Jem đã quay gót chạy ra cổng. Will trố mắt
nhìn hình bóng Jem biến mất trong những con phố của Luân Đôn.

Will định chạy – và dừng sững lại trên thềm vì bị chắn đường bởi một người máy di
chuyển nhanh và uyển chuyển như nước. Bàn tay nó là cây kéo to, Will tránh khi một
lưỡi kéo xẹt tới mặt Will, và anh đâm phập con dao thiên thần vào ngực nó.

Có tiếng xèo xèo của kim loại tan chảy, nhưng sinh vật kia chỉ loạng choạng lui vài bước
rồi lại lao lên. Will tránh bàn tay kéo của nó, đồng thời rút một con dao khỏi thắt lưng.
Anh quay người, chém thẳng – đúng lúc người máy đột ngột hóa thành từng dải trước
mắt anh, như thể những những dải vỏ cam vậy. Chất lưu màu đen bị đẩy lên và bắn túa
vào mặt anh khi thứ kia đổ sầm xuống thành một đống phế liệu.

Anh trố mắt nhìn. Bridget chân thành nhìn anh qua cái xác tàn tạ của người máy. Tóc cô
ấy dựng như một búi những lọn tóc xoăn đỏ, còn cái tạp dề trắng vấy đầy máu đen,
nhưng Bridget chẳng thể hiện thái độ gì. “Cậu không thấy,” cô ấy nói, “mình nên cẩn
thận hơn sao?”

Will đơ luôn; may thay, Bridget có vẻ không chờ đợi đáp án. Cô ấy hất tóc và bước về
phía Henry đang bận chiến đấu với một người máy trông đặc biệt đáng sợ, cao bét ra
cũng phải chừng ba mét rưỡi. Henry đã chặt một tay của nó, và tay kia, đa khớp được kết
thúc bằng một lưỡi kiếm cong như kindjal, vẫn đang đâm anh ấy. Bridget bình tĩnh luồn
ra sau và đâm thẳng qua khớp ngực. Vài tia lửa tóe ra, và sinh vật bắt đầu đổ về trước.
Jessamine, vẫn ngồi co ro bên bánh xe, thét lên và bắt đầu bò trốn trên tay và đầu gối, về
phía Will.

Will ngạc nhiên nhìn Jessamine trong chốc lát khi cô làm cả tay và đầu gối mình xước xát
khi bò trên những mảnh thủy tinh vỡ. Rồi, như thể bị tát cho tỉnh lại, anh tiến lên, lách
qua Bridget cho tới khi đến bên Jessie, và bế bổng cô lên. Jessamine kêu nhỏ một tiếng –
hình như là tên anh – rồi lả đi, chỉ còn tay vẫn giữ chặt ve áo anh.

Anh bế cô rời xa chiếc xe độc mã, mắt vẫn để ý quan sát mọi chuyện trên sân. Charlotte
đã hạ đo ván đối thủ, còn Bridget và Henry đang dở chém nhỏ một con khác. Sophie,
Gideon, Gabriel và Cecily đã hạ được hai người máy, và đang xả nó như cắt món gà tây
đút lò. Jem không trở lại.

“Will,” Jessie nói, giọng mảnh như sợi chỉ. “Will, đặt em xuống.”

“Anh phải đưa em vào trong, Jessamine.”

“Không,” cô ho, và Will hoảng hốt thấy máu ứa ra ở khóe miệng Jessie. “Em sẽ không
sống được tới lúc đó. Will – nếu anh quan tâm chút nào đến em, hãy đặt em xuống.”

Will ngồi xuống chân thềm, cố hết sức ôm Jessie kề đầu vào vai mình. Máu tha hồ chảy
xuống cổ và cái váy trắng của Jessamine, dính trên cơ thể cô gái. Jessie gầy khủng khiếp,
xương quai xanh dồ ra như cánh chim, má hóp sâu. Cô giống một bệnh nhân vừa lảo đảo
bước ra từ Bedlam11 hơn là cô gái xinh đẹp đã rời khỏi nơi này tám tuần trước.

“Jess,” anh nói khẽ. “Jessie. Em bị thương ở đâu?”

Cô cười yếu ớt. Máu nhuộm đỏ răng cô. “Một móng vuốt của đám người máy kia đã đâm
xuyên lưng em,” cô thì thào, và quả vậy, khi Will nhìn xuống, anh thấy đằng sau váy cô
đầm đìa máu. Máu nhuộm đỏ tay, áo, quần, và anh ngửi thấy rõ mùi máu tanh nồng. “Nó
đâm trúng tim em rồi. Em biết.”

“Iratze…” Will bắt đầu lục thắt lưng tìm thanh stele.
11
Bệnh viện Hoàng gia Bedlam là bệnh viện đầu tiên tại Luân Đôn chuyên điều trị các chứng bệnh tâm thần.
“Giờ nó chẳng giúp được em đâu.” Giọng cô rất chắc chắn.

“Còn Tu Huynh Câm…”

“Kể cả họ cũng bó tay. Hơn nữa, em không thể chịu nổi để họ chạm vào mình. Em thà
chết. Em sắp chết, và em mừng vì điều ấy.”

Will bàng hoàng nhìn cô. Anh nhớ ngày Jessie đến Học Viện. Hồi ấy cô mười bốn và tính
tình khó chịu như con mèo già lúc nào những nhe nanh giương vuốt. Anh chưa từng đối
xử tốt với cô, và cô cũng vậy – anh chưa từng tốt với ai ngoài Jem – nhưng anh không hề
hối hận. Ấy vậy nhưng không hiểu sao, anh vẫn ngưỡng mộ cô, ngưỡng mộ sức mạnh của
lòng hận thù và ý chí nơi cô.

“Jessie.” Anh đặt tay lên má Jessamine, và vụng về chùi máu.

“Không cần đâu.” Cô lại ho. “Không phải đối tốt với em làm gì. Em biết anh ghét em.”

“Anh không ghét em.”

“Anh chưa từng tới Thành phố Câm Lặng thăm em. Những người khác đều đến. Tessa và
Jem, Henry và Charlotte. Nhưng anh thì không. Anh không phải người vị tha, Will.”

“Ừ.” Anh nói vì đó là sự thật, và vì một phần lí do anh chưa từng thích Jessamine là do
cô ít nhiều làm anh nhớ đến mình. “Jem mới là người vị tha.”

“Thế mà em lại thích anh hơn anh ấy.” Đôi mắt cô trầm tư nhìn kĩ gương mặt anh. “Ôi,
không phải như anh nghĩ đâu. Đừng nghĩ vậy. Nhưng cái cách anh căm ghét bản thân…
Em hiểu. Jem luôn muốn cho em cơ hội, Charlotte cũng thế. Nhưng em không muốn
nhận quà từ những tấm lòng rộng lượng. Em muốn họ thấy con người thật của em. Vì anh
không thương hại em, em biết nếu em yêu cầu anh làm gì, anh đều thực hiện.”

Cô thở một hơi hổn hển. Máu lúng búng trên môi cô. Will hiểu dấu hiệu này: Phổi cô bị
thủng hoặc ngừng làm việc, và máu đã tràn vào phổi. “Là gì?” Anh vội hỏi. “Em muốn
anh làm gì?”

“Chăm sóc chúng,” cô thì thào. “Bé Jessie và những đứa khác.”

Will mất một lúc mới hiểu cô đang nói tới đám búp bê. “Anh sẽ không để ai phá hỏng đồ
của em, Jessamine.”

Cô cười yếu ớt. “Em nghĩ họ sẽ không muốn… thấy bất cứ đồ gì nhắc tới em.”
“Không ai ghét em, Jessamine. Dù thế giới sau đây ra sao, em cũng đừng có mang suy
nghĩ đó đi theo.”

“Không ư?” Mắt cô hấp háy nhắm. “Dù chắc chắn mọi người sẽ thích em hơn chút ít nếu
em nói ra chỗ ở của Mortmain. Vậy em sẽ không đánh mất tình thương yêu của mọi
người.”

“Vậy nói đi,” Will giục. “Nói đi, nếu em có thể, là lấy lại tình thương…”

“Idris…” Cô thều thào.

“Jessamine, chúng ta đều biết đó không phải…”

Mắt Jessamine mở trừng trừng. Lòng trắng đã bị nhuốm sắc đỏ, như máu hòa trong nước.
“Anh,” cô nói. “Hơn ai hết anh phải hiểu chứ.” Những ngón tay cô đột nhiên co giật nắm
chặt ve áo anh. “Anh thật không xứng là người xứ Wales,” cô nói líu ríu, nấc lên một
tiếng rồi im bặt. Cô chết.

Mắt cô mở, nhìn thẳng vào mặt anh. Anh chạm nhẹ, vuốt mắt cho cô, để lại vân tay ngón
cái và ngón trỏ dính máu trên đó. “Ave atque vale, Jessamine Lovelace.”

“Không!” Đó là Charlotte. Will bàng hoàng ngước lên và thấy những người khác đang tụ
tập quanh anh – Charlotte, lả đi trong vòng tay Henry; Cecily mở to mắt; còn Bridget
đang cầm hai con dao nhờn dầu, trông khá vô cảm. Đằng sau họ, Gideon đang ngồi trên
thềm Học Viện với em trai và Sophie ở hai bên. Anh ta ngửa ra sau, mặt tái xanh, áo
khoác đã cởi ra; một mảnh vải được buộc quanh một chân Gideon, và Gabriel hình như
đang vẽ chữ rune trị thương cho anh mình.

Henry vùi mặt vào cổ Charlotte và lầm bầm an ủi gì đó khi thấy nước mắt lăn dài trên
mặt vợ. Will nhìn họ, rồi nhìn em gái.

“Jem,” anh nói, ý hỏi.

“Anh ấy đuổi theo Tessa rồi,” Cecily nói. Cô đang nhìn Jessamine, vẻ mặt vừa thương
vừa hoảng.

Will có cảm giác như bị một luồng ánh sáng trắng chiếu thẳng vào mắt. “Đuổi theo
Tessa? Ý em là sao?”

“Một… một người máy đã tóm và lôi chị ấy lên xe rồi.” Cecily ngập ngừng khi nghe thấy
sự dữ dội trong giọng anh. “Chúng em không đuổi theo được. Đám người máy chặn
đường bọn em. Rồi Jem lao qua cổng. Em đoán…”
Trong vô thức, Will siết chặt cánh tay Jessamine, để lại một vết đỏ trên da người đã
khuất. “Ai đỡ Jessamine hộ tôi,” anh khào khào nói. “Tôi phải đuổi theo họ.”

“Will, đừng…” Charlotte lên tiếng.

“Charlotte.” Anh gằn giọng. “Em phải đi…”

Có tiếng loảng xoảng – tiếng cửa Học Viện đóng sầm lại. Will ngẩng phắt lên, và thấy
Jem.

Cổng vừa đóng sau lưng Jem, và cậu ấy đang đi về phía họ. Jem di chuyển chậm như
người bị say hay bị thương, và khi cậu ấy tới gần hơn, Will thấy người bạn mình toàn
máu. Máu đen như than của người máu, nhưng cũng có kha khá vết máu đỏ – trên áo,
mặt, tay và cả tóc nữa.

Jem lại gần họ, rồi đứng như trời trồng. Cậu ấy trông giống hệt Thomas khi Will tìm thấy
cậu ấy trên thềm Học Viện, máu chảy đầm đìa và sắp chết.

“James?” Will nói.

Một từ đó thôi mà chứa ngàn vạn câu hỏi.

“Cô ấy biến mất rồi,” Jem nói bằng giọng đều đều, vô cảm. “Tôi đuổi theo chiếc xe –
nhưng nó tăng tốc và tôi đuổi không kịp. Tôi mất dấu họ ở gần cửa ô Temple Bar.” Mắt
anh nhìn sang Jessamine, nhưng có vẻ chẳng thấy thi thể cô, hay Will đang ôm cô, hoặc
bất cứ điều gì. “Nếu tôi chạy được nhanh hơn…” Cậu ấy nói, rồi gập người như bị đấm,
và ho như muốn nổ phổi. Jem đổ gục, chống khuỷu tay và đầu gối xuống, máu lấm tấm
trên mặt đất dưới chân. Tay cậu ấy nắm chặt lấy một viên đá. Sau đó, Jem lăn người nằm
ngửa và bất động.
10

NHƯ NƯỚC VỖ BỜ CÁT


Tôi tự hỏi vì sao những con người muốn chết lại sống, trong khi anh, người tôi yêu quý
vô cùng, một con người không đáng phải chết, lại chết. Và tôi tự hỏi liệu bản thân tôi,
vốn được anh coi như một “anh” khác, có thể sống khi mà anh đã từ giã cõi đời. Tôi và
anh đúng với câu nói của một người bạn anh, “Anh là một nửa linh hồn tôi”, vì tôi có
cảm giác linh hồn của anh và của tôi là “một linh hồn trong hai thể xác”; và do vậy tôi
kinh khiếp cuộc sống, vì tôi không thể sống chỉ với một nửa. Nhưng phần nào đó trong tôi
cũng sợ chết, vì nếu vậy, anh, người tôi vô cùng yêu quý, sẽ chết hoàn toàn.

– Thánh Augustine, Tự thuật, chương IV

Cecily đẩy nhẹ cửa phòng Jem và nhìn vào.

Phòng im lặng nhưng đông đúc những con người đang bận rộn đi lại. Hai Tu Huynh Câm
đứng bên giường Jem, Charlotte ở giữa. Mặt chị buồn bã và còn rõ vệt nước mắt. Will
quỳ bên giường, vẫn mặc bộ đồ dính máu sau trận chiến ngoài sân. Đầu anh gục xuống
hai bàn tay đang chắp lại, và anh trông như đang cầu nguyện. Anh trông trẻ trung, yếu
đuối và tuyệt vọng, và dù trong lòng đang ngổn ngang trăm mối tơ vò, một phần trong
Cecily vẫn muốn vào phòng và an ủi anh.

Phần khác lại thấy dáng người yên lặng, trắng tái nằm trên giường, và nao núng. Cô mới
ở đây một thời gian ngắn; cô có cảm giác mình sẽ xâm phạm vào giờ khắc riêng tư của cư
dân Học Viện – khi họ đang đau buồn.

Nhưng cô phải nói chuyện với Will. Nhất định. Cô tiến lên.

Và cảm nhận một bàn tay đặt lên vai cô, kéo cô lại. Lưng cô đụng vào tường hành lang,
rồi Gabriel Lightwood buông cô ra ngay.

Cô ngạc nhiên ngước nhìn anh. Anh trông mệt mỏi, đôi mắt xanh trũng sâu, máu lốm
đốm trên tóc và tay áo. Cổ áo anh ướt đầm. Anh rõ ràng vừa từ phòng anh trai đi ra.
Gideon bị thương nặng ở chân vì lưỡi kiếm của người máy, và dù iratze có tác dụng,
nhưng chỉ phần nào. Cả Sophie và Gabriel đã giúp anh vào phòng, dù anh phản đối suốt
chặng đường rằng mọi người nên tập trung lo cho Jem.

“Đừng vào đó,” Gabriel khẽ nói. “Họ đang cố cứu Jem. Anh trai cô cần ở đó với cậu ấy.”
“Ở đó với Jem? Nhưng anh ấy làm được gì nào? Will không phải bác sĩ.”

“Dù bất tỉnh, nhưng James vẫn rút sức mạnh từ parabatai của mình.”

“Tôi cần nói chuyện với Will một lát thôi.”

Gabriel vuốt mái tóc rối. “Cô chưa sống cùng Thợ Săn Bóng Tối lâu,” anh nói, “nên có lẽ
không hiểu. Đánh mất parabatai… không phải chuyện nhỏ. Chúng tôi coi đó là một mất
mát lớn như mất chồng mất vợ, hoặc anh chị em. Will đang có cảm giác như chính mình
đang nằm trên chiếc giường kia.”

“Will sẽ không quan tâm nhiều đến vậy nếu người nằm trên chiếc giường đó là tôi.”

Gabriel khịt mũi. “Anh trai cô sẽ chẳng thèm cấm tôi tiếp cận cô nếu cậu ấy không quan
tâm đến cô, cô Herondale ạ.”

“Không, đấy là vì anh ấy không ưa anh. Vì sao thế? Và sao giờ anh lại nói đỡ cho anh
ấy? Anh cũng đâu có thích Will.”

“Ừ,” Gabriel nói. “Nói vậy cũng không đúng hẳn. Tôi không thích Will Herondale. Bọn
tôi không ưa nhau nhiều năm rồi. Dù gì thì cậu ấy từng bẻ gãy tay tôi mà.”

“Thế à?” Cecily không kìm được phải nhướng mày.

“Nhưng dạo này tôi bắt đầu không chắc chắn về những điều tôi luôn nghĩ là chắc chắn.
Và Will là một trong số đó. Tôi đã chắc chắn cậu ấy là một kẻ vô lại, nhưng sau khi nghe
Gideon kể thêm về Will, tôi bắt đầu hiểu vì sao cậu ấy trọng danh dự vậy.”

“Và anh tôn trọng điều đó.”

“Tôi ước mình tôn trọng nó. Tôi ước mình hiểu. Và James Carstairs là một trong những
người tốt bụng nhất; kể cả tôi ghét Will, giờ tôi sẵn sàng vì Jem mà tha thứ cho cậu ấy.”

“Có điều này tôi phải nói với anh tôi,” Cecily nói. “Jem hẳn sẽ muốn tôi nói. Chuyện
quan trọng lắm. Và chỉ mất một lát thôi.”

Gabriel day thái dương. Anh rất cao – anh cao vượt Cecily, đã thế lại rất gầy. Anh có
gương mặt góc cạnh rắn rỏi, không đẹp nhưng thanh tú, môi dưới mang hình dáng gần
như cánh cung. “Được,” anh nói. “Tôi sẽ vào gọi cậu ấy ra.”

“Sao lại là anh? Mà không phải tôi?”


“Nếu cậu ấy giận, nếu cậu ấy mệt mỏi mà cáu gắt, vậy cứ để tôi trông thấy thì hơn, và để
cậu ấy giận tôi thì hơn là giận cô,” Gabriel nói thật như đếm. “Tôi tin cô, cô Herondale,
rằng chuyện này quan trọng. Rất mong cô không làm tôi thất vọng.”

Cecily chẳng nói gì, chỉ nhìn Gabriel đẩy cửa vào phòng bệnh. Cô dựa vào tường, tim
đập thình thịch khi nghe những tiếng nói lào xào bên trong. Cô nghe thấy Charlotte nói gì
đó về chữ rune thay máu vô cùng nguy hiểm – rồi cửa mở và Gabriel đi ra.

Cô đứng thẳng lên. “Thế Will…”

Gabriel liếc nhìn cô, rồi lát sau Will xuất hiện ngay sau Gabriel. Anh đóng chặt cửa.
Gabriel gật đầu với Cecily rồi đi theo hành lang, để lại cô một mình cùng anh trai.

Cô luôn tự hỏi sao tại sao khi ở với người khác mà ta một mình được. Nếu ta ở cạnh họ,
không phải ta được định nghĩa là không một mình sao? Nhưng giờ cô thấy chỉ có một
mình, vì Will như đang ở một nơi hoàn toàn khác. Anh dựa vào tường cạnh cửa, bên cạnh
cô, nhưng anh trông nhòa nhạt như một hồn ma.

“Will,” cô nói.

Anh như không nghe thấy. Anh run rẩy, tay rung lên vì căng thẳng và kiềm chế.

“Gwilym Owain,” cô lại gọi, dịu dàng hơn.

Anh quay đầu nhìn cô, nhưng mắt xanh và lạnh như nước đầu nguồn sông Llyn Mwyngil.
“Anh tới đây hồi mười hai tuổi,” anh nói.

“Em biết,” Cecily bối rối. Anh nghĩ cô có thể quên sao? Mất Ella, rồi đến người anh trai
yêu dấu chỉ trong vài ngày? Nhưng Will dường như chẳng nghe thấy.

“Chính xác là ngày 10 tháng 11 năm đó. Và mỗi năm cứ đến ngày ấy, anh lại buồn rũ
chán chường. Ngày đó – ngày đó và sinh nhật anh – là anh nhớ bố mẹ, và em nhất. Anh
biết mọi người còn sống, mọi người ở ngoài kia, và mọi người mong anh trở về, nhưng
anh không thể, đến gửi một lá thư cũng không được. Tất nhiên anh đã viết rất nhiều,
nhưng lại đốt đi. Anh nghĩ hẳn mọi người căm ghét và trách móc anh vì cái chết của chị
Ella.”

“Gia đình chưa từng trách anh…”

“Sau năm đầu tiên, dù anh vẫn sợ ngày đó tới, nhưng anh dần biết rằng Jem sẽ làm gì đó
vào mỗi ngày 10 tháng 11, hoặc luyện tập hoặc nghiên cứu tìm tòi gì đó sẽ kéo cả hai tới
đầu kia thành phố trong thời tiết giá lạnh và ẩm ướt. Tất nhiên anh sẽ trêu chọc cậu ấy vì
chuyện đó. Đôi lúc không khí lạnh và nồm khiến cậu ấy đổ bệnh, hoặc cậu ấy quên thuốc
và bị ốm vào ngày đó, sẽ ho ra máu và phải nằm tĩnh dưỡng, nhưng điều đó cũng giúp
anh tạm quên đi nỗi buồn của mình. Và sau khi chuyện lặp lại đến ba lần – vì anh quá
ngu, Cecy, và chỉ bo bo nghĩ cho mình – anh nhận ra tất nhiên cậu ấy làm thế vì anh. Cậu
ấy nhận ra ngày đó và làm tất cả để anh khỏi buồn.”

Cecily sững sờ nhìn anh. Dù những lời nói chỉ chực chờ được bật ra, cô lại không thể mở
lời, cứ như thể đã nhiều năm trôi qua và cuối cùng cô cũng được thấy lại anh trai như khi
anh còn bé, vụng về dỗ dành cô khi cô đau, ngủ gật trên tấm thảm trước lò sưởi với một
cuốn sách đặt trên ngực, bò lên khỏi hồ vừa cười và lắc nước bắn khỏi mái tóc đen. Một
Will không có tường chắn giữa anh và thế giới.

Anh ôm mình như thể bị lạnh. “Anh không biết mình là ai nếu không có cậu ấy,” anh nói.
“Tessa bị bắt đi, và mỗi giây không thấy cô ấy đều khiến anh thấy như bị lóc thịt. Cô ấy
bị bắt, mà người ta không tìm được dấu vết, và anh chẳng biết phải đi đâu hay làm gì tiếp,
còn người duy nhất anh nghĩ mình có thể tâm sự nỗi niềm đau đớn lại là người không
được biết tình cảm của anh. Kể cả nếu cậu ấy không sắp chết.”

“Will. Will.” Cô đặt tay lên tay anh. “Hãy nghe em này. Đây là về chuyện tìm Tessa. Em
tin mình biết Mortmain ở đâu.”

Nghe tới đó, mắt anh mở lớn. “Sao em biết?”

“Em ở gần nên nghe rõ Jessamine nói gì lúc lâm chung,” Cecily nói, và cảm nhận được
máu đang chảy rần rần dưới da anh. Tim anh đập rộn. “Cô ấy nói anh không xứng là
người xứ Wales.”

“Jessamine ư?” Anh có vẻ bối rối, nhưng cô thấy mắt anh hơi nheo lại. Có lẽ, trong vô
thức, anh đã bắt kịp mạch suy nghĩ của cô.

“Cô ấy cứ nói Mortmain đang ở Idris. Nhưng Clave biết không phải,” Cecily nói liến
thoắng. “Anh không biết Mortmain hồi ông ta sống tại Wales, nhưng em thì có. Ông ta
biết rõ vùng đó. Và anh khi xưa cũng vậy. Chúng ta sống dưới bóng núi mà, Will. Nghĩ
đi.”

Anh chăm chăm nhìn cô. “Em không nghĩ là… Cadair Idris đó chứ?”

“Ông ta biết dãy núi đó, Will,” cô nói. “Và ông ta thấy điều đó buồn cười, một trò trêu
ngươi anh và các Nephilim. Ông ta đưa chị ấy đến đúng nơi anh đã từ đó ra đi. Ông ta
đưa chị ấy về quê chúng ta.”
“Sữa pha rượu?” Gideon nói và cầm lấy cái cốc đang bốc hơi khỏi tay Sophie. “Tôi thấy
mình như trẻ con ấy.”

“Trong đó có thảo dược và rượu. Nó sẽ giúp cho anh bồi bổ máu.” Sophie cố tình tỏ vẻ
bận rộn, không nhìn thẳng vào Gideon khi đặt khay xuống táp đầu giường. Anh đang
ngồi, một bên ống quần bị cắt ngay dưới đầu gối và chân thì bị quấn băng. Tóc anh vẫn
rối bù sau trận chiến, và dù anh đã thay sang quần áo mới, ở người anh vẫn thoang thoảng
mùi máu và mồ hôi.

“Những cái này giúp tăng máu cho anh,” anh nói và chìa cánh tay có hai chữ rune thay
máu sangliers.

“Vậy anh không muốn uống sữa hả?” Cô chống nạnh, hỏi. Cô vẫn nhớ mình bực bội với
anh thế nào về vụ bánh nướng, nhưng đã hoàn toàn tha thứ cho anh sau đêm qua, khi đọc
thư anh viết cho Quan Chấp Chính (cô chưa gửi đi được – nó vẫn nằm trong túi cái tạp dề
vấy máu). Hôm nay, khi người máy chém vào chân anh tại thềm Học Viện và anh ngã
xuống, máu tuôn ra từ vết thương hở, cảm giác hoảng hốt ngập tràn tim cô khiến đến
chính bản thân cô còn phải ngạc nhiên.

“Không ai thích sữa pha rượu hết,” anh nói, kèm theo một nụ cười yếu ớt nhưng thu hút.

“Tôi phải ở lại giám sát anh uống, hay anh định nhét xuống dưới giường nào? Vì sau đó
chúng ta sẽ có chuột.”

Anh rất có tài diễn mặt ngượng ngùng; Sophie ước giá mà mình có mặt khi Briget vào
phòng anh và tuyên bố rằng mình tới dọn đống bánh nướng dưới gầm giường. “Sophie,”
anh nói và khi cô nghiêm nghị nhìn, anh uống một ngụm lớn. “Cô Collins. Tôi chưa có
cơ hội đàng hoàng xin lỗi cô, vậy hãy để tôi nói ra ngay bây giờ. Xin hãy tha thứ vì tôi đã
lấy đống bánh nướng để lừa gạt cô. Tôi không hề có ý coi thường cô. Tôi mong cô không
nghĩ tôi miệt thị cô hay vai trò của cô trong nhà, vì cô là quý cô tốt bụng nhất và dũng
cảm nhất tôi từng được hân hạnh quen biết.”

Sophie bỏ tay khỏi hông. “Ờ,” cô nói. Không có nhiều quý ông chịu xin lỗi một người
hầu. “Một lời xin lỗi rất chân thành.”

“Và tôi chắc chắn bánh nướng rất ngon,” anh vội vàng bổ sung. “Chỉ là tôi không thích
bánh nướng. Tôi chưa từng thích. Chứ không phải do bánh nướng của cô.”

“Làm ơn đừng nói từ ‘bánh nướng’ nữa, anh Lightwood.”

“Được.”
“Và chúng không phải bánh nướng của tôi; Bridget làm bánh.”

“Ừ.”

“Và anh lại không uống sữa.”

Anh mở miệng, rồi vội vàng ngậm lại và bưng cốc lên. Khi anh nhìn cô qua vành cốc, cô
mủi lòng và mỉm cười. Mắt anh sáng lên.

“Được rồi,” cô nói. “Anh không thích bánh nướng. Anh thích bánh xốp chứ?”

Giờ đã là giữa chiều, mặt trời lên cao và dịu dàng tỏa nắng. Chừng một tá Thợ Săn Bóng
Tối thuộc Enclave cùng vài Tu Huynh Câm đang đi lại khắp Học Viện. Họ đã đưa xác
Jessamine cùng Tu Huynh Cecily không biết tên đi. Cô nghe thấy những giọng nói trong
sân, và tiếng kim loại loảng xoảng trong lúc Enclave xem xét chiến trường.

Nhưng trong phòng khách, âm thanh lớn nhất lại là tiếng đồng hồ quả lắc kêu tích tắc nơi
góc phòng. Rèm được vén lên, và trong ánh sáng nhợt nhạt, Quan Chấp Chính cau mày
đứng đó, cánh tay to bè khoanh lại trước ngực. “Thật điên rồ, Charlotte,” ông ta nói.
“Điên rồ không tả được, và toàn dựa trên trí tưởng tượng của một đứa trẻ.”

“Cháu không phải trẻ con,” Cecily gắt. Cô đang ngồi trên cái ghế cạnh lò sưởi, chính là
cái ghế Will ngủ tối qua – có phải chỉ cách nay một quãng thời gian ngắn không? Will
đứng cạnh, trừng mắt nhìn. Anh chưa thay quần áo. Henry đang trong phòng Jem cùng
các Tu Huynh Câm; Jem chưa tỉnh, và chỉ vì Quan Chấp Chính đến nên Charlotte và Will
mới rời chỗ Jem. “Và chú biết thừa rằng bố mẹ cháu có quen Mortmain. Ông ta làm thân
với gia đình cháu, bố cháu. Ông ta giao trang viên Ravenscar cho nhà cháu khi bố cháu…
khi gia đình cháu mất căn nhà gần Dolgellau.”

“Đúng vậy,” Charlotte, đứng đằng sau cái bàn ngổn ngang giấy tờ của mình, nói. “Cháu
đã nói với chú những điều Ragnor Fell báo lại về nhà Herondale vào hồi hè rồi.”

Will bỏ nắm đấm khỏi túi quần và bực bội nhìn thẳng Quan Chấp Chính. “Mortmain coi
việc trao ngôi nhà đó cho gia đình cháu là một trò đùa! Ông ta đùa bỡn chúng ta. Thế thì
tại sao ông ta không đùa dai thêm?”

“Đây, chú Josiah,” Charlotte nói và chỉ một tờ giấy trên mặt bàn. Đấy là bản đồ xứ
Wales. “Đây là hồ Lyn ở Idris… còn đây, hồ Tal-y-Llyn, ở chân núi Cadair Idris…”
“Llyn nghĩa là ‘hồ’ rồi,” Cecily bực dọc nói. “Và người Wales gọi nó là Llyn Mwyngil,
dù có vài người gọi là Tal-y-Llyn…”

“Và có lẽ có những nơi khác trên thế giới được đặt tên Idris,” Quan Chấp Chính gắt trước
khi nhận ra mình đang cãi cọ với một cô gái mười lăm tuổi, rồi thôi.

“Nhưng điều này có ý nghĩa gì đó,” Will nói. “Người ta bảo những hồ nước quanh ngọn
núi đó sâu không thấy đáy… rằng ngọn núi ấy rỗng ruột, bên trong đó là Cwn Annwn,
Con Chó Địa Ngục, đang ngủ vùi.”

“Hội Săn Hoang,” Charlotte nói.

“Đúng.” Will vuốt ngược mái tóc đen ra sau. “Chúng ta là Nephilim. Chúng ta tin vào
những truyền thuyết, huyền thoại. Mọi câu chuyện đều có thật. Còn nơi nào ẩn mình và
che giấu đám máy móc kì cục kia tuyệt hơn một ngọn núi rỗng ruột ẩn chứa ma thuật và
điềm báo tử? Sẽ chẳng ai thấy lạ khi nghe thấy những âm thanh kì quặc từ núi vang ra, và
không một người dân địa phương nào lại muốn đi tìm hiểu. Còn vì lí do nào nữa mà ông
ta ở đó? Cháu luôn thắc mắc sao ông ta lại đặc biệt để ý tới gia đình cháu. Có lẽ lí do rất
đơn giản – ông ta muốn chớp cơ hội làm suy đồi một gia đình Nephilim. Mortmain rất
muốn vậy.”

Quan Chấp Chính dựa vào bàn, mắt nhìn bản đồ dưới tay Charlotte. “Vẫn chưa đủ.”

“Chưa đủ? Chưa đủ cho cái gì?” Cecily hét lên.

“Để thuyết phục Clave.” Quan Chấp Chính đứng lên. “Charlotte, cháu phải hiểu. Để phát
động tấn công Mortmain vì cho rằng ông ta đang ở Wales, chúng ta sẽ phải triệu tập cuộc
họp Hội Đồng. Chúng ta không thể đưa một lượng quân ít ỏi và có thể bị áp đảo, nhất là
bởi những sinh vật kia – sáng nay có bao nhiêu con tấn công Luân Đôn?”

“Sáu hay bảy gì đó, không tính con bắt Tessa,” Charlotte nói. “Chúng cháu tin chúng có
thể thu nhỏ, do vậy mới vừa không gian chật hẹp trong xe ngựa.”

“Và chú tin Mortmain không biết Gabriel và Gideon đang ở đây, nên tính sai số lượng
người máy phải đưa đi. Nếu không, có lẽ các cháu chết cả rồi.”

“Không phải sai ở chỗ anh em Lightwood,” Will lầm bầm. “Cháu nghĩ ông ta đánh giá
thấp Bridget. Cô ấy xả nát ba người máy cứ như cắt món gà tây.”

Quan Chấp Chính giơ tay lên trời. “Chúng ta đã đọc giấy tờ của Benedict Lightwood.
Trong đó ông ấy nói thành trì của Mortmain ở ngay ngoài Luân Đôn, và rằng Mortmain
dự định sẽ đưa một đội quân tấn công Enclave Luân Đôn…”
“Khi viết những dòng đó, Benedict Lightwood đang nhanh chóng hóa điên hóa rồ,”
Charlotte ngắt ngang. “Mà chú có nghĩ Mortmain lại đi chia sẻ kế hoạch thật sự với ông
ta không?”

“Và tiếp đây và tiếp nữa là gì nào?” Giọng Quan Chấp Chính gắt gỏng, nhưng nghe lạnh
lùng nguy hiểm. “Benedict không có lí do gì lại đi viết những điều sai sự thật vào nhật kí,
Charlotte, còn cháu đáng ra không được đọc chúng. Nếu không phải cháu cho rằng cháu
cần biết nhiều thông tin hơn Hội Đồng, cháu đã giao nộp chúng ngay rồi. Thái độ bất
tuân lệnh đó khiến chú không dám tin cháu. Nếu cần, cháu hãy đem vấn đề Wales bàn
luận với Hội Đồng trong buổi họp hai tuần nữa…”

“Hai tuần nữa?” Will lên giọng; mặt anh tái mét, những điểm đỏ lốm đốm khắp má.
“Tessa bị bắt hôm nay. Cô ấy không có hai tuần.”

“Ông Chủ không định hại cô ấy. Em biết mà, Will,” Charlotte nhẹ nhàng nói.

“Nhưng ông ta muốn kết hôn với Tessa! Chị không nghĩ cô ấy thà chết còn hơn làm đồ
chơi trong tay ông ta sao? Cô ấy có thể kết hôn ngay ngày mai…”

“Và với quỷ cũng được!” Quan Chấp Chính nói. “Một cô gái không phải Nephilim không
phải và không thể là ưu tiên của chúng ta!”

“Cô ấy là ưu tiên của cháu!” Will hét.

Im lặng. Cecily nghe rõ tiếng củi ướt nổ lốp bốp trong lò sưởi. Sương đọng ngoài cửa sổ
có màu vàng sậm, còn gương mặt Quan Chấp Chính khuất trong bóng tối. Cuối cùng.
“Chú nghĩ cô ấy là hôn thê parabatai của cháu,” ông ta nghiêm nghị nói. “Chứ không
phải của cháu.”

Will hất hàm. “Nếu cô ấy là hôn thê của Jem, vậy cháu có nghĩa vụ phải bảo vệ như thể
cô ấy là hôn thê của cháu. Parabatai là thế.”

“À, vâng.” Giọng Quan Chấp Chính ngập ý mỉa mai. “Thật là trung thành.” Ông ta lắc
đầu. “Herondale. Cứng đầu cứng cổ. Chú còn nhớ cái ngày bố cháu muốn kết hôn cùng
mẹ cháu. Chẳng gì có thể khiến ông ấy đổi ý, dù bà ấy chẳng phải ứng cử viên Tiến Cấp.
Chú đã hi vọng con cái ông ấy dễ bảo hơn.”

“Xin thứ lỗi nếu anh em cháu không đồng ý,” Will nói, “vì nếu bố cháu dễ bảo hơn, như
chú nói, chúng cháu đã chẳng có mặt trên cõi đời.”

Quan Chấp Chính lắc đầu. “Đây là một cuộc chiến,” ông ta nói. “Chứ không phải cuộc
giải cứu.”
“Và cô ấy không phải một cô gái bình thường,” Charlotte bảo. “Cô ấy là vũ khí rơi vào
tay kẻ thù. Cháu muốn nói với chú rằng Mortmain định dùng cô ấy đối chọi với chúng
ta.”

“Đủ rồi.” Quan Chấp Chính nhấc cái áo khoác đang khoác trên ghế và mặc vào. “Cuộc
thảo luận này chẳng đem lại lợi ích gì. Charlotte, hãy trông nom các Thợ Săn Bóng Tối
của cháu đi.” Ông nhìn Will và Cecily. “Họ có vẻ… kích động.”

“Có vẻ cháu không thể ép chú hợp tác, Quan Chấp Chính.” Mặt Charlotte như sầm sì như
ngày dông bão. “Nhưng hãy nhớ rằng cháu đã báo cáo chú về chuyện này. Nếu cuối cùng
chúng cháu đúng và tai họa ập xuống vì sự trì hoãn hôm nay, lỗi sẽ thuộc về chú.”

Cecily tưởng Quan Chấp Chính sẽ giận, nhưng ông ta chỉ đội mũ lên, che đi mọi biểu
cảm. “Đấy là trách nhiệm của Quan Chấp Chính, Charlotte ạ.”

Máu. Máu trên sân. Máu nhớp nháp cầu thang trong nhà. Máu dính trên lá cây trong
vườn, phần thi thể còn xót lại của anh rể Gabriel nằm giữa vùng máu khô đặc quánh,
những tia máu nóng phun lên bộ đồ đi săn của Gabriel khi mũi tên găm trúng mắt bố
anh…

“Hối hận vì quyết định ở lại Học Viện hả, Gabriel?” Giọng nói lạnh lùng, quen thuốc cắt
ngang qua những suy tư trăn trở của Gabriel, và anh hít một hơi ngước lên.

Quan Chấp Chính đứng ngay trước mắt, ánh nắng yếu ớt bao viền khung người ông ta.
Ông ta mặc áo bành tô dày, đeo găng và trông như thể Gabriel đã làm gì khiến ông ta
hứng thú.

“Cháu…” Gabriel hít một hơi, buộc lời nói vang ra rành mạch. “Không. Tất nhiên là
không.”

Quan Chấp Chính nhướng một bên mày. “Chắc hẳn đó là lí do cháu ngồi chồm hỗm
ngoài hông nhà thờ, mặc đồ dính máu, trông như thể sợ ai đó tìm ra mình.”

Gabriel vội vàng đứng dậy, mừng vì có bức tường đá cứng phía sau trợ lực. Anh lườm
Quan Chấp Chính. “Ý chú là cháu không tham chiến? Rằng cháu bỏ chạy?”

“Chú chẳng hề có ý gì như thế hết,” Quan Chấp Chính hòa nhã nói. “Chú biết cháu có
tham chiến. Chú biết anh cháu bị thương…”

Gabriel hít một hơi rệu rã, và mắt Quan Chấp Chính nheo lại.
“À,” ông ta nói. “Là vậy, phải không? Cháu thấy bố chết, và cháu nghĩ cháu cũng phải
chứng kiến anh mình chết nữa?”

Gabriel thật muốn cào bức tường đằng sau. Anh muốn đấm thẳng vào khuôn mặt giả dối,
thớ lợ của Quan Chấp Chính. Anh muốn chạy lên lầu và gieo mình xuống giường anh
trai, nhất quyết không chịu rời như Will không chịu rời Jem tới khi Gabriel ép mãi mới
nghe. Will là người anh em tốt với Jem còn hơn anh với Gideon, anh cay đắng nghĩ, và
giữa họ chẳng có quan hệ máu mủ ruột rà gì. Chính điều đó phần nào đã khiến anh rời
Học Viện, tới chỗ khuất đằng sau chuồng ngựa này. Anh đã tự nhủ chắc chắn chẳng có ai
tới đây để tìm anh.

Anh đã sai. Nhưng anh vẫn thường sai, vậy thêm một lần nữa đã sao?

“Cháu thấy anh mình chảy máu,” Quan Chấp Chính nói, vẫn bằng cái giọng hòa nhã như
cũ. “Và cháu nhớ lại…”

“Cháu biết bố mình,” Gabriel nói. “Cháu bắn tên vào mắt ông ấy – cháu làm ông ấy đổ
máu. Chú nghĩ cháu không biết vậy là sao à? Máu ông ấy sẽ hét gọi cháu từ mặt đất, như
máu Abel gọi Cain. Mọi người đều nói ông ấy không còn là bố cháu nữa, nhưng đấy là
chút gì còn lại của ông ấy. Ông ấy từng là người nhà Lightwood. Và hôm nay Gideon
suýt chết. Mất thêm cả anh ấy nữa…”

“Cháu hiểu ý chú rồi đấy,” Quan Chấp Chính nói. “Khi chú nói về Charlotte và chuyện
cô ta bất tuân Luật. Chuyện ấy có thể lấy mạng kẻ khác. Anh cháu có thể đã phải tế mạng
mình chỉ vì lòng tự cao tự đại của cô ấy.”

“Cô ấy có vẻ không phải kiểu người đó.”

“Vì thế cháu viết cái này à?” Quan Chấp Chính rút từ túi áo khoác ra lá thư đầu tiên
Gabriel và Gideon gửi ông ta. Ông ta miệt thị nhìn rồi thả nó rơi xuống đất. “Lá thư lố
bịch này là nhằm chọc giận chú hả?”

“Có thành công không?”

Gabriel cứ tưởng Quan Chấp Chính sẽ đánh mình. Nhưng vẻ giận dữ nhanh chóng biến
mất khỏi mắt người đàn ông kia; khi lại cất tiếng, ông ta nói rất bình tĩnh. “Chắc chú
không nên mong đợi người nhà Lightwood sẽ phản ứng tốt khi bị tống tiền. Bố cháu
không thế. Chú thú thực là chú nghĩ cháu dễ nắn gân hơn.”

“Nếu chú định tìm cách khác thuyết phục cháu thì quên đi,” Gabriel nói. “Chẳng ích gì
đâu.”
“Thật à? Cháu cúc cung tận tụy với Charlotte Branwell đến thế sau những chuyện người
nhà cô ta đã làm với nhà cháu? Chú có thể nghĩ thế về Gideon – cậu ấy giống mẹ cháu.
Quá nhẹ dạ cả tin. Nhưng cháu thì không, Gabriel. Chú nghĩ trong dòng máu cháu mang
niềm kiêu hãnh lớn hơn.”

Gabriel ngả đầu vào tường. “Chẳng có gì hết,” anh nói. “Chú hiểu chưa? Chẳng có gì
trong mấy bức thư của Charlotte có thể khiến chú, hay bất cứ ai, bận lòng. Chú bảo với
bọn cháu rằng chú sẽ khiến chúng cháu thân bại danh liệt nếu chúng cháu không báo cáo
các hoạt động của cô ấy, nhưng chẳng có gì để báo cáo hết. Chú không cho chúng cháu
quyền lựa chọn.”

“Cháu cứ nói thật là được.”

“Chú không muốn nghe,” Gabriel nói. “Cháu không ngu, và anh cháu cũng thế. Chú
muốn đẩy Charlotte khỏi vị trí lãnh đạo Học Viện, nhưng chú không muốn để trắng phớ
ra là chính tay chú làm điều đó. Chú muốn khám phá ra rằng cô ấy đang dính dáng đến
một thỏa thuận phi pháp nào đó. Nhưng sự thật là chẳng có gì để khám phá hết.”

“Đổi trắng thay đen được hết. Ta có thể khám phá ra sự thật, nhưng tạo ra cũng được.”

Gabriel nhìn thẳng Quan Chấp Chính. “Chú muốn cháu nói dối chú?”

“Ôi, không,” Quan Chấp Chính nói. “Không phải với chú.” Ông ta đặt tay lên vai
Gabriel. “Nhà Lightwood luôn trọng danh dự. Bố cháu đã phạm sai lầm. Cháu không
phải trả giá. Hãy để chú trả lại cháu những gì cháu đã mất. Hãy để chú trả lại cháu trang
viên nhà Lightwood, danh dự dòng họ cháu. Cháu có thể sống trong căn nhà đó cùng anh
trai em gái. Cháu không còn phải sống dựa vào lòng tốt của Enclave nữa.”

Lòng tốt. Từ đó thật cay đắng. Gabriel nghĩ tới máu của anh trai ngoài sân Học Viện. Nếu
không phải Charlotte ngu ngốc cứ nhất nhất đưa cô gái biến hình kia vào sống trong Học
Viện, mặc kệ sự phản đối của Clave và Quan Chấp Chính, Ông Chủ đã chẳng đưa quân
tấn công Học Viện. Máu của Gideon sẽ không phải đổ.

Đúng ra, một giọng nho nhỏ vang trong đầu anh, nếu không vì Charlotte, bí mật của bố
vẫn sẽ là bí mật. Benedict sẽ không bị ép phải phản bội Ông Chủ. Ông sẽ không mất
nguồn thuốc kiềm chế astriola. Ông ấy có lẽ sẽ không hề biến đổi. Hai con trai ông sẽ
không bao giờ biết về tội lỗi của bố mình. Nhà Lightwood vẫn được giữ tính trịch thượng
tự cao tự đại như cũ.

“Gabriel,” Quan Chấp Chính nói. “Chú chỉ đề nghị với một mình cháu. Hãy giữ bí mật
với anh cháu. Cậu ấy giống mẹ, quá tận trung. Tận trung với Charlotte. Ừ thì trung thành
cũng là đức tính của cậu ấy, nhưng chẳng giúp được gì cho chúng ta. Cứ nói lại là chú
chán những trò hề của các cháu rồi; và rằng chú không muốn các cháu hành động gì
thêm. Cháu giỏi nói dối” – tới đây ông ta cười gian xảo – “và chú chắc chắn cháu sẽ
thuyết phục được anh mình. Ý cháu thế nào nào?”

Gabriel nghiến răng. “Chú muốn cháu làm gì?”

Will cục cựa trong cái ghế bành bên giường Jem. Anh đã ở đây nhiều giờ, lưng bắt đầu
cứng đờ, nhưng nhất quyết không chịu rời. Biết đâu Jem sẽ tỉnh, và muốn thấy anh.

May mà trời không lạnh. Bridget đã khơi lửa trong lò; củi ướt cháy lốp bốp, thi thoảng
bắn những tia lửa đỏ. Màn đêm ngoài cửa sổ tối tăm chẳng có chút ánh xanh hay mây gì,
chỉ trong vắt một màu như được tô lên kính.

Cây đàn của Jem được dựa vào chân giường, và cây gậy, vẫn ướt nhờn những máu từ trận
chiến trên sân, nằm cạnh. Jem thì nằm yên trên gối, gương mặt trắng tái chẳng có lấy một
chút sắc hồng. Will có cảm giác như sau một thời gian dài xa cách, nay anh mới được
trôn thấy bạn, và đang trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhận ra sự khác biệt nơi khuôn mặt
thân thuộc trước khi sau đó nó trở thành một phần của cuộc sống. Jem quá gầy – sao Will
lại chẳng hề nhận ra nhỉ? – chẳng còn chút thịt nào đắp trên xương gò má, quai hàm và
trán, khiến cậu ấy trông quá hốc hác. Mí mắt nhắm cùng khóe miệng của cậu ấy ánh lên
sắc xanh nhợt. Xương quai xanh cong vòng trông như mũi thuyền.

Will nhiếc mắng mình. Sao anh lại không nhận ra rằng những tháng vừa qua Jem đang
chết dần chết mòn – sự sống lìa bỏ cậu ấy quá nhanh, quá sớm? Sao anh không hề trông
thấy tử thần đang lăm le lưỡi hái cạnh cậu ấy?

“Will.” Một giọng khẽ vang tại cửa. Anh mơ màng ngước lên và thấy Charlotte đang thò
đầu vào. “Có… người tới muốn gặp em.”

Will chớp mắt khi Charlotte tránh đường cho Magnus Bane bước vào phòng. Vào khoảnh
khắc ấy Will không biết phải nói gì.

“Anh ấy nói em nhắn anh ấy đến,” Charlotte nói, có vẻ hơi nghi ngờ. Magnus đứng đó,
trông thờ ơ, mặc vét màu xám đen. Anh ta từ từ cởi đôi găng da dê màu xám sẫm khỏi
bàn tay da nâu gầy.

“Đúng là thế,” Will nói, có cảm giác như mình vừa tỉnh giấc. “Cảm ơn chị, Charlotte.”
Charlotte nhìn anh bằng ánh mắt vừa cảm thông vừa hàm chứa thông điệp, Tỉnh táo vào,
Will Herondale, rồi rời phòng, nhẹ nhàng đóng cửa.

“Anh đến rồi,” Will nói, dù biết câu ấy thật ngu ngốc. Anh không thích nghe người ta đưa
ra nhận xét rành rành trước mắ, và anh lại vừa làm đúng như thế. Anh không thể rũ bỏ
cảm giác lúng túng. Thấy Magnus ở đây, giữa phòng Jem, giống như thấy một hiệp sĩ tiên
ngồi giữa các luật sư biện hộ tại Old Bailey.

Magnus vứt găng tay xuống bàn và tới giường. Anh ta chống tay xuống một cọc giường,
cúi nhìn Jem trắng bệch nằm yên bất động như thể hình tạc trên mộ. “James Carstairs,”
anh ta nói, lầm bầm gọi như thể những từ đó mang một sức mạnh ma thuật.

“Cậu ấy sắp chết,” Will nói.

“Nhìn là thấy rồi.” Câu nói lạnh lùng ấy qua giọng Magnus lại chất chứa một nỗi buồn
lớn, một nỗi buồn Will giật mình thấy quen thuộc kinh khủng. “Tôi tưởng cậu nghĩ cậu
ấy còn vài ngày, hoặc một tuần.”

“Đây không chỉ vì thiếu thuốc,” giọng Will nghe rệu rã; anh hắng giọng. “Đúng ra, chúng
tôi vừa có thêm một ít, và dùng tiết kiệm. Nhưng chiều nay có một trận chiến, cậu ấy mất
máu và yếu đi. Chúng tôi lo cậu ấy không đủ sức để hồi phục nữa.”

Magnus nhẹ nhàng cầm tay Jem lên. Có vết thâm trên những ngón tay xanh xao của Jem,
và những đường gân xanh nổi rõ như bản đồ sông dưới da cổ tay. “Cậu ấy có đau đớn gì
không?”

“Tôi không biết.”

“Có lẽ để cậu ấy chết lại tốt hơn.” Magnus nhìn Will bằng đôi mắt màu xanh vàng sậm.
“Đời người có hạn, Will ạ. Và khi chọn cậu ấy làm parabatai, cậu cũng thừa biết rằng
cậu ấy sẽ chết trước cậu.”

Will nhìn thẳng. Anh có cảm giác như bị ném xuống một cái giếng tối tăm không đáy,
không có chỗ cho anh bấu víu giảm tốc độ rơi. “Nếu anh nghĩ vậy là tốt nhất cho cậu ấy.”

“Will.” Giọng Magnus dịu dàng nhưng khẩn khoản. “Cậu gọi tôi tới vì hi vọng tôi giúp
được cậu ấy?”

Will đờ đẫn ngước mắt lên. “Tôi không biết sao lại gọi anh nữa,” anh nói. “Tôi không
nghĩ là vì tôi tin anh có thể làm gì. Có lẽ tôi nghĩ anh là người duy nhất hiểu.”

Magnus tỏ vẻ ngạc nhiên. “Người duy nhất hiểu?”


“Anh đã sống rất lâu,” Will nói. “Chắc anh phải chứng kiến nhiều người mình yêu quý
qua đời. Thế nhưng anh vẫn tiếp tục sống được.”

Magnus vẫn kinh ngạc. “Cậu gọi tôi – một pháp sư – tới Học Viện, ngay sau một trận
chiến mà tất cả suýt chết – để tâm sự?”

“Tôi thấy dễ tâm sự với anh,” Will nói. “Tôi cũng chẳng rõ vì sao nữa.”

Magnus chậm rãi lắc đầu, rồi dựa vào cọc giường. “Cậu còn quá trẻ,” anh ta nói khẽ
khàng. “Nhưng nói gì thì nói, tôi không hề nghĩ có Thợ Săn Bóng Tối gọi tôi đến chỉ để
nói chuyện cà kê qua đêm.”

“Tôi không biết phải làm gì,” Will nói. “Mortmain đã bắt Tessa, và tôi tin mình biết cô ấy
có thể ở đâu. Một phần trong tôi không muốn gì hơn là được đi tìm cô ấy. Nhưng tôi
không thể rời Jem. Tôi đã thề rồi. Và nếu cậu ấy tỉnh dậy giữa đêm mà không thấy tôi thì
sao?” Anh ngơ ngác như một đứa trẻ. “Cậu ấy sẽ nghĩ tôi cố tình bỏ rơi cậu ấy, không
quan tâm rằng cậu ấy sắp chết. Cậu ấy sẽ không biết. Nhưng nếu cậu ấy có thể nói, cậu ấy
sẽ chẳng bảo tôi đi tìm Tessa ư? Đó không phải điều cậu ấy muốn sao?” Will vùi mặt vào
tay. “Tôi không thể nói, và điều đó như xé tôi làm đôi.”

Magnus im lặng nhìn anh một lúc lâu. “Cậu ấy có biết cậu yêu Tessa không?”

“Không.” Will hoảng hốt ngẩng đầu. “Không. Tôi chưa từng nói một chữ nào. Đấy không
phải gánh nặng của cậu ấy.”

Magnus hít một hơi sâu và ôn tồn bảo. “Will. Cậu xin tôi lời khuyên, vì tôi sống lâu và
chôn cất rất nhiều người thân yêu. Tôi có thể nói với cậu rằng điểm kết của một cuộc đời
là tổng số tình yêu cậu được hưởng, rằng dù cậu nghĩ mình đã thề nhưng ở đây đến phút
cuối đời Jem không phải quan trọng. Mà là ở đây mỗi một phút giây khác. Từ lúc cậu gặp
cậu ấy, cậu chưa từng rời bỏ cậu ấy và chưa từng không yêu quý cậu ấy. Đấy mới là quan
trọng.”

“Anh nói thật lòng,” Will bâng khuâng, rồi nói tiếp. “Sao anh tốt với tôi thế? Tôi vẫn nợ
anh một ân huệ, đúng không? Tôi còn nhớ, dù anh chưa từng yêu cầu tôi.”

“Thế à?” Magnus nói rồi mỉm cười. “Will, cậu coi tôi là người, cũng như cậu; hiếm có
Thợ Săn Bóng Tối nào đối xử với pháp sư như thế lắm. Tôi không vô tâm tới độ còn đi
sai bảo một chàng trai đang đau lòng đâu. Mà nhân tiện, tôi nghĩ rồi cậu sẽ trở thành một
người đàn ông rất được đấy. Vậy nên tôi sẽ nói với cậu thế này. Tôi sẽ ở lại đây khi cậu
đi, và tôi sẽ để mắt trông chừng Jem giùm cậu, và nếu cậu ấy tỉnh, tôi sẽ cho cậu ấy biết
cậu đã đi đâu, và rằng cậu đi là vì cậu ấy. Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giữ mạng
cậu ấy: Tôi không có ngân phiến, nhưng tôi biết phép thuật, và có lẽ có gì đó trong mấy
cuốn sách phép cổ có thể giúp cậu ấy.”

“Cảm ơn anh rất nhiều,” Will nói.

Magnus đứng nhìn Jem. Gương mặt vốn thường vui vẻ, cợt nhả hoặc bất cần, mang một
nỗi buồn khiến Will ngạc nhiên. “‘Dù biết nỗi đau dễ lan rộng, nhưng sao tôi lại muốn
dốc lòng yêu thương một người phải chết?’” Magnus nói.

Will ngước nhìn anh ta. “Sao cơ?”

“Trích Tự thú của thánh Augustine,” Magnus nói. “Cậu hỏi sao một người bất tử như tôi
có thể tiếp tục sống khi đã chứng kiến bao nhiêu cái chết như thế. Đấy cũng chẳng phải bí
mật lớn lao gì. Cậu chịu đựng những gì không chịu nổi. Rồi cuối cùng cậu sẽ chịu nổi
thôi.” Anh ta lui khỏi giường. “Tôi sẽ để cậu ở cùng cậu ấy một lát, để tạm biệt nếu cậu
cần. Cậu có thể tìm tôi trong thư viện.”

Will gật đầu, không nói không rằng khi Magnus cầm găng tay rồi quay người rời phòng.
Đầu óc Will đang quay cuồng.

Anh lại nhìn Jem đang nằm im bất động trên giường. Mình phải chấp nhận đây là kết
thúc, anh nghĩ và kể cả suy nghĩ của anh cũng trống trải và xa xăm. Mình phải chấp nhận
Jem sẽ chẳng bao giờ nhìn mình, không bao giờ nói chuyện với mình nữa. Mình chịu
đựng cái không chịu đựng nổi, và rồi sẽ chịu được thôi.

Nhưng anh vẫn thấy có gì đó không thật, như thể đây là mơ. Anh đứng lên và nhìn thân
hình nằm im của Jem. Anh chạm nhẹ vào má parabatai của mình. Thật lạnh.

“Atque in pepetuum, frater, ave atque vale,” anh nói khẽ. Những lời trong bài thơ ấy
chưa bao giờ hợp đến vậy: Mãi mãi, người anh em, xin chào và tạm biệt.

Will đứng thẳng định quay đi. Đúng lúc đó, anh thấy cổ tay mình bị nắm chặt. Anh nhìn
xuống và thấy tay Jem đang cầm chắc tay anh. Trong một thoáng, anh thảng thốt tới chỉ
biết trơ mắt nhìn.

“Tôi chưa chết, Will,” Jem nói nhỏ nhưng rõ ràng. “Magnus hỏi bồ rằng tôi có biết bồ
yêu Tessa không là sao?”
11

SỢ MÀN ĐÊM
Dù linh hồn tôi trong bóng tối, nhưng nó sẽ tỏa sáng rực rỡ

Tôi quá yêu những vì sao nên chẳng biết sợ màn đêm;

– Sarah Williams, The Old Astronomer

“Will?”

Sau một quãng thời gian im lặng rất lâu, chỉ nghe thấy có tiếng thở yếu ớt của Jem, Will
đã nghĩ rằng mình đang tưởng tượng ra bạn thân nói chuyện với mình. Khi Jem buông tay
Will, Will ngồi xuống ghế bành cạnh giường. Tim anh đập thình thịch, vừa an tâm vừa
hoảng sợ.

Gối đầu lên gối, Jem quay về phía anh. Mắt cậu sậm màu, sắc bạc bị màu đen nuốt mất.
Hai chàng trai trẻ cứ chăm chú nhìn nhau mất một lúc. Đó như sự bình yên trước chiến
trận, Will nghĩ, khi ý nghĩ bỏ trốn và sự không thể đừng được chiếm ưu thế.

“Will,” Jem nhắc lại, và họ, áp tay lên miệng. Khi anh bỏ tay, trên đó có máu. “Tôi… tôi
đang mơ à?”

Will ngồi thẳng dậy. Jem nói rất rõ, rất chắc chắn - Magnus hỏi bồ rằng tôi có biết bồ yêu
Tessa không là sao? – nhưng đó như chút hơi tàn rời bỏ Jem, và giờ cậu ấy nói nghe
choáng váng và bối rối.

Jem thật sự nghe thấy câu chuyện của anh và Magnus ư? Và nếu vậy, liệu có cách nào lừa
Jem rằng đó chỉ là một giấc mơ, một cơn hoang tưởng do sốt cao không? Ý nghĩ đó khiến
Will vừa an tâm vừa thất vọng. “Mơ gì?”

Jem nhìn bàn tay dính máu, và từ từ nắm chặt lại. “Trận chiến ngoài sân. Jessamine chết.
Và họ đã đưa cô ấy đi rồi, phải không? Tessa ấy.”

“Ừ,’ Will nói khẽ, và anh nhắc lại lời Charlotte đã nói với anh lúc trước. Chúng chẳng
khiến anh thấy khá hơn, nhưng biết đâu lại xoa dịu được Jem. :Đúng, nhưng mình không
nghĩ chúng sẽ làm hại cô ấy. Hãy nhớ, Mortmain không muốn cô ấy mất một cọng tóc.”

“Chúng ta phải tìm ra cô ấy. Bồ biết mà, Will. Chúng ta phải…” Jem cố ngồi lên, và lại
ho. Máu bắn ra ga giường trắng. Will giữ đôi vai gầy run rẩy của Jem tới khi cơn ho đã
ngừng tra tấn người Jem, rồi cầm một cái khăn ẩm trên táp đầu giường lau tay cho Jem.
Khi anh định lau máu trên mặt parabatai của mình, Jem nhẹ nhàng rút khăn khỏi tay bạn
và nghiệm nghị nhìn anh. “Tôi không phải trẻ con, Will.”

“Tôi biết.” Will rụt tay lại. Anh không lau tay kể từ sau trận chiến ngoài sân, và máu khô
của Jessamine cùng máu tươi của Jem dính trên tay anh.

Jem hít thật sâu. Cả anh và Will đều chờ đợi xem có thêm một tràng ho nào không, và khi
không có, Jem nói. “Magnus bảo bồ yêu Tessa. Có phải không?”

“Ừ,” Will nói và cảm thấy như mình vừa ngã khỏi bờ đá. “Đúng thế.”

Mắt Jem mở to và long lanh trong bóng tối. “Cô ấy có yêu bồ không?”

“Không,” giọng Will run run. “Tôi đã nói mình yêu cô ấy, và cô ấy chưa từng tỏ ý do dự,
muốn rời xa bồ. Người cô ấy yêu là bồ.”

Bàn tay đang nắm chặt khăn của Jem thả lỏng chút đỉnh. “Bồ đã nói với cô ấy,” Jem bảo.
“Rằng bồ yêu cô ấy.”

“Jem…”

“Từ hồi nào, và động cơ là gì?”

“Ấy là trước khi tôi biết hai người đính ước. Đấy cũng là ngày tôi phát hiện ra mình
không hề bị nguyền rủa.” Will ngập ngừng. “Tôi tới gặp Tessa và bảo rằng tôi yêu cô ấy.
Cô ấy nhẹ nhàng nói cô ấy yêu bồ chứ không yêu tôi, và rằng hai người đã đính ước.”
Will cụp mắt. “Tôi không biết nói thế này bồ có thấy khác gì không, James. Nhưng tôi
thực sự không biết bồ thích cô ấy. Tôi hoàn toàn chỉ để ý tới cảm xúc của mình.”

Jem cắn môi dưới, khiến môi có chút sắc hồng. “Và – xin thứ lỗi nếu tôi hỏi thế này: đó
không phải một cơn bốc đồng, tình cảm thoáng qua…?” Cậu ấy ngừng lại, nhìn thẳng
Will. “Không,” Jem lầm bầm. “Tôi nhìn là biết không phải.”

“Tôi yêu cô ấy đủ nhiều để khi cô ấy bảo sẽ hạnh phúc khi ở bên bồ, tôi đã thề với mình
sẽ không bao giờ bộc bạch cảm xúc, không bao giờ thể hiện dù bằng lời nói hay cử chỉ,
không phải giờ hành động hay nói gì phương hại tới hạnh phúc của cô ấy. Tình cảm của
tôi không hề thay đổi, nhưng tôi quan tâm tới cô ấy và bồ nên tôi không nói một lời nào,
vì sợ bồ phát hiện.” Từ đó bật khỏi môi Will; có vẻ chẳng có lí do gì để kìm giữ lại. Nếu
Jem sẽ ghét anh, hãy để cậu ấy ghét anh vì sự thật chứ không phải vì một điều dối trá.

Jem choáng váng. “Tôi rất xin lỗi, Will. Rất, rất xin lỗi. Ước gì tôi biết…”

Will sụp người trong ghế. “Bồ có thể làm gì nào…”


“Tôi sẽ hủy đính ước…”

“Và khiến tim bồ tan nát? Thế thì tốt gì cho tôi nào? Với tôi bồ chẳng khác nào một nửa
linh hồn tôi, Jem ạ. Tôi không thể hạnh phúc khi bồ bất hạnh. Và Tessa – cô ấy yêu bồ.
Tôi là loại quái vật kinh khủng nào khi lại hả hê khiến hai con người tôi yêu nhất thế giới
khổ đau chỉ để tôi hài lòng biết nếu Tessa không thể là của tôi, cô ấy sẽ chẳng thuộc về ai
hết.”

“Nhưng bồ là parabatai của tôi. Nếu bồ đau đớn, tôi ước được làm dịu bớt…”

“Đây,” Will nói, “là điều bồ không thể giúp được.”

Jem lắc đầu. “Nhưng sao tôi không nhận ra chứ? Tôi đã tâm sự với bồ, đã thấy thành lũy
bao quanh trái tim bồ bị hạ xuống. Tôi tưởng – tôi tưởng mình biết lí do; tôi đã bảo rằng
tôi luôn biết bồ mang một gánh nặng, và tôi biết bồ đã tới gặp Magnus. Tôi những tưởng
phép thuật của anh ta giúp được bồ gì đó, đã giúp bồ thoát khỏi cái tội lỗi nào đó bồ
tưởng tượng ra. Nếu tôi biết ấy là nhờ Tessa, Will à, tôi sẽ không bao giờ thú thật lòng
mình với cô ấy.”

“Sao mà bồ đoán được chứ?” Will khổ sở, nhưng lại thấy thư thái như thể đã trút được
một gánh nặng lớn. “Tôi cố hết sức để che giấu và chối bỏ nó. Bồ… bồ chưa từng giấu
giếm cảm xúc của mình. Nhìn lại, nó rõ ràng và đơn giản, nhưng tôi chưa từng nhận ra.
Tôi kinh ngạc khi Tessa bảo hai người đã đính ước. Hai người đã mang lại cho tôi biết
bao điều tốt đẹp, James. Tôi chưa từng nghĩ bồ sẽ khiến tôi đau lòng, và vậy nên tôi
chẳng hề nghĩ gì tới tình cảm của bồ. Tôi thật quá mù quáng.”

Jem nhắm mắt. Mí mắt xanh sẫm, mỏng như giấy da. “Tôi buồn vì bồ đau khổ,” Jem nói.
“Nhưng tôi cũng mừng vì bồ yêu cô ấy.”

“Bồ mừng?”

“Vậy tôi sẽ dễ dàng nhờ bồ làm điều tôi muốn bồ làm hơn: hãy để tôi lại và đi tìm Tessa
đi.”

“Giờ? Trong tình hình này?”

Jem, kinh ngạc làm sao, mỉm cười. “Không phải lúc tôi tóm tay bồ, bồ cũng đang định
làm thế sao?”

“Nhưng… tôi không tin bồ lại tỉnh. Giờ đã khác. Tôi không thể bỏ bồ lại một mình đối
mặt với bất cứ cái gì bồ phải đối…”
Jem đưa tay lên, và trong một thoáng Will tưởng Jem sẽ nắm tay mình, nhưng cậu ấy chỉ
tóm tay áo bạn. “Bồ là parabatai của tôi,” cậu ấy nói. “Bồ đã bảo tôi có thể nhờ bồ bất cứ
điều gì.”

“Nhưng tôi đã thề sẽ ở cạnh bồ. ‘Cho đến khi cái chết chia lìa tôi và bạn…”

“Cái chết sẽ chia lìa chúng ta.”

“Bồ biết lời thề dài hơn thế,” Will nói. “‘Xin chớ nài tôi phân rẽ bạn; vì bạn đi đâu, tôi sẽ
đi đó; bạn ở nơi nào, tôi sẽ ở nơi đó, nếu đi làm bạn yếu mòn, tôi sẽ không đi.”

Jem kêu lên bằng tất cả sức mạnh còn lại. “Bồ không thể tới nơi tôi sẽ tới! Và tôi cũng
không muốn thế!”

“Nhưng tôi cũng không thể bỏ đi và mặc bồ chết!”

Đó. Will đã nói ra từ đó, chấp nhận khả năng đó. Chết.

“Tôi không còn dám nhờ vả ai.” Mắt Jem sáng, long lanh, gần như cuồng dại. “Bồ nghĩ
tôi không biết nếu bồ không đi tìm cô ấy thì sẽ chẳng ai đi ư? Bồ nghĩ cảm giác tôi không
thể đi, hay ít nhất là đi cùng cậu không giết chết tôi ư?” Cậu ấy nhoài về phía Will. Da
Jem trắng trong như chụp đèn bị ánh sáng chiếu qua, và giống như một cái đèn, ánh sáng
từ một nguồn nhiệt bên trong nào đó dường như chiếu xuyên qua cậu ấy. Jem nhích tay
trên ga. “Cầm tay tôi, Will.”

Will đờ đẫn nắm tay Jem. Anh tưởng mình sẽ cảm nhận một chút đau đớn nơi chữ rune
parabatai trên ngực, như thể nó biết anh đã lực bất tòng tâm và đang cảnh báo anh về cái
đau đớn sắp tới, cái đau quá lớn anh không tưởng tượng mình chịu đựng nổi và vượt qua.
Jem là tội lỗi lớn nhất của tôi, anh đã nói vậy với Magnus, và giờ đây, ngay lúc này, anh
đang chịu hình phạt. Anh những tưởng mất Tessa là bí tích giải tội của anh; anh chưa
từng nghĩ sẽ ra sao nếu anh mất cả hai người họ.

“Will,” Jem nói. “Suốt bao nhiêu năm qua, tôi đã cố cho bồ điều bồ không thể cho mình.”

Tay Will nắm càng chặt tay Jem, giờ gầy như một cành củi khô. “Và đó là gì?”

“Lòng tin,” Jem nói. “Rằng bồ tốt hơn bồ tưởng. Hãy tha thứ đi, bồ không lúc nào cũng
phải trừng phạt mình. Tôi luôn yêu quý bồ, Will, dù cho bồ có làm gì. Và giờ tôi cần bồ
giúp tôi làm một việc tôi không thể làm. Vì bồ là mắt khi tôi đui chột. Vì bồ là tay khi tôi
què quặt. Vì bồ là trái tim tôi khi tim tôi ngừng đập.”
“Không,” Will hoảng hốt. “Không, không. Tôi không thể làm được. Mắt bồ sẽ trông thấy,
tay bồ sẽ còn cảm giác, tim bồ sẽ tiếp tục đập.”

“Nhưng nếu không, Will…”

“Nếu tôi có thể xé mình làm đôi, tôi sẽ – một nửa của tôi sẽ ở cùng bồ và nửa còn lại đi
tìm Tessa…”

“Một nửa của bồ sẽ chẳng giúp được ai trong hai chúng tôi,” Jem nói. “Tôi không còn
biết phó thác ai đi tìm cô ấy, không ai sẵn sàng liều mạng, như tôi, để cứu cô ấy. Tôi cũng
sẽ bảo bồ nhận nhiệm vụ này kể cả nếu tôi không biết tình cảm của bồ, nhưng biết chắc
rằng bồ cũng yêu quý cô ấy như tôi – Will, tôi tin bồ hơn ai hết, và biết rằng bồ luôn
đồng lòng với tôi trong vấn đề này. Wo men shi jie bai xiong di – chúng ta còn hơn anh
em của nhau, Will. Hãy nhận công việc này, và bồ không chỉ làm vì bản thân, mà còn vì
cả hai ta.”

“Tôi không thể để bồ một mình đối diện với cái chết,” Will thì thầm, nhưng anh biết
mình đã thua; cát trong tay sẽ chảy hết.

Jem chạm vào chữ rune parabatai trên vai, qua lớp vải áo mỏng. “Tôi không một mình,”
anh nói. “Dù chúng ta ở đâu, chúng ta vẫn là một.”

Will từ từ đứng lên. Anh không thể tin mình sẽ làm tới đây, nhưng chuyện anh sẽ làm rõ
ràng như viền bạc quanh lòng đen mắt Jem. “Nếu có kiếp sau,” anh nói, “hãy cho tôi gặp
lại bồ, James Carstairs.”

“Sẽ có kiếp sau.” Jem chìa tay, và họ nắm tay nhau một lúc, như thể lúc cử hành nghi lễ
parabatai, vươn tay qua ngọn lửa để những ngón tay họ lồng vào nhau. “Thế giới này là
một vòng luân hồi,” anh nói. “Khi chúng ta lên hay xuống đều có nhau.”

Will nắm chặt tay Jem hơn. “Vậy,” anh nói, dù cổ họng nghẹn lại, “vì bồ nói tôi sẽ còn
kiếp sau, chúng ta hãy cầu nguyện rằng tôi không biến đời mình bát nháo như kiếp này.”

Jem mỉm cười, một nụ cười kể cả vào ngày đen tối nhất của Will, vẫn luôn khiến anh dễ
chịu. “Tôi nghĩ vẫn còn hi vọng cho bồ, Will Herondale.”

“Tôi sẽ học cách có nó khi không có bồ chỉ cho.”

“Tessa,” Jem nói. “Cô ấy hiểu thế nào là tuyệt vọng, và hi vọng. Hai người hãy dạy cho
nhau. Hãy tìm cô ấy, Will, và nói với cô ấy rằng tôi luôn yêu cô ấy. Tôi chúc phúc cho
hai người.”
Đôi mắt họ nhìn xoáy vào nhau. Will không thể tạm biệt, hay nói gì hết. Anh chỉ nắm tay
Jem lần cuối rồi buông, sau đó quay người rời đi.

Lũ ngựa được nhốt đằng sau Học Viện – lãnh thổ của Cyril vào ban ngày, nơi những
người khác thường hiếm khi lui tới. Chuồng ngựa từng là một nhà xứ đạo cũ, và sàn lát
đá mấp mô, được quét dọn sạch sẽ quá mức. Các tàu ngựa nằm dọc tường, nhưng chỉ có
hai tàu có nhốt ngựa: một của Balios và một của Xanthos, cả hai đang ngủ, đuôi khẽ ve
vẩy, hình như đang mơ. Máng của chúng được chất cỏ khô mới, và mũi đinh bẹt sáng
bóng gắn trên tường. Will quyết định nếu còn sống sót trở về, anh chắc chắn sẽ báo với
Charlotte rằng Cyril làm rất tốt nhiệm vụ.

Will khẽ khàng gọi Balios dậy và kéo nó ra khỏi tàu ngựa. Từ bé, khi còn chưa đến Học
Viện, anh đã được dạy cho cách đóng yên và thắng cương ngựa, vậy nên giờ anh thừa sức
vừa làm vừa suy nghĩ mông lung.

Anh không hề để thư lại cho bất cứ ai trong Học Viện. Jem sẽ báo cho họ biết anh đi đâu,
và giờ Will nhận thấy, hễ khi nào anh cần nói những lời bình thường anh nói dễ như bỡn
là y như rằng anh tắc tị. Anh không nghĩ mình phải tạm biệt, vậy nên anh cứ nghĩ đi nghĩ
lại lúc nhét đồ vào túi bên yên ngựa: đồ đi săn, một cái áo sơ mi sạch, một cái cổ cồn
(biết đâu anh lại cần vào vai một quý ông?), hai thanh stele, tất cả vũ khí anh nhét vừa
được, bánh mì, phô mai, hoa quả khô, và tiền của người phàm.

Trong lúc Will thắt đai ngựa, Balios ngẩng đầu và hí vang. Will nhìn quanh quất. Một cô
gái đứng tại cửa chuồng ngựa. Khi Will nhìn, cô giơ tay phải, và viên đá phù thủy cô cầm
tỏa chiếu gương mặt cô.

Đó là Cecily, mặc áo choáng nhung xanh, mái tóc đen buông xõa. Chân cô để trần, thò ra
từ bên dưới gấu áo choàng. Anh đứng thẳng người. “Cecy, em làm gì ở đây?”

Cô tiến một bước, rồi dừng lại ngay trước bậu cửa, nhìn xuống chân mình. “Em cũng có
câu hỏi tương tự dành cho anh.”

“Anh thích tâm sự đêm khuya với lũ ngựa. Chúng biết lắng nghe. Và em không nên mặc
đồ ngủ ra ngoài. Anh em nhà Lightwood vẫn quanh quẩn trong hành lang đấy.”

“Rất vui. Anh định đi đâu hả, Will? Nếu anh định đi tìm ngân phiến, hãy cho em đi
cùng.”

“Anh không tìm thêm ngân phiến.”


Đôi mắt xanh của cô ngập màu hiểu biết. “Anh đi tìm Tessa. Anh định tới Cadair Idris.”

Will gật đầu.

“Em theo với,” cô nói. “Cho em theo đi, Will.”

Will không thể nhìn cô; anh đi lấy hàm thiếc ngựa và cương nhưng tay run run khi dỡ
chúng xuống và trở lại bên Balios. “Anh không đưa em theo được. Em không cưỡi được
Xanthos – em chưa được dạy – và một con ngựa thường sẽ làm chậm tốc độ di chuyển
của chúng ta.”

“Cỗ xe đó do ngựa máy kéo. Anh không thể đuổi kịp chúng…”

“Anh cũng chẳng có ý định đó. Balios có thể là con ngựa nhanh nhất nước Anh, nhưng
nó cũng phải ngủ nghỉ. Anh đã bỏ cuộc rồi. Anh sẽ không bắt kịp Tessa trên đường. Anh
chỉ mong đến được Cadair Idris trước khi quá muộn.”

“Vậy hãy để em đi sau và đừng lo chuyện anh bỏ xa em…”

“Tỉnh táo xem nào, Cecy!”

“Tỉnh táo?” Cô gắt. “Em chỉ thấy anh trai em lại bỏ em đi! Đã nhiều năm rồi, Will! Nhiều
năm, và em đến Luân Đôn để tìm anh, vậy mà khi đã được ở cùng nhau, anh lại bỏ đi!”

Balios khó chịu đụng cựa khi Will đeo hàm thiếc vào mõm nó và thòng cương qua đầu
nó. Balios không thích nghe la hét. Will vuốt ve cổ nó nựng nịu.

“Will.” Cecily nói nghe sặc mùi nguy hiểm. “Hãy nhìn em, nếu không em thề sẽ đánh
thức cả nhà và ngăn anh lại.”

Will gục đầu vào cổ ngựa và nhắm mắt. Anh có thể ngửi thấy mùi cỏ khô và mùi ngựa,
mùi vải, mồ hôi và mùi khói ngòn ngọt vấn vít nơi quần áo anh, từ đống lửa đốt trong
phòng Jem. “Cecily,” anh nói. “Anh sẽ không bỏ đi nếu không biết em ở đây và được an
toàn. Trên đường anh không thể vừa lo cho Tessa, vừa nghĩ đến em ở đằng sau, và nỗi sợ
đó sẽ khiến anh ngã lòng mất. Đã có quá nhiều người anh yêu mến gặp nguy hiểm rồi.”

Im lặng hồi lâu. Will nghe thấy nhịp tim Balios bên dưới tai mình, nhưng chỉ có vậy. Anh
tự hỏi có phải Cecily đã bỏ đi khi anh đang nói dở rồi không, có lẽ để đánh thức cả nhà.
Anh ngẩng đầu.

Nhưng không, Cecily vẫn đứng nguyên chỗ cũ, ngọn đèn phù thủy sáng rực trên tay.
“Tessa nói anh từng gọi tên em,” cô nói, “khi anh ốm. Vì sao lại là em, hả Will?”
“Cecily.” Từ đó vang ra nhẹ như hơi thở. “Nhiều năm liền, em là… bùa cầu may của anh.
Anh nghĩ anh đã giết Ella. Anh rời bỏ Wales để em được an lành. Chỉ cần anh còn được
tưởng tượng em còn sống, hạnh phúc và khỏe mạnh, bắt anh chịu đựng nỗi nhớ em và bố
mẹ thế nào cũng được.”

“Em đã không hiểu sao anh bỏ đi,” Cecily nói. “Và em nghĩ Thợ Săn Bóng Tối là lũ quái
vật. Em không thể hiểu sao anh đến đây, em nghĩ – em luôn nghĩ – rằng khi em lớn rồi,
em có thể đến và giả bộ là Thợ Săn Bóng Tối, tới khi thuyết phục được anh về nhà. Khi
biết về lời nguyền, em không biết phải nghĩ gì nữa. Em hiểu vì sao anh đi, nhưng không
hiểu lí do anh ở lại.”

“Jem…”

“Nhưng kể cả nếu anh ấy có chết,” cô nói, và anh nhăn mày, “anh cũng sẽ không về nhà
sống cùng bố mẹ, đúng không? Anh là Thợ Săn Bóng Tối, bây giờ và mãi mãi. Còn bố
thì không. Đấy là lí do anh cứng đầu không chịu biên thư về. Anh không biết phải làm
sao để xin họ tha thứ và nói rằng mình sẽ không trở về.”

“Anh không thể về, Cecily, hoặc ít nhất, đó không còn là nhà anh nữa. Anh là Thợ Săn
Bóng Tối. Điều ấy nằm trong máu anh rồi.”

“Anh biết em là em gái anh chứ?” Cô nói. “Thợ Săn Bóng Tối cũng nằm trong máu em.”

“Em bảo em giả vờ.” Anh nhìn mặt cô một lúc và chậm rãi tiếp. “Nhưng em không hề,
đúng chứ? Anh đã thấy em luyện tập, chiến đấu. Em có cùng cảm giác như anh. Như thể
sàn Học Viện là mặt đất thực sự vững chãi đầu tiên dưới chân em. Như thể em đã tìm
được nơi mình thuộc về. Em là Thợ Săn Bóng Tối.”

Cecily không nói gì.

Will nhếch mép cười. “Anh mừng,” anh nói. “Mừng vì có thêm một người nhà Herondale
trong Học Viện, kể cả nếu anh…”

“Kể cả nếu anh không quay về? Will, hãy cho em đi cùng, hãy để em giúp anh…”

“Không, Cecily. Không phải chuyện anh chấp nhận rằng em sẽ chọn cuộc sống này, cuộc
sống toàn đánh giết và hiểm nguy, dù anh muốn em được bình an hơn, là chưa đủ sao?
Không, anh không thể để em đi cùng anh, kể cả nếu em ghét anh cũng được.”

Cecily thở dài. “Đừng cải lương thế chứ, Will. Sao anh cứ bắt người ta ghét anh khi
người ta rõ ràng không hề ghét?”
“Anh cải lương thật,” Will nói. “Nếu anh không phải Thợ Săn Bóng Tối, biết đâu anh lại
thành diễn viên đứng trên sân khấu rồi ấy chứ. Chắc anh sẽ được khán giả vỗ tay hoan
nghênh lắm đấy.”

Cecily có vẻ chẳng hứng thú gì với câu bông đùa kia, Will đoán chắc cũng chẳng trách
được em. “Em chẳng hứng xem anh diễn Hamlet,” cô nói. “Nếu anh không chịu cho em
đi theo, vậy hãy hứa là nếu bây giờ anh đi… anh sẽ quay lại nhé?”

“Anh không dám hứa,” Will nói. “Nhưng nếu có thể, anh sẽ về. Và nếu anh về, anh sẽ
viết thư cho bố mẹ. Anh chỉ có thể hứa đến vậy.”

“Không,” Cecily nói. “Không thư từ gì hết. Hãy hứa rằng nếu anh trở về, anh sẽ cùng em
về thăm bố mẹ, và cho họ biết lí do anh bỏ nhà ra đi, và rằng anh không trách họ, anh vẫn
yêu họ. Em không yêu cầu anh về nhà ở hẳn. Cả em lẫn anh đều không thể, nhưng an ủi
họ là được rồi. Đừng bảo em thế là trái luật, Will, vì em thừa biết rằng anh thích phạm
luật.”

“Thấy chưa?” Will hỏi. “Em cũng hiểu anh trai mình đấy chứ. Anh hứa với em, khi thích
hợp, anh sẽ làm đúng như em muốn.”

Vai và gương mặt cô thả lỏng. Cô trông nhỏ bé, yếu đuối khi cơn giận đã biến mất khỏi
gương mặt, dù anh biết nó vẫn còn cháy âm ỉ. “Và Cecy này,” anh nói, “trước khi đi, anh
muốn tặng em thứ này.”

Anh cho tay vào trong áo và lôi vòng cổ Magnus đưa qua đầu. Viên hồng ngọc đỏ sậm
đung đưa, lấp lánh trong không gian mờ tối của chuồng ngựa.

Anh bước về phía Cecily và choàng sợi dây chuyền qua mái đầu đen của cô. Viên hồng
ngọc nằm yên trên hõm cổ như thể nó được làm ra để dành riêng cho cô. Cô nhìn anh,
ánh mắt nghiêm túc. “Hãy luôn đeo nó. Nó sẽ báo hiệu khi có quỷ lại gần,” Will bảo. “Nó
sẽ giữ an toàn cho em, và anh chỉ muốn vậy cho em, và giúp em là một chiến binh, và đó
là điều em muốn.”

Cô áp tay lên má anh. “Da bo ti, Gwilym. Byddaf yn dy golli di12.”

“Anh cũng vậy,” anh nói. Không nhìn cô nữa, anh quay sang Balios và lên yên. Cô lùi lại
khi anh thúc ngựa qua cửa chuồng ngựa, và cúi rạp mình trong cơn gió, phi vào màn
đêm.

12
Tạm biệt William. Em sẽ rất nhớ anh.
Tessa giật mình hốt hoảng tỉnh giấc sau những giấc mơ đầy máu me và những con quái
vật kim loại.

Cô nằm co ro như đứa trẻ trên ghế trong một xe ngựa lớn, cửa sổ hoàn toàn được tấm rèn
nhung dày che kín. Ghế cứng và không thoải mái, lò so như sắp chọc cả vào eo cô qua
lớp vải váy đã rách và dính máu. Tóc cô xổ ra và lòa xòa che mặt. Ngồi đối diện, khuất
trong góc xe ngựa là một dáng hình yên lặng, được che kín trong chiếc áo choàng lông
đen dày, mũ trùm che sùm sụp. Ngoài ra không còn ai trong xe.

Tessa cố ngồi thẳng, chống lại cơn váng vất và buồn nôn. Cô đặt tay lên bụng và cố hít
thở sâu, dù không khí hôi hám trong xe chẳng giúp bụng dạ cô ổn lại chút nào. Cô áp tay
lên ngực, cảm nhận được mồ hôi đang chạy dọc sống lưng.

“Không định nôn đấy chứ?” Một giọng khàn khàn vang lên. “Thuốc mê đôi lúc cũng gây
tác dụng phụ.”

Gương mặt ẩn trong mũ trùm quay về phía cô, và Tessa thấy mặt bà Black. Lúc ở trên
thềm cô hoảng quá nên chưa thật sự quan sát gương mặt của kẻ từng bắt giữ cô hồi xưa,
nhưng giờ khi nhìn gần, cô rùng cả mình. Da mang sắc xanh tái, mắt vằn đen, và cái
miệng méo xệch, khiến cô nhìn thấy cả cái lưỡi xám ngoét.

“Bà định đưa tôi đi đâu?” Tessa hỏi. Đây luôn là câu đầu tiên nữ chính trong các tiểu
thuyết Gothic nói khi bị bắt cóc và luôn khiến cô bực dọc, nhưng giờ cô nhận ra nó thực
sự có ý nghĩa. Trong những hoàn cảnh như vậy, điều đầu tiên ta muốn biết là mình bị đưa
tới nơi nào.

“Đến chỗ Mortmain,” bà Black nói. “Và cô chỉ cần biết đến thế. Tôi được chỉ thị rõ ràng
rồi.”

Tessa cũng chẳng mong chờ gì khác, nhưng tin ấy vẫn khiến ngực cô thắt lại và hơi thở
hổn hển. Cô nghiêng người kéo rèm cửa sổ.

Bên ngoài tối om, vầng trăng bán nguyệt lơ lửng trên cao. Vùng quê bên ngoài nhấp nhô
đồi núi, không có lấy một điểm sáng nào cho thấy nơi này có người sinh sống. Những
đống đá đen điểm xuyết đây đó. Tessa cố tình giật cửa; nó bị khóa.

“Đừng phí công vô ích,” bà ta nói. “Cô không thể mở cửa, và nếu cô định bỏ chạy, tôi sẽ
tóm cô lại. Giờ tôi chạy nhanh hơn xưa nhiều.”

“Chính nhờ vậy mà bà biến mất trên thềm?” Tessa hỏi. “Lúc ở Học Viện?”
Bà Black cười trịch thượng. “Biến mất khỏi đôi mắt cô. Tôi chỉ tránh đi một cái, rồi trở
lại. Mortmain đã trao cho tôi món quà đó.”

“Và vì thế bà làm chuyện này?” Tessa gắt. “Làm nô bộc cho Mortmain? Ông ta chẳng
nghĩ nhiều đến bà. Ông ta xúi Jem và Will đi giết bà khi nghĩ bà cản đường mình.”

Ngay khi nhắc tới tên Jem và Will, cô bỗng nhớ ra một chuyện. Cô bị mang đi khi các
Thợ Săn Bóng Tối đang bận chiến đấu sống còn tại thềm Học Viện. Họ có đẩy lui được
đám người máy kia không? Có ai bị thương và, cầu Chúa rủ lòng thương, bị giết không?
Nhưng cô chắc chắn cô phải biết hay cảm nhận được nếu có chuyện gì với Jem hay Will
chứ? Cô luôn coi họ như một phần trái tim mình.

“Không,” bà Black nói. “Tôi xin trả lời câu hỏi trong đầu cô, cô sẽ chẳng biết liệu có ai
trong hai chàng Thợ Săn Bóng Tối đẹp mã cô rất yêu mến đã chết hay chưa đâu. Dù
nhiều người luôn tưởng tượng, nhưng thật ra đó cũng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng
phong phú, trừ khi có tồn tại một mối ràng buộc kì diệu như mối ràng buộc parabatai.
Khi tôi đi, họ đang chiến đấu để giữ mạng mình.” Bà ta cười toét miệng, và răng lóe lên
ánh kim loại trong bóng tối. “Nếu tôi không nhận được lệnh từ Mortmain mang cô về
không mất lấy một cọng tóc, tôi sẽ để cho cô bị băm vằm rồi.”

“Sao ông ta lại muốn tôi không bị tổn hại gì?”

“Cô và những câu hỏi của cô. Tôi suýt quên mất chúng khó chịu thế nào. Có một vài
thông tin chỉ có cô mới cung cấp được cho ông ta. Và ông ta vẫn muốn kết hôn với cô.
Ông ta ngốc thật. Thôi cứ mặc cô làm ông ta khốn khổ cả đời; tôi chỉ cần có được cái
mình muốn từ ông ta, rồi tôi sẽ đi.”

“Tôi chẳng biết gì có thể làm Mortmain hứng thú hết!”

Bà Black khụt khịt. “Cô còn trẻ và ngu ngốc lắm. Cô không phải con người, cô Gray, và
cô hiểu rất ít về khả năng của mình. Chúng tôi có thể đã dạy cho cô được nhiều hơn,
nhưng cô cứng đầu quá. Cô sẽ thấy Mortmain là người thầy kém khoan dung hơn.”

“Khoan dung?” Tessa phản pháo. “Bà đã đánh tôi trầy da tróc vảy.”

“Còn nhiều cái còn tệ hơn nỗi đau thể xác, cô Gray à. Mortmain ít nhân từ hơn.”

“Chính xác.” Tessa nhoài tới, sợi dây chuyền thiên sứ đập hai cái vào ngực cô. “Sao bà
lại làm theo ý ông ta? Bà biết không thể tin ông ta, bà biết ông ta sẵn sàng giết bà…”

“Tôi cần cái ông ta có thể cho tôi,” bà Black nói. “Và tôi sẽ làm tất cả để có nó.”
“Và nó là gì?”

Cô nghe bà Black cười, rồi bà ta bỏ mũ xuống và cởi dây áo choàng.

Tessa đã đọc trong sách sử về những cái đầu bị cắm cọc ở cầu Luân Đôn, nhưng chưa
từng tưởng tượng cảnh đó kinh khủng thế nào. Rõ ràng từ hồi đầu bị chặt đến nay, bà
Black không hề khôi phục lại như cũ, vùng da cổ vẫn tướt ra trắng nhợt bủng beo như
những cái đầu cắm cọc. Bà ta không có cơ thể, chỉ có một khúc kim loại nhẵn được gắn
hai cánh tay có khớp nối, trông như hai cái que. Đôi găng tay lông dê xám che hầu hết
bàn tay nhô ra từ cánh tay càng tăng thêm phần kinh khủng.

Tessa gào thét.


12

NHỮNG BÓNG MA TRÊN ĐƯỜNG


Ôi cái đẹp, nét thân thương khi xưa,

Hãy nói ta xem, trên thiên dường

Yêu quá nhiều có phải cái tội?

Khi quá vị tha, hay quá thắm thiết

Khi yêu hiến dâng và sống chết vì nhau?

Liệu có phải trên trời kia chẳng có

Tương lai sáng sủa cho những người dám nghĩ, dám hi sinh?

– Alexander Pope, Elegy to the Memory of an Unfortunate Lady

Will đứng trên đỉnh một ngọn đồi thấp, tay nhét vào túi quần, nóng ruột nhìn khắp vùng
quê yên bình Bedfordshire.

Anh đã thúc Balios phi hết tốc lực rời Luân Đôn về đường Đại Bắc. Bắt đầu đi vào tầm
gần bình minh cho phép anh được tận hưởng bầu không khí khá sạch sẽ khi anh đi qua
Islington, Holloway, và Highgate; anh đã đi qua vài xe bán hàng rong và một, hai người
đi bộ, nhưng ngoài ra chẳng có gì cản đường anh, và vì Balios không nhanh thấm mệt
như những con ngựa bình thường, Will sớm rời Barnet và có thể phi nước đại qua South
Mimms và London Colney.

Will thích phi nước đại – nằm rạp trên lưng ngựa, tận hưởng cảm giác gió lùa qua tóc, và
vó Balios đều đặn nện trên đường dưới chân. Giờ đã rời xa Luân Đôn, anh cảm giác vừa
đau đớn vừa tự do lạ lùng. Thật kì cục khi có cả hai cảm giác đó cùng lúc, nhưng đúng là
anh thấy thế thật. Gần Colney có nhiều ao hồ; anh dừng lại cho Balios uống nước trước
khi tiếp tục hành trình.

Giờ, khi rời Luân Đôn chừng ba mươi dặm về hướng bắc, anh không thể nào không nhớ
lại con đường mình tới Học Viện vài năm trước. Anh đã cưỡi một con ngựa của bố từ
Wales đi, rồi bán nó tại Staffordshire khi nhận ra mình không có tiền đi đường. Giờ anh
biết mình bán hớ, và anh đã phải khó khăn lắm mới tạm biệt được với Hengroen, con
ngựa anh cưỡi từ tấm bé, và phải trầy trật hơn mới đi bộ được nốt vài dặm còn lại đến
Luân Đôn. Tới lúc đến được Học Viện, chân anh tứa máu, tay cũng thế, vì anh ngã vài
lần và khiến chúng trầy xước cả.

Giờ anh nhìn xuống tay mình, mà nhớ lại đôi tay thời đó. Bàn tay gầy với những ngón dài
– một đặc điểm của người nhà Herondale. Jem luôn nói thật tiếc khi anh chẳng có chút tài
năng âm nhạc nào, vì tay anh quá hợp để đánh dương cầm. Ý nghĩ về Jem đâm vào tim
anh như một mũi kim; Will đẩy ý nghĩ đó đi và quay lại với Balios. Anh dừng lại ở đây
không chỉ để cho con ngựa uống nước, mà còn cho nó ăn một nắm yến mạch – rất tốt cho
tốc độ và sức bền – rồi cho nó nghỉ ngơi. Anh thường nghe về những kị sĩ phi hết tốc lực
đến chết cả ngựa, nhưng dù anh rất muốn bắt kịp Tessa, anh cũng không dám làm chuyện
độc ác thế.

Đường xá khá tập nập với những cỗ xe đẩy, ngựa thồ, xe chở bia, chở sữa, kể cả những
cỗ xe hai tầng kì quặc do ngựa kéo nữa. Sao người ta cứ phải xông hết ra đường giữa
ngày thứ tư thế nhỉ? Ít nhất cũng không có đám cướp cạn: xe lửa, đường thu phí và cảnh
sát chính quy đã đặt dấu chấm hết cho tệ nạn này từ nhiều chục năm trước. Will chẳng
thích phí phạm thời gian chém giết ai.

Anh phi qua Saint Albans, không buồn dừng lại để ăn trưa vì vội đến đường Watling –
con phố La Mã cổ giờ bị cắt ngang ở Wroxeter, với một đường rẽ tới Scotland và một cắt
qua nước Anh dẫn đến cảng Holyhead ở Wales. Có những hồn ma trên đường – Will
nghe tiếng thì thầm của người Anglo-Saxon trong gió, gọi tên đường là Woecelinga
Stroet và nói đến những cứ điểm cuối cùng của Boadicea, vị hoàng hậu đã bị quân La Mã
đánh bại tại chính con đường này hàng ngàn năm trước.

Với tay nhét trong túi, nhìn khắp vùng quê – giờ là ba giờ và bầu trời dần tối, nghĩa là
Will phải sớm tính tới lúc đêm đến, mình sẽ nghỉ chân ở đâu, cho ngựa nghỉ ngơi, và ngủ
– anh không thể không nhớ lại lúc nói với Tessa rằng Boadicea đã chứng tỏ phụ nữ cũng
có thể là chiến binh. Hồi đó anh không hề nói mình đã đọc thư của cô, rằng anh đã yêu
linh hồn chiến binh ẩn sau đôi mắt xám hiền dịu của cô.

Anh nhớ lại một giấc mơ từng có, về bầu trời xanh và Tessa ngồi đằng sau anh trên ngọn
đồi xanh. Anh luôn xuất hiện đầu tiên trong tim em. Cơn thịnh nộ bừng lên trong linh hồn
anh. Sao Mortmain dám chạm vào cô? Cô là một trong số họ. Cô không thuộc về Will –
cô chẳng của ai, kể cả Jem. Cô là của bản thân cô – nhưng cô thuộc về gia đình họ, và
anh thầm chửi rủa Quan Chấp Chính vì không nhận thấy điều đó.
Anh sẽ tìm ra cô. Anh sẽ tìm ra cô và đưa cô về, kể cả nếu cô không bao giờ yêu anh, anh
vẫn làm điều này vì cô, và vì chính anh. Anh quay lại, đi về phía Balios đang nhìn anh ai
oán. Anh lên ngựa.

“Đi nào, ông bạn già,” anh bảo. “Mặt trời sắp lặn, và chúng ta phải đến được Hockliffe
khi đêm xuống, vì trông trời dám sắp mưa lắm.” Anh thúc gót giày vào mạng sườn ngựa,
và Balios, như thể hiểu được lời của người cưỡi, phóng đi như tên.

“Cậu ấy một mình đến Wales?” Charlotte hỏi. “Sao mấy người lại để cậu ấy làm ra
chuyện… xuẩn ngốc thế?”

Magnus nhún vai. “Giờ chuyện xử lí chàng Thợ Săn Bóng Tối ương ngạnh đó chẳng còn
và sẽ không còn là trách nhiệm của tôi nữa. Nói đúng ra, tôi chẳng hiểu sao mình bị trách
móc. Tôi đã ở thư viện cả đêm để đợi Will đến nói chuyện, nhưng cậu ấy chẳng thèm tới.
Tôi đã ngủ quên khi đọc đến khúc Bệnh dại và Người sói. Woolsey vô tình bị cắn, nên tôi
lo lắng lắm.”

Không ai thực sự để tâm đến thông tin đó, dù Charlotte có vẻ buồn bực hơn bao giờ hết.
Sáng nay bữa sáng diễn ra yên lặng, thiếu vắng vài người. Chuyện vắng Will cũng không
có gì bất ngờ. Họ cho rằng Will ở bên giường parabatai của mình. Tới khi Cyril hụt hơi,
bực dọc chạy xộc vào báo rằng Balios đã biến mất, mọi người mới ớ ra.

Mọi người tìm khắp Học Viện và phát hiện ra Magnus ngủ trong góc thư viện. Charlotte
lay anh ta dậy. Khi được hỏi nghĩ Will đi đâu, Magnus trả lời ngọt ngào rằng anh ta nghĩ
Will đã tới Wales, nhằm tìm nơi giam giữ Tessa và đưa cô trở lại Học Viện, dù là lén lút
hay dùng vũ lực. Thông tin, ngạc nhiên thay, lại khiến Charlotte hoảng hốt, và chị đã
triệu tập cuộc họp trong thư viện, yêu cầu mọi Thợ Săn Bóng Tối trong Học Viện, trừ
Jem, phải có mặt – kể cả Gideon đi cà nhắc và phải chống gậy.

“Mọi người đã biết Will bỏ đi rồi chứ?” Charlotte hỏi, đứng ở đầu cái bàn dài nơi mọi
người ngồi.

Cecily, tay nghiêm chỉnh khoanh trước, đột nhiên cực kì hứng thú với họa tiết thảm.

“Cecily, em đeo viên ngọc đẹp đấy,” Charlotte nói và nheo mắt nhìn viên hồng ngọc trên
cổ cô gái kia. “Chị không nhớ hôm qua em có đeo cái mặt dây chuyền đó. Đúng ra, chị
nhớ người đeo nó là Will. Cậu ấy đưa em khi nào?”
Cecily khoanh tay trước ngực. “Em sẽ không nói gì hết. Will tự mình quyết định, và
chúng ta đã cố giải thích tình hình cho Quan Chấp Chính rồi. Vì Clave không giúp, Will
tự mình xử lí. Em không biết sao chị lại mong chờ điều gì khác.”

“Chị không nghĩ cậu ấy sẽ bỏ lại Jem,” Charlotte nói, rồi hoảng hốt khi nói ra. “Chị… chị
không thể tưởng tượng chúng ta phải nói sao với Jem khi cậu ấy tỉnh lại.”

“Jem biết…” Cecily bực bội nói và ngạc nhiên thay, bị Gabriel ngắt lời.

“Tất nhiên cậu ấy biết,” anh nói. “Will chỉ đang làm tròn bổn phận của một parabatai.
Cậu ấy làm điều Jem sẽ làm nếu có thể. Cậu ấy thay mặt Jem đi. Đấy là điều một
parabatai nên làm.”

“Em bảo vệ Will?” Gideon nói. “Sau khi em luôn đối xử với cậu ấy như thế? Sau khi nói
với Jem hàng chục lần rằng cậu ấy thật không biết chọn parabatai?”

“Có thể Will khó ưa, nhưng ít nhất không phải một Thợ Săn Bóng Tối đáng chê trách,”
Gabriel nói, rồi thấy vẻ mặt Cecily, anh bổ sung, “Có thể cậu ấy cũng không quá khó ưa.”

“Thật là một phát ngôn hào hiệp, Gideon,” Magnus nói.

“Tôi là Gabriel.”

Magnus phẩy tay. “Với tôi người nhà Lightwood ai cũng như nhau…”

“E hèm,” Gideon ngắt ngang, trước khi Gabriel kịp nghĩ ra gì đó mỉa máy Magnus. “Mặc
cho chuyện tính cách Will ra sao hay có người không phân biệt được người nhà
Lightwood, vấn đề vẫn còn nguyên đó: Chúng ta có đuổi theo Will không?”

“Nếu Will cần giúp, anh ấy đã không bỏ đi lúc nửa đêm nửa hôm mà không nói với ai
rồi,” Cecily nói.

“Đúng,” Gabriel nói, “vì Will vốn nổi tiếng là người suy nghĩ cẩn trọng và quyết định
đáng tin.”

“Cậu ấy trộm mất con ngựa chạy nhanh nhất của chúng ta rồi,” Henry nói. “Cậu ấy đúng
là dạng hành động nhanh hơn suy nghĩ mà.”

“Chúng ta không thể để Will một mình chiến đấu với Mortmain. Cậu ấy sẽ bị giết mất,”
Gideon nói. “Nếu cậu ấy thực sự bỏ đi giữa đêm khuya, vậy có lẽ chúng ta vẫn đuổi kịp
được cậu ấy trên đường…”

“Con ngựa nhanh nhất,” Henry nhắc nhở, và Magnus khụt khịt.
“Thật ra, đấy không phải một cuộc chém giết chúng ta không ngăn trở được,” Gabriel
nói. “Chúng ta có thể cùng đuổi theo Will, nhưng đông đảo như vậy hẳn sẽ khiến Ông
Chủ chú ý hơn là một chàng trai đơn thương độc mã. Hi vọng lớn nhất của Will là không
bị phát hiện. Sau cùng, cậu ấy cũng không phải phi ngựa lao vào trận chiến. Cậu ấy đi
cứu Tessa mà. Cậu ấy tốt nhất nên lén lút và giữ bí mật khi làm nhiệm vụ kiểu đó…”

Charlotte đập tay xuống bàn mạnh tới độ khiến âm thanh rung động khắp phòng. “Tất cả
im lặng,” chị nói bằng giọng uy quyền khiến ngay cả Magnus cũng chột dạ. “Gabriel,
Gideon, cả hai đều đúng. Tốt hơn cho Will là chúng ta không đi theo, và chúng ta không
được phép để người của ta bỏ mạng. Cũng đúng là Ông Chủ nằm ngoài tầm với của
chúng ta; Hội Đồng sẽ họp để quyết định vấn đề đó. Giờ chúng ta chẳng thể làm gì. Vì
thế chúng ta phải dồn toàn sức cứu Jem. Cậu ấy đang yếu dần, nhưng chưa chết. Một
phần sức mạnh của Will dựa vào cậu ấy, và cậu ấy là người của chúng ta. Cuối cùng cậu
ấy cũng cho phép chúng ta tìm cách cứu, và vì thế chúng ta phải làm.”

“Nhưng…” Gabriel lên tiếng.

“Im lặng,” Charlotte quát. “Tôi là người đứng đầu Học Viện; cậu phải nhớ ai cứu cậu và
hãy tôn trọng tôi.”

“Thế là Gideon về đúng chỗ của mình,” Magnus hài lòng.

Charlotte quay sang nhìn anh ta bằng đôi mắt nảy lửa. “Cả anh nữa, pháp sư ạ; Will có
thể đã gọi anh tới đây, nhưng anh phải được tôi chấp thuận. Tôi hiểu, như anh đã trình
bày sáng nay, rằng anh hứa với Will sẽ làm hết sức để tìm cách cứu Jem khi Will đi: Anh
sẽ cho Cecily và Gabriel biết chỗ mua các dược thảo anh cần. Gideon, vì cậu bị thương,
cậu sẽ ở lại thư viện và giúp Magnus tìm sách; nếu cậu cần giúp, hãy nhờ tôi hoặc
Sophie. Henry, có lẽ Magnus có thể sử dụng hầm mộ của anh làm phòng thí nghiệm, trừ
khi anh đang làm dự án gì không thích hợp?” Chị nhìn Henry và nhướng mày.

“Có đấy,” Henry hơi ngần ngừ, “nhưng có thể nó cũng giúp được Jem, và anh rất hoan
nghênh anh Bane giúp đỡ. Bù lại, anh ta có thể thoải mái sử dụng bất cứ dụng cụ khoa
học nào của anh.”

Magnus tò mò nhìn anh. “Mà chính ra anh đang làm gì vậy?”

“À, anh biết rằng chúng tôi không thể làm phép, anh Bane,” Henry nói và vui vẻ vì có
người hứng thú với các thí nghiệm của mình, “nhưng tôi đang nghiên cứu một thiết bị hơi
giống phiên bản khoa học của thần chú dịch chuyển tức thời. Nó sẽ mở ra cánh cửa tới
bất kì nơi nào anh muốn…”
“Bao gồm cả một nhà kho chứa đầy ngân phiến ở Trung Quốc?” Magnus hỏi, và mắt
sáng lên. “Nghe rất hay, quả là rất hay.”

“Không, không hề,” Gabriel lầm bầm.

Charlotte nhìn thẳng Gabriel bằng đôi mắt sắc như dao. “Cậu Lightwood này, đủ rồi đó.
Tôi tin mọi người đã được giao nhiệm vụ cả. Hãy đi và thực hiện. Tôi ước sẽ không phải
nghe thêm lời nào từ các vị trước khi các vị báo cáo được chút ít tiến trình. Tôi sẽ ở cùng
Jem.” Tới đó, chị rời phòng.

“Quả là một câu trả lời vừa lòng người,” bà Black nói.

Tessa lườm. Cô ngồi thu lu trong góc, cách xa sinh vật kinh khủng từng là bà Black kia
hết mức có thể. Cô đã hét ngay khi thấy cơ thể bà ta, và vội vàng bịt miệng; nhưng đã quá
muộn. Bà Black rất hả hê trước phản ứng sợ hãi của cô.

“Bà đã bị chặt đầu,” Tessa nói. “Sao bà còn sống? Như thế này?”

“Phép thuật,” bà Black nói. “Chính anh cô đã gợi ý với Mortmain rằng trong hình dạng
hiện giờ tôi có thể giúp ông ta. Chính anh cô đã tiếp máu để tôi được tiếp tục tồn tại. Đổi
nhiều mạng để giữ mạng tôi.”

Bà ta cười xấu xí, và Tessa nghĩ tới anh trai chết trong tay mình. Em không biết mọi
chuyện anh làm đâu, Tessie. Cô nuốt dịch mật xuống. Sau khi anh chết, cô đã cố Biến
Hình thành anh, để tìm bất kì thông tin nào về Mortmain lấy được từ kí ức của anh,
nhưng chúng chỉ là những cuộn xoáy xám xịt mang màu sắc giận dữ, cay đắng và tham
vọng: cô chẳng tìm được gì rõ ràng trong đó. Cảm giác căm ghét Mortmain lại trào dâng
trong cô. Ông ta là kẻ đã tìm ra điểm yếu của anh ấy và khai thác chúng. Mortmain, kẻ đã
nắm nguồn ngân phiến của Jem nhằm khiến Thợ Săn Bóng Tối nhảy múa theo ý muốn
của ông ta. Kể cả bà Black, theo một cách nào đó, cũng là tù nhân chịu sự chi phối của
ông ta.

“Bà làm theo chỉ thị của Mortmain vì nghĩ ông ta sẽ cho bà một cơ thể,” giờ Tessa nói.
“Không phải… cái thứ bà đang có, mà là một cơ thể người thật sự.”

“Người.” Bà Black khụt khịt. “Tôi muốn còn được hơn người kia kìa. Nhưng phải hơn
thế này, gì đó cho phép tôi tự do đi lại giữa đám người phàm và tiếp tục làm phép. Còn
về phần Ông Chủ, vì cô, ông ta sẽ sớm có khả năng đó. Ông ta sẽ sớm toàn năng, và cô sẽ
giúp ông ta.
“Bà có ngốc mới tin ông ta sẽ thưởng cho bà.”

Đôi môi xám ngoét của bà Black run run thích thú. “Ồ, nhưng sẽ thưởng thôi. Ông ta đã
thề, và tôi đã làm mọi điều mình hứa. Giờ tôi đưa cô dâu hoàn hảo đến cho ông ta – do
chính tôi huấn luyện! Nhân danh Azazel, tôi nhớ khi cô rời tàu từ Mỹ châu đến. Cô có vẻ
là người hoàn toàn bình thường, hoàn toàn vô dụng, tôi đã cố gắng hết sức để biến cô
thành hữu ích. Nhưng phải cho roi cho vọt mới nên cơm cháo. Giờ cô phục vụ được tốt
rồi.”

“Đâu phải mọi người phàm đều vô dụng.”

Một tiếng khụt khịt. “Cô nói thế vì cô quen thân với đám Nephilim. Cô ở với họ lâu hơn
nhiều so với ở cùng đồng loại.”

“Đồng loại nào? Tôi chẳng thuộc loại nào hết. Jessamine bảo mẹ tôi là Thợ Săn Bóng
Tối…”

“Bà ta là Thợ Săn Bóng Tối,” bà Black nói. “Nhưng bố cô thì không.”

Tim Tessa nảy một nhịp. “Ông ấy là quỷ?”

“Ông ta không phải thiên thần.” Bà Black cười khẩy. “Khi tới lúc, Ông Chủ sẽ giải thích
hết cho cô – cô là gì, vì sao cô tồn tại trên cõi đời này, cuộc đời của cô là nhằm cho mục
đích gì.” Bà ta ngồi ngả ra với cử động giật cục. “Tôi phải nói rằng mình khá ấn tượng
khi cô chạy đi cùng thằng Thợ Săn Bóng Tối đó đấy. Như vậy cô cũng to gan phết. Thật
ra cô ở cùng Nephilim lâu như thế lại hóa có lợi. Giờ cô đã quen với Thế Giới Ngầm, và
cô chứng tỏ mình thích nghi được. Cô bị buộc phải dùng khả năng của mình trong những
tình huống nguy khó. Các bài khảo nghiệm tôi tạo ra sẽ không thể khó khăn và giúp cô
học hỏi, tự tin như thế. Tôi thấy sự khác biệt ở cô. Cô sẽ là một cô dâu tuyệt vời cho Ông
Chủ.”

Tessa kêu lên một tiếng không tin được. “Vì sao? Tôi bị buộc phải kết hôn cùng ông ta.
Vậy tôi có học và có gan thì khác gì nào? Ông ta quan tâm làm gì?”

“Ồ, cô không chỉ là cô dâu của ông ấy đâu, cô Gray. Cô sẽ là người đưa Nephilim đến
ngày tàn. Đó là lí do cô có mặt trên cõi đời. Và cô càng biết nhiều về họ, càng thông cảm
với họ, cô càng là vũ khí tróc họ tới tận gốc rễ hiệu quả.”

Tessa có cảm giác như thiếu dưỡng khí. “Tôi không quan tâm Mortmain làm gì. Tôi sẽ
không hợp tác để làm hại Thợ Săn Bóng Tối. Tôi thà chết, hoặc các người cứ việc tra tấn
tôi rồi hẵng mong tới ngày đó.”
“Cô muốn gì không quan trọng. Cô sẽ thấy kháng cự chẳng ích gì. Hơn nữa, cô là cô đã
đủ tiêu diệt Nephilim rồi. Và kết hôn với Mortmain nữa, mà cái đó cô đành phải chấp
nhận thôi.”

“Tôi đã đính ước với người khác,” Tessa gắt. “Với James Carstairs.”

“Ôi trời,” bà Black nói. “Tôi sợ nó đành chấp nhận mất cô thôi. Hơn nữa James Carstairs
tới thứ ba này sẽ chết. Mortmain đã mua hết ngân phiến ở Anh và chặn nguồn nhập hàng
mới. Có lẽ cô nên nghĩ tới những chuyện đó trước khi yêu một kẻ nghiện. Dù tôi cứ
tưởng cô thích thằng mắt xanh cơ,” bà ta ngâm nga. “Không phải con gái thường phải
lòng người giải cứu mình sao?”

Tessa thấy tấm áo choàng của sự kì quái bắt đầu hạ xuống. Cô không thể tin rằng mình ở
đây, bị nhốt trong xe ngựa cùng bà Black và rằng nữ pháp sư này đang nói chuyện tình
cảm của Tessa. Cô nhìn ra cửa sổ. Trăng đã lên, và cô thấy họ đang đi theo một con
đường hẹp – bóng chiếc xe hắt xuống đường, và dưới đó là một khe núi khuất trong bóng
tối. “Có nhiều dạng giải cứu lắm.”

“À,” bà Black nói, và nở nụ cười khoe hàm răng lóe ánh kim loại. “Giờ cô cứ tin là
không ai đến cứu cô nữa đi.”

Cô sẽ là người đưa Nephilim đến ngày tàn.

“Vậy tôi sẽ tự cứu mình,” Tessa nói. Đôi lông mày của bà Black nhíu lại tỏ vẻ bối rối khi
bà ta quay đầu về phía Tessa, gây ra những tiếng lạch cạch. Nhưng Tessa đã lấy sức, dồn
toàn bộ sức lực vào chân và cơ thể theo cách được dạy, để có thể lao qua cửa xe bằng
toàn bộ sức bình sinh.

Cô nghe tiếng khóa cửa gãy và bà Black hét lên một tiếng the thé thịnh nộ. Một cánh tay
kim loại chộp lưng Tessa, kéo cổ váy cô xé rách, và Tessa ngã mạnh xuống lớp đá ven
đường, rơi, trượt và lăn xuống vực khi xe ngựa phi đi trên đường, bà Black hét ra lệnh
cho xà ích dừng lại. Gió thổi ào ào vào tai Tessa khi cô ngã, cánh tay và bàn tay chới với
khi rơi xuống, chỉ hi vọng cái vực nông và cô có thể sống sót sau cũ ngã. Khi cô ngã, cô
thoáng thấy một dòng suối nhỏ lấp lóa xa xa bên dưới, uốn lượn chảy qua những khối đá
lô nhô, và cô biết mình sẽ nát xương như một món đồ sứ mỏng manh khi chạm đất.

Cô nhắm mắt và ước rơi thật nhanh.

Will đứng ở đỉnh một ngọn đồi xanh cao cao và nhìn xuống biển. Trời và biển xanh ngắt
một màu ngút tầm mắt. Đám hải âu và nhạn biển lượn vòng và kêu chao chát, còn gió
biển thổi qua tóc anh. Thời tiết ấm như mùa hạ, và anh ném áo khoác trên cỏ; anh mặc
áo ngắn tay và đeo dây quần, da tay mang màu nâu nhờ nắng.

“Will!”Anh quay lại khi nghe thấy giọng quen thuộc và thấy Tessa đang lên đồi. Có một
con đường mòn nhỏ chạy dọc sườn đồi, thấp thoáng những bông hoa trắng lạ mắt, và
Tessa cũng giống một bông hoa trong chiếc váy trắng như chiếc váy cô mặc dự dạ tiệc
vào cái đêm anh hôn cô tại ban công nhà Benedict Lightwood. Mái tóc nâu dài của cô
bay bay trong gió. Cô đã tháo mũ và cầm ở tay, vẫy nó với anh và mỉm cười như thể cô
mừng khi thấy anh. Hơn cả mừng. Như thể thấy anh khiến cô sung sướng tự tận đáy lòng.

Trái tim anh cũng nảy lên khi thấy cô. “Tess,” anh gọi và đưa tay như có thể kéo cô về
phía mình. Nhưng cô vẫn ở xa – cô dường như đột ngột vừa xa vừa gần. Anh thấy rõ mọi
đường nét của gương mặt xinh đẹp đang ngẩng lên ấy, nhưng không thể chạm vào cô, thế
nên anh đứng đó, chờ đợi và mong ước, tim đập như một đôi cánh trong ngực anh.

Cuối cùng cô ở đó, gần đến độ anh thấy được cỏ và hoa rạp dưới chân cô. Anh vươn tay
ra và cô nắm tay anh. Tay họ đan vào nhau, và họ đứng mỉm cười, tay cô thật ấm áp.

“Anh đang đợi em,” Will nói và cô ngước nhìn anh, nụ cười biến mất khỏi gương mặt cô
khi chân cô đột nhiên trượt đi và cô rơi thẳng xuống vực. Tay cô tuột khỏi tay anh, và
anh bắt vào không khí khi cô lặng lẽ rơi mất, chỉ còn là một sắc trắng mờ đối lập với
chân trời xanh.

Will bật dậy khỏi giường, tim đập thình thịch. Ánh trăng chiếu hết nửa căn phòng của
anh tại quán Bạch Mã, chiếu tỏ những món đồ chẳng quen thuộc: bồn rửa mặt và ghế nhỏ
trên có đặt cuốn Những thuyết giáo với thiếu nữ của Fordyce, một chiếc ghế nệm bên
cạnh lò sưởi sắp tàn. Ga giường anh lạnh, nhưng anh lại đổ mồ hôi; anh bỏ chân xuống
giường và tới bên cửa sổ.

Một bó hoa khô cắm trong lọ bên bậu cửa sổ. Anh đẩy chúng sang một bên và mở cửa
bằng những ngón tay đang đau nhức. Cả người anh ê ẩm. Trong đời anh chưa từng đi xa
và đi nhanh thế; anh mệt mỏi và đau hết bàn tọa. Anh cần iratze trước khi lên đường vào
sáng mai.

Cửa mở ra ngoài, không khí lạnh táp vào mặt và tóc anh, làm da anh mát hẳn. Anh thấy
đau trong lồng ngực, mà cảm giác này chẳng liên quan gì đến vụ cưỡi ngựa. Dù đó là do
xa cách Jem hay lo cho Tessa, anh không rõ nữa. Anh cứ thấy cô rơi xa mình, tay họ
không còn đan vào nhau. Anh chưa từng tin chuyện báo mộng, nhưng anh vẫn không thể
cởi bỏ nút thắt lạnh lẽo trong lòng mình, hoặc khiến hơi thở gấp gáp chậm lại.
Trong ô kính tối của cửa sổ, anh thấy gương mặt mình. Anh chạm nhẹ vào cửa sổ, đầu
ngón tay để lại vết trên lớp hơi nước bám vào cửa sổ. Anh tự hỏi mình sẽ nói gì với Tessa
khi tìm ra cô, sao anh có thể nói lí do người đi tìm cô là anh chứ không phải Jem. Nếu
hồng ân của Chúa thật sự tồn tại trên cõi đời này, hãy để cho họ được buồn cùng nhau.
Nếu cô không bao giờ tin anh thực lòng yêu cô, nếu cô không đáp lại tình cảm của anh, ít
nhất hãy cho họ được cùng chia sẻ niềm đau. Gần như không chịu nổi ý nghĩ anh cần sức
mạnh từ sức mạnh nội tại của cô, anh nhắm mắt và gục đầu vào kính cửa mát lạnh.

Khi họ đi từ những con đường ngoắt ngoéo của khu East End về phố Gill, Gabriel không
thể nào không chú ý tới chuyện có Cecily bên cạnh. Họ dùng phép che mờ, kể ra cũng
hữu dụng, bởi sự xuất hiện của họ ở khu phố nghèo của Luân Đôn nhờ vậy mà tránh
được những lời bàn tán và có lẽ sẽ tránh cho họ bị lôi vào một tiệm bán đồ tạp nham rồi
gạ gẫm mua này nọ. Cecily vẫn hiếu kì như thường lệ, và thường xuyên dừng lại nhìn vào
kính cửa sổ – không chỉ cửa hàng bán áo mũ, mà các tiệm bán đủ thứ trên đời, từ xi đánh
giày, sách, đồ chơi và các chú lính thiếc. Gabriel phải nhắc mình rằng cô từ vùng thôn
quê đến và có lẽ chưa từng thấy một khu phố chợ sầm uất, chứ đừng nói đến Luân Đôn.
Anh ước mình có thể dẫn cô đến nơi nào đó hợp với nữ giới hơn – các cửa hiệu tại
Burlington Arcade hay Piccadilly, chứ không phải những con phố tối tăm, ngột ngạt này.

Anh không biết mình mong gì từ em gái Will Herondale. Rằng cô cũng khó chịu như
Will? Rằng cô không đẹp nao lòng như cậu ấy, nhưng vẫn quá xinh xắn? Anh hiếm khi
nhìn mặt Will mà không muốn đấm, nhưng gương mặt Cecily chưa từng khiến anh hết
muốn ngắm. Anh muốn viết về đôi mắt xanh như ánh sao và mái tóc như màn đêm, vì
“màn đêm” và “ánh sao” nếu viết khéo sẽ vần với nhau, nhưng anh có cảm giác bài thơ
đó sẽ chẳng ra gì, và từ Tatiana anh đã học được bài học đau thương về thơ thẩn rồi. Hơn
nữa, có những điều ta không thể diễn tả bằng thơ, như cách một cô gái bĩu môi khiến ta
muốn cúi xuống và…

“Anh Lightwood,” Cecily bực dọc gọi cho thấy đây không phải lần đầu tiên cô muốn
Gabriel chú ý. “Tôi tin chúng ta đi qua cửa tiệm đó rồi.”

Gabriel lầm bầm chửi thề và quay đi. Họ quả đã đi qua địa chỉ Magnus đưa; họ lùi lại tới
khi đến trước một cửa hiệu tối tăm, xấu xí cửa kính mờ đục. Qua lớp kính cáu bẩn, anh
thấy những giá để đủ loại đồ đặc biệt – những chai lọ chứa xác rắn mắt trắng ởn trợn
trừng; búp bê mất đầu và được thế vào chỗ đó là cái lồng chim bằng vàng be bé, những
cái vòng tay răng người.

“Ôi trời,” Cecily nói. “Nó quá là khó chịu đây.”


“Cô có muốn vào không?” Gabriel quay sang. “Để mình tôi vào cũng được…”

“Và để tôi một mình đứng ngoài vỉa hè lạnh lẽo này hả? Anh thật chẳng quý ông chút
nào. Chắc chắn là không.” Cô với nắm đấm cửa và xoáy mở, khiến cái chuông nhỏ đâu
đó trong cửa tiệm kêu lanh canh. “Làm ơn đi sau tôi, anh Lightwood.”

Gabriel chớp chớp mắt đi sau cô vào cửa hàng tối. Bên trong chẳng chào đón gì hơn bên
ngoài. Những hàng giá bụi bẩn dẫn ngược vào một cái quầy khuất trong bóng tối. Cửa sổ
dường như bết dầu mỡ đen sì, chắn hầu hết ánh sáng. Những cái giá bày biện cũng rất lộn
xộn – những chiếc chuông đồng có tay cầm trông như bằng xương, nến mỡ có sáp chứa
xác côn trùng và hoa, một cái vương miện vàng khá đẹp mang hình dáng đặc biệt và
dường kính không thể nào vừa đầu người. Có những giá đặt dao, và mấy cái bát bằng
đồng và đá bên trong còn dính những vết nâu xỉn rất kì lạ. Có những chồng găng tay đủ
kích cỡ, một vài có dư thêm năm ngón tay ở mỗi bàn. Một bộ xương chẳng còn dính tí da
nào được treo trên sợi dây mảnh phía trước cửa tiệm, đang lắc lư từng hồi dù chẳng có
gió.

Gabriel vội nhìn Cecily để xem cô có sợ không, nhưng không hề. Cô chỉ bực bội mà thôi.
“Có người nên quét tước cho gọn gàng sạch sẽ chứ,” cô tuyên bố và đi ra đằng sau cửa
tiệm, những bông hoa nhỏ trên mũ cô nảy lên, Gabriel lắc đầu.

Anh đuổi kịp Cecily ngay khi cô ấn bàn tay đeo găng xuống cái chuông đồng tại quầy,
khiến nó kêu mấy tiếng liền hồi kì trận. “Xin chào?” Cô gọi. “Có ai ở đây không?”

“Ngay trước cô đây,” một giọng cáu bẳn vang lên, ngay bên dưới, lệch về bên trái. Cả
Cecily và Gabriel đều nhoài qua quầy. Ngay dưới gờ là đầu một người đàn ông nhỏ thó.
Không, không hẳn là đàn ông, Gabriel nghĩ khi tách được phép che mờ đi – một thần
rừng. Hắn mặc gi-lê và quần dài, nhưng không mặc sơ mi, chân guốc và có cái sừng dê
cong khá đẹp. Hắn có bộ râu tỉa và cằm nhọn, với đôi mắt vàng đồng tử hình chữ nhật,
nửa ẩn sau cặp mắt kính.

“Tuyệt,” Cecily nói. “Hẳn anh là Sallows.”

“Nephilim,” gã chủ tiệm rầu rĩ nói. “Tôi ghét Nephilim.”

“Hừ,” Cecily nói. “Anh cũng biết ăn nói quá đấy.”

Gabriel thấy đến lúc nên xen vào rồi. “Sao anh biết chúng tôi là Thợ Săn Bóng Tối?”

Sallows nhướng mày. “Thưa hai vị, là do Ấn Ký lồ lộ trên tay và cổ kia kìa,” Hắn gắt
gỏng cứ như đang nói với con nít ranh, “và còn về phần cô gái, cô ta rất giống anh mình.”
“Sao anh biết anh trai tôi?” Cecily lên giọng hỏi.

“Chúng tôi không đón nhiều Nephilim tại đây,” Sallows nói. “Và mỗi lần đều vinh hạnh
vô cùng. Anh trai Will của cô thường xuyên lui tới đây chừng hai tháng trước, chạy việc
vặt cho pháp sư Magnus Bane. Anh ta cũng thường xuống Cross Bones để quấy quả già
Molly. Thế Giới Ngầm thì lạ gì Will Herondale, dù anh ta cũng chẳng vướng mấy rắc
rối.”

“Đó quả là một tin bất ngờ,” Gabriel nói.

Cecily lườm Gabriel. “Chúng tôi đến đây theo ủy thác của Charlotte Branwell,” cô nói.
“Thủ lĩnh Học Viện Luân Đôn.”

Thần rừng phẩy tay. “Tôi chẳng quan tâm đến thể chế của Thợ Săn Bóng Tối các người.
Tiên Tộc vốn vậy đấy. Cứ bảo mấy người cần gì, và tôi sẽ ra giá phải chăng.”

Gabriel mở cuộn giấy Magnus đưa cho. “Giấm của lũ trộm, rễ đầu dơi, cà độc dược, bạch
chì, lá đông hầu, bột vảy tiên cá, và sáu cái đinh từ quan tài trinh nữ.”

“À,” Sallows nói. “Chúng tôi không mấy khi nhận được đơn đặt hàng mấy thứ đó ở đây.
Để tôi ra sau tìm xem.”

“Này, nếu anh không mấy khi được đặt những thứ đó, thì anh bán những gì?” Gabriel
bực bội hỏi. “Anh có bán hoa đâu.”

“Anh Lightwood,” Cecily khẽ mắng – nhưng không khẽ lắm vì Sallows đã nghe thấy và
cái kính nảy lên trên mũi hắn.

“Anh Lightwood?” Hắn nói. “Con trai Benedict Lightwood?”

Gabriel cảm nhận máu chảy rần rần lên má. Anh chẳng mấy tâm sự chuyện bố mình với
ai kể từ khi ông mất – nếu có ai nghĩ cái thứ đã chết trong khu vườn Ý là bố anh. Đã từng
có thời anh cùng gia đình chống lại cả thế giới, nhà Lightwood đứng trên tất cả, nhưng
giờ – giờ cái họ Lightwood mang nhiều tủi nhục cũng như từng một thời chứa đầy kiêu
hãnh, và Gabriel không biết phải nói sao.

“Đúng,” cuối cùng anh lên tiếng. “Tôi là con trai Benedict Lightwood.”

“Tuyệt vời. Tôi có một vài đơn đặt hàng của bố anh ở đây. Tôi bắt đầu tự hỏi ông ta có
quay lại lấy nữa không.” Tay thần rừng chạy ra đằng sau, và Gabriel cố tình ngắm nhìn
tường. Có những bức vẽ phong cảnh treo trên đó, cả bản đồ nữa, và khi nhìn kĩ hơn, đó
chẳng phải tranh hay bản đồ một nơi nào anh biết. Đấy tất nhiên là Idris, với rừng
Brocelind và Alicante trên đồi, nhưng một bản đồ khác cho thấy những lục địa anh chưa
từng thấy – và Biển Bạc là gì? Còn Núi Gai nữa? Quốc gia nào lại có bầu trời tím thế kia?

“Gabriel,” Cecily đứng bên cạnh khẽ nói. Đây là lần đầu tiên cô gọi tên anh, và anh quay
sang, đúng lúc Sallows từ sau cửa hàng bước ra. Một tay hắn cầm cái gói buộc chặt, và
giao cho Gabriel. Nó lổn nhổn – rõ ràng là thành phần thảo dược Magnus yêu cầu. Tay
kia Sallows cầm một tập giấy, và đặt xuống bàn.

“Hàng bố anh đặt đấy,” hắn cười khẩy.

Gabriel cúi nhìn đống giấy – và há hốc mồm hoảng hốt.

“Tuyệt,” Cecily nói. “Chắc chắn không thể nào nhỉ?”

Thần rừng nghển cổ xem cô đang nhìn gì. “À, với người thì khó chứ với quỷ Vetis và dê
thì dễ lắm.” Hắn quay sang Gabriel. “Nào, anh có tiền trả hay không? Bố anh còn nợ tiền
tôi, và ông ấy không thể khất lần khất lữa mãi được. Thế nào đây, Lightwood?”

“Charlotte đã bao giờ hỏi cô có muốn làm Thợ Săn Bóng Tối hay chưa chưa?” Gideon
hỏi.

Vừa xuống được nửa cây thang, với cuốn sách cầm trong tay, Sophie sững lại. Gideon
đang ngồi bên một cái bàn dài trong thư viện, gần ô cửa sổ nhìn ra sân. Sách và giấy tờ
bày la liệt trước mặt anh, và anh cùng Sophie đã trải qua vài giờ yên ổn tìm kiếm danh
sách và lịch sử phù chú, chi tiết về ngân phiến, cùng những kiến thức về thảo dược cần
thiết. Dù chân Gabriel lành nhanh, nhưng anh vẫn phải gác chân lên hai cái ghế phía
trước, và Sophie vui vẻ đề nghị nhận nhiệm vụ lên xuống thang để lấy những cuốn sách
cao nhất. Giờ cô đang cầm cuốn Phân cấp quỷ có bìa khá nhờn và cô rất muốn được đặt
xuống, dù câu hỏi của Gideon khiến cô giật mình sững lại. “Ý anh là sao?” Cô nói và tiếp
tục leo xuống. “Sao Charlotte lại hỏi tôi chuyện như thế?”

Gideon hơi tái, hoặc cũng có thể là do đèn phù thủy hắt sáng vào mặt anh. “Cô Collins,”
anh nói. “Cô là một trong những chiến binh giỏi nhất tôi từng dạy dỗ, mà trong số đó có
cả Nephilim đấy nhé. Đó là lí do tôi hỏi. Thật tiếc khi bỏ phí một tài năng như vậy. Dù có
lẽ cô không muốn?”

Sophie đặt sách xuống bàn, và ngồi đối diện Gideon. Cô biết mình nên ngần ngừ, tỏ vẻ
nghĩ lại câu hỏi, nhưng đáp án đã ở ngay đầu môi trước khi cô kịp ngăn mình. “Tôi chỉ
ước được làm Thợ Săn Bóng Tối thôi.”
Anh nhoài người về trước, và đèn phù thủy chiếu vào mắt anh, xóa sạch màu sắc của
chúng. “Cô không lo đến nguy hiểm ư?Tiến Cấp mà càng lớn tuổi thì nguy hiểm càng
lớn. Tôi đã nghe họ nói chuyện hạ tuổi được cho phép Tiến Cấp xuống còn mười bốn
hoặc thậm chí mười hai.”

Sophie lắc đầu. “Tôi chẳng sợ nguy hiểm. Tôi vui lòng chấp nhận ấy chứ. Chỉ là tôi sợ…
sợ nếu tôi đăng kí, cô Branwell sẽ nghĩ tôi không biết ơn mọi điều cô ấy làm cho tôi. Cô
ấy cứu mạng tôi và cho tôi cơm ăn áo mặc. Cô ấy cho tôi sống an toàn và một mái nhà.
Tôi nghỉ phục vụ là coi như chẳng trả được ơn cô ấy nữa.”

“Không.” Gideon lắc đầu. “Sophie… cô Collins… cô là một gia nhân tự do trong nhà của
Thợ Săn Bóng Tối. Cô có Tâm Nhãn. Cô biết tất cả về cư dân Thế Giới Ngầm và
Nephilim rồi. Cô là ứng cử viên Tiến Cấp hoàn hảo.” Anh đặt tay lên cuốn sách quỷ học.
“Tôi có tiếng nói ở Hội Đồng. Tôi có thể nói hộ cô.”

“Tôi không thể,” Sophie lí nhí. Anh không hiểu anh đang dụ dỗ cô sao. “Và chắc chắn
không phải bây giờ.”

“Không, tất nhiên không phải bây giờ, khi James đang ốm yếu thế,” Gideon vội vàng nói.
“Nhưng trong tương lai? Có thể chứ?” Mắt anh nhìn gương mặt cô đang dần đỏ từ cổ lên.
Cách hiển nhiên và thông thường nhất để một người phàm Tiến Cấp thành Thợ Săn Bóng
Tối là thông qua kết hôn với một Thợ Săn Bóng Tối. Cô tự hỏi sao anh lại có vẻ quyết
tâm vậy khi nhắc đến chuyện đó. “Nhưng khi tôi hỏi cô, cô nói rất rành mạch. Cô nói đời
cô, cô chỉ muốn là Thợ Săn Bóng Tối. Vì sao? Đó là một cuộc đời chông gai mà.”

“Cuộc đời nào cũng có thể lắm chông gai,” Sophie nói. “Đời tôi trước khi đến Học Viện
cũng chẳng ngọt ngào gì. Tôi chắc một phần mình muốn thành Thợ Săn Bóng Tối để nếu
có gã đàn ông nào dám tới gần tôi với một con dao trong tay, như cậu chủ cũ của tôi, tôi
có thể giết hắn chết ngay tại chỗ.” Cô vừa nói vừa chạm vào má, một hành động vô thức
cô không đừng được, cảm nhận vết sẹo lồi dưới tay mình.

Cô thấy vẻ mặt Gideon – hoảng hốt hòa trộn cùng khó chịu – và hạ tay. “Tôi không biết lí
do cô bị sẹo,” anh nói.

Cô nhìn đi nơi khác. “Giờ anh sẽ nói rằng nó không xấu, hoặc anh chẳng để ý, hoặc gì đó
đại loại.”

“Tôi thấy chứ,” Gideon khẽ nói. “Tôi không mù, và thân thể chúng tôi cũng có rất nhiều
sẹo. Tôi thấy, nhưng nó không xấu. Chỉ là một phần đẹp khác của cô gái đẹp tuyệt trần.”
Giờ Sophie đỏ mặt thật – cô cảm nhận má mình nóng bừng – và khi Gideon nhoài người
qua bàn, ánh mắt mang màu xanh lá trong trẻo, cô hít một hơi quyết tâm. Anh không
giống chủ cũ của cô. Anh là Gideon. Cô không thể tránh anh lần nữa.

Cửa thư viện bật mở. Charlotte đứng tại bậu cửa, trông kiệt sức; có những vệt mồ hôi trên
cái váy xanh nhạt của chị, và mắt chị trũng sâu. Sophie vội bật dậy. “Cô Branwell?”

“Ôi, Sophie,” Charlotte thở dài. “Tôi hi vọng cô có thể ngồi cùng Jem một lúc. Cậu ấy
chưa tỉnh, nhưng Bridget phải làm bữa khuya, và tôi nghĩ mấy bài hát kinh khủng của cô
ấy sẽ làm cậu ấy mơ ác mộng mất.”

“Tất nhiên ạ,” Sophie quay người đi ra cửa, không hề nhìn Gideon – dù khi cửa đóng lại,
cô khá chắc mình có nghe anh bực dọc lầm bầm chửi thề bằng tiếng Tây Ban Nha.

“Anh biết không,” Cecily nói, “anh không cần phải ném bay người ta qua cửa sổ đâu.”

“Hắn không phải người,” Gabriel nói, nhăn nhó nhìn đống đồ trong tay. Anh mang theo
gói hàng của Magnus mà Sallows đưa, cộng thêm vài món đồ trông có vẻ hữu dụng khác
trên giá nữa. Gabriel đã bỏ lại đống hàng bố đặt lại quầy – sau khi anh ném bay tay thần
rừng qua cửa sổ bẩn thỉu. Thật tuyệt vời, kính vỡ tung tóe. Lực ném khiến bộ xương treo
lủng lẳng rời ra, rơi hết xuống sàn. “Hắn là tiên thuộc triều đình Unseelie. Một trong
những kẻ xấu xa.”

“Đấy là lí do anh rượt hắn chạy khắp đường à?”

“Hắn không nên đưa những tranh ảnh đó cho một quý cô xem,” Gabriel lầm bầm, dù phải
thừa nhận rằng quý cô đó chẳng buồn chớp mắt, và có vẻ bực bội với phản ứng của
Gabriel hơn là ngưỡng mộ sự hào hiệp của anh.

“Tôi thấy anh ném hắn xuống mương là hơi quá.”

“Hắn sẽ nổi được ấy mà.”

Khóe miệng Cecily giật giật. “Còn lâu.”

“Cô cười rồi,” Gabriel ngạc nhiên.

“Đâu có,” Cecily hất hàm, và quay đi, nhưng Gabriel đã kịp thấy nụ cười nở trên gương
mặt cô. Gabriel lúng túng. Sau khi cô tỏ vẻ coi thường anh, và nói kháy anh, anh khá
chắc những hành động gần đây nhất của anh sẽ khiến cô đem chuyện kể ngay với
Charlotte khi về Học Viện, nhưng cô có vẻ thích thú. Anh lắc đầu khi họ vào đường
Garnet. Anh phải hiểu người nhà Herondale chứ.

“Anh Banes, anh đưa tôi cái lọ đó trên giá nhé?” Henry hỏi.

Magnus làm theo. Anh đang đứng ở giữa phòng thí nghiệm của Henry, nhìn quanh ngắm
nghía những món đồ lấp lánh trên các bàn xung quanh. “Cho phép tôi hỏi nhé, mấy thứ
máy móc kì cục này là gì vậy?”

Henry, đang đeo hai đôi kính to tướng một lúc – một trên đầu và một ở mắt – trông vừa
vui vừa lo khi được hỏi. (Magnus đoán hai cặp kính là do lơ đang mà ra, nhưng vì biết
đâu đấy lại là mốt, nên anh quyết định không hỏi.) Henry cầm một vật hình vuông nhiều
nút lên. “À, đây là Máy Cảm Ứng. Nó phát hiện quỷ ở gần.” Anh tiến lại gần Magnus, và
Máy Cảm Ứng kêu ầm ĩ.

“Ấn tượng đấy!” Magnus kêu lên, hài lòng. Anh nhấc vật bằng vải có đính một con chim
lớn. “Còn đây là gì?”

“Mũ Chết Người,” Henry tuyên bố.

“À,” Magnus nói. “Để khi cần một quý cô có thể rút vũ khí từ đó và giết kẻ thù.”

“À, không phải,” Henry thú thực. “Nhưng nghe thế lại hay hơn đấy. Giá mà anh có mặt
khi tôi nảy ra ý đó. Không may là cái mũ này quấn quanh đầu của kẻ thù và khiến hắn
chết ngạt, nhưng phải đội đúng lúc.”

“Tôi tưởng tượng khó mà thuyết phục được Mortmain đội mũ nữ,” Magnus nhận xét.
“Dù màu này hợp với ông ta ra phết.”

Henry bật cười. “Anh vui tính lắm, anh Bane.”

“Cứ gọi tôi là Magnus là được.”

“Được thôi!” Henry ném cái mũ ra sau vai và cầm một lọ thủy tinh tròn đựng vật chất lấp
lánh gì đó. “Đây là bột vẩy vào không khí giúp cho ma hiện hình,” Henry nói.

Magnus nghiêng cái lọ đựng những hạt sáng về phía đèn và trầm trồ chiêm ngưỡng, rồi
được Henry vui vẻ khuyến khích, Magnus mở nắp. “Trông có vẻ được đấy,” anh nói và
đổ một ít ra tay. Nó bám vào làn da nâu của anh, bao một bàn tay trong chất bột phát
sáng. “Và ngoài dùng trong mục đích đó, có vẻ nó làm mĩ phẩm cũng được. Thứ bột này
có thể làm da tôi lóng lánh mãi mãi.”
Henry nhíu mày. “Không mãi mãi được,” anh nói, rồi hứng chí hẳn. “Nhưng tôi có thể
làm cho anh một mẻ mới lúc nào anh muốn!”

“Tôi sẽ được tự do tỏa sáng!” Magnus cười với Henry. “Những thứ này tuyệt vời lắm,
anh Branwell. Thế giới quan của anh khác của các Nephilim tôi từng gặp. Thú thật là tôi
nghĩ các anh hơi thiếu trí tưởng tượng, chỉ thích làm quá chuyện của mình, nhưng anh đã
cho tôi một suy nghĩ hoàn toàn khác! Chắc chắn cộng đồng Thợ Săn Bóng Tối sẽ vinh
danh anh và đánh giá cao anh vì đã giúp giống nòi tiến bước.”

“Không,” Henry buồn bã nói. “Hầu hết họ ước tôi ngừng mày mò các phát minh mới và
dừng đốt phá mọi thứ.”

“Nhưng mọi phát minh xét đều đến cùng nguy hiểm!” Magnus kêu lên. “Tôi đã thấy thế
giới chuyển mình ra sao khi động cơ hơi nước được phát minh, rồi sự gia tăng của các
loại giấy in, nhà máy, cối xay gió đã thay đổi bộ mặt nước Anh. Người phàm đã nắm giữ
thế giới trong tay và biến nó thành kì diệu. Pháp sư suốt nhiều thế kỉ đã mơ và tạo ra rất
nhiều thần chú khác nhau để có được một thế giới khác. Liệu Thợ Săn Bóng Tối có phải
giống nòi duy nhất cứ khư khư không chịu thay đổi, và sẽ tuyệt diệt không? Sao họ có thể
hếch mũi khinh bỉ một thiên tài như anh? Đó chẳng khác nào thích rúc vào chỗ tối và
tránh ánh sáng.”

Mặt Henry đỏ lựng. Rõ ràng chưa từng có ai khen tài phát minh của anh, có lẽ trừ
Charlotte. “Anh khen ngợi tôi, anh Bane.”

“Magnus chứ,” pháp sư nhắc. “Giờ tôi có thể được thấy anh đã làm đến đâu với cánh
cổng anh mô tả chứ? Phát minh sẽ chuyển sinh vật từ nơi này đến nơi khác?”

“Tất nhiên.” Henry rút ra một cuộn giấy to tướng từ góc cái bàn bừa bộn, và đẩy nó qua
chỗ Magnus. Pháp sư cầm lấy và hào hứng mở ra. Mỗi trang đều kín đặc những con chữ
viết tháu, và hàng tá hàng tá những biểu thức, phép tính và chữ rune hòa hợp đến giật
mình. Magnus thấy tim đập nhanh hơn khi giở trang – đây là thiên tài, thực sự là thiên tài.
Chỉ có duy nhất một vấn đề.

“Tôi thấy anh định làm gì,” anh nói. “Và nó đã gần hoàn hảo, nhưng…”

“Đúng, gần thôi.” Henry vuốt mái tóc đỏ, khiến cái kính lệch lạc. “Cánh cổng có thể mở
ra, nhưng không biết điều hướng ra sao. Không ai biết liệu anh có bước qua đó tới địa
điểm anh muốn tại thế giới này hoặc thế giới khác không, hoặc địa ngục cũng chưa biết
chừng. Nó quá nguy hiểm, và vì thế là vô dụng.”
“Anh không thể dùng mấy chữ rune này,” Magnus nói. “Anh cần những chữ rune khác
loại anh đang sử dụng.”

Henry lắc đầu. “Chúng tôi chỉ có thể sử dụng các chữ rune trong Sách Xám. Bất cứ gì
khác đều là phép thuật, mà Nephilim lại không dùng được.”

Magnus trầm ngâm nhìn Henry một lúc lâu. “Đây là điều tôi làm được,” anh tuyên bố và
rút ra một sấp giấy.

Các tiên thuộc triều đình Unseelie không thích ánh sáng lắm. Điều đầu tiên Sallows – cái
tên này chẳng phải tên thật – làm sau khi về cửa hàng là dán giấy sáp lên cửa sổ bị tay
Nephilim vô tình làm vỡ. Cặp kính của hắn cũng mất tiêu dưới làn nước của Limehouse
Cut. Và có vẻ không ai định trả tiền cho đống giấy rất đắt tiền hắn đặt cho Benedict
Lightwood. Nói chung hôm nay là một ngày quá tệ.

Hắn bực bội ngước lên khi chuông cửa hàng kêu lanh canh, báo cửa mở, và hắn nhíu
mày. Hắn nghĩ mình khóa cửa rồi. “Quay lại hả, Nephilim?” Hắn gắt. “Quyết định ném
tôi xuống mương không phải một, mà hai lần hử? Tôi cho anh biết tôi quen rất nhiều
người có máu mặt…”

“Chắc chắn rồi, đồ lừa đảo.” Một kẻ cao ráo, đội mũ trùm bước vào và đóng cửa lại. “Tôi
rất muốn biết thêm về họ.” Một lưỡi dao sắt lạnh lẽo lóe lên trong bóng tối, và đôi mắt gã
thần rừng mở to sợ hãi. “Tao có vài câu muốn hỏi mày,” kẻ đứng ở cửa bảo. “Và nếu tao
là mày, tao sẽ không chạy. Trừ khi mày muốn mất mấy ngón tay…”
13

TRONG ĐẦU CŨNG CÓ NÚI NON


Ôi trí óc, trong đầu cũng có núi non

Có đồi có vách thâm sâu khó dò.

Bước đi thận trong người ơi,

Đề phòng đường dốc, đường trơn bất ngờ

Rồi còn gió giật phong ba,

Đến ngày kết thúc, ngủ hoài vạn niên.

– Gerard Manley Hopkins, No Worse, There Is None

Tessa sau đó không thể nhớ mình có la hét khi rơi không. Cô chỉ nhớ một cú rơi dài im
lặng, dòng sông, đám đá sỏi lao về phía cô, bầu trời ở chân cô. Gió táp vào mặt và tóc khi
cô nhào lộn và thấy cổ bị giật mạnh.

Cô với tay lên. Sợi dây chuyền thiên sứ bay vượt đầu cô, như thể có một bàn tay từ trên
trời thò xuống muốn tháo nó ra. Một bóng hình kim loại mờ mờ quanh cổ, một cặp cánh
lớn mở ra như cánh cổng, và gì đó bắt lấy cô, ngừng cú rơi lại. Mắt cô mở to – không thể
nào, không tưởng tượng được – nhưng thiên sứ của cô, mặt dây chuyền của cô không
hiểu thế nào lại to bằng kích cỡ người sống và đang bay phía trước cô, đôi cánh kim loại
to lớn của nó đang đập trong gió. Cô ngước nhìn gương mặt đẹp, vô cảm, gương mặt của
một bức tượng kim loại, vẫn chẳng tỏ một chút cảm xúc nào – nhưng thiên sứ có tay, linh
hoạt như tay cô, đang bế cô, đưa cô lên trong khi đôi cánh vẫn đập và cô rơi chậm hơn, từ
từ, như một bông bồ công anh bay trong gió.

Có lẽ mình sắp chết, Tessa nghĩ. Và, Không thể nào. Nhưng thiên sứ đang bế cô, và họ
cùng nhau bay xuống, mặt đất càng lúc càng gần tầm mắt. Cô có thể thấy từng viên đá
bên dòng suối, nước chảy xuôi dòng, nắng lấp lóa chiếu xuống mặt nước. Bóng đôi cánh
rợp mặt đất rồi lớn và lớn dần đến khi cô rơi vào đó, vào bóng tối, cô và thiên sứ cùng
nhau chạm nền đất mềm lổn nhổn đá bên bờ suối.

Tessa thở gấp gáp khi đáp xuống, phần nhiều do choáng chứ chẳng phải do cú va chạm,
và vươn tay lên như thể có thể dùng cơ thể mình làm nệm đỡ thiên sứ – nhưng nó đã thu
nhỏ lại dần, cánh khép lại, tới khi rơi chạm mặt đất bên cạnh cô, một lần nữa chẳng to
hơn một món đồ chơi. Cô đưa bàn tay run rẩy cầm lấy. Cô đang nằm trên nền đất lổn
nhổn đá, nửa người ướt nước lạnh; nước đã thấm ướt váy cô. Cô cầm sợi dây chuyền và
bỏ lên bờ suối bằng tất cả sức mạnh còn lại, rồi cuối cùng gục xuống nền đất khô ráo với
thiên sứ áp trên ngực, kêu những tiếng tích tắc quen thuộc trên trái tim cô.

Sophie ngồi trên chiếc ghế tựa cạnh giường Jem vốn luôn thuộc về Will, và nhìn Jem
ngủ.

Cô nghĩ từng có thời, cô gần như sung sướng được nhận cơ hội này, một cơ hội được ở
gần anh, được áp khăn lạnh lên trán khi anh cựa mình, mê sảng và sốt cao. Và dù cô
không còn yêu anh như xưa nữa – giờ cô nhận ra mình đã yêu đơn phương một người
không biết mình dành tình cảm cho người ta, chỉ ngưỡng mộ và đứng từ xa ngắm nhìn –
vẫn khiến tim cô đau khi trông thấy anh thế này.

Một cô gái ở quê Sophie đã chết vì bệnh lao phổi, và Sophie nhớ người ta đã nói về căn
bệnh đã khiến cô ấy xinh đẹp hơn trước khi giết chết cô ấy – khiến cô ấy xanh xao hao
gầy, má ửng lên một màu hồng đỏ. Jem cũng có cùng sắc màu đó trên má khi anh lật
người trên gối; mái tóc trắng bạc như băng tuyết, còn những ngón tay bồn chồn co giật
trên chăn. Thi thoảng anh lại nói mớ, nhưng mọi từ ngữ đều bằng tiếng Hán, và cô không
hiểu. Anh gọi tên Tessa. Wo ai ni, Tessa. Bu lu run, he qing kuang fa sheng, wo men dou
hui zai yi qi13. Và anh cũng gọi Will, sheng si zhi jiao14, theo cách khiến Sophie chỉ muốn
nắm chặt tay anh, dù khi cô chạm vào anh thật, người anh nóng bừng và anh hét giật tay
lại.

Sophie lùi vào ghế, tự hỏi liệu có nên gọi Charlotte không. Charlotte sẽ muốn biết nếu
tình hình của Jem xấu đi. Cô đang định đứng lên thì Jem đột ngột thở dốc và mở choàng
mắt. Cô ngồi trở lại ghế, trân trối nhìn. Đồng tử của anh mang một màu bạc nhạt đến gần
như trắng. “Will?” Anh gọi. “Will, là bồ à?”

“Không,” cô nói, sợ tới không dám nhúc nhích. “Tôi là Sophie.”

Anh khẽ thở dài và quay đầu nhìn cô. Cô thấy anh cố lắm mới tập trung nhìn cô được –
rồi, phi thường làm sao, nở nụ cười ngọt ngào đã từng chiếm lấy trái tim cô. “Tất nhiên,”
anh nói. “Sophie. Will không ở đây – tôi bảo Will đi rồi.”

“Cậu ấy đi tìm Tessa,” Sophie nói.


13
Anh yêu em, Tessa. Dù có chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn sẽ bên nhau.
14
Damon và Pythias, là biểu tượng của tình bạn sống chết vì nhau.
“Tốt.” Bàn tay dài của Jem đặt trên chăn nắm lại một cái rồi mở ra. “Tôi… rất mừng.”

“Cậu nhớ cậu ấy,” Sophie nói.

Jem khẽ gật đầu. “Tôi cảm nhận được – cậu ấy ở xa, như một sợi dây trong tôi bị kéo rất,
rất căng. Tôi không tính tới chuyện đó. Chúng tôi chưa từng rời xa nhau kể từ hồi là
parabatai.”

“Cecily bảo cậu kêu cậu ấy đi.”

“Ừ,” Jem nói. “Khó thuyết phục cậu ấy ra phết. Tôi nghĩ nếu cậu ấy không yêu Tessa, tôi
không thể bảo cậu ấy đi nổi.”

Sophie há hốc miệng. “Cậu biết?”

“Chưa lâu lắm,” Jem nói. “Không, tôi không độc ác thế đâu. Nếu tôi biết, tôi sẽ chẳng
bao giờ cầu hôn. Tôi sẽ nhường. Tôi không biết. Nhưng, giờ khi mọi thứ sắp rời xa tôi,
tôi nhìn nhận mọi chuyện rất rõ ràng, và nghĩ tôi sẽ biết dù cậu ấy không nói. Đến phút
cuối tôi sẽ biết chứ.” Anh hé cười khi thấy vẻ căng thẳng của Sophie. “Tôi mừng vì
không phải đợi tới phút cuối.”

“Cậu không giận?”

“Tôi mừng,” anh nói. “Họ có thể chăm sóc lẫn nhau khi tôi đi, hoặc ít nhất tôi có thể hi
vọng như vậy. Cậu ấy nói Tessa không yêu mình, nhưng… chắc chắn rồi cô ấy sẽ yêu
Will thôi. Will dễ khiến người ta yêu, và cậu ấy yêu cô ấy bằng cả trái tim. Tôi mong cô
ấy sẽ không làm cậu ấy tan nát cõi lòng.”

Sophie không biết nói gì. Cô không biết người ta có thể nói gì về tình yêu như thế – quá
nhiều sự vị tha, quá nhiều chịu đựng, quá nhiều hi vọng. Có rất nhiều lần trong vài tháng
qua cô hối hận rằng mình đã nghĩ sai về Will Herondale, khi cô thấy sao anh nhường cho
Tessa và Jem được hạnh phúc, và cô biết nỗi đau đớn Tessa phải chịu đựng để được hạnh
phúc, khi biết mình làm tổn thương Will. Về phần mình, Sophie biết Tessa thi thoảng gọi
tên Will trong cơn mơ; chỉ cô biết vết sẹo trong lòng bàn tay Tessa không phải do vô tình
chạm phải que cời lửa mà là cố tình, muốn dùng cái đau thể xác để át đi cái đau tâm hồn
vì từ chối Will. Sophie đã ôm Tessa khi cô ấy khóc và dứt hoa cài tóc mang màu mắt
Will, rồi Sophie đã dùng phấn để giúp cô ấy che đi vệt nước mắt và bọng mắt thâm quầng
sau những đêm mất ngủ.

Cô có nên nói ra không? Sophie tự hỏi. Liệu nói rằng Có, Tessa cũng yêu cậu ấy, rằng Dù
cô ấy rất cố, nhưng vẫn yêu cậu ấy có tốt không? Liệu có bất cứ người đàn ông nào thực
lòng muốn nghe thế về vợ chưa cưới của mình? “Cô Gray rất tôn trọng cậu Herondale, và
cô ấy sẽ không vô tình làm tan nát lòng ai, tôi nghĩ,” Sophie nói. “Nhưng tôi ước cậu
không nói như thể mình cầm chắc phần chết, cậu Carstairs. Ngay giờ đây, cô Branwell và
những người khác cũng đang tìm phương thuốc chạy chữa. Tôi nghĩ cậu sẽ sống đến già
cùng cô Gray, và cả hai sẽ rất hạnh phúc.”

Anh mỉm cười như thể anh biết gì đó cô không biết. “Cô thật tốt bụng, Sophie. Tôi biết
tôi là Thợ Săn Bóng Tối, và chúng tôi không dễ dàng từ bỏ cuộc đời này. Chúng tôi chiến
đấu tới hơi thở cuối cùng. Chúng tôi tới từ vương quốc của các thiên thần, nhưng chúng
tôi cũng sợ cái nơi ấy. Nhưng tôi nghĩ rằng người ta có thể đối mặt với phút cuối đời và
không sợ sẽ chẳng hề khuất phục cái chết. Thần chết chẳng chi phối được tôi.”

Sophie nhìn anh, hơi lo lắng; anh nói nghe hơi mê sảng. “Cậu Carstairs? Tôi gọi
Charlotte đến nhé?”

“Tí nữa, nhưng Sophie này – theo ý cô, đúng lúc này, khi tôi nói…” Anh nhoài người
một chút. “Là đúng chứ?”

“Cái gì đúng?” Cô khẽ hỏi, nhưng cô biết câu hỏi là gì, và cô không thể nói dối Jem.

Tâm trạng Will rất xấu. Ngày nhiều mây, ẩm ướt, và khó chịu. Anh tỉnh dậy mà nhộn
nhạo buồn nôn, và cố lắm mới nuốt trôi món trứng bác và thịt hun khói lạnh được bà chủ
nhà trọ dọn cho; mọi phần cơ thể anh đều chỉ ước ao được lên đường, tiếp tục hành trình.

Mưa quất vào người khiến anh lạnh cóng, đến dùng các chữ rune giữ ấm cũng chẳng ăn
thua, và Balios không thích bùn dính vào móng khi hai chủ tớ cố phi nhanh trên đường,
Will bực bội nghĩ sao sương lại có thể thực sự ngưng tụ bên trong quần áo. Ít nhất cũng
đến được Northamptonshire, vậy kể ra cũng là thành quả, nhưng anh mới đi được hai
mươi dặm và chưa muốn dừng, dù Balios đang ai oán nhìn anh khi họ đi qua Towcester,
như thể cầu xin một tàu ngựa ấm áp cùng ít yến mạch, và Will suýt mềm lòng. Cảm giác
tuyệt vọng ngập tràn xương tủy anh, cũng lạnh và khó tránh hệt như mưa gió. Anh nghĩ
mình đang làm gì đây? Anh thực lòng nghĩ mình sẽ tìm được Tessa ư? Anh bị ngốc sao?

Họ đang đi qua một vùng quê trông chán ngắt, nơi bùn khiến con đường đá thật nguy
hiểm. Một vách núi cao dốc thẳng lên ở một bên đường, chắn mất bầu trời. Bên kia con
đường là một vực thẳm toàn đá sắc nhọn. Dòng suối đục ngầu bùn xa xa bên dưới con
vực hắt ánh lấp lánh. Will kéo cương giữ Balios nhìn thẳng, di chuyển tránh vực thẳm,
nhưng con ngựa có vẻ bất kham và chẳng sợ ngã. Will cúi đầu sát cổ áo để tránh nước
mưa lạnh lẽo; nhưng may mà liếc bên vệ đường, anh thấy ánh xanh vàng lấp lánh giữa
đám đá bên vệ đường.
Anh ghìm cương Balios lại ngay và xuống ngựa nhanh đến suýt trượt ngã. Mưa quất xối
xả hơn khi anh đi dến và quỳ xem xét sợi dây chuyền vàng vướng vào một khối đá trồi
lên. Anh cẩn thận cầm lên. Đó là một cái mặt dây chuyền bằng ngọc bích, tròn, với những
con chữ khắc đằng sau. Anh biết rõ ý nghĩa của nó.

Khi tâm hai người là một, họ có thể đập tan cả sắt hay đồng.

Món quà cưới Jem tặng Tessa. Will nắm chặt lấy nó và đứng lên. Anh nhớ đã nhìn cô tại
cầu thang – sợi dây chuyền ngọc bích trên cổ cô lấp lánh như một sự nhắc nhở độc ác về
Jem khi cô nói Người ta bảo ta không thể chia đôi trái tim, nhưng…

“Tessa!” Anh đột nhiên hét gọi, giọng vang vọng giữa các vách đá. “Tessa!”

Anh đứng đó một lúc, run rẩy, bên vệ đường. Anh không biết mình mong chờ cái gì –
một câu trả lời chăng? Cô khó thể nào ở đây, trốn giữa đám đá lổn nhổn này. Chỉ có im
lặng và tiếng gió cùng mưa. Nhưng anh biết rõ rằng đây là sợi dây chuyền của Tessa. Có
lẽ cô đã tháo và ném qua cửa sổ để đánh dấu đường cho anh, như Hansel và Gretel đã rải
vụn bánh mì vậy. Nhân vật trong truyện sẽ làm thế, và Tessa của anh cũng có thể hành
động tương tự. Có lẽ còn những dấu vết khác, nếu anh để ý. Lần đầu tiên hi vọng lại trở
về với anh.

Với đó, anh sải bước về bên Balios và lên ngựa. Anh không được phép chần chừ thêm;
họ sẽ đến được Staffordshire vào tầm tối. Khi phi ngựa, anh nhét sợi dây chuyền vào túi,
nơi những con chữ khắc về tình yêu và sự thủy chung dường như đang tỏa sáng rực rỡ.

Charlotte chưa từng thấy mệt thế. Đứa nhỏ khiến chị thấy nhanh thấm mệt hơn chị tưởng,
và chị đêm chẳng ngủ được, mấy ngày nay lại bôn ba suốt. Trên váy chị còn dính những
vết bẩn từ hầm mộ của Henry, mắt cá chân đau vì phải lên xuống cầu thang, và thang
trong thư viện. Nhưng, khi mở cửa phòng Jem và thấy cậu ấy không chỉ tỉnh mà còn ngồi
dậy nói chuyện với Sophie, chị quên mất sự mệt mỏi và nở nụ cười nhẹ nhõm. “James!”
Chị kêu lên. “Chị đã tự hỏi… thôi, chị rất mừng vì em đã tỉnh.”

Sophie, trông đỏ mặt bất thường, đứng lên. “Tôi xin phép đi nhé, cô Branwell?”

“À, được, được thôi, Sophie. Bridget đang bực thì phải; cô ấy bảo không tìm được Bang
Mary, mà tôi chẳng hiểu cô ấy muốn nói cái gì.”

Sophie suýt cười – cô hẳn sẽ cười nếu tim không nặng trĩu khi biết mình có thể đã làm
một chuyện rất xấu. “Là bain-marie15,” cô nói. “Tôi sẽ đi tìm ngay đây.” Cô đi ra cửa,
15
Nồi hấp cách thủy.
dừng lại, và ngoái nhìn Jem dựa lưng vào gối, trông xanh xao nhưng đã tỉnh táo. Trước
khi Charlotte kịp nói gì, Sophie đã đi, và Jem cười mệt mỏi gọi Charlotte đến.

“Charlotte, nếu chị không ngại thì đưa cho em cây vĩ cầm nhé?”

“Tất nhiên.” Charlotte tới bên bàn cạnh cửa sổ, nơi cây vĩ cầm được đặt trong cái hộp gỗ
hồng đào, với cây vĩ và một lọ cô-lô-phan nhỏ. Chị cầm cây đàn lên và mang đến giường;
Jem cẩn thận nhận lấy, và chị vui vẻ ngồi xuống cạnh giường Jem. “Ôi…” chị nói sau
một lát. “Chị xin lỗi. Chị quên mất cây vĩ. Em muốn chơi không?”

“Không.” Anh nhẹ nhàng vuốt ve dây đàn, tạo ra những tiếng rung khe khẽ. “Đây là bật
dây đàn – điều đầu tiên bố dạy em khi cho em thấy cây vĩ cầm. Nó nhắc em nhớ đến hồi
còn bé.”

Em vẫn chưa hề lớn, Charlotte muốn nói, nhưng lại thôi. Chỉ vài tuần nữa là cậu ấy đến
sinh nhật tuổi mười tám, khi Thợ Săn Bóng Tối được coi là trưởng thành, nhưng nhìn
Jem, chị vẫn thấy cậu bé tóc đen đến từ Thượng Hải, cầm chặt cây vĩ cầm, mắt mở to trên
gương mặt xanh xao. Nhưng như vậy không có nghĩa rằng cậu chưa trưởng thành.

Chị với lấy cái hộp ngân phiến bên tủ đầu giường. Trong đó chỉ còn một chút xíu dính ở
đáy, chẳng đủ một thìa trà. Chị nuốt nước bọt qua cổ họng nghẹn lại, và vỗ bột đổ vào
cốc, rồi hòa nước, để ngân phiến tan ra như đường. Sau đó chị đưa cho Jem, cậu ấy đặt
cây vĩ cầm sang bên và cầm cốc. Jem nhìn vào đó, đôi mắt bàng bạc trầm ngâm.

“Thế là hết rồi ạ?” Cậu ấy hỏi.

“Magnus đang tìm thuốc giải,” Charlotte nói. “Tất cả chúng ta. Gabriel và Cecily đang đi
mua thành phần của thuốc giữ sức cho em, còn Sophie và Gideon với chị đang nghiên
cứu. Mọi người đang làm mọi chuyện có thể. Mọi chuyện.”

Jem hơi ngạc nhiên. “Em không hề hay biết.”

“Nhưng chuyện vẫn diễn ra mà,” Charlotte nói. “Chúng ta là người nhà của em; chúng ta
sẽ làm mọi điều cho em. Làm ơn đừng đánh mất hi vọng, Jem. Chị cần em giữ sức.”

“Sức lực em có là nhờ mọi người,” cậu ấy nói mập mờ rồi nhìn cốc nước ngân phiến đã
cạn rồi trả lại chị. “Charlotte này?”

“Ừ?”

“Chị đã thắng cuộc chiến về tên đứa bé chưa?”


Charlotte bật cười. Thật kì lạ khi nghĩ đến đứa bé của chị, nhưng sao lại không? Người
chết nhưng chúng ta vẫn phải sống. Đây là một chuyện cho ta suy nghĩ ngoài chuyện
bệnh tật, hay Tessa mất tích, hay nhiệm vụ nguy hiểm của Will. “Chưa,” chị nói. “Henry
vẫn đòi đặt tên con là Buford.”

“Chị sẽ thắng,” Jem nói. “Chị luôn thắng. Chị sẽ là một Quan Chấp Chính tuyệt vời,
Charlotte ạ.”

Charlotte chun mũi. “Một nữ Quan Chấp Chính à? Sau tất cả những rắc rối chị gây ra khi
điều hành Học Viện sao!”

“Cái gì cũng phải có đầu tiên mà,” Jem nói. “Không dễ làm người đầu tiên, và cũng
không phải lúc nào cũng đáng, nhưng là quan trọng.” Anh cúi đầu. “Chị đang mang trong
mình một nỗi nuối tiếc của em.”

Charlotte bối rối nhìn cậu ấy.

“Em rất muốn được thấy đứa bé.”

Câu nói đó rất giản dị, khao khát, nhưng đâm vào tim Charlotte như một mảnh thủy tinh.
Chị bắt đầu khóc, nước mắt lặng lẽ lăn trên gương mặt chị.

“Charlotte,” Jem nói, như thể dỗ dành chị. “Chị luôn chăm lo cho em. Chị sẽ chăm sóc
tốt cho đứa bé. Chị sẽ là người mẹ tuyệt vời.”

“Em không được bỏ cuộc, Jem,” chị nghẹn ngào nói. “Khi họ mang em đến đây với chị,
họ bảo em chẳng sống nổi qua một, hai năm. Em đã sống được gần sáu năm. Hãy sống
thêm vài ngày nữa đi. Hãy cho chị chỉ một vài ngày thôi.”

Jem dịu dàng nhìn chị. “Em sẽ sống vì chị,” cậu nói. “Và vì Will, vì Tessa – và vì em
nữa, vì em muốn sống cùng cô ấy. Nhưng em không thể sống vì người khác mãi. Không
ai có thể nói rằng thần chết dễ đưa em đi, hoặc em dễ dàng chấp nhận ra đi. Nếu chị nói
chị cần em, em sẽ ở lại trong khả năng có thể vì chị. Em sẽ sống vì chị và người thân của
chị, và sẽ chiến đấu khi còn sức. Nhưng em không được lựa chọn.”

“Vậy…” Charlotte do dự nhìn cậu. “Lựa chọn của em là gì?”

Anh nuốt khan, rồi tay hạ xuống chạm vào cây vĩ cầm. “Em đã quyết định,” anh nói. “Em
đã quyết định khi bảo Will đi.” Anh cúi đầu, rồi ngước nhìn Charlotte, đôi mắt bạc, thâm
quầng nhìn thẳng vào chị như mong chị hiểu. “Em muốn ngừng lại,” anh nói. “Sophie nói
mọi người vẫn đang tìm cách cứu em. Em biết em đã đồng ý với Will, nhưng em muốn
mọi người ngừng tìm cách đi, Charlotte. Đã hết rồi.”
Mãi muộn Cecily và Gabriel mới trở lại Học Viện. Đi lại trong thành phố với một người
khác ngoài Charlotte và anh trai là một trải nghiệm mới mẻ với Cecily, và cô ngạc nhiên
khi hóa ra Gabriel Lightwood lại là một người bạn đồng hành rất được. Anh khiến cô
cười, dù cô cố gắng giấu đi, và anh ga lăng cầm tất cả các túi dồ, dù lúc đầu cô cứ tưởng
anh sẽ phản đối bị coi như một tay khuân vác.

Đúng là có lẽ anh không nên ném gã tiên đó qua cửa sổ – hoặc xuông dòng kênh
Limehouse sau đó. Nhưng cô khó mà trách anh. Cô biết rõ rằng không phải chuyện tay
thần rừng đã cho cô trông thấy những hình ảnh không hợp đã khiến anh nổi giận, mà là vì
nó nhắc đến bố anh.

Thật kì lạ, cô nghĩ khi họ bước lên thềm Học Viện, rằng anh thật khác anh trai anh. Cô
thích Gideon ngay từ khi mới đến Luân Đôn, nhưng thấy anh ấy điềm tĩnh và kín đáo.
Anh ấy không nói nhiều, và dù thi thoảng có giúp Will dạy cô, nhưng anh ấy xa cách và
trầm ngâm với mọi người, trừ Sophie. Khi ở cạnh cô ấy, đôi lúc Gideon cũng nổi khiếu
hài hước. Anh ấy bông đùa khá có duyên khi muốn, và có những nhận xét khá cay độc dù
bản tính trầm lặng.

Từ từng chút câu chuyện do Tessa, Will và Charlotte kể, Cecily đã ghép nối chúng thành
câu chuyện về nhà Lightwood, và hiểu lí do Gideon trầm tính thế. Cũng giống Will và cô,
anh ấy tự quyết định rời bỏ gia đình, và mang vết sẹo của nỗi mất mát ấy. Lựa chọn của
Gabriel lại khác. Anh đã ở bên bố và nhìn cơ thể cùng trí óc ông từ từ biến chất. Anh đã
nghĩ gì trong suốt thời gian ấy? Đến lúc nào anh nhận ra mình đã lựa chọn sai lầm?

Gabriel mở cửa Học Viện, và Cecily bước qua; họ được chào đón bởi giọng hát của
Bridget từ trên tầng vọng xuống.

“Ôi mi không thấy con đường hẹp trước mặt

Đầy cây gai và lổn nhổn thạch nam

Đấy là con đường công lí

Nhưng chẳng mấy ai chịu bước chân đi.

Còn con đường trải đầy huệ tây?

Ấy là con đường sai trái

Nhưng lại có người nói


Đó là đường lên thiên đàng.”

“Lại nữa,” Cecily nói và lên cầu thang. “Cô ấy lại hát rồi.”

Gabriel, đang trầy trật giữ đống hàng hóa, kêu lên một tiếng. “Tôi chết đói rồi. Tôi tự hỏi
liệu cô ấy có đem cho tôi ít thịt gà nguội và bánh mì nếu tôi bảo không ngán mấy bài hát
ấy?”

“Mọi người đều ngán mấy bài hát đó.” Cecily liếc nhìn anh; trông anh quá ổn. Gideon
cũng đẹp trai, nhưng Gabriel góc cạnh hơn, và tất cả các nét kết hợp với nhau hài hòa
hơn. “Đấy không phải lỗi của anh đâu,” cô đột ngột nói.

“Cái gì không phải lỗi của tôi?” Họ rẽ từ cầu thang vào một hành lang ở tầng hai. Cecily
thấy nó hơi tối, đèn phù thủy tỏa ánh sáng yếu ớt. Cô vẫn nghe thấy Bridget đang hát:

“Vào đêm chẳng có trăng sao,

Họ cùng bì bõm lội qua máu lầy

Ngập tận mắt cá, lênh lang mặt đất

Chảy thành dòng khắp sông biển bao la.”

“Chuyện bố anh,” Cecily nói.

Mặt Gabriel cau lại. Trong một thoáng Cecily nghĩ anh sẽ giận dữ đáp trả, nhưng anh chỉ
bảo: “Đấy có thể có hoặc không phải lỗi của tôi, nhưng tôi đã chọn không nhìn nhận tội
lỗi của ông ấy. Tôi tin ông ấy khi không nên như vậy, và ông ấy đã bôi nhọ dòng họ
Lightwood.”

Cecily im lặng một lúc. “Tôi tới vì tin Thợ Săn Bóng Tối là lũ quỷ đã bắt cóc anh trai
mình. Tôi tin thế vì bố mẹ tôi tin thế. Nhưng họ đã sai. Chúng ta không phải bố mẹ chúng
ta, Gabriel. Chúng ta không phải mang gánh nặng do lựa chọn hay tội lỗi của họ. Anh có
thể khiến cái họ Lightwood tỏa sáng một lần nữa.”

“Đấy là điểm khác biệt giữa cô và tôi,” anh nói, không có lấy một chút mỉa máy. “Cô
chọn đến đây. Tôi bị đuổi khỏi nhà – bị con quái vật từng là bố mình đuổi bắt.”

“À,” Cecily tử tế nói, “đâu có bị đuổi tới tận đây. Tôi nghĩ chỉ nội trong Chiswick thôi
chứ.”

“Sao…”
Cô mỉm cười. “Tôi là em gái Will Herondale. Anh không thể trông mong lúc nào tôi
cũng nghiêm túc.”

Vẻ mặt anh khôi hài quá khiến cô cười khúc khích; cô vẫn đang cười khi họ mở cửa thư
viện và bước vào – rồi dừng sững lại.

Charlotte, Henry và Gideon đang ngồi quanh một cái bàn dài. Magnus đứng cách một
quãng, bên cửa sổ, tay chắp sau lưng. Lưng anh ta thẳng đơ. Henry nhìn mệt mỏi và tái
nhợt, Charlotte vừa khóc xong. Mặt Gideon vô cảm.

Tiếng cười chết trên môi Cecily. “Sao thế? Có tin gì à? Có phải Will…”

“Không phải Will,” Charlotte nói. “Mà là Jem.” Cecily cắn môi, dù tim cô chậm lại vì
nhẹ nhõm. Cô đã nghĩ tới anh mình trước, nhưng tất nhiên parabatai của anh mới là
người gặp hiểm nguy hơn.

“Jem?” Cô thở hắt ra.

“Cậu ấy còn sống,” Henry nói, để trả lời cho câu hỏi không được thốt ra của cô.

“Vậy thì tốt. Chúng tôi mua đủ đồ rồi.” Gabriel nói và đặt mấy túi đồ xuống bàn. “Mọi
thứ Magnus yêu cầu – lá đông hầu, rễ đầu dơi…”

“Cảm ơn.” Magnus nói mà không quay lại.

“Ừ, cảm ơn hai người,” Charlotte nói. “Mọi người đã làm mọi điều tôi yêu cầu, và tôi rất
cảm ơn. Nhưng tôi sợ mọi người đã đổ công xuống bể rồi.” Chị nhìn gói đồ, rồi ngước
lên. Rõ ràng chị phải cố lắm mới cất tiếng nổi. “Jem đã quyết định,” chị nói. “Cậu ấy
muốn chúng ta ngừng tìm cách cứu chữa. Cậu ấy đã dùng hết ngân phiến; đã chẳng còn
chút gì, và mạng cậu ấy chỉ còn tính bằng tiếng. Tôi đã gọi các Tu Huynh Câm. Đến lúc
từ biệt rồi.”

Phòng tập rất tối. Bóng tối phủ dài trên sàn, và ánh trăng chiếu qua những ô cửa tò vò cao
cao. Cecily ngồi trên một chiếc ghế dài đã mòn và nhìn ngắm hình dạng ánh trăng hắt
xuống nền gỗ cũ.

Tay phải cô vô thức vân vê viên đá đỏ trên cổ. Cô không thể không nghĩ đến anh mình.
Một phần tâm trí cô ở Học Viện, nhưng phần khác đang ở cùng Will: trên lưng ngựa, rạp
người trong gió, phi hết những con đường ngăn cách Luân Đôn với Dolgellau. Cô tự hỏi
anh có sợ không. Cô tự hỏi còn được trông thấy anh không.
Đang mải suy nghĩ nên cô giật mình khi nghe tiếng cửa cọt kẹt mở ra. Một cái bóng dài
hắt ngang sàn, và cô ngước lên, thấy Gabriel Lightwood ngạc nhiên chớp mắt với cô.

“Trốn ở đây hả?” Anh nói. “Thật… lạ.”

“Vì sao?” Cô ngạc nhiên khi thấy giọng mình bình thường, hoặc thậm chí là bình tĩnh.

“Vì tôi cũng định trốn ở đây.”

Cecily im lặng một lúc. Gabriel quả thực trông hơi mông lung – một điều thật lạ. Bình
thường anh luôn rất tự tin. Dù sự tự tin ấy mỏng manh hơn của anh trai anh. Trong này
quá tối nên cô không thấy màu mắt hay tóc anh, và lần đầu tiên cô thấy được sự giống
nhau giữa hai anh em họ. Họ cùng cái cằm cương nghị, đôi mắt xa nhau, và thái độ cẩn
trọng. “Nếu muốn,” cô nói, “anh có thể trốn trong này cùng tôi.”

Anh gật đầu, và đi qua phòng tới chỗ cô ngồi, nhưng thay vì ngồi cùng, anh đến cửa sổ và
nhìn ra ngoài. “Xe ngựa của Tu Huynh Câm đến rồi,” anh nói.

“Vâng,” Cecily nói. Đọc Codex cô biết Tu Huynh Câm vừa là bác sĩ vừa là thầy tu trong
thế giới Thợ Săn Bóng Tối; họ sẽ có mặt bên tử sàng, giường bệnh, hay khi một đứa bé
chào đời. “Tôi nghĩ mình nên thay mặt Will gặp Jem. Nhưng tôi không… không thể. Tôi
hèn quá,” cô nói sau một lát. Trước giờ cô chưa từng nghĩ về mình như vậy.

“Vậy tôi cũng thế,” anh đáp. Ánh trăng chiếu một nửa gương mặt anh, khiến anh trông
như đeo mặt nạ che nửa mặt. “Nói thật, tôi đã một mình tới đây để tránh các Tu Huynh,
vì họ khiến tôi sợ. Tôi nghĩ mình có thể chơi một mình. Nếu cô muốn, chúng ta có thể
cùng chơi bài.”

“Như Pip và Estella trong Kì vọng lớn,” Cecily nói, và thoáng vui vẻ hẳn. “Nhưng,
không, tôi không biết chơi bài. Mẹ tôi cố không để trong nhà xuất hiện một lá bài nào, vì
bố tôi… yếu lòng trước chúng.” Cô ngước nhìn Gabriel. “Anh biết không, chúng ta cũng
có điểm giống nhau đấy. Anh trai chúng ta bỏ đi, và chúng ta đơn độc chẳng anh trai chị
gái, khi bố sa đọa. Bố tôi hơi điên khùng một chút sau khi Will bỏ đi và Ella qua đời. Ông
ấy mất vài năm mới bình phục nổi, và trong thời gian đó, chúng tôi mất nhà. Cũng như
anh mất Chiswick.”

“Chiswick bị cướp khỏi chúng tôi,” Gabriel nói hơi cay cú. “Và thật lòng nhé, tôi vừa tiếc
vừa không. Kí ức của tôi về nơi ấy…” Anh rùng mình. “Bố tôi đã nhốt mình trong phòng
ròng rã hai tuần trước khi tôi đến đây nhờ giúp đỡ. Đáng ra tôi nên đến sớm hơn, nhưng
hồi đó tôi kiêu căng quá. Tôi đã đập cửa và cầu xin bố đi ra, nói chuyện với tôi, nhưng tôi
chỉ nghe thấy những âm thanh không giống tiếng người. Tôi quay sang khóa cửa phòng
mình mỗi tối và sáng ra lại thấy có máu trên cầu thang. Tôi tự nhủ là đám gia nhân đã bỏ
chạy. Tôi phải hiểu rõ hơn chứ. Vậy không, chúng ta không giống nhau, Cecily, vì cô
chọn bỏ đi. Cô dũng cảm. Tôi ở lại đến khi không còn lựa chọn nào ngoài ra đi. Tôi ở lại
dù biết thế là sai.”

“Anh là người nhà Lightwood,” Cecily nói. “Anh ở lại vì anh trung thành với dòng họ
mình. Đó không phải hèn nhát.”

“Không à? Kể cả trung thành trở thành ngu trung?”

Cecily mở miệng, rồi ngậm lại. Gabriel đang nhìn cô, mắt sáng lên trong ánh trăng. Anh
có vẻ thực sự muốn nghe cô trả lời. Cô tự hỏi anh còn biết tâm sự với ai chăng. Cô cảm
giác Gabriel phải cố lắm mới có đủ can đảm hỏi người khác; anh trông tự tin như thể
chưa từng phân vân về đời mình và không hiểu những người luôn nhiều vướng mắc.

“Tôi nghĩ,” cô nói, cẩn thận lựa lời, “rằng kể cả những mục đích tốt cũng có thể bị vặn
vẹo thành độc ác. Nhìn Ông Chủ đi. Ông ta làm những chuyện kia vì ghét Thợ Săn Bóng
Tối, cũng vì yêu quý bố mẹ, những kẻ quan tâm săn sóc ông ta và đã bị giết. Chuyện
không hề khó hiểu. Nhưng chúng ta không thể tha thứ cho hành động của ông ta. Tôi
nghĩ khi chúng ta lựa chọn – vì mỗi lựa chọn đều khác với những lựa chọn trước đó –
chúng ta phải xem xét không chỉ lí do chúng ta quyết định thế, mà còn cả kết quả của nó
nữa, và những người tốt có bị tổn thương vì nó chăng.”

Lại im lặng. Rồi, “Cô rất thông thái, Cecily Herondale,” anh nói.

“Đừng hối hận quá nhiều về những lựa chọn của anh trong quá khứ, Gabriel,” cô nói, biết
rằng cô đang gọi tên cũng cơm của anh, nhưng không thể không nói. “Nhưng tương lai
hãy đưa ra những quyết định đúng đắn. Chúng ta có thể thay đổi và trở nên tốt hơn.”

“Đó,” Gabriel nói, “không phải người bố tôi kì vọng ở tôi, và dù cho mọi thứ, tôi vẫn
thấy mình không muốn làm hỏng kì vọng của ông.”

Cecily thở dài. “Chúng ta có thể cố hết sức mình, Gabriel. Tôi đã cố làm đứa con bố mẹ
muốn, là một quý cô như họ kì vọng nơi tôi. Tôi bỏ đi để đưa Will về, vì tôi nghĩ việc
làm đó đúng đắn. Tôi biết họ buồn vì anh ấy lựa chọn con đường khác – và đó là con
đường đúng đắn cho anh, vì cách anh lựa chọn rất lạ. Đó là con đường của anh ấy. Đừng
lựa chọn con đường bố lựa sẵn cho anh hoặc con đường anh trai anh sẽ chọn. Hãy là một
Thợ Săn Bóng Tối như anh muốn.”

Anh trả lời nghe rất trẻ. “Sao cô biết tôi sẽ lựa chọn đúng?”
Ngoài cửa sổ, tiếng vó ngựa gõ trên sân lát đá. Các Tu Huynh Câm đang ra về. Jem,
Cecily nghĩ, mà tim nhói đau. Anh trai cô luôn coi anh ấy như sao Bắc Cực, kim chỉ nam
chỉ đường dẫn hướng. Cô chưa từng nghĩ anh mình may mắn, và chắn chắn cũng chưa
từng nghĩ chuyện sẽ ra như ngày hôm nay, nhưng… nhưng anh may mắn thật. Anh luôn
có người để dựa dẫm, và không phải thường xuyên lo rằng sẽ chọn sai đường hướng.

Cô cố nói thật dõng dạc và mạnh mẽ, vì cô và vì chàng trai đang đứng bên cửa sổ. “Có lẽ,
Gabriel Lightwood, tôi tin ở anh.”
14

PARABATAI
Thanh thản gì chứ?

Anh ấy không chết, cũng chẳng ngủ,

Anh chỉ tỉnh từ giấc mơ cuộc đời.

– Percy Bysshe Shelley, Adonais: An Elegy on the Death of John Keats

Khoảng sân của quán trọ Lục Nhân nhoe nhoét bùn khi Will ghìm cương con ngựa đã
mệt nhoài và nhảy xuống khỏi tấm lưng rộng của Balios. Anh mệt mỏi rã rời, người ê ẩm,
và khi đường thì xấu mà cả người lẫn ngựa đều kiệt sức, mấy giờ bôn ba cuối cùng thật
khó mà chịu nổi. Giờ đã tối, và anh nhẹ người khi thấy cậu chăm ngựa vội vàng chạy tới,
giày đạp trên bùn tới tận đầu gối và cầm theo ngọn đèn tỏa ánh sáng vàng ấm áp.

“Xin chào, thời tiết ẩm ướt quá,” cậu bé vui vẻ nói khi đến gần hơn. Cậu ta trông giống
một đứa trẻ loài người bình thường, nhưng có gì đó ranh ma và hơi giống yêu tinh – đôi
lúc máu tiên truyền qua nhiều thế hệ được thể hiện ở loài người, hoặc kể cả Thợ Săn
Bóng Tối với biểu hiện như mắt hơi xếch hoặc đôi đồng tử long lanh. Tất nhiên cậu nhóc
này có Tâm Nhãn. Lục Nhân là một điểm dừng chân nổi tiếng trong Thế Giới Ngầm.
Will đã mong tới được nơi này khi đêm xuống. Anh đã mệt giả vờ trước mặt người phàm,
mệt dùng phép che mờ, mệt ẩn náu.

“Ẩm ướt thôi à?” Will lầm bầm khi nước chảy xuống tóc xuống lông mi. Anh đang nhìn
cửa trước, nơi ánh sáng vàng hiếu khách ùa ra. Trên đó, mọi màu sắc dường như đều bị
bầu trời hút sạch. Những đám mây đen nặng nề tụ trên cao, báo hiệu mưa còn dai dẳng
lâu.

Cậu nhóc giữ cương Balios. “Anh có một con ngựa thần đấy,” cậu ta reo lên.

“Đúng,” Will vỗ bên mạng sườn nó. “Nó cần được massage và chăm sóc đặc biệt.”

Cậu nhóc gật đầu. “Anh là Thợ Săn Bóng Tối hả? Chúng tôi không mấy khi gặp những
người như anh. Lâu lâu trước có thấy, nhưng chúng tôi có một mối bất đồng cũ…”

“Nghe này,” Will hỏi. “Còn phòng trống không?”


“Chắc không còn phòng riêng.”

“À, tôi sẽ cần phòng riêng, như vậy là hay nhất. Còn về con ngựa, tôi muốn nó có một tàu
ngựa, được tắm táp và một bữa ăn. Nhanh lên và dẫn con ngựa đi, còn tôi sẽ xem chủ của
cậu bảo sao.”

Người chủ có vẻ cực kì hợp tác, và chẳng đả động gì đến những Ấn Ký trên tay hay cổ
anh, chỉ hỏi những câu rất bình thường: “Cậu muốn ăn trong phòng riêng hay trong
phòng sinh hoạt chung? Và cậu muốn tắm trước hay sau khi ăn?”

Will, người đã đóng bùn, muốn tắm trước, nhưng đồng ý ăn tại phòng sinh hoạt chung.
Anh mang theo kha khá tiền người phàm, nhưng phòng ăn riêng là một khoản chi không
cần thiết, nhất là với một người không quan tâm mình ăn gì. Thức ăn là nhiên liệu cho
cuộc hành trình, chỉ vậy thôi.

Dù ông chủ chẳng để tâm Will là Nephilim, nhưng những người trong phòng sinh hoạt
chung lại không có được đức tính đó. Khi Will dựa vào quầy, một nhóm người sói trẻ ở
bên lò sưởi, đang chén chú chén anh gần như cả ngày, lầm bầm bàn tán gì đó. Will cố
tình lờ họ đi khi gọi mấy bình nước nóng cho mình và đậu nghiền nhừ cho con ngựa, như
bất kì một quý ông trẻ tuổi cậy quyền nào, nhưng ánh mắt sắc lẻm của họ cứ chăm chăm
theo dõi, để ý từng chi tiết từ mái tóc ướt đẫm nước mưa, đôi giày đóng bùn, tới cái áo
choàng dày cho thấy anh anh không hề đeo thắt lưng vũ khí thường thấy ở Nephilim.

“Bình tĩnh nào, mấy chú,” kẻ cao nhất bảo. Người này ngồi lưng quay với đống lửa,
thành ra bóng tối hắt lên mặt gã, dù lửa làm nổi bật những ngón tay dài khi gã rút ra một
hộp xì gà bằng gốm tinh xảo và trầm ngâm gõ gõ cái lẫy khóa. “Tôi biết hắn.”

“Anh biết?” Một gã trẻ hơn bối rối hỏi. “Gã Nephilim đó? Bạn của bạn anh à, Scott?”

“À, không phải bạn. Không hẳn.” Woolsey Scott đánh diêm châm điếu xì gà và ngắm
nhìn chàng trai bên kia phòng qua đầu lửa đỏ, một nụ cười thấp thoáng trên môi anh ta.
“Nhưng thật lạ là cậu ta ở đây. Rất lạ đấy.”

“Tessa!” Một tiếng hét hổn hển vang đến tai cô. Cô ngồi bật dậy bên bờ sông, cơ thể run
lẩy bẩy.

“Will?” Cô vội vàng đứng lên và nhìn quanh. Trăng đã ló ra khỏi một đám mây. Bầu trời
phía trên như một phiến đá cẩm thạch xám đậm vân đen. Dòng sông chảy phía trước cô
mang sắc sám xậm trong vùng tối mờ mịt, và nhìn quanh, cô chỉ thấy những rặng cây
khẳng khiu, vách núi dốc mà cô đã rơi từ trên kia xuống, một vùng quê rộng trải dài theo
hướng khác – những cánh đồng và hàng rào đá, thi thoảng lại thấp thoáng một nông trại
hoặc nhà ở. Cô chẳng thấy gì giống một thành thị, hay một cụm sáng cho thấy có thôn
làng nhỏ.

“Will,” cô lại thì thầm, và vòng tay ôm mình. Cô chắc chắn đã nghe thấy giọng anh gọi
tên cô. Không một giọng ai giống giọng anh. Nhưng thật nực cười. Anh không ở đây.
Anh không thể. Có lẽ, giống Jane Eyre, người đã nghe thấy Rochester gọi tên mình ngoài
đồng hoang, cô đang mơ tưởng rồi.

Ít ra giấc mơ này cũng giúp cô hồi tỉnh. Gió như lưỡi dao lạnh lẽo cắt xuyên qua cái váy
mỏng, thường chỉ mặc trong nhà của cô. Cô lại chẳng đội mũ hay mặc áo khoác. Cái váy
vẫn sũng sĩnh nước sông, còn tất rách và dính máu. Thiên sứ đã cứu mạng cô, nhưng
không thể giúp cô khỏi bị thương.

Giờ cô chạm vào nó, mong được chỉ dẫn, nhưng nó lại im lặng bất động như mọi khi.
Nhưng khi cô bỏ tay khỏi cổ, cô nghe giọng Will vang lên trong đầu: Đôi lúc khi anh
phải làm điều mình không muốn, anh giả bộ mình là nhân vật trong một cuốn sách. Vậy
sẽ dễ biết họ sẽ làm gì.

Một nhân vật trong truyện, Tessa nghĩ, một nhân vật lí trí, sẽ đi theo dòng chảy. Một
nhân vật trong truyện sẽ biết nơi có người cư ngụ và những thị trấn thường nằm gần
nguồn nước, và sẽ tìm người giúp, chỉ không đâm bổ vào rừng. Đinh ninh như vậy, cô ôm
người và bắt đầu đi xuôi dòng nước.

Khi Will – đã tắm rửa sạch sẽ, cạo râu và mặc áo sạch rồi đeo cổ cồn – trở về phòng sinh
hoạt chung dùng bữa, phòng đã khá đông người.

À, không hẳn là người. Lúc tới một bàn, anh đi qua các bàn nơi đám yêu tinh lùn ngồi co
cụm bên nhau cạnh những cốc bia, trông như những ông già cắm cảu, chỉ có điều thêm
ngà mọc ra từ hàm dưới. Một pháp sư gầy gò tóc nâu có con mắt thứ ba giữa trán đang
cắt món bê cốt lết. Một nhóm túm tụm bên cái bàn gần lò sưởi – người sói, Will cảm
nhận được, vì thích tụ tập theo bầy. Phòng ngập mùi ẩm ướt, tro than cùng đồ ăn. Bụng
Will sôi ùng ục; anh đã không nhận ra mình đói thế nào.

Will vừa nghiên cứu bản đồ xứ Wales khi uống rượu (chua lè, có mùi nho), và ăn thức ăn
được chuẩn bị cho (thịt nai dai nhách cùng khoai tây), cố hết sức tảng lờ ánh nhìn của
những kẻ khác. Anh thấy câu nói của cậu nhóc chăm ngựa là đúng; họ không đón nhiều
Nephilim ở đây. Anh có cảm giác các Ấn Ký của mình sáng lên như biển hiệu. Khi đã ăn
xong, anh rút giấy và viết một lá thư:
Charlotte:

Em xin lỗi vì tự ý rời khỏi Học Viện. Em mong chị thứ lỗi; em thấy mình không còn lựa
chọn khác.

Nhưng đấy không phải lí do em gửi thư này. Bên đường em đã tìm thấy bằng chứng về
hành trình của Tessa. Không hiểu sao cô ấy lại ném được mặt dây chuyền ngọc bích ra
ngoài cửa sổ xe ngựa, em tin rằng chúng ta nhờ đó có thể tìm ra cô ấy. Em đang cầm nó
đây. Đây là bằng chứng không thể chối bỏ rằng chúng ta đã đúng về vị trí của Mortmain.
Ông ta hẳn phải ở Cadair Idris. Chị phải viết thư cho Quan Chấp Chính và yêu cầu ông
ta gửi tổng lực tới đó.

Will Herondale

Dán thư, Will gọi chủ quán và với nửa crown, có người sẽ mang thư đến chuyến xe đêm
nhờ gửi. Trả tiền xong, Will ngồi ngả lưng, đang tự hỏi có nên uống thêm cốc rượu nữa
để đêm nay được ngủ yên giấc – thì một cảm giác đau buốt nhói khắp ngực anh. Anh có
cảm giác như bị một mũi tên đâm xuyên qua, và Will giật ngửa người. Cốc rượu rơi
xuống đất, vỡ tan tành. Anh đứng dậy, cả hai tay chống xuống bàn. Anh mơ hồ biết mọi
người đang quan sát mình, cùng tiếng nói lo lắng của chủ quán bên tai, nhưng cái đau quá
lớn khiến anh chẳng nghĩ ngợi được gì, đến thở cũng chẳng nổi.

Cảm giác ngực quặn lại, cảm giác anh đã nghĩ khi một đầu sợi dây nối anh với Jem, bị
kéo quá căng đến độ nó siết chặt tim anh. Anh lảo đảo rời khỏi bàn, qua đám đông khách
xúm đen xúm đỏ xung quanh, và ra cửa quán. Anh chỉ nghĩ được tới không khí, để sao hít
không khí vào phổi.

Anh mở cửa và lảo đảo nhào ra ngoài trời đêm. Trong một thoáng, cảm giác đau đớn nhẹ
bợt và anh dựa vào tường nhà trọ. Mưa trút ào ào, thấm đẫm tóc và quần áo anh. Anh thở
dốc, tim đập loạn nhịp vì vừa hoảng vừa tuyệt vọng. Đây chỉ là do cách quá xa Jem sao?
Anh chưa từng có cảm giác tương tự, kể cả khi Jem vào lúc tệ nhất, kể cả khi cậu ấy bị
thương và Will cũng phải chịu nỗi đau chung.

Sợi dây đứt phựt.

Trong một thoáng, tất cả trắng toát, sân mất sạch màu sắc như thể bị axit tẩy sạch. Will
khuỵu hẳn xuống, nôn sạch bữa tối xuống bùn. Khi cảm giác co thắt qua đi, anh loạng
choạng đứng lên và mò mẫm rời nhà trọ, như thể muốn đi tìm nguồn cơn đau đớn. Anh
tới đến tường chuồng ngựa, dựa vào đó, bên cạnh máng ăn. Anh khuỵu xuống nhúng tay
vào nước lạnh băng – và thấy gương mặt mình. Đó là gương mặt anh, trắng bệch như
người chết, và có vết máu đang loang ra ở vạt áo trước.
Bàn tay ướt của anh cầm ve áo và giật tung áo ra. Trong ánh sáng mờ mờ hắt ra từ nhà
trọ, anh thấy chữ rune parabatai của anh, ngay trên tim, đang đổ máu.

Tay anh đầy những máu, máu hòa cùng nước mưa, cùng thứ nước mưa đang xả sạch máu
khỏi ngực anh, cho thấy chữ rune dần chuyển từ màu đen sang bạc, chuyển đổi mọi điều
có ý nghĩa với đời Will thành vô nghĩa.

Jem đã chết.

Tessa đã đi bộ hàng giờ, và đôi giày mỏng của cô bị đám đá lổn nhổn chọc thủng đế. Lúc
đầu cô đi như chạy, nhưng vì kiệt sức và lạnh, cô dần chuyển sang tập tễnh chầm chậm
xuôi dòng sông. Váy ướt đầm nước kéo cô xuống, như mỏ neo muốn kéo cô xuống đáy
một vùng biển kinh hoàng nào đó.

Cô không thấy có một dấu hiệu nào của người ở suốt nhiều dặm, và đang tuyệt vọng với
kế hoạch của mình thì một trảng trống xuất hiện trước mắt. Trời mưa đã ngớt dần, nhưng
qua màn mưa bụi cô vẫn thấy loáng thoáng bóng dáng một ngôi nhà đá thấp. Khi tới gần
hơn, cô thấy đó có vẻ là một căn nhà nhỏ, mái rạ và một con đường mọc đều cỏ dẫn tới
cửa trước.

Cô đi nhanh hơn, vội vàng, lòng phấp phỏng nghĩ đến một nông gia tốt bụng, những
người tốt trong sách vẫn thường đón các cô gái trẻ và giúp họ liên lạc với người thân, như
nhà River với Jane trong Jane Eyre. Nhưng khi đến gần hơn, cô nhận thấy những ô cửa
sổ vỡ và bẩn thỉu, còn cỏ mọc trên mái rạ. Tim cô chùng xuống. Căn nhà bị bỏ không.

Cửa đã hé mở, gỗ bị phồng lên vì mưa. Có gì đó đáng sợ trong sự trống trải của căn nhà,
nhưng Tessa đang tuyệt vọng cần tìm một chỗ trú mưa và trốn khỏi bất kì kẻ nào
Mortmain có thể sai đi lùng bắt cô. Cô bám lấy hi vọng rằng bà Black nghĩ cô đã chết,
nhưng cô nghi Mortmain không dễ dàng tha cho cô. Sau cùng, nếu có ai biết thiên sứ của
cô có thể làm gì, người đó là ông ta.

Cỏ đã mọc ken giữa những phiến đá lát nền nhà, và lò sưởi bẩn thỉu, với một cái nồi bám
đầy muội than vẫn treo trên tro lửa và những bức tường bạc phếch có vết bồ hóng và dấu
vết của thời gian. Có một búi gì đó trông như nông cụ ở gần cửa. Một cái giống một que
kim loại dài với một đầu chĩa ba cong queo, mũi vẫn còn sắc. Biết mình cần vũ khí phòng
vệ, cô cầm nó lên, rồi đi tới một căn phòng duy nhất khác trong nhà: một buồng ngủ nhỏ
may sao trên giường có một tấm chăn mốc meo.
Cô vô vọng nhìn xuống cái váy ướt. Không có Sophie giúp chắc cô mất lâu lắm mới cởi
được, và cô lại muốn được ấm. Cô quấn chăn quanh người, mặc kệ đồ ướt, và co ro trên
cái chiếu cỏ khô ngứa ngáy. Nó có mùi mốc và có lẽ có chuột sống trong đó, nhưng lúc
này, đây là chiếc giường sa hoa nhất Tessa có thể duỗi người mà ngủ.

Tessa biết mình nên tỉnh. Nhưng cô lại không thể chống nổi đòi hỏi của cơ thể mệt nhoài
và kiệt sức. Ôm chặt vũ khí vào ngực, cô dần dần thiếp đi.

“Vậy đây là thằng Nephilim đó, hử?”

Will không biết mình đã ngồi gục bên tường chuồng ngựa bao lâu, giờ còn ướt hơn trước,
khi những giọng càu nhàu vang từ bóng tối. Anh ngẩng đầu, quá muộn không tránh được
bàn tay chạm vào mình. Một lát sau, nó nắm cổ áo và kéo anh đứng lên.

Anh cố nhìn qua đôi mắt mờ đi vì mưa và đau đớn, về phía nhóm người sói đứng thành
nửa vòng tròn vây lấy anh. Có lẽ có chừng năm kẻ, gồm cả kẻ đang ấn anh vừa tường
chuồng ngựa, một tay xoắn cái áo dính máu của anh. Tất cả đều ăn vận giống nhau, mặc
độc đồ đen giờ đã ướt nước mưa nên bóng như vải dầu. Tất cả đều không đội mũ, tóc –
dài đúng như sở thích của đám người sói – bết vào đầu.

“Bỏ tay ra,” Will nói. “Hiệp Định cấm các anh vô duyên vô cớ chạm vào một
Nephilim…”

“Vô duyên vô cớ?” Người sói đứng trước mặt kéo rồi lại dộng anh vào tường. Trong
những lúc khác, chắc cú đó đau phải biết, nhưng đây đâu phải lúc khác đó. Cái đau thể
chất từ chữ rune parabatai của Will đã đỡ, nhưng cả cơ thể anh thấy khô khốc và trống
rỗng, tất cả ý nghĩ đều bị rút khỏi tim anh. “Tao nói là có cớ đấy. Nếu không phải vì lũ
Nephilim chúng mày, Ông Chủ đã chẳng bao giờ dùng đám thuốc phiện bẩn thỉu và
những lời dối trá truôn đuột lừa chúng tao…”

Will nhìn đám người sói kia mà thấy nực cười. Họ thực sự nghĩ họ có thể làm tổn thương
anh, sau những mất mát anh phải chịu? Suốt năm năm đó là sự thật duy nhất anh có. Jem
và Will. Will và Jem. Will Herondale sống, vậy Jem Carstairs cũng sống. Quod erat
demonstrandum16. Mất đi tay hay chân đều đau, anh tưởng tượng, nhưng mất sự thật của
đời mình, anh cảm thấy như… mất mạng.

Bàn tay nắm áo anh xoắn chặt hơn. “Mày nên biết tôn trọng người khác hơn tí đi, Thợ
Săn Bóng Tối.”
16
Tiếng Latin: Điều đó đã được chứng minh.
“Không,” Will nói. “Còn lâu.”

“Chúng tao nghe nhiều về mày lắm, Will Herondale ạ,” một người sói khác nói. “Luôn
bò tới xin cư dân Thế Giới Ngầm giúp. Chúng ta đang muốn xem mày bò đây.”

“Vậy mày phải cắt chân tao rồi.”

“Cái đó,” người sói đang giữ Will nói, “thì dàn xếp được.”

Will hành động. Anh dộng đầu vào mặt gã người sói trước mặt. Anh nghe và cảm thấy
tiếng rạn ghê tai khi mũi gã người sói bị gãy, máu nóng phun khắp mặt gã đàn ông khi
hắn loạng choạng lùi lại và khuỵu xuống nền sân lát đá cuội. Tay hắn áp lên mặt, cố ngăn
máu tứa ra.

Một bàn tay tóm vai Will, móng cứa rách cái áo ướt của Will. Will quay phắt lại để đối
diện với đám người sói và thấy tay gã thứ hai, bàng bạc dưới ánh trăng, mang ánh sắc
lạnh như lưỡi dao. Đôi mắt đối thủ của anh sáng lên qua màn mưa, mang sắc xanh vàng
hằn học.

Họ không tới để trêu đùa hay làm mình bị thương, Will nhận ra. Họ tới để giết mình.

Trong một thoáng u tối, Will định để mặc họ. Ý nghĩ đó dường như là một sự giải tỏa lo
tớn – mọi nỗi đau, trách nhiệm đều biến mất, chỉ cần anh đầu hàng thần chết và chịu quên
đi. Anh đứng không động đậy khi con dao đâm tới, gương mặt độc ác của gã người sói
nhòe nhoẹt bởi nước mưa.

Hình ảnh anh đã mơ đêm qua thoáng hiện trước mắt anh: Tessa, chạy trên con đường
xanh rì về phía anh. Tessa. Tay anh tự động đưa lên và tóm cổ tay người sói khi tránh cú
đánh, rồi chuồi dưới cánh tay người sói. Anh kéo tay hắn xuống, vặn một cú làm hắn gãy
tay. Gã người sói kêu la, và một cảm giác sung sướng hỉ hả râm ran khắp người Will.
Con dao rơi xuống nền đá khi Will đạp chân đối thủ, rồi thúc cùi chỏ vào thái dương hắn.
Gã người sói nằm im chẳng nhúc nhích được nữa.

Will cầm dao lên và quay sang đối diện với những kẻ còn lại. Chỉ còn ba kẻ đứng đó, và
đều chẳng còn quyết tâm như trước. Anh cười, lạnh lùng và tàn nhẫn, và nếm thấy vị tanh
của nước mưa và máu trong miệng. “Tới giết tao đi,” anh nói. “Tới giết tao nếu chúng
mày nghĩ có thể.” Anh đá gã người sói bất tỉnh dưới chân. “Chúng mày phải cố gắng hơn
đám bạn này nhé.”

Tất cả xòe vuốt, lao tới và Will ngồi phịch xuống nền đá, đầu đập mạnh xuống. Một bộ
vuốt cào phải vai anh; anh lăn sang dưới những cú đấm và đâm ngược dao lên. Có một
tiếng kêu đau kết thúc bằng tiếng rên rỉ, và sức nặng đè lên người Will, lúc trước di
chuyển và chống cự, nay nặng trịch. Will lăn sang bên và đứng bật dậy, quay đầu nhìn
quanh.

Người sói bị anh đâm nằm mở mắt trừng trừng, chết trong vũng máu đang dần loang rộng
vì nước mưa. Hai người sói còn lại đang cố đứng dậy, người lấm lem bùn đất và ướt đầm.
Will chảy máu ở vai vì bị một tên cào phải; cảm giác đau đớn thật sung sướng. Anh cười
sằng sặc khi mưa tẩy sạch máu khỏi dao. “Lại nào,” anh nói và chẳng nhận ra giọng
mình, căng ra, vỡ vụn và sặc mùi chết chóc. “Lại nào.”

Một tên quay người nhảy lên. Will lại cười và tiến về phía tên cuối cùng, đang đứng đờ
ra, xòe móng – nhưng Will chẳng chắc hắn sợ hay dũng cảm nữa, và anh cũng không
quan tâm. Con dao như phần phụ của cổ tay anh, một phần của cánh tay anh. Bằng một
cú đâm đẹp và xiên ngược lên, anh có thể rạch qua xương và lồng ngực, thẳng vào tim
hắn…

“Dừng lại!” Một giọng nghiêm nghị, uy quyền quen thuộc vang lên. Will liếc mắt nhìn
sang. Sải bước qua sân, vai so lại trong màn mưa, nét mặt giận dữ, là Woolsey Scott.
“Tôi ra lệnh cho cả hai dừng ngay!”

Người sói vội vàng buông tay xuôi người, móng vuốt biến mất. Hắn cúi đầu, tỏ vẻ rất ư
ngoan ngoãn. “Chủ nhân…”

Cảm giác giận dữ ào khắp người Will, nuốt trọn mọi cảm giác khác. Anh vươn tay kéo gã
người sói về phía mình, và kề dao vào cổ hắn. Woolsey, chỉ cách vài bước, dừng sững lại,
đôi mắt xanh sắc lẹm như dao.

“Nếu anh đến gần hơn,” Will nói. “Tôi sẽ cắt cổ con sói con này.”

“Tôi bảo cậu dừng lại,” Woolsey cẩn trọng nói. Như thường lệ, anh ta đang mặc bộ
comple vừa in đẹp đẽ, ngoài mặc thêm áo khoác thêu, nhưng tất cả đều ướt nước mưa.
Mái tóc vàng dán cả vào mặt và cổ, trở nên trắng vì nước. “Cả hai.”

“Nhưng tôi không phải nghe lệnh anh!” Will hét. “Tôi đang thắng! Đang thắng!” Anh
liếc nhìn ba người sói nằm trên sân – một chết, hai bất tỉnh. “Đàn sói của anh vô duyên
vô cớ gây sự với tôi. Họ vi phạm Hiệp Định. Tôi tự vệ. Họ phạm Luật!” Anh lên giọng,
khào khào và khó nhận ra. “Tôi muốn máu của họ, và tôi sẽ có!”

“Đúng, đúng, vài thùng máu luôn,” Woolsey nói. “Và cậu sẽ làm gì với chúng nào? Cậu
không quan tâm đến người sói kia. Thả hắn đi.”

“Không.”
“Ít nhất hãy cho hắn cơ hội đánh lại cậu,” Woolsey nói.

Will lưỡng lự, rồi thả người sói đang nhìn sói đầu đàn, tỏ vẻ hoảng hốt. Woolsey búng
tay. “Chạy đi, Conrad,” anh ta nói. “Nhanh. Và ngay.”

Người sói không cần được nhắc đến lần thứ hai; hắn quay gót và chạy biến mất sau
chuồng ngựa. Will bực bội nhìn Woolsey.

“Vậy đàn của anh toàn đồ hèn,” anh nói. “Năm người sói chọi một Thợ Săn Bóng Tối?
Và chuyện là thế à?”

“Tôi không bảo họ tới gây sự với cậu. Họ còn trẻ. Và ngu ngốc. Và bồng bột. Và nửa đàn
đã bị Mortmain giết. Họ trách các cậu.” Woolsey tiến lại gần hơn, mắt nhìn khắp người
Will, lạnh lùng. “Vậy chắc parabatai của cậu đã chết,” anh ta nói với vẻ vô cảm đáng sợ.

Will chưa sẵn sàng nghe từ đó, chưa bao giờ sẵn sàng. Trận chiến đã giúp đầu óc anh tỉnh
táo được một lúc. Giờ nó lại sắp mụ mị đi rồi. Anh thở dốc như thể bị Woolsey đánh, và
vô thức lùi một bước.

“Và cậu muốn tự giết mình vì chuyện đó hả, nhóc Nephilim? Là vậy hả?”

Will vuốt tóc ướt khỏi mặt và hằn học nhìn Woolsey. “Có lẽ.”

“Đấy là cách cậu tôn trọng những kí ức về cậu ấy?”

“Vậy quan trọng gì?” Will nói. “Cậu ấy đã chết. Cậu ấy sẽ chẳng bao giờ biết tôi làm hay
không làm gì.”

“Anh trai tôi chết,” Woolsey nói. “Tôi vẫn đang cố hoàn thành ước nguyện của anh ấy,
tiếp tục xây dựng Vệ đoàn Lupus như anh ấy muốn, để sống như anh ấy muốn. Cậu nghĩ
tôi là dạng người muốn được tìm thấy ở một nơi thế này, ăn đồ như cho lợn và uống
giấm, mắt cá chân ngập trong bùn, nhìn một gã Thợ Săn Bóng Tối nào đó giết thêm vài
thành viên trong cái đàn vốn đã chẳng còn nhiều nhặn gì của mình, nếu không phải vì tôi
nhắm đến mục tiêu lớn hơn ham muốn và đau khổ của tôi? Và cậu cũng vậy, Thợ Săn
Bóng Tối ạ. Cậu cũng vậy.”

“Ôi Chúa ơi,” Con dao rơi khỏi tay Will xuống lớp bùn dưới chân anh. “Giờ tôi phải làm
gì?” Anh thì thầm.

Anh không biết sao mình hỏi Woolsey, trừ khi chẳng còn ai trên thế giới này để hỏi. Kể
cả khi anh nghĩ mình bị nguyền rủa, anh cũng không thấy mình cô đơn như bây giờ.
Woolsey lạnh lùng nhìn anh. “Hãy làm điều người anh em của cậu muốn,” anh ta nói rồi
quay gót trở vào trong nhà trọ.
15

GIẤU LỬA
Những vì sao kia, hãy giấu lửa;

Đừng soi rọi bóng đen và tham vọng thẳm sâu của ta.

– Shakespeare, Macbeth

Quan Chấp Chính Wayland,

Tôi viết thư này xin thông báo tin buồn. Một Thợ Săn Bóng Tối trong Học Viện của tôi,
Will Herondale, đang trên đường tới Cadair Idris ngay khi tôi viết thư này. Cậu ta tìm
thấy trên đường một vật không nhầm vào đâu được của cô Gray. Tôi xin gửi kèm thư cậu
ấy để ông tin, nhưng tôi chắc chắn ông sẽ đồng tình rằng chúng ta đã biết nơi ẩn náu của
Mortmain và rằng chúng ta cần nhanh chóng tập hợp lực lượng và ngay lập tức tiến đến
Cadair Idris. Mortmain từng chứng minh có khả năng lách qua những tấm lưới ta giăng.
Chúng ta phải chớp thời cơ và đánh tổng lực. Tôi đợi lời phúc đáp nhanh chóng của ông.

Charlotte Branwell

Phòng lạnh lẽo. Lò sưởi đã tàn lửa từ lâu, và gió bên ngoài gào rú thổi quanh góc Học
Viện, đập vào mọi cửa sổ. Đèn bên táp đầu giường vặn nhỏ, và Tessa rùng mình trong
ghế tựa bên giường, dù khăn quàng chặt quanh vai.

Trên giường, Jem đang ngủ, đầu gối lên tay. Anh hít thở chỉ khiến chăn hơi phồng lên,
còn mặt trắng tựa màu gối.

Tessa đứng lên, khiến tấm khăn rơi khỏi vai. Cô đang mặc váy ngủ, như lần đầu tiên gặp
Jem, khi cô lao vào phòng và thấy anh đang chơi vĩ cầm bên cửa sổ. Will à? Anh đã nói
thế, Will, là bồ hả?

Giờ anh cựa mình và lẩm bẩm gì đó khi cô chui vào nằm cùng, kéo chăn đắp cho cả hai.
Cô nắm tay anh và tay hai người kề bên nhau. Cô quặp chân vào chân anh và hôn lên đôi
má lành lạnh, giúp da anh ấm lên nhờ hơi thở của cô. Từ từ cô cảm nhận được anh cựa
mình, như thể sự hiện diện của cô làm anh bừng tỉnh.

Mắt anh mở và nhìn vào mắt cô. Chúng xanh, mang màu xanh thăm thẳm, màu xanh của
nơi trời gặp biển.
“Tessa?” Will nói và cô nhận ra mình đang ôm Will, Will là người đang chết, Will đang
trút hơi thở cuối cùng – và có máu nơi áo, ngay trên tim anh, vết máu đang loang dần…

Tessa bật dậy, thở dốc. Cô nhìn xung quanh một hồi, không rõ mình ở đâu. Căn phòng
chật chội, tối tăm, cái chăn mốc quấn quanh người, bộ váy ướt và cơ thể bầm tím, tất cả
dường như đều lạ lẫm với cô. Rồi kí ức quay lại như bão lũ, cùng với đó là cảm giác váng
vất buồn nôn.

Cô nhớ Học Viện tới quay quắt, mà cô chưa từng nhớ căn hộ ở New York như vậy. Cô
nhớ giọng nói hách dịch nhưng quan tâm của Charlotte, những cái ôm cảm thông của
Sophie, vẻ lăng xăng bận rộn của Henry, và tất nhiên, cô không thể nào không nhớ Jem
cùng Will. Cô lo cho Jem, cho sức khỏe của anh, nhưng cô cũng lo cho cả Will nữa. Trận
chiến ngoài sân rất khốc liệt, chắn chắn có thương vong. Bất cứ ai cũng có thể bị thương
hoặc bị giết. Đó có phải ý nghĩa giấc mơ Jem biến thành Will của cô chăng? Là Jem ốm,
hay tính mạng Will đang lâm nguy? Cô thầm cầu mong cả hai đều không sao. Làm ơn,
hãy để tôi chết trước khi bất cứ ai gặp tai ương gì.

Một tiếng động đánh thức cô khỏi dòng suy tưởng – một tiếng lạo xạo khô khốc khiến cô
lạnh sống lưng. Cô sững lại. Chắc chắn đó chỉ là tiếng cành cây đập vào cửa sổ thôi.
Nhưng, không – lại nữa rồi. Một tiếng xột xoạt kéo dài.

Tessa đứng lên một lúc, chăn vẫn quấn quanh người. Nỗi hoảng hốt giống như một sinh
vật sống bên trong cô. Mọi câu chuyện cô từng nghe về những con quái vật trong rừng
thẳm dường như đang quần thảo trong đầu cô. Cô nhắm mắt, hít thật sâu, và thấy hiển
hiện trong đầu óc hình ảnh đám người máy thon dài ở thềm Học Viện, bóng chúng dài và
xấu xí như người dị hình dị dạng.

Cô kéo chăn sát người hơn, tay cứ vân vê hết nắm lại thả lỏng. Đám người máy đó đến
thềm Học Viện tìm cô. Nhưng chúng không thông minh lắm – chỉ nghe theo những mệnh
lệnh đơn giản, chỉ nhận ra một vài người nhất định. Nhưng chúng vẫn không có khả năng
tư duy. Chúng là những cỗ máy, và máy móc thì dễ bị lừa.

Đây là chăn chần bông, loại do phụ nữ khâu vá nên, người phụ nữ từng sống trong căn
nhà này. Tessa hít một hơi và với lấy – với vào trong chăn, tìm kiếm một chút kí ức về
chủ nhân của nó, dấu ấn của linh hồn đã tạo ra và sở hữu nó. Đây giống như thò tay vào
nước lạnh và sờ tìm gì đó. Sau một thoáng cứ tưởng như cả thế kỉ tìm kiếm, cô cũng thấy
nó – một thứ ánh sáng chập chờn trong bóng tối, sự bền vững thuộc về một linh hồn.

Cô tập trung vào đó, và quấn nó quanh mình như quấn tấm chăn đang bao lấy cô lúc này
đây. Giờ Biến Hình đã dễ, ít đau đớn hơn. Cô thấy ngón tay co lại và biến đổi thành đôi
bàn tay xấu xí, bị viêm khớp của một bà lão. Những chấm đồi mồi lốm đốm khắp da cô,
lưng cô còng xuống, cái váy bắt đầu rộng ra trên thân hình quắt queo. Khi tóc cô xòa
xuống mắt, chúng trắng như cước.

Lại có tiếng xột xoạt. Một giọng nói vang lên trong đầu Tessa: ấy là giọng một bà già cáu
kỉnh muốn biết ai trong nhà mình. Tessa đi ra cửa, hơi thở hổn hển, tim đập thình thịch,
và vào phòng chính.

Trong một thoáng cô chẳng thấy gì. Mắt cô có cườm, bị mờ rồi; những hình dáng kia sao
lờ mờ và xa xăm thế. Rồi gì đó đứng lên bên đống lửa, và Tessa cố không hét.

Đó là một người máy trông khá giống người. Nó có cơ thể to lớn, mặc bộ vét xám sẫm,
nhưng tay thò ra khỏi cổ tay áo lại gầy như que củi, với bàn tay như cái mai, và đầu vươn
khỏi cổ áo thì nhẵn thín và trông như quả trứng. Hai con mắt to cộ trên đầu, nhưng ngoài
ra không có thêm đường nét gì khác.

“Ai đấy?” Tessa hỏi bằng giọng cụ già, và dư dứ cái ba chia cô cầm lên lúc nãy. “Thứ
kia, mày làm gì trong nhà tao?”

Thứ kia kêu rừ rừ, lách cách, rõ ràng bối rối. Một lát sau cửa trước mở và bà Black bước
vào. Bà ta quấn mình trong cái áo choàng đen, gương mặt trắng nổi bật dưới mũ trùm.
“Có chuyện gì ở đây vậy?” Bà ta hỏi. “Mày có tìm thấy…” Bà ta dừng lại, nhìn Tessa
chằm chằm.

“Có chuyện gì thế?” Tessa hỏi, giọng vang ra the thé đúng kiểu người già. “Tôi nên hỏi
bà câu ấy mới phải – đột nhập vào mái ấm yên ổn của dân lành…” Cô chớp mắt, như thể
cho người ta thấy rõ mình nhìn không tốt. “Cút khỏi đây, và đem bạn của mi theo cùng!”
– cô chọc chọc cái thứ cô cầm (đấy là đồ cậy móng ngựa, giọng bà già trong đầu cô vang
lên; cô dùng nó để cạy đất khỏi móng ngựa, đồ ngốc ạ). “Ở đây chẳng có gì đáng cho bọn
mi trộm đâu.”

Trong một thoáng cô nghĩ mình thành công. Gương mặt bà Black vô cảm. Bà ta dấn một
bước. “Bà không thấy cô gái trẻ nào đến đây, phải không?” Bà ta hỏi. “Ăn mặc rất đẹp,
tóc nâu, mắt xám. Cô ta trông như bị lạc đường vậy. Người thân đang tìm kiếm và sẽ hậu
tạ bà.”

“Câu chuyện hay, đi tìm một cô ả bị lạc nào đó.” Tessa cố nói cho cắm cảu nhất; thế đâu
có khó. Cô có cảm giác bà già này vốn thuộc dạng trái tính trái nết rồi. “Tôi bảo cút mà
lại!”
Người máy quay qua. Môi bà Black đột ngột mím lại, như thể cố nín cười. “Tôi thấy rồi,”
bà ta nói. “Tôi phải nói bà lão à, bà đeo cái vòng đẹp quá nhỉ?”

Tay Tessa đưa lên ngực, nhưng đã quá muộn. Mặt dây chuyền thiên sứ ở đó, ai ai cũng
thấy, kêu tích tắc khe khẽ. “Bắt nó,” bà Black đều đều nói, và người máy nhào đến, tóm
Tessa. Cô ném chăn và lùi lại, huơ cái ba chia. Cô cào được một đường dài lên thân
người máy khi nó xông tới và gạt tay cô đi. Cái ba chia rơi lanh canh trên sàn, và Tessa
hét lên đau đớn khi cửa trước bật mở và một đám người máy ào vào, đưa tay ra tóm cô,
bàn tay cơ khí bấu vào da cô. Biết mình bị áp đảo, biết chống cự chẳng ích gì, cô cuối
cùng cũng cho phép mình gào thét.

Mặt trời chiếu xuống mặt đánh thức Will dậy. Anh chớp mắt, từ từ mở ra.

Bầu trời xanh.

Anh lăn mình và duỗi người trong tư thế ngồi. Anh đang ở trên đỉnh một ngọn đồi xanh,
khuất tầm nhìn của đường Shrewbury-Welshpool. Anh chẳng thấy gì xung quanh mình
trừ vài căn nhà trại rải rác xa xa; anh chỉ đi qua vài thôn nhỏ trên chuyến hành trình rời
quán Lục Nhân điên cuồng giữa đêm, cưỡi ngựa đến khi rơi khỏi lưng Balios đánh bịch
xuống đất vì kiệt sức. Nửa đi nửa bò, anh để con ngựa cũng đã mệt lả kéo mình rời khỏi
đường và vào một hốc đất nông, nơi anh co người ngủ vùi một giấc, chẳng để ý đến trận
mưa bụi lạnh lẽo vẫn quất xuống từng hồi.

Không hiểu mặt trời lên tự lúc nào, hong khô quần áo và tóc tai anh, dù anh vẫn bẩn thỉu,
cái áo đóng bùn và máu. Anh đứng lên, cả cơ thể ê ẩm. Anh chẳng buồn dùng chữ rune
trị thương nào vào hồi đêm trước. Anh đã vào nhà trọ – mặc kệ nước mưa nhỏ tong tỏng
và tha bùn vào quán – để lấy đồ, trước khi trở lại chuồng ngựa, thả Balios và đi ngay
trong đêm. Giờ anh tập tễnh đến chỗ Balios đang gặm cỏ gần bóng một cây sồi xum xuê.
Anh lục túi bên yên lấy ra một thanh stele và một nắm trái cây khô. Vừa ăn, anh vừa vẽ
một chữ rune giảm đau và trị thương.

Sự kiện đêm qua dường như đã cách xa hàng ngàn dặm. Anh nhớ có đánh nhau với vài
người sói, xương vỡ và nếm thấy vị máu của chính mình, rồi bùn và mưa. Anh vẫn nhớ
cái đau vì bị tách lìa khỏi Jem, dù giờ đây anh không còn cảm nhận được nữa. Thay vì
đau, giờ anh thấy trống rỗng như thể có bàn tay vĩ đại nào đó đã thò xuống và cắt đi mọi
thứ khiến anh là người khỏi bên trong anh, chỉ để lại cái vỏ của anh mà thôi.

Khi đã ăn sáng xong, anh nhét thanh stele trở lại túi bên yên ngựa, cởi cái áo bẩn và thay
sang cái khác. Lúc ấy, anh không thể nào không liếc nhìn chữ rune parabatai trên ngực.
Nó không còn đen, mà chuyển sang màu trắng bạc như một vết sẹo lâu năm. Will có thể
nghe giọng Jem trong đầu, kiên định, trầm ổn và quen thuộc: ‘David vừa tâu xong cùng
Saul, thì lòng của Jonathan khế hiệp cùng lòng David, đến đỗi Jonathan yêu mến David
như mạng sống mình.’ Họ là hai chiến binh, và linh hồn của họ được Thiên Đàng nối liền
với nhau, và từ đó Jonathan Thợ Săn Bóng Tối nghĩ ra ý tưởng parabatai, và ghi nghi
thức đó vào Luật.

Nhiều năm trời Ấn Ký này và sự hiện diện của Jem là mọi thứ Will có trong cuộc đời để
trấn an anh rằng có ai đó yêu thương anh. Chúng cho anh biết mình có thật và có tồn tại.
Anh vuốt theo rìa nhữ rune parabatai đã nhạt màu. Anh đã tưởng sẽ ghét nó, ghét nhìn
thấy nó dưới ánh mặt trời, nhưng ngạc nhiên là anh không hề có cảm giác đó. Anh mừng
vì chữ rune parabatai không biến mất hoàn toàn khỏi da anh. Một Ấn Ký nói lên sự mất
mát vẫn là một Ấn Ký, một sự tưởng nhớ. Ta không thể mất điều gì đó ta chưa từng có.

Anh rút con dao Jem đưa cho khỏi túi bên yên: Một con dao mảnh có cán bạc chạm trổ
tinh tế. Dưới bóng cây sồi, anh cứa dao vào lòng bàn tay và nhìn máu thấm xuống đất.
Rồi anh quỳ xuống và cắm dao vào mặt đất ướt đầm máu. Quỳ xuống, anh lưỡng lự, một
tay cầm chuôi dao.

“James Carstairs,” anh nói và nuốt khan. Luôn luôn là vậy; khi anh cần từ ngữ nhất, anh
lại không tìm được chúng. Lời thề parabatai thiêng liêng vang lên trong đầu anh: Xin
đừng ép tôi lìa bỏ bạn, hoặc quay trở về – Bạn đi đâu tôi sẽ đi theo đó; bạn ở nơi nào tôi
sẽ ở nơi đó. Dân tộc của bạn là dân tộc của tôi, Đức Chúa Trời của bạn là Đức Chúa
Trời của tôi. Bạn chết ở nơi nào, tôi cũng muốn chết và được chôn ở nơi đó. Trừ cái chết
ra, nếu vì lí do nào khác khiến tôi lìa bỏ bạn, nguyện Đức Jehovah giáng họa lên tôi.

Nhưng không. Đó là lời lúc hai người được ràng buộc, chứ không phải lúc chia xa. David
và Jonathan cũng bị cái chết chia rẽ. Chia rẽ chứ không phải chia tách.

“Tôi đã nói rồi, Jem, bồ không được bỏ tôi,” Will nói, bàn tay đang chảy máu cầm chặt
cán dao. “Và bồ vẫn sẽ ở bên tôi. Khi tôi hít thở, tôi sẽ nghĩ về bồ, vì nếu không có bồ tôi
đã chết lâu rồi. Khi tôi tỉnh và khi ngủ, khi tôi đưa tay tự vệ hay khi ngã xuống từ trần, bồ
sẽ ở cùng tôi. Bồ nói chúng ta được sinh rồi tái sinh, tôi sẽ gặp lại bồ ở kiếp sau, và nếu
có một dòng sông, bồ sẽ đứng bên bờ đợi tôi tới, để chúng ta được cùng nhau vượt qua.”
Will hít thật sâu và buông dao. Anh rút tay lại. Vết thương trên lòng bàn tay đã lành – kết
quả của năm sáu chữ rune iratze trên da anh. “Bồ nghe không, James Carstairs? Chúng ta
sẽ được liên kết với nhau, kể cả khi cái chết chia rẽ, suốt muôn đời. Mãi mãi.”
Anh đứng lên và nhìn con dao. Con dao của Jem, máu của anh. Địa điểm này, dù cho anh
có tìm lại được nó nữa hay không, dù anh có còn sống để đi tìm hay không, cũng sẽ là
của họ.

Anh quay người đi về phía Balios, để tới với Wales và Tessa. Anh không ngoảnh đầu lại.

Gửi: Charlotte Branwell

Từ: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Nhờ gia nhân

Cô Branwell yêu quý,

Tôi không chắc tôi có hiểu rõ bức thư của cô chăng. Tôi thật khó mà tin một người phụ
nữ lí trí như cô lại có thể đặt lòng tin vào trần sì chữ nghĩa của một chàng trai vốn nổi
danh bất tín và ngông cuồng như William Herondale. Tôi thì chắc chắn không tin. Qua lá
thư, tôi hiểu rằng cậu Herondale tự ý bỏ đi không được cô cho phép. Cậu ta chắc chắn
có thể bịa chuyện để cầu người giúp đỡ. Tôi sẽ không gửi một đội quân Thợ Săn Bóng
Tối của mình chỉ vì mấy lời vớ vẩn của một cậu nhóc.

Xin cô ngừng mấy lời kêu gọi võ đoán tới Cadair Idris đi. Hãy nhớ rằng tôi là Quan
Chấp Chính. Tôi chỉ huy quân đội Thợ Săn Bóng Tối, thưa cô, chứ không phải cô. Thay
vào đó, hãy cố quản lí tốt các Thợ Săn Bóng Tối dưới quyền cô đi.

Chân thành,

Quan Chấp Chính Josiah Wayland

“Có người tới tìm cô, thưa cô Branwell.”

Charlotte ngước lên và thấy Sophie đang đứng tại cửa. Cô ấy trông mệt mỏi như tất cả
mọi người, mặt vẫn còn dấu nước mắt không thể giấu được. Charlotte nhận ra chứ – sáng
nay soi gương chị cũng thấy nó trên gương mặt mình.

Chị đang ngồi đằng sau cái bàn trong phòng khách, nhìn xuống lá thư trong tay. Chị
không mong Quan Chấp Chính Wayland vui mừng trước tin chị đưa tới, nhưng cũng
chưa từng đoán sẽ nhận lại mấy lời sáo rỗng và từ chối thế này. Tôi chỉ huy quân đội Thợ
Săn Bóng Tối, thưa cô, chứ không phải cô. Thay vào đó, hãy cố quản lí tốt các Thợ Săn
Bóng Tối dưới quyền cô đi.

Quản lí tốt. Chị nổi đóa. Ông ta làm như thể họ là trẻ con còn chị chỉ là nữ gia sư hoặc bà
vú, đưa họ đến trình diện trước mặt Quan Chấp Chính để ông ta thấy họ đã được tắm rửa
và ăn mặc chỉn chu, rồi sau đó chị phải giấu họ trong phòng chơi để không phiền đến ông
ta. Họ là Thợ Săn Bóng Tối, và chị cũng thế. Và nếu ông ta không nghĩ Will đáng tin, ông
ta là đồ ngốc. Ông ta đã biết về lời nguyền; chính chị đã đích thân nói ra. Cơn điên của
Will luôn giống của Hamlet, nửa đùa nửa thật, và tất cả đều đi đến cùng một kết cục tất
yếu.

Lửa lách tách cháy trong lò sưởi; bên ngoài, mưa ào ào như trút, vẽ lên kính cửa sổ
những vạch bàng bạc. Sáng nay chị đi qua phòng Jem, thấy cửa mở, giường đã bị lột ga
gối, mọi vật dụng đều được dọn sạch. Đây có thể là phòng của bất kì ai. Mọi bằng chứng
về những năm tháng Jem sống cùng họ đã biến mất chỉ sau một cái vẩy tay. Cô đã dựa
vào tường hành lang, mồ hôi lấm tấm trên lông mày, mắt đỏ ửng. Raziel, con có làm đúng
chăng?

Giờ chị áp tay lên mắt. “Lúc này sao? Không phải Quan Chấp Chính Wayland, phải
không?”

“Không ạ,” Sophie lắc mái đầu đen. “Mà là Aloysius Starkweather. Ông ấy bảo có
chuyện rất khẩn.”

“Aloysius Starkweather?” Charlotte thở dài. Có một số ngày mà kinh khủng chất chồng
kinh khủng. “Vậy thì cho ông ấy vào.”

Chị gấp lá thư phúc đáp Quan Chấp Chính lại, vừa kịp dán thư thì Sophie trở vào và mời
Aloysius Starkweather vào phòng, trước khi xin phép rời đi. Charlotte không đứng lên.
Starkweather trông vẫn hệt như lần cuối cùng cô gặp lão. Lão có vẻ bị hóa vôi, tức là vì
lão chẳng trẻ lại được nên cũng không có già đi. Gương mặt lão chằng chịt những nếp
nhăn, được đóng khung trong bộ râu và mái tóc trắng như cước. Quần áo lão khô roong;
Sophie chắc đã treo áo khoác của lão dưới lầu. Bộ vét lão mặc ít nhất cũng lỗi mốt cả
chục năm, và lão thoang thoảng mùi băng phiến cũ.

“Mời ngồi, ông Starkweather,” Charlotte nói lịch sự hết mức với nười cô biết không ưa
mình, và ghét bố chị.

Nhưng lão không ngồi. Tay lão chắp sau lưng, và khi lão quay lưng nhìn căn phòng
quanh mình, Charlotte giật mình khi thấy một tay gấu tay áo lão lốm đốm máu.
“Ông Starkweather,” chị nói, và thật sự phải đứng dậy. “Ông bị thương sao? Tôi gọi Tu
Huynh Câm nhé?”

“Bị thương?” Lão buột miệng. “Sao tôi lại bị thương?”

“Tay áo ông.”

Ông đưa tay lên nhìn trước khi bật ra một tiếng cười. “không phải máu tôi,” lão nói. “Lúc
trước tôi vừa vướng phải cuộc ẩu đả ấy mà. Hắn phản đối…”

“Phản đối gì?”

“Chuyện tôi cắt hết ngón tay hắn rồi cắt cổ hắn,” Starkweather nói và nhìn thẳng vào mắt
chị. Mắt ông ta mang màu đen xạm, như màu đá.

“Aloysius.” Charlotte quên cả lịch sự. “Hiệp Định cấm mọi hành vi vô duyên vô cớ tấn
công cư dân Thế Giới Ngầm.”

“Vô duyên vô cớ? Tôi nói là có cớ cả đấy. Đám chúng nó đã giết cháu gái tôi. Con gái tôi
suýt chết vì đau lòng. Nhà Starkweather tan nát…”

“Aloysius!” Charlotte giờ thật sự hoảng hốt rồi. “Nhà ông không tan nát. Vẫn còn những
thành viên nhà Starkweather ở Idris. Tôi không nói thế để ông bớt đau buồn, vì một vài
mất mát sẽ còn mãi với chúng ta.” Jem, chị không kìm được nghĩ đến, và nỗi đau của suy
nghĩ ấy khiến chị phải ngồi phịch xuống ghế. Chị chống cùi chỏ lên bàn, mặt úp vào tay.
“Tôi không biết sao giờ ông tới nói cho tôi biết chuyện này,” chị lầm bầm. “Ông không
nhìn thấy những chữ rune trên cửa Học Viện sao? Chúng tôi đang chịu một nỗi buồn
lớn…”

“Tôi tới nói với cô vì chuyện này quan trọng!” Aloysius nổi đóa. “Nó liên quan đến
Mortmain, và Tessa Gray.”

Charlotte buông tay. “Ông biết gì về Tessa Gray?”

Aloysius đã quay đi. Lão đối mặt với lò sưởi, cái bóng dài phủ trên cái thảm Ba Tư trải
sàn. “Tôi không phải loại người nghĩ nhiều đến Hiệp Định,” lão nói. “Cô biết mà; cô đã ở
cùng nhiều Hội Đồng với tôi. Tôi được nuôi dạy tin rằng mọi thứ dính dáng đến quỷ đền
xấu xa và đồi bại. Một Thợ Săn Bóng Tối có quyền giết những sinh vật đó và cướp tài
sản của chúng làm chiến lợi phẩm. Phòng chiến lợi phẩm ở York thuộc quản lí của tôi, và
tôi đã giúp chất đầy nó tới ngày Luật Pháp mới được thông qua.” Lão nhăn nhó.

“Để tôi đoán nhé,” Charlotte nói. “Ông không dừng ở đó.”
“Tất nhiên rồi,” ông già bảo. “Luật của người thì sao mà so với với luật của Thiên Thần?
Tôi biết cách làm những chuyện ấy. Tôi làm lén, nhưng không ngừng cướp chiến lợi
phẩm, hoặc tiêu diệt những tên thuộc Thế Giới Ngầm dám cản đường tôi. Một trong số
đó là John Shade.”

“Bố Mortmain.”

“Pháp sư không có con,” Starkweather gắt gỏng. “Chúng tìm được một đứa trẻ loài người
rồi nuôi dạy mà thôi. Shade dạy nó những trò hàn xì vớ vẩn. Chiếm lòng tin của nó.”

“Hình như không phải vợ chồng Shade cướp Mortmain khỏi bố mẹ đẻ đâu,” Charlotte
nói. “Chắc không có họ ông ta đã chết ở trại tế bần nào rồi.”

“Đấy là phi tự nhiên. Pháp sư không nên nuôi trẻ con loài người.” Aloysius nhìn chằm
chằm vào những viên than đỏ. “Đấy là lí do chúng tôi đột kích nhà Shade. Chúng tôi giết
vợ chồng hắn. Đứa trẻ trốn được. Hoàng tử kim khí của Shade.” Hắn khụt khịt. “Chúng
tôi lấy vài đồ của hắn đem về Học Viện, nhưng không ai hiểu chúng có công dụng gì. Nói
chung, đấy chỉ là một cuộc đột kích thông thường mà thôi. Mọi chuyện đều theo kế
hoạch. Như thế, tới khi cháu gái tôi chào đời. Adele.”

“Tôi biết cô ấy qua đời trong lễ nhận chữ rune đầu tiên,” Charlotte nói, và tay vô thức đặt
lên bụng. “Tôi rất tiếc. Có một đứa con không khỏe mạnh thật làm đau lòng cha mẹ…”

“Nó sinh ra không hề không khỏe mạnh!” Lão gắt. “Nó là một đứa trẻ khỏe mạnh. Xinh
đẹp, mang đôi mắt giống con trai tôi. Mọi người đều yêu nó, cho tới một buổi sáng con
dâu tôi đánh thức tất cả bằng một tiếng hét kinh hoàng. Nó cứ bảo đứa trong nôi không
phải con nó, dù chúng giống nhau như lột. Nó thề nó biết đâu là con mình, còn đây thì
không phải. Chúng tôi nghĩ nó bị điên. Kể cả khi màu mắt đứa bé chuyển từ xanh lơ sang
xám - ờ, thì nhiều đứa trẻ sơ sinh cũng bị vậy. Nhưng mãi tới khi thử vẽ Ấn Ký đầu tiên
lên người nó, tôi mới nhận ra con dâu mình đúng. Adele – cái đau quá sức chịu đựng của
nó. Nó hét, hét và quằn quại. Da nó hễ chỗ nào bị thanh stele động vào là bỏng. Tu
Huynh Câm làm tất cả những gì có thể, nhưng sáng hôm sau nó chết.”

Aloysius dừng lại và im lặng rất lâu, nhìn chằm chằm như thể yêu thích đống lửa.

“Con dâu tôi hóa điên. Nó không chịu nổi ở lại Học Viện. Tôi ở lại. Tôi biết nó đúng –
Adele không phải cháu gái tôi. Tôi nghe những lời đồn về chuyện tiên và một số cư dân
Thế Giới Ngầm khoác lác rằng chúng sẽ trả thù nhà Starkweather, sẽ cướp đi một đứa trẻ
và thay vào đó là một đứa nhỏ loài người ốm yếu. Mấy cuộc điều tra của tôi không thu
được kết quả gì chắc chắn, nhưng tôi quyết tìm ra cháu gái mình đã đi đâu.” Lão dựa vào
bệ lò sưởi. “Tôi đã gần bỏ cuộc khi Tessa Gray tới Học Viện cùng hai Thợ Săn Bóng Tối
của cô. Con bé giống con dâu tôi lắm. Nhưng hình như nó không mang chút dòng máu
Thợ Săn Bóng Tối nào. Điều đó thật lạ, nhưng tôi vẫn bám theo.

“Gã tiên bị tôi tra khảo ngày hôm nay cho tôi manh mối cuối cùng. Hồi còn chưa thôi nôi,
cháu gái tôi đã bị tráo bởi một đứa trẻ con loài người ốm yếu bị bắt cóc, sinh vật đã chết
khi nhận được Ấn Ký, vì nó không phải Nephilim.” Giọng lão run run thấy rõ, như một
vết nứt trên viên đá lửa. “Cháu gái tôi được một gia đình người phàm nuôi nấng, còn đứa
nhỏ Elizabeth ốm yếu của họ - được chọn vì giống Adele kinh khủng – được thay bằng
một cô bé khỏe mạnh. Đó là cách Triều Đình Tiên trả thù tôi. Chúng tin tôi giết người
của chúng, vậy chúng sẽ giết người thân của tôi.” Mắt lão lạnh lẽo nhìn Charlotte. “Adele
– Elizabeth – lớn lên trong gia đình người phàm đó, không hề hay biết thân phận của
mình. Rồi nó kết hôn. Với một gã người phàm tên Richard. Richard Gray.”

“Cháu gái ông,” Charlotte chầm chậm nói, “là mẹ của Tessa? Elizabeth Gray? Mẹ Tessa
là Thợ Săn Bóng Tối?”

“Đúng.”

“Đó là tội đó, Aloysius. Ông nên trình bày với Hội Đồng…”

“Họ không quan tâm đến Tessa Gray,” Starkweather gắt gỏng. “Nhưng cô thì có. Cô sẽ
nghe câu chuyện của tôi, và cô sẽ giúp tôi.”

“Tôi có thể,” Charlotte nói, “nếu đó là việc đúng đắn. Nhưng tôi chưa hiểu Mortmain liên
quan thế nào đến câu chuyện này.”

Aloysius bồn chồn. “Mortmain biết chuyện và quyết lợi dụng Elizabeth Gray, một Thợ
Săn Bóng Tối không biết mình là Thợ Săn Bóng Tối. Tôi tin Mortmain thuê Richard
Gray nhằm tiếp cận Elizabeth. Tôi tin chính hắn đã sai một con quỷ Eidolon ngụy trang
làm chồng nó, rồi khiến nó mang bầu Tessa. Tessa chính là mục đích của Mortmain. Một
đứa trẻ lai giữa Thợ Săn Bóng Tối và quỷ.”

“Nhưng con của quỷ và Thợ Săn Bóng Tối thường chết lưu cơ mà,” Charlotte nói máy
móc.

“Kể cả nếu Thợ Săn Bóng Tối đó không biết mình là Thợ Săn Bóng Tối sao?”
Starkweather nói. “Kể cả nếu nó không có chữ rune nào trên mình?”

“Tôi…” Charlotte ngậm miệng. Chị không biết câu trả lời; như chị biết thì chuyện này
chưa từng xảy ra. Thợ Săn Bóng Tối có ấn ký từ bé, tất cả, dù nam hay nữ.

Nhưng Elizabeth Gray thì không.


“Tôi biết cô gái kia có khả năng biến hình,” Starkweather nói. “Nhưng tôi không tin đó là
lí do Mortmain muốn nó. Mortmain phải muốn nó làm gì khác nữa. Một chuyện chỉ nó
làm được mà thôi. Nó là chìa khóa.”

“Chìa khóa cho cái gì?”

“Gã tiên nói chuyện với tôi chiều nay chỉ nói đến vậy.” Starkweather nhìn máu trên tay
áo. “Hắn nói, ‘Cô ta là đòn thù cho mọi người bị ông giết oan. Cô ta sẽ đưa Nephlim đến
tàn cục, Luân Đôn sẽ cháy rụi, và khi Ông Chủ trị vì tất cả, ông sẽ chẳng là gì với ông ta
hơn gia súc trong chuồng chờ ông ta bắt.’ Kể cả nếu Quan Chấp Chính không vì Tessa
mà đi tìm nó, ông ta cũng phải làm gì đó để ngăn hiểm họa kia.”

“Nếu họ tin cơ,” Charlotte nói.

“Nếu cô nói, họ sẽ tin,” Starkweather bảo. “Nếu tôi nói, họ sẽ cười vì cho tôi là lão già
lẩn thẩn, như suốt nhiều năm nay.”

“Ôi, Aloysius. Ông đánh giá cao lòng tin của Quan Chấp Chính với tôi rồi. Ông ta bảo tôi
là một ả ngu si, nhẹ dạ. Ông ta sẽ nói gã tiên kia gạt ông thôi – à, họ không nói dối,
nhưng có thể bóp méo sự thật, hoặc nhắc lại sự thật như hắn tin.”

Ông lão nhìn đi chỗ khác, chép miệng. “Tessa là chìa khóa cho kế hoạch của Mortmain,”
lão nói. “Tôi không biết như thế nào, nhưng là vậy đấy. Tôi tới gặp cô vì tôi không tin để
giao vận mệnh Tessa vào tay Hội Đồng. Nó là á quỷ. Tôi nhớ mình từng làm gì với
những thứ á quỷ hoặc siêu nhiên.”

“Tessa không phải thứ,” Charlotte nói. “Cô ấy là một cô gái bị bắt cóc và có lẽ đang
hoảng hốt lắm. Ông không nghĩ nếu tôi đã nghĩ ra cách cứu cô ấy, tôi lại không làm à?”

“Tôi đã làm sai,” Aloysius nói. “Tôi muốn sửa lại. Dòng máu của tôi chảy trong huyết
quản cô gái đó, kể cả khi trong ấy chứa cả máu quỷ. Nó là chắt của tôi cơ mà.” Ông ta
ngẩng cao đầu, đôi mắt nhạt màu ươn ướt đỏ au. “Tôi chỉ xin cô một điều, Charlotte. Khi
cô tìm ra Tessa Gray, và cô sẽ tìm ra thôi, hãy nói với nó rằng nó hoàn toàn có quyền
mang họ Starkweather.”

Đừng làm ta thất vọng vì đã tin cậu, Gabriel Lightwood.

Gabriel đang ngồi bên bàn trong phòng riêng, tay cầm bút viết thư. Phòng không thắp
đèn, bóng tối tụ lại quánh đặc nơi góc phòng, và tỏa dài trên sàn.
Gửi: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Từ: Gabriel Lightwood

Thưa Quan Chấp Chính cao quý,

Cháu viết thư này hôm nay để báo cho chú tin chú mong đợi từ cháu. Cháu cứ mong có
người từ Idris tới, nhưng người đến lại là Aloysius Starkweather, lãnh đạo Học Viện
York. Hôm nay lão đã đến xin gặp cô Branwell.

Anh đặt bút xuống và hít thật sâu. Anh đã nghe chuông cửa Học Viện rung, và đứng trên
cầu thang quan sát Sophie đưa Starkweather vào nhà và lên phòng khách. Sau đó, anh
đứng tại cửa nghe ngóng.

Dù gì thì Charlotte cũng không nghĩ sẽ có người theo dõi mình.

Đó là một ông lão đã quẫn trí vì đau buồn, và vì thế ông ta tạo ra một câu chuyện bịa đặt
rất hay để giải thích về nỗi mất mát lớn lao của mình. Ta có thể thương ông ta, nhưng
không nên tin, và chính sách của Hội Đồng cũng không nên tin những lời vớ vẩn và điên
rồ của ông ta.

Sàn nhà kêu cọt kẹt; Gabriel ngẩng phắt lên. Tim anh đập thình thịch. Nếu đó là Gideon –
Gideon sẽ phát hoảng khi phát hiện ra điều anh làm. Mọi người sẽ có cùng phản ứng đó.
Anh nghĩ tới vẻ ngỡ ngàng trên gương mặt nhỏ bé của Charlotte nếu chị hay chuyện. Và
anh nghĩ nhiều nhất đến đôi mắt xanh trên gương mặt trái tim nhìn anh thất vọng. Có lẽ,
Gabriel Lightwood, tôi tin ở anh.

Khi anh đặt bút viết tiếp, ngòi bút như muốn rạch rách giấy.

Cháu rất tiếc phải báo cáo chuyện này, nhưng cả hai đều rất hỗn hào khi nhắc về cả
Quan Chấp Chính và Hội Đồng. Rõ ràng cô Branwell thất vọng vì những cái cô ta cho là
sự xen vào không cần thiết trong kế hoạch của cô ta. Cô ta tin câu chuyện hoang đường
của ông Starkweather, về việc Mortmain đã tạo ra một kẻ lai giữa quỷ và Thợ Săn Bóng
Tối, một điều rõ ràng là không thể. Có vẻ chú đã đúng về việc cô ta quá cứng đầu và quá
ba phải nên khó lòng chỉ huy tốt một Học Viện.

Gabriel cắn môi và buộc mình không được nghĩ đến Cecily; thay vào đó anh nghĩ tới
trang viên Lightwood, tài sản thuộc về mình, về danh dự của dòng họ Lightwood, sự an
toàn của anh em anh. Anh không thực sự muốn hại Charlotte. Đây chỉ là nghi vấn về vị
trí của chị, không phải sự an toàn của chị. Quan Chấp Chính không có kế hoạch xấu nào
với chị. Chắc chắn chị sẽ hạnh phúc hơn tại Idris hoặc một ngôi nhà miền quê nào đó,
nhìn lũ con chạy trên đồng cỏ xanh và chẳng phải suốt ngày lo lắng về số phận của toàn
thể Thợ Săn Bóng Tối.

Dù cô Branwell yêu cầu chú gửi một lực lượng Thợ Săn Bóng Tối đến Cadair Idris,
nhưng bất cứ ai có thể đưa ra những ý kiến điên rồ và nhạo báng nền tảng chính trị của
mình vì không đáng để tin tưởng.

Nếu cần, cháu sẵn sàng thề trước Kiếm Thánh rằng tất cả đều là sự thật.

Nhân danh Raziel,

Gabriel Lightwood
16

CÔNG NƯƠNG KIM KHÍ


Này hỡi người yêu dấu,

Ai sẽ than khóc cho sự mong manh của những thứ quanh đây

Sao chàng chọn người mong manh nhất,

Để ôm ấp, chung sống và đưa ma?

– Percy Bysshe Shelley, Lines: When the Lamp Is Shattered

Gửi: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Từ: Charlotte Branwell

Thân gửi Quan Chấp Chính Wayland,

Lúc này đây, tôi vừa nhận được tin xấu nhất, và tôi phải báo cho ông. Một người đưa tin,
tôi xin phép không tiết lộ tên người đó vào thời điểm này, nhưng tôi cam đoan người này
đáng tin, đã cung cấp cho tôi những tình tiết cho thấy cô Gray không chỉ là một ảo tưởng
vớ vẩn của Mortmain, mà là chìa khóa tới mục đích chính của ông ta: để tiêu diệt toàn bộ
Thợ Săn Bóng Tối.

Ông ta mưu đồ tạo ra những thiết bị quyền năng hơn nhiều so với những thứ chúng ta
từng trông thấy, và tôi vô cùng quan ngại rằng khả năng độc nhất vô nhị của cô Gray sẽ
giúp ông ta hoàn thành nó. Cô ấy chưa từng muốn làm hại chúng ta, nhưng chúng ta
không thể biết Mortmain có thể đe dọa hay sỉ nhục gì. Việc khẩn cấp là phải cứu cô ấy
ngay, giúp cô ấy cũng chính là cứu chúng ta.

Sau khi nhận được thông tin mới, tôi một lần nữa xin ông tập hợp lực lượng và hành
quân tới Cadair Idris.

Chân thành, và cực kì lo âu,

Charlotte Branwell
Tessa từ từ tỉnh giấc, như thể ý thức nằm ở cuối một hành lang dài, tăm tối và cô đang đi
về phía đó với tốc độ sên bò, tay đưa ra quờ quạng mò mẫm. Cuối cùng cô cũng chạm
được vào nó, và mở toang cửa để thấy…

Ánh sáng chói lòa. Ánh sáng đó vàng, chứ không nhợt nhạt như ánh đèn phù thủy. Cô
ngồi dậy và nhìn quanh.

Cô đang ngồi trên một chiếc giường khung đồng đơn giản, có chăn lông vũ dày phủ trên
tấm nệm dày, và phủ ga trải giường trần lông vịt. Căn phòng này trông như được đục vào
một hang đá. Có một cái tủ com-mốt cao, và bồn rửa mặt trên có đặt một cái bình xanh; ở
đây cũng có buồng thay đồ, cửa mở vừa đủ cho Tessa thấy đồ treo bên trong. Phòng
không có cửa sổ, nhưng lò sưởi đang bập bùng cháy. Ở hai bên lò sưởi đều treo những
bức chân dung.

Cô rời giường và nhăn mặt khi chân trần chạm nền đá lạnh. Dù người ngợm bầm dập
nhưng cô lại không thấy đau như tưởng tượng. Nhìn xuống, cô thấy hai điều khiến cô
thảng thốt: một là cô không mặc gì ngoài chiếc váy ngủ lụa đen rộng thùng thình. Hai là
những vết xước và bầm tím hầu như đã biến mất. Cô vẫn thấy hơi ê ẩm, nhưng làn da,
xanh xao trong váy lụa đen, lại không hề hấn gì. Chạm vào tóc, cô thấy nó sạch sẽ và
buông xõa xuống vai, không hề còn bết bùn và máu nữa.

Thế là cô bắt đầu nghĩ đến chuyện ai tắm rửa, chữa trị cho cô và đưa cô lên giường. Tessa
chẳng nhớ gì ngoài cuộc vật lộn với đám người máy trong cái nhà trại nhỏ giữa tiếng
cười sằng sặc của bà Black. Cuối cùng một tên đã bóp cổ cho cô ngất đi và bóng tối nhân
từ ùa tới. Nhưng ý nghĩ bà Black lột đồ và tắm rửa cho cô thật khủng khiếp, dù có lẽ nó
không ghê bằng chuyện Mortmain là người làm những công việc kia.

Hầu hết đồ đạc trong phòng đều nằm gọn ở một bên. Bên kia hầu như để trống, dù cô có
thể thấy cánh cửa hình chữ nhật sơn đen ở bức tường đối diện. Nhìn quanh quất, cô đi ra
đó…

Nhưng vừa đi được nửa phòng, cô đã đâm sầm vào gì đó. Cô loạng choạng lùi lại, kéo
váy chặt vào người hơn, trán đau vì đập vào gì đó. Cô thận trọng đưa tay huơ huơ trong
không khí.

Và cảm nhận phía trước cứng, như thể có một tấm kính trong suốt dựng giữa cô và phần
kia căn phòng. Cô áp tay vào đó. Dù vô hình như nó rắn chắc như sắt đá. Cô đưa tay lên,
tự hỏi nó có thể lên cao đến đâu…
“Thôi đừng tốn công,” một giọng lạnh lùng quen thuộc vang từ cửa. “Cấu trúc đó vươn
hết động, từ vách đá này đến vách đá khác, từ trần các hang nhỏ tới đỉnh hang lớn. Cô bị
giam chắc sau đó rồi.”

Tessa đang rướn người hết cỡ; nghe tới đó, cô giậm chân xuống và lùi một bước.

Mortmain.

Ông ta vẫn giống hệt như xưa. Dáng người dẻo dai, không cao, với gương mặt mang nét
phong sương và bộ râu quai nón cắt tỉa gọn gàng. Cực kì bình thường, trừ đôi mắt, lạnh
lùng và xám như bão tuyết mùa đông. Ông mặc bộ vét màu xám xanh, không quá kiểu
cách, mà giống kiểu một quý ông sẽ mặc vào một buổi chiều đến câu lạc bộ chơi. Giày
ông ta được đánh bóng lừ.

Tessa chẳng nói gì, chỉ kéo cái váy ngủ đen sát người hơn. Nó thùng thình và che kín
người cô, nhưng khi không có váy lót và áo corset, tất và khung áo lót, cô thấy mình trần
truồng và lộ liễu.

“Đừng hoảng,” Mortmain tiếp tục. “Cô không thể chạm vào tôi, nhưng tôi cũng vậy thôi.
Phép thuật không được giải thì chịu, mà việc đó cũng tốn thời gian lắm.” Ông ta dừng lại.
“Tôi ước cô thấy an toàn hơn.”

“Nếu ông muốn tôi được an toàn, ông nên để tôi lại Học Viện.” Giọng Tessa lạnh thấu
xương.

Mortmain không nói gì, chỉ nghiêng đầu và nheo mắt nhìn cô, như một thủy thủ nheo mắt
nhìn đường chân trời. “Xin chia buồn với cái chết của anh trai cô. Tôi không hề muốn
chuyện đó xảy ra.”

Tessa bĩu môi. Đã hai tháng kể từ ngày Nate chết trong tay cô, nhưng cô chưa quên, hay
tha thứ. “Tôi không cần lòng thương hại của ông. Hay mấy ước muốn này nọ của ông.
Ông biến anh ấy thành đồ ngốc, và rồi anh ấy chết. Đấy là lỗi của ông, chắc chắn như ông
bắn anh ấy giữa đường giữa chợ.”

“Chắc tôi có nói cậu ấy bán đứng tôi cũng không ăn thua gì đâu nhỉ?”

“Anh ấy còn quá trẻ,” Tessa nói. Cô muốn quỳ xuống, muốn dộng từng nắm đấm vào rào
cản vô hình, nhưng cuối cùng chọn đứng im và tỏ vẻ lạnh lùng. “Anh ấy chưa đầy hai
mươi tuổi.”

Mortmain nhét tay vào túi quần. “Cô có biết hồi còn trẻ tôi phải sống thế nào không?”
Ông ta nói, bình thản như thể đang ngồi cạnh cô trong một buổi dạ tiệc và cố bắt chuyện.
Tessa nghĩ lại những hình ảnh cô thấy trong đầu Aloysius Starkweather.

Người đàn ông đó cao, vai rộng, tóc đen tuyền – và da xanh như da thằn lằn. Ngược lại,
đứa bé ông ta bồng trên tay lại hoàn toàn bình thường – nhỏ bé, bầu bĩnh, hồng hào.

Tessa biết tên người đàn ông đó, vì Starkweather biết.

John Shade.

Shade nhấc bổng đứa bé đặt lên vai đúng lúc một đám sinh vật kim loại trông kỳ dị ùa ra
khỏi cửa, trông chúng giống những con búp bê có khớp cử động được mà tụi trẻ con hay
chơi, nhưng có kích cỡ to bằng người thật, với bộ da kim loại sáng bóng. Những sinh vật
đó không có nét mặt. Nhưng kỳ lạ sao, chúng mặc quần áo – vài con mặc bộ đồ vải sần
của cánh nông dân Yorkshire, vài con khác mặc váy vải muslin đơn giản. Đám người
máy nắm tay và bắt đầu xoay tròn như đang nhảy một điệu nhảy dân dã. Đứa bé cười
giòn và vỗ tay.

“Hãy nhìn kĩ đi, con trai,” người đàn ông da xanh nói, “vì một ngày kia ta sẽ trị vì thế
giới người máy, còn con sẽ là hoàng tử.”

“Tôi biết bố mẹ nuôi của ông là pháp sư,” cô nói. “Tôi biết họ yêu quý ông. Tôi biết bố
ông đã phát minh ra đám người máy khiến ông mê say.”

“Và cô biết chuyện đã xảy đến với họ.”

…một căn phòng bị lục tung, bánh răng, cam và những mảnh kim loại vung vãi khắp nơi.
Màu dầu chảy thẫm như màu máu, và xác người đàn ông da màu lục cùng người đàn bà
tóc lam nằm giữa đống hoang tàn.

Tessa nhìn đi chỗ khác.

“Để tôi kể cho cô nghe tuổi thơ của tôi nhé,” Mortmain nói. “Cô có thể gọi họ là bố mẹ
nuôi của tôi, nhưng họ chẳng khác nào cha mẹ ruột. Họ chăm bẵm yêu thương nuôi nấng
tôi, hệt như bố mẹ cô thôi.” Ông ta chỉ lò sưởi và Tessa đờ đẫn thảng thốt nhận ra rằng
hai bức chân dung treo hai bên là bố mẹ cô: người mẹ tóc vàng và người cha trầm tĩnh
mang đôi mắt nâu và cái nơ đeo lệch. “Và rồi họ bị Thợ Săn Bóng Tối giết chết. Bố tôi
muốn tạo ra những người máy xinh đẹp. Họ sẽ là những cỗ máy tuyệt vời nhất từng được
phát minh, ông ấy mơ thế, và chúng sẽ bảo vệ cư dân Thế Giới Ngầm khỏi đám Thợ Săn
Bóng Tối chỉ biết giết chóc và cướp đồ của họ. Cô đã thấy đống chiến lợi phẩm trong
Học Viện của Starkweather rồi đấy.” Ông ta gằn ra mấy từ cuối. “Cô thấy những mảnh
thi thể của bố mẹ tôi. Lão ta giữ máu mẹ tôi trong lọ.”
Và ở đây còn có bộ phận thân thể cắt ra từ xác các pháp sư. Những đôi bàn tay có móng
vuốt bị ướp khô, trông giống bàn tay bà Black. Một cái sọ chẳng còn dính tí da nào, nhìn
khá giống sọ người, trừ việc nó có ngà thay cho răng. Những tuýp máu đặc quánh.

Tessa nuốt khan. Máu mẹ tôi trong lọ. Cô không thể bảo không hiểu cơn thịnh nộ của ông
ta. Nhưng – cô nghĩ đến Jem, bố mẹ anh chết trước mắt anh, cuộc đời anh bị hủy hoại,
nhưng anh chưa từng tìm cách trả thù. “Đúng, chuyện thật tệ,” Tessa nói. “Nhưng đấy
không phải cái cớ để ông làm bao nhiêu chuyện kia.”

Có gì lóe lên trong đôi mắt ông ta: giận dữ, nhanh chóng bị dập tắt. “Để tôi cho cô biết tôi
đã làm gì nhé,” ông ta nói. “Tôi đã tạo ra một đội quân. Một đội quân mà, khi mảnh ghép
cuối cùng được lắp vào đúng chỗ, sẽ bất khả chiến bại.”

“Và mảnh ghép cuối cùng…”

“Là cô,” Mortmain nói.

“Ông nói hết lần này đến lần khác, nhưng lại không chịu giải thích,” Tessa nói. “Ông
muốn tôi hợp tác nhưng chẳng chịu nói gì với tôi. Ông giam giữ tôi ở đây, thưa ông,
nhưng ông không thể buộc tôi nói chuyện với ông, hoặc yêu cầu tôi nghe theo ông nếu tôi
không muốn…”

“Cô là bán Thợ Săn Bóng Tối, bán quỷ,” Mortmain nói. “Đấy là điều đầu tiên cô cần
biết.”

Tessa, đã ngoảnh người định đi, sững lại. “Không thể nào. Con của Thợ Săn Bóng Tối và
quỷ sẽ chết lưu.”

“Đúng thế,” ông ta nói. “Dòng máu của Thợ Săn Bóng Tối, những chữ rune trên cơ thể
Thợ Săn Bóng Tối, là độc dược đối với một đứa trẻ pháp sư còn trong bụng mẹ. Nhưng
mẹ cô không có Ấn Ký.”

“Mẹ tôi không phải Thợ Săn Bóng Tối!” Tessa hoảng hốt nhìn chân dung Elizabeth Gray
trên bệ lò sưởi. “Hay ý ông là bà đã dối gạt bố tôi, dối gạt mọi người suốt cả đời…”

“Bà ấy không biết,” Mortmain nói. “Các Thợ Săn Bóng Tối cũng không biết. Chẳng có ai
cho bà ấy biết hết. Cô biết không, bố tôi đã chế tác ra mặt dây chuyền thiên sứ của cô. Đó
vốn là quà ông định tặng mẹ tôi. Nó chứa trong đó mảnh linh hồn của một thiên thần, một
thứ rất hiếm, một thứ ông ấy đã mang theo mình kể từ thời những cuộc Thập Tự Chinh.
Nó có tác dụng bảo vệ mạng bà, để khi nào mạng bà bị đe dọa, thiên thần sẽ hiện ra bảo
vệ bà. Nhưng bố tôi chưa kịp hoàn thành nó. Ông ấy bị giết trước.” Mortmain bắt đầu đi
đi lại lại. “Tất nhiên bố mẹ tôi không phải mục tiêu đặc biệt gì. Starkweather và lũ Thợ
Săn Bóng Tối sung sướng khi được tàn sát cư dân Thế Giới Ngầm – chúng giàu lên nhờ
chiến lợi phẩm cơ mà – và sẽ vin vào bất cứ cái cớ nào, dù là nhỏ nhặt nhất, để gây sự với
họ. Chính vì thế mà ông ta bị cộng đồng Thế Giới Ngầm căm ghét. Chính các tiên ở vùng
quê đó đã giúp tôi trốn thoát khi bố mẹ tôi bị giết, và giấu tôi tới khi Thợ Săn Bóng Tối
ngừng tìm tôi.” Ông ta thở một hơi rệu rã. “Nhiều năm sau, khi họ quyết định trả thù, tôi
đã giúp sức. Cư dân Thế Giới Ngầm không dễ dàng ra vào Học Viện, nhưng người phàm,
và tất nhiên cả người máy lại ra vào thoải mái.”

Ông ta cười dữ tợn.

“Chính tôi, cùng với sự giúp sức từ một người máy của bố tôi, đã lẻn vào Học Viện York
và tráo đứa bé trong nôi bằng một đứa trẻ loài người. Ấy là cháu gái Starkweather,
Adele.”

“Adele,” Tessa thì thầm. “Tôi đã thấy chân dung cô ấy.” Một cô bé gái tóc vàng để dài,
mặc bộ đồ trẻ con đã lỗi thời, đeo cái nơ to trông như muốn nuốt mất cả cái đầu nhỏ của
cô bé. Cô bé có gương mặt gầy, xanh xao và trông như người ốm, nhưng lại sở hữu một
đôi mắt rất sáng.

“Cô ấy chết khi nhận chữ rune đầu tiên,” Mortmain vui vẻ nói. “Gào rú mà chết, hệt như
rất nhiều cư dân Thế Giới Ngầm trong tay Thợ Săn Bóng Tối. Giờ họ giết một người
mình yêu quý. Một đòn trả thù quá ngọt ngào.”

Tessa hoảng hốt nhìn ông ta. Sao có người lại nghĩ để một đứa trẻ vô tội phải chết đau
chết đớn là một đòn trả thù ngọt ngào chứ? Cô lại nghĩ đến Jem, bàn tay anh dịu dàng
vuốt trên cây vĩ cầm.

“Elizabeth, mẹ cô, lớn lên mà chẳng hề hay biết mình là Thợ Săn Bóng Tối. Bà ấy không
hề được nhận một chữ rune nào. Tôi theo sát từng bước trưởng thành của bà ấy, tất nhiên,
và khi bà ấy kết hôn cùng Richard Gray, tôi liền thuê ông ta. Tôi tin vì thiếu chữ rune nên
mẹ cô có thể mang thai một đứa trẻ nửa quỷ nửa Thợ Săn Bóng Tối, và để thử nghiệm giả
thuyết trên, tôi đã đưa một con quỷ đến trong hình dáng bố cô đến. Bà ấy không hề nhận
ra sự khác biệt.”

Chỉ vì bụng rỗng nên Tessa mới không nôn ra. “Ông đã làm gì mẹ tôi? Một con quỷ? Và
tôi là á quỷ?”

“Nói cho cô biết, nó là đại quỷ đấy nhé. Hầu hết chúng đã từng là thiên thần. Trong loài
quỷ nó cũng được coi là điển trai.” Mortmain cười khẩy. “Trước khi mẹ cô mang thai, tôi
đã mất nhiều năm trời để hoàn thành mặt dây chuyền thiên sứ của bố. Tôi hoàn thành, và
khi cô được thụ thai, nó bảo vệ mạng cô. Phát minh vĩ đại nhất của tôi.”
“Nhưng sao mẹ tôi chịu đeo?”

“Để bảo vệ cô,” Mortmain nói. “Mẹ cô nhận ra có gì đó không ổn khi mang thai. Mang
thai một đứa trẻ pháp sư không hề giống mang thai trẻ loài người. Khi đó tôi liền tới và
tặng bà ấy mặt dây chuyền thiên sứ. Tôi bảo đeo nó sẽ giữ được mạng đứa bé. Bà ấy đã
tin. Tôi không hề nói dối. Cô gái à, cô trường sinh, chứ không bất tử. Cô vẫn có thể bị
giết chết như thường. Mặt dây chuyền đó bảo vệ mạng cô; nó được thiết kế để bảo vệ cô
nếu cô lâm vào cảnh hiểm nguy đến tính mạng. Nghĩ tới những lần cô cận kề cái chết
xem. Nghĩ cách nó can thiệp xem.”

Tessa nghĩ lại – cách thiên thần đã xông vào người máy bóp cổ cô, đã chặn vũ khí của
sinh vật tấn công cô gần trang viên Ravenscar, đã giúp cô không nát vụn khi rơi xuống
đống đá dưới vực. “Nhưng nó không cứu tôi khỏi bị tra tấn, hay thương tích.”

“Khong. Vì là người phải chịu đựng nhiều điều ấy.”

“Cái chết cũng là lẽ thường tình của đời người,” Tessa nói. “Tôi không phải con người,
và ông để Chị Em Hắc Ám hành hạ tôi. Tôi không bao giờ tha thứ cho ông. Kể cả nếu
ông thuyết phục tôi rằng cái chết của anh tôi là lỗi của anh ấy, rằng Thomas chết là đáng
đời, rằng lòng thù hận của ông là có lí do cả, tôi cũng không bao giờ tha thứ cho ông.”

Mortmain nhấc cái hộp dưới chân và mở ra. Có tiếng lạch xạch khi bánh răng rơi khỏi đó
– những bánh răng và cam, những mảnh kim loại dính dầu đen, và cuối cùng, nảy trên
đống rác rưởi như một quả bóng cao su đỏ trẻ con vẫn chơi, là một cái đầu xấu xí.

Đầu bà Black.

“Tôi đã giết bà ta,” ông ta nói. “Vì cô. Tôi muốn cho cô thấy tôi thực lòng, cô Gray.”

“Thực lòng cái gì?” Tessa hỏi. “Sao ông làm những chuyện này? Sao ông tạo ra tôi?”

Môi ông ta hơi nhếch; đấy không hẳn là một nụ cười. “Vì hai mục đích. Một là để cô có
thể sinh con đẻ cái…”

“Nhưng pháp sư không thể…”

“Không,” Mortmain nói. “Nhưng cô không phải pháp sư bình thường. Trong cô dòng
máu quỷ và máu thiên thần đã đánh một trận trên Thiên Đàng, và thiên thần đã giành
phần thắng. Cô không phải Thợ Săn Bóng Tối, nhưng cũng chẳng phải pháp sư. Cô thuộc
một giống nòi mới, hoàn toàn mới. Thợ Săn Bóng Tối,” ông ta nhạo. “Mọi con lai giữa
quỷ và Thợ Săn Bóng Tối đều chết, và Nephilim tự hào vì điều đó, mừng vì dòng máu
của họ không bao giờ bị nhiễm bẩn, dòng dõi của họ không bao giờ nhiễm mùi phép
thuật. Nhưng cô. Cô có thể làm phép. Cô có thể sinh con như bất kì người phụ nữ nào.
Chưa đến lúc, nhưng vài năm nữa thôi, cô sẽ trưởng thành. Những pháp sư vĩ đại nhất
trên đời đã đảm bảo với tôi. Chúng ta sẽ cùng nhau tạo ra một giống nòi mới, mang vẻ
đẹp của Thợ Săn Bóng Tối và không có dấu ấn pháp sư. Đó sẽ là một chủng loài đập nát
sự ngạo nghễ của Thợ Săn Bóng Tối và thay thế chúng trên trái đất này.”

Chân Tessa sụm xuống. Cô ngồi sụp trên sàn, cái váy ngủ phủ rộng quanh cô như một
màn nước đen. “Ông – ông muốn tôi sinh con cho ông?”

Giờ ông ta cười thật. “Tôi không phải loại đàn ông vô liêm sỉ,” ông ta nói. “Tôi đề nghị
cô kết hôn với tôi. Tôi luôn muốn thế.” Ông ta chỉ cái đống phế liệu và da thịt từng là bà
Black. “Nếu nhận được sự đồng ý của cô, tôi sẽ thích hơn. Và tôi dám hứa sẽ làm thế này
với kẻ thù của cô.”

Kẻ thù của mình. Cô nghĩ đến Nate, tay anh nắm chặt tay cô khi lìa đời, người đầm đìa
máu tươi trong lòng cô. Cô lại nghĩ đến Jem, cách anh chưa từng đầu hàng mà dũng cảm
đối đầu với số phận; cô nghĩ đến Charlotte, người đã khóc khi Jessamine qua đời, dù
Jessie đã phản bội chị; và cô nghĩ đến Will, đã trải lòng mình và cô giẫm nát tấm lòng
anh vì cô yêu họ hơn yêu bản thân mình.

Có lòng nhân trên thế giới này, cô nghĩ – chúng bị che giấu bởi dục vọng khao khát, hối
hận và chua chát, ảo não và quyền lực, nhưng nó ở đó, và Mortmain chưa từng nhìn thấy
nó.

“Ông sẽ không bao giờ hiểu,” cô nói. “Ông nói ông xây dựng, ông phát minh, nhưng tôi
biết một nhà phát minh – Henry Branwell – và ông không hề giống anh ấy. Anh ấy đem
sự sống cho mọi vật; ông chỉ hủy diệt mà thôi. Và giờ ông tặng tôi một con quỷ đã chết,
như thể đấy là bó hoa đẹp vậy. Ông không có tình cảm, ông Mortmain, không biết thương
ai. Nếu như trước đây tôi không biết, thì khi ông cố dùng bệnh tình của James Carstairs
để buộc tôi phải đến đây là tôi đã biết tỏng ông rồi. Dù anh ấy sắp chết, anh ấy vẫn không
cho tôi đi – không dùng ngân phiến của ông. Người tốt sẽ cư xử như vậy.”

Cô thấy vẻ mặt ông ta. Thất vọng. Nhưng nó chỉ hiển hiện một thoáng, trước khi được
thay thế bằng vẻ xảo trá. “Không cho cô đi à?” Ông ta nói. “Vậy tôi không đánh giá sai
cô; cô muốn làm theo ý tôi. Sẵn sàng từ bỏ tình yêu để tới với tôi, đến đây.”

“Nhưng không phải đến để yêu ông.”

“Không,” ông ta trầm ngâm nói, “không phải vì tôi,” và ông ta rút từ trong túi ra một vật.
Cô nhìn cái đồng hồ ông ta giơ ra đang treo tòng teng trên sợi dây chuyền. Trông nó
hoàn toàn vô hại. Các kim đồng hồ đã không còn quay, thời gian như đóng băng ở nửa
đêm. Chữ viết tắt J.T.S được khắc tinh tế ở mặt sau.

“Tôi đã nói có hai lí do tôi tạo ra cô,” ông ta nói. “Đây là lí do thứ hai. Có nhiều kẻ biến
hình trên thế giới này: quỷ và phù thủy có thể đội lốt kẻ khác. Nhưng chỉ có cô mới thực
sự trở thành người khác. Đồng hồ này thuộc về bố tôi. John Thaddeus Shade. Tôi xin cô
hãy cầm đồng hồ này và biến hình thành bố tôi để cho tôi được nói chuyện với ông ấy lần
nữa. Nếu cô làm vậy, tôi sẽ gửi toàn bộ ngân phiến mình có – khá nhiều đó nhé – tới
James Carstairs.”

“Anh ấy sẽ không nhận,” Tessa nói ngay.

“Vì sao không?” Giọng ông ta nghe rất hợp lí. “Cô không còn là điều kiện để đổi lấy món
quà đó. Đây là một món quà biếu không. Chỉ có ngu mới ném nó đi, mà chẳng để làm gì.
Chỉ cần làm việc nho nhỏ này cho tôi, cô sẽ cứu được mạng cậu ấy. Ý cô thế nào, Tessa
Gray?”

Will. Will, tỉnh dậy.

Đó là giọng Tessa, không lẫn vào đâu được, và khiến Will ngồi thẳng dậy trên yên ngựa.
Anh tóm bờm Balios để ngồi cho vững rồi mệt mỏi nhìn quanh.

Xanh lục, xám, xanh lam. Khung cảnh vùng quê xứ Wales trải rộng trước mặt anh. Anh
đã đi qua Welshpool và biên giới Anh – Wales vào tầm bình minh. Anh chẳng mấy nhớ
về chuyến đi, chỉ liên tục, mệt mỏi qua hàng loạt địa danh: Norton, Atcham, Emstrey,
Weeping Cross, đưa người và ngựa đi quanh Shrewsbury, và cuối cùng, cuối cùng biên
giới và những ngọn đồi xứ Wales cũng xuất hiện ở xa xa. Chúng mờ mờ như ma trong
ánh sáng ban ngày, mọi thứ đều chìm trong màn sương chầm chậm tan khi mặt trời dần
lên cao.

Anh đoán anh ở đâu đó gần Llangadfan. Đây là một con đường đẹp, nằm đè trên một con
đường thời La Mã, nhưng gần như vắng bóng người ở, thi thoảng mới xuất hiện một
trang trại, và dường như dài vô tận, còn dài hơn bầu trời xám trên đầu. Tại nhà nghỉ Cann
Office, anh buộc mình dừng lại và bỏ bụng gì đó, nhưng chỉ một lát. Anh phải đi tiếp.

Giờ anh đang ở Wales, anh cảm nhận được… cái lực hút anh về nơi chôn rau cắt rốn. Dù
Cecily muốn nói gì thì nói, anh vẫn chẳng cảm thấy nỗi nhớ nhung gì, cho tới giờ – được
hít thở không khí của Wales, nhìn những màu sắc của Wales: màu xanh rì của những
ngọn đồi, xám của đá phiến và bầu trời, sắc trắng của những ngôi nhà đá, những con cừu
trắng ngà nổi bật trên nền cỏ. Thông và sồi mang sắc lục sẫm ở đằng xa, mọc cao hơn,
cao hơn, nhưng gần đường hơn lại là những luống rau màu xám xanh và vàng úa.

Khi đi sâu vào xứ Wales, những ngọn đồi thoai thoải nhấp nhô cao hơn hẳn, đường dốc
hơn, và mặt trời bắt đầu lấp ló sau viền những ngọn núi đằng xa. Anh biết mình đang ở
đâu, biết khi anh đi vào thung lũng Dyfi, và những ngọn núi trước mắt anh vút lên, nhấp
nhô hiểm trở. Đỉnh Car Afron ở bên trái, một khối đá ác-đoa và đá cuội xám xịt trông như
một mạng nhện xám rách ở bên sườn núi. Con đường dài và dốc, và khi Will thúc Balios
đi lên, anh gục trên yên và, trái với ý muốn, anh dần thiếp đi mất. Anh mơ về Cecily và
Ella chạy lên xuống những ngọn đồi chẳng khác mấy ngọn núi này là mấy, gọi với theo,
Will! Tới chạy cùng đi nào, Will! Và anh mơ thấy Tessa và tay cô chìa ra với anh, và anh
biết mình không được ngừng, không được ngừng tới khi anh với đến cô. Kể cả nếu cô
không bao giờ nhìn anh thế này trong đời thực, kể cả nếu vẻ dịu dàng trong mắt cô dành
cho một người khác. Và đôi lúc, như bây giờ, tay anh sẽ nhét vào túi và nắm lấy mặt dây
chuyền ngọc bích.

Gì đó từ phía bên đập mạnh vào anh; anh buông mặt dây chuyền khi ngã huỵch xuống
nền cỏ lổn nhổn đá ở vệ đường. Tay anh đau nhói, và anh lăn sang bên vừa kịp tránh
Balios khuỵu xuống bên cạnh. Anh thở dốc, mất một lúc mới nhận ra họ không bị tấn
công. Con ngựa của anh đã kiệt sức tới không bước nổi thêm, liền gục xuống.

Will cố ngồi chống gối và bò về phía Balios. Con ngựa ô sùi bọ mép, mắt trợn ngược về
phía Will khi Will tới gần và vòng tay ôm cổ nó. Mừng là mạch đập của nó còn ổn định
và mạnh mẽ. “Balios, Balios,” anh thì thầm và gãi bờm con vật. “Tao xin lỗi. Tao không
nên cưỡi mày như thế.”

Anh nhớ hồi Henry mua lũ ngựa và và nghĩ tên cho chúng. Will là người đề nghị cái tên
Balios và Xanthos, theo tên hai con ngựa bất tử của Achilles. Hai chúng tôi có thể bay
nhanh như Zephyrus vốn được mệnh danh là cơn gió nhanh nhất.

Nhưng những con ngựa đó bất tử, còn Balios thì không. Khỏe hơn và nhanh hơn ngựa
thường, nhưng mọi sinh vật đều có giới hạn của nó. Will nằm xuống, đầu quay cuồng, và
nhìn lên bầu trời như một tấm ga xám bị kéo căng, đây đó điểm xuyết những dải mây
đen.

Một thời gian ngắn sau khi khi được cởi bỏ “lời nguyền”, trước lúc biết Jem và Tessa
đính ước, anh đã tính đưa Tessa tới Wales, để cho cô thấy nơi anh sống hồi còn thơ bé.
Anh đã nghĩ đưa cô tới Pembrokeshire, để đi vòng quanh đầu thánh David và thấy những
bông hoa mọc nơi đầu vách núi, để thấy biển xanh từ Tenby và tìm vỏ sỏ dọc theo mép
nước. Giờ tất cả dường như giống những tưởng tượng của con trẻ. Chỉ có con đường
trước mặt, anh phải tiếp tục đi và tiếp tục kiệt sức, và có lẽ cuối đường là thần chết đợi
anh.

Vỗ nhẹ vào cổ trấn an con ngựa, Will ngồi dậy rồi đứng lên. Chống lại cơn chóng mặt,
anh cà nhắc lên đồi, và nhìn xuống.

Toàn bộ trái tim anh đang gào thét bảo anh đi tiếp, hoàn thành cho xong – anh chỉ còn
cách đích đến của mình chừng hai mươi dặm – nhưng đi tiếp sẽ giết chết con ngựa và anh
cũng chẳng còn sức mà đánh đấm gì nữa. Anh quay về với Balios và vừa dụ dỗ vừa hối lộ
yến mạch, con ngựa mới chịu đứng dậy. Cầm cương trong tay và nheo mắt nhìn hoàng
hôn, anh bắt đầu dắt Balios xuống đồi, đi về phía ngôi làng.

Cái ghế Tessa ngồi có lưng cao, chạm khắc tinh tế, được đóng những cái đinh to tướng
mà đầu tù đang chọc cả vào lưng cô. Trước mặt cô là cái bàn rộng, một bên chất đầy
những sách. Ngay trước mặt cô là một tệp giấy sạch, một lọ mực và một cây bút lông
ngỗng. Bên cạnh đống giấy là cái đồng hồ quả quýt của John Shade.

Hai tên người máy to như hộ pháp đứng hai bên cô. Mortmain chẳng thèm bận tâm tạo
cho chúng hình dáng giống người. Mỗi con đều gần như hình chữ nhật thẳng đuột với hai
cánh tay thò ra từ hai bên mình, có “bàn tay” sắc như dao cạo. Chúng đã đủ đáng sợ rồi,
nhưng Tessa không thể nào kiềm cảm giác rằng nếu Will ở đây, anh sẽ nói trông chúng
giống củ cải, và hát nghêu ngao trêu tức.

“Cầm đồng hồ đi,” Mortmain nói. “Và Biến Hình.”

Ông ta ngồi đối diện, trong cái ghế khá giống ghế của cô, cũng có lưng ghế cao cong
cong như vậy. Họ đang ở trong một hang động mà cô được mấy tên người máy dắt vào;
ánh sáng duy nhất trong phòng hắt ra từ lò sưởi lớn, đủ lớn để nướng cả con bò trên đó
cũng được. Bóng tối hắt lên gương mặt đang chống trên tay của Mortmain.

Tessa cầm đồng hồ. Nó nặng và lành lạnh trong tay cô. Cô nhắm mắt.

Cô chỉ có lời hứa sẽ gửi ngân phiến đến của Mortmain làm bằng, nhưng cô vẫn tin ông ta.
Dù sao thì ông ta chẳng việc gì phải nói dối hết. Jem Carstairs sống lâu hơn một chút với
ông ta có gì khác đâu? Đó chỉ là công cụ mặc cả để ông ta điều khiển được cô, và giờ cô
phải quyết định, có muốn ngân phiến hay không.

Cô nghe tiếng Mortmain rít từng hơi qua kẽ răng, và cô nắm chặt cái đồng hồ. Nó như
đột nhiên giật lên trong tay cô, giống như đồng hồ thiên sứ đôi lần vẫn vậy, như thể nó
chứa sinh mạng. Tay cô giật lên một cái, rồi cô đột ngột Biến Hình – mà không phải do
cô chủ động hay đòi hỏi như thường lệ. Cô hít một hơi khi cảm giác Biến Hình tóm lấy
cô như một cơn cuồng phong, đẩy cô sâu xuống dưới. John Shade đột nhiên bao vây cô,
sự hiện diện của ông ta bao trùm cô. Tay cô nhói đau, và cô buông đồng hồ. Nó rơi lanh
canh xuống bàn, nhưng quá trình Biến Hình không dừng lại. Vai cô nở rộng dưới cái váy
ngủ, tay biến màu xanh, rồi màu sắc đó lan khắc cơ thể cô như gỉ đồng.

Cô ngửa đầu. Cô thấy nặng như có một trọng lượng lớn đè lên mình. Nhìn xuống, cô thấy
mình có cánh tay to khỏe của đàn ông, làn da vảy xanh, bàn tay to và cong vòng. Cô hốt
hoảng, nhưng chỉ có một điểm sáng nhỏ nhoi trong cả hố đen sâu thăm thẳm. Cô chưa
từng thấy mất phương hướng như vậy khi Biến Hình.

Mortmain ngồi thẳng dậy. Ông ta đang nhìn cô chòng chọc, đôi môi mím chặt, mắt lóng
lánh ánh sáng gian giảo. “Bố.”

Tessa không đáp. Không thể. Giọng vang từ trong cô không thuộc về cô; đó là giọng của
Shade. “Hoàng tử kim khí của ta,” Shade nói.

Mắt Mortmain càng sáng rỡ. Ông ta nhoài tới, hăm hở đẩy đống giấy về phía Tessa.
“Bố,” ông ta nói. “Con cần bố giúp, và lẹ lên. Con đã có Pyxis. Con có công cụ mở nó.
Con có đội quân người máy. Con cần câu thần chú của bố, thần chú ràng buộc. Hãy viết
đi, và con sẽ có mảnh ghép cuối cùng.”

Chút hoảng hốt trong Tessa lớn lên và mở rộng. Đây không phải cuộc đoàn viên cảm
động giữa cha và con. Đây là điều Mortmain muốn, cần từ pháp sư John Shade. Cô bắt
đầu chống cự, cố thoát khỏi phép Biến Hình, nhưng nó giữ cô chặt như gọng kìm. Kể từ
hồi Chị Em Hắc Ám dạy dỗ tới giờ, chưa bao giờ cô không thoát khỏi phép Biến Hình,
nhưng dù John Shade đã chết, cô vẫn cảm nhận được ý chí ông ta giam cầm cô trong thân
hình ông ta và buộc cơ thể đó cử động. Cô hoảng hốt thấy tay mình với lấy bút, nhúng
đầu bút vào lọ mực, rồi bắt đầu viết.

Cây bút sột soạt trên mặt giấy. Mortmain nhoài tới. Ông ta thở dốc như đang chạy. Đằng
sau ông ta, lửa cháy lách tách, đượm và đỏ cam trong lò sưởi. “Chính nó,” ông ta nói và
liếm môi dưới. “Đúng, con hiểu tác dụng của nó rồi. Cuối cùng. Chính là thế.”

Tessa chăm chú nhìn. Cái tuôn ra từ đầu bút của cô như một tràng vô nghĩa: những con
số, kí hiệu, biểu tượng cô không hiểu được. Một lần nữa cô cố chống cự, nhưng chỉ khiến
mực vảy ra trang giấy. Bút tiếp tục viết – mực, giấy, thêm những dòng chữ nguệch ngoạc.
Bàn tay cầm bút rung dữ dội, nhưng những kí hiệu tiếp tục tuôn ra. Tessa bắt đầu cắn
môi: mạnh, rồi mạnh hơn. Cô nếm thấy vị máu trong miệng. Một chút máu chảy ra giấy.
Cây bút viết băng qua đó, khiến máu nhòe trên trang giấy.

“Đúng rồi,” Mortmain nói. “Bố…”

Ngòi bút gãy, âm thanh như tiếng súng nổ, vang dội khắp hang. Bút gãy trong tay Tessa,
và cô ngồi phịch xuống ghế, kiệt sức. Màu xanh đang dần biến mất khỏi da cô, cơ thể cô
nhỏ lại, mái tóc nâu xõa xuống vai. Cô vẫn nếm thấy vị máu. “Không,” cô thở dốc và với
mấy trang giấy. ‘Không…”

Nhưng cử động của cô bị chậm đi vì đau đớn và Biến Hình, còn Mortmain lại nhanh hơn.
Cười sằng sặc, ông ta giật đám giấy dưới tay cô và đứng lên. “Rất tốt,” ông ta nói. “Cảm
ơn nhé, cô bé pháp sư của tôi. Cô đã đưa tôi tất cả mọi thứ tôi cần. Người máy, hộ tống
cô Gray trở về phòng.”

Bàn tay kim loại xoắn lấy lưng váy Tessa và kéo cô đứng lên. Thế giới dường như quay
cuồng trước mắt cô. Cô thấy Mortmain cầm cái đồng hồ vàng rơi xuống bàn lên.

Ông ta nở một nụ cười xấu xí, dữ tợn với nó. “Con sẽ khiến bố tự hào,” ông ta nói. “Chắc
chắn đấy.”

Tessa, không còn nhìn nổi nữa, bèn nhắm mắt. Mình đã làm gì thế này? Cô nghĩ khi
người máy đẩy cô rời phòng. Chúa ơi, con đã làm gì vậy?
17

NGƯỜI CAO CẢ PHẢI TỐT


Nhưng ta lại thấy

Muốn làm người cao cả phải tốt

Trái tim nhân hậu còn đáng quý hơn vương miện,

Và sự kiên trung đáng trọng hơn dòng máu Norman.

– Alfred, Lord Tennyson, Lady Clara Vere de Vere

Mái đầu đen của Charlotte đang cúi đọc một lá thư thì Gabriel vào phòng khách. Phòng
khá lạnh, lò sưởi đã tàn. Gabriel tự hỏi sao Sophie không nhóm lửa – cô ấy dành nhiều
thời gian luyện tập quá rồi. Bố anh không kiên nhẫn thế. Ông ấy thích gia nhân được
huấn luyện chiến đấu, nhưng thích dùng người đã biết võ vẽ rồi hơn.

Charlotte ngước lên. “Gabriel à?” Chị nói.

“Chị muốn gặp tôi?” Gabriel cố hết sức nói giọng bình thản. Anh không thể kìm cảm giác
đôi mắt nâu của Charlotte có thể nhìn thấu anh, như thể anh là người kính. Đôi mắt anh
liếc nhìn đống giấy tờ trên bàn chị. “Có chuyện gì thế?”

Chị lưỡng lự. “Có thư từ Quan Chấp Chính.” Miệng chị mím chặt tỏ vẻ không vui. Chị
lại nhìn xuống rồi thở dài. “Tôi chỉ muốn điều hành Học Viện này như bố mình. Tôi chưa
từng nghĩ sẽ khó khăn thế này. Tôi sẽ viết thư lại cho ông ấy, nhưng…” Chị ngừng nói,
rồi nở một nụ cười cứng đờ, thiếu chân thật. “Nhưng tôi không gọi cậu đến đây để nói
chuyện mình,” chị bảo. “Gabriel, mấy hôm nay trông cậu mệt mỏi và căng thẳng quá. Tôi
biết chúng ta đều mệt, và tôi sợ điều này sẽ khiến chúng ta phải tạm quên… tình cảnh của
cậu.”

“Tình cảnh của tôi?”

“Của bố cậu,” chị sửa lại, rồi đứng lên và tới gần anh. “Hẳn cậu rất buồn.”

“Còn Gideon?” Anh nói. “Anh ấy cũng là con trai của bố tôi mà.”

“Gideon buồn vì bố cậu từ lâu rồi,” chị nói và ngạc nhiên thay, chị chỉ cao tới khuỷu tay
anh. “Còn với cậu, nỗi đau đó còn rất mới. Chị không muốn cậu nghĩ chị đã quên.”
“Sau tất cả những chuyện đã xảy ra,” anh nói, cổ bắt đầu nghẹn lại vì bối rối – và gì đó
anh chưa xác định rõ ràng được – “sau khi Jem, Will, Jessamine và Tessa, sau khi số
người trong nhà chị giảm còn một nửa, chị không muốn tôi tin rằng chị đã quên mất tôi?”

Chị áp bàn tay lên cánh tay anh. “Những mất mát đó không làm em không mất gì…”

“Không thể nào,” anh nói. “Chị không thể lại muốn an ủi tôi. Chị muốn tìm hiểu tôi đặt
lòng tin ở bố, hay ở Học Viện…”

“Gabriel, không. Không phải vậy.”

“Tôi không thể cho chị câu trả lời chị muốn,” Gabriel nói. “Tôi không thể quên rằng ông
ấy từng ở cùng tôi. Mẹ tôi qua đời – và Gabriel bỏ đi – và Tatiana là đứa ngốc vô dụng –
và chẳng có ai khác, chẳng có ai nuôi nấng tôi, tôi chẳng có người thân nào, chỉ có bố,
chỉ hai bố con với nhau, và giờ chị, chị và Gideon, mong tôi ghét ông ấy, nhưng tôi
không thể. Ông ấy là bố tôi, và tôi…” Giọng anh run rẩy.

“Yêu ông ấy,” chị dịu dàng nói. “Cậu biết không, tôi nhớ hồi cậu còn nhỏ, và tôi còn nhớ
mẹ cậu. Và tôi nhớ anh trai cậu luôn đứng cạnh cậu. Và tay bố cậu đặt trên vai cậu.
Không biết nói thế này có giúp được gì không, nhưng tôi tin ông ấy cũng yêu cậu.”

“Cũng chẳng ích gì. Vì tôi đã giết bố mình,” Gabriel run rẩy nói. “Tôi đã bắn tên xuyên
mắt ông ấy – tôi đã khiến ông ấy đổ máu. Một kẻ giết bố…”

“Không phải. Lúc đó ông ấy không còn là bố cậu nữa.”

“Nếu đó không phải bố tôi, nếu tôi không kết liễu bố mình, vậy ông ấy đâu rồi?” Gabriel
thì thào. “Bố tôi đâu?” và cảm nhận Charlotte kéo anh xuống, ôm anh như một người mẹ,
mặc cho anh khóc trên vai chị, nếm thấy vị nước mắt trong cổ mình nhưng không sao
tuôn ra được. “Bố tôi đâu?” Anh lại nói, chị ôm chặt hơn, và anh cảm nhận được cái ôm
của chị chặt thế nào, sức mạnh chị đỡ anh, và tự hỏi sao anh lại có lúc nghĩ người phụ nữ
bé nhỏ này yếu ớt.

Gửi: Charlotte Branwell

Từ: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Cô Branwell thân mến,


Một người đưa tin cô không thể tiết lộ danh tính lúc này báo tin ư? Tôi dám đoán chẳng
có người đưa tin nào hết, tất cả đều là chuyện cô bịa đặt, một kế hoạch để thuyết phục tôi
rằng cô đã đúng.

Xin cô ngừng những lời nói vẹt ngu ngốc “Đưa quân tới Cadair Idris ngay lập tức”
giùm, và thay vào đó hãy làm tròn vai trò lãnh đạo Học Viện London. Nếu không, tôi sợ
phải cho rằng cô không phù hợp với vị trí đó, và buộc phải giải thoát cô khỏi gánh nặng
ấy.

Vì lẽ đó, tôi buộc phải yêu cầu cô đừng nói về vấn đề này thêm một lần nào nữa, và đừng
để thêm một thành viên Enclave nào cùng cô làm chuyện tốn công vô ích. Nếu tôi nghe
tin cô nói chuyện này với bất cứ một Nephilim nào khác, tôi sẽ coi đó là hành động bất
tuân mệnh lệnh nghiêm trọng nhất và sẽ xử phạt hợp lí.

Josiah Wayland, Quan Chấp Chính Clave

Sophie đã mang thư tới bàn ăn sáng cho Charlotte. Charlotte dùng dao cắt bơ rọc thư, cắt
qua dấu niêm phong của Wayland (hình móng ngựa có chữ C tượng trưng cho Quan
Chấp Chính bên dưới), và hăm hở xé tung ra đọc.

Những người còn lại quan sát, gương mặt sáng sủa, cởi mở của Henry lộ vẻ lo lắng khi
hai điểm đỏ sẫm từ từ lan trên má Charlotte khi chị đọc từng dòng từng chữ. Những
người khác ngồi im, chẳng hề động tới bữa sáng, và Cecily thấy thật lạ khi nhìn một đám
đàn ông chờ đợi phản ứng của một người phụ nữ.

Dù đám đàn ông này đã giảm quân số. Sự vắng mặt của Will và Jem như một vết thương
mới, một vết cắt ngọt còn chưa kịp ứa máu, một nỗi bàng hoàng còn quá mới khiến ta
chưa kịp cảm thấy đau đớn.

“Là gì vậy?” Henry lo lắng hỏi. “Charlotte, vợ à…”

Charlotte đọc to thư đều đều vô cảm như máy nhịp. Khi đã xong, chị bỏ thư sang bên,
mắt vẫn dán vào đó. “Chỉ là em không thể…” Chị cất tiếng. “Em không hiểu.”

Mặt Henry đỏ rực dưới những đốm tàn nhang. “Sao ông ta dám viết thư cho em như
vậy,” anh nói, với sự bực bội khiến ai nấy đều bất ngờ. “Sao ông dám nói kiểu đó, dám
gạt bỏ những quan ngại của em…”

“Có lẽ ông ấy đúng. Có lẽ ông ấy bị điên. Có lẽ tất cả chúng ta đều điên hết cả rồi,”
Charlotte nói.
“Không phải!” Cecily kêu lên, và thấy Gabriel liếc nhìn mình. Vẻ mặt anh thật khó hiểu.
Anh trông tái xanh từ lúc vào phòng ăn, và chẳng mấy nói năng hay ăn uống gì, chỉ nhìn
chằm chằm khăn trải bàn như thể nó chứa đáp án cho mọi câu hỏi trong vũ trụ này. “Ông
Chủ ở Cadair Idris. Em biết chắc.”

Gideon nhíu mày. “Tôi tin chị,” anh nói. “Tất cả đều tin chị, nhưng nếu Quân Chấp
Chính không nghe, vấn đề sẽ không được nêu ra trước Hội Đồng, và không có Hội Đồng
là chúng ta chẳng được hỗ trợ gì hết.”

“Cổng Dịch Chuyển sắp dùng được rồi,” Henry nói. “Nếu nó hoạt động, chúng ta có thể
đưa bao nhiêu Thợ Săn Bóng Tối tới Cadair Idris chỉ trong tích tắc cũng được.”

“Nhưng lấy đâu ra Thợ Săn Bóng Tối để mà dịch chuyển,” Charlotte nói. “Nghe này, ở
đây, Quan Chấp Chinh cấm em nêu vấn đề này với Enclave. Ông ấy là cấp trên của em.
Nếu em dám vượt quyền ông ấy, chúng ta có thể sẽ mất Học Viện.”

“Và?” Cecily nóng nảy hỏi. “Chị quan tâm tới vị trí của mình hơn Will và Tessa hả?”

“Cô Herondale,” Henry lên tiếng, nhưng Charlotte đã phẩy tay ngăn anh lại. Chị trông
rất mệt mỏi.

“Không, Cecily, không phải thế, nhưng Học Viện bảo vệ chúng ta. Không có nó chúng ta
càng khó giúp được Will và Tessa. Là lãnh đạo Học Viện, chị có thể hỗ trợ họ nhiều hơn
một Thợ Săn Bóng Tối nào có thể…”

“Không,” Gabriel nói. Anh đẩy đĩa ăn sang bên, và những ngón tay thon toát lên vẻ căng
thẳng và trắng bệch khi anh vung tay. “Chị không thể.”

“Gabriel?” Gideon ra giọng hỏi.

“Em sẽ không im lặng,” Gabriel nói, và đứng lên như thể hoặc định phát biểu hoặc định
bỏ đi, Cecily không rõ. Anh hướng đôi mắt xanh lá tuyệt đẹp vào Charlotte. “Ngày Quan
Chấp Chính đến đây, ngày ông ấy mang tôi và anh trai tôi đi thẩm vấn, ông ấy đã dọa
dẫm buộc chúng tôi phải do thám chị giùm ông ta.”

Charlotte tái mét. Henry dợm đứng lên. Gideon đưa tay ý van em dừng lại.

“Charlotte,” anh nói. “Chúng tôi chưa từng làm. Chúng tôi không hề nói một lời nào. À,
là không nói gì đúng sự thật,” anh sửa lại khi nhìn quanh những con người đang trố mắt
quan sát mình. “Một vài lời nói dối. Những chuyện bịa đặt. Ông ấy ngưng hỏi sau hai lá
thư. Ông ấy biết chúng chẳng có tác dụng gì.”
“Đúng thế, thưa cô,” một giọng lí nhí phát ra từ góc phòng. Sophie. Cecily chẳng mấy để
ý cô ấy ở đó, mặt mũi đã tái mét.

“Sophie!” Henry có vẻ thảng thốt khó tả. “Cô biết?”

“Vâng, nhưng…” Giọng Sophie run run. “Ông ấy dọa Gideon và Gabriel kinh lắm. Ông
ấy bảo rằng sẽ xóa tên dòng họ Lightwood khỏi thế giới Thợ Săn Bóng Tối, rằng sẽ đuổi
Tatiana ra đường. Nhưng họ vẫn chẳng nói gì. Khi ông ấy ngừng bắt họ gửi thư, tôi tưởng
ông ấy nhận ra rằng chẳng có gì để tìm hiểu và bỏ cuộc. Tôi rất xin lỗi. Tôi chỉ…”

“Cô ấy không muốn làm mọi người tổn thương,” Gideon buồn khổ nói. “Làm ơn đi, chị
Branwell. Đừng trách Sophie mà.”

“Tôi không trách,” Charlotte nói, đôi mắt đen liếc nhanh từ Gideon tới Gabriel và Sophie,
rồi ngược lại. “Nhưng hình như câu chuyện còn nữa. Phải không?”

“Thật sự chỉ có thế…” Gideon lên tiếng.

“Không phải,” Gabriel nói. “Khi em tới gặp anh, Gideon, và bảo rằng Quan Chấp Chính
không muốn chúng ta báo cáo gì thêm về Charlotte, em nói dối đấy.”

“Cái gì?” Gideon hoảng hốt.

“Ông ấy gặp một mình em vào cái ngày xảy ra vụ tấn công Học Viện,” Gabriel nói. “Ông
ấy bảo rằng nếu em phát hiện ra Charlotte làm điều gì sai trái, ông ấy sẽ trả điền sản nhà
Lightwood cho chúng ta, phục hồi danh dự cho dòng họ ta, và lấp liếm những gì bố
làm…” Anh hít một hơi sâu. “Và em bảo em sẽ làm.”

“Gabriel,” Gideon rên rẩm, và vùi mặt vào tay. Gabriel trông như sắp lả, người lảo đảo.
Cecily vừa thương vừa hoảng, nhớ cái đêm trong phòng tập, cô đã bảo rằng cô tin rằng
anh sẽ lựa chọn đúng đắn.

“Chính vì thế nên cậu hoảng hốt khi tôi gọi cậu đến nói chuyện hôm nay,” Charlotte nói,
chăm chăm nhìn Gabriel. “Cậu nghĩ tôi đã phát hiện ra.”

Henry định đứng lên, gương mặt hòa đồng, vui vẻ của anh sa sầm lộ vẻ giận dữ thật sự
mà Cecily cứ tưởng sẽ chẳng bao giờ trông thấy. “Gabriel Lightwood,” anh nói. “Vợ tôi
đã trao cho cậu sự tử tế, và cậu đền đáp thế à?”

Charlotte đặt tay giữ cánh tay chồng lại. “Henry, gượm đã,” chị bảo. “Gabriel. Cậu đã
làm gì?”
“Tôi nghe lỏm chị nói chuyện với Aloysius Starkweather,” Gabriel đờ đẫn nói. “Sau đó
tôi viết thư cho Quan Chấp Chính, nói với ông ấy rằng chị yêu cầu ông ta hành quân tới
Wales dựa trên lời của một người điên, rằng chị nhẹ dạ cả tin, quá cứng đầu…”

Mắt Charlotte đâm xuyên qua Gabriel như những cây đinh; Cecily nghĩ cô không bao giờ
muốn bị ai nhìn kiểu đó trong đời. “Cậu đã viết,” chị bảo. “Và có gửi không?”

Gabriel hít một hơi dài rệu rã. “Không,” anh nói và cho tay vào tay áo. Anh rút ra một tờ
giấy gấp tư và bỏ xuống bàn. Cecily chăm chú nhìn nó. Nó dính vết vân tay và quăn mép,
như thể bị gấp rồi gỡ nhiều lần. “Tôi không thể. Tôi chưa hề nói gì với ông ta.”

Cecily không nhận ra mình nín thở nãy giờ.

Sophie kêu một tiếng khe khẽ; cô ấy tiến về phía Gideon, người trông như đang phục hồi
sau khi lĩnh một cú đấm vào bụng. Charlotte vẫn bình tĩnh như thường lệ. Chị đưa tay,
cầm lá thư, xem xét rồi lại bỏ xuống bàn.

“Sao cậu không gửi?” Chị nói.

Gabriel nhìn chị, giữa hai người có một ánh nhìn đồng cảm lạ lùng, rồi nói, “Tôi có lí do
để cân nhắc lại.”

“Vì sao em không hỏi anh?” Gideon nói. “Gabriel, em là em anh…”

“Anh không thể thay em lựa chọn tất cả, Gideon. Đôi lúc em phải tự mình quyết định.
Thợ Săn Bóng Tối có nghĩa vụ phải hết lòng vì mọi người. Chết vì người phàm, vì Thiên
Thần, và hơn hết là vì nhau. Đấy là lẽ sống của chúng ta. Charlotte sống dựa vào chúng;
còn bố thì không. Em nhận ra mình đang sai khi chọn đặt lòng tin vào gia đình trên lẽ
sống của chúng ta, trên tất cả. Và em nhận ra Quan Chấp Chính đã sai về Charlotte.”
Gabriel đột ngột ngừng lời; miệng mím chặt tới trắng bệch. “Charlotte, tôi không thể sửa
những gì đã làm trong quá khứ, hay những chuyện tôi định làm. Tôi biết mình chẳng thể
làm gì để đền đắp cho những nghi ngờ của tôi về khả năng của chị, hay sự vô ơn với lòng
tốt của chị. Tôi chỉ có thể nói tất cả những gì mình biết mà thôi: rằng chị không thể đợi sự
đồng thuận của Quan Chấp Chính Wayland, vì sẽ không bao giờ có đâu. Ông ấy sẽ không
bao giờ nghe lời chị mà đưa quân tới Cadair Idris. Ông ấy không muốn đồng ý với bất cứ
kế hoạch gì dính dáng tới chị. Ông ấy chỉ ước chị rời Học Viện. Bị thay thế.”

“Nhưng chính ông ấy đã đưa chị vào vị trí này,” Charlotte nói. “Ông ấy ủng hộ chị…”

“Vì ông ấy nghĩ chị yếu đuối,” Gabriel nói. “Vì ông ấy tin phụ nữ yếu đuối và dễ thao
túng, nhưng chị lại chứng tỏ điều ấy là sai, và nó phá hỏng hết kế hoạch của ông ấy. Ông
ấy không chỉ muốn chị mất uy tín thôi đâu; ông ấy còn cần như thế. Ông ấy đã nói rõ với
tôi rằng nếu tôi không thể phát hiện chị dính líu đến chuyện gì sai trái, ông ấy cho tôi
quyền bịa ra gì có thể kết tội chị. Chỉ cần chuyện đó thuyết phục.”

Charlotte mím môi. “Vậy ông ấy chưa từng tin chị,” chị thì thầm. “Chưa từng.”

Henry nắm chặt cánh tay chị. “Nhưng ông ấy nên tin,” anh nói. “Ông ấy đánh giá thấp
em, và đó không phải bi kịch. Vì em đã chứng tỏ mình có năng lực hơn, mạnh hơn người
ta tưởng, Charlotte – đó là thắng lợi đấy.”

Charlotte nuốt nước bọt, và Cecily tự hỏi, chỉ trong một khoảnh khắc, sẽ thế nào nếu có
ai đó nhìn cô như Henry nhìn Charlotte – như thể chị là kì quan trên thế giới. “Em phải
làm gì?”

“Điều gì em nghĩ là đúng đắn nhất, Charlotte yêu dấu,” Henry nói.

“Chị là lãnh đạo Enclave, và Học Viện,” Gabriel nói. “Chúng tôi đặt niềm tin nơi chị, kể
cả khi Quan Chấp Chính không tin.” Anh nghiêng đầu. “Tôi trung thành với chị kể từ giờ
phút này. Vì chị xứng được nhận nó.”

“Rất cảm ơn cậu,” Charlotte nói và có gì đó trong giọng chị, một uy quyền ngầm khiến
Cecily muốn đứng lên và bày tỏ lòng trung thành của mình, đơn giản chỉ để được
Charlotte đồng ý. Cecily không thể tưởng tượng mình sẽ có cảm giác đó, cô nhận ra, về
Quan Chấp Chính. Và đó là lí do Quan Chấp Chính ghét chị, cô nghĩ. Vì chị là phụ nữ,
nhưng ông ấy biết chị có thể lấy được lòng trung thành của mọi người theo cách ông ta
không thể. “Chúng ta sẽ tiến hành như Quan Chấp Chính không tồn tại,” Charlotte tiếp
tục. “Nếu ông ấy quyết trục xuất chị khỏi vị trí này, vậy chị chẳng thể làm gì. Chúng ta
phải làm điều cần làm trước khi ông ấy có cơ hội ngăn chúng ta. Henry, bao giờ phát
minh của anh dùng được?”

“Mai,” Henry hồ hởi nói. “Anh sẽ làm việc thông đêm…”

“Đây là lần đầu tiên nó được sử dụng,” Gideon nói. “Có hơi nguy hiểm chăng?”

“Chúng ta không còn cách nào để đến Wales kịp thời,” Charlotte nói. “Một khi tôi gửi
thư, chúng ta chỉ có một chút thời gian trước khi Quan Chấp Chính tới tước quyền khỏi
tay tôi.”

“Thư gì?”

“Tôi sẽ gửi thư cho toàn thể Clave,” Charlotte nói. “Ngay lập tức. Không phải chỉ cho
Enclave. Mà là Clave.”
“Nhưng chỉ Quan Chấp Chính mới được quyền…” Henry mở miệng, rồi ngậm chặt lại.
“À.”

“Nhưng tôi sẽ nói rõ tình hình và xin họ giúp sức,” Charlotte nói. “Tôi không chắc chúng
ta sẽ nhận được những phúc đáp ra sao, nhưng chắc chắn có người sẽ đứng về phía chúng
ta.”

“Em sẽ đứng về phía chị,” Cecily nói.

“Và cả tôi nữa,” Gabriel nói. Vẻ mặt anh buồn bã, lo lắng, băn khoăn, quyết tâm. Chưa
bao giờ Cecily thích anh đến thế.

“Và tôi nữa,” Gideon nói, “dù” – và ánh mắt anh nhìn em trai lộ vẻ lo lắng – “chỉ có sáu
chúng ta, một người lại chưa được huấn luyện ra hồn, chống lại một lực lượng do
Mortmain tạo ra…” Cecily vừa mừng rằng anh tính cô vào hàng ngũ vừa bực vì anh bảo
cô chưa được huấn luyện ra hồn. “Đây có thể là nhiệm vụ cảm tử.”

Giọng nhẹ nhàng của Sophie lại vang lên. “Cô có thể chỉ có sáu Thợ Săn Bóng Tối về phe
mình, nhưng cô có ít nhất chín chiến binh. Tôi cũng được huấn luyện, và tôi muốn được
chiến đấu cùng cô. Bridget và Cyril cũng thế.”

Charlotte nửa hài lòng nửa hoảng hốt. “Nhưng, Sophie, cô chỉ mới được huấn luyện…”

“Tôi được huấn luyện lâu hơn cô Herondale,” Sophie nói.

“Cecily là Thợ Săn Bóng Tối…”

“Cô Collins là nhân tài,” Gideon nói. Anh nói chậm, vẻ phân vân hiện rõ trên gương mặt
anh. Anh không muốn Sophie tham chiến, nhưng không thể dối gạt về khả năng của cô
ấy. “Cô ấy nên được Tiến Cấp và trở thành Thợ Săn Bóng Tối.”

“Gideon…” Sophie giật mình, nhưng Charlotte đã nhìn cô với vẻ quan tâm.

“Sophie, cô muốn vậy à? Được Tiến Cấp đó?”

Sophie lắp bắp. “Tôi… đó là điều tôi luôn muốn, cô Branwell, nhưng không phải tôi
không muốn phục vụ cô nữa. Cô luôn tử tế với tôi, tôi không muốn đền đáp cô bằng cách
bỏ đi…”

“Vớ vẩn,” Charlotte nói. “Tôi có thể tìm người hầu khác, nhưng không tìm được một
Sophie khác. Nếu cô muốn là Thợ Săn Bóng Tối, cô gái à, tôi ước gì cô nói ra. Tôi có thể
tới gặp Quan Chấp Chính trước khi có hiềm khích với ông ta như bây giờ. Nhưng, khi
chúng ta trở về…”
Chị ngừng lời, và Cecily nghe ra một câu khác: Nếu chúng ta còn trở về.

“Khi chúng ta trở về, tôi sẽ đề đạt để cô được Tiến Cấp,” Charlotte nói hết câu.

“Tôi cũng sẽ nói giùm cô ấy,” Gideon nói. “Dù gì tôi cũng biết vài người quen của bố
trong Hội Đồng – bạn bè của ông ấy sẽ nghe tôi; họ vẫn phải giúp đỡ gia đình tôi – và
hơn nữa, không thì làm sao chúng tôi kết hôn được?”

“Cái gì?” Gabriel hoảng hốt vung tay, chẳng may quệt phải một cái đĩa gần nhất xuống
đất, làm nó vỡ tan tành.

“Kết hôn?” Henry nói. “Cậu muốn kết hôn với bạn bố em tại Hội Đồng? Ai?”

Gideon tái mặt đến là lạ; rõ ràng anh không định nói ra, và anh không biết giờ phải làm
gì. Anh hoảng hốt chăm chú nhìn Sophie, nhưng có vẻ cô chẳng giúp nổi anh. Trông cô
cũng đờ ra như cá mắc cạn.

Cecily đứng lên và bỏ khăn ăn xuống đĩa. “Được rồi,” cô nói, cố hết sức bắt chước giọng
uy quyền mẹ thường dùng khi cần làm gì đó trong nhà. “Mọi người rời phòng.”

Charlotte, Henry, và Gideon đứng lên. Cecily giơ tay lên trời. “Không phải anh, Gideon
Lightwood,” cô nói. “Thật đấy à! Nhưng anh” – cô chỉ Gabriel – “ngừng nhìn đi. Và ra
ngoài.” Và tóm áo anh, cô lôi anh ra khỏi phòng, Henry và Charlotte theo sát sau.

Ngay khi họ rời phòng ăn, Charlotte sải bước vào phòng khách tuyên bố để viết thư cho
Clave, Henry sóng bước bên cạnh. (Chị ngừng lại tại chỗ hành lang rẽ ngoặt để ngoái
nhìn Gabriel, khóe miệng hơi nhếch, nhưng Cecily không nghĩ anh trông thấy.) Nhưng
Cecily nhanh chóng gạt bỏ nó khỏi đầu. Cô đang bận áp tai vào cửa phòng ăn, cố nghe
lỏm chuyện bên trong.

Gabriel, sững sờ một lát, dựa vào cạnh cửa. Mặt anh hết trắng lại đỏ, đôi đồng tử nở ra vì
choáng. “Cô không nên làm thế,” cuối cùng anh nói. “Nghe trộm là xấu đó, cô
Herondale.”

“Đấy là anh trai anh cơ mà,” Cecily thì thào, tai vẫn dán vào cửa. Cô có thể nghe những
tiếng lào xào bên trong nhưng không rõ. “Tôi tưởng anh muốn biết.”

Anh đưa cả hai tay lên vuốt tóc và thở dài như một người vừa chạy cả quãng đường dài.
Rồi anh quay sang nhìn cô và rút thanh stele khỏi túi gi-lê. Anh vạch vội một chữ rune tại
cổ tay, rồi áp bàn tay vào cửa. “Cái đó thì có.”
Ánh mắt Cecily chuyển từ tay lên vẻ mặt trầm ngâm của anh. “Anh nghe được hả?” Cô
hỏi. “Thế không công bằng!”

“Chuyện lãng mạn lắm,” Gabriel nói, rồi nhíu mày. “Ồ, chắc phải thế, nếu anh trai tôi nói
được ra thành tiếng chứ không phải cứ như ếch nghẹn cổ thế. Tôi sợ anh ấy sẽ đi vào lịch
sử như một trong những anh chàng tán gái hay nhất quả đất.”

Cecily khoanh tay tỏ vẻ bực tức. “Tôi không hiểu sao anh phải khó khăn thế,” cô nói.
“Hay anh ngại chuyện anh trai anh muốn kết hôn cùng một cô hầu gái?”

Vẻ mặt Gabriel nhìn cô thật dữ tợn, và Cecily đột nhiên hối hận vì đã trêu chọc anh sau
chuyện vừa qua. “Anh ấy chẳng thể làm gì tệ hơn bố tôi. Ít nhất anh ấy còn thích con gái
loài người.”

Nhưng thật khó mà không trêu anh. Anh quá hung hăng mà. “Quả là một lời tán dương
tuyệt cú mèo cho một cô gái tốt như Sophie.”

Gabriel trông như định đáp trả bằng một câu mỉa máy ra trò, nhưng rồi nghĩ lại. “Tôi
không có ý đó. Cô ấy tốt và sẽ là một Thợ Săn Bóng Tối tốt khi Tiến Cấp. Cô ấy sẽ mang
lại vinh quang cho gia đình chúng tôi, và Thiên Thần biết chúng tôi cần điều đó.”

“Tôi tin anh cũng sẽ mang vinh quang về cho gia đình mình,” Cecily bình thản nói. “Điều
anh vừa làm, chuyện anh thú nhận với Charlotte – cần phải can đảm lắm đấy.”

Gabriel im lặng một hồi. Rồi anh chìa tay ra với cô. “Nắm tay tôi,” anh nói. “Cô sẽ nghe
được chuyện trong phòng ăn, qua tôi, nếu muốn.”

Sau một thoáng lưỡng lự, Cecily cầm tay Gabriel. Tay anh ấm và ráp. Cô cảm nhận được
nhịp máu chảy qua da anh, có tác dụng trấn an không ngờ – và quả thật, qua anh, như thể
cô đang dán tai vào cửa, cô nghe được những giọng nói: giọng dè dặt dịu dàng của
Gideon, và giọng thanh thanh của Sophie. Cô nhắm mắt lắng nghe.

“Ôi,” Sophie nói khẽ, và ngồi xuống một cái ghế. “Ôi trời ơi.”

Cô không thể không ngồi; chân cô mềm đi và khó mà đứng nổi. Trong khi đó, Gideon,
đang đứng bên tủ, lộ vẻ hoảng hốt. Mái tóc nâu vàng của anh rối bù như thể anh vừa vuốt
tóc. “Cô Collins thân yêu…” anh lên tiếng.

“Đấy,” Sophie nói, rồi dừng. “Tôi không… Quá bất ngờ.”
“Thật à?” Gideon rời tủ và dựa vào bàn, cái áo sơ mi được xắn tay một chút, và Sophie
nhìn chằm chằm cổ tay anh, lơ thơ lông vàng nhạt và có những vết sẹo của Ấn Ký cũ.
“Chắc chắn cô phải thấy tình cảm và sự tôn trọng tôi dành cho cô. Sự ngưỡng mộ.”

“À,” Sophie nói. “Ngưỡng mộ.” Cô cố nói ra vẻ đó là một từ rất bình thường.

Gideon đỏ mặt. “Cô Collins yêu quý,” anh lại nói. “Đúng là tình cảm của tôi dành cho cô
còn hơn cả ngưỡng mộ. Tôi có thể mô tả đó là cảm xúc nồng nàn nhất. Sự tử tế, vẻ đẹp,
tấm lòng rộng lượng của cô – chúng chinh phục tôi, và chính vì thế mà tôi hành động như
sáng nay. Tôi không biết mình bị sao nữa khi nói ra ước muốn thiết tha nhất của lòng
mình. Làm ơn đừng miễn cưỡng chấp nhận lời cầu hôn của tôi vì tôi nói ra trước mặt
nhiều người. Chính tôi mới phải xấu hổ.”

Sophie ngước nhìn anh. Đôi má anh ửng đỏ, cho thấy rõ anh đang bối rối. “Nhưng anh
không hề cầu hôn.”

Gideon giật mình. “Tôi… Sao cơ?”

“Anh không hề cầu hôn,” Sophie bình thản nói. “Anh chỉ tuyên bố trước bàn ăn rằng anh
muốn lấy tôi, nhưng đó không phải lời cầu hôn. Đó là lời tuyên bố. Cầu hôn là anh phải
hỏi cưới tôi cơ.”

“Giờ anh tôi khổ rồi đây,” Gabriel nói, tỏ vẻ hí hửng như cậu em thường tỏ ra khi anh chị
mình bị cứng họng.

“Thôi, im nào!” Cecily thì thào và bóp chặt tay anh. “Tôi muốn nghe anh Lightwood nói
sao!”

“À,” Gideon nói, và với vẻ quyết tâm (dù hơi run) của thánh George trước khi đánh rồng.
“Tôi sẽ cầu hôn.”

Mắt Sophie nhìn theo anh đi về phía mình và quỳ xuống trước chân cô. Cuộc đời thật bấp
bênh, và có những khoảnh khắc ta muốn ghi nhớ, muốn in sâu vào đầu óc, như bông hoa
được ép trong những trang sách, để chiêm ngưỡng và nhìn nó như mới.

Cô biết cô sẽ không bao giờ quên cách Gideon đưa bàn tay run rẩy nắm tay cô, hay cách
anh cắn môi trước khi nói. “Cô Collins yêu quý,” anh nói. “Làm ơn tha thứ cho những lời
nói sỗ sàng khi trước của tôi. Đó chỉ là vì tôi quá… quá quý mến – không, không phải
quý mến, mà là yêu thương cô. Từ khi bước chân vào căn nhà này, tôi đã bị ấn tượng sâu
sắc vì vẻ đẹp, lòng can đảm, và sự cao quý của cô. Được có cô là vinh hạnh tôi không
xứng đáng có nhưng luôn ao ước – rằng, nếu cô đồng ý làm vợ tôi.”

“Tuyệt,” Sophie nói, giật mình không còn bình tĩnh được nữa. “Anh tập trước rồi à?”

Gideon chớp mắt. “Tôi chắc chắn đấy hoàn toàn là ứng xuất.”

“Rất hay.” Sophie bóp tay anh. “Và vâng. Vâng, em yêu anh, và vâng, em sẽ kết hôn với
anh, Gideon.”

Một nụ cười tươi sáng bừng lên trên gương mặt anh, và anh khiến cả hai giật mình khi
hôn mạnh lên môi cô. Cô đưa tay ôm mặt anh khi họ hôn – anh thoang thoảng vị lá trà
môi anh mềm và nụ hôn thật ngọt ngào. Sophie trôi trong đó, trong khoảnh khắc đó, cảm
thấy được bảo bọc an toàn khỏi thế giới.

Cho tới khi giọng hát của Bridget phá tan hạnh phúc của cô, não nề vang ra từ phòng bếp.

“Thứ ba đám cưới diễn ra

Đến ngày thứ sáu, cả hai chết rồi

Họ được chôn bên nhau trong sân nhà nguyện,

Ôi, tình yêu,

Họ được chôn bên nhau trong sân nhà nguyện.”

Thật chẳng muốn buông Gideon ra, Sophie đứng lên và phủi váy. “Xin tha lỗi cho em,
anh Lightwood yêu quý – ý em là Gideon – nhưng em phải đi giết đầu bếp thôi. Em sẽ
quay lại ngay.”

“Ố ồ,” Cecily thở ra. “Quá lãng mạn!”

Gabriel bỏ tay khỏi cửa và mỉm cười với cô. Gương mặt anh thay đổi khá nhiều khi anh
cười: mọi đường nét góc cạnh mềm mại đi, và đôi mắt anh chuyển từ màu băng đá sang
màu cỏ dưới nắng xuân. “Cô khóc đấy à, cô Herondale?”

Cô chớp hàng mi ướt, đột nhiên ý thức tay mình vẫn nằm trong tay anh – cô có thể cảm
nhận nhịp đập nhè nhẹ ở nơi cổ tay hai người kề nhau. Anh nhoài tới, và cô ngửi thấy
hương sớm mai trên người anh: mùi trà và xà phòng cạo râu…
Cô vội vàng gạt suy nghĩ đó di, và rút tay khỏi tay anh. “Cảm ơn đã cho tôi nghe cùng,”
cô nói. “Tôi phải… tôi cần đến thư viện. Có chuyện tôi phải làm trước ngày mai.”

Mặt anh nhăn lại tỏ vẻ bối rối. “Cecily…”

Nhưng cô đã vội vàng đi mất, không quay đầu lại.

Gửi: Edmund và Linette Herondale

Trang viên Ravenscar

West Riding, Yorkshire

Bố mẹ kính yêu,

Con đã biết bao lần viết thư nhưng chưa từng gửi. Lúc đầu vì con thấy có lỗi. Con biết
con là cô gái hư, ương ngạnh khi chọn bỏ nhà đi, và con không thể nói ra việc sai trái
của mình trên giấy trắng mực đen.

Sau đó, con nhớ nhà vô cùng. Con nhớ bố mẹ nhiều lắm. Con nhớ những ngọn đồi xanh
rì dốc lên từ trang viên, đồng hoang luôn tím sắc hoa vào mùa hè, và mẹ hát ngoài vườn.
Ở đây thời tiết lạnh lẽo, toàn những sắc đen, nâu và xám, sương mù bí bách và không khí
khó thở. Con nghĩ con sẽ chết vì cô độc, nhưng con biết nói sao với bố mẹ nhỉ? Sau cùng,
đây là do con chọn mà.

Và sau đó và buồn bã. Con định tới đưa Will cùng về, để anh thấy bổn phận của anh là ở
đâu, và đưa anh ấy về nhà. Nhưng Will có quan niệm riêng về bổn phận, danh dự, và
những lời anh ấy đã hứa. Và con dần nhận ra mình không thể đưa một người về nhà khi
họ đã ở nhà rồi. Và con không biết phải nói cho bố mẹ ra sao.

Rồi sau đấy, con thấy hạnh phúc. Bố mẹ nghe có thể thấy lạ, đến con còn thấy thế nữa là,
nhưng con sẽ không thể về nhà vì con đã tìm được sự mãn nguyện. Khi con được học làm
Thợ Săn Bóng Tối, con cảm nhận được sự rung động trong huyết quản, cũng giống như
sự rung động mẹ thường nói mỗi khi chúng ta từ Welshpool tới thung lũng Dyfi. Với dao
thiên thần trong tay, con không còn chỉ là Cecily Herondale, cô em út, con gái của bố
mẹ, rồi một ngày sẽ kết hôn với một người đàn ông tốt rồi sinh con đẻ cái nữa. Con là
Cecily Herondale, Thợ Săn Bóng Tối, và con là một con người cao quý và vinh quang.
Vinh quang. Thật là một từ lạ lùng, một điều phụ nữ không nên muốn, nhưng đó không
phải thắng lợi của nữ hoàng chúng ta sao? Không phải Nữ hoàng Bess 17 gọi là Nữ hoàng
Vinh Quang sao?

Nhưng sao con có thể nói với bố mẹ rằng con chọn vinh quang chứ không chọn bình yên
mà bố mẹ khó khăn lắm mới có được khi rời Clave để đem lại cho con? Sao con có thể
nói mình hạnh phúc được là Thợ Săn Bóng Tối mà không làm bố mẹ phiền muộn? Đây là
cuộc đời bố mẹ xa lánh, cuộc đời không hiểm nguy bố mẹ luôn cố gắng dành cho anh
Will, con và chị Ella. Sao con có thể nói mà không làm bố mẹ đau lòng?

Giờ – giờ con hiểu rồi. Con nhận ra yêu một người hơn cả chính mình là sao. Con nhận
ra điều bố mẹ luôn muốn, không phải là con giống bố mẹ, mà là con được hạnh phúc. Và
bố mẹ cho con – cho chúng con – một lựa chọn. Con thấy những người lớn lên trong môi
trường Clave, những người chưa được quyền lựa chọn mình muốn gì, và con thấy mình
thật sung sướng được quyền chọn cuộc đời này rất khác với sinh ra đã phải sống cuộc
đời này. Cuộc đời của Jessamine Lovelace đã dạy con điều đó.

Còn về phần anh Will, và đưa anh về: Con biết, mẹ ạ, mẹ sợ Thợ Săn Bóng Tối sẽ rút
sạch tình yêu khỏi người con trai dịu dàng của mẹ. Nhưng anh ấy được yêu và đang yêu.
Anh ấy không hề thay đổi. Và anh ấy cũng yêu bố mẹ, như con. Hãy nhớ con, vì con luôn
nhớ bố mẹ.

Con gái yêu của bố mẹ,

Cecily

Gửi: Thành viên Clave của Nephilim

Từ: Charlotte Branwell

Thân gửi các chiến hữu của tôi,

Tôi rất buồn nhưng buộc phải thông báo với toàn thể quý vị rằng dù tôi đã báo cho Quan
Chấp Chính Wayland những bằng chứng rành rành được một Thợ Săn Bóng Tối của tôi
cung cấp rằng Mortmain, mối đe dọa lớn nhất mà Nephilim từng phải đối diện, đang ngụ
tại Cadair Idris, Wales – Quan Chấp Chính đáng kính của chúng ta vẫn nhất mực tảng lờ
thông tin kia. Về phần tôi, tôi nhận thấy biết được hang ổ và cơ hội đập tan kế hoạch tiêu
diệt chúng ta của Mortmain là điều quan trọng bậc nhất.

17
Tên gọi nữ hoàng Elizabeth I của Anh (1533-1603).
Nhờ một phương tiện do chồng tôi, nhà phát minh tiếng tăm Henry Branwell tạo ra, Thợ
Săn Bóng Tối thuộc quyền tôi tại Học Viện Luân Đôn có thể nhanh chóng tới Cadair
Idris, để dùng mạng mình cố ngăn chặn Mortmain. Tôi rất buồn phải để Học Viện rơi
vào cảnh không người bảo vệ, nhưng nếu Quan Chấp Chính Wayland chịu làm gì, tôi rất
mong ông ấy sẽ đưa lính gác tới bảo vệ tòa nhà trống. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ có chín
người, ba trong số đó không phải Thợ Săn Bóng Tối mà chỉ là những người phàm quả
cảm được Học Viện huấn luyện và đã tình nguyện chiến đấu cùng chúng tôi. Tôi không
dám nói chúng tôi nắm được nhiều phần thắng, nhưng tôi tin có cố gắng vẫn hơn.

Rõ ràng tôi không thể thúc ép quý vị. Như Quan Chấp Chính Wayland đã nhắc nhở tôi,
tôi không ở vị trí được quyền ra lệnh cho lực lượng Thợ Săn Bóng Tối, nhưng tôi rất vui
mừng nếu có ai đồng ý với tôi rằng chúng ta phải chiến đấu với Mortmain và chiến đấu
ngay, xin người ấy hãy tới Học Viện Luân Đôn vào trưa mai và góp sức giúp chúng tôi.

Chân thành,

Charlotte, lãnh đạo Học Viện Luân Đôn


18

CHỈ VÌ NÓ
Chỉ vì nó tôi trút lên thần chết,

Nỗi giận chất đầy tim tôi:

Hắn khiến chúng ta xa xôi cách trở

Đến độ mà không nghe được giọng nhau.

– Alfred, Lord Tennyson, In Memoriam A.H.H.

Tessa đứng bên rìa một vách núi tại một đất nước xa lạ. Những ngọn đồi xung quanh
xanh rì, đổ dốc đứng xuống thành các vách đứng về phía biển xanh. Lũ chim biển lượn
vòng và kêu chao chát trên cao. Một con đường mòn đất xám như rắn chạy ngoằn ngoèo
dọc rìa vách. Trước mắt cô, đứng trên đường đất, là Will.

Anh mặc đồ đi săn tuyền đen, và khoác cái áo bành tô đen dài, lấm tấm bùn ở gấu áo như
thể anh đã cuốc bộ cả một chặng dài. Anh không đội mũ cũng chẳng đeo găng, và mái
tóc đen rối bù vì gió biển. Gió cũng thổi tung tóc Tessa, mang theo mùi muối và nước
biển, mùi những sinh vật ướt át sinh trưởng bên mép nước, mùi nhắc cô nhớ tới cuộc hải
trình trên tàu Main.

“Will!” Cô gọi. Ở anh tỏa ra sự cô độc, như Tristan nhìn ra biển Ireland tìm bóng tàu sẽ
đưa Isolde về lại với anh18. Will không hề quay lại khi nghe cô gọi, chỉ giơ tay, cái áo
khoác bay phần phật trong gió về phía sau như đôi cánh.

Nỗi sợ lớn lên trong cô. Isolde đã tới tìm Tristan, nhưng quá trễ. Anh đã chết vì đau
buồn. “Will!” Cô lại gọi.

Anh bước khỏi vách đá. Cô lao tới bên rìa vách và nhìn xuống, nhưng chẳng có gì hết,
ngoài những con sóng xanh xám và bọt tung trắng xóa. Thủy triều dường như mang
giọng anh tới tai cô theo từng gợn sóng. “Tỉnh dậy, Tessa. Tỉnh dậy.”

“Tỉnh dậy, cô Gray. Cô Gray!”

18
Hai nhân vật chính trong vở opera Tristan và Isolde ba màn của nhà soạn kịch người Đức Richard Wagner (1813-
1883).
Tessa bật dậy. Cô đã ngủ gật trên ghế cạnh lò sưởi trong nhà giam nhỏ của mình; một tấm
chăn xanh thô sần được đắp lên người cô, dù cô không nhớ mình có thứ đó. Căn phòng
sáng rực ánh đuốc và than trong lò cháy lom rom. Thật khó mà phân biệt giờ là đêm hay
ngày.

Mortmain đứng ngay trước cô, và bên cạnh ông ta là một người máy. Nó là con trông
giống người hơn mà Tessa từng trông thấy. Nó còn mặc quần áo, chứ không như nhiều
con khác, với áo trấn thủ và quần vải. Bộ đồ khiến cái đầu nhô ra từ phần cổ cứng quèo
trông phi tự nhiên hơn, với vẻ mặt trơn láng và cái đầu kim loại trọc lốc. Và mắt nó – cô
biết chúng bằng thủy tinh và pha lê, đôi đồng tử đỏ trong ánh lửa, nhưng cách chúng nhìn
xoáy vào cô…

“Cô bị lạnh,” Mortmain nói.

Tessa thở ra một luồng khói trắng. “Sự đón tiếp nồng nhiệt của ông thật quý hóa quá.”

Ông ta cười mím môi. “Rất hay.” Bản thân ông ta đang mặc một chiếc áo khoác lông cừu
dày bịch bên ngoài bộ vét xám, trông giống doanh nhân hơn bao giờ hết. “Cô Gray, tôi
không phải tự dưng đánh thức cô dậy. Tôi tới vì muốn cô thấy sự giúp đỡ của cô với kí
ức của bố tôi cho phép tôi hoàn thành điều gì.” Ông ta tự hào chỉ người máy đứng cạnh.

“Một người máy khác?” Tessa hờ hững hỏi.

“Ôi tôi thất lễ quá.” Mắt Mortmain liếc nhìn sinh vật kia. “Tự giới thiệu đi.”

Miệng tạo vật kia há ra; Tessa thoáng thấy ánh đồng. “Tôi là Armaros,” nó bảo. “Suốt cả
tỉ năm, tôi cưỡi những con gió của các đại địa ngục giữa nhiều thế giới. Tôi đã đánh một
trận với Jonathan Thợ Săn Bóng Tối trên cánh đồng Brocelind. Tôi bị nhốt hơn một
nghìn năm tiếp theo trong Pyxis. Giờ chủ nhân trả tự do cho tôi và tôi sẽ phục vụ ngài.”

Tessa đứng lên, cái chăn trượt xuống dưới chân cô, nhưng cô mặc kệ. Người máy đang
quan sát cô. Mắt nó – mắt nó chứa đựng sự tinh ranh gian xảo, một trí tuệ cô chưa từng
thấy một người máy nào sở hữu.

“Cái gì đây?” Cô thì thào hỏi.

“Một cơ thể người máy chứa đựng linh hồn quỷ. Cư dân Thế Giới Ngầm đã tìm được
cách thu năng lượng quỷ để sử dụng. Tôi dùng chính năng lượng quỷ để khiến đám người
máy cô từng thấy hoạt động. Nhưng Armaros và những anh em của hắn lại khác. Chúng
là quỷ trong xác người máy. Chúng biết suy nghĩ và phân tích. Chúng không dễ bị lừa
đâu. Và chúng khó giết lắm.”
Armaros đưa tay sang bên người – Tessa không thể nào không để ý chuyện nó cử động
trơn tru, nhịp nhàng, không hề giật cục như những người máy cô từng thấy. Nó cử động
như người. Nó rút thanh kiếm đeo bên sườn và đưa cho Mortmain. Lưỡi kiếm đầy những
chữ rune Tessa đã quen thuộc sau vài tháng qua, những chữ rune trang trí trên vũ khí của
mọi Thợ Săn Bóng Tối. Những chữ rune khiến chúng trở thành vũ khí của Thợ Săn Bóng
Tối. Những chữ rune trí mạng với quỷ. Armaros đáng ra còn không dám nhìn thanh kiếm
kia, chứ đừng nói là cầm nó.

Bụng dạ cô quặn thắt. Con quỷ đưa kiếm cho Mortmain, và ông ta dùng nó thuần thục
như một sĩ quan hải quân lâu năm. Ông ta xoay kiếm, đâm thẳng vào ngực con quỷ.

Có tiếng kim loại bị xé toạc. Tessa đã quen thấy người máy co rúm khi bị tấn công, hoặc
đổ dầu đen, hoặc loạng choạng. Nhưng con quỷ đứng nguyên tại chỗ, không chớp mắt
cũng chẳng nhúc nhích, như một con thằn lằn dưới nắng. Mortmain xoáy mạnh chuôi
kiếm, và rút ra.

Lưỡi kiếm hóa tro, như thanh củi bị đốt trong lửa.

“Cô thấy chưa?” Mortmain nói. “Chúng là đội quân được sinh ra để tiêu diệt Thợ Săn
Bóng Tối.”

Armaros là người máy duy nhất Tessa thấy có thể mỉm cười; cô còn không hề biết gương
mặt chúng được thiết kế để hoàn thành chuyển động đó. Con quỷ bảo, “Chúng đã giết
chết rất nhiều quỷ chúng tôi. Tôi rất sung sướng được giết chết tất cả bọn chúng.”

Tessa nuốt nước bọt nhưng cố không để Ông Chủ thấy. Ánh mắt ông ta cứ liếc từ cô sang
người máy quỷ, và cô rất khó mà nói ông ta vui sướng khi nhìn ai hơn. Cô muốn hét,
muốn lao vào cào nát bản mặt ông ta. Nhưng bức tường vô hình ngăn cách họ, khẽ rung
động, và cô biết mình không thể đập tan nó.

Ồ, cô không chỉ là cô dâu của ông ấy đâu, cô Gray, bà Black đã nói thế. Cô sẽ là người
đưa Nephilim đến ngày tàn. Đó là lí do cô có mặt trên cõi đời.

“Thợ Săn Bóng Tối sẽ không dễ bị tiêu diệt,” cô nói. “Tôi đã thấy họ xẻ nát đám người
máy của ông. Có lẽ những kẻ này không bị vũ khí rune của họ gây hề hấn, nhưng bất cứ
vũ khí nào cũng có thể xẻ kim loại và cắt dây đồng.”

Mortmain nhún vai. “Thợ Săn Bóng Tối không quen chiến đấu với những tạo vật không
xi nhê với vũ khí rune của họ. Thế nên họ sẽ chậm lại. Và có vô số người máy như thế
này. Đấy chẳng khác nào ngăn thủy triều dâng.” Ông ta nghiêng đầu. “Giờ cô thấy phát
minh của tôi tuyệt diệu thế nào chưa? Nhưng tôi phải cảm ơn cô, cô Gray, vì cô đã cho
tôi mảnh ghép cuối cùng. Tôi nghĩ có lẽ kể cả cô cũng muốn… chiêm ngưỡng… cái
chúng ta cùng nhau tạo nên.”

Chiêm ngưỡng? Cô nhìn vào mắt ông ta tìm một ánh giễu nhạo, nhưng ở đó chỉ có một
câu hỏi chân thành, vẻ tò mò hòa trộn cùng lạnh lùng. Cô nghĩ chắc phải lâu lắm rồi ông
ta chưa nhận được lời khen từ một con người khác, và hít một hơi sâu.

“Ông quả là một nhà phát minh đại tài,” cô nói.

Mortmain mỉm cười hài lòng.

Tessa biết người máy kia vẫn đang nhìn mình, biết nó luôn chực chờ hành động, nhưng
cô ngại Mortmain hơn. Tim cô đập thình thịch trong ngực. Cô có cảm giác như mình
đang đứng bên rìa vách đá hệt như trong mơ. Nói chuyện với Mortmain như thế này thật
may rủi, và cô có thể một lên hương hai xuống bùn. Nhưng cô phải nắm lấy cơ hội này.
“Tôi đã hiểu sao ông đưa tôi tới đây,” cô nói. “Và không chỉ vì bí mật của bố ông.”

Mắt ông ta ánh lên nét giận dữ, nhưng cũng lẫn đôi chút bối rối. Cô không hành xử như
ông ta đồ đoán. “Ý cô là sao?”

“Ông cô đơn,” cô nói. “Quanh ông toàn là những sinh vật không có thật, không hề có sự
sống. Chúng ta thấy linh hồn người khác qua đôi mắt họ. Đã bao lâu rồi ông mới thấy
rằng ông có một linh hồn?”

Mắt Mortmain nheo lại. “Tôi có linh hồn. Nó bị thiêu trụi vì cái tôi cống hiến cuộc đời
mình cho: tìm kiếm công lí và được đền đáp.”

“Đừng tìm cách báo thù và gọi đó là công lí.”

Con quỷ cười khùng khục, nhưng trong đó còn chứa cả sự khinh thường, như thể hắn
đang quan sát trò hề trong nhà bếp. “Ngài để nó nói chuyện với ngài như vậy sao, chủ
nhân?” hắn nói. “Tôi có thể giúp ngài xẻo lưỡi nó, khiến nó câm miệng mãi mãi.”

Tessa không thể nào không nghĩ đến Câu chuyện hai thành phố, về những lời van xin
Sydney Carton hãy làm người tốt của Lucie Manette. Cô luôn nghĩ Will là Sydney, bị tội
lỗi và sự tuyệt vọng che lấp mất bản tính tốt, dù bản thân anh không hề muốn. Nhưng
Will là người tốt, tốt hơn Carton nhiều. Còn Mortmain chẳng xứng được gọi là người. Cô
chẳng thể nào khơi lòng tốt của ông ta, có hay chăng chỉ là thói phù phiếm: Chắc chắn
đàn ông luôn nghĩ mình tốt. Không ai tin mình là người xấu hết. Cô hít một hơi. “Chắc
chắn rằng không… chắc lắm ông có thể sẽ lại là người tốt và danh giá. Ông đã làm đúng
như kế hoạch. Ông đã đem sinh mệnh và trí tuệ cho những sinh vật này… cho Quân đàon
Hủy diệt của ông. Ông đã tạo ra thứ có thể tiêu diệt Thợ Săn Bóng Tối. Cả đời ông mưu
cầu lẽ công bằng vì ông tin Thợ Săn Bóng Tối thối nát và độc ác. Giờ, nếu ông dừng tay,
ông sẽ giành chiến thắng vĩ đại nhất. Ông cho thấy ông tốt đẹp hơn họ.”

Cô nhìn kĩ gương mặt Mortmain. Chắc chắn trên đó có nét ngần ngừ - chắc chắn đôi môi
mỏng kia khẽ run, chắc chắn là có sự căng thẳng vì nghi ngờ đè lên đôi vai ông ta chứ?

Ông ta cười nhếch miệng. “Vậy cô nghĩ tôi có thể tốt lên hơn? Và nếu tôi làm như cô nói,
nếu tôi dừng tay, cô sẽ ở bên tôi, ngưỡng mộ tôi và không trở về với lũ Thợ Săn Bóng
Tối nữa?”

“Sao lại không chứ, ông Mortmain. Tôi thề.” Cô nuốt cảm giác đắng chát nơi cổ. Nếu cô
phải ở lại cùng Mortmain để giữ mạng cho Will và Jem, để cứu Charlotte, Henry và
Sophie, cô chấp nhận. “Tôi tin ông sẽ thấy phần tốt đẹp hơn của linh hồn mình. Tôi tin tất
cả chúng ta đều có thể.”

Đôi môi mỏng của ông ta nhếch lên. “Đã chiều rồi, cô Gray,” ông ta nói. “Tôi không định
đánh thức cô sớm hơn. Giờ đi với tôi ra ngoài núi nào. Hãy tới xem kiệt tác của ngày
hôm nay, vì tôi có cái muốn cô xem.”

Cô bỗng thấy lạnh lưng. Cô đứng thẳng. “Và là gì?”

Nụ cười của ông ta nở rộng hơn. “Cái tôi chờ đợi bấy lâu.”

Gửi: Quan Chấp Chính Josiah Wayland

Từ: Điều Tra Viên Victor Whitelaw

Josiah: Xin lỗi vì sự xuồng xã của tôi, vì tôi viết thư cho ông trong lúc vội vã. Tôi chắc
chắn đây không phải lá thư duy nhất ông nhận về vấn đề này, và có khi còn chẳng phải lá
đầu tiên. Bản thân tôi đã nhận được rất nhiều. Tất cả đều đề cập đến một câu hỏi duy
nhất đang đau đáu trong đầu tôi: Liệu thông tin của Charlotte Branwell có đúng? Vì nếu
đúng, tôi cảm thấy có khả năng Ông Chủ quả đang ở Wales. Tôi biết ông nghi ngờ lời nói
của Will Herondale, nhưng cả hai ta đều quen bố cậu ấy. Một người nóng vội, cảm tính,
nhưng chân thật nhất trần đời. Tôi không nghĩ cậu trai trẻ nhà Herondale lại là kẻ dối
trá.

Dù sao, vì lá thư của Charlotte, Clave đang rối bòng bong. Tôi đề nghị chúng ta triệu tập
cuộc họp Hội Đồng ngay lập tức. Nếu không, lòng tin của các Thợ Săn Bóng Tối vào
Quan Chấp Chính và Điều Tra Viên sẽ tan thành mây khói. Tôi để tuyên bố triệu tập vào
tay ông, nhưng đây không phải yêu cầu. Hãy triệu tập Hội Đồng, hoặc tôi sẽ từ chức và
cho tất cả biết lí do.

Victor Whitelaw

Will bị những tiếng hét đánh thức.

Nhiều năm luyện tập giúp anh vỡ ngay ra vấn đề. Anh nhảy xuống khỏi giường trước khi
hoàn toàn tỉnh giấc. Nhìn quanh, anh thấy căn phòng trọ nhỏ chẳng có ai ngoài anh cùng
đồ nội thất – cái giường đơn và chiếc bàn gỗ thông giản dị, mờ mờ trong bóng tối.

Những tiếng hét lại vang lên, lớn hơn. Chúng vang từ ngoài cửa sổ vào. Will đứng lên,
nhẹ nhàn đi qua phòng, và kéo một bên rèm nhìn ra.

Anh chẳng mấy nhớ đã dắt Balios bước vào thị trấn, con ngựa mệt mỏi lê bước sau anh.
Một thị trấn nhỏ của xứ Wales, giống như rất nhiều thị trấn nhỏ xứ Wales khác, chẳng có
gì đặc biệt. Anh dễ dàng tìm được một nhà trọ và giao Balios cho cậu bé chăm ngựa, yêu
cầu có người massage cho con vật và cho nó ăn một bát cám nóng để lại sức. Thấy anh
nói tiếng Wales có vẻ khiến ông chủ yên tâm, và anh nhanh chóng được dẫn tới phòng
riêng, nơi anh gục xuống giường gần như ngay tắp lự, vẫn mặc nguyên quần áo và ngủ
một giấc không mộng mị.

Trăng tỏa sáng trên cao, nhìn thì có vẻ đêm chưa khuya lắm. Một đám sương mù xám
dường như phủ lên vạn vật. Lúc đầu Will thật sự nghĩ đó là sương mù. Nhưng rồi, hít một
hơi, anh nhận ra đó là khói. Những ngọn lửa đỏ bốc lên giữa các ngôi nhà trong thị trấn.
Anh nheo mắt. Những bóng người chạy qua chạy lại trong bóng tối. Lại thêm những
tiếng hét – những ánh lóe chắc chắn của vũ khí…

Chỉ một lát sau anh đã ra khỏi phòng, với giày còn chưa buộc xong, dao thiên thần lăm
lăm trong tay. Anh chạy xuống cầu thang và vào phòng chính của nhà trọ. Trong đó tối
và lạnh – không có lửa, và vài cửa sổ đã vỡ, để không khí lạnh lẽo ban đêm ùa vào.
Những mảnh kính rải rắc khắp sàn như những mảnh băng. Cửa chính để mở, và khi Will
lách người đi ra, anh thấy những bàn lề bên trên gần như bị giật ra hẳn, như thể có kẻ cố
kéo tung cửa…

Anh ra cửa và quành qua bên hông nhà trọ, về phía chuồng ngựa. Mùi khói nồng nặc hơn,
và anh lao vụt đi – suýt vấp phải một dáng người nằm còng queo trên đất. Anh quỳ
xuống. Đó là cậu bé chăm ngựa, bị cắt cổ, nền đất dưới nó nhão nhoét đất hòa cùng máu.
Mắt anh mở to nhìn chằm chằm, da anh đã lạnh đi. Will nuốt dịch mật xuống và đứng
thẳng.

Anh máy móc tiến về phía chuồng ngựa, đầu óc đang chạy đua tính toán một loạt khả
năng. Quỷ tấn công chăng? Hay anh đã rơi vào giữa một cái gì đó phi siêu nhiên, một
mối hận thù giữa đám dân trong thị trấn, hoặc chuyện gì đó chỉ có Chúa mới biết? Nhưng
rõ ràng chẳng có ai đang cố tìm bằng được anh.

Anh có thể nghe tiếng thở phì phò bồn chồn của Balios khi anh vào chuồng ngựa. Nơi
này có vẻ không bị ảnh hưởng gì, từ trần thạch cao cho tới sàn lát đá cuội với những
đường thoát nước. Đêm nay trong chuồng không còn con ngựa nào, mà thế kể ra cũng
may, vì ngay khi anh mở cửa chuồng, Balios đã lao ra, suýt làm Will ngã ngửa. Will chỉ
vừa kịp tránh sang thì con ngựa đã phóng vụt qua anh và ra khỏi cửa.

“Balios!” Will chửi thề và đuổi theo con ngựa, vòng qua hông nhà trọ vào đường cái
trong thị trấn.

Anh dừng sững lại. Đường phố thật hỗn loạn. Những thi thể nằm la liệt bên vệ đường như
rác rưởi. Những ngôi nhà đứng đó với cửa bị giật tung khỏi bản lề, cửa sổ vỡ toang.
Người ta hoảng hốt vừa chạy vừa la hét gọi tên người khác. Một vài ngôi nhà đang bốc
cháy. Trong lúc Will kinh hãi nhìn, anh thấy một gia đình chạy ào ra khỏi một căn nhà
cháy, người cha mặc đồ ngủ đang ho sặc sụa, người phụ nữ đi sau dắt tay một cô bé gái.

Họ chưa kịp bước ra đường khi những bóng dáng bước ra từ bóng tối. Ánh trăng lấp lánh
trên kim loại.

Lũ người máy.

Chúng di chuyển linh hoạt, không hề bị giật cục hay hẫng hụt chút nào. Chúng mặc quần
áo – một dạng quân phục đủ kiểu, một vài bộ Will nhận ra, một vài bộ thì không. Nhưng
gương mặt chúng là kim loại hoàn toàn, bàn tay cầm những thanh kiếm dài của chúng
cũng vậy. Có ba con; một mặc áo trấn thủ đỏ rách rưới, cầm đầu và đang cười – cười ư? –
khi người bố cố đẩy vợ và con ra đằng sau, loạng choạng ngã xuống con đường lát sỏi
giờ đầy vết máu.

Tất cả kết thúc trong khoảnh khắc, nhanh tới độ Will chẳng kịp di chuyển. Những lưỡi
kiếm lóe lên, và có thêm ba thi thể chất chồng trên đường phố.

“Xong rồi,” người máy mặc áo trấn thủ rách bảo. “Đốt nhà chúng và xông khói lùa chúng
ra như lùa chuột đi. Giết chúng khi chúng chạy…” Nó ngẩng đầu và có vẻ thấy Will. Kể
cả qua khoảng cách giữa họ, Will vẫn cảm nhận được sức mạnh của cái nhìn ấy.
Will giơ dao thiên thần. “Nakir.”

Con dao bừng sáng, chiếu tỏ cả con đường, tạo thành một cột sáng trắng giữa màu đỏ lửa.
Qua máu và lửa, Will thấy người máy mặc áo trấn thủ đỏ sải bước về phía mình. Tay trái
nó cầm một thanh trường kiếm. Bàn tay nó bằng kim loại, có khớp nối; cách nó nắm
chuôi kiếm rất giống con người.

“Nephilim,” sinh vật kia nói, dừng lại cách Will chưa đầy một bước chân. “Bọn tao
không nghĩ một kẻ trong bọn mi lại xuất hiện tại đây.”

“Rõ rồi,” Will nói. Anh bước một bước và đâm thẳng dao thiên thần vào ngực người
máy.

Có tiếng xèo xèo nho nhỏ, như thịt hun khói rán trên chảo. Khi người máy bối rối nhìn
xuống, Nakir đã tan thành tro, để lại tay Will nắm cái chuôi đã chẳng còn nữa.

Người máy cười khành khạch, và ngẩng đầu nhìn Will. Mắt nó có sức sống và tỏ nét
thông minh, Will nhận ra mà tim chùng xuống, rằng anh đang nhìn một thứ mình chưa
từng thấy – không chỉ là một tạo vật có thể hóa dao thiên thần ra tro, mà còn là một cỗ
máy có chủ kiến, trí tuệ và chiến thuật đủ để đốt trụi một ngôi làng để giết toàn bộ cư dân
muốn chạy thoát.

“Và giờ mi thấy,” con quỷ nói, vì bản chất của nó là thế, khi đứng trước mắt anh.
“Nephilim, bao nhiêu năm qua các ngươi đẩy chúng ta ra khỏi thế giới này bằng những
vũ khí khắc chữ rune. Giờ chúng ta có cơ thể biến vũ khí của bọn mi thành vô dụng, và
thế giới này sẽ là của chúng ta.”

Will hít một hơi khi con quỷ giơ cao thanh trường kiếm. Anh lùi một bước – thanh kiếm
chém xuống – anh tránh, đúng lúc có gì đó phi qua anh trên đường, một thứ lớn và đen
lồng lên đá người máy bay sang bên.

Balios.

Will đưa tay quờ quạng nắm bờm ngựa. Con quỷ bật dậy khỏi đống bùn đất và nhào tới,
thanh kiếm loang loáng, đúng lúc Balios lao đi, Will quăng mình lên lưng ngựa. Họ cùng
nhau lao đi trên con đường lát sỏi, Will nằm rạp trên Balios, gió thổi ào qua tóc làm khô
gương mặt ướt – vì máu hay vì nước mắt thì anh không rõ.

Tessa ngồi trên sàn phòng mình trong pháo đài của Mortmain, đờ đẫn nhìn ngọn lửa.
Lửa hắt bóng lên tay, và chiếc váy xanh cô mặc. Cả hai đều dính máu. Cô không biết
chuyện xảy ra thế nào; da cổ tay cô bị cứa rách, và cô nhớ mang máng là một người máy
đã lôi cô tới đây, những ngón tay kim loại sắc lẹm của nó cứa vào da cô khi cô cố vùng
thoát.

Cô không thể dứt bỏ những hình ảnh cứ chong chong trong óc – kí ức về ngôi làng bị hủy
diệt trong thung lũng. Cô bị bịt mắt, bị đám người máy đưa tới đó trước khi ném xuống
một gò đá xám nhìn thẳng xuống thị trấn.

“Nhìn đi,” Mortmain nói, không nhìn cô, mà chỉ tỏ vẻ hả hê. “Nhìn đi, cô Gray, rồi nói
tiếp về sự chuộc tội nhé.”

Tessa đứng đó, tay bị người máy đằng sau giữ chặt, một tay nó bịt mồm cô, và Mortmain
lầm bầm những chuyện ông ta sẽ làm với cô nếu cô không chịu nhìn ngôi làng. Cô đành
quan sát đám người máy hành quân vào làng, chém giết những con người vô tội trên
đường phố. Vầng trăng đang lên nhuốm chút đỏ khi đội quân người máy bài bản đốt từ
nhà này sang nhà khác, giết những gia đình hoảng hốt, bối rối chạy ào ra ngoài.

Và Mortmain đã cười sằng sặc.

“Giờ cô đã thấy,” ông ta bảo. “Những tạo vật, những sáng tạo đó, chúng có thể suy nghĩ,
tính toán và lên kế hoạch. Như con người. Nhưng chúng bất khả chiến bại. Nhìn cái gã
ngu cầm súng đằng đó đi.”

Tessa không muốn nhìn, nhưng không được lựa chọn. Cô đã chứng kiến, mắt ráo hoảnh
và buồn bã khi con người đằng xa kia giơ súng tự vệ. Những phát súng làm vài người
máy ngã nhưng không khiến chúng hỏng hẳn. Chúng cứ tiến tới, gạt súng khỏi tay anh ta,
và đẩy anh ta ngã xuống đường.

Rồi chúng xé xác người đó.

“Quỷ,” Mortmain đã thì thào. “Chúng man rợ và thích hủy diệt.”

“Làm ơn,” Tessa nghẹn ngào. “Làm ơn, đừng nữa mà. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông
muốn, nhưng hãy tha cho ngôi làng này.”

Mortmain cười lạnh lùng. “Quân đoàn Hủy diệt không biết xót thương đâu, cô Gray.
Chúng vô tình như nước như lửa vậy. Chắc cô nên cầu một trận lũ lụt hay cháy rừng mới
mong dừng được cuộc tàn sát này.”
“Tôi không cầu những cái đó,” cô nói. Từ khóe mắt, cô nghĩ đã thấy một con ngựa ô phi
trên đường làng, mang theo người cưỡi nó. Cô cầu trời cho có người thoát được. “Tôi
đang cầu xin ông.”

Ông ta dõi đôi mắt lạnh nhìn cô, và chúng trông trống trải tựa bầu trời. “Tôi cũng không
có lòng thương đâu. Lúc trước cô kèo nhèo cầu xin cái tốt trong tôi. Tôi đưa cô tới đây để
cho cô thấy hành động đó phù phiếm ra sao. Tôi không có tính thiện; nó chết từ nhiều
năm trước rồi.”

“Nhưng tôi đã làm theo lời ông,” cô khổ sở nói. “Ông không cần làm ra chuyện này vì
tôi…”

“Không phải vì cô,” ông ta nói và thôi nhìn cô. “Đám người máy phải được kiểm nghiệm
trước khi đưa ra chiến trường. Đây là khoa học ấy mà. Giờ chúng có trí khôn, biết chiến
thuật. Không gì có thể cản đường chúng.”

“Vậy chúng sẽ tấn công ông.”

“Không đâu. Mạng sống của chúng được kết nối với tôi. Nếu tôi chết, chúng cũng tiêu
đời. Chúng phải bảo vệ tôi mới hòng sống sót.” Ánh mắt ông ta lạnh lẽo và xa xăm. “Đủ
rồi. Tôi đưa cô tới để cho cô thấy tôi là thế nào, và cô sẽ phải chấp nhận. Mặt dây chuyền
thiên sứ bảo vệ mạng cô, nhưng mạng sống của những kẻ vô tội kia nằm trong tay tôi –
trong tay cô. Đừng thử thách tôi, và sẽ không có ngôi làng thứ hai. Tôi không muốn nghe
thêm những lời kháng cự mệt óc nào nữa.”

Mặt dây chuyền thiên sứ bảo vệ mạng cô. Cô đang đặt tay lên nó, cảm nhận được tiếng
tích tắc quen thuộc dưới ngón tay mình. Cô nhắm mắt, nhưng những hình ảnh kinh khủng
cứ hiển hiện trong mí mắt. Cô thấy Nephilim bị tiêu diệt bởi đám người máy như những
người dân làng nọ, Jem bị những con quái vật cơ khí kia xé xác, Wll bị đâm xuyên tim,
Henry và Charlotte bị thiêu sống…

Tay cô nắm chặt cứng thiên sứ và giật nó ra khỏi cổ, ném xuống nền đá không bằng
phẳng đúng lúc một súc gỗ trong lò bắn lên một cột tàn đỏ. Trong ánh lung linh đó, cô
nhìn lòng bàn tay trái, và thấy vết sẹo bỏng của cái ngày cô bảo Will rằng mình đã đính
ước cùng Jem.

Giờ tay cô lại cầm cái cời lò. Cô nhấc lên, cảm nhận được sức nặng của nó trong tay.
Ngọn lửa bốc cao hơn. Cô thấy thế giới qua ánh sáng vàng khi cầm cây cời và ấn xuống
mặt dây chuyền.
Dù cây cời bằng sắt, nhưng nó hóa thành bụi kim loại, một đám mây bột vụn lấp lánh rắc
khắp nền, phủ lên dây chuyền thiên sứ không hề suy suyển ngay trước đầu gối cô.

Và rồi thiên sứ bắt đầu nhúc nhích và biến đổi. Cánh nó rung rung, và đôi mắt nhắm mở
ra để lộ miếng thạch anh trắng đục. Từ đó tỏa ra những tia sáng trắng mảnh. Như trong
những bức tranh vẽ bầu trời sao phía trên Bethlehem, ánh sáng lên cao rồi cao mãi, lung
linh tỏa sáng. Rồi nó dần định hình – thành một thiên thần.

Trong luồng ánh sáng chói lòa ấy, Tessa thấy thấp thoáng bóng dáng hình như của một
người nam. Cô thấy đôi mắt không đồng tử hay lòng đen – chỉ là những mảnh pha lê lấp
lánh trong ánh lửa. Đôi cánh thiên thần mở rộng, xòe ra từ vai, mỗi sợi lông vũ đều điểm
ánh kim loại lấp loáng. Tay ngài ôm chuôi một thanh kiếm đẹp.

Đôi mắt sáng lấp lánh của nó nhìn cô. Sao cô muốn tiêu diệt ta? Giọng ngài ngọt ngào,
vang vọng trong đầu cô như tiếng nhạc. Ta bảo vệ cô cơ mà.

Cô đột nhiên nghĩ tới Jem, nằm trên gối, gương mặt tái và loang loáng mồ hôi. Sống
không chỉ có nghĩa là tồn tại trên cõi đời. “Tôi không muốn tiêu diệt ngài, mà là chính
tôi.”

Nhưng vì sao? Sinh mạng là một món quà kia mà.

“Tôi muốn làm đúng,” cô nói. “Giúp tôi sống là ngài đã cho phép quỷ dữ tồn tại.”

Quỷ dữ. Giọng trầm bổng như nhạc trầm ngâm. Ta đã ở lâu trong cái mặt dây chuyền
nhà tù kia đến quên mất tốt xấu rồi.

“Cái mặt dây chuyền nhà tù?” Tessa thì thầm. “Sao một thiên thần có thể bị giam cầm
chứ?”

John Thaddeus Shade đã giam cầm ta. Hắn dùng một câu thần chú bắt linh hồn ta và
giam trong thứ đồ cơ khí này.

“Như Pyxis,” Tessa nói. “Chỉ có điều giam thiên thần thay cho quỷ.”

Ta là thiên thần của thiên đàng, thiên thần nói khi bay trước cô. Ta là anh em của Sijil,
Kurabi và Zurah, Fravashis và Dakinis.

“Và… đây là hình dáng thật của ngài? Ngài trông thế này sao?”

Cô thấy ở đây chỉ là một chút của ta. Trong hình dáng thật, ta lộng lẫy chết người. Ta là
tự do của thiên thần, trước khi ta bị giam cầm và ràng buộc với cô.
“Tôi rất tiếc,” cô nói khẽ.

Không trách cô được. Cô không giam giữ ta. Đúng là linh hồn chúng ta được ràng buộc
với nhau, nhưng kể từ khi bảo vệ cô trong bụng mẹ, ta đã biết cô vô tội.

“Thiên thần hộ mệnh của tôi.”

Chỉ một vài người mới có thể tuyên bố mình có thiên thần hộ mệnh. Và cô là một trong số
đó.

“Tôi không muốn có,” Tessa nói. “Tôi muốn được chết theo ý mình, không bị buộc phải
sống vì Mortmain muốn thế.”

Ta sẽ không thể để cô chết. Giọng thiên thần chất chứa đau thương. Tessa nhớ tới tiếng
đàn thể hiện nỗi lòng Jem. Đấy là lẽ sống của ta rồi.

Tessa ngẩng đầu. Ánh lửa chiếu xuyên qua thiên thần như ánh nắng chiếu xuyên qua pha
lê, tỏa ánh sáng lung linh lên vách hang. Đây không phải một thứ máy móc hỏng; đây là
thần thánh bị buộc phải hành động theo ý muốn của Mortmain, nhưng ngài vẫn là đấng
sống trên thiên đàng. “Khi ngài còn là thiên thần,” cô nói, “tên ngài là gì?”

Tên ta, thiên thần nói, là Ithuriel.

“Ithuriel,” Tessa thì thầm và chìa một tay về phía thiên thần, như thể cô có thể chạm vào
ngài, an ủi ngài. Nhưng những ngón tay cô chỉ sờ thấy không khí. Thiên thần rung động
rồi biến mất, chỉ để lại một quầng sáng, một điểm chói trong mắt cô.

Làn không khí lạnh lẽo ập tới, và cô bật dậy, mắt mở choàng. Cô đang nằm nghiêng trên
nền đá lạnh trước đống lửa sắp tàn. Căn phòng tối, chỉ được chiếu sáng nhờ những viên
than hồng trong lò sưởi. Cây cời lò vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Tay cô đưa lên cổ – và thấy
mặt dây chuyền thiên sứ ở đó.

Một giấc mơ. Tim Tessa chùng xuống. Hóa ra tất cả chỉ là mơ. Không hề có thiên thần
nào tắm cô trong ánh sáng của ngài. Chỉ có căn phòng lạnh lẽo này, bóng tối đang xâm
lấn, cùng mặt dây chuyền thiên sứ kêu tích tắc đều đặn đếm từng phút cho tới khoảnh
khắc cuối cùng của thế giới.

Will đứng trên đỉnh Cadair Idris, tay cầm cương ngựa.

Khi đi về phía Dolgellau, anh thấy cả vách núi Cadair Idris sừng sững trên cửa sông
Mawddach, và anh thở một hơi dài – anh đến nơi rồi. Anh từng leo lên ngọn núi này khi
còn bé, cùng với bố, và những kỉ niệm đó vẫn theo anh khi anh rời đường Dinas
Mawddwy và phi về phía ngọn núi trên lưng Balios, hình như vẫn còn đang chạy trốn
khỏi ngọn lửa đốt cháy ngôi làng họ đã bỏ lại sau lưng. Họ tiếp tục đi qua một cái hồ mọc
đầy tảo – một bên đó là mặt biển bàng bạc, còn bên kia là ngọn Snowdon – tới thung lũng
Nant Cadair. Làng Dolgellau bên dưới, thấp thoáng ánh đèn đây đó, tạo nên một bức họa
đẹp, nhưng Will không ngắm cảnh. Chữ rune Dạ nhãn anh vẽ cho mình cho phép anh lần
theo dấu chân đám người máy. Cũng có đủ dấu chân giày xéo mặt đất khi chúng đi xuống
núi, và anh lần theo dấu vết trên con đường tiêu điều lên đỉnh núi mà tim đập thịch.

Dấu chân chúng dẫn đến một bãi đá tảng lớn mà Will nhớ được gọi là băng tích. Chúng
hình thành nên một bức tường nửa vời bảo vệ Cwm Cau, một thung lũng nhỏ trên núi với
trung tâm nằm ở Llyn Cau, một hồ băng trong vắt. Dấu chân của đội quân người máy dẫn
đến bờ hồ…

Rồi biến mất

Will đứng đó, nhìn xuống dòng nước lạnh ngắt, trong vắt. Dưới ánh sáng ban ngày, anh
nhớ lại, cảnh tượng thật tráng lệ: Llyn Cau xanh trong, được bao quanh bởi cỏ xanh rì, và
mặt trời chiếu xuống những cạnh sắc như dao cạo của Mynydd Pencoed, những vách núi
bao quanh hồ. Anh cảm thấy mình đã cách xa Luân Đôn cả triệu dặm.

Ánh trăng chiếu xuống nước và hắt lên anh. Anh thở dài. Nước nhè nhẹ vỗ bờ, nhưng
không thể xóa được vết tích đám người máy để lại. Rõ là chúng từ đây đi ra. Anh đưa tay
ra sau và vỗ lưng Balios.

“Đợi tao ở đây nhé,” anh bảo. “Và nếu tao không trở lại, hãy tự về Học Viện. Họ sẽ rất
mừng được gặp lại mày, ông già ạ.”

Con ngựa hí khẽ và cắn tay áo anh, nhưng Will chỉ hít một hơi và lội xuống Llyn Cau.
Nước lạnh chảy vào trong giày và quần anh, thấm ướt tới độ khiến da thịt anh đông cứng.
Anh hít hà.

“Lại ướt nữa,” anh rầu rĩ nói, và nhào xuống hồ nước lạnh. Nước có vẻ kéo anh xuống,
tựa như vũng cát lún – anh còn chẳng kịp lấy hơi trước khi nước lạnh băng kéo anh vào
bóng tối.

Gửi: Charlotte Branwell

Từ: Quan Chấp Chính Wayland


Cô Branwell,

Cô được cởi bỏ trọng trách lãnh đạo Học Viện rồi đấy. Tôi xin nói mình rất thất vọng vì
cô và niềm tin tôi dành cho cô cũng đổ vỡ. Nhưng những lời nói dối của một kẻ phản bội
như cô dành cho con người đức cao trọng vọng như tôi thật vô ích. Mai tôi sẽ đến Luân
Đôn, và tôi mong vợ chồng cô đã sẵn sàng rời Học Viện, mang theo toàn bộ đồ đạc của
mình. Nếu không chấp hành, cô sẽ phải chịu hình phạt nặng nhất theo Luật quy định.

Josiah Wayland, Quan Chấp Chính Clave.


19

NẰM XUỐNG VÀ CHỊU CHÁY


Giờ ta sẽ đốt lưng, sẽ thiêu rụi mi

Dù ta biết ta sẽ bị nguyền rủa

Và hai ta sẽ nằm xuống

Và chịu cháy.

– Charlotte Mew, In Nunhead Cemetery

Nhưng không gian chỉ tối tăm trong chốc lát. Nước lạnh lôi Will xuống, rồi sau đó anh
rơi – anh cuộn tròn người lại khi sắp tiếp đất, và cú va chạm làm anh hết muốn thở.

Anh ho hắng và nằm úp bụng, rồi cố quỳ lên, tóc và quần áo nhỏ nước tong tỏng. Anh
định lấy đá phù thủy ra, nhưng lại thôi: anh không muốn ánh sáng lôi kéo sự chú ý của kẻ
khác. Có Dạ nhãn là đủ rồi.

Anh biết mình đang ở trong một hang đá. Nếu nhìn lên, anh có thể thấy những vân nước
bên trên, được đỡ bằng gì đó trông như kính, và chút ánh trăng lọt xuống. Những đường
hầm dẫn ra khỏi hang, không có dấu hiệu gì cho thấy chúng sẽ dẫn đến đâu. Anh đứng
dậy và chọn bừa đường hầm ngoài cùng bên trái, di chuyển cẩn thận trong vùng tối dày
đặc.

Mấy đường hầm này rộng, với sàn nhẵn nhụi không hề có dấu vết cho thấy đám người
máy có thể đã đi qua. Hai bên là đá núi lửa xù xì. Anh nhớ đã từng cùng bố leo lên Cadair
Idris nhiều năm trước. Có rất nhiều truyền thuyết về ngọn núi này: rằng nó từng là cái
ghế cho một người khổng lồ ngồi ngắm nhìn trời sao; rằng vua Arthur cùng các hiệp sĩ
ngủ dưới đây, đợi khi đảo Anh thức giấc và lại cần đến họ; rằng bất cứ ai ngủ bên núi sẽ
thức dậy mà trở thành một nhà thơ hay một gã điên.

Anh ngoặt ở góc đường hầm và vào một cái động rộng hơn, trong bụng thầm nghĩ giá mà
người ta biết bản chất vấn đề lại kì lạ ra sao.

Hang rộng rãi, dẫn vào một không gian còn lớn hơn ở đằng cuối, nơi hắt lại ánh sáng yếu
ớt. Đây đó Will thoáng thấy những ánh bạc anh nghĩ là nước hắt lên vách đá đen, nhưng
nhìn kĩ hơn, hóa ra đó là vân thạch anh tinh thể.
Will tiến về phía luồng ánh sáng yếu. Anh thấy tim đập thình thịch trong lồng ngực, và
anh cố gắng thở đều cho bình tĩnh lại. Anh biết điều gì khiến nhịp tim anh tăng tốc.
Tessa. Mortmain giam giữ cô, và cô ở đây – rất gần. Ở đâu đó trong cái tổ ong đường
hầm này, anh sẽ tìm thấy cô.

Anh nghe thấy giọng Jem trong đầu, nhưng thể parabatai đứng ngay cạnh bên, khuyên
nhủ anh. Cậu ấy luôn nói Will cứ cắm đầu chạy về cuối nhiệm vụ chứ không thèm cẩn
trọng hành động, và người ta phải nhìn bước tiếp theo trên đường mình đi hơn là ngọn
núi đằng xa, hoặc sẽ chẳng thể đến được điểm đích. Will nhắm mắt một lát. Anh biết Jem
đúng, nhưng khó mà nhớ nổi những lời ấy khi điểm đích là người con gái anh yêu.

Anh mở mắt và tiến về phía luồng ánh sáng yếu ở bên kia động. Mặt đất đưới chân anh
trơn nhẵn, không hề có đá sỏi, và có vân như cẩm thạch. Ánh sáng phía trước bừng lên –
và Will đứng sững lại, chỉ có nhiều năm luyện tập làm Thợ Săn Bóng Tối mới giúp anh
không lao đầu vào vòng tay thần chết.

Vì sàn đá kết thúc đột ngột và sụt xuống thành một cái vực dốc đứng. Anh đang đứng ở
nơi nó chìa ra và nhìn xuống một đại hí trường hình vòng cung. Ở đó lúc nhúc người
máy. Chúng im lặng, bất động không nhúc nhích, như những món đồ chơi cơ khí đã
hỏng. Chúng mặc đồ, và cũng giống lũ đã tàn sát dân làng, đủ loại quân phục, xếp thành
hàng thành lối, ai nhìn vào cũng thấy chúng giống những chú lính chì kích cỡ người thật.

Ở giữa phòng là một bục đá cao cao, và trên cái bàn là một người máy khác, nằm như xác
chết trên bàn giải phẫu. Đầu nó bằng kim loại, nhưng lớp da người trắng tái được căng
trên phần còn lại của cơ thể nó – và trên lớp da có có những chữ rune.

Khi quan sát, Will nhận ra chúng, từng chữ một: Ghi nhớ, Linh lợi, Tốc độ, Dạ nhãn. Tất
nhiên chúng không thể nào có tác dụng trên kim loại và da người thường. Nhìn xa thế này
có thể anh đã nhầm, nhưng…

Nếu ông ta sử dụng da Thợ Săn Bóng Tối thì sao? Giọng nói thì thào trong đầu Will. Vậy
ông ta có thể tạo ra cái gì? Ông ta điên rồ tới độ nào, và bao giờ mới chịu dừng đây? Ý
nghĩ và cảnh những chữ rune của Thiên Đàng được khắc trên một tạo vật quái thai thế kia
khiến bụng dạ Will nôn nao; anh lùi khỏi rìa đá và dựa vào vách đá lạnh lẽo, tay nhớp
nháp mồ hôi.

Hình ảnh ngôi làng nọ lại hiện lên trong tâm trí anh, những xác chết trên đường, nghe
tiếng đám quỷ máy rít lên khi nó bảo:
Bao nhiêu năm qua các ngươi đẩy lùi chúng ta khỏi thế giới này bằng những món vũ khí
khắc chữ rune. Giờ chúng ta có cơ thể khiến vũ khí của các ngươi hóa ra vô dụng, và thế
giới này sẽ là của chúng ta.

Giận dữ ào ào khắp người Will tựa như lửa trong huyết quản. Anh rời vách đá và lao
thẳng vào một đường hầm hẹp, dẫn ra khỏi căn phòng đá. Khi anh đi, anh nghĩ mình nghe
thấy âm thanh gì đó đằng sau – tiếng xạch xạch như một bộ máy của một chiếc đồng hồ
lớn vừa được khởi động – nhưng khi anh rẽ, anh chẳng thấy gì, ngoài vách hang nhẵn
nhụi, và những bóng đen bất động.

Đường hầm này hẹp dần theo bước anh đi, tới khi anh phải lách người qua một tảng thạch
anh nhô lên. Nếu nó còn hẹp hơn, anh biết mình sẽ phải quay trở lại cái hang nọ; ý nghĩ
đó tăng thêm sức lực cho anh, và anh lách qua, suýt ngã, khi con đường đột ngột mở vào
một hành lang rộng hơn.

Nó khá giống hành lang trong Học Viện, chỉ toàn đá nhẵn, với đuốc cắm vào những cái
giá đỡ bằng kim loại cách nhau từng quãng đều đặn. Bên cạnh mỗi ngọn đuốc là một
cánh cửa vòm, cũng bằng đá. Hai cánh cửa đầu tiên mở vào căn phòng tối om trống trải.

Ở cánh cửa thứ ba là Tessa.

Will không nhìn thấy cô ngay khi bước vào. Cánh cửa đá khép hờ sau lưng anh, và anh
thấy rằng mình không ở trong một không gian tối tăm. Ở đây có ánh lửa chập chờn –
ngọn lửa dần tàn trong lò sưởi đá ở góc kia căn phòng. Ngạc nhiên là phòng này đầy đủ
đồ đạc cứ như một căn phòng trong lữ quán, với một cái giường và bồn rửa mặt, kể cả
rèm, dù chúng chỉ che có tường chứ làm gì có cửa sổ.

Trước lò sưởi là một bóng người đen đen nằm co trên sàn. Tay Will tự động đặt lên chuôi
dao dắt thắt lưng – rồi cái bóng người kia quay lại, tóc xổ xuống hất qua vai, và anh thấy
gương mặt cô.

Tessa.

Tay anh buông khỏi con dao khi tim quặn thắt trong ngực niềm đau khó tả. Anh thấy vẻ
mặt cô thay đổi từ hiếu kì tới kinh ngạc rồi không thể tin vào mắt mình. Cô đứng lên, váy
nhăn nhúm quanh cô khi cô đứng thẳng, và anh thấy cô chìa tay ra.

“Will?” Cô nói.

Đó như chiếc chìa khóa vặn trong ổ, thả anh ra; anh lao tới. Chưa từng có khoảng cách
nào xa hơn khoảng cách chia cắt anh và Tessa lúc đó. Đấy là một căn phòng lớn; lúc đó,
khoảng cách giữa Luân Đôn và Cadair Idris chẳng là gì so với khoảng cách này. Anh cảm
thấy rùng mình như ép vào cái gì đó khi đi qua phòng. Anh thấy Tessa chìa tay, miệng
lắp bắp gì đó – rồi cô ở trong vòng tay anh, hơi thở như bị đẩy ra khỏi phổi cả hai khi họ
ôm chầm lấy nhau.

Cô nhón chân, tay quàng qua vai anh, thì thầm gọi tên anh: “Will, Will, Will…” Anh vùi
mặt vào cổ cô, nơi mái tóc dày loăn xoăn; cô có mùi khói và nước hoa violet. Anh ôm cô
thêm chặt khi bàn tay cô quàng qua gáy anh; và họ bấu víu lấy nhau. Trong giây phút đó,
nỗi đau đớn như gọng kềm bóp nghẹt anh kể từ khi Jem qua đời dường như lỏng ra và
anh có thể thở được.

Anh nghĩ tới cái địa ngục giam cầm anh kể từ lúc anh rời Luân Đôn – những ngày cưỡi
ngựa rong ruổi không ngưng nghỉ, những đêm thức trắng không ngủ. Máu, mất mát, đau
đớn và đánh đấm. Tất cả để đưa anh tới đây. Tới với Tessa.

“Will,” cô nhắc lại, và anh nhìn xuống gương mặt nhòa vết nước mắt của cô. Có vết bầm
bên má cô. Có kẻ đã đánh cô, và lòng anh ngập tràn giận dữ. Anh sẽ tìm ra kẻ đó, và sẽ
giết hắn. Nếu đó là Mortmain, anh sẽ giết ông ta ngay sau khi thiêu rụi cái phòng thí
nghiệm ma quỷ của ông ta tới tận móng, để lão điên đó thấy phế tích của những gì ông ta
tạo nên – “Will,” Tessa nhắc lại, ngắt ngang dòng suy nghĩ của anh. Cô hơi hụt hơi.
“Will, đồ ngốc này.”

Những suy tư lãng mạn của anh phanh kít lại như xe ngựa đi trên đường Fleet. “Anh –
Sao?”

“Ôi, Will,” cô nói. Môi cô run run; cô trông như thể không quyết định được nên cười hay
khóc. “Anh có nhớ khi anh bảo em rằng một chàng trai trẻ đẹp tới giải cứu em sẽ không
bao giờ sai, kể cả khi anh ta bảo bầu trời màu tím và do nhiều con nhím tạo thành chứ?”

“Lần đầu tiên anh thấy em. Nhớ chứ.”

“Ôi, Will của em.” Cô nhẹ nhàng lùi khỏi vòng tay anh và vuốt lọn tóc rối ra sau tai. Mắt
cô vẫn chăm chăm nhìn anh. “Em không tưởng tượng được anh tới tìm em bằng cách
nào, chuyện ấy khó khăn ra sao. Thật không thể tin nổi. Nhưng… anh thực sự nghĩ
Mortmain sẽ để em một thân một mình không ai canh chừng trong căn phòng cửa mở
thông thống vậy sao?” Cô quay đi và tiến lên vài bước, rồi dừng khựng lại. “Đây,” cô nói
và giơ bàn tay xòe rộng ra. “Ở chỗ này không khí đặc lại thành một bức vách ấy. Đây là
nhà tù, Will, và giờ anh chung xà lim với em rồi.”

Anh tới đứng cạnh cô, đã biết mình sẽ tìm thấy gì. Anh nhớ lại lực cản anh cảm nhận
được khi đi qua phòng. Không khí hơi sóng sánh khi anh chạm vào nhưng nó cứng hơn
cả một hồ nước đóng băng. “Anh biết dạng này,” anh bảo. “Clave đôi lúc cũng dùng
đến.” Tay anh nắm lại thành nắm đấm, và anh động thẳng vào không khí đặc cứng, mạnh
tới độ làm bầm xương tay. “Uffern gwaedlyd19,” anh chửi thề bằng tiếng Wales. “Đi hết
cả chặng đường dài chết tiệt để tới với em, và anh còn không thể làm cho đúng. Ngay khi
thấy em, anh chỉ còn nghĩ tới chạy lại bên em. Nhân danh Thiên Thần, Tessa…”

“Will!” Cô nắm cánh tay anh. “Đừng xin lỗi. Anh có hiểu anh ở đây có ý nghĩa với em
nhường nào không? Đó như một phép màu hay một sự can thiệp trực tiếp từ Thiên Đàng,
vì em đã cầu nguyện được thấy gương mặt những người em quan tâm trước khi chết.” Cô
nói đơn giản, thẳng thắn – đó là một trong những điểm anh yêu ở Tessa, rằng cô không
giấu giếm hay ngụy trang, cứ nói thẳng những gì mình nghĩ. “Khi em ở Nhà Hắc Ám,
không có ai quan tâm tới em nhiều đến độ đi tìm em. Khi anh tìm thấy em, đó chỉ là tình
cờ. Nhưng giờ…”

“Giờ anh khiến chúng ta bị phạt chịu chung một số phận,” anh khẽ nói. Anh rút dao khỏi
thắt lưng và đâm thẳng vào bức tường vô hình phía trước. Con dao bạc khắc chữ rune vỡ
tan, Will ném cái cán hỏng sang bên và lầm bầm chửi thề.

Tessa nhẹ nhàng đặt tay lên vai anh. “Chúng ta không bị phạt gì hết,” cô nói. “Chắc chắn
anh không một mình tới đây, Will. Henry, hoặc Jem, sẽ tìm ra chúng ta. Người bên kia
tường sẽ giải thoát cho chúng ta. Em đã thấy Mortmain làm thế nào, và…”

Will không biết điều gì xảy ra tiếp sau đó. Vẻ mặt anh hẳn đã thay đổi ngay khi nghe đến
tên Jem, vì anh thấy màu sắc rời bỏ gương mặt cô. Tay cô nắm chặt cánh tay anh.

“Tessa,” anh nói. “Anh đến một mình.”

Từ “một mình” vang ra vỡ vụn, như thể anh nếm được vị đắng của mất mát nơi đầu lưỡi
và cố nói sao để tránh được nó.

“Còn Jem?” Cô nói. Đó không chỉ là một câu hỏi. Will không nói không rằng; giọng anh
dường như đã bỏ anh mà đi. Anh đã định sẽ cứu cô ra khỏi nơi này trước khi cho cô biết
chuyện Jem, đã tưởng tượng nói cho cô biết tin ở một chốn an toàn, một nơi có không
gian và thời gian để anh an ủi cô. Giờ anh biết mình đúng là ngốc mới nghĩ vậy; mới
tưởng tượng rằng vẻ mất mát không hiển hiện trên gương mặt anh. Chút màu sắc còn lại
bị rụt sạch khỏi da cô; anh có cảm giác mình đang nhìn một ngọn lửa chập chờn rồi chớp
tắt. “Không,” cô thì thầm.

“Tessa…”

Cô lùi một bước, lắc đầu. “Không, không thể nào. Em phải biết chứ – không thể.”
19
Tiếng Wales, chết tiệt.
Anh chìa tay ra với cô. “Tess…”

Cô bắt đầu run lẩy bẩy. “Không,” cô lại nói. “Không, đừng nói nữa. Nếu anh không nói,
vậy đó sẽ không phải sự thật. Vậy không công bằng.”

“Anh rất tiếc,” anh khẽ nói.

Gương mặt cô cau lại, vỡ ra như đập nước chịu áp lực quá lớn. Cô khuỵu xuống, khoanh
tay ôm mình. Tay anh ôm choàng cơ thể cô. Cô đang ôm mình rất chặt, như thể cô có thể
giữ nó không vỡ ra. Will một lần nữa cảm nhận được cảm giác đau đớn bất lực từng trải
nghiệm ở sân quán trọ Lục Nhân. Anh tới cứu cô, nhưng thay vào đó, anh chỉ kéo cô đau
đớn cùng. Cứ như thể anh bị nguyền rủa thật sự – chỉ có thể đem lại đau đớn cho những
người anh yêu.

“Anh rất tiếc,” anh lại nói, từng từ từng chữ đều chứa đựng cả tấm lòng anh. “Rất tiếc.
Anh sẵn sàng chết thay cậu ấy nếu được.”

Nghe tới đó, cô ngước lên. Anh sẵn sàng đón nhận ánh nhìn trách móc của cô, nhưng
không có. Thay vào đó cô chỉ lẳng lặng đưa tay cho anh. Kinh ngạc và bất ngờ, anh nắm
lấy và để cô kéo anh xuống tới khi anh quỳ đối diện cô.

Gương mặt cô đẫm nước mắt, tóc tai lòa xòa, được ánh lửa viền sắc vàng xung quanh.
“Em cũng vậy,” cô nói. “Ôi, Will. Tất cả đều là lỗi của em. Anh ấy ném mạng mình đi vì
em. Nếu anh ấy dùng thuốc dè xẻn hơn… nếu anh ấy để mình được nghỉ ngơi và ốm yếu
thay vì giả bộ khỏe mạnh vì em…”

“Không!” Anh giữ vai cô, và quay cô nhìn về mình. “Đó không phải lỗi của em. Không
ai có thể tưởng tượng chuyện lại ra nông nỗi đó…”

Cô lắc đầu. “Sao anh có thể chịu đựng em gần anh?” Cô buồn khổ nói. “Em cướp
parabatai khỏi anh. Và giờ cả hai chúng ta sẽ chết tại đây. Chỉ vì em.”

“Tessa,” anh thảng thốt. Anh không thể nhớ nổi lần cuối mình trong tình thế này, lần cuối
cùng anh phải an ủi một người tan nát cõi lòng, và thực lòng thực bụng được phép, chứ
không phải buộc mình phải quay lưng đi. Anh cảm thấy lóng ngóng như khi còn bé,
buông dao khỏi tay trước khi Jem dạy anh cách sử dụng. Anh hắng giọng. “Tessa, lại
đây.” Anh kéo cô về phía mình, tới khi anh ngồi bệt xuống còn cô dựa vào anh, đầu tựa
vào vai anh, những ngón tay anh vuốt mái tóc cô. Anh có thể cảm nhận cơ thể cô run bần
bật, nhưng cô không đẩy anh ra. Thay vào đó, cô bấu víu lấy anh như người chết đuối vớ
được cọc.
Và nếu có khoảnh khắc nào anh nghĩ cô thật ấm áp trong vòng tay anh, hay cảm nhận
được hơi thở của cô trên da mình, anh có thể giả bộ như không.

Nỗi buồn của Tessa, như một cơn bão kéo dài suốt nhiều giờ. Cô khóc, và Will ôm cô
không buông, trừ một lần anh đứng lên cời lại lửa. Anh nhanh chóng quay lại và lại ngồi
cạnh cô, lưng họ tựa vào bức tường vô hình. Cô chạm vào vai áo ướt nước mắt cô của
anh.

“Em xin lỗi,” cô nói. Cô không thể đếm số lần cô bảo anh rằng cô xin lỗi suốt mấy giờ
qua, khi họ kể cho nhau nghe chuyện kể từ lúc họ chia cách tại Học Viện. Anh nói cho cô
nghe chuyện anh tạm biệt Jem và Cecily, chuyến đi ngựa qua vùng quê, khoảnh khắc anh
nhận ra Jem không còn. Cô kể anh nghe Mortmain đã yêu cầu cô làm gì, rằng cô Biến
Hình thành bố ông ta, và cho ông ta mảnh ghép cuối cùng sẽ biến đội quân người máy
thành một lực lượng không thể ngăn cản.

“Em không phải xin lỗi gì hết, Tess,” Will giờ đang nói. Anh nhìn ngọn lửa, ánh sáng
duy nhất trong phòng. Nó hắt lên người anh sắc vàng và đen. Quầng thâm dưới mắt anh
ngả sang màu xanh tím, xương gò má và xương quai xanh nhô cao. “Em cũng phải chịu
đau khổ như anh. Nhìn ngôi làng bị thiêu hủy…”

“Cả hai chúng ta ở đó cùng lúc,” cô ngỡ ngàng nói. “Nếu em biết anh ở gần…”

“Nếu anh biết em ở gần, anh đã thúc Balios phỉ thẳng lên đồi tìm em.”

“Và bị lũ người máy của Mortmain giết mất rồi. Anh không biết vẫn tốt hơn.” Cô nhìn
theo anh về phía ngọn lửa. “Anh cuối cùng cũng tìm thấy em; điều đấy mới quan trọng.”

“Tất nhiên anh sẽ tìm ra em. Anh hứa với Jem rồi mà,” anh nói. “Có một số lời hứa mà ta
không được phép bội ước.”

Anh hít một hơi ngắn. Cô cảm nhận được nó qua cạnh mình: cô đang co người nửa ngả
vào anh, và tay anh đang run, như thể chính anh cũng không nhận thức được khi nắm tay
cô. Cô lờ mờ biết mình không nên để bất cứ chàng trai nào không phải anh em hay hôn
phu nắm tay mình như vậy – nhưng cả hai người kia đều đã khuất, và ngày mai Mortmain
sẽ tìm ra họ và trừng phạt cả hai. Lúc này cô không thể bắt mình coi trọng lễ giáo được.

“Đau đớn đó để làm gì chứ?” Cô hỏi. “Em yêu anh ấy rất nhiều, và em không ở đó khi
anh ấy đi.”
Tay Will vuốt lưng cô – nhẹ và nhanh, như thể anh sợ cô sẽ tránh. “Cả anh cũng thế,” anh
nói. “Lúc ấy anh đang ở ngoài sân một lữ quán, đã đi được nửa đường tới Wales thì hay
chuyện. Anh cảm nhận được. Mối ràng buộc giữa anh và cậu ấy bị thương tổn. Anh thấy
đau đớn như bị một cây kéo lớn cắt tim anh làm đôi.”

“Will…” Tessa nói. Nỗi đau của anh quá rõ ràng, hòa cùng với nỗi đau của cô tạo thành
nỗi buồn khôn tả, nhưng được chia sẻ sẽ vơi bớt, dù giờ khó mà nói ai đang an ủi ai.
“Anh cũng luôn là một nửa trái tim anh ấy.”

“Chính anh đã đề nghị cậu ấy làm parabatai của mình,” Will nói. “Cậu ấy ngần ngại. Cậu
ấy muốn anh hiểu rằng anh đang ràng buộc bản thân chừng như cả đời với một kẻ sẽ
chẳng sống được bao lâu. Nhưng anh muốn, nhất quyết muốn nó, một bằng chừng rằng
anh không đơn độc, một cách để cậu ấy thấy cái anh nợ cậu ấy. Và cuối cùng cậu ấy rộng
lượng cho anh cái anh muốn. Cậu ấy luôn là vậy đấy.”

“Đừng,” Tessa nói. “Jem không phải thánh tử vì đạo. Là parabatai của anh không phải
hình phạt dành cho anh ấy. Anh giống như một người anh em của anh ấy – còn hơn cả
anh em, vì anh đã chọn anh ấy. Khi anh ấy nói về anh, trong lời nói luôn chứa sự quý
mến và chở che, không hề có chút ngờ vực nào.”

“Anh đã chất vấn cậu ấy,” Will tiếp tục. “Khi biết cậu ấy dùng nhiều ngân phiến hơn mức
nên thế. Anh rất bực. Anh trách cậu ấy ném đời mình đi. Cậu ấy bảo, ‘Tôi muốn được
chọn sống sao cho xứng với cô ấy, được cháy sáng vì cô ấy như tôi ước ao.”

Tessa kêu một tiếng khe khẽ trong họng.

“Đấy là lựa chọn của cậu ấy, Tessa. Không phải do em ép. Cậu ấy chưa từng hạnh phúc
như khi ở cùng em.” Will không nhìn cô, mà nhìn đống lửa. “Dù anh có nói gì với em, dù
có là gì đi nữa, thì anh vẫn mừng vì cậu ấy đã có một khoảng thời gian bên em. Em cũng
nên mừng cho cậu ấy.”

“Anh nói nghe không mừng gì cả.”

Will vẫn nhìn đống lửa. Mái tóc đen của anh ướt khi anh vào phòng, và giờ đã khô thành
những lọn xoăn nhẹ bên thái dương và trán. “Anh làm cậu ấy thất vọng,” anh nói. “Cậu
ấy tin tưởng, phó thác cho anh nhiệm vụ đi theo và tìm ra em, rồi đưa em an toàn về nhà.
Và giờ anh thất bại khi tới bước cuối cùng.” Anh cuối cùng cũng quay sang nhìn cô, đôi
mắt xanh đờ đẫn. “Đáng ra anh không nên rời bỏ cậu ấy. Đáng ra anh nên ở cạnh cậu ấy
nếu cậu ấy yêu cầu, tới khi cậu ấy chết. Đáng ra anh nên tuân thủ lời thề. Nhưng cậu ấy
lại đòi anh đi tìm em…”
“Rồi anh chỉ làm theo yêu cầu của anh ấy. Anh không làm anh ấy thất vọng.”

“Nhưng đấy cũng là điều tận đáy lòng anh muốn,” Will bảo. “Giờ anh không thể phân
biệt được giữa ích kỉ và bác ái nữa rồi. Khi anh mơ cứu em, mơ thấy cách em nhìn
anh…” Giọng anh đột ngột nhỏ lại. “Anh đáng bị trừng phạt vì sự ngông cuồng ấy.”

“Nhưng em lại cảm ơn anh nhiều lắm.” Tessa đưa tay vào tay anh. Cô cảm nhận được
những vết chai sần nơi tay anh. Cô thấy ngực anh sựng một hơi thở. “Vì em không đơn
độc; em có anh bên em. Và chúng ta không nên từ bỏ toàn bộ hi vọng. Biết đâu vẫn còn
cơ hội cho chúng ta. Để vượt mặt Mortmain, hoặc qua mặt ông ta. Nếu có ai có thể nghĩ
ra cách, người đó là anh.”

Anh quay sang nhìn cô. Rèm mi phủ xuống mắt anh khi anh nói, “Em thật tuyệt vời,
Tessa Gray ạ. Vì em tin anh, dù anh chẳng hề làm gì để xứng với nó.”

“Chẳng hề làm gì ư?” Cô lên giọng. “Chẳng hề làm gì để xứng với nó? Will, anh cứu em
từ tay Chị Em Hắc Ám, anh đẩy em ra xa vì muốn cứu em, và anh cứu em hết lần này tới
lần khác. Anh là người tốt, một trong những con người tốt nhất em biết.”

Will choáng váng như thể bị cô đẩy. Anh liếm đôi môi khô nẻ. “Anh ước em không nói
vậy,” anh thì thầm.

Cô nhoài người về phía anh. Gương mặt anh khuất trong bóng tối, góc cạnh và sắc nét.
Cô muốn chạm vào anh, vào viền môi anh, hàng mi phủ rợp xuống má. Lửa hắt ánh trong
mắt anh thành những điểm sáng nhỏ. “Will,” cô nói. “Lần đầu tiên em thấy anh, em nghĩ
anh giống người hùng từ trong sách bước ra. Anh đùa rằng anh là ngài Galahad. Nhớ
chứ? Và một thời gian dài em cố hiểu anh theo những cách khác – như thể anh là Darcy,
hay Lancelot, hay Sydney Carton khốn khổ tội nghiệp – và đó chỉ là tai họa. Em mất rất
lâu mới hiểu, nhưng em đã hiểu, và giờ em biết – anh không phải người hùng bước ra từ
sách truyện.”

Will cười một tiếng ngắn, không tin. “Đúng thế,” anh bảo. “Anh không phải người
hùng.”

“Không,” Tessa nói. “Anh là con người, giống như em.” Đôi mắt anh nhìn gương mặt cô,
hoang mang; cô nắm tay anh chặt hơn, đan tay vào tay anh. “Anh không thấy sao, Will?
Anh cũng là người như em. Anh giống em. Anh nói những điều em nghĩ nhưng chưa
từng dám nói ra. Anh đọc những cuốn sách em đọc. Anh yêu những bài thơ em yêu. Anh
khiến em cười vì những bài hát nực cười của anh và cách anh nhìn sự thật từ mọi chuyện.
Em có cảm giác anh có thể nhìn vào tâm hồn em và thấy mọi nơi em kì cục, hay quái lạ
và thấy bình thường, vì anh cũng kì cục và quái lạ hệt như vậy.” Với bàn tay không nắm
tay anh, cô chạm nhẹ vào má anh. “Chúng ta giống nhau.”

Mắt Will nhắm hờ; cô cảm nhận lông mi chạm vào đầu ngón tay cô. Khi anh cất tiếng,
giọng anh rệu rã nhưng được kiểm soát. “Đừng nói những lời đó, Tessa. Đừng nói.”

“Vì sao không?”

“Em nói anh là người tốt,” anh bảo. “Nhưng anh không tốt như thế. Và anh… anh yêu em
thê thiết.”

“Will…”

“Anh yêu em rất nhiều, nhiều đến khó tưởng,” anh tiếp tục, “và khi em gần với anh thế
này, anh quên mất em là ai. Anh quên mất em thuộc về Jem. Anh phải là dạng người tồi
tệ quá đỗi nên mới có những suy nghĩ như bây giờ. Nhưng anh đang nghĩ vậy đấy.”

“Em yêu Jem,” cô bảo. “Em vẫn yêu anh ấy, và anh ấy yêu em, nhưng em không thuộc về
ai hết, Will ạ. Trái tim em thuộc về em. Anh không kiểm soát được nó. Và em cũng
không kiểm soát được nó.”

Mắt Will vẫn nhắm. Ngực anh phập phồng nhanh, và cô nghe được tiếng đập của tim
anh, rộn ràng dưới khuôn ngực chắc. Cơ thể anh ấm, và sống, và cô nghĩ tới những bàn
tay lạnh lẽo của đám người máy động vào cô, cùng ánh mắt còn lạnh hơn của Mortmain.
Cô nghĩ tới chuyện sẽ xảy đến nếu cô còn sống và Mortmain làm được điều ông ta muốn
rồi cô bị xích với ông ta cả đời – một người cô chẳng yêu mà còn căm ghét là đằng khác.

Cô nghĩ tới cảm giác bàn tay lạnh của ông ta cầm tay mình, và nếu sau này chỉ còn đôi
bàn tay đó chạm vào cô mà thôi.

“Anh nghĩ ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì, Will?” Cô thì thầm. “Khi Mortmain tìm thấy
chúng ta. Anh nói thật cho em biết đi.”

Tay anh di chuyển cẩn thận, gần như bất đắc dĩ, trượt xuống tóc cô và dừng lại ở cần cổ
cô. Cô tự hỏi anh có cảm nhận được mạch đập của của cô khi anh chạm vào không. “Anh
nghĩ Mortmain sẽ giết anh. Hoặc chính xác hơn, ông ta sẽ sai đám lâu la kia giết anh.
Anh là hậu duệ Thợ Săn Bóng Tối, Tess à, nhưng đám người máy đó – không ai ngăn cản
được chúng. Những vũ khí khắc chữ rune đối với chúng cũng chỉ như những món vũ khí
bình thường, và dao thiên thần cũng chẳng xi nhê gì.”

“Nhưng anh không sợ.”


“Có rất nhiều điều còn kinh khủng hơn chết,” anh nói. “Không được yêu và không thể
yêu là một trong số đó. Và được chiến đấu như một Thợ Săn Bóng Tối không có gì là
nhục cả. Một cái chết vinh quang – anh luôn muốn được thế.”

Tessa rùng mình. “Có hai điều em muốn,” cô nói, và ngạc nhiên khi giọng mình vẫn bình
thản. “Nếu anh nghĩ Mortmain sẽ muốn giết anh vào ngày mai, vậy em ước được anh đưa
vũ khí. Em sẽ tháo dây chuyền thiên sứ, và sẽ chiến đấu bên anh, và nếu chúng ta hi sinh,
chúng ta vẫn có nhau. Vì em cũng muốn được chết vinh quang, như Boadicea.”

“Tess…”

“Em thà chết còn hơn làm công cụ của Ông Chủ. Đưa vũ khí cho em, Will.”

Cô cảm nhận được người anh run lên. “Anh có thể giúp em việc đó,” cuối cùng anh đành
chịu thua. “Còn việc thứ hai em muốn là gì?”

Cô nuốt nước bọt. “Em muốn hôn anh một lần trước khi chết.”

Mắt anh mở choàng. Chúng xanh, xanh như biển và trời trong giấc mơ của cô khi anh rơi
mất, xanh như màu hoa Sophie cài lên tóc cô. “Đừng…”

“Nói điều gì em không thật lòng muốn,” cô nói hết hộ anh. “Em biết. Em nói thật đấy,
Will. Và em biết điều này hoàn toàn không hợp lễ giáo. Em biết em có vẻ hơi điên.” Cô
nhìn xuống, rồi ngước lên, lấy dũng khí. “Và nếu anh dám nói anh có thể chết ngày mai
mà không cần đôi môi chúng ta chạm vào nhau, và anh không hề hối hận, vậy cứ nói, và
em sẽ không đòi hỏi nữa, vì em biết em không có quyền…”

Lời cô bị ngưng ngang, vì anh đã ôm cô kéo lại gần, và cúi xuống đặt môi lên môi cô.
Trong một tích tắc, nụ hôn đó đau đớn, đậm mùi tuyệt vọng, chẳng kiểm soát được đói
khát, và cô nếm được vị mặn cùng độ nồng ấm trong miệng cũng như hơi thở gấp gáp của
anh. Rồi nụ hôn dần dịu dàng, với lực kiềm chế cô có thể cảm nhận được bằng cả cơ thể,
và môi anh trượt trên môi cô, lưỡi và răng giao nhau, chuyển từ đau sang thỏa mãn chỉ
trong một khoảnh khắc.

Trên ban công nhà Lightwood, anh rất cẩn trọng, nhưng giờ anh không cẩn thận chút nào.
Tay anh vuốt xuống lưng cô, làm rối tóc cô, xoắn lớp vải lưng váy rộng thùng thình. Anh
gần như bế cô lên để cơ thể họ dán vào nhau; anh tì vào cô, cơ thể thon dài, rắn chắc và
mỏng manh cùng lúc. Đầu cô nghiêng sang bên khi anh dùng môi mình hé mở môi cô và
họ không còn là hôn nữa mà là ngấu nghiến nhau. Tay cô nắm chặt tóc anh, mạnh tới độ
chắc hẳn phải làm anh đau lắm, và răng cô vập vào môi dưới của anh. Anh rên lên và ôm
cô chặt hơn, khiến cô phải hít thở hổn hển.
“Will…” Cô thì thầm, và anh đứng lên, bế bổng cô trong tay, vẫn hôn cô. Cô bám chặt
vào lưng và vai anh khi anh bế cô tới giường và đặt xuống. Cô đã để chân trần; anh đá
giày và leo lên nằm cạnh cô. Một phần của khóa huấn luyện là cách cởi đồ đi săn, và tay
cô nhẹ nhàng, lanh lẹ di chuyển trên bộ đồ của anh, cởi các cúc khóa và kéo sang bên như
một cái vỏ. Anh bực bội vứt nó sang bên, quỳ thẳng cởi thắt lưng.

Cô quan sát anh, và nuốt khan. Nếu cô muốn bảo anh dừng lại, giờ là lúc rồi đó. Bàn tay
mang đầy vết sẹo của anh đang nhanh chóng tháo các móc gài, rồi khi anh quay người bỏ
thắt lưng bên giường, áo anh – ướt mồ hôi và dán vào người – tớn lên và cho cô thấy
đường hõm cong nơi bụng, xương hông vòng cung. Cô luôn nghĩ Will đẹp, mắt môi, và
mặt, nhưng cô chưa từng đặc biệt nghĩ tới thân thể anh theo cách đó. Nhưng hình dáng
của anh thật đẹp, như những góc cạnh bức tượng David của Michelangelo. Cô vươn tay
để chạm vào anh, để vuốt ve nhẹ như tơ nhện qua vùng da bụng phẳng của anh.

Phản ứng của anh ngay lập tức và giật mình. Anh hít một hơi và nhắm mắt, cơ thể bỗng
rất yên. Cô vuốt theo cạp quần, tim đập thình thịch, hầu như chẳng biết bản thân đang
làm gì – một bản năng nào đó đang điều khiển cô, một bản năng cô không thể định hình
hay giải thích. Tay cô nắm thắt lưng anh, ngón tay cái ấn xương hông, kéo anh xuống.

Anh từ từ nằm đè lên cô, chậm rãi, khuỷu tay chống hai bên vai cô. Mắt họ nhìn nhau,
chằm chằm, cả cơ thể họ chạm vào nhau, nhưng không ai nói năng gì hết. Cổ cô đau: cô
vừa thèm muốn lại vừa đau lòng. “Hôn em đi,” cô nói.

Anh từ từ, rất chậm cúi xuống, tới khi môi họ lướt qua nhau. Cô rướn lên, muốn được
chạm vào môi anh, nhưng anh lùi lại, nựng má cô, giờ môi anh áp vào khóe miệng cô –
và rồi theo quai hàm và xuống cổ, khiến cả cơ thể cô cảm nhận được từng cú giật dễ chịu
đáng kinh ngạc. Cô luôn nghĩ đến cánh tay, bàn tay, cô, mặt là những phần riêng biệt –
chứ không phải da cô không phải cái bao nhạy cảm, và mỗi nụ hôn nơi cổ khiến tận gót
chân cô cũng cảm nhận được.

“Will.” Tay cô nắm áo anh, và nó rời ra, nút áo bung, anh kéo áo qua đầu, khiến mái tóc
đen rối tung, giống như Heathcliff ngoài đồng hoang. Tay anh di chuyển trù trừ hơn trên
váy cô, nhưng cuối cùng cũng lột được nó qua đầu cô, và đặt sang bên, chỉ để lại Tessa
trong bộ đồ lót. Cô bất động, choáng ngợp vì chưa từng hở hang như vậy trước mắt ai trừ
Sophie, và Will bối rối nhìn cái áo corset của cô.

“Sao…” anh nói. “Cởi ra thế nào được?”

Tessa không đừng được; cô cười khúc khích. “Dây buộc ấy,” cô thì thầm. “Đằng sau
lưng.” Và cô dẫn dắt tay anh ra sau tới khi tay anh sờ vào dây áo. Bấy giờ cô rùng mình,
không phải vì lạnh mà vì sự thân mật của hành động ấy. Giờ Will nhẹ nhàng ôm cô, và lại
hôn theo cổ cô, chỗ vai hở ra, hơi thở chậm và nóng trên da cô tới khi cô thở dốc cũng hệt
vậy, tay vuốt ngược xuôi vai anh, cánh tay anh, hai bên người anh. Cô hôn những vết sẹo
trắng do Ấn Ký để lại trên da anh, ôm quấn lấy anh và cô nuốt từng hơi thở của anh khi
hôn cô.

“Tess,” anh thì thầm. “Tessa… nếu em muốn dừng…”

Cô lặng lẽ lắc đầu. Lửa trong lò lại sắp tàn; cơ thể cô trong bóng tối cảm nhận được mọi
đường nét, làn da mềm nhưng rắn chắc của anh. Không.

“Em muốn ư?” Giọng anh khàn.

“Vâng,” anh nói. “Còn anh?”

Tay anh vuốt theo đôi môi cô. “Làm điều này anh sẽ bị trời đất nguyền rủa mất. Vì điều
này anh dám từ bỏ tất cả.”

Cô cảm nhận mắt mình nóng lên, ầng ậng nước mắt, và cô vội chớp hàng mi ướt.
“Will…”

“Dw i’n dy garu di am byth,” anh nói. “Anh yêu em. Luôn yêu em.” Và anh di chuyển
che cơ thể cô bằng chính cơ thể mình.

Khuya tối hôm đó hoặc sáng sớm hôm sau, Tessa tỉnh giấc. Lửa đã tàn hẳn, nhưng căn
phòng được thắp sáng bởi ánh đuốc kì lạ dường như cứ chớp sáng chớp tắt không theo
quy luật và nguyên do gì.

Cô ngả người, chống khuỷu tay ngồi lên. Will đang ngủ bên cạnh, nằm im lặng vì kiệt
sức hoàn toàn. Anh trông thanh thản, dù – hơn cô từng thấy ở anh. Hơi thở anh đều đặn,
mí mắt hơi rung vì đang mơ.

Cô ngủ lại gối đầu trên tay anh, còn mặt dây chuyền thiên sứ vẫn đeo trên cổ cô, nằm trên
vai anh, ngay bên phải xương quai xanh của anh. Khi cô nhúc nhích, mặt dây chuyền
trượt đi và cô ngạc nhiên trông thấy rằng ở nơi nó từng áp lên da anh có một dấu ấn
không lớn hơn đồng shilling, mang hình một ngôi sao trắng bợt.
20

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT


Như những con rối,

Những bộ xương gầy ngược sáng

Nhảy điệu watze chậm

Rồi nắm tay nhau,

Dặt dìu khiêu vũ

Tiếng cười the thé

Vọng khắp nhân gian.

– Oscar Wilde, The Harlot’s House

“Nó đẹp quá,” Henry trầm trồ.

Các Thợ Săn Bóng Tối của Học Viện Luân Đôn – cùng Magnus Bane – đứng thành nửa
vòng tròn lố nhố trong hầm mộ, nhìn chằm chằm vào một bức tường đá trống trơn –
hoặc, chính xác hơn, vào thứ đã xuất hiện trên một bức tường đá trống trơn.

Đó là một ô tò vò phát sáng, cao chừng ba mét, và có lẽ rộng mét rưỡi. Nó không được
đục vào đá, mà được tạo ra từ những chữ rune phát quang bện vào nhau như dây leo quấn
trên hàng rào. Những chữ rune này không có trong Sách Xám – Gabriel hẳn sẽ nhận ra
nếu chúng quen thuộc – mà là những chữ rune anh chưa từng thấy. Chúng có vẻ là lạ của
một ngôn ngữ khác, nhưng độc nhất vô nhị, đẹp đẽ và khẽ hát về du hành và khoảng
cách, về không gian tối tăm cuộn xoáy cùng khoảng cách giữa các thế giới.

Chúng tỏa ánh sáng xanh nhợt nhạt trong bóng tối. Phần tường nằm trong viền bao chữ
rune biến mất - ở đó chỉ có bóng tối đặc quánh, như một cái hũ nút sâu hoắm.

“Quả thật đáng kinh ngạc,” Magnus nói.

Trừ pháp sư, tất cả đều mặc đồ đi săn và cầm theo vũ khí – thanh kiếm hai lưỡi Gabriel
yêu thích được đeo sau lưng, và anh chỉ muốn cầm lấy nó. Dù anh thích dùng cung,
nhưng anh cũng được một bậc thầy vốn học nghệ từ Lichtenauer dạy dùng trường kiếm,
và Gabriel tưởng tượng trường kiếm là sở trường của anh. Hơn nữa, khi đối phó với đám
người máy, cung tên sẽ không hữu dụng bằng thứ vũ khí có thể chẻ chúng ra từng mảnh.
“Nhờ vào anh cả đấy, Magnus,” Henry nói. Anh đang phát sáng – hoặc, Gabriel nghĩ, hẳn
là do ánh sáng từ những chữ rune hắt lên mặt anh ấy.

“Đâu có,” Magnus đáp. “Nếu không nhờ bộ óc thiên tài của anh, cái này sẽ chẳng bao giờ
xuất hiện.”

“Dù tôi thích nghe người ta tán dương nhau lắm,” Gabriel nói khi thấy Henry chuẩn bị
đáp lời. “Nhưng vẫn còn vài câu hỏi… cốt lõi về phát minh này.”

Henry bối rối nhìn anh. “Ví dụ?”

“Henry, em tin cậu ấy định hỏi liệu… ngưỡng cửa này…” Charlotte cất lời.

“Bọn anh gọi nó là Cổng Dịch Chuyển,” Henry nói. Nghe cách anh ấy nói là biết từ này
được viết hoa rồi.

“Có hoạt động không,” Charlotte nói nốt. “Anh kiểm nghiệm chưa?”

Henry có vẻ giật thột. “À, chưa. Không có thời gian. Nhưng em yên tâm, tính toán của
bọn anh chuẩn xác lắm.”

Trừ Henry và Magnus, tất cả đều nhìn Cổng Dịch Chuyển với vẻ hoảng hốt như mới.
“Henry…” Charlotte lên tiếng.

“Vậy, tôi nghĩ Henry và Magnus nên đi trước,” Gabriel nói. “Họ phát minh ra thứ trời
đánh này mà.”

Mọi người đều nhìn anh. “Cứ như thể cậu ấy thay thế Will vậy,” Gideon nói và nhướng
mày. “Họ nói những câu tương tự nhau.”

“Em không giống Will,” Gabriel gắt.

“Tôi cũng mong vậy,” Cecily nói, nhưng rất nhỏ nên anh tự hỏi có ai khác nghe thấy
không. Cô hôm nay trông rất xinh, nhưng anh không biết vì sao. Cô vẫn mặc bộ đồ đi săn
nữ tuyền đen như Charlotte, tóc được búi gọn gàng, và mặt dây chuyền hồng ngọc ở cổ
hắt ánh sáng xuống da cô. Nhưng, Gabriel cực lực nhắc nhở mình, vì họ sắp lao vào một
phi vụ nguy hiểm chết người, nghĩ xem Cecily có xinh hay không không phải ưu tiên
hàng đầu trong đầu anh. Anh nhắc mình ngừng ngay.

“Tôi không giống Will một chút nào hết,” anh nhắc lại.

“Tôi hoàn toàn đồng ý đi trước,” Magnus nói, tỏ vẻ chịu trận như thầy giáo trong phòng
đầy lũ học sinh bất trị. “Tôi cần vài thứ. Chúng ta đều hi vọng Tessa ở đó, có thể cả Will
nữa. Tôi muốn vài bộ đồ đi săn và vũ khí để cầm theo. Tất nhiên, kế hoạch của tôi là đợi
mọi người ở bên kia, nhưng nếu có bất kì… diễn biến không được lường trước nào, cứ
chuẩn bị trước vẫn hơn.”

Charlotte gật đầu. “Vâng – tất nhiên.” Chị nhìn xuống một lát. “Tôi không thể tin rằng
chẳng ai đến hỗ trợ chúng ta. Tôi nghĩ, sau lá thư của tôi, chí ít cũng phải có vài người…”
Chị ngừng lại, nuốt khan, và ngẩng cao đầu. “Để tôi đi gọi Sophie. Cô ấy sẽ chuẩn bị đồ
cho anh, Magnus. Rồi cô ấy, Cyril và Bridget cũng sớm tới hội nhóm với chúng ta thôi.”
Chị chạy lên cầu thang, Henry nhìn theo với vẻ yêu thương đượm lo lắng.

Gabriel không thể trách anh. Rõ ràng Charlotte thấy như bị lãnh một cú đấm trời giáng
khi không một ai đáp lại lời kêu gọi của chị và tới giúp họ, dù anh đáng ra có thể bảo
trước là họ không tới đâu. Con người ta về bản chất là ích kỉ, và rất nhiều người ghét
chuyện phụ nữ nắm quyền điều hành Học Viện. Họ sẽ không liều mạng vì chị. Chỉ vài
tuần trước, chính anh cũng nghĩ thế. Giờ đã quen biết Charlotte, anh ngạc nhiên nhận ra ý
tưởng liều mình vì chị lại là một vẻ vang, như thể hầu hết những người đàn ông nước
Anh sẵn sàng liều mình vì nữ hoàng.

“Làm sao để Cổng Dịch Chuyển hoạt động?” Cecily hỏi, liếc nhìn cái cổng vòm phát
sáng như thể đó là bức tranh trong phòng trưng bày, mái đầu đen nghiêng sang bên.

“Nó sẽ đưa em từ nơi này tới ngay nơi khác,” Henry nói. “Nhưng mẹo nằm ở chỗ – à, đó
là phép thuật.” Anh nói từ đó có chút lo lắng.

“Cô cần hình dung ra nơi mình định đến,” Magnus nói. “Nó không thể đưa cô tới nơi cô
chưa từng tới hay không tưởng tượng ra. Trong trường hợp này, để tới Cadair Idris,
chúng ta sẽ cần Cecily. Cecily, cô tin mình có thể đưa chúng ta đến gần Cadair Idris tới
mức nào?”

“Tới đỉnh luôn,” Cecily tự tin nói. “Có vài con đường mòn sẽ đưa anh lên núi, và tôi đã
cùng bố đi trên hai con đường như thế. Tôi vẫn nhớ đỉnh núi ra sao.”

“Tuyệt,” Henry nói. “Cecily, em sẽ đứng trước Cổng Dịch Chuyển và mường tượng đích
đến…”

“Nhưng cô ấy sẽ không đi trước, phải không?” Gabriel hỏi. Ngay khi lời rời khỏi miệng,
anh giật mình. Anh không hề định nói thế. “Ý tôi là: Cô ấy được huấn luyện ít nhất trong
số chúng ta; vậy sẽ không an toàn.”

“Tôi đi trước được,” Cecily nói, trông như chẳng biết ơn chút nào đối với sự quan tâm
của Gabriel. “Tôi chẳng thấy lí do nào…”
“Henry!” Đó là Charlotte, xuất hiện ở chân cầu thang. Đằng sau chị là những gia nhân
trong Học Viện, tất cả đều mặc đồ tập – Bridget, trông như thể chuẩn bị đi tuần tra buổi
sáng; Cyril, kiên định và quyết tâm; và Sophie, cầm theo một cái túi da lớn.

Đằng sau họ còn ba người đàn ông nữa. Họ cao ráo, mặc áo chùng da dê, di chuyển với
kiểu lướt đi lạ lùng.

Các Tu Huynh Câm.

Không giống bất cứ Tu Huynh Câm nào khác Gabriel từng thấy, những người này cầm
theo vũ khí. Thắt lưng vũ khí được đeo quanh eo, ngoài áo chùng, và từ thắt lưng của họ
đeo những thanh kiếm cong, dài, chuôi kiếm làm từ đá adamas lóng lánh, cùng vật liệu
được dùng để chế tạo thanh stele và dao thiên thần.

Henry bối rối ngước lên – rồi lỏn lẻn nhìn từ Cổng Dịch Chuyển tới hội Tu Huynh.
Gương mặt lốm đốm tàn nhang của anh tái đi. “Tu Huynh Enoch,” anh bảo. “Tôi…”

Bình tĩnh đi. Giọng Tu Huynh Câm kia vang trong đầu tất cả. Chúng tôi không đến để
cảnh báo anh vi phạm Luật, Henry Branwell ạ. Chúng tôi tới để sát cánh chiến đấu cùng.

“Chiến đấu cùng chúng tôi?” Gideon ngạc nhiên. “Nhưng Tu Huynh Câm không… ý tôi
là, các anh không phải chiến binh…”

Cái đó không đúng. Chúng tôi vẫn và mãi là Thợ Săn Bóng Tối, kể cả khi chúng tôi trở
thành Tu Huynh. Hội Tu Huynh Câm do chính Jonathan Thợ Săn Bóng Tối lập ra; và dù
chúng tôi sống cùng sách vở, nhưng chúng tôi được chọn chết cùng gươm giáo.

Charlotte đang vui vẻ. “Họ biết về lá thư của tôi,” chị bảo. “Họ đến rồi. Tu Huynh Enoch,
Tu Huynh Micah, và Tu Huynh Zachariah.”

Hai Tu Huynh đằng sau Enoch lẳng lặng gật đầu. Gabriel kìm cơn rùng mình. Anh luôn
thấy đám Tu Huynh Câm kì cục, dù anh biết họ là bộ phận không thể thiếu trong cuộc đời
Thợ Săn Bóng Tối.

“Tu Huynh Enoch cũng cho em biết lí do những người khác không tới,” Charlotte nói, nụ
cười biến mất khỏi gương mặt chị. “Quan Chấp Chính Wayland triệu tập cuộc họp Hội
Đồng sáng nay, nhưng chẳng nói gì với chúng ta hết. Luật quy định mọi Thợ Săn Bóng
Tối đều phải có mặt cơ mà.”

Henry thở một hơi qua hàm răng nghiến chặt. “Cái đồ ch… xấu tính,” anh nói nốt và vội
liếc Cecily, cô trừng mắt. “Hội Đồng họp làm gì?”
“Tìm người thay thế chúng ta lãnh đạo Học Viện,” Charlotte nói. “Ông ta vẫn tin
Mortmain sẽ tấn công vào Luân Đôn, và rằng họ cần một nhà lãnh đạo mạnh mẽ để
chống lại quân đoàn người máy kia.”

“Cô Branwell!” Sophie, đang đưa cái túi cho Magnus, suýt làm rơi. “Họ không thể!”

“À, họ thừa sức,” Charlotte nói. Chị nhìn gương mặt tất cả, và ngẩng cao đầu. Trong phút
giây đó, dù chị nhỏ bé thật, Gabriel nghĩ, chị trông vẫn cao lớn hơn Quan Chấp Chính.
“Chúng ta đều biết chuyện này sẽ đến,” chị bảo. “Không sao hết. Chúng ta là Thợ Săn
Bóng Tối, và nghĩa vụ của chúng ta là bảo vệ nhau và làm điều mình cho rằng đúng.
Chúng ta tin Will, và chúng ta tin ở Will. Lòng tin đã đưa chúng ta đi được tới đây; nó sẽ
đưa chúng ta đi xa hơn chút nữa. Thiên Thần sẽ dõi bước chúng ta, và chúng ta sẽ chiến
thắng.”

Mọi người im lặng. Gabriel nhìn mọi gương mặt xung quanh – tất cả đều tỏ rõ vẻ quyết
tâm – và kể cả Magnus, nếu anh ta không cảm động hay bị thuyết phục, cũng trầm ngâm
và tỏ ý tôn trọng chị. “Chị Branwell,” cuối cùng anh lên tiếng. “Nếu Quan Chấp Chính
Wayland không coi chị là một nhà lãnh đạo, ông ta là đồ ngốc.”

Charlotte gật đầu với anh. “Cảm ơn cậu,” chị nói. “Nhưng chúng ta không được lãng phí
thêm thời gian nữa… chúng ta phải đi, và nhanh lên, vì vấn đề này không đợi chúng ta
lâu hơn.”

Henry nhìn vợ một hồi lâu, rồi tiến về phía Cecily. “Em sẵn sàng chưa?”

Em gái Will gật đầu, và tiến tới đứng trước Cổng Dịch Chuyển. Ánh sáng lung linh từ nó
hắt bóng những chữ rune xa lạ lên gương mặt nhỏ nhắn, ngập tràn quyết tâm của cô.

“Mường tượng,” Magnus nói. “Hãy cố hết sức tưởng tượng như thể cô đang nhìn thấy
đỉnh Cadair Idris.”

Tay Cecily nắm chặt bên mình. Khi cô nhìn, Cổng Dịch Chuyển bắt đầu rung động,
những chữ rune rung rinh và thay đổi. Bóng tối trong cổng vòm bừng sáng. Đột nhiên
Gabriel không còn nhìn vào bóng tối nữa. Anh đang nhìn thấy một khung cảnh trông như
được vẽ trong Cổng Dịch Chuyển – đỉnh một ngọn núi xanh rì, cái hồ xanh thăm thẳm
như màu trời.

Cecily kêu khẽ một tiếng – rồi, tự ý, cô tiến lên, và biến mất qua cổng vòm. Cảnh tượng
đó giống như quan sát một bức họa bị tẩy sạch. Đầu tiên là tay cô biến mất trong Cổng
Dịch Chuyển, rồi đến cánh tay đang duỗi ra, rồi cả cơ thể.

Và cô biến mất.
Charlotte khẽ kêu lên. “Henry!”

Tai Gabriel ong ong. Henry trấn an Charlotte rằng vậy nghĩa là Cổng Dịch Chuyển đã
hoạt động, và không có chuyện xấu gì xảy ra hết, nhưng với Gabriel, đó như một bài hát
từ căn phòng khác vọng lại, một tràng câu từ chẳng có ý nghĩa. Anh chỉ biết rằng Cecily,
dũng cảm hơn tất cả, đã bước qua cái khung cửa xa lạ và biến mất. Anh không thể để cô
đi một mình.

Anh tiến lên. Anh nghe Gideon gọi tên mình, nhưng anh lờ đi; vượt qua Gideon, anh tới
Cổng Dịch Chuyển, và bước qua.

Trong một thoáng, anh chẳng thấy gì ngoài bóng tối. Rồi một bàn tay lớn dường như
vươn ra từ bóng tối tóm lấy anh, và anh bị kéo vào một cơn lốc đen xoay tít.

Phòng Hội Đồng rộng lớn vang rền những tiếng la ó.

Đứng giữa cái sân khấu cao cao là Quan Chấp Chính Wayland, nhìn đám đông đang gào
hét bằng vẻ mặt nôn nóng. Đôi mắt đen của ông nhìn khắp các Thợ Săn Bóng Tối tập hợp
trước ông: George Penhallow đang mải gào thét với Sora Kaidou của Học Viện Tokyo;
Vijay Malhotra đang chọc ngón tay gầy gò vào ngực Japheth Pangborn, người dạo này
chẳng mấy khi rời trang viên tại vùng quê Idris, và mặt hiện đang đỏ như trái cà chua.
Hai người nhà Blackwell đốp chát với Amalia Mogenstern đang quát lại họ bằng tiếng
Đức. Aloysius Starkweather, mặc tuyền đen, đứng bên một băng ghế gỗ, đôi tay nhăn
nheo dường như đang co lên bịt tai trong khi gườm gườm nhìn lên sân khấu bằng đôi mắt
già lão tinh tường.

Điều Tra Viên, đứng bên Quan Chấp Chính Wayland, dộng cây gậy gỗ xuống sàn mạnh
tới suýt làm vỡ gỗ lát. “ĐỦ RỒI!” Ông ta hét. “Tất cả trật tự, và trật tự ngay lập tức.
NGỒI XUỐNG.”

Cả phòng sững sờ – và khiến Quan Chấp Chính ngạc nhiên làm sao, họ ngồi thật. Không
im lặng, nhưng họ đã ngồi – mọi người đều có chỗ. Căn phòng đông tới độ muốn nổ
tung; hiếm khi có chừng này Thợ Săn Bóng Tối xuất hiện trong một buổi họp. Ở đây có
đại diện tới từ mọi Học Viện – New York, Bangkok, Geneva, Bombay, Kyoto, Buenos
Aires. Chỉ có các Thợ Săn Bóng Tối Luân Đôn, Charlotte cùng đồng bọn, là vắng mặt.

Chỉ có Aloysius Starkweather là còn đứng, cái áo khoác đen đã sờn phồng lên quanh lão
như đôi cánh quạ. “Charlotte Branwell đâu?” Lão hỏi. “Theo như thư ông gửi thì cô ấy
phải có mặt ở đây để giải thích nội dung lá thư gửi toàn thể Hội Đồng.”
“Tôi sẽ giải thích nội dung lá thư của cô ta,” Quan Chấp Chính nghiến răng nói.

“Được nghe từ chính cô ấy thì hay hơn,” Malhotra, đôi mắt đen hau háu nhìn từ Quan
Chấp Chính sang Điều Tra Viên và ngược lại. Điều Tra Viên Whitelaw trông hốc hác,
như thể ông ta đã qua vài đêm thức trắng; miệng ông ta mím chặt.

“Charlotte Branwell đã phản ứng thái quá,” Quan Chấp Chính nói. “Tôi xin chịu toàn bộ
trách nhiệm vì đã đưa cô ta vào vị trí lãnh đạo Học Viện Luân Đôn. Đáng ra tôi không
được làm chuyện đấy. Cô ta đã bị cách chức.”

“Tôi đã có dịp gặp và nói chuyện với cô Branwell,” Starkweather nói bằng giọng khàn
khàn của người Yorkshire. “Cô ta có vẻ không phải người dễ phản ứng thái quá.”

Trông như thể nhớ chính xác lí do ông mừng vì lão già Starkweather không còn tham gia
các buổi họp Hội Đồng, Quan Chấp Chính gay gắt nói: “Cô ta cũng có chỗ nhạy cảm, và
tôi tin cô ta trở nên… nhạy cảm quá.”

Xì xào và bối rối. Điều Tra Viên nhìn Wayland và nheo mắt nhìn tỏ vẻ chán ghét. Quan
Chấp Chính lườm lại. Rõ ràng là hai người đàn ông đang tranh cãi: Quan Chấp Chính đỏ
mặt giận dữ, ánh nhìn ông dành cho Điều Tra Viên ngập tràn ý bị phản bội. Rõ ràng là
Whitelaw không đồng tình với lời của Quan Chấp Chính.

Một người phụ nữ đứng lên từ hàng ghế đông đúc. Cô ta có mái tóc trắng ghim cao trên
đầu và mang dáng vẻ uy quyền. Quan Chấp Chính trông như đang thầm rên rẩm. Callida
Fairchild, cô của Charlotte Branwell. “Nếu ý ông là,” bà ta nói giọng lạnh băng, “cháu
gái tôi đưa ra những quyết định điên rồ và vô lí vì nó đang mang trong mình thế hệ Thợ
Săn Bóng Tối tiếp theo, thưa Quan Chấp Chính, tôi cho rằng ông nên nghĩ lại.”

Quan Chấp Chính nghiến răng. “Không có bằng chứng nào cho thấy lời tuyên bố của
Charlotte Branwell về chuyện Mortmain ở Wales là xác thực,” ông ta bảo. “Tất cả đều từ
báo cáo của Will Herondale, một kẻ còn chưa trưởng thành, và là một thằng con trai cực
kì vô trách nhiệm. Mọi bằng chứng, trong đó có nhật kí của Benedict Lightwood, đều chỉ
ra rằng sẽ có một cuộc tấn công vào Luân Đôn, và chúng ta phải dồn lực lượng đến đó.”

Phòng lại rôm rả bàn tán, cụm từ “một cuộc tấn công vào Luân Đôn” được nhắc đi nhắc
lại. Amalia Morgenstern dùng cái khăn tay ren phe phẩy quạt mát, trong khi Lilian
Highsmith, ngón tay vuốt ve đốc con dao găm thò ra từ cổ găng tay, trông có vẻ sung
sướng.

“Bằng chứng,” Callida nói. “Lời của cháu tôi là bằng chứng…”
Có những tiếng xì xào, và một phụ nữ trẻ đứng lên. Cô ta mặc chiếc váy xanh sáng và
mang vẻ thách thức. Lần cuối cùng Quan Chấp Chính thấy cô ta, cô ta khóc lóc đòi công
bằng trong chính phòng Hội Đồng này. Tatiana Blackthorn, nhũ danh Lightwood.

“Quan Chấp Chính nói đúng về Charlotte Branwell!” Cô ta nói. “Charlotte Branwell và
William Herondale đã giết chồng tôi!”

“Ồ?” Đó là Điều Tra Viên Whitelaw, giọng sặc mùi châm biếm. “Vậy chính xác là ai giết
chồng cô? Là Will hả?”

Có những tiếng lầm bầm kinh ngạc. Tatiana trông giận dữ. “Đấy không phải lỗi của bố
tôi…”

“Ngược lại,” Điều Tra Viên nói. “Chúng tôi không muốn để chuyện này bị phơi bày ra
trước toàn dân, cô Blackthorn, nhưng cô ép tôi đấy nhé. Chúng tôi đã mở cuộc điều tra về
cái chết của chồng cô, và đã xác định lỗi đúng thuộc về bố cô, lỗi nặng nhất. Đấy không
phải hành động của các anh cô – hay của William Herondale và Charlotte Branwell, trong
số những người khác của Học Viện Luân Đôn – họ Lightwood sẽ bị gạch khỏi mọi ghi
chép của Thợ Săn Bóng Tối và cô sẽ sống cả đời như một người phàm không bạn không
bè.”

Tatiana mặt đỏ rực và siết chặt nắm đấm. “William Herondale đã… anh ta đã nói những
lời xúc phạm tôi không thể nói ở đây với một quý cô…”

“Tôi không hiểu vấn đề đó nói ở đây có gì thích hợp,” Điều Tra Viên nói. “Một người có
thể sống không được tử tế nhưng luôn trung thực ở những vấn đề lớn hơn.”

“Ông cướp nhà của tôi!” Tatiana ré lên. “Tôi bị buộc phải sống nhờ lòng hảo tâm của gia
đình chồng như một ả ăn xin đói khát…”

Mắt Điều Tra Viên lấp lánh như viên đá trên nhẫn. “Nhà cô bị xung công, cô Blackthorn,
chứ không phải bị cướp. Chúng tôi đã lục soát căn nhà của gia đình Lightwood,” ông ta
lên giọng nói tiếp. “Nó chứa đầy bằng chứng cho thấy ông Lightwood có liên lạc với
Mortmain, cùng những cuốn nhật kí ghi chi tiết các hành vi xấu xa đồi bại và không thể
nói nổi. Quan Chấp Chính bảo nhật kí của người đàn ông đó là bằng chứng rằng sẽ có
cuộc tấn công vào Luân Đôn, nhưng vào thời điểm Benedict Lightwood chết, ông ta bị
điên vì bệnh đậu mùa quỷ. Kể cả nếu ông ta bị điên thì Mortmain cũng chẳng dại tiết lộ
kế hoạch thực sự cho ông ta.”

Trông khá tuyệt vọng, Quan Chấp Chính Wayland xen ngang. “Vấn đề Benedict
Lightwood đã được khép lại – được khép lại và không hợp để đưa ra bàn tán. Chúng ta ở
đây là để thảo luận về vấn đề Mortmain cùng Học Viện! Trước tiên, vì Charlotte
Branwell bị cách chức, và vấn đề chúng ta phải đối mặt chủ yếu nằm ở Luân Đôn, chúng
ta cần có người mới lãnh đạo Enclave Luân Đôn. Tôi để ngỏ cánh cửa đó. Có ai muốn
xung phong thay thế cô ta?”

Có tiếng xì xào và lầm bầm. George Penhallow đang định đứng lên – thì Điều Tra Viên
bực bội buột miệng: “Quá nực cười, Josiah. Chưa hề có bằng chứng rằng Mortmain
không ở nơi Charlotte nói. Chúng ta còn chưa hề bàn tới việc đưa quân tiếp viện giúp cô
ta…”

“Giúp cô ta? Ý ông là sao?”

Điều Tra Viên vẫy tay chỉ đám đông. “Cô ấy không ở đây. Vậy ông nghĩ những cư dân
Học Viện Luân Đôn ở đâu? Họ đã tới Cadair Idris hòng tìm Ông Chủ. Nhưng, thay vì bàn
xem chúng ta có nên giúp họ không, chúng ta lại triệu tập Hội Đồng để bàn tới chuyện
thay thế Charlotte?”

Quan Chấp Chính cũng hết kiềm chế nổi. “Không giúp gì hết!” Ông gầm lên. “Sẽ không
bao giờ có chuyện giúp những kẻ…”

Nhưng Quan Chấp Chính không bao giờ cho mọi người biết sẽ không được giúp đỡ ai, vì
ngay giây phút đó, một thanh kiếm thép sắc lạnh chết người, đã bay vun vút từ đằng sau
lưng Quan Chấp Chính và cắt ngọt đầu khỏi cơ thể ông ta.

Điều Tra Viên giật mình lùi lại, vớ cây trượng, khi máu văng tóe trước mắt ông ta; cơ thể
Quan Chấp Chính sụp xuống đất thành hai nửa ghê rợn: thân ông ta đổ xuống tạo thành
một vũng máu trên sân khấu, còn cái đầu lăn lông lốc như quả bóng tennis. Ông ta gục
xuống, cho thấy đứng đằng sau đó là một người máy – dáng người thuôn dài như bộ
xương người, mặc cái áo trấn thủ rách nát. Nó cười như cái đầu lâu khi rút thanh kiếm đỏ
tới tận chuôi và giương mắt nhìn đám đông Thợ Săn Bóng Tối đang bàng hoàng, câm
lặng.

Âm thanh khác duy nhất trong phòng đến từ Aloysius Starkweather, người đang khẽ
cười, rõ ràng là cười tự trào. “Cô ấy đã nói rồi,” lão thở khò khè. “Cô ấy đã bảo với các
người chuyện gì sẽ đến…”

Một lát sau người máy đã tiến lên, bàn tay móng vuốt phóng ra tóm cổ Aloysius. Máu ứa
ra từ cổ ông già khi sinh vật kia nhấc bổng lão lên trong lúc lão vẫn cười. Đám Thợ Săn
Bóng Tối bắt đầu la hét – rồi cửa mở và một đám người máy ào vào phòng.
“Chà,” một giọng rất ư ngạc nhiên nói. “Vụ này bất ngờ thật.”

Tessa ngồi bật dậy, kéo cái chăn dày bịch quanh người. Bên cạnh cô, Will khẽ nhúc
nhích, chống khuỷu tay, từ từ mở mắt. “Cái…”

Phòng ngập tràn ánh sáng chói lòa. Các cây đuốc cháy rực rỡ, và nơi này như được ánh
nắng ban ngày chiếu sáng. Tessa có thể thấy họ đã biến căn phòng bừa bộn ra sao: quần
áo rải rác khắp sàn và giường, cái thảm trước lò sưởi nhăn nhúm, ga giường quấn vào
người họ. Ở bên kia bức tường vô hình là một dáng người quen thuộc mặt bộ vét đen đẹp
mắt, một ngón tay đang ngoắc vào đỉa quần. Đôi mắt mèo của anh ta lấp lánh ánh vui vẻ.

Magnus Bane.

“Hai người nên dậy đi,” anh ta bảo. “Mọi người sẽ sớm vào cứu hai người, và tốt nhất là
hai người nên mặc đồ khi họ tới.” Anh ta nhún vai. “Còn về phần tôi, tôi vốn có tiếng cả
ngượng cơ mà.”

Will chửi thề bằng tiếng Wales. Anh đã ngồi dậy, cái chăn đắp quanh eo, và anh cố hết
sức nhúc nhích người chắn Tessa khỏi cái nhìn của Magnus. Tất nhiên anh ở trần, và
trong ánh sáng này, Tessa có thể thấy nước da nâu của tay và mặt nhạt thành màu trắng
hơn của ngực và vai. Cái vết hình ngôi sao trắng ánh lên như một tia sáng, và cô thấy mắt
Magnus nhìn vào đó, và nheo lại.

“Thú vị đấy,” anh ta bảo.

Will bực bội kêu một tiếng. “Thú vị hả? Nhân danh Thiên Thần, Magnus…”

Magnus nhăn nhở nhìn anh. Có gì trong đó – gì đó khiến Tessa có cảm giác Magnus biết
một điều họ không biết. “Nếu tôi mà là người khác, tôi hẳn sẽ có rất nhiều lời để nói với
hai người đó,” anh ta bảo.

“Tôi rất biết ơn anh đã kiềm chế.”

“Cậu sẽ sớm không ơn huệ gì tôi nữa đâu,” Magnus nói ngắn gọn. Rồi anh đưa tay lên
như định gõ cửa, và gõ vào bức tường vô hình giữa họ. Nó giống như nhìn một người thò
tay vào nước – những gợn sóng tỏa ra từ nơi những ngón tay anh ta chạm vào, và đột
nhiên bức tường trượt ra và biến mất, trong một cơn mưa ánh sáng xanh. “Đó,” pháp sư
nói và ném một cái bao da được thắt gút xuống chân giường. “Tôi mang đồ đi săn theo.
Tôi nghĩ hai người sẽ cần đồ mặc, nhưng không nhận ra cần đến mức nào.”

Tessa lườm anh ta qua vai Will. “Sao anh tìm ra chúng tôi tại đây? Sao anh biết… những
người khác nào đi cùng anh không? Họ ổn cả chứ?”
“Ờ. Mang theo vài người, đang chạy khắp chỗ này để tìm cô. Giờ mặc đồ vào,” anh ta
bảo và quay lưng cho họ chút riêng tư. Tessa, xấu hổ, vội vàng với cái túi, lục lọi tới khi
tìm được bộ đồ đi săn của mình, rồi đứng lên với cái chăn quấn quanh cơ thể và chạy vội
ra sau tấm bình phong cao cao kiểu Trung Hoa ở góc phòng.

Cô không hề nhìn Will; cô không dám. Sao cô có thể nhìn anh mà không nghĩ đến
chuyện họ đã làm? Tự hỏi anh có hoảng hốt không, liệu anh có dám tin ai trong hai người
họ dám làm ra chuyện đó sau khi Jem…

Cô bực bội tròng bộ đồ đi săn vào người. Cảm ơn thánh thần là bộ đồ, không như váy, có
thể tự cô dễ dàng mặc được. Qua tấm bình phong, cô nghe Magnus giải thích cho Will
rằng anh ta và Henry đã kết hợp giữa phép thuật và phát minh để tạo ra Cổng Dịch
Chuyển có thể đưa họ đi từ Luân Đôn đến Cadair Idris. Cô chỉ thấy họ là hai cái bóng
đen, nhưng thấy Will gật đầu an tâm khi Magnus liệt kê ra những người đi cùng – Henry,
Charlotte, anh em Lightwood, Cyril, Sophie, Cecily, Bridget và một nhóm Tu Huynh
Câm.

Nghe tới tên em gái, Will bắt đầu mặc quần áo nhanh hơn, và khi Tessa từ sau bình
phong bước ra, anh đã mặc đồ đi săn đâu vào đấy, giày đã buộc dây, tay đang đeo thắt
lưng vũ khí. Khi trông thấy cô, anh nở một nụ cười ngập ngừng.

“Những người khác đã tản ra khắp các hành lang để tìm hai người,” Magnus nói. “Chúng
tôi định sẽ tìm kiếm trong nửa tiếng rồi họp mặt tại phòng trung tâm. Tôi sẽ cho người
một lúc để… bình tĩnh lại.” Anh ta cười nhếch mép, và chỉ cánh cửa. “Tôi sẽ ở ngoài
hành lang.”

Ngay khi cửa đóng lại, Tessa đã trong vòng tay Will, tay vòng ôm cổ anh. “Ôi, lạy Thiên
Thần,” cô nói. “Vừa rồi thật ngượng quá.”

Will vuốt tóc và hôn cô, hôn lên mi mắt, má rồi môi cô, chỉ thoáng qua nhưng với sự trìu
mến và tập trung, như thể chẳng có gì quan trọng hơn. “Nghe em kìa,” anh nói. “Em bảo
‘Lạy Thiên Thần’ nghe cứ như Thợ Săn Bóng Tối ấy.” Anh hôn khóe miệng cô. “Anh
yêu em. Chúa ơi, anh yêu em. Anh đợi rất lâu mới nói ra được.”

Cô đặt tay nơi thắt lưng anh, lớp vải bộ đồ ram ráp dưới ngón tay anh. “Will,” cô ngập
ngừng nói. “Anh không… hối hận ư?”

“Hối hận?” Anh khó tin nhìn cô. “Nage ddim – em đúng là điên mới nghĩ anh hối hận,
Tess ạ.” Những mấu tay anh vuốt ve má cô. “Còn rất nhiều, rất nhiều điều anh muốn nói
với em…”
“Không,” cô trêu đùa. “Will Herondale, có nhiều điều hơn muốn nói ư?”

Anh lờ câu đó. “Nhưng giờ không phải lúc – nhất là khi Mortmain đang kề dao vào cổ
chúng ta, và nhất là Magnus ngoài cửa. Giờ là lúc để kết thúc tất cả. Nhưng khi chuyện
qua đi, Tess, anh sẽ nói tất cả những điều anh hằng muốn nói với em. Còn bây giờ…”
Anh hôn lên thái dương cô, rồi buông cô ra, mắt nhìn kĩ gương mặt cô. “Anh cần biết em
tin anh yêu em. Chỉ vậy thôi.”

“Em tin mọi lời anh nói,” Tessa cười nói, tay vuốt từ thắt lưng xuống đai vũ khí. Ngón
tay cô cầm lấy chuôi một con dao găm, và cô rút ra, mỉm cười khi anh ngạc nhiên nhìn
cô. Cô hôn má anh và lùi lại. “Sau cùng,” cô nói. “Anh không nói dối về hình xăm rồng
xứ Wales, đúng không?”

Căn phòng khiến Cecily nhớ đến bên trong nhà nguyện Saint Paul mà Will đã đưa cô tới
thăm vào một trong những ngày anh bớt cắm cảu, sau khi cô mới tới Luân Đôn. Đó là tòa
nhà lộng lẫy nhất cô từng đặt chân vào. Họ đã thử tiếng vọng bên trong Phòng Thầm Thì
và đọc bút tích của Christopher Wren: Si monumentum requiris, circumspice. “Nếu ngươi
tìm kiếm lăng mộ của người này, hãy nhìn xung quanh.”

Will đã giải thích ý nghĩa cho cô nghe, rằng Wren thích được nhớ đến bởi các tác phẩm
chứ không phải bởi một lăng mộ đá. Cả nhà thờ là một tượng đài do ông đục đẽo ra – và
theo cách đó, cả mê cung dưới núi, và nhất là căn phòng này, chính là công trình kỉ niệm
của Mortmain.

Ở đây cũng có một mái vòm, dù không có cửa sổ, chỉ trừ một cái hốc đục vào đá cao cao
bên trên. Tầng lửng hình vòng cung chạy quanh phần trên mái vòm, và có một cái bục
trên đó, có lẽ để người đứng trên nhìn xuống sàn đá nhẵn bên dưới.

Ở đây cũng có những bút kí trên tường. Bốn câu, khắc vào tường bằng thạch anh lấp
lánh.

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT THƯƠNG TIẾC.

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT HỐI HẬN.

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT GIỚI HẠN.

QUÂN ĐOÀN HỦY DIỆT KHÔNG BIẾT NGỪNG BƯỚC.


Trên sàn đá, xếp thành hàng, là hàng trăm người máy. Chúng mặc đủ loại quân phục và
im lìm như chết, đôi mắt kim loại nhắm nghiền. Cecily nghĩ chúng là những người lính
thiếc kích cỡ người thật. Quân đoàn Hủy diệt. Sáng tạo vĩ đại của Mortmain – một đội
quân không ai có thể ngăn cản, để tàn sát Thợ Săn Bóng Tối và không hề biết hối tiếc.

Sophie là người đầu tiên phát hiện ra căn phòng; cô ấy đã hét lên, và những người khác
đều chạy ào tới xem sao. Họ đã tìm thấy Sophie đứng đó, run rẩy, giữa hàng loạt những
sinh vật máy. Một con nằm dưới chân cô ấy; cô đã chém đứt chân nó, và nó nằm còng
queo như con rối bị cắt dây. Những con khác không nhúc nhích hay tỉnh giấc, mặc kệ
định mệnh của kẻ đồng hành, chính vì thế mà các Thợ Săn Bóng Tối mới dám đi lại giữa
chúng.

Henry đang quỳ bên cạnh một người máy vẫn không nhúc nhích; anh đã cắt tung đồng
phục và mở bộ ngực kim loại của nó ra để xem xét bên trong. Các Tu Huynh Câm đứng
gần anh, Charlotte, Sophie và Bridget cũng vậy. Gideon và Gabriel cũng đã quay lại,
những khám phá của họ đã chứng minh là vô ích. Chỉ có Magnus và Cyril là chưa thấy
đâu. Cecily không thể dằn cảm giác bất an đang ngày càng tăng – không phải về sự hiện
diện của đám người máy, mà là sự vắng mặt của anh trai. Hay là anh không có mặt ở đây
nên họ mới không tìm ra? Nhưng cô chẳng nói gì. Cô đã tự hứa với mình rằng, là một
Thợ Săn Bóng Tối, cô sẽ không làm nhộn nhạo, hay la hét, dù cho có chuyện gì xảy ra.

“Nhìn đi,” Henry nói khẽ. Trong ngực người máy là một đống rây dợ và gì đó Cecily
thấy giống một cái hộp kim loại, loại vẫn dùng để đựng thuốc lá. Khắc bên ngoài hộp là
biểu tượng con rắn cắn đuôi. “Ourobouros. Biểu tượng của vật chứa năng lượng quỷ.”

“Như trên Pyxis,” Charlotte gật đầu.

“Mà Mortmain trộm của chúng ta,” Henry xác nhận. “Anh đã từng đoán già đoán non
rằng đây chính là điều Mortmain âm mưu.”

“Cái gì chính là điều Mortmain âm mưu?” Gabriel hỏi. Mặt anh đỏ, đôi mắt xanh sáng rỡ.
Cầu trời phù hộ cho Gabriel, Cecily nghĩ, vì luôn hỏi đúng câu hỏi xuất hiện trong đầu
anh.

“Khiến lũ người máy hoạt động,” Henry lơ đãng nói, với lấy cái hộp. “Cho chúng ý thức,
thậm chí là ý chí…”

Anh ngừng khi ngón tay chạm vào cái hộp và nó đột nhiên bừng sáng. Ánh sáng, như ánh
sáng của đá phù thủy, ùa ra từ cái hộp và khắp ourobouros. Henry hét lên giật tay lại,
nhưng đã quá muộn. Tạo vật kia ngồi dậy, và nhanh như chớp tóm lấy anh. Charlotte hét
lên và lao tới, nhưng chị không đủ nhanh. Người máy, ngực vẫn mở ngoác, xốc nách
Henry và bẻ cơ thể anh như một ngọn roi quật xuống.

Cùng một tiếng rắc ghê hồn, và Henry lả đi. Người máy ném Henry sang bên và bạt tai
Charlotte một cú kinh hồn. Chị vật sang bên cạnh chồng khi người máy dấn một bước và
tóm Tu Huynh Micah. Tu Huynh Câm vung gậy đập vào tay người máy, nhưng sinh vật
kia dường như không để ý. Với tiếng rừ rừ máy móc nghe như tiếng cười, nó đưa tay xé
toạc cổ họng Tu Huynh.

Máu túa khắp phòng, và Cecily làm chính điều cô đã tự hứa không làm, là hét.
21

VÀNG BỪNG CHÁY


Hãy đưa ta cây cùng vàng bừng cháy:

Hãy đưa ta mũi tên tham vọng:

Đưa ta cây giáo: Mây kia rẽ ra!

Và đưa ta chiến xa lửa!

– William Blake, Jerusalem

Quá trình luyện tập của Tessa chưa từng cho thấy phải chạy với vũ khí đeo bên người
khó như thế nào. Với mỗi bước đi, con dao găm lại đập vào chân cô, mũi dao cào vào da
cô. Cô biết nó phải có bao – và trên thắt lưng của Will có lẽ có – nhưng nhận thức muộn
mằn giờ chẳng có tác dụng gì. Will và Magnus đang chạy hết tốc lực qua những hành
lang đá trong Cadair Idris, và cô đang cố sức theo kịp.

Magnus là người dẫn đường, và có vẻ anh ta rất biết họ đang đi đâu. Tessa chưa từng đi
trong cái hành lang quanh co rắc rối mà không bị bịt mắt, và Will thừa nhận anh chẳng
mấy nhớ về cuộc hành trình đơn độc tối qua.

Hành lang hẹp rồi mở rộng bất ngờ khi cả ba bọn họ tìm đường đi trong mê cung chẳng
hề có quy luật gì. Cuối cùng, họ tới một đường hầm rộng hơn, họ nghe thấy gì đó – một
tiếng hét kinh hoàng từ xa vọng lại.

Magnus căng thẳng. Will ngẩng phắt lên. “Cecily,” anh nói, rồi chạy nhanh gấp đôi lúc
trước, cả Tessa và Magnus đều phải cố lắm mới theo kịp. Họ đi qua một vài căn phòng lạ:
một có cửa hình như lốm đốm máu, một cửa Tessa nhận ra là phòng có cái bàn nơi
Mortmain ép cô Biến Hình, và phòng khác có rèm cửa kim loại và đồng xoắn xuýt nhau
trong cơn gió vô hình. Khi họ lao tới, tiếng hò hét và đấu đá càng lớn, cuối cùng họ xông
vào một căn phòng hình tròn rộng thênh thang.

Căn phòng đông nghẹt người máy. Từng hàng từng hàng, đông bằng lực lượng đã xông
vào cái làng vào cái đêm Tessa phải quan sát mà không thể giúp được gì. Hầu hết đứng
im, nhưng có một nhóm, ở giữa phòng, đang di động – di động và tham dự một trận chiến
dữ dội. Cảnh tượng này giống như trận chiến tại thềm Học Viện tái diễn khi cô bị bắt đi –
anh em Lightwood chiến đấu bên nhau, Cecily vung con dao thiên thần lấp lánh, thi thể
một Tu Huynh Câm nằm còng queo dưới đất. Tessa ngờ ngợ nhận thấy có hai Tu Huynh
khác đang chiến đấu bên cạnh các Thợ Săn Bóng Tối, gương mặt bị áo choàng có mũ che
kín, nhưng cô không tập trung vào họ. Cô đang nhìn Henry nằm bất động dưới đất.
Charlotte quỳ gối ôm anh như thể chị có thể che chắn anh khỏi trận chiến ác liệt đang
diễn ra xung quanh, nhưng Tessa đoán từ sắc trắng bệch của gương mặt và cơ thể bất
động của anh thì đã quá trễ để che chắn Henry khỏi bất cứ điều gì.

Will lao tới. “Đừng dùng dao thiên thần!” Anh hét. “Hãy dùng vũ khí khác! Dao thiên
thần vô dụng!”

Cecily, nghe thấy tiếng anh, giật mình ngay khi con dao thiên thần đã đâm vào người
máy đang chiến đấu với cô – và vỡ tan như bụi tuyết, lửa của nó biến mất. Đầu óc cô
quên cả phải cúi né bàn tay đang vung tới của tạo vật kia, nhưng đúng lúc đó, Cyril và
Bridget lao đến, Cyril vung một cây gậy to. Người máy gục xuống dưới cú đánh của
Cyril, còn Bridget, tóc đỏ rối bù vung mấy thanh kiếm kim loại, chém mở đường qua
Cecily để đến bên Charlotte: cô ấy chém đứt tay hai người máy bằng thanh kiếm của
mình trước khi quay người, đưa lưng về phía Charlotte, như thể cô ấy muốn dùng mạng
sống để bảo vệ lãnh đạo Học Viện.

Tay Will đột nhiên nắm chặt cẳng tay Tessa. Cô thoáng thấy gương mặt trắng tái, kiên
định của anh khi anh đẩy cô cho Magnus, rít lên. “Ở cùng cô ấy!” Tessa định cự nự,
nhưng Magnus đã giữ cô và lôi cô lùi lại khi Will lao vào trận hỗn chiến, chiến đấu để
mở đường tới với em gái.

Cecily đang đấu với một người máy to cộ, ngực vạm vỡ bên phải có hai cánh tay. Dao
thiên thần đã hóa đồ bỏ, thế nên cô chỉ còn thanh kiếm ngắn để tự vệ. Tóc cô bắt đầu tuột
khỏi ghim kẹp khi cô lao tới, đâm vào vai tạo vật kia. Nó rống lên như bò, và Tessa rùng
mình. Chúa ơi, những sinh vật này kêu những âm thanh thật ghê rợn; trước khi Mortmain
biến đổi chúng, chúng luôn im lặng – chúng từng là đồ vật; giờ chúng là sinh vật. Những
sinh vật xấu xa, giết người không gớm tay. Tessa dợm bước lên khi người máy chiến đấu
với Cecily tóm lấy vũ khí của cô ấy và giật, khiến cô ấy bước nhào lên – cô nghe Will hét
gọi tên em gái…

Và Cecily bị một Tu Huynh Câm đỡ lấy và đẩy sang bên. Cái áo choàng xoay xoay, anh
quay người đối diện với sinh vật kia, trượng giơ ra phía trước. Và người máy lao tới, Tu
Huynh tấn công bằng trượng, với tốc độ và lực khiến người máy phải thối lui, ngực bị
đập móp. Nó cố tiến tới tiếp, nhưng cơ thể bị cong quá đáng. Nó rú lên một tiếng bực tức,
và Cecily, loạng choạng đứng lên, hét một tiếng cảnh báo.

Một người máy khác đang lừng lững bên cạnh con đầu tiên. Khi Tu Huynh Câm kia quay
lại, người máy thứ hai đánh bay trượng khỏi tay anh và tóm lấy, nhấc bổng anh lên, dùng
cánh tay kim loại ghì chặt anh từ đằng sau trông như một cái ôm biến thái. Cái mũ của Tu
Huynh tuột xuống, và mái tóc bạc sáng lên như ánh sao trong căn phòng tối.

Tất cả dưỡng khí ngay lập tức rời bỏ hai lá phổi của Tessa. Tu Huynh Câm kia là Jem.

Jem.

Đó như thể cả thế giới ngừng lại. Mọi người đều đứng im, kể cả đám người máy, bị đóng
băng tại thời điểm ấy. Tessa nhìn chăm chăm Jem, và anh cũng nhìn cô. Jem, trong áo
chùng da dê của Tu Huynh Câm. Jem, với mái tóc bạc lòa xòa xuống mặt, chỉ còn điểm
vài sợi đen. Jem, hai bên má mang hai vết vết sẹo đỏ giống hệt nhau.

Jem, chưa chết.

Tessa, bừng tỉnh khỏi cơn thoảng thốt đờ đẫn, nghe Magnus nói gì đó, và thấy anh ta tóm
cánh tay cô, nhưng cô giằng ra và lao vào trận hỗn chiến. Anh ta hét gọi, nhưng cô chỉ
thấy có Jem – Jem tóm cánh tay người máy đang bóp cổ mình, những ngón tay cào mãi
không tìm được điểm bấu trên lớp da kim loại trơn bóng. Nó bóp mạnh thêm, và mặt Jem
bắt đầu đỏ ứ máu khi anh bị nghẹt thở. Cô rút dao, chém thẳng về trước để mở đường,
nhưng cô biết đó là không thể, biết cô không tới được kịp lúc…

Người máy gầm lên một tiếng và đổ nhào. Chân nó bị chém ngọt từ đằng sau, và khi nó
ngã, Tessa thấy Will từ tư thế khom người đứng lên, thanh trường kiếm cầm chắc trong
tay. Anh vươn tay về phía người máy như thể định tóm nó, ngăn nó đổ, nhưng nó đã đập
sầm xuống đất, nửa người trên đè lên Jem, cây trượng của anh lăn khỏi tay. Jem nằm im,
bị cỗ máy to tướng ghìm chặt xuống.

Tessa lao tới, chuồi dưới cánh tay đang duỗi ra của một sinh vật máy. Cô nghe Magnus
hét gì đó đằng sau, nhưng mặc kệ. Cô chỉ muốn tới bên Jem trước khi anh bị thương
nặng, thậm chí là bị đè bẹp – nhưng khi cô chạy – một bóng đen xuất hiện trước tầm mắt.
Cô dừng kít lại, và ngước lên nhìn gương mặt một người máy đang ngó cô lom lom,
những ngón tay móng vuốt với lấy cô.

Lực của cú ngã và sức nặng của người máy đè lên lưng khiến Jem bật hết hơi khi anh ngã
xuống đất, mạnh đến trầy da tróc vảy. Trong một thoáng, sao nhảy nhót trước mắt anh và
anh cố thở, ngực co giật liên hồi.

Trước khi anh trở thành Tu Huynh Câm, trước khi họ dùng con dao lễ đầu tiên rạch vài
đường lên da mặt anh để bắt đầu quá trình biến đổi, cú ngã, vết thương như thế này có thể
giết anh. Giờ, khi anh hít không khí vào phổi, anh thấy mình vặn vẹo, cố với lấy trượng,
kể cả khi tay sinh vật kia tóm vai anh…

Và cơ thể nó rung lên, cùng với tiếng ong ong kim loại đập trên kim loại. Jem cầm lấy
trượng và chọc ngược lên, đánh lệch đầu người máy ngay khi nửa trên cơ thể nó được
nâng khỏi anh và ném sang bên. Anh đá phần cơ thể vẫn đè nghiến lên chân anh, rồi nó
cũng biến mất và Will quỳ bên cạnh. Gương mặt Will mang màu tro.

“Jem,” cậu ấy nói.

Xung quanh họ yên tĩnh, một khoảng hở trong trận chiến, một sự im lặng dài đằng đẵng
kì quặc. Sức nặng của hàng ngàn điều chất chứa trong giọng Will: sự không tin và vui
mừng, nhẹ nhõm và bị phản bội. Jem bắt đầu cố gắng chống khuỷu tay ngồi lên khi thanh
kiếm của Will, dính dầu nhờn và mẻ một vài chỗ, rơi lanh canh xuống sàn.

“Bồ đã chết,” Will nói. “Tôi cảm thấy bồ đã chết.” Và cậu ấy đặt tay lên tim, lên cái áo
dính máu, nơi từng có chữ rune parabatai. “Ở đây.”

Jem nắm tay Will, và đặt những ngón tay người anh em kết nghĩa vào cổ tay mình. Anh
muốn parabatai của mình hiểu. Nghe mạch của tôi đi, nhịp máu chảy dưới da đây; Tu
Huynh Câm có tim, và nó đập được. Đôi mắt xanh của Will mở lớn. “Tôi không chết. Tôi
chỉ thay đổi. Giá như tôi có thể nói với bồ – nếu như có cách…”

Will nhìn anh chăm chăm, ngực trồi sụt liên hồi. Người máy cào vào một bên mặt Will.
Máu đang chảy ra từ vài vết thương sâu, nhưng có vẻ Will không để ý. Cậu ấy rụt tay
khỏi tay Jem và khẽ thở một hơi. “Roeddwn i’n meddwl dy fod wedi mynd am byth,” cậu
ấy nói. Will cất tiếng, không buồn suy nghĩ, bằng tiếng Wales, nhưng Jem vẫn hiểu. Chữ
rune của Tu Huynh Câm cho phép anh hiểu mọi ngôn ngữ.

Tôi tưởng bồ biến mất mãi mãi.

“Tôi vẫn còn đây,” Jem nói, rồi anh liếc thấy có gì đó chuyển động, và vội vàng lăn sang
bên. Một cây rìu sắt vun vút chém xuống đúng nơi anh vừa ngồi lúc trước, gây ra âm
thanh chát chúa. Vài người máy đang bao vây họ, tạo thành một vòng kim loại biết
chuyển động.

Will đứng lên, kiếm cầm trong tay, và họ đứng đấu lưng với nhau, rồi Will nói, “Không
chữ rune nào có tác dụng với chúng; ta phải dùng toàn lực chém chúng ra…”

“Hiểu.” Jem cầm chặt cây trượng và vung mạnh, đánh bay một người máy vào bức tường
gần đó. Ánh lửa tóe ra từ vỏ giáp kim loại của nó.
Will dùng kiếm chém thẳng, cắt đứt khớp đầu gối của hai người máy. “Tôi thích cây gậy
của bồ,” cậu ấy bảo.

“Là trượng.” Jem vung lên đánh bay một người máy khác. “Đồ của Nữ Tu Sắt, chỉ dành
cho hội Tu Huynh Câm.”

Will nhào tới, chém đứt cổ một người máy. Đầu nó lăn lông lốc, và hỗn hợp dầu cùng hơi
nước bay ra từ cái cổ đứt. “Bất cứ ai cũng vót nhọn gậy được.”

“Là trượng,” Jem nhắc lại và liếc thấy một nụ cười láu cá. Jem muốn cười lại – từng có
thời anh dễ dàng cười, nhưng gì đó trong quá trình biến đổi này khiến những hành động
thông thường đơn giản như cách anh nhiều triệu năm.

Căn phòng đầy những thân hình đang di chuyển và vũ khí vung lên nhoang nhoáng; Jem
chẳng thấy rõ một Thợ Săn Bóng Tối nào. Anh biết Will bên cạnh, phối hợp với anh rất
tốt, từng cú từng cú đánh. Khi kim loại va vào nhau, một phần sâu thẳm trong Jem, một
phần đã mất kể cả Jem cũng không biết nó đã mất, thấy được hưởng thụ lần cuối cùng
chiến đấu bên Will.

“Bồ nói gì cũng được, James ạ,” Will bảo. “Nói gì cũng được.”

Tessa quay lại, đâm ngược dao lên, thẳng vào bộ giáp kim loại của sinh vật kia. Lưỡi dao
xuyên qua kèm theo âm thanh nghe đinh tai; theo sau bởi – tim cô chùng xuống – một
tiếng cười ghê rợn. “Cô Gray,” một giọng trầm trầm nói, và cô ngước lên thấy gương mặt
trơn chuội của Armaros. “Chắc chắn cô phải hiểu chuyện hơn. Không một vũ khí tí hin
nào như thế có thể chém rời tôi, và cô cũng chẳng đủ sức.”

Tessa mở miệng định hét, nhưng bàn tay móng vuốt của nó đã tóm cô và nhấc bổng cô,
bịt miệng ngăn tiếng hét. Qua mọi chuyển động trong phòng, ánh kiếm và kim loại loang
loáng, cô thấy Will chém rời người máy đổ lên người Jem. Anh vươn tay di chuyển nó,
đúng lúc Armaros gầm gừ vào tai cô: “Tôi có thể được làm bằng kim loại, nhưng tôi có
trái tim quỷ, và trái tim quỷ của tôi đang thèm được nếm thịt cô.”

Armaros bắt đầu cõng Tessa quay lại, qua trận chiến, kể cả khi cô đá nó. Nó gạt đầu cô,
những móng tay sắc lẹm cào má cô. “Mày không được giết tao,” cô nói. “Thiên sứ tao
đang đeo đây sẽ bảo vệ mạng tao…”

“Ôi, không. Đúng là tôi không được giết cô, nhưng có thể làm cô bị thương. Và tôi có thể
khiến cô thương nặng. Tôi không có da thịt để cảm nhận khoái cảm, và những khoái cảm
duy nhất còn lại của tôi là được gây đau đớn. Khi thiên sứ cô đeo trên cổ bảo vệ cô –
cũng như những mệnh lệnh của Ông Chủ – tôi phải kiềm chế, nhưng nếu sức mạnh thiên
sứ mất khả năng – nếu có ngày đó – tôi sẽ sẵn sàng dùng bộ vuốt kim loại này xé xác cô.”

Họ đã ra ngoài vòng chiến sự, và con quỷ khênh cô vào một hốc, được một cột đá che đi
phần nào.

“Vậy làm đi. Tao thà chết trong tay mày còn hơn kết hôn với Mortmain.”

“Đừng lo,” nó nói và khi nó nói không hề thở, lời nó vẫn như hơi thì thầm lên da cô,
khiến cô rùng minh kinh hãi. Những ngón tay kim loại lạnh lẽo cầm tay cô như đôi còng
khi nó kéo cô vào bóng tối. “Cô sẽ được cả hai.”

Cecily thấy anh mình xẻ đôi người máy tấn công Tu Huynh Zachariah. Tiếng kim loại đổ
sầm xuống nghe muốn thủng màng nhĩ. Cô dợm bước tiến về phía Will, rút một con dao
găm khỏi thắt lưng – rồi ngã nhào vì bị gì đó tóm mắt cá lôi lại.

Cô ngã đập đầu gối cùng khuỷu tay xuống đất và vặn người nhìn thấy một bàn tay bị lìa
cơ thể đang tóm chân cô. Bị cắt đứt khỏi cổ tay; chất lỏng đen vẫn chảy ra từ các đường
ống, những ngón tay bấu chặt vào bộ đồ đi săn của cô. Cô vặn mình xoay trở, chém thứ
đó tới khi nó nới lỏng rồi rời ra và rơi xuống đất như một con cua chết, chỉ còn co giật
khe khẽ.

Cô bực bội làu bàu và đứng dậy, nhưng không thấy Will hay Tu Huynh Zachariah nữa.
Căn phòng là một vùng nhòe nhoẹt những chuyển động hỗn độn. Cô thấy Gabriel đứng
đấu lưng với anh trai, một chồng người máy đã hỏng nằm dưới chân họ. Bộ đồ đi săn của
Gabriel rách ở vai và anh đang chảy máu. Cyril nằm trên đất. Sophie đã di chuyển tới gần
anh ấy, dùng kiếm chém trái chém phải, vết sẹo nổi bật trên gương mặt xanh xao. Cecily
không thấy Magnus, nhưng cô có thể thấy những đường tia lửa xanh trong không khí cho
thấy sự hiện diện của anh ta. Và rồi là Bridget, rõ ràng đang di chuyển giữa những cơ thể
người máy di động, vũ khí của cô ấy vung loang loáng, mái tóc đỏ như một lá cờ xí bốc
lửa. Và dưới chân cô ấy…

Cecily bắt đầu mở đường qua đám đông về phía họ. Được nửa đường, cô vứt dao, nhặt
một cây rìu cán dài do một người máy làm rơi. Nó nhẹ bất ngờ, và tạo ra một tiếng sột
khi cô đánh nó vào ngực một con quỷ máy vươn tới bắt cô, khiến nó phải lùi vào bước.

Và rồi cô nhảy qua một chồng xác người máy, hầu hết đều bị chém lìa, chân tay vung vãi
khắp nơi – rõ ràng từ chỗ này bàn tay kia đã bò tới tóm chân cô. Ở phía bên kia đống xác
là Bridget, đang vừa tiến về hướng này vừa đẩy lùi một cơn thủy triều những con quái vật
máy đe dọa dấn tới chỗ Henry và Charlotte. Bridget chỉ liếc Cecily một cái khi cô gái trẻ
chạy qua và quỳ xuống cạnh thủ lĩnh Học Viện.

“Charlotte,” Cecily thì thầm.

Charlotte ngước lên. Gương mặt chị trắng bệch nỗi bàng hoàng, đôi đồng tử nở rộng đến
dường như nuốt mất sắc nâu nhạt của mắt chị. Cánh tay chị ôm ghì Henry, đầu anh dựa
vào đôi vai gầy của chị, tay chị đặt lên ngực anh. Anh dường như đã lả hẳn.

“Charlotte,” Cecily nhắc lại. “Chúng ta không thắng được trận này. Chúng ta phải rút
lui.”

“Chị không thể di chuyển Henry!”

“Charlotte… giờ chúng ta không giúp được anh ấy nữa rồi.”

“Không, không phải,” Charlotte hoảng hốt. “Chị vẫn cảm nhận được nhịp tim của anh
ấy.”

Cecily đưa một bàn tay ra. “Charlotte…”

“Chị không điên! Anh ấy còn sống! Còn sống mà, và chị không bỏ anh ấy đâu!”

“Charlotte, đứa bé,” Cecily nói. “Henry sẽ muốn chị cứu lấy mình.”

Gì đó lóe lên trong mắt Charlotte – chị ôm chặt Henry hơn. “Không có Henry, chúng ta
không thể đi,” chị bảo. “Chúng ta không tạo được Cổng Dịch Chuyển. Chúng ta bị kẹt ở
ngọn núi này.”

Cecily thở khẽ một hơi. Cô chưa hề nghĩ tới chuyện đó. Tim cô đang gửi một thông điệp
rõ ràng qua huyết quản: Chúng ta sắp chết. Chúng ta sẽ chết hết. Vì sao cô chọn điều
này? Chúa ơi, cô đã làm gì? Cô ngẩng đầu, liếc thấy ánh xanh và đen quen thuộc – Will?
Màu xanh làm cô nhớ ra gì đó – một tia lửa nhảy nhót trên đám khói…

“Bridget,” cô bảo. “Tìm Magnus đi.”

Bridget lắc đầu. “Nếu tôi đi, mấy người sẽ chết chỉ trong năm phút,” cô ấy bảo. Như thể
minh họa cho luận điểm ấy, cô chém thẳng một người máy đang lao tới như thể cô đang
chẻ củi. Sinh vật kia rơi thành hai mảnh bằng nhau chằn chặn.

“Chị không hiểu rồi,” Cecily nói. “Chúng ta cần Magnus…”

“Tôi đây,” Và anh ta ở đó, đứng trước mắt Cecily quá đột ngột và vô thanh khiến cô phải
nén tiếng hét. Có một vết thương dài trên cổ anh ta, nông nhưng vẫn chảy máu. Có vẻ
pháp sư cũng đổ máu đỏ như người. Ánh mắt anh ta dừng ở Henry, và nét buồn kinh
khủng, khó dò hiện rõ trên gương mặt anh ta. Đó là vẻ mặt của người đã chứng kiến hàng
trăm cái chết, người đã mất mát, mất mát và mất mát lại phải đối diện với một mất mát
nữa. “Chúa ơi,” anh ta nói. “Anh ấy là người tốt.”

“Không,” Charlotte nói. “Tôi bảo rồi, tôi cảm nhận được tim anh ấy còn đập – đừng nói
như anh ấy đã đi rồi thế…”

Magnus khuỵu gối và đưa tay chạm vào mí mắt Henry. Cecily tự hỏi anh ta có định nói
“Ave atque vale,” lời giã biệt truyền thống của Thợ Săn Bóng Tối, nhưng thay vào đó,
anh ta rụt tay, mắt nheo lại. Một lát sau, những ngón tay anh ta chạm vào cổ Henry. Anh
ta lầm bầm gì đó bằng ngôn ngữ Cecily không hiểu, rồi tới gần hơn, tay sờ quai hàm
Henry. “Chậm,” anh ta nói, nửa như với chính mình, “chậm, nhưng tim anh ấy còn đập.”

Charlotte thở một hơi mệt mỏi. “Tôi nói rồi mà.”

Mắt Magnus ngước lên nhìn chị. “Đúng. Tôi xin lỗi đã không nghe.” Ánh mắt anh ta lại
nhìn xuống Henry. “Giờ, mọi người yên lặng nhé.” Anh ta giơ bàn tay không chạm vào
cổ Henry, và búng tay. Không khí quanh họ ngay tức khắc đặc lại và cong đi như miếng
kính cũ. Một mái vòm đặc xuất hiện trên họ, nhốt Henry, Charlotte, Cecily và Magnus
trong một bong bóng yên tĩnh. Dù Cecily vẫn nhìn được căn phòng xung quanh, đám
người máy đang tả hữu xung đột, Bridget dùng thanh kiếm bết dầu đen chém trái chém
phải, nhưng bên trong, không gian hoàn toàn tĩnh lặng.

Cô vội nhìn Magnus. “Anh tạo tường bảo vệ.”

“Đúng.” Anh ta đang tập trung vào Henry. “Rất tốt.”

“Anh không thể tạo một cái bao hết chúng tôi được à? Để bảo vệ tất cả ấy?”

Magnus lắc đầu. “Làm phép tốn năng lượng lắm, cô bé ạ. Tôi chỉ có thể tạo lưới bảo vệ
thế này một lúc, và khi nó vỡ, chúng sẽ nhào vào chúng ta.” Anh ta nhoài tới, lầm bầm gì
đó và một tia lửa xanh lóe lên từ đầu ngón tay anh ta bay tới da Henry. Ngọn lửa xanh
dường như chui vào, tạo ra một dạng lửa chạy trong huyết quản Henry, như thể Magnus
đã đánh một que diêm đốt dây dẫn thuốc súng, ánh lửa theo đó cháy lên cánh tay, cổ và
gương mặt Henry. Charlotte, đang ôm chồng, liền kêu khẽ một tiếng khi cơ thể chồng co
giật, và anh ngóc đầu lên.

Mắt Henry mở choàng. Chúng hơi nhiễm sắc xanh của ngọn lửa cháy trong người.
“Tôi…” Giọng anh ấy khàn khàn. “Có chuyện gì vậy?”
Charlotte bật khóc. “Henry! Ôi, Henry yêu dấu.” Chị ôm ghì và điên cuồng hôn Henry,
và anh ấy đặt tay lên tóc chị và ôm nguyên vậy, cả Magnus và Cecily đều quay mặt đi.

Khi cuối cùng Charlotte cũng buông Henry, vẫn vuốt tóc anh và thì thầm, anh cố ngồi
dậy và ngã xuống. Mắt anh nhìn vào mắt Magnus. Magnus nhìn lảng đi chỗ khác, mí mắt
cụp xuống vì mệt mỏi và vì một cảm xúc khác. Gì đó khiến trái tim Cecily nghẹn lại.

“Henry,” Charlotte nói, có chút hoảng hốt. “Anh đau lắm à? Anh đứng được không?”

“Hơi đau thôi,” Henry nói. “Nhưng anh không đứng được. Anh không cảm nhận được
chân mình.”

Magnus vẫn nhìn sàn. “Tôi rất tiếc,” anh ta nói. “Có một số việc đến phép thuật cũng bó
tay, một vài vết thương tôi không chữa trị được.”

Vẻ mặt Charlotte buồn đến nỗi không ai nỡ nhìn. “Henry…”

“Anh vẫn tạo Cổng Dịch Chuyển được,” Henry ngắt lời. Máu chảy xuống từ khóe miệng
anh; anh lấy ống tay áo lau đi. “Chúng ta có thể thoát khỏi chốn này. Chúng ta phải rút
quân.” Anh cố quay người để nhìn xung quanh và nhăn mặt, da trắng bệch. “Chuyện gì
thế này?”

“Chúng ta không thể chọi với số đông thế này,” Cecily nói. “Mọi người đều đang phải
liều mình chiến đấu…”

“Liều mình, chứ không phải để thắng?” Henry hỏi.

Magnus lắc đầu. “Chúng ta không thể thắng. Không có hi vọng đâu. Ở đây có quá nhiều
người máy.”

“Còn Tessa và Will?”

“Will tìm thấy chị ấy rồi,” Cecily nói. “Họ ở đây, trong phòng này.”

Henry nhắm mắt, thở nặng nhọc, rồi lại mở mắt. Ánh xanh trong mắt anh bắt đầu nhạt.
“Vậy chúng ta phải tạo Cổng Dịch Chuyển. Nhưng trước hết phải làm mọi người chú ý
đã – tách họ khỏi đám người máy để tất cả không đều bị hút về Học Viện. Điều cuối cùng
chúng ta muốn là có bất cứ người máy nào bị lôi tới Luân Đôn.” Anh nhìn Magnus. “Tìm
đồ trong túi tôi hộ với.”

Khi Magnus đưa tay ra, Cecily nhận thấy tay anh ta hơi run. Rõ ràng nỗ lực duy trì lưới
bảo vệ bao quanh họ đã tác động đến anh ta.
Anh rút tay khỏi túi Henry, lấy ra một cái hộp vàng nho nhỏ, không hề có bản lề lộ hoặc
chốt mở.

Henry khó khăn lắm mới nói được nên lời. “Cecily… làm ơn, cầm lấy. Cầm lấy, và ném
đi. Ném mạnh và xa nhất có thể.”

Bàn tay run run của Magnus giao cái hộp cho Cecily. Nó ấm, dù cô không biết là vì nhiệt
độ bên trong hay do nó đã ở trong túi áo Henry.

Cô nhìn Magnus. Mặt anh hốc hác. “Tôi thấy hạ tường được rồi,” anh ta bảo. “Ném đi,
Cecily.”

Anh ta giơ tay. Những ánh lửa lóe lên; bức tường rung động rồi biến mất. Cecily vung tay
ném cái hộp.

Trong một thoáng, chẳng có chuyện gì xảy ra. Rồi có một tiếng nổ nhỏ – một âm thanh bị
hút vào trong, như thể mọi thứ trong phòng bị một lực hút lớn hút mất. Tai Cecily ong
ong, và cô thụp xuống đất, đưa tay ôm đầu. Magnus cũng quỳ, và nhóm nhỏ họ co cụm
bên nhau như có một cơn cuồng phong đang quần thảo trong phòng.

Gió rít gầm, và cùng với tiếng gió là tiếng kim loạt cọt kẹt rách ra khi những sinh vật máy
trong phòng bắt đầu loạng choạng lảo đảo. Cecily thấy Gabriel nhảy tránh một người máy
ngã xuống chân anh và bắt đầu co giật, bàn tay và bàn chân sắt của nó huơ huơ như thể
nó đau dữ dội. Mắt cô nhìn từ Will sang Tu Huynh Câm đang chiến đấu bên anh, mũ
trùm của anh ta đã rơi xuống. Giữa bao nhiêu chuyện đang xảy ra, Cecily cảm thấy bàng
hoàng thảng thốt. Tu Huynh Zachariah là… Jem. Cô đã biết, tất cả bọn họ đều biết, rằng
Jem đã tới Thành Phố Câm Lặng làm một Tu Huynh Câm hoặc chết trong quá trình ấy,
nhưng thấy anh còn khỏe mạnh đứng đây, cùng họ, chiến đấu bên cạnh Will như ngày
xưa, rằng anh có sức khỏe…

Có tiếng xoảng khi một con quỷ máy ngã xuống giữa Will và Jem, cố tách họ ra. Không
khí có mùi như trước lúc bão.

“Henry…” Tóc Charlotte lòa xòa xuống mặt.

Gương mặt Henry cau lại vì đau. “Đấy… là một dạng Pyxis. Dùng để tách linh hồn quỷ
khỏi cơ thể chúng trước khi chết. Anh không có đủ thời gian để… làm cho hoàn hảo.
Nhưng có thử cũng không sao.”

Magnus loạng choạng đứng lên. Giọng anh ta vang giữa tiếng kim loại đổ kềnh và tiếng
quỷ rú rít. “Đến đây! Tất cả! Tập hợp, hỡi Thợ Săn Bóng Tối!”
Bridget đứng nguyên vị trí, vẫn chiến đấu với hai người máy di chuyển bắt đầu giật cục
không đều, nhưng những người khác đang chạy lại: Will, Jem, Gabriel… nhưng Tessa,
Tessa đâu? Cecily thấy cùng lúc đó, Will đã nhận ra Tessa biến mất. Anh quay đầu, bàn
tay đặt trên cánh tay Jem, đôi mắt xanh lướt nhìn khắp phòng. Cô thấy môi anh mấp máy,
“Tessa,” dù cô chẳng thể nghe gì qua tiếng rít mỗi lúc một lớn của gió và tiếng kim loại.

“Dừng.”

Từ đỉnh mái vòm, một ánh sáng bạc bắn vào phòng như tia chớp, và nổ tung như những
tia lửa của pháo hoa vòng quay Catherine. Gió ngừng và dừng hẳn, để căn phòng im lặng
tuyệt đối.

Cecily ngước lên. Trên lan can là một người đàn ông mặc bộ vét cắt may đẹp đẽ, một
người mà cô nhận ra ngay tức khắc.

Mortmain.

“Dừng.”

Giọng nói đó vọng khắp phòng, khiến mọi mạch máu trong người Tessa như đông cứng
lại. Mortmain. Cô biết kiểu ăn nói, giọng ông ta kể cả không thể nhìn gì ngoài cột đá che
cái hốc Armaros lôi cô vào. Con quỷ máy vẫn giữ chặt cô, kể cả khi tiếng nổ nhỏ làm
rung chuyển căn phòng, theo sau là cơn cuồng phong gào rít thổi qua cái hốc, không tổn
hại gì đến họ.

Giờ im lặng bao trùm tất cả, và Tessa cực kì muốn đẩy cánh tay sắt đang giữ mình ra, để
chạy vào phòng xem có người bạn nào của cô, những người cô yêu quý bị thương, hay bị
giết không. Nhưng chống cự với nó giống như với bức tường vậy. Nhưng cô vẫn đá, đúng
lúc giọng Mortmain lại vang khắp phòng.

“Cô Gray đâu? Mang cô ta cho tôi.”

Armaros kêu mấy tiếng rừ rừ, rồi chuyển động. Nó bế bổng Tessa và đưa cô rời hốc
tường vào phòng chính.

Cảnh tượng thật hỗn loạn. Đám người máy đứng đơ, ngước nhìn chủ nhân của mình. Rất
nhiều con nằm ệp dưới đấp, hoặc bị chém thành nhiều mảnh. Sàn nhà nhờn máu và dầu.

Ở giữa phòng, đứng thành vòng tròn là các Thợ Săn Bóng Tối cùng những người đồng
hành với họ. Cyril đang quỳ trên mặt đất, một mảnh băng đẫm máu quấn quanh chân anh
ta. Gần anh ta là Henry, nửa ngồi nửa nằm trong vòng tay Charlotte. Anh tái, rất tái…
Mắt Tessa nhìn Will khi anh ngẩng đầu và trông thấy cô. Vẻ thất vọng thoáng qua mặt
anh, và anh tiến lên. Jem nắm tay áo anh. Mắt anh cũng nhìn Tessa; chúng mở to, đen và
ngập tràn kinh hãi.

Cô không nhìn họ, mà ngước lên nhìn Mortmain. Ông ta đứng bên lan can gác lửng, như
một giảng sư đứng trước các con chiên, và cười khẩy. “Cô Gray,” ông ta nói. “Rất vui vì
cô đã gia nhập cùng chúng tôi.”

Cô nhổ nước bọt, nếm thấy có vị máu trong miệng do bị móng tay người máy kia cào vào
má.

Mortmain nhướng mày. “Bỏ cô ta xuống,” ông ta bảo Armaros. “Nhưng cứ đặt tay trên
vai cô ta.”

Con quỷ cười khùng khục và tuân lời. Ngay khi giày Tessa chạm đất, cô đứng thẳng
lưng, ngửa mặt và hằm hằm lườm Mortmain. “Thấy cô dâu trước ngày cưới là xui lắm
đấy,” cô bảo.

“Quả vậy,” Mortmain nói. “Nhưng xui cho ai đây?”

Tessa không nhìn quanh. Cảnh tượng quá nhiều người máy, và nhóm Thợ Săn Bóng Tối
nhếch nhác sau trận chiến đang đứng sau chúng thật quá đau lòng. “Nephilim đã bước
vào pháo đài của ông,” cô nói. “Rồi sẽ có những người khác nối tiếp họ. Họ sẽ tiêu diệt
sạch đám người máy của ông. Đầu hàng đi, và có lẽ ông còn giữ được mạng.”

Mortmain ngửa cổ cười lớn, “Hoan hô, phu nhân,” ông ta nói. “Cô cầm chắc thất bại, vậy
mà dám đòi tôi đầu hàng.”

“Chúng tôi không thất bại,” Will lên tiếng, và Mortmain thở một hơi qua hàm răng
nghiến chặt, nghe rõ trong căn phòng vang động. Cùng lúc, toàn bộ người máy trong
phòng quay phắt đầu nhìn Will – một cảnh tượng đều tăm tắp đến là đáng sợ.

“Cấm mày nói một chữ nào, Nephilim,” Mortmain nói. “Lần sau có đứa nào mở mồm nói
một câu thôi, đấy sẽ là lần cuối cùng chúng mày được hít thở.”

“Thả họ ra,” Tessa nói. “Họ chẳng làm gì nên tội hết. Thả họ ra, và giữ tôi được rồi.”

“Giờ cô không phải người được đứng ra mặc cả,” Mortmain nói. “Cô đã sai nếu nghĩ
những Thợ Săn Bóng Tối khác sẽ đến giúp. Ngay lúc này, một lực lượng đông đảo người
máy của tôi đang chém nát Hội Đồng của các người.” Tessa nghe Charlotte kêu một tiếng
kinh hãi. “Nephilim mới thông minh làm sao khi túm tụm ở một chỗ, để tôi tiện tay diệt
gọn một lần.”

“Làm ơn,” Tessa nói. “Đừng làm gì họ. Ông có quyền phẫn uất với Nephilim. Nhưng nếu
tất cả đều chết, ai sẽ học được bài học từ đòn trả đũa của ông? Ai sẽ chuộc tội đây? Hãy
để họ sống. Hãy để họ nhận bài dạy của ông. Họ sẽ truyền lại cho thế hệ sau biết về ông.”

Ông ta trầm ngâm gục gặc, như thể đang cân nhắc lời cô nói. “Tôi sẽ tha mạng cho chúng
– tôi sẽ giữ chúng ở đây làm tù nhân. Có chúng bị cầm chân ở đây sẽ giúp cô hài lòng, và
nghe lời hơn” – giọng ông ta cay nghiệt – “vì cô yêu chúng, và nếu cô còn cố tẩu thoát,
tôi sẽ giết tất cả.” Ông ta ngừng. “Cô nói sao, cô Gray? Tôi đã rất rộng lượng rồi, và giờ
tôi muốn được cảm ơn.”

Âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng cọt kẹt từ đám người máy và tiếng máu Tessa
rền rền trong tai. Giờ cô nhận ra bà Black muốn nói gì khi ở trong xe ngựa. Và cô càng
biết nhiều về họ, càng thông cảm với họ, cô càng là vũ khí tróc họ tới tận gốc rễ hiệu
quả. Tessa đã trở thành một trong các Thợ Săn Bóng Tối, dù không hoàn toàn giống họ.
Cô quan tâm tới họ và yêu họ, còn Mortmain dùng sự quan tâm và yêu thương đó để trói
buộc cô. Để cứu vài người cô yêu mến, cô phải giết tất cả. Nhưng để tuyên Will, Jem,
Charlotte, Henry, Cecily và Henry cái chết là điều cô không muốn nghĩ đến.

“Vâng.” Cô nghe Jem – hoặc Will – kêu gì đó. “Vâng, tôi đồng ý.” Cô ngước lên. “Bảo
con quỷ này thả tôi ra, và tôi sẽ lên với ông.”

Cô thấy Mortmain nheo mắt. “Không,” ông ta nói. “Armaros, đưa cô ta lên đây.”

Tay con quỷ tóm chặt cánh tay cô; Tessa cắn môi nhịn đau. Như thấu hiểu, mặt dây
chuyền thiên sứ nơi cổ cô giật giật.

Chỉ một vài người mới có thể tuyên bố mình có thiên thần hộ mệnh. Và cô là một trong số
đó.

Tay cô đưa lên cổ. Thiên sứ dường như đang run lên dưới tay cô, như thể nó đang thở,
như thể nó cố nói gì với cô. Tay cô nắm chặt lấy nó, cánh nó chọc vào lòng bàn tay cô.
Cô nghĩ đến giấc mơ của cô.

Và… đây là hình dáng thật của ngài?

Cô thấy ở đây chỉ là một chút của ta. Trong hình dáng thật, ta lộng lẫy chết người.

Tay Armaros cầm chặt cánh tay Tessa.


Nó chứa trong đó mảnh linh hồn của một thiên thần, Mortmain đã nói vậy. Cô nghĩ về
vết ngôi sao trắng mặt dây chuyền để lại trên vai Will. Cô nghĩ đến gương mặt mịn màng,
đẹp đẽ, không cử động của thiên thần, đôi bàn tay lạnh ôm cô khi cô rơi khỏi xe ngựa
xuống dòng sông bên dưới.

Con quỷ bắt đầu nhấc cô lên.

Tessa nghĩ đến giấc mơ của cô.

Cô hít thật sâu. Cô không biết điều cô sắp làm đây có thể không, hay cô chỉ phát rồ thôi.
Khi Armaros dùng tay nhấc cô lên, cô nhắm mắt, vươn vào trong trí nhớ, vào thiên thần
của cô. Cô lục lọi một lúc trong vùng không gian tối, rồi một khoảng xám quên lãng, tìm
kiếm ánh sáng đó, tia sáng của linh hồn, sinh mệnh đó…

Và nó ở đó, một ngọt lửa đột ngột vọt lên, sáng hơn bất cứ tia sáng nào cô từng thấy. Cô
với lấy, quấn nó quanh mình, những dải lửa trắng thiêu đốt và làm phỏng da cô. Cô hét
lớn…

Và Biến Hình.

Lửa trắng chạy vọt khắp huyết quản cô. Cô vọt lên, đồ đi săn rách và tuột ra, lửa bùng
khắp quanh cô. Cô đang cháy. Cô là một ngôi sao sa. Tay Armaros vuột khỏi cơ thể cô –
nó vô thanh vô thức tan chảy và biến mất, bị lửa thiên đàng đang bốc khắp người Tessa
thiêu sạch.

Cô đang bay – bay lên. Không, cô đang lên cao, lớn lên. Xương cô dãn ra và dài hơn, một
tấm rèm được kéo lên và lên nữa khi cô lớn không tưởng. Da cô chuyển sắc vàng, và nó
dãn ra và bong ra khi cô bay lên như cây đậu thần trong câu chuyện thần tiên xưa, và nơi
nào da cô bị rách, máu vàng liền rỉ ra. Những luồng xoáy như những mảnh kim loại nóng
trắng nảy lên khỏi đầu cô, bao lấy gương mặt cô. Và từ lưng cô bung ra đôi cánh – đôi
cánh lớn, lớn hơn bất cứ cánh chim nào.

Cô chắc mình nên sợ. Nhìn xuống, cô thấy các Thợ Săn Bóng Tối ngước nhìn mình,
miệng há hốc. Cả phòng ngập tràn ánh sáng chói lòa, ánh sáng ùa ra từ cô. Cô đã trở
thành Ithuriel. Ngọn lửa thần của các thiên thần chiếu sáng qua cô, thiêu đốt xương tủy,
khiến mắt cô cay nóng. Nhưng cô thấy bình lặng như nước.

Giờ cô cao sáu mét. Cô đang nhìn thẳng vào mắt Mortmain, người đang kinh hoàng chết
trân, tay siết chặt lan can gác lửng. Sau cùng, mặt dây chuyền cũng là quà ông ta tặng mẹ
cô. Ông ta hẳn chẳng bao giờ tưởng tượng nó sẽ được dùng như thế này.

“Không thể nào,” ông ta hoang mang nói. “Không thể…”


Ngươi đã bắt nhốt một thiên thần của Thiên Đàng, Tessa nói, dù đó không phải giọng cô,
mà là Ithuriel nói qua cô. Giọng ngài vang khắp cơ thể cô như tiếng cồng. Cô mơ hồ tự
hỏi liệu tim mình có đập không – liệu thiên thần có tim không nhỉ? Chuyện này có lấy
mạng cô chăng? Nếu có thì cũng đáng. Ngươi cố tạo ra một mạng sống. Đấy là khả năng
của Thiên Đàng. Và Thiên Đàng không đối xử tốt với những kẻ tiếm quyền.

Mortmain quay người định chạy. Nhưng ông ta chậm, mọi con người đều chậm chạp.
Tessa đưa tay, bàn tay của Ithuriel, và tóm lấy người đàn ông đang bỏ chạy, nhấc bổng
lên. Ông ta kêu gào khi bị bàn tay thiên thần thiêu đốt. Ông ta quằn quại, người bốc cháy
khi Tessa siết chặt tay, nghiền nát cơ thể ông ta thành một đống bầy nhầy máu và xương
trắng.

Cô mở bàn tay. Cái xác bẹp dúm của Mortmain rơi xuống đất, giữa đống người máy của
chính ông ta. Có một sự rung động, một tiếng cọt kẹt lớn của kim loại như của một tòa
nhà đổ, và đám người máy bắt đầu gục xuống, từng con một, chẳng còn sự sống khi
không còn Ông Chủ. Cả một vườn hoa kim loại, héo úa rồi tàn lụi từng bông một, còn các
Thợ Săn Bóng Tối đứng giữa phòng, ngạc nhiên nhìn quanh.

Và rồi Tessa nhận ra cô vẫn có một trái tim, vì nó nảy lên sung sướng khi thấy họ còn
sống và an toàn. Nhưng khi cô dùng đôi bàn tay ánh vàng vươn về phía họ – một bên đỏ
sậm, máu Mortmain lẫn cùng máu vàng của Ithuriel – họ co người tránh luồng sáng
quanh cô. Không, không, cô muốn nói, tôi sẽ không bao giờ làm hại mọi người, nhưng lời
không được cất ra. Cô không nói được; cảm giác bị thiêu sống thật kinh khủng. Cô cố tìm
đường trở lại làm mình, Biến Hình về là Tessa, nhưng cô lạc trong ngọn lửa cháy rực,
như thể cô đã rơi vào tâm mặt trời. Lửa bùng khắp người làm cô đau đớn, và cô thấy
mình bắt đầu rơi, mặt dây chuyền thiên sứ nóng đỏ quanh cổ cô. Làm ơn, cô nghĩ, nhưng
tất cả đều là lửa và cháy, và cô rơi, bất tỉnh, vào luồng sáng.
22

SẤM VANG TRONG TIẾNG KÈN TRUMPET


Tới ngày sấm vang trong tiếng kèn trumpet,

Linh hồn có thể tách khỏi cơ thể, nhưng không gì có thể chia cắt đôi ta.

– Algernon Charles Swinburne, Laus Veneris

Đám sinh vật máy lôi Tessa ra khỏi màn sương mù đen sẫm. Lửa chạy khắp huyết quản
cô, và khi cô nhìn xuống, da cô nứt nẻ và nổi mụn nước, máu vàng chảy thành dòng
xuống cánh tay. Cô thấy cánh đồng bất tận của Thiên Đàng, thấy bầu trời cháy không dứt
tỏa ánh sáng chói lòa có thể làm đui mù mắt người. Cô thấy những đám mây bạc có rìa
sắc như dao cạo, và cảm nhận được cái trống trải lạnh băng khoét vào trái tim thiên thần.

“Tessa,” Đó là Will; dù ở đâu cô cũng nhận ra giọng anh. “Tessa, tỉnh, tỉnh dậy. Tessa,
làm ơn.”

Cô có thể nghe thấy sự đau đớn trong giọng anh và muốn vươn tay về phía anh, nhưng
khi cô nhấc tay, lửa bốc lên và khiến ngón tay cô hóa ra than. Tay cô biến thành tro rồi
bay trong cơn gió nóng.

Tessa lật người trên giường trong cơn sốt và ác mộng. Ga giường, quấn quanh cô, ướt
đẫm mồ hôi, tóc cô bết vào thái dương. Da cô, vẫn luôn trắng xanh, nay gần như trong
suốt, cho thấy rõ những mạch máu chạy chằng chịt bên dưới, hình dáng xương cô. Sợi
dây chuyền thiên sứ vẫn được đeo trên cổ; thi thoảng cô lại nắm lấy nó, và hét lạc giọng,
như thể chạm vào nó làm cô đau.

“Cô ấy đau đớn quá,” Charlotte nhúng khăn vào nước lạnh và áp lên trán nóng phừng
phừng của Tessa. Cô gái kêu khẽ vài tiếng phản đối khi bị chạm vào nhưng không nhúc
nhích gạt tay Charlotte ra. Charlotte hẳn sẽ thích được nghĩ rằng khăn lạnh sẽ giúp được,
nhưng chị biết chủ yếu là vì Tessa quá kiệt sức. “Chúng ta còn có thể làm gì không?”

Lửa thiên thần đang rời cơ thể cô ấy, Tu Huynh Enoch, đứng bên Charlotte, nói bằng
giọng thì thầm vào thẳng đầu người ta kì cục kia. Sẽ phải mất một thời gian. Cô ấy sẽ
ngừng đau khi nó hoàn toàn biến mất.

“Nhưng cô ấy sẽ sống chứ?”


Cô ấy đã sống được tới lúc này. Tu Huynh có vẻ ủ ê. Ngọn lửa đáng ra đã giết chết cô
ấy. Nó sẽ giết chết bất cứ người bình thường nào. Nhưng cô ấy là bán Thợ Săn Bóng Tối
bán quỷ, và cô ấy được thiên thần mang ngọn lửa đó bảo vệ. Ngài che chở cho cô ấy đến
tận những phút cuối khi nó bừng lên và đốt cháy xác phàm của chúng ta.

Charlotte không thể nào không nhớ lại căn phòng hình cung dưới Cadair Idris, Tessa
bước lên và biến hình từ một cô gái thành ngọn lửa, bốc cao như một cột lửa, mái tóc
chuyển thành những sợi tia sáng, ánh sáng chói mắt và thật kinh khủng. Co người bên
cạnh Henry, Charlotte đã tự hỏi sao thiên thần có thể cháy như thế mà vẫn sống.

Khi thiên thần rời bỏ Tessa, cô đã gục xuống, áo quần tả tơi còn da đầy những vết bỏng.
Vài Thợ Săn Bóng Tối đã chạy tới chỗ cô qua đám người máy nằm la liệt, dù Charlotte
chỉ thấy một cảnh tượng mờ mịt – những quang cảnh nhìn từ đôi mắt ngập tràn lo sợ cho
Henry: Will bế bổng Tessa lên; pháo đài của Ông Chủ bắt đầu đóng lại đằng sau họ, cửa
đóng sầm khi họ chạy vội qua các hành lang, ngọn lửa xanh của Magnus soi đường tẩu
thoát. Tạo ra Cổng Dịch Chuyển thứ hai. Thêm các Tu Huynh Câm khác đứng đợi họ ở
Học Viện, những bàn tay và gương mặt đầy những sẹo, đẩy cả Charlotte sang bên khi họ
tụ lại quanh Henry và Tessa. Will quay sang Jem, vẻ mặt hoảng loạn. Anh đang tìm
parabatai của mình.

“James,” anh đã bảo. “Bồ có thể tìm cách – xem họ sẽ làm gì với cô ấy – nếu cô ấy sống
được…”

Nhưng Tu Huynh Enoch đã chen vào giữa họ. Tên người này không phải James
Carstairs, anh ta bảo. Giờ đây là Tu Huynh Zachariah.

Vẻ mặt Will, cách anh buông tay xuống thể hiện rõ nỗi đau đớn. “Hãy để cậu ấy tự nói.”

Nhưng Jem chỉ quay lưng, và bước khỏi Học Viện, Will nhìn theo mà không tin nổi, còn
Charlotte nhớ lần đầu tiên hai chàng trai gặp nhau: Bồ sắp chết thật à? Tôi rất tiếc.

Chính Will, vẫn choáng váng và không tin, đã ngắc ngứ giải thích cho họ tất cả nghe
chuyện của Tessa: tác dụng của dây chuyền thiên sứ, câu chuyện về số mệnh đáng buồn
của nhà Starkweather, và chuyện Tessa được thụ thai. Aloysius đã đúng, Charlotte ngẫm
nghĩ. Tessa đúng là chắt của lão. Một hậu duệ lão không bao giờ được nhận, vì lão đã hi
sinh trong cuộc thảm sát Hội Đồng.

Charlotte không thể bắt mình ngừng tưởng tượng cảnh cửa phòng Hội Đồng bật mở và
đám người máy ùa vào. Khi đến họp, Thợ Săn Bóng Tối không hề bị yêu cầu không được
đem theo vũ khí, nhưng họ không hề chuẩn bị để tham chiến. Và hầu hết các Thợ Săn
Bóng Tối đều chưa từng đối mặt với một người máy. Kể cả tưởng tượng ra cảnh giết
chóc cũng khiến chị hoảng hốt. Chị bàng hoàng trước mất mát lớn của thế giới Thợ Săn
Bóng Tối, dù hẳn số người chết còn nhiều hơn nếu Tessa không hi sinh như vậy. Tất cả
người máy đã gục xuống cùng lúc Mortmain chết, kể cả những con trong phòng Hội
Đồng, và phần lớn Thợ Săn Bóng Tối đã sống sót, dù tổn thất nặng nề – trong đó có Quan
Chấp Chính.

“Bán quỷ bán Thợ Săn Bóng Tối,” Charlotte giờ đang lầm bầm và nhìn Tessa. “Vậy cô
ấy là gì?”

Dòng máu Nephilim vẫn trội hơn. Một dạng Thợ Săn Bóng Tối mới. Mới không phải lúc
nào cũng xấu, Charlotte.

Nhờ trong người Tessa chảy dòng máu Thợ Săn Bóng Tối mà họ có thể thử dùng chữ
rune trị thương cho cô, nhưng chúng chỉ chìm vào da cô rồi biến mất, như chữ viết trên
nước. Charlotte giờ đang vươn tay sờ vào xương quai xanh của Tessa, nơi từng vẽ một
chữ rune. Da cô nóng giãy.

“Dây chuyền thiên sứ,” Charlotte nhận xét. “Nó ngừng kêu tích tắc rồi.”

Thiên thần đã rời khỏi đó. Ithuriel đã được tự do, và Tessa không được bảo vệ nữa, dù
với chuyện Ông Chủ chết và cô ấy cũng là một Nephilim, chắc cô ấy sẽ được an toàn.
Miễn cô ấy không định biến thành thiên thần lần nữa. Lần đó cô ấy chết chắc.

“Còn những nguy hiểm khác.”

Chúng ta đều phải đối mặt với nguy hiểm, Tu Huynh Enoch nói. Anh ta vẫn dùng giọng
lạnh lùng, đều đều như khi bảo rằng Henry sẽ sống, nhưng không còn đi lại được.

Trên giường, Tessa khẽ động cựa, và khàn giọng hét lên. Trong giấc ngủ, kể từ trận
chiến, cô đã hét gọi rất nhiều cái tên. Cô đã gọi Nate, gọi dì, gọi Charlotte. “Jem,” giờ cô
thì thào, và nắm chặt ga giường.

Charlotte thôi nhìn Enoch khi với lấy cái khăn lạnh lần nữa và đặt lên trán Tessa. Chị biết
mình không nên hỏi, nhưng…

“Cậu ấy thế nào rồi? Jem của chúng tôi ấy? Cậu ấy… thích nghi với hội Tu Huynh
chưa?”

Chị cảm nhận được Enoch quở mắng. Cô biết là tôi không được nói mà. Cậu ấy không
còn là Jem của các cô nữa. Giờ cậu ấy là Tu Huynh Zachariah. Cô phải quên cậu ấy đi.
“Quên cậu ấy? Tôi không thể,” Charlotte nói. “Cậu ấy không giống những Tu Huynh
khác; anh biết mà.”

Nghi lễ biến một người thành Tu Huynh Câm là bí mật lớn nhất của chúng tôi.

“Tôi không hỏi để biết về nghi lễ của anh,” Charlotte nói. “Nhưng tôi biết hầu hết Tu
Huynh Câm đều cắt đứt mối liên hệ với cuộc sống phàm tục trước khi gia nhập hội.
Nhưng James không thể. Cậu ấy vẫn có những điều gắn cậu ấy với thế giới này.” Chị
nhìn Tessa, mí mắt hấp háy khi cô thở hổn hển. “Đó là dây buộc người này với người
khác, và trừ khi nó được cởi bỏ hợp lí, tôi sợ rằng nó sẽ làm hại tất cả.”

“Ôi người yêu dấu, nàng đang đến,

Cùng cảm giác nhẹ bẫng ngọt ngào

Trái tim ta nghe tiếng nàng và đập,

Kể cả nếu ta nằm sâu ba tấc đất

Tro bụi của ta vẫn nghe tiếng nàng và đập,

Nếu ta đã chết cả thế kỉ,

Ta cũng sống dậy và rung động dưới gót giày nàng,

Và đơm hoa đỏ hồng cùng tía.”

“Ôi, vì chúa,” Henry bực bội nói, vén ống tay cái áo choàng ngủ lên. “Em không thể đọc
gì ít buồn hơn hả? Gì đó có trận chiến thắng lợi thuộc về phe ta ấy.”

“Đây là thơ Tennyson,” Will nói và bỏ chân xuống khỏi cái ghế thấp gần lò sưởi. Họ
đang trong phòng khách, cái ghế của Henry được kê gần lò sưởi, một cuốn sách tranh để
mở trong lòng Henry. Anh ấy vẫn xanh xao như kể từ hồi trận chiến ở Cadair Idris, dù đã
bắt đầu hồng hào hơn chút đỉnh. “Thế tốt cho đầu óc anh hơn.”

Trước khi Henry kịp trả lời, cửa mở, và Charlotte bước vào, trông mệt mỏi, tay áo viền
ren của bộ váy rộng thùng thình dính nước. Will ngay lập tức đặt sách xuống, và Henry
cũng ngước lên khỏi cuốn sách tranh.

Charlotte nhìn từ người nọ đến người kia, để ý cuốn sách trên cái bàn nhỏ cạnh tách trà
bạc. “Em đọc sách cho Henry hả, Will?”

“Ừ, toàn thứ kinh khủng, toàn thơ với thẩn.” Henry một tay cầm bút và giấy lả tả khắp cái
chăn đắp chân anh.
Henry đón nhận tin xấu một cách dũng cảm kể cả khi các phương thuốc của hội Tu
Huynh Câm không thể giúp anh đi lại được. Và thấy mình cần làm ra một cái ghế, như
kiểu ghế Bath nhưng tốt hơn, có bánh xe tự lăn được và tất cả những trang bị khác. Anh
quyết tâm sẽ làm cho nó lên xuống cầu thang được, để anh có thể tiếp tục làm việc với
các phát minh dưới hầm mộ. Anh đã vẽ các bản thiết kế ghế đó suốt cả tiếng Will đọc cho
anh bài Maud, nhưng Henry chưa từng có hứng thú với thơ ca.

“Ừ, giờ cậu được giải lao rồi, Will. Còn Henry, anh khỏi phải nghe thơ nữa,” Charlotte
nói. “Nếu anh thích, chồng ạ, em sẽ giúp anh thu giấy tờ…” Chị đi ra sau ghế chồng và
với qua vai anh, giúp anh xếp giấy thành một chồng gọn gàng. Anh nắm cổ tay chị và
ngước nhìn chị – ánh mắt chứa sự tin tưởng và yêu thương khiến Will cảm giác như
những con dao nhỏ xíu đang cắt vào da thịt anh.

Không phải anh ghen với hạnh phúc của Charlotte và Henry – mà ngược lại. Nhưng anh
không thể không nghĩ đến Tessa. Tất cả những hi vọng anh từng nuôi nấng rồi sau đó
phải dẹp bỏ. Anh tự hỏi liệu anh có bao giờ nhìn cô như lần đó không. Anh không nghĩ
rằng vậy. Anh đã cố hết sức để phá bỏ lòng tin nơi cô, và dù anh chỉ muốn có một cơ hội
để xây dựng lại nó, nhưng anh vẫn sợ…

Anh đẩy những suy nghĩ tối tăm đó sang bên và đứng lên, định bảo mình đi thăm Tessa.
Trước khi anh kịp nói thì đã có người gõ cửa, và Sophie bước vào, trông cực kì căng
thẳng. Sự căng thẳng đó được giải thích ngay lúc sau khi Điều Tra Viên theo cô ấy vào
phòng.

Will, vẫn thường quen thấy ông ta mặc áo choàng lễ tại các buổi họp Hội Đồng, gần như
không nhận ra người đàn ông nghiêm nghị đó trong cái áo vét dài màu xám và quần đen.
Có vết sẹo lồi trên má ông ta mà hồi trước không có.

“Điều Tra Viên Whitelaw.” Charlotte đứng thẳng, vẻ mặt chuyển sang nghiêm trang.
“Sao hôm nay rồng lại đến nhà tôm vậy?”

“Charlotte,” Điều Tra Viên nói, và chìa tay. Ông ta đang cầm một lá thư mang dấu niêm
phong của Hội Đồng. “Tôi mang thư cho cô.”

Charlotte bối rối nhìn ông ta. “Ông không thể gửi qua bưu điện được à?”

“Lá thư này cực kì quan trọng. Tốt nhất là cô nên đọc ngay đi.”

Charlotte từ từ đưa tay ra nhận. Chị mở bì thư, rồi nhíu mày và đi lấy dao mở thư ở bàn
làm việc. Will nhân cơ hội đó để lén quan sát Điều Tra Viên. Người đàn ông đang nhíu
mày nhìn Charlotte và hoàn toàn lờ Will. Anh không thể không băn khoăn liệu vết sẹo
trên má Điều Tra Viên có phải từ cuộc chiến của Hội Đồng với đám người máy của
Mortmain không.

Will đã tưởng họ sẽ chết cùng nhau dưới ngọn núi đó, tới khi Tessa phát sáng rực rỡ
thành một thiên thần và đánh Mortmain như sét đánh trúng một thân cây. Đấy là một
trong những chuyện tuyệt diệu nhất Will từng trông thấy, nhưng nỗi niềm đó nhanh
chóng bị biến thành hoảng hốt lúc Tessa gục xuống sau khi Biến Hình, chảy máu và bất
tỉnh, dù cho họ lay cô mạnh thế nào. Magnus, gần kiệt sức, chỉ kịp mở Cổng Dịch
Chuyển về Học Viện với sự trợ giúp của Henry, và sau đó Will nhớ không rõ ràng lắm,
ấy là vì kiệt sức, chảy quá nhiều máu và sợ hãi, rằng các Tu Huynh Câm được triệu tập
đến để trị thương, và tin tức tới từ Hội Đồng về tất cả những người bị giết trong trận
chiến trước khi đám người máy đổ gục vì Mortmain chết. Và Tessa – Tessa không nói,
không tỉnh, được đưa về phòng bởi các Tu Huynh Câm, và anh không được đi cùng cô.
Anh chẳng phải anh em hay chồng cô để được đứng cạnh coi sóc cô, anh nắm rồi mở bàn
tay dính máu. Anh chưa từng thấy vô dụng như vậy.

Và khi anh quay sang tìm Jem, để sẻ chia nỗi sợ hãi với người duy nhất trên thế giới này
yêu Tessa như anh – Jem đã đi, trở về Thành Phố Câm Lặng cùng hội Tu Huynh. Đi
không hề tạm biệt.

Dù Cecily đã cố an ủi Will, nhưng anh vẫn giận – giận Jem, giận Hội Đồng và giận các
Tu Huynh Câm, vì đã cho phép Jem trở thành một trong số đó, dù Will biết thế là không
công bằng, rằng đó là lựa chọn của Jem và cách duy nhất để cậu ấy được sống. Nhưng từ
khi họ trở về Học Viện, Will thường xuyên thấy như say sóng – cảm giác ấy giống một
con thuyền được neo đậu nhiều năm và bị cắt dây mặc cho trôi theo sóng triều, mà không
biết phải định hướng về đâu. Và Tessa…

Tiếng xé giấy cắt ngang dòng suy nghĩ của anh, khi Charlotte mở lá thư và đọc, gương
mặt bỗng dưng trắng bệch. Chị ngước mắt và chăm chăm nhìn Điều Tra Viên. “Ông đùa
tôi à?”

Điều Tra Viên càng chau mày tợn. “Tôi xin đảm bảo là không đùa. Cô có đáp án chứ?”

“Lottie,” Henry nói, ngước nhìn vợ, kể cả mái tóc màu đỏ cam rối bù cũng tỏa ra sự căng
thẳng và yêu thương. “Lottie, có chuyện gì, có vấn đề gì sao?”

Chị nhìn anh, rồi lại nhìn Điều Tra Viên. “Không,” chị bảo. “Tôi không có câu trả lời.
Chưa có.”

“Hội Đồng không muốn…” ông ta cất lời, rồi dường như giờ mới trông thấy Will. “Nếu
tôi có thể nói chuyện riêng với cô, Charlotte.”
Charlotte ưỡn thẳng lưng. “Tôi không bảo Henry hay Will đi đâu.”

Hai người họ gườm gườm nhìn nhau. Will biết Henry đang lo lắng nhìn mình. Sau vụ bất
đồng giữa Charlotte và Quan Chấp Chính, cái chết của Quan Chấp Chính, tất cả đều nín
thở đợi Hội Đồng đưa ra đòn trừng phạt. Giờ họ nắm Học Viện rất mong manh. Will có
thể thấy nó ngay phút tay Charlotte run run, và môi chị mím chặt.

Anh đột nhiên ước Jem hoặc Tessa ở đây, một người anh có thể nói chuyện với, một
người anh có thể hỏi anh nên làm gì cho Charlotte, một người anh nợ quá nhiều.

“Không sao hết,” anh nói, đứng lên. Anh muốn gặp Tessa, kể cả khi cô không mở mắt,
không nhận ra anh. “Đằng nào em cũng định đi.”

“Will…” Charlotte phản đối.

“Không sao đâu, Charlotte,” Will nhắc lại và lách qua Điều Tra Viên để ra cửa. Vừa ra
hành lang, anh dựa lưng vào tường một lúc để trấn tĩnh lại. Anh không thể không nhớ lại
lời của mình – Chúa ơi, giờ nó như cả triệu năm trước, và không còn chút hài hước nào:
Quan Chấp Chính? Tới giữa bữa sáng của chúng ta? Gì tiếp đây? Điều Tra Viên tới
uống trà à?”

Nếu Học Viện bị tước khỏi tay Charlotte…

Nếu tất cả bọn họ mất đi mái ấm…

Nếu Tessa…

Anh không thể nghĩ hết. Tessa sẽ sống; cô phải sống. Khi anh đi theo hành lang, anh nghĩ
tới những sắc xanh lam, xanh lục, và xám của xứ Wales. Có lẽ anh có thể về đó, cùng
Cecily, nếu Học Viện bị lấy mất, và gầy dựng cuộc sống cho mình tại quê nhà. Đó sẽ
không phải cuộc sống của một Thợ Săn Bóng Tối, nhưng không có Charlotte, không có
Henry, không có Jem, Tessa hay Sophie, thậm chí là anh em nhà Lightwood chết tiệt, anh
sẽ không muốn là Thợ Săn Bóng Tối. Họ là gia đình anh, những con người yêu quý của
anh – anh nghĩ mình vừa vỡ lẽ ra, nhưng lại quá muộn.

“Tessa. Tỉnh dậy. Làm ơn, tỉnh dậy.”

Giờ là giọng Sophie xuyên qua bóng tối. Tessa cố gắng mở hé mắt chừng một tích tắc.
Cô thấy phòng mình trong Học Viện, đồ nội thất thân quen, rèm được kéo sang cho ánh
mặt trời yếu ớt vẽ những ô ánh sáng trên sàn. Cô cố bám trụ. Đây chính là khoảnh khắc
minh mẫn ngắn ngủi giữa cơn sốt và ác mộng – chưa bao giờ đủ, chưa bao giờ đủ thời
gian để động đậy, cất tiếng. Sophie, cô cố thì thào, nhưng đôi môi khô nứt không phát ra
được tiếng. Ánh sáng chiếu thẳng vào mắt, khiến thế giới như vỡ ra. Cô hét không ra
tiếng khi Học Viện vỡ tan và rơi vào vùng tối.

Chính Cyril cuối cùng cũng bảo Gabriel rằng Cecily đang trong chuồng ngựa, sau khi cậu
em nhà Lightwood dành rất nhiều thời gian trong ngày để tìm kiếm không ra kết quả –
dù, anh mong là không rõ ràng – khắp Học Viện.

Trời về tầm chạng vạng, và chuồng ngựa ngập tràn ánh đèn bão vàng ấm áp và mùi ngựa.
Cecily đứng bên cạnh tàu ngựa của Balios, đầu dụi vào cổ con ngựa ô to lớn. Tóc cô, gần
như đen như mực, buông xõa xuống vai. Khi cô quay lại nhìn anh, anh thấy viên hồng
ngọc đỏ trên cổ cô lóe sáng.

Gương mặt cô lộ nét quan tâm. “Có chuyện với Will sao?”

“Will ư?” Gabriel giật mình.

“Tôi chỉ nghĩ… vẻ mặt anh…” Cô thở dài. “Mấy ngày nay anh ấy phiền muộn quá.
Không chỉ chuyện Tessa bị ốm và bị thương, mà còn Jem nữa…” Cô lắc đầu. “Tôi cố tâm
sự với anh ấy về chuyện đó, nhưng anh ấy không chịu nói gì.”

“Tôi nghĩ giờ cậu ấy không muốn nói về chuyện Jem đâu,” Gabriel nói. “Tôi xin thú nhận
tôi không biết cậu ấy suy nghĩ ra sao. Nếu cô muốn, tôi có thể…”

“Không.” Giọng Cecily bình tĩnh. “Cứ để anh ấy như vậy đi.”

Gabriel tiến vài bước. Ánh sáng vàng dịu dàng của ngọn đèn dưới chân Cecily hắt sắc
vàng lên da cô. Tay cô không đeo găng, rất trắng tương phản với da con ngựa ô. “Tôi…”
anh cất tiếng. “Hình như cô rất thích con ngựa này.”

Anh thầm chửi rủa mình. Anh nhớ bố từng bảo rằng phụ nữ, phái yếu, thích được tán tỉnh
bằng những lời có cánh và những cụm từ đa nghĩa. Anh không hiểu chính xác cụm từ đa
nghĩa là sao, nhưng anh chắc chắn “Hình như cô rất thích con ngựa này” không phải.

Nhưng Cecily có vẻ không để tâm. Cô đang thẫn thờ vỗ con ngựa trước khi quay sang đối
diện với anh. “Balios cứu mạng anh trai tôi.”

“Cô định đi à?” Gabriel đột ngột hỏi.

Mắt cô mở to. “Sao cơ, anh Lightwood?”


“Đừng.” Anh giơ tay. “Đừng gọi anh là anh Lightwood. Chúng ta là Thợ Săn Bóng Tối.
Với em, anh là Gabriel thôi.”

Má cô ửng lên. “Gabriel vậy. Sao anh lại hỏi em định đi à?”

“Em đến để đưa anh trai về,” Gabriel nói. “Nhưng rõ ràng cậu ấy sẽ không về, phải
không? Cậu ấy yêu Tessa. Cậu ấy sẽ ở bất cứ nơi nào có cô ấy.”

“Chị ấy chưa chắc đã ở đây,” Cecily nói, đôi mắt khó dò.

“Anh nghĩ là có. Kể cả không, cậu ấy cũng sẽ đi theo cô ấy thôi. Và Jem – Jem đã trở
thành Tu Huynh Câm. Cậu ấy vẫn là Nephilim. Nếu Will muốn gặp lại cậu ấy, và anh
nghĩ chúng ta đều biết vậy, cậu ấy sẽ ở lại. Năm tháng đã thay đổi cậu ấy, Cecily. Giờ gia
đình của cậu ấy là ở đây.”

“Anh nghĩ anh đang nói cho em biết một chuyện tự em không nhìn thấy ư? Trái tim Will
nằm ở đây, không phải ở Yorkshire, trong ngôi nhà anh ấy chưa từng sống lấy một ngày,
với bố mẹ anh ấy không gặp nhiều năm trời.”

“Vậy, nếu cậu ấy không thể về nhà – anh nghĩ em có thể.”

“Để bố mẹ em không buồn. Đúng. Em có thể hiểu sao anh nghĩ vậy.” Cô lưỡng lự. “Anh
biết đấy, tất nhiên, trong vài năm nữa chắc em sẽ kết hôn rồi đằng nào cũng rời xa bố mẹ
thôi.”

“Nhưng không phải sẽ không bao giờ trò chuyện với họ nữa. Họ bị trục xuất rồi, Cecily.
Nếu em ở lại đây, em sẽ bị tách rời khỏi họ.”

“Anh nói như thể muốn thuyết phục em về nhà.”

“Anh nói vì anh sợ em sẽ về.” Lời buột miệng trước khi anh kịp nín lại; anh chỉ có thể
nhìn cô và má đỏ ửng vì ngượng.

Cô tiến thêm một bước về phía anh. Đôi mắt xanh của cô ngước nhìn anh thật lớn. Anh tự
hỏi từ khi nào chúng đã khiến anh ngừng nghĩ tới đôi mắt của Will; chúng chỉ là mắt của
Cecily, một sắc xanh chỉ mình cô mới có. “Khi em mới tới đây,” cô nói, “em nghĩ Thợ
Săn Bóng Tối là quái vật. Em nghĩ em phải cứu anh mình. Em nghĩ anh em em sẽ cùng
nhau trở về, và bố mẹ sẽ tự hào vì cả hai. Rằng bốn người sẽ lại là một gia đình. Rồi em
nhận ra – anh giúp em nhận ra…”

“Anh giúp em? Thế nào?”


“Bố anh không cho anh lựa chọn,” cô nói. “Ông ấy đòi hỏi anh được như ông ta muốn.
Và đòi hỏi ấy khiến gia đình anh tan nát. Nhưng bố em, ông chọn li khai cộng đồng
Nephilim và cưới mẹ em. Đó là lựa chọn của ông, cũng như ở cùng Thợ Săn Bóng Tối là
lựa chọn của Will. Chọn yêu thương hay chiến tranh: cả hai đều là lựa chọn dũng cảm,
theo cách của riêng họ. Và em không nghĩ bố mẹ em giận Will vì lựa chọn của anh ấy.
Hơn hết, với họ điều quan trọng nhất là anh ấy hạnh phúc.”

“Nhưng lựa chọn của em là gì?” Gabriel hỏi, và họ đã rất gần, gần như chạm vào nhau.
“Giờ đến lượt em lựa chọn, ở hay đi.”

“Em sẽ ở lại,” Cecily nói. “Em chọn cuộc đời chiến binh.”

Gabriel thở một hơi anh không nghĩ mình nén lại nãy giờ. “Em từ bỏ gia đình mình?”

“Một ngôi nhà cũ lạnh lẽo nơi Yorkshire?” Cecily nói. “Đây là Luân Đôn.”

“Và từ bỏ những gì quen thuộc?”

“Quen thuộc chán lắm.”

“Và từ bỏ cơ hội được gặp bố mẹ? Thế là trái Luật…”

Cô cười, một nụ cười sáng lạn. “Mọi người đều phạm Luật mà.”

“Cecy,” anh nói và xóa sạch khoảng cách vốn chẳng nhiều giữa họ, và rồi anh hôn cô –
tay anh lúc đầu ngượng nghịu đặt trên vai cô, trượt xuống lớp vải hồ cứng của chiếc váy,
trước khi những ngón tay anh đặt lên gáy, vuốt me mái tóc mềm ấm của cô. Cô sững
người vì ngạc nhiên, trước khi dựa vào anh, môi hé mở cho anh nếm vị ngọt đôi môi cô.
Khi cuối cùng cô rời ra, anh thấy đầu choáng váng. “Cecy?” Anh nhắc lại, giọng khàn
khàn.

“Năm,” cô nói. Môi và má cô đều phớt hồng, nhưng ánh nhìn kiên định.

“Năm?” Anh bối rối nhắc lại.

“Điểm của em cho anh,” cô nói và mỉm cười với anh. “Kĩ thuật và kĩ năng của anh có lẽ
cần luyện thêm, nhưng rõ ràng anh có năng khiếu. Anh chỉ cần luyện tập thôi.”

“Và em sẵn lòng làm giáo viên cho anh chứ?”

“Em sẽ bị sỉ nhục nếu anh chọn người khác,” cô nói và nhón chân hôn anh lần nữa.
Khi Will vào phòng Tessa, Sophie đang ngồi bên giường cô, khẽ lầm bầm gì đó. Cô ấy
quay lại khi cửa đóng sau lưng Will. Khóe miệng cô trễ xuống lộ vẻ lo âu.

“Cô ấy sao rồi?” Will hỏi, thọc sâu tay vào túi quần. Thật đau lòng khi thấy Tessa thế
này, đau lòng hệt như có một mảnh băng cắm vào dưới xương sườn anh và đang nhăm
nhe chọc vào tim anh. Sophie đã tết gọn mái tóc nâu dài của Tessa để nó không bị rối khi
cô xoay người trong cơn mê sảng. Cô thở dồn, ngực phập phồng nhanh chóng, mắt
chuyển động dưới đôi mí mắt xanh xao. Anh tự hỏi cô đang mơ gì.

“Vẫn vậy,” Sophie nói, duyên dáng đứng lên và nhường anh cái ghế bên giường. “Cô ấy
lại nói mớ rồi.”

“Có gọi rõ tên ai không?” Will hỏi, và rồi đột nhiên tiếc đã hỏi. Động cơ của anh rõ rành
rành đến nực cười.

Đôi mắt màu nâu lục nhạt của Sophie tránh nhìn anh. “Gọi anh trai cô ấy,” cô ấy nói.
“Nếu cậu muốn có chút riêng tư với Tessa…”

“Vâng, làm ơn, Sophie.”

Cô ấy dừng tại cửa. “Cậu William,” cô ấy nói.

Đã ngồi xuống cái ghế bành bên giường, Will ngoái lại nhìn.

“Tôi rất tiếc vì đã nghĩ và nói xấu cậu bao nhiêu năm qua,” Sophie nói. “Giờ tôi hiểu cậu
chỉ làm điều tất cả chúng ta đều cố gắng. Cố hết sức.”

Will đưa tay đặt lên tay trái của Tessa, và tay cô nóng bỏng dưới chăn. “Cảm ơn,” anh
nói, không thể nhìn thẳng Sophie; một lát sau anh nghe tiếng cửa khẽ khàng đóng lại.

Anh nhìn Tessa. Cô im lặng, mi mắt hấp háy khi cô thở. Mắt cô trũng vào xanh đen,
mạch máu như một món đồ bạc chạm tinh tế ở thái dương, và bụng cổ tay. Khi anh nhớ
lại cô cháy sáng rực rỡ, thật khó tin rằng cô lại mong manh như lúc này. Tay cô nóng
bỏng, và anh anh vuốt ve mu bàn tay lên má cô, da cô bừng bừng nóng.

“Tess,” anh thì thầm. “Địa ngục lạnh lắm. Em có nhớ khi em nói vậy với anh không? Lúc
đó chúng ta đang ở trong hầm Ngôi Nhà Hắc Ám. Mọi người khác sẽ hoảng loạn, nhưng
em điềm đạm như một cô gia sư khi nói với anh rằng địa ngục toàn băng. Nếu là lửa thiên
đường cướp em khỏi anh thì thật quá nực cười.”

Cô hít một hơi sâu, và giây phút đó tim anh nảy lên – cô nghe thấy tiếng anh chăng?
Nhưng mắt cô vẫn nhắm chặt.
Tay anh siết chặt tay cô.

“Tỉnh dậy đi,” anh nói. “Tỉnh dậy với anh đi, Tessa. Henry bảo có lẽ vì em đã chạm vào
linh hồn một thiên thần, nên em đang mơ thấy Thiên Đàng, thấy những cánh đồng của
thiên thần và hoa lửa. Có lẽ em đang hạnh phúc trong những giấc mơ đó. Nhưng anh cầu
xin điều này hoàn toàn vì lòng ích kỉ. Hãy trở lại với anh. Vì anh không thể chịu nổi mất
cả con tim mình.”

Đầu cô chầm chậm xoay về phía anh, môi hé mở như định nói gì. Anh nhoài tới, tim đập
thình thịch.

“Jem?” Cô nói.

Anh sững sờ, không nhúc nhích, tay vẫn nắm tay cô. Mắt cô hấp háy mở – xám như bầu
trời trước mưa, xám như những núi đá phiến tại Wales. Giống như màu nước mắt. Cô
nhìn anh, xuyên qua anh, nhưng chẳng hề trông thấy anh.

“Jem,” cô nhắc lại. “Jem, em rất tiếc. Tất cả là lỗi của em.”

Will lại nhoài tới. Anh không thể đừng được. Cô đang nói, lần đầu tiên trong suốt nhiều
ngày qua. Kể cả là không phải nói với anh.

“Đấy không phải lỗi của em,” anh nói.

Bàn tay nóng giãy của cô cũng siết lấy tay anh; mỗi ngón tay của cô dường như đều đang
đốt cháy da anh. “Nhưng đúng thế,” cô nói. “Vì em mà Mortmain cắt nguồn ngân phiến
của anh. Vì em mà mọi người gặp nguy hiểm. Em muốn yêu anh, nhưng em chỉ khiến đời
anh ngắn lại.”

Will thở một hơi rệu rã. Mảnh băng đã trở lại tim anh, và anh cảm thấy mỗi hơi thở của
mình đều phải đi qua nó. Nhưng anh không ghen, mà chỉ buồn sâu sắc hơn bao giờ hết.
Anh nghĩ đến Sydney Carton. Thi thoảng hãy nghĩ rằng có người đã trao cuộc đời mình
để giữ lấy mạng người em yêu bên cạnh em. Đúng, anh sẵn sàng làm vậy vì Tessa – chết
để giữ những người cô cần ở bên cô – và Jem cũng sẵn sàng làm thế vì anh hay vì Tessa,
Tessa cũng vậy, anh nghĩ, vì hai người họ. Đây gần như một tam giác khó hiểu, ba người
họ, nhưng có một điều chắc chắn, và đó là không hề thiếu tình yêu giữa họ.

Mình đủ mạnh mẽ vì chuyện này, anh tự nhủ, và khẽ nhấc tay. “Sống không chỉ là tồn
tại,” anh nói. “Sống còn là tận hưởng hạnh phúc. Em hiểu James của em mà, Tessa. Em
biết cậu ấy sẽ chọn tình yêu thay vì vài năm cuộc đời.”
Nhưng đầu Tessa chỉ lắc quầy quậy trên gối. “Anh đâu rồi, James? Em tìm anh trong
bóng tối, nhưng không ra. Anh là chồng sắp cưới của em; chúng ta phải được ràng buộc
bằng liên kết không gì cắt đứt được. Nhưng khi anh hấp hối, em lại không có mặt. Em
chưa từ biệt anh.”

“Bóng tối nào? Tessa, em ở đâu?” Will túm tay cô. “Chỉ cho anh đường tìm em đi.”

Tessa đột nhiên cong người trên giường, tay cào tay anh. “Em xin lỗi!” Cô thở dốc.
“Jem… em rất xin lỗi… em đã lừa dối anh, lừa dối anh nhiều lắm…”

“Tessa!” Will bật dậy, nhưng Tessa đã gục lả trên giường, thở dồn dập.

Anh không đừng được. Anh hét gọi Charlotte như đứa trẻ tỉnh dậy giữa cơn ác mộng, như
anh chưa từng cho phép mình hét khi còn là một đứa bé, tỉnh dậy giữa Học Viện xa lạ và
mong ngóng sự an ủi anh không được nhận.

Charlotte chạy trong Học Viện, như anh luôn biết chị sẽ chạy tới vì anh nếu anh gọi. Chị
tới, thở hổn hển và sợ hãi; chị nhìn Tessa một cái trên giường, và Will nắm tay cô, rồi
anh thấy sự hoảng hốt rời gương mặt chị, thay thế bằng vẻ lo lắng không thành lời.
“Will…”

Will nhẹ nhàng gỡ tay khỏi tay Tessa, nhìn ra cửa. “Charlotte,” anh nói. “Em chưa từng
xin chị dùng quyền lãnh đạo học viện để giúp em…”

“Quyển của chị không chữa được cho Tessa.”

“Có thể. Chị phải mang Jem về đây.”

“Chị không thể đòi hỏi điều đó,” Charlotte nói. “Jem mới bắt đầu thời gian phụng sự tại
Thành phố Câm Lặng. Người mới không được phép rời một bước khỏi đó trong năm đầu
tiên…”

“Cậu ấy đã tham chiến.”

Charlotte vén lọn tóc khỏi mặt. Đôi lúc chị trông rất trẻ, như bây giờ, dù lúc nãy, đối mặt
với Điều Tra Viên trong phòng khách, trông chị không hề như thế. “Đấy là quyết định
của Tu Huynh Enoch.”

Sự chắc chắn khiến sống lưng Will thẳng. Suốt nhiều năm anh nghi ngờ những gì được
cất giữ trong tim mình. Nhưng giờ anh không hề nghi ngờ gì. “Tessa cần Jem,” anh nói.
“Em biết Luật, em biết cậu ấy không thể về nhà, nhưng – Tu Huynh Câm cần phải dứt bỏ
mọi ràng buộc với thế giới phàm tục trước khi gia nhập hội. Đó cũng là Luật. Mối ràng
buộc giữa Tessa và Jem chưa đứt. Vậy sau này sao cô ấy có thể hòa nhập với thế giới
phàm tục khi cô ấy còn chưa được gặp Jem lần cuối?”

Charlotte im lặng một hồi. Có bóng đen phủ lên gương mặt chị, một thứ bóng tối anh
không thể định hình gọi tên. Chắc chắn chị cũng muốn điều này, vì Jem, vì Tessa, vì cả
hai chứ? “Được,” cuối cùng chị nói. “Chị sẽ xem mình làm được gì.”

“Họ rọi đèn uống nước

Từ dòng sông trong xanh,

Rồi bỗng nhiên nàng thấy,

Máu trái tim người thương

Chảy theo dòng sông đó.

“Ngừng, ngừng đi, William,

Em sợ chàng bị giết.”

“Đấy chỉ là màu thôi

Từ cái áo đỏ sậm

Lóng lánh trên dòng sông.”

“Ôi, lạy thánh thần,” Sophie lầm bầm khi đi qua bếp. Bridget thật sự phải hát toàn những
bài nghe ghê người như vậy và phải dùng tên Will sao? Làm như chàng trai tội nghiệp đó
chưa đau khổ đủ vậy.

Một cái bóng hiện ra từ bóng tối. “Sophie?”

Sophie hét lên và suýt làm rơi cái bàn chải thảm. Ánh đèn phù thủy lóe lên trong hành
lang tối, và cô trông thấy đôi mắt xanh xám quen thuộc.

“Gideon!” Cô kêu lên. “Lạy trời cao, anh suýt làm em chết vì sợ.”

Anh có vẻ hối lỗi. “Anh xin lỗi. Anh chỉ muốn chúc em ngủ ngon – và em vừa đi vừa
cười. Anh tưởng…”

“Em đang nghĩ tới cậu Will,” cô nói rồi lại cười trước vẻ thất vọng của anh. “Chỉ một
năm trước, nếu anh bảo em rằng có người đang hành hạ cậu ấy, em sẽ mừng, nhưng giờ
em thấy mình thông cảm với cậu ấy. Thế thôi.”
Anh có vẻ ủ ê. “Anh cũng thông cảm với cậu ấy. Mỗi ngày Tessa không tỉnh là em lại
thấy một chút sinh lực bị rút khỏi cậu ấy.”

“Nếu cậu Jem ở đây…” Sophie thở dài. “Nhưng muốn cũng đâu được.”

“Những ngày này chúng ta phải học cách sống thiếu nhiều thứ lắm.” Gideon khẽ chạm
vào má cô. Những ngón tay anh thô ráp, chai sần. Không phải những ngón tay nhẵn nhụi
của một kẻ ăn trên ngồi trốc. Sophie cười với anh.

“Em không nhìn anh lúc ăn tối,” anh hạ giọng nói. Đúng vậy – bữa tối trôi qua rất nhanh
với món thịt gà nướng đã nguội ngắt cùng khoai tây. Có vẻ chẳng ai muốn ăn, trừ Gabriel
và Cecily, hai người ăn như đã luyện tập cả ngày. Có lẽ vậy thật.

“Em đang lo cho cô Branwell,” Sophie thú thực. “Cô ấy đang lo cho anh Branwell, và
cho cô Tessa, và cô ấy mệt mỏi lắm, còn đứa bé…” Cô cắn môi. “Em cũng lo,” cô nhắc
lại. Cô không thể nói thêm được nữa. Thật khó để bỏ tính kiệm lời sau bao nhiêu năm
làm gia nhân, kể cả khi cô đã đính ước cùng một Thợ Săn Bóng Tối.

“Em có một trái tim nhân hậu,” Gideon nói, bàn tay vuốt từ má xuống môi cô, như những
nụ hôn rất nhẹ. Rồi anh rút tay lại. “Anh thấy Charlotte một mình vào phòng khách, mới
một lúc trước thôi. Có lẽ em nên tâm sự với cô ấy chút gì về lo lắng của em?”

“Em không thể…”

“Sophie,” Gideon nói. “Em không chỉ là người hầu của Charlotte; em là bạn cô ấy. Nếu
cô ấy muốn nói chuyện với ai, người đó là em.”

Phòng khách lạnh và tối. Lò không nhóm lửa, và chẳng có ngọn đèn nào được thắp lên để
xua đi bóng tối trong phòng. Sophie mất một lúc mới nhận ra cái bóng trong phòng là
Charlotte, thân hình nhỏ bé im lặng ngồi trên chiếc ghế sau bàn.

“Cô Branwell,” cô nói, thấy ngượng nghịu vô cùng, dù đã được Gideon khích lệ. Hai
ngày trước cô và Charlotte đã chiến đấu bên nhau ở Cadair Idris. Giờ cô lại là người hầu,
ở đây dọn lò sưởi và bụi cho ngày mai dùng. Cô đang cầm một xô than, còn hộp mồi lửa
nhét trong túi tạp dề. “Tôi xin lỗi – tôi không định làm phiền.”

“Cô không làm phiền tôi gì hết, Sophie. Không có gì quan trọng đâu.” Giọng Charlotte –
Sophie chưa từng nghe thấy giọng chị như vậy. Quá nhỏ, quá thiểu não.
Sophie đặt xô than xuống bên lò sưởi và lưỡng lự tiến tới chỗ cô chủ. Charlotte đang ngồi
chống khuỷu tay lên bàn, mặt úp vào tay. Một lá thư nằm trên bàn, với xi của Hội Đồng
đã được tách mở. Tim Sophie đột nhiên đập nhanh dữ dội, nhớ lại Quan Chấp Chính đã
lệnh cho tất cả bọn họ rời Học Viện trước trận chiến ở Cadair Idris. Nhưng chẳng phải
chuyện xảy ra đã chứng minh họ đúng sao? Rõ ràng việc họ đánh bại Mortmain đã bác bỏ
bản án của Quan Chấp Chính, nhất là giờ ông ta đã chết? “Chuyện… chuyện ổn cả chứ,
thưa cô?”

Charlotte chỉ lá thư bằng cử chỉ tay rất vô vọng. Bụng dạ lạnh cóng, Sophie vội vàng tới
bên Charlotte và cầm thư khỏi bàn.

Cô Branwell,

Theo như bản chất những lá thư cô trao đổi với đồng nghiệp cũ của tôi, Quan Chấp
Chính Wayland, có lẽ cô sẽ ngạc nhiên khi nhận được lá thư này. Tuy nhiên, Clave thấy
cần phải có một Quan Chấp Chính mới, và khi bỏ phiếu, hầu hết nhất trí chọn cô.

Tôi có thể hiểu cô hài lòng với cương vị điều hành Học Viện, và rằng có lẽ cô không
muốn nhận trọng trách đó, nhất là khi chồng cô đang chịu những thương tích nặng sau
trận chiến quả cảm với Ông Chủ. Tuy nhiên, tôi thấy mình phải có bổn phận trao cho cô
cơ hội này, không phải vì cô là lựa chọn mà Hội Đồng mong muốn, mà bởi lẽ, theo
những gì tôi nhìn nhận nơi cô, tôi nghĩ cô sẽ là một trong những Quan Chấp Chính xuất
sắc nhất mà tôi sẽ được hân hạnh làm việc cùng.

Gửi cô lời trân trọng nhất,

Điều Tra Viên Whitelaw

“Quan Chấp Chính!” Sophie há hốc miệng, lá thư rơi khỏi tay cô. “Họ muốn cô làm
Quan Chấp Chính?”

“Có vẻ thế.” Giọng Charlotte xụi lơ.

“Tôi…” Sophie tìm lời nói. Ý tưởng Học Viện Luân Đôn không còn do Charlotte điều
hành nữa thật kinh khủng. Nhưng vị trí Quan Chấp Chính là một vinh hạnh cao nhất đối
với bất cứ thành viên Clave nào, và được thấy Charlotte nhận vinh hạnh chị xứng đáng
được hưởng… “Không ai xứng với vị trí đó hơn cô,” cuối cùng cô nói.

“Ôi, Sophie, không. Tôi là người chọn đưa tất cả chúng ta đến Cadair Idris. Chính vì tôi
mà Henry sẽ chẳng bao giờ đi lại được nữa. Chính tôi.”

“Anh ấy không thể trách cô. Anh ấy cũng không trách.”


“Ừ thì thế, nhưng tôi tự trách mình. Sao tôi có thể là Quan Chấp Chính và lệnh cho các
Thợ Săn Bóng Tối lao vào trận chiến để rồi hi sinh đây? Tôi không muốn lãnh trách
nhiệm đó.”

Sophie cầm tay Charlotte và siết chặt. “Charlotte,” cô nói. “Đó không chỉ là lệnh cho các
Thợ Săn Bóng Tối vào trận chiến; đôi lúc còn là ngăn họ lại. Cô có bầu máu nóng và cái
đầu lạnh. Cô đã dẫn dắt Enclave nhiều năm. Tất nhiên trái tim cô đang đau cho anh
Branwell, nhưng là Quan Chấp Chính không phải chỉ là vấn đề tước mạng sống kẻ khác,
mà còn cứu mạng họ nữa. Nếu không nhờ cô, nếu cứ răm rắp theo lời Quan Chấp Chính
Wayland, bao nhiêu Thợ Săn Bóng Tối sẽ chết trong tay đám tạo vật của Mortmain đây?”

Charlotte nhìn xuống bàn tay đỏ, thô ráp vì lao động đang nắm tay chị của Sophie.
“Sophie,” chị nói. “Từ bao giờ em thông thái vậy?”

Sophie đỏ mặt. “Tôi học từ cô, thưa cô chủ.”

“Ôi, không,” Charlotte nói. “Một lúc trước em còn gọi chị là Charlotte. Là một Thợ Săn
Bóng Tối trong tương lai, Sophie, từ giờ em hãy gọi chị là Charlotte. Và chúng ta sẽ tìm
một hầu gái khác thay vị trí của em, để em có thời gian chuẩn bị Tiến Cấp.”

“Cảm ơn chị,” Sophie thì thầm. “Vậy chị chấp nhận đề nghị kia chứ? Trở thành Quan
Chấp Chính ấy?”

Charlotte dịu dàng rút tay khỏi tay Sophie và cầm bút lên. “Ừ,” chị nói. “Với ba điều
kiện.”

“Là gì?”

“Một là chị được phép điều hành Clave từ Học Viện này, chứ vợ chồng chị không chuyển
đến Idris, ít nhất trong vài năm đầu tiên. Ấy là vì chị không muốn rời xa mọi người, và
hơn nữa, chị muốn ở đây hướng dẫn Will điều hành Học Viện thay chị sau khi chị đi.”

“Will ư?” Sophie kinh ngạc. “Điều hành Học Viện?”

Charlotte mỉm cười. “Tất nhiên,” chị nói. “Đó là điều kiện thứ hai.”

“Và thứ ba?”

Nụ cười của Charlotte nhạt đi, thay bằng vẻ quyết tâm. “Cái đó, em sẽ thấy kết quả ngay
ngày mai, nếu nó được chấp thuận,” chị nói và cúi đầu viết.
23

HƠN MỌI ĐIỀU ÁC


Nào, hãy để chúng tôi đi: đôi má anh đã tái;

Nhưng nửa đời tôi đã để lại

Cho người bạn tôi.

– Alfred, Lord Tennyson, In Memoriam A.H.H.

Tessa rùng mình; nước lạnh chảy quanh cô trong bóng tối. Cô nghĩ có lẽ cô đang nằm
dưới đáy vũ trụ, nơi dòng sông quên lãng tách thế giới làm hai, hoặc có lẽ cô đang trong
dòng chảy nơi cô gục xuống sau khi rơi khỏi xe ngựa của bà Dark, và mọi thứ xảy ra sau
đó chỉ là mơ. Cadair Idris, Mortmain, đội quân người máy, vòng tay Will ôm cô…

Cảm giác tội lỗi và buồn bã đâm xuyên qua cô như một ngọn giáo, và cô oằn người, tay
quờ quạng trong bóng tối. Lửa cháy trong huyết quản, hàng ngàn dòng đau đớn tỏa nhánh
khắp nơi. Cô cố hít thở, và đột nhiên có gì đó lành lạnh nơi răng, tách môi cô, và miệng
cô đầy vị chua lạnh băng. Cô nuốt ực xuống, bị sặc…

Và thấy lửa trong người dịu bớt. Đá lạnh khiến cô rùng mình. Mắt cô mở choàng khi thế
giới quay cuồng rồi ổn định. Cái đầu tiên cô thấy là đôi bàn tay gầy, xanh xao đang cầm
cái lọ nhỏ – cái lạnh trong miệng, vị đắng nơi đầu lưỡi – rồi đường nét phòng ngủ của cô
trong Học Viện.

“Tessa,” một giọng quen thuộc vang lên. “Cái này sẽ giúp em tỉnh táo một lát, nhưng em
không được để mình chìm vào bóng tối và mơ mộng tiếp.”

Cô sững sờ, không dám nhìn.

“Jem?” Cô thì thào.

Tiếng cái lọ đặt xuống cái bàn cạnh giường. Tiếng thở dài. “Đúng,” anh nói. “Tessa. Em
sẽ nhìn anh chứ?”

Cô quay đầu và nhìn. Và hít một hơi.

Đó là Jem, nhưng không phải Jem.

Anh đang mặc áo choàng da dê của hội Tu Huynh Câm, để mở ở cổ cho thấy cổ cồn của
chiếc áo sơ mi bình thường. Cái mũ trùm không đội để lộ gương mặt anh. Cô có thể thấy
những biến đổi nơi anh mà vốn cô chỉ ngờ ngợ thấy giữa những náo động và hỗn loạn
của trận chiến nơi Cadair Idris. Đôi gò má đẹp của anh mang hai chữ rune lúc trước cô đã
thấy, hai vết sẹo dài không hề giống bất cứ chữ rune thông thường nào của Thợ Săn Bóng
Tối. Tóc anh không còn mang màu bạc hẳn – một vài sợi đã chuyển sang màu nâu đen,
không nghi ngờ gì đó là màu tóc tự nhiên của anh. Hàng mi của anh cũng đang chuyển về
sắc đen. Chúng trông như những dải lụa đẹp trên nước da trắng của anh – dù anh không
còn tái như trước.

“Sao có thể?” Cô thì thào. “Sao anh có thể ở đây?”

“Hội Đồng triệu tập anh từ Thành phố Câm Lặng.” Giọng anh cũng không còn như xưa
nữa, mà có sự lạnh lẽo mà khi trước không có. “Theo như anh hiểu thì là do ảnh hưởng
của Charlotte. Anh được ở đây một giờ với em, không hơn.”

“Một giờ,” Tessa choáng váng nhắc lại. Cô đưa tay lên gạt tóc khỏi mặt. Chắc trông cô
phải ghê lắm, trong chiếc váy ngủ nhàu nhò, tóc được bện thành bím rối tung, môi khô
nứt. Cô đưa tay định chạm vào mặt dây chuyền thiên sứ – một thói quen để an ủi mình,
nhưng nó không còn đó nữa. “Jem. Em tưởng anh đã chết.”

“Ừ,” anh nói, nhưng giọng vẫn mang theo sự xa cách, một khoảng cách nhắc cô về những
tảng băng trôi cô thấy bên mạn tàu Main, trôi dập dềnh trên làn nước lạnh. “Anh rất tiếc.
Anh rất tiếc anh không thể bằng cách nào đó… báo cho em.”

“Em tưởng anh đã chết,” Tessa nhắc lại. “Em không tin lúc này đây, anh là thật. Em đã
mơ thấy anh, hết lần này tới lần khác. Có một hành lang tối và anh quay bước khỏi em,
và mặc cho em gọi, anh không thể và không chịu quay lại nhìn em. Có lẽ đây chỉ là một
giấc mơ khác.”

“Đây không phải mơ.” Anh đứng trước mặt cô, đôi bàn tay xanh xao lồng phía mặt, và cô
không thể quên anh đã cầu hôn cô thế nào – đứng đó khi cô ngồi trên giường, ngước nhìn
anh ngờ vực, hệt như lúc này.

Anh từ từ xòe tay, và trong lòng bàn tay, cũng như trên má anh, là những chữ rune đã
thành sẹo. Cô chưa đọc Codex nhiều tới độ nhận ra tất cả, nhưng theo bản năng cô biết đó
không phải những chữ rune dành cho Thợ Săn Bóng Tối bình thường. Chúng nói về một
sức mạnh vượt trên thế.

“Anh bảo rằng điều này là không thể,” cô thì thầm. “Rằng anh không thể trở thành một
Tu Huynh Câm.”
Anh quay lưng. Có gì đó trong cử động của anh bây giờ khác biệt, gì đó giống cách
chuyển động nhẹ nhàng như lướt của Tu Huynh Câm. Nó vừa đẹp vừa đáng sợ. Anh đang
làm gì? Anh không dám nhìn cô ư?

“Anh nói với em điều anh tin,” anh nói, mặt nhìn ra ngoài cửa sổ. Trong khung cảnh này,
cô có thể thấy một vài nét gầy gò đến đau lòng của gương mặt anh đã nhạt bớt. Đôi gò
má anh không còn nhô quá cao, hõm thái dương không còn quá thẫm. “Và điều gì là
đúng. Rằng ngân phiến trong máu khiến những chữ rune của Tu Huynh Câm không thể
dùng trên người anh.” Cô thấy ngực anh trồi lên sụt xuống dưới cái áo choàng, và khiến
cô khá là giật mình: cần hít thở là một điều quá con người. “Mọi nỗ lực để khiến anh từ
từ cai ngân phiến đã suýt giết chết anh. Khi anh ngừng dùng vì chẳng còn nữa, anh cảm
giác cơ thể bắt đầu rệu rã từ bên trong. Và anh nghĩ rằng anh chẳng còn gì để mất.” Sự
căng thẳng trong giọng Jem làm ấm nó – đó là giọng của con người, một vết nứt trên lớp
áo giáp Tu Huynh Câm chăng? “Anh xin Charlotte gọi Tu Huynh Câm đến và nhờ họ đặt
chữ rune của hội lên người anh vào giây phút cuối cùng, giây phút khi sự sống đang rời
khỏi cơ thể anh. Anh biết chúng có thể khiến anh chết đau chết đớn. Nhưng đó là lựa
chọn duy nhất.”

“Anh nói anh không muốn trở thành Tu Huynh Câm. Không muốn sống bất tử…”

Anh bước vài bước qua phòng và đứng cạnh bàn trang điểm của cô. Anh đưa tay xuống
và cầm một thứ bằng kim loại và lấp lánh từ hộp nữ trang nông choẹt. Cô ngạc nhiên
nhận ra đó là sợi dây chuyền thiên sứ của cô.

“Không còn tích tắc nữa,” anh nói. Cô không hiểu giọng anh; nó xa xăm, mượt mà và
lạnh như đá.

“Trái tim của nó đã mất. Khi em biến thành thiên thần, em đã giải phóng nó khỏi nhà tù
máy kia. Nó không còn sống trong đó. Nó không còn bảo vệ em nữa.”

Tay anh nắm mặt dây chuyền, đôi cánh nó chọc mạnh vào lòng bàn tay anh. “Anh phải
nói với em,” anh bảo. “Khi anh nhận đề nghị của Charlotte tới đây, anh không hề muốn.”

“Anh không muốn gặp em?”

“Không. Anh không muốn em nhìn anh như em đang nhìn lúc này.”

“Jem…” Cô nuốt nước bọt, nếm trên đầu lưỡi vị đắng chát của thứ thuốc nước anh cho cô
uống. Những kí ức quay cuồng, bóng tối bên dưới Cadair Idris, ngôi làng bị thiêu trụi, tay
Will ôm cô – Will. Nhưng cô đã tưởng Jem chết. “Jem,” cô lại gọi. “Khi em thấy anh còn
sống, lúc ở dưới Cadair Idris, em tưởng đó chỉ là mơ hoặc dối trá. Em những tưởng anh
đã chết. Đó là quãng thời gian tối tăm nhất của đời em. Tin em, làm ơn tin em, rằng linh
hồn em hân hoan được thấy anh. Em tưởng em sẽ chẳng bao giờ có cơ hội đó nữa. Chỉ
là…”

Anh mở bàn tay nắm mặt dây chuyền, và cô thấy vệt máu trong tay anh, nơi đầu cánh
rạch da anh, qua chữ rune trong lòng bàn tay. “Anh là người lạ với em. Không phải
người.”

“Anh luôn luôn là người với em,” cô khẽ nói. “Nhưng em không còn thấy Jem của em
nơi anh.”

Anh nhắm mắt. Cô đã quen với đôi mí mắt thâm, nhưng giờ không còn nữa. “Anh không
có lựa chọn. Em đã đi, và Will đi tìm em theo nhờ cậy của anh. Anh không sợ chết,
nhưng anh sợ bỏ lại hai người. Lúc đấy, đó là động lực duy nhất của anh. Được sống,
được đứng lên và chiến đấu.”

Chút màu sắc sống lại trong giọng nói anh: có nhiệt huyết trong đó, bên dưới sự xa cách
lạnh lùng của một Tu Huynh Câm.

“Nhưng anh biết anh sẽ mất những gì,” anh nói. “Từng có thời em hiểu âm nhạc của anh.
Giờ em nhìn anh như thể em không hề quen biết anh. Như thể em chưa từng yêu anh.”

Tessa vén chăn đứng dậy. Đó là một sai lầm. Đầu cô đột nhiên muốn nổ tung, đầu gối
muốn rời ra. Cô giơ tay định tóm một cọc giường, và thấy thay vào đó, cô đang xoắn lấy
cái áo chùng da dê của Jem. Anh đã chạy tới với cách im lặng duyên dáng của Tu Huynh
như khói lượn, và tay anh giờ đang ôm cô, giữ cô đứng lên.

Cô vẫn trong vòng tay anh. Anh rất gần, gần đến độ cô có thể cảm nhận hơi ấm tỏa ra từ
cơ thể anh, nhưng lại không hề có. Mùi hương quen thuộc nơi anh là mùi khói và đường
cháy đã biến mất. Ở anh giờ có cái mùi nhạt nhạt của thứ gì đó khô và lạnh như đá hay
giấy cũ. Cô có thể lờ mờ nghe được tiếng đập của tim anh, thấy mạch đập nơi cổ. Cô bối
rối nhìn anh, cố ghi nhớ những đường nét và góc cạnh gương mặt anh, vết sẹo trên má,
hàng lông mi như lụa, đường nét đôi môi anh.

“Tessa.” Từ đó phát ra như một tiếng rên, như thể cô vừa đánh anh. Có một chút xíu sắc
hồng trên má anh, như máu bên dưới tuyết. “Ôi, Chúa ơi,” anh nói và vùi mặt vào hõm cổ
cô, nơi bắt đầu đường cong của bờ vai, má anh áp vào tóc cô. Lòng bàn tay anh áp lên
lưng cô, ôm cô chặt hơn. Cô cảm nhận được anh đang run rẩy.

Trong một thoáng cô như được giải thoát bởi một nỗi nhẹ nhõm quá lớn, cảm giác Jem
dưới tay cô. Có lẽ ta không hoàn toàn tin tưởng vào sự hiện hữu của một thứ gì đó đến
khi ta sờ được nó. Và đây là Jem mà cô tưởng đã chết, đang ôm cô, đang hít thở, và đang
sống.

“Anh vẫn cho em cảm giác như xưa,” cô nói. “Nhưng anh trông rất khác. Anh khác thật
sự.”

Nghe đến thế, anh buông cô bằng nỗ lực khiến anh phải cắn môi và cổ gồng cứng cơ.
Nhẹ nhàng giữ vai cô, anh dẫn cô xuống ngồi bên mép giường. Khi anh buông cô, tay
anh nắm lại thành nắm đấm. Anh lùi một bước. Cô có thể thấy anh đang hít thở, nhìn rõ
mạch máu đập dồn nơi cổ anh.

“Anh khác đi,” anh nói nhỏ. “Anh thay đổi. Và không theo cách mà mọi chuyện có thể
trở lại như cũ.”

“Nhưng anh chưa hoàn toàn giống họ,” cô nói. “Anh có thể nói – và thấy.”

Anh khẽ thở hắt ra một hơi. Anh vẫn đang nhìn cái cọc giường như thể nó giữ những bí
mật của thế giới. “Đấy là một quá trình. Một loạt các nghi thức và thủ tục. Không, anh
chưa hoàn toàn là Tu Huynh Câm. Nhưng sẽ sớm thôi.”

“Vậy ngân phiến không ngăn được.”

“Gần ngăn được. Anh… đau đớn khi anh vào lúc chuyển tiếp. Vô cùng đau, tới độ anh
suýt chết. Họ làm những gì có thể. Nhưng anh sẽ không bao giờ giống những Tu Huynh
Câm khác.” Anh nhìn xuống, hàng mi che rợp đôi mắt. “Anh sẽ không… hẳn như họ.
Anh sẽ không mạnh bằng, vì anh vẫn không chịu nổi một số chữ rune.”

“Chắc chắn họ có thể đợi tới khi ngân phiến được loại bỏ hoàn toàn khỏi cơ thể anh
chứ?”

“Sẽ không. Cơ thể anh đã vào trạng thái chết giả khi họ đặt những chữ rune đầu tiên lên
người anh, ở đây.” Anh chỉ vết sẹo trên má. “Vì thế, anh sẽ không thể đạt được rất nhiều
kĩ năng. Anh sẽ mất nhiều thời gian hơn để có được khả năng nhìn vào đầu óc người ta và
thần giao cách cảm.”

“Vậy là họ sẽ không móc mắt anh – hay khâu môi anh lại?”

“Anh không biết.” Giờ giọng anh dịu dàng, gần hoàn toàn như giọng Jem cô biết. Má anh
ửng hồng, và cô nghĩ tới một cột đá cẩm thạch trắng rỗng ruột từ từ được đổ máu người
vào. “Họ sẽ mất nhiều thời gian với anh. Có lẽ là vĩnh cửu. Anh không thể nói rồi đây
chuyện gì sẽ đến. Anh đã giao bản thân mình cho họ. Giờ định mệnh của anh nằm trong
tay họ rồi.”
“Nếu bọn em có thể giải thoát anh khỏi họ…”

“Vậy ngân phiến còn lại trong người anh sẽ lại cháy lên, và anh sẽ như trước. Một con
nghiện, chết dần chết mòn. Đây là lựa chọn của anh, Tessa, vì nếu anh không chọn nó,
anh sẽ chết. Em biết mà. Anh không muốn bỏ em lại. Kể cả biết rằng trở thành một Tu
Huynh Câm sẽ đảm bảo anh sống sót, nhưng anh vẫn thấy nó giống như án chung thân.
Tu Huynh Câm không thể kết hôn. Họ không thể có parabatai. Họ chỉ được sống ở
Thành phố Câm Lặng. Họ không cười. Họ không chơi nhạc.”

“Ôi, Jem,” Tessa nói. “Có lẽ các Tu Huynh Câm không chơi nhạc, nhưng họ cũng sẽ
không chết. Nếu đó là cách duy nhất anh được sống, vậy em thật tình mừng cho anh, kể
cả dù tim em đau.”

“Anh hiểu em quá rõ nên anh hiểu cảm xúc của em.”

“Và em cũng đủ hiểu anh để biết anh đang cảm thấy tội lỗi. Nhưng vì sao thế? Anh chẳng
làm gì sai.”

Anh cúi đầu để trán dựa vào cọc giường. Anh nhắm mắt. “Đây chính là lí do anh không
muốn đến.”

“Nhưng em không giận…”

“Anh không hề nghĩ em sẽ giận,” Jem buột miệng, và đó như dòng thác đóng băng nứt
ra, thả cho xoáy nước được tự do hoành hành. “Chúng ta đã đính ước, Tessa ạ. Một lời
cầu hôn – một viễn cảnh chúng ta sẽ kết hôn – là một lời hứa. Một lời hứa sẽ luôn yêu và
chăm sóc ai đó. Anh không muốn thất hứa với em. Nhưng một anh chọn là kẻ thất hứa
hai là chết. Anh muốn đợi, được lấy em và sống với em nhiều năm, nhưng không thể.
Anh đang chết quá chóng. Anh đã từ bỏ tất cả chỉ để được là chồng em một ngày. Một
ngày chưa bao giờ đến. Em nhắc nhở… nhắc nhở anh về tất cả những điều anh đánh mất.
Một cuộc đời anh không có.”

“Từ bỏ đời anh chỉ để được một ngày nên nghĩa vợ chồng… vậy không đáng,” Tessa nói.
Tim cô đang đập dồn dập thông điệp nói với cô về vòng tay của Will, môi anh hôn cô ở
cái hang dưới Cadair Idris. Cô không xứng đáng được nghe lời thú tội dịu dàng của Jem,
lời sám hối của anh, hay những mong đợi nơi anh. “Jem, em phải nói với anh điều này.”

Anh nhìn cô. Cô có thể thấy lòng đen của mắt anh, những vằn đen lẫn giữa màu bạc, đẹp
đẽ và xa lạ.

“Là về Will. Về Will, và em.”


“Cậu ấy yêu em,” Jem nói. “Anh biết cậu ấy yêu em. Bọn anh đã nói chuyện đó trước khi
cậu ấy từ đây đi.” Dù sự lạnh lùng chưa trở về với giọng anh, anh đột nhiên bình tĩnh đến
hơi bất bình thường.

Tessa choáng váng. “Em không hề biết hai anh nói chuyện đó với nhau. Will không bảo
gì.”

“Em cũng đâu hề cho anh biết về tình cảm của cậu ấy, dù em đã biết nhiều tháng nay.
Chúng ta đều có những bí mật muốn giấu vì chúng ta không muốn làm tổn thương những
người thân yêu.” Giọng anh mang ý đe nẹt, hay cô tưởng tượng ra nhỉ?

“Em không muốn giữ bí mật với anh lâu hơn,” Tessa nói. “Em tưởng anh đã chết. Will và
em đều nghĩ vậy. Tại Cadair Idris…”

“Em có yêu anh không?” Anh đột nhiên hỏi. Đó có vẻ là một câu hỏi lạ lùng, nhưng anh
hỏi không hề có ý ám chỉ hay thù địch, chỉ bình tĩnh đợi câu trả lời từ cô.

Cô nhìn anh, và những lời nói của Woolsey đột nhiên trở lại, nhưng lời thì thầm của một
kẻ cầu kinh. Người nào may mắn lắm mới có được một tình yêu lớn trong đời. Cô lại tìm
được hai. Một lát sau cô bỏ lời thú tội sang bên. “Có. Em yêu anh, và em vẫn yêu anh,
em không bao giờ yêu anh ít hơn yêu anh ấy. Nghe có vẻ điên rồ, nhưng nếu có ai đó có
thể hiểu…”

“Anh hiểu,” Jem nói. “Em không cần nói thêm về em và Will nữa. Hai người không thể
làm gì khiến anh không còn yêu hai người. Will chính là anh, là linh hồn anh, và nếu anh
không thể giữ trái tim em, vậy anh muốn được vinh dự kia. Và khi anh đi rồi, em phải
giúp Will. Sẽ rất… rất khó khăn cho cậu ấy.”

Tessa dò xét gương mặt anh. Huyết sắc đã rời khỏi má anh; anh tái nhợt, nhưng bình tĩnh.
Anh đang nghiến quai hàm. Nó cho cô biết những gì cô cần hiểu: Đừng nói thêm với anh.
Anh không muốn biết.

Một vài bí mật, cô nghĩ, được nói ra sẽ tốt hơn; một số nên chỉ là gánh nặng cho người
giữ nó để khỏi gây đau đớn cho kẻ khác. Đấy chính là nguyên do cô không cho Will biết
cô yêu anh khi tình yêu giữa họ là vô vọng.

Cô ngậm miệng không nói ra điều trong đầu, thay vào đó bảo: “Em không biết sao em có
thể xoay xở khi không có anh.”

“Anh cũng đã tự hỏi mình câu đó. Anh không muốn lìa bỏ em. Anh không thể lìa bỏ em.
Nhưng nếu anh ở lại, anh sẽ chết.”
“Không. Anh không được ở lại. Anh sẽ không ở lại. Jem. Hãy hứa rằng anh sẽ đi. Đi và
trở thành Tu Huynh Câm, và sống. Em sẽ nói với anh rằng em ghét anh nếu em nghĩ anh
tin em, nếu điều đó khiến anh đi. Em muốn anh sống. Kể cả nếu điều đó đồng nghĩa với
chuyện em chẳng còn được trông thấy anh nữa.”

“Em sẽ còn trông thấy anh,” anh bình tĩnh nói và ngẩng đầu. “Đúng ra là có một khả
năng – chỉ một khả năng, nhưng…”

“Nhưng sao?”

Anh dừng lại – lưỡng lự, và có vẻ đã quyết định chuyện gì. “Chẳng có gì. Vớ vẩn ấy mà.”

“Jem.”

“Em sẽ gặp lại anh, nhưng không thường xuyên. Anh mới bắt đầu hành trình của mình,
và có rất nhiều điều luật áp đặt lên hội Tu Huynh. Anh sẽ tránh xa quãng đời trước. Anh
không thể thể nói anh sẽ có những khả năng gì hay mang những vết sẹo nào. Anh không
thể nói anh sẽ khác ra sao. Anh sợ anh sẽ mất bản ngã và âm nhạc của anh. Anh sợ anh sẽ
trở thành một thứ hoàn toàn không giống con người. Anh biết anh sẽ không còn là Jem
của em.”

Tessa chỉ có thể lắc đầu. “Nhưng Tu Huynh Câm – họ tới thăm – họ vẫn tới các Học
Viện… Chẳng nhẽ anh không thể…”

“Không phải trong thời gian học tập. Và kể cả khi quá trình học tập xong, cũng hiếm hoi
lắm. Em gặp bọn anh khi có người ốm hay chết, khi một đứa trẻ chào đời, hoặc nghi lễ
đặt chữ rune đầu tiên hay parabatai… nhưng bọn anh không quấy quả nhà của Thợ Săn
Bóng Tối khi không được triệu tập.”

“Vậy Charlotte sẽ triệu tập anh.”

“Chị ấy gọi anh đến lần này, nhưng không thể làm hết lần này tới lần khác, Tessa ạ. Một
Thợ Săn Bóng Tối không thể không dưng triệu tập một Tu Huynh Câm.”

“Nhưng em không phải Thợ Săn Bóng Tối,” Tessa nói. “Không hẳn.”

Có một quãng dài im lặng khi họ chỉ nhìn nhau. Cả hai đều cứng đầu. Cả hai đều không
nhúc nhích. Cuối cùng Jem nói:

“Em có nhớ khi chúng ta đứng trên cầu Blackfriars không?” Anh hỏi khẽ và mắt anh
giống đêm hôm đó, đen và bàng bạc.

“Tất nhiên em nhớ.”


“Đấy là khoảnh khắc anh biết anh yêu em,” Jem nói. “Anh sẽ hứa với em một điều. Mỗi
năm, Tessa, vào một ngày, anh sẽ gặp em trên cây cầu đó. Anh sẽ từ Thành phố Câm
Lặng tới gặp em, và chúng ta có thể gặp nhau, nhưng chỉ một tiếng. Nhưng em không
được nói với ai.”

“Một tiếng mỗi năm,” Tessa thì thầm. “Không nhiều.” Đến đó cô trấn tĩnh lại, và hít một
hơi sâu. “Nhưng anh sẽ sống. Anh sẽ sống. Điều đó mới quan trọng. Em sẽ không đến
thăm mộ anh.”

“Không. Còn rất lâu, rất lâu mới đến ngày đó,” anh nói, và sự xa cách trở lại giọng anh.

“Vậy đó là một phép màu,” Tessa nói. “Và một người không trả treo với phép màu, hay
phàn nàn rằng nó không hoàn toàn như mình muốn.” Cô đưa tay chạm vào mặt dây
chuyền ngọc bích. “Em có phải trả anh cái này không?”

“Không,” anh nói. “Anh sẽ chẳng kết hôn cùng ai nữa. Và anh sẽ không đưa món quà
cưới của mẹ anh đến Thành phố Câm Lặng.” Anh đưa tay khẽ chạm vào mặt cô, vuốt
nhẹ. “Khi anh ở trong bóng tối, anh muốn nghĩ nó đang ở ngoài ánh sáng, cùng em,” anh
nói và đứng thẳng, quay bước đi về cửa. Chiếc áo choàng da dê của Tu Huynh Câm
chuyển động theo bước anh di chuyển, và Tessa thẫn thờ nhìn theo, mỗi nhịp tim cô đều
đập theo lời cô không thể nói: Tạm-biệt. Tạm-biệt. Tạm-biệt.

Anh dừng lại tại cửa. “Anh sẽ gặp lại em trên cầu Blackfriars, Tessa.”

Rồi anh đi mất.

Nếu nhắm mắt, Will có thể nghe thấy âm thanh Học Viện bừng dậy khi ngày mới đến,
hoặc chí ít là tưởng tượng ra chúng: Sophie dọn bàn ăn sáng, Charlotte và Cyril giúp
Henry lên xe lăn, anh em Lightwood vẫn còn ngái ngủ cự nhau trong hành lang, Cecily
chắc chắn đang tìm anh trong phòng như liền mấy sáng nay, cố gắng – và thất bại – giấu
vẻ lo lắng.

Và trong phòng Tessa, Jem và Tessa đang nói chuyện.

Anh biết Jem ở đó, vì xe ngựa của Tu Huynh Câm đã đậu ngoài sân. Anh có thể thấy nó
từ cửa sổ phòng tập. Nhưng anh không muốn nghĩ tới chuyện đó. Đó là điều anh muốn,
anh yêu cầu Charlotte, nhưng giờ khi nó đang diễn ra, anh lại thấy anh không chịu nổi
nghĩ ngợi nhiều đến nó. Vậy nên anh lên căn phòng anh luôn đến mỗi khi đầu óc phiền
muộn; anh đã phi dao vào tường từ lúc mặt trời mọc, áo anh ướt đẫm mồ hôi và dán cả
vào lưng anh.
Thịch. Thịch. Thịch. Những con dao phi lút tường, tất cả đều trúng hồng tâm. Anh nhớ
hồi anh mười hai tuổi, và phi được dao đâu đó gần hồng tâm dường như là một giấc mơ
không tưởng. Jem đã giúp anh, chỉ anh cách cầm dao, cách ngắm và phi. Trong mọi nơi
của Học Viện, phòng tập là nơi anh gắn bó với Jem nhất – chỉ sau phòng Jem, nhưng nơi
đó đã chẳng còn một món tư trang gì thuộc về bạn anh nữa rồi. Giờ nó chỉ là một căn
phòng trống khác trong Học Viện, chờ một Thợ Săn Bóng Tối khác vào ở. Kể cả Church
cũng có vẻ không muốn vào đó – đôi lúc nó sẽ đứng cạnh cửa, và chờ đợi như mèo sẽ
làm vậy, nhưng nó không còn ngủ trên giường như hồi Jem còn ở đó.

Will rùng mình – phòng tập lạnh trong buổi sáng còn tờ mờ sương; lửa trong lò sưởi cháy
lom rom, thi thoáng bắn tung tia lửa trắng đỏ. Will nhớ lại hình ảnh hai cậu bé ngồi trên
sàn trước lò sưởi chính trong căn phòng này, một người tóc đen, còn một người tóc trắng
như tuyết. Anh đang dạy Jem cách chơi bài ecarte với một bộ bài anh trộm từ phòng
khách.

Rồi, bực bội vì đánh thua, Will ném bộ bài vào lò và sung sướng nhìn chúng cháy từng lá
một, lửa đục lỗ trên những lá bài trắng bóng. Jem đã phá ra cười. “Bồ không thể thắng
bằng kiểu đó.”

“Đôi lúc đó là cách duy nhất để chiến thắng,” Will nói. “Đốt tất.”

Anh tới rút dao khỏi tường, nhăn mày. Đốt tất. Cả cơ thể anh vẫn còn nhức nhối. Khi anh
rút con dao ra, anh thấy những vết thâm xanh đen trên tay dù đã dùng iratze và sẹo từ trận
chiến Cadair Idris sẽ theo anh mãi mãi. Anh nghĩ đến chiến đấu cùng Jem trong trận
chiến. Có lẽ lúc đó anh không trân trọng nó. Lần cuối, một lần cuối cùng.

Như tiếng nhại của suy nghĩ anh, một cái bóng hắt ngang ngưỡng cửa. Will ngước lên –
và suýt làm rớt con dao đang cầm.

“Jem?” Anh nói. “Là bồ hả, James?”

“Còn là ai được nữa nào?” Giọng Jem. Khi cậu ấy bước vào vùng sáng trong phòng, Will
có thể thấy cái mũ trùm được buông xuống, mắt cậu ấy nhìn thẳng vào mắt anh. Gương
mặt, đôi mắt, tất cả đều quen thuộc. Nhưng Will luôn có thể cảm nhận được Jem, cảm
nhận được khi cậu ấy xuất hiện hay tiến đến. Sự thật rằng lần này Jem làm anh giật mình
khiến anh bàng hoàng sực nhớ đến sự thay đổi của parabatai.

Không còn là parabatai của mày nữa, một giọng khẽ vang trong đầu anh.

Jem bước vào phòng bằng điệu đi không phát ra âm thanh của Tu Huynh Câm, và đóng
cửa. Will không nhúc nhích. Anh không cảm giác mình có thể. Cảnh tượng Jem ở Cadair
Idris đã khiến anh bàng hoàng thảng thốt như một sự nóng sáng tuyệt vời và kinh khủng –
Jem còn sống, nhưng đã thay đổi; anh còn sống, nhưng bơ vơ.

“Nhưng,” anh nói, “bồ tới để gặp Tessa.”

Jem nhìn thẳng vào mắt anh. Mắt cậu ấy mang màu đen xám, như đá obsidian lẫn những
vân đá phiến. “Và bồ nghĩ tôi sẽ không nhân cơ hội, dù cơ hội đó là gì, để gặp bồ luôn
sao?”

“Tôi không biết. Sau trận chiến, bồ bỏ đi không một lời từ biệt.”

Jem tiến thêm vài bước nữa, vào phòng. Will thấy lưng đờ ra. Có gì đó là lạ, một thứ gì
đó khác biệt và xa lạ hoàn toàn trong cách Jem di chuyển bây giờ; đây không phải sự
uyển chuyển của Thợ Săn Bóng Tối mà Will đã luyện cho mình qua nhiều năm bắt
chước, mà là một cái gì đó lạ lùng, xa lạ và mới mẻ.

Jem hẳn đã thấy gì đó trong biểu cảm của Will, vì cậu ấy dừng lại. “Sao tôi có thể từ
biệt,” cậu ấy nói, “với bồ?”

Will buông dao. Nó cắm mũi xuống sàn gỗ. “Như một Thợ Săn Bóng Tối? Ave atque
vale. Và mãi mãi, hỡi người anh em, xin chào và tạm biệt.”

“Nhưng đó là dành cho người chết. Catullus đã nói vậy trước mộ em mình, đúng không?
Multas per gentes et multa per aequora vectus advenio has miseras, frater, ad inferias–”

Will biết những câu đó. Vượt qua muôn núi ngàn kênh, hỡi người anh em, tôi đã đến bên
nấm mộ sầu, để trao người chết món quà sau cuối. Mãi mãi và vĩnh viễn, người anh em,
xin chào. Mãi mãi và vĩnh viễn, tạm biệt. Anh nhìn trân trối. “Bồ… nhớ bài thơ tiếng
Latin? Nhưng bồ luôn nhớ nhạc, chứ không phải ngôn từ…” Anh ngừng lại và cười vài
tiếng. “Thôi kệ đi. Nghi thức của hội Tu Huynh đã thay đổi điều đó.” Anh quay gót bước
đi vài bước, rồi đột ngột quay phắt lại nhìn Jem. “Cây vĩ cầm của bồ ở trong phòng nhạc.
Tôi nghĩ bồ sẽ muốn mang nó theo cùng… bồ rất quan tâm đến nó.”

“Chúng tôi không được mang bất cứ thứ gì theo cùng tới Thành phố Câm Lặng, trừ thể
xác và trí óc,” Jem nói. “Tôi bỏ cây vĩ cầm lại vì biết đâu một Thợ Săn Bóng Tối nào đó
sau này sẽ muốn chơi nó.”

“Vậy không phải dành cho tôi rồi.”

“Tôi sẽ rất vinh hạnh nếu bồ nhận và chăm sóc nó. Nhưng tôi còn để lại thứ khác cho bồ.
Trong phòng bồ là hộp ngân phiến của tôi. Tôi nghĩ bồ sẽ muốn nó.”
“Đó có vẻ là một món quà ác độc,” Will nói. “Khiến tôi sẽ nhớ đến…” Cái đã cướp bồ đi
xa tôi. Cái khiến bồ đau khổ. Cái tôi đã tìm kiếm mà không ra. Tôi đã thất hứa với bồ.

“Will, không,” Jem, người luôn hiểu mà không cần Will giải thích. “Đấy không phải luôn
là hộp đựng thuốc phiện của tôi. Đó là của mẹ tôi. Quan Âm là vị bồ tát được họa ở mặt
trước. Truyện kể rằng ngài chết và tới cổng trời, người dừng lại và nghe tiếng khóc của
sinh linh đồ thán, và không thể buông bỏ được. Người ở lại giúp đỡ người trần, khi họ
không thể giúp được mình. Người an ủi những trái tim đau khổ.”

“Một cái hộp không thể an ủi tôi.”

“Thay đổi không có nghĩa là mất mát, Will. Không phải luôn là thế.”

Will vuốt mái tóc ướt. “À, đúng,” anh chua chát nói. “Có lẽ ở một kiếp khác, sau kiếp
này, khi chúng ta vượt qua con sông đó, hoặc vào vòng luân hồi, hoặc bất cứ từ gì bồ
dùng để mô tả rời thế giới này, tôi sẽ tìm lại được bạn mình, parabatai của tôi. Nhưng
giờ tôi đã mất bồ – giờ khi tôi cần bồ hơn bao giờ hết!”

Jem đã đi vào phòng – như một cái bóng thoáng qua, cậu ấy đã có được cách di chuyển
nhẹ nhàng uyển chuyển của Tu Huynh Câm – và giờ đứng bên lò sưởi. Ánh lửa hắt sáng
lên gương mặt Jem, và Will có thể thấy gì đó dường như tỏa sáng khắp người cậu áy: một
dạng ánh sáng trước đây không hề có. Jem luôn tỏa sáng, với sức sống mãnh liệt và lòng
tốt mãnh liệt hơn, nhưng đây lại là một điều khác. Ánh sáng trong Jem dường như đang
cháy rực; nhưng lại là thứ ánh sáng xa xăm và lẻ loi, như ánh sáng của một vì sao. “Bồ
không cần tôi, Will.”

Will nhìn mình, nhìn cao dao dưới chân, và nhớ tới con dao của Jem anh đã chôn dưới
góc cây bên đường Shrewbury-Welshpool, con dao của Jem dính máu của anh. “Suốt đời
tôi, từ hồi tôi tới Học Viện, bồ luôn là tấm gương phản chiếu linh hồn tôi. Tôi thấy tính
tốt của tôi trong bồ. Chỉ trong mắt bồ tôi mới tìm thấy sự nhân hậu. Khi bồ rời đi, ai sẽ
nhìn tôi như thế?”

Im lặng. Jem đứng im như tượng. Will đưa mắt tìm kiếm và tìm thấy chữ rune parabatai
bên vai Jem; như của anh, nó đã mờ sang màu trắng nhạt.

Cuối cùng Jem lên tiếng. Sự lạnh lùng xa cách đã biến mất khỏi giọng nói cậu ấy. Will hít
một hơi dài, nhớ lại giọng nói đó đã ở bên anh suốt bao năm khôn lớn, như ánh ngọn hải
đăng hiền lành kiên định chiếu rọi bóng tối. “Hãy tin vào bản thân mình. Bồ có thể là tấm
gương của chính mình.”
“Nếu tôi không thể thì sao?” Will nói khẽ. “Tôi còn không biết làm Thợ Săn Bóng Tối
thế nào khi không có bồ. Tôi chỉ từng chiến đấu với bồ bên cạnh mà thôi.”

Jem tiến bước và lần này Will không hề nhúc nhích để ngăn bạn. Cậu ấy tới gần đến độ
có thể chạm vào anh – Will mông lung nghĩ rằng anh chưa từng đứng gần một Tu Huynh
Câm như thế, và vải áo choàng được may bằng chất liệu gì đó là lạ, nhám và bệt màu như
vỏ cây, và cái lạnh dường như tỏa ra từ da Jem như đá phát hơi lạnh vào ngày nắng nóng.

Jem đặt tay dưới cằm Will, buộc Will phải nhìn thẳng vào mình. Tay cậu ấy thật lạnh.

Will cắn môi. Đây là lần cuối cùng Jem, là Jem, chạm vào anh. Những kí ức sống dậy
trong anh – những năm Jem vỗ nhẹ vào vai anh, tay đưa xuống giúp Will đứng lên khi
anh ngã, Jem giữ anh khi anh bực bội, tay Will đặt trên đôi vai gầy của Jem khi Jem ho ra
máu. “Nghe này. Tôi sắp đi, nhưng tôi còn sống. Tôi sẽ không vĩnh viễn bỏ bồ đâu, Will.
Giờ khi bồ chiến đấu, tôi sẽ vẫn bên bồ. Khi bồ bước đi trên thế giới này, tôi sẽ là ánh
sáng soi dường, mặt đất vững chãi dưới chân, lực vung kiếm của bồ. Chúng ta được ràng
buộc còn vượt cả lời thề. Những Ấn Ký không thể thay đổi điều đó. Lời thề không thay
đổi điều đó. Nó chẳng là gì với một điều vốn đã tồn tại.”

“Nhưng bồ thì sao?” Will nói. “Hãy cho tôi biết tôi có thể làm gì, vì bồ là parabatai của
tôi, và tôi không muốn bồ một mình đi vào bóng tối của Thành phố Câm Lặng.”

“Tôi không còn lựa chọn. Nhưng nếu có điều gì tôi có thể nhờ bồ, thì đó là bồ hãy hạnh
phúc. Tôi muốn bồ có một gia đình và già đi bên những người yêu thương. Nếu bồ muốn
cưới Tessa, vậy đừng để những kí ức về tôi chia cách hai người.”

“Bồ biết không, cô ấy có lẽ không cần tôi,” Will nói.

Jem thoáng cười. “À, tôi nghĩ phần đó phụ thuộc vào bồ.”

Will cười đáp, và trong khoảnh khắc đó họ lại là Jem-và-Will. Will có thể thấy Jem,
nhưng cũng là qua cậu ấy, về quá khứ. Will nhớ hai người họ chạy trong các con phố tối
tăm của Luân Đôn, xô nhau vào các vũng bùn, ném cầu tuyết vào Jessamine từ đằng sau
công sự tuyết ngoài sân, ngủ như cún trên tấm thảm trải trước lò sưởi.

Ave atque vale, Will nghĩ. Xin chào và tạm biệt. Anh chưa từng nghĩ nhiều tới mấy từ đó,
chưa từng nghĩ sao chúng không chỉ là từ biệt mà còn là chào đón. Mọi cuộc gặp mặt đều
có lúc chia tay, và vậy cũng đúng, vì đời người có hạn. Nhưng mỗi buổi gặp gỡ đều có
một chút buồn chia li, nhưng trong mọi cuộc chia li lại có chút vui của gặp mặt.

Anh sẽ không quên đi niềm vui này.


“Chúng ta đã nói về cách nói tạm biệt,” Jem bảo. “Khi Jonathan tạm biệt David, ông nói,
‘Hãy thanh thản, vì như chúng ta đã thề, cả hai ta, nói rằng chúa trời ở giữa hai ta, mãi
mãi.’ Họ không gặp lại nhau, nhưng họ không quên nhau. Và chúng ta cũng vậy. Khi tôi
là Tu Huynh Zachariah, khi tôi không còn nhìn thế giới này bằng đôi mắt con người, tôi
vẫn còn lại một chút Jem bồ biết, và tôi sẽ nhìn bồ bằng con mắt của trái tim tôi.”

“Wo men shi sheng si ji jiao,” Will nói, và anh thấy mắt Jem mở to, dù chỉ một chút, và
ánh vui vẻ lóe lên trong đó. “Đi thanh thản nhé, James Carstairs.”

Họ nhìn nhau một lúc lâu, rồi Jem đội mũ, giấu khuôn mặt và quay đi.

Will nhắm mắt. Anh không còn nghe thấy tiếng Jem đi nữa; anh không muốn biết giây
phút cậu ấy đi và Will chỉ còn một mình, không muốn biết khi mà ngày đầu tiên là một
Thợ Săn Bóng Tối không có parabatai thực sự bắt đầu. Và nếu cái nơi trên trái tim anh,
nơi từng có chữ rune parabatai, bỗng nhói đau khi cửa đóng lại sau lưng Jem, Will tự
nhủ đó chỉ là một chút tàn của đống lửa.

Anh dựa người vào tường, rồi từ từ trượt xuống đến khi ngồi sụp xuống sàn, cạnh con
dao của mình. Anh không biết mình ngồi bao lâu, nhưng anh có thể nghe tiếng ngựa
trong sân, tiếng lọc cọc khi cỗ xe của hội Tu Huynh Câm chuyển bánh. Cổng rổn rảng
đóng lại. Chúng ta là bụi và bóng tối.

“Will?” Anh ngước lên; anh không hề nhận ra bóng người gầy nhỏ đứng ở cửa phòng tập
tới khi chị cất tiếng. Charlotte bước một bước và mỉm cười với anh. Nụ cười ấy thật hiền,
như luôn vậy, và anh cố không nhắm mắt khi nhớ lại những kí ức – Charlotte cũng đứng
ở cửa chính căn phòng này. Em không nhớ hôm qua chị đã bảo là chúng ta sắp đón một
người mới tới Học Viện ư?... James Carstairs…

“Will,” giờ chị nói. “Em đã đúng.”

Anh ngẩng đầu, bàn tay đung đưa giữa hai đầu gối. “Đúng chuyện gì?”

“Về Jem và Tessa,” chị nói. “Họ đã hủy hôn. Và Tessa đã tỉnh. Cô ấy đã tỉnh, và khỏe, và
hỏi em đâu.”

Khi anh ở trong bóng tối, anh muốn nghĩ nó đang ở ngoài ánh sáng, cùng em.

Tessa ngồi thẳng dựa người vào mấy cái gối Sophie cẩn thận xếp cho cô (hai cô gái đã
ôm nhau, rồi Sophie đã chải các lọn rối trên tóc Tessa và nói, “phước thật, phước thật,”
nhiều lần đến nỗi Tessa phải bảo cô ấy ngừng trước khi làm cả hai cùng khóc) và nhìn
mặt dây chuyền ngọc bích trong tay.

Cô có cảm giác mình bị chia làm hai con người. Một đang cảm tạ trời đất không biết bao
nhiều lần rằng Jem còn sống, vẫn còn được trông thấy mặt trời mọc, rằng thứ thuốc phiện
anh phải dùng bấy lâu nay không lấy mạng anh. Phần còn lại…

“Tess?” Một giọng dịu dàng vang ngoài cửa; cô ngước lên và thấy Will ở đó, như một
bóng đen trong ánh sáng từ ngoài hành lang hắt vào.

Will. Cô nghĩ tới chàng trai đã bước vào phòng cô tại Ngôi Nhà Hắc Ám và khiến cô
quên mất sợ hãi khi cứ huyên thuyên về Tennyson, lũ nhím và những kẻ đi giải cứu kẻ
khác, và rằng những người đó không bao giờ sai. Anh là Will, với những điểm không
hoàn hảo một cách hoàn hảo; Will, có trái tim dễ tan nát vì nó được bảo vệ cẩn thận;
Will, người yêu không lí trí nhưng toàn tâm toàn ý và bằng tất cả những gì anh có.

“Tess,” anh lại gọi, lưỡng lự trước sự im lặng của cô, rồi bước vào, khép hờ cửa lại.
“Anh… Charlotte bảo em muốn nói chuyện với anh…”

“Will,” cô nói, và cô biết trông mình quá xanh xao, và da cô loang lổ vệt nước mắt, mắt
vẫn đỏ, nhưng không sao hết, vì kia là Will và cô đưa tay, anh ngay lập tức tới nắm
chúng trong bàn tay ấm áp đầy những vết sẹo của anh.

“Em thấy thế nào rồi?” Anh hỏi, đôi mắt nhìn khắp gương mặt cô. “Anh phải nói chuyện
với em, nhưng anh không muốn làm em thêm nhọc lòng trừ khi sức lực em đã phục hồi
hẳn.”

“Em khỏe,” cô nói, và siết tay anh đáp lại. “Được thấy Jem đã giúp đầu óc em thanh thản.
Anh có thấy vậy không?”

Mắt anh nhìn lảng đi, dù lực siết tay không giảm. “Có,” anh nói, “và cũng không.”

“Đầu óc anh đã thanh thản,” cô nói, “nhưng trái tim thì không.”

“Ừ,” anh nói. “Đúng. Chính xác là vậy. Em hiểu anh quá rõ, Tess à.” Anh cười mệt mỏi.
“Cậu ấy còn sống, và anh mừng vì điều ấy. Nhưng cậu ấy chọn con đường quá cô độc.
Hội Tu Huynh – họ ăn một mình, đi lại một mình, thức dậy một mình và một mình đối
mặt với màn đêm. Nếu có thể, anh muốn chia sẻ với cậu ấy.”

“Anh đã chia sẻ với anh ấy tất cả những gì có thể,” Tessa dịu dàng nói. “Anh ấy, và tất cả
chúng ta đều cố gắng như thế. Nhưng rồi cuối cùng tất cả chúng ta đều phải đưa ra lựa
chọn của mình.”
“Và ý em là anh không nên buồn?”

“Không. Phải buồn chứ. Cả hai chúng ta đều vậy. Buồn, nhưng đừng tự trách, vì anh
chẳng phải chịu trách nhiệm gì trong vấn đề này.”

Anh nhìn xuống đôi bàn tay đang siết lấy nhau. Rất dịu dàng anh vuốt ve mu bàn tay cô
bằng ngón tay cái của mình. “Có lẽ không,” anh nói. “Nhưng có một số chuyện anh cần
phải chịu trách nhiệm.”

Tessa hít một hơi nhanh, ngắn. Giọng anh khẽ đi, và có độ khàn cô chưa từng nghe thấy
bao giờ từ hồi…

Hơi thở anh nhẹ và nóng phả vào da cô tới khi hơi thở cô cũng dồn dập như vậy, tay cô
vuốt dọc xuôi vai, cánh tay, hai bên hông anh…

Cô vội vàng chớp mắt và rụt tay lại. Giờ cô không nhìn anh mà nhìn thấy ánh lửa hắt lên
vách hang, và nghe thấy giọng anh bên tai, và lúc đó tất cả chỉ như một giấc mơ, một
khoảnh khắc rời khỏi đời thực, như thể họ ở một thế giới nào khác. Kể cả bây giờ cô cũng
không mấy tin chuyện đó đã xảy ra.

“Tessa?” Giọng anh ngần ngừ, tay vẫn duỗi ra. Một phần trong cô muốn nắm tay anh,
muốn kéo anh tới và hôn anh, để nhờ Will mà quên đi chính mình như lúc trước. Vì anh
có tác dụng như bất kì thứ thuốc gây nghiện nào.

Và rồi cô nhớ đến đôi mắt đờ đẫn của chính Will trong sới thuốc phiện, giấc mơ hạnh
phúc bị đập nát tan tành ngay khi khói thuốc tan. Không. Một số điều ta chỉ có thể xử lí
nếu chịu đối diện với chúng. Cô hít một hơi, rồi ngước nhìn Will.

“Em biết anh muốn nói gì,” cô nói. “Anh đang nghĩ về chuyện giữa chúng ta ở Cadair
Idris, vì chúng ta nghĩ Jem đã chết, và rằng chúng ta cũng sẽ chết. Anh là một con người
cao quý, Will, và anh biết giờ anh phải làm gì. Anh phải đề nghị em kết hôn.”

Will, người vẫn rất yên tĩnh, cho thấy anh vẫn có thể khiến cô ngạc nhiên, và bật cười.
Đó là tiếng cười khẽ, ảo não. “Anh không mong em sẽ thẳng thắn thế, nhưng có lẽ anh
phải đoán ra chứ. Anh biết Tessa của anh mà.”

“Em không phải Tessa của anh,” cô nói. “Nhưng, Will này. Em không muốn anh nói gì
hết. Không phải về chuyện kết hôn, không phải về những lời hứa trọn đời trọn kiếp…”

Anh ngồi xuống mép giường. Anh đang mặc đồ tập, áo sơ mi rộng xắn tay lên tận khuỷu,
cổ áo mở, và cô trông thấy những vết sẹo đang ăn da non từ trận chiến trên da anh, những
chữ rune trị thương nay đã chuyển màu trắng. Cô có thể thấy vẻ tổn thương trong đôi mắt
anh. “Em hối hận về chuyện giữa chúng ta?”

“Liệu một người có thể hối hận về một chuyện, dù xuẩn ngốc nhưng tuyệt đẹp không?”
Cô nói, và vẻ tổn thương trong mắt anh dịu lại thành bối rối.

“Tessa, nếu em sợ rằng anh cảm thấy do dự, bị ép buộc…”

“Không.” Cô đưa tay lên. “Chỉ là em cảm thấy trái tim anh đang rối ren đau buồn, tuyệt
vọng, cùng nhẹ nhõm, hạnh phúc và bối rối, và em không muốn anh đưa ra những phát
ngôn khi tâm trạng đang ngổn ngang trăm bề. Đừng chối, vì em có thể thấy điều đó ở
anh, và bản thân em cũng cảm thấy như vậy. Cả hai chúng ta đều quá rối trí, và không
hợp để đưa ra bất cứ quyết định gì.”

Anh lưỡng lự một lúc. Những ngón tay đưa trước trái tim, nơi từng có chữ rune
parabatai, và khẽ chạm nhẹ – cô tự hỏi anh có biết mình đang làm gì không – và rồi anh
nói, “Đôi lúc anh có cảm giác em quá thông thái, Tessa ạ.”

“À,” cô nói. “Một trong hai ta phải thế thôi.”

“Anh không thể làm gì ư?” Anh nói. “Anh không muốn rời em. Trừ khi em muốn.”

Tessa đưa mắt nhìn sang táp đầu giường, nơi những cuốn sách cô đã đọc trước vụ người
máy tấn công Học Viện – đó như đã cả ngàn năm trước – xếp thành chồng. “Anh có thể
đọc cho em nghe,” cô nói. “Nếu anh không ngại.”

Will nghe đến đó ngước lên và mỉm cười. “Đó là một nụ cười tự nhiên, kì lạ, nhưng thật
và rất Will. Tessa cười đáp. “Anh không ngại,” anh nói. “Không một chút nào.”

Và thế là, sau chừng mười lăm phút, Will tới ngồi trên ghế bành, đọc David Copperfield
thì Charlotte đẩy cửa phòng Tessa và nhòm vào. Chị không giấu được vẻ lo lắng – Will
vừa nãy trông tuyệt vọng ngồi sụp trên sàn phòng tập, trông vô cùng lẻ loi đơn côi, và chị
nhớ tới nỗi sợ luôn đau đáu trong lòng chị, rằng nếu có ngày Jem rời xa họ, cậu ấy sẽ
mang đi phần tốt đẹp nhất trong Will theo cùng. Và Tessa còn quá mong manh yếu
đuối…

Giọng dịu dàng của Will vang trong phòng, cùng với ánh lửa yếu ớt từ lò sưởi. Tessa
đang nằm nghiêng người, mái tóc nâu xõa trên gối, quan sát Will đang cúi đầu nhìn trang
giấy, với sự dịu dàng trong đôi mắt, sự dịu dàng đúng như vậy trong chất giọng khe khẽ
của Will đang đọc. Đó là sự dịu dàng rất đỗi riêng tư và quá sâu sắc khiến Charlotte vội
vàng lùi ra và để cửa khẽ khàng đóng lại.
Nhưng giọng Will vẫn vẳng theo bước chị trong hành lang, tim chị nhẹ nhõm hơn rất
nhiều so với lúc trước.
24

CÁCH YÊU
Cách yêu là yêu không cần cách.

– được cho là phát ngôn của thánh Augustine

Phòng Hội Đồng sáng rực. Hai vòng tròn lớn được sơn màu ôm lấy cái bục cao trước
phòng, và trong khoảng không giữa hai vòng tròn là những chữ rune: những chữ rune
ràng buộc, tri thức, kĩ năng và kĩ nghệ, những chữ rune tượng trưng cho tên Sophie.
Sophie quỳ chính giữa. Mái tóc đen của cô để xõa dài xuống thắt lưng, một sóng những
lọn tóc xoăn trên bộ đồ đi săn sẫm màu hơn. Cô trông thật đẹp trong ánh sáng đổ xuống
từ vòng lấy sáng bên trên, vết sẹo trên má đỏ như một đóa hoa hồng.

Quan Chấp Chính đứng trên cô, bàn tay trắng giơ lên, cầm Cốc Thánh. Charlotte mặc áo
choàng đỏ đơn giản phồng lên quanh người. Gương mặt nhỏ nhắn của chị nghiêm trang.
“Cầm lấy chiếc cốc, Sophia Collins,” chị nói, và căn phòng tĩnh lặng như tờ. Phòng Hội
Đồng không đông, nhưng hàng cuối nơi Tessa ngồi thì kín chỗ: Gideon và Gabriel,
Cecily và Henry, cô và Will, tất cả đều háo hức nhoài người tới, đợi Sophie được Tiến
Cấp. Đứng ở mỗi bên đầu sân khấu là một Tu Huynh Câm, đầu cúi, áo choàng trông như
được tạc từ đá cẩm thạch.

Charlotte hạ cái cốc, và chìa cho Sophie, cô cẩn thận cầm lấy.

“Sophia Collins, cô có thể vì thế giới người phàm và đi theo con đường của Thợ Săn
Bóng Tối? Cô có muốn nhận máu của Thiên Thần Raziel và sự cao quý của dòng máu
ấy? Cô có thề phục vụ Clave, tuân theo Luật do Hiệp Ước định ra, và chấp hành lệnh của
Hội Đồng? Cô có đồng ý bảo vệ loài người và người phàm, dù biết rằng sự phục vụ của
mình chẳng hề nhận được lời cảm ơn, ca ngợi, mà chỉ có được danh dự?”

“Tôi thề,” Sophie nói, giọng vững vàng.

“Cô có thể là tấm khiên cho kẻ yếu, ánh sáng trong bóng tối, sự thật giữa những lời dối
gian, tòa tháp trong cơn lũ, con mắt nhìn rõ mọi vật khi mọi con mắt khác đều mù lòa?”

“Tôi có thể.”

“Và khi cô chết, liệu cô có thể từ bỏ xác phàm cho Nephilim thiêu xác, để tro xác cô
được dùng để xây nên Thành phố Xương?”
“Tôi có thể.”

“Vậy uống đi,” Charlotte nói. Tessa nghe thấy Gideon hít một hơi. Đây là phần nguy
hiểm nhất của nghi lễ. Đây là phần có thể giết chết người chưa kinh qua tập luyện và
không xứng đáng.

Sophie cúi mái đầu đen và kề Cốc lên môi. Tessa rướn người, ngực quặn lại vì hiểu cảm
giác ấy. Cô cảm nhận tay Will áp lên tay cô, ấm áp, an ủi. Cổ họng Sophie di chuyển khi
cô ấy nuốt xuống.

Vòng tròn bao quanh cô ấy và Charlotte bừng lên ánh sáng trắng xanh lạnh lẽo, che khuất
cả hai người. Khi nó lụi đi, Tessa thấy lóa mắt. Cô vội vàng chớp mắt, và thấy Sophie giơ
chiếc Cốc. Nó như phát sáng khi cô trả lại Charlotte, và chị nở nụ cười rạng rỡ.

“Giờ cô là Nephilim,” chị nói. “Tôi vinh danh cô, Sophia là Thợ Săn Bóng Tối, mang
dòng máu của Jonathan Thợ Săn Bóng Tối, đứa con của Nephilim. Đứng lên, Sophia.”

Và Sophie đứng lên giữa những tiếng hò reo của đám đông, trong đó tiếng hò reo của
Gideon là lớn nhất. Sophie cười, cả gương mặt bừng lên dưới ánh nắng mùa đông tỏa
xuống qua trần nhà trong suốt. Những cái bóng hắt xuống sàn, thoáng qua rất nhanh.
Tessa ngạc nhiên ngước lên – những điểm trắng điểm lấm tấm trên các ô cửa kính, khẽ
bay bay ngoài kia.

“Tuyết,” Will thì thầm vào tai cô. “Chúc Giáng Sinh an lành, Tessa.”

Đêm đó là đêm mở tiệc mừng Giáng Sinh hàng năm của Enclave. Đấy là lần đầu tiên
Tessa thấy phòng vũ hội lớn của Học Viện mở cửa và đông nghẹt người. Những ô cửa sổ
lớn hắt ánh sáng lại, tạo ra những vệt vàng óng trên sàn nhà bóng lộn. Bên ngoài những ô
cửa kính tối đen, người ta có thể trông thấy những bông tuyết trắng mịn lớn đang lả tả
rơi, nhưng trong Học Viện thật ấm áp, vàng và an toàn.

Giáng Sinh của Thợ Săn Bóng Tối không giống Giáng Sinh Tessa từng biết. Ở đây không
có vòng hoa giáng sinh, không khúc ca mừng ngày Chúa chào đời, không có bánh thánh.
Nhưng ở đây có cây thông, dù không được trang trí theo cách thông thường. Một cây phỉ
to tướng, cao gần chạm trần nhà được đặt ở phía bên kia phòng khiêu vũ (Khi Will hỏi
thế quái nào mà nó vào lọt đây, Charlotte chỉ phẩy tay và bảo đấy là việc của Magnus).
Nến được đặt thăng bằng trên các cành cây, dù Tessa không thấy chúng được chằng buộc
ra làm sao. Chúng tạo thêm ánh vàng cho căn phòng.
Buộc vào các cành cây – và treo lủng lẳng từ các giá nến và cây cắm nến trên bàn, các
nắm đấm cửa, là những chữ rune pha lê lấp lánh, mỗi chứ đều trong suốt như thủy tinh
nhưng khúc xạ ánh sáng, tạo nên những cầu vồng lung linh trong phòng. Tường được
trang trí những vòng hoa nhựa ruồi và trường xuân, những quả mọng đỏ sáng lên trên
màu xanh của lá. Đây đó là những cành tầm gửi trăng trắng. Còn có một cành được buộc
vào vòng cổ của Church, con mèo cứ lẩn dưới mấy cái bàn Giáng Sinh và tỏ vẻ cáu kỉnh.

Tessa không nghĩ mình từng thấy nhiều thức ăn như bây giờ. Các bàn được bày biện đủ
các món gà chặt, thịt và bánh Giáng Sinh, bánh sandwich mỏng, bánh kem và bánh ngọt,
thạch đủ màu, đủ vị và rượu nữa. Có những đĩa sừng đựng đầy ắp bánh kẹo, những túi
đựng một cục than, ít đường hay kẹo chanh, để cho người nhận biết hành vi của họ năm
đó là tinh quái, tốt, hay hư. Lúc trước có trà và quà chỉ dành cho cư dân Học Viện, nhóm
họ trao đổi quà trước khi khách tới – Charlotte, ngồi trong lòng Henry khi anh ngồi trên
xe lăn, mở hết quà này đến quà khác cho đứa nhỏ sẽ chào đời vào tháng tư này. (Tên đứa
nhỏ được quyết định là Charles. “Charles Fairchild,” Charlotte tự hào nói, và giơ cái chăn
nhỏ Sophie đan cho, với chữ viết tắt C.F. xinh xắn thêu ở một góc.

“Charles Buford Fairchild chứ,” Henry sửa lại.

Charlotte nhăn mặt. Tessa bật cười, hỏi, “Fairchild? Chứ không phải Branwell?”

Charlotte cười lỏn lẻn. “Chị là Quan Chấp Chính. Trong trường hợp này đứa trẻ sẽ theo
họ chị. Henry sẽ không phiền, phải không anh, Henry?”

“Không hề,” Henry đã đáp vậy. “Nhất là khi cái tên Charles Buford Branwell nghe khờ
khờ hơn, nhưng Charles Buford Fairchild nghe đã tai đấy chứ.”

“Henry…”

Tessa giờ đang mỉm cười khi nhớ lại kí ức ấy. Cô đang đứng gần cây thông Noel, quan
sát những thành viên Enclave trong những bộ đồ diện nhất – phụ nữ đeo trang sức mang
tông màu mùa đông, váy satin đỏ, lụa xanh ngọc bích, taffeta vàng, đàn ông mặc những
bộ com-lê lịch lãm – vừa đi lại vừa cười nói. Sophie đứng cùng Gideon, vui vẻ và thoải
mái trong chiếc váy dạ hội nhung xanh lá; kia là Cecily mặc đồ xanh da trời đi lại đây đó,
và háo hức quan sát mọi thứ, Gabriel đi theo cô ấy, chân tay dài ngoằng, mái tóc rối và
mang dáng vẻ của một gã si tình. Một khúc gỗ Giáng Sinh lớn quấn dây trường xuân và
nhựa ruồi được đốt trong lò sưởi đá lớn, và treo trên lò sưởi là lưới đựng táo vàng, hạt dẻ,
bỏng ngô màu mè, và kẹo. Có tiếng nhạc êm tai đi vào lòng người, và Charlotte có vẻ
cuối cùng cũng tìm được nơi cần tới tiếng hát của Bridget, vì nó đang vang trên tiếng
nhạc, du dương và ngọt ngào.
“Hãy để trời đổ mưa khoai tây,” một giọng vui vẻ vang lên. “Hãy để sấm đổ xuống tiếng
nhạc Greensleeves.”

Tessa giật mình quay lại. Will không hiểu sao đã đứng sau cô, và điều này thật kì vì cô đã
tìm anh từ lúc vào phòng và chẳng thấy đâu. Như thường lệ, nhìn anh mặc com-lê – toàn
sắc xanh, đen và trắng – khiến cô quên cả thở, nhưng cô giấu nhẹm cảm giác mất hồn
bằng một nụ cười. “Shakespeare,” cô nói. “The Merry Wives of Windsor.”

“Không phải một vở kịch hay,” Will nói và nheo cặp mắt xanh khi nhìn kĩ cô. Tessa đã
chọn cho mình chiếc váy lụa màu hoa hồng cho tối nay, không đeo phụ kiện gì ngoài ruy
băng nhung quấn hai vòng quanh cổ và thả buông ra sau lưng. Sophie đã làm tóc cho cô –
giúp thôi, vì giờ cô ấy không còn là gia nhân trong nhà này – và cài một cành hoa trắng
nhỏ giữa các lọn tóc xoăn bới cao. Tessa cảm thấy xinh đẹp và nổi bật. “Nhưng cũng có
những cảnh được.”

“Anh luôn là một nhà phê bình văn học,” Tessa thở dài và thôi nhìn anh, ánh mắt lướt về
bên kia phòng, nơi Charlotte đang trò chuyện với một người đàn ông cao ráo tóc trắng mà
Tessa không quen.

Will nhoài người về phía cô. Anh thoang thoảng mùi cỏ xanh và mùi của mùa đông, mùi
linh sam, chanh hoặc bách. “Trên tóc em gắn quả tầm gửi,” anh nói và hơi thở phả vào
má cô. “Theo truyền thống, anh tin vậy có nghĩa là ai cũng được hôn em.”

Cô trợn mắt nhìn anh. “Anh nghĩ họ sẽ muốn thử à?”

Anh khẽ chạm vào má cô; anh đeo găng tay da sơn dương trắng, nhưng cô có cảm giác
như thể da anh chạm vào cô. “Anh sẽ giết bất cứ kẻ nào dám.”

“À,” Tessa nói. “Đấy sẽ chẳng phải lần đầu tiên anh làm ra chuyện tày trời vào lễ Giáng
Sinh.”

Will dừng một lát rồi toét miệng cười, một nụ cười hiếm hoi làm bừng sáng khuôn mặt
anh và khiến tất cả thay đổi. Đó là nụ cười Tessa từng tưởng sẽ mãi biến mất, khi Jem đã
đi vào bóng tối của Thành phố Câm Lặng. Jem không chết, nhưng một phần của Will đã
đi cùng anh khi anh ra đi: các mẩu vỡ ra từ tim Will và chôn giữa những mảnh xương
người chết. Và Tessa đã lo, trong tuần đầu tiên sau đó, rằng Will sẽ không hồi phục nổi,
rằng anh sẽ luôn như một bóng ma đi lang thang trong Học Viện, không ăn uống, luôn
quay sang nói chuyện với một người không có mặt, ánh sáng bừng lên trên gương mặt
anh tắt ngấm khi anh nhớ ra và im bặt.
Nhưng cô đã quyết. Trái tim cô đã vỡ, nhưng cô chắc chắn chữa lành trái tim Will sẽ giúp
trái tim cô lành lại. Ngay khi khỏe lại, cô quyết tâm mang trà cho anh kệ anh không
muốn, cùng sách anh muốn và quấy rầy anh ở trong và ngoài thư viện, bắt anh giúp cô
tập luyện. Cô bảo Charlotte hãy ngừng đối xử với anh như thể anh là kính dễ bể và cho
anh vào thành phố chiến đấu như trước kia, với Gabriel hoặc Gideon thay thế Jem. Và
Charlotte, dù không muốn, đã nghe theo, nhưng Will luôn trở về trong tình trạng trầy da
tróc vảy, nhưng đôi mắt dần có sức sống và sáng rỡ.

“Quá hay,” Cecily sau đó đã nói với cô khi họ đứng bên cửa sổ, quan sát Will và Gabriel
nói chuyện ngoài sân. “Làm Nephilim cho anh trai em mục đích sống. Được làm Thợ Săn
Bóng Tối sẽ chữa lành những vết rạn vỡ trong anh ấy. Làm Thợ Săn Bóng Tối, và có
chị.”

Tessa buông rèm xuống, ngẫm nghĩ. Cô và Will không hề nói về chuyện ở Cadair Idris,
cái đêm họ bên nhau. Quả thực, nó dường như xa xôi như một giấc mộng. Nó giống như
một chuyện xảy ra với người khác, chứ không phải với cô, không phải với Tessa. Cô
không biết liệu Will có cùng cảm giác đó không. Cô biết Jem đã biết, hoặc đoán ra, và tha
thứ cho cả hai, nhưng Will không hề đề cập đến lần nào, không hề nói anh yêu cô, không
hề hỏi cô có yêu anh không kể từ ngày Jem đi.

Từ ngày đó cứ như hàng thập kỉ dài bất tận đã trôi qua, dù thực tế mới chỉ hai tuần, trước
khi Will vào và thấy cô một mình trong thư viện, và hỏi – khá đột ngột – liệu cô có muốn
đi xe ngựa cùng anh vào ngày mai không. Bối rối, Tessa đồng ý, thầm tự hỏi liệu có lí do
nào khác khiến anh muốn có cô đồng hành. Một bí ẩn cần giải mã? Một lời thú tội muốn
nói ra?

Nhưng không, đó chỉ là một chuyến đi xe ngựa dạo khắp công viên. Thời tiết trở lạnh
hơn, và băng bắt đầu đóng ở rìa các hồ. Những cành cây trụi lá trông ảm đạm và đẹp đẽ,
và Will lịch thiệp trò chuyện với cô về thời tiết cùng những danh thắng trong thành phố.
Anh dường như quyết tiếp tục công việc bổ túc kiến thức về Luân Đôn dang dở của Jem
cho cô. Họ tới bảo tàng Anh và Phòng Trưng bày Quốc gia, tới công viên Kew và nhà thờ
St. Paul, nơi Tessa cuối cùng cũng hết kiên nhẫn nổi.

Họ đã đứng trước Phòng Thầm Thì nổi tiếng, Tessa dựa vào lan can và nhìn xuống nhà
thờ bên dưới. Will đang dịch dòng chữ tiếng Latin khắc trên vách hầm mộ nơi
Christopher Wren được chôn cất – “Nếu ngươi tìm kiếm lăng mộ của người này, hãy nhìn
xung quanh” – thì Tessa vô thức nhét tay vào tay anh. Anh vội vàng rụt tay lại, mặt đỏ
bừng.

Cô ngạc nhiên nhìn anh. “Có chuyện gì à?”


“Không,” anh nói, quá vội vàng. “Anh chỉ… anh không đưa em tới đây để vồn vã với em
trong Phòng Thầm Thì.”

Tessa bùng nổ. “Em không yêu cầu anh lôi em vào Phòng Thầm Thì! Nhưng nhân danh
Thiên Thần, Will, anh có ngừng lịch thiệp quá đáng được không hả?”

Anh bối rối nhìn cô. “Nhưng không phải em thà…”

“Em không thà gì hết. Em không muốn anh lịch sự! Em muốn anh là Will! Em không
muốn anh chỉ những công trình kiến trúc nổi tiếng để làm vui lòng em như thể anh là một
hướng dẫn viên du lịch! Em muốn anh ăn nói điên khùng, vui vẻ, chế bài hát và là…”
Will em yêu, cô suýt buột miệng. “Và là Will,” cuối cùng cô chọn cách nói khác. “Hoặc
không em sẽ lấy dù đập anh đấy.”

“Anh chỉ muốn tháp tùng em,” Will buồn bực nói. “Tháp tùng em sao cho hợp cách. Chỉ
có vậy. Em biết, phải không?”

“Rochester chưa từng tháp tùng Jane Eyre,” Tessa chỉ ra.

“Không, hắn ăn mặc như đàn bà và dọa cô gái tội nghiệp kia sợ hết hồn. Em muốn vậy
à?”

“Anh giả gái sẽ xấu lắm.”

“Không. Anh đẹp hết hồn luôn.”

Tessa cười. “Đó,” cô nói. “Đó mới là Will. Vậy không tốt hơn sao? Anh không nghĩ vậy
à?”

“Anh không biết,” Will nói và nhìn cô. “Anh sợ phải trả lời câu đó. Anh đã nghe nói rằng
khi anh mở miệng sẽ khiến con gái Mỹ ước lấy dù đập anh.”

Tessa lại cười và rồi cả hai cùng cười, tiếng cười của họ vọng giữa những bức tường của
Phòng Thầm Thì. Sau đó, mọi chuyện giữa họ dễ chịu hẳn, và nụ cười của Will lúc anh
giúp cô xuống xe khi họ trở về rạng rỡ và chân thật.

Đêm đó cửa phòng Tessa có tiếng gõ khe khẽ, và khi cô ra mở, cô chẳng thấy ai ngoài đó,
trừ một cuốn sách đặt trên sàn hành lang. Câu chuyện hai thành phố. Một món quà kì
quặc, cô nghĩ. Đây chỉ là bản sao cuốn sách trong thư viện mà cô vẫn thường đọc khi nào
muốn, nhưng cuốn này mới tinh, với biên lai từ Hatchards in ở trang đầu. Mãi đến khi cô
cầm nó lên giường thì mới nhận ra rằng còn có mấy dòng khác viết trên trang đầu nữa.

Tess, Tess, Tessa.


Liệu có gì vang lên đẹp đẽ hơn tên em không? Gọi tên em thành tiếng khiến tim anh rung
lên như chuông. Một tưởng tượng thật lạ, phải không – một trái tim biết rung như
chuông? Nhưng khi em chạm vào anh, anh có cảm giác thế đấy, như thể tim anh rung lên
trong ngực và âm thanh đó vang khắp huyết quản và khiến xương anh vỡ tan vì sung
sướng.

Vì sao anh viết những lời này trong cuốn sách đây ư? Vì em. Em dạy anh yêu cuốn sách
này, cuốn sách anh vốn ghét. Khi anh đọc nó lần hai, với trái tim và khối óc rộng mở,
anh cảm nhận được nỗi tuyệt vọng và ghen tị sâu sắc của Sydney Carton – đúng, Sydney,
vì kể cả nếu anh ta không có hi vọng rằng người phụ nữ anh ta yêu yêu anh ta, ít nhất
anh ta có thể cho cô ấy biết lòng mình. Ít nhất anh ta có thể làm gì để chứng tỏ tình cảm,
kể cả dù điều đó là chết.

Anh sẵn sàng chọn cái chết để đổi lấy một cơ hội cho em biết sự thật, Tessa, nếu anh
chắc chắn rằng anh được lựa cách chết. Và đó là lí do anh ghen tị với Sydney, vì anh ta
tự do.

Và giờ khi cuối cùng anh tự do, anh cuối cùng có thể cho em hay, không phải lo sợ nguy
hiểm gì cho em, tất cả tấm lòng anh.

Em không phải giấc mơ cuối của tâm hồn anh.

Em là giấc mơ đầu, giấc mơ duy nhất anh không thể ngăn mình mơ. Em là giấc mơ đầu
tiên của tâm hồn anh, và từ giấc mơ đó anh hi vọng sẽ có những giấc mơ khác, đáng giá
cả mạng sống.

Hi vọng,

Will Herondale

Cô đã ngồi một lúc lâu sau đó, cầm cuốn sách mà không đọc, nhìn ngắm bình minh phủ
lên khắp Luân Đôn. Sáng sớm, cô đã ăn mặc thật đẹp trước khi cầm cuốn sách lên rồi
chạy xuống lầu. Cô thấy Will rời phòng, tóc vẫn ướt vì vừa gội, và lao tới, nắm ve áo anh
và kéo lại, vùi mặt vào ngực anh. Cuốn sách rơi bịch xuống sàn khi anh đưa tay ra ôm cô,
vuốt tóc phủ dài xuống lưng, và thì thầm khe khẽ, “Tessa, làm sao vậy, có chuyện gì à?
Em không thích…”

“Chưa từng có ai viết cho em những lời lẽ đẹp đẽ như vậy,” cô nói, mặt áp vào ngực anh,
nghe được tiếng tim anh đập đều đặn bên dưới áo sơ mi và áo khoác. “Chưa từng.”

“Anh đã viết ra nó sau khi phát hiện ra lời nguyền là giả,” Will nói. “Anh đã định tặng
em ngay, nhưng rồi…” Tay anh nắm chặt tóc cô. “Khi anh phát hiện ra em đính hôn với
Jem, anh đã cất nó đi. Anh không biết khi nào có thể, hay nên tặng em. Và rồi hôm qua,
khi em muốn anh là chính anh, anh đã có đủ hi vọng để lấy những giấc mơ cũ ra, phủi bụi
rồi đưa em.”

Hôm đó họ tới công viên, dù trời lạnh nhưng được cái trong xanh, và không có nhiều
người đi dạo. Serpentine sáng sủa dưới ánh mặt trời mùa đông, và Will chỉ nơi anh cùng
Jem cho lũ vịt trời ăn bánh thịt vịt. Đó là lần đầu tiên cô thấy anh cười khi nói về Jem.

Cô biết mình không thể làm Jem của Will. Không ai có thể. Nhưng từ từ, khoảng trống
trong tim anh sẽ được lấp đầy. Có Cecily ở bên là một niềm vui cho Will; Tessa có thể
thấy điều đó khi họ ngồi cạnh nhau bên lò sưởi, khe khẽ nói tiếng Wales, và mắt anh sáng
lên; anh còn dần thích Gabriel và Gideon, và họ là bạn với anh, dù không ai có thể là một
người bạn như Jem khi xưa. Và tất nhiên, tình yêu của Charlotte và Henry kiên định
không đổi. Tessa biết vết thương của cô và của Will sẽ không bao giờ biến mất, nhưng
khi thời tiết càng lạnh và Will cười nhiều và ăn uống thường xuyên hơn, rồi vẻ tang
thương dần biến mất khỏi mắt anh, cô hít thở dễ dàng hơn.

“Hưm,” anh đang nói, và đu đưa nhè nhẹ trên gót giày khi quan sát sàn phòng khiêu vũ.
“Có lẽ em đúng. Anh nghĩ mình đi xăm hình rồng xứ Wales vào chừng Giáng Sinh thì
phải.”

Nghe tới đó, Tessa cố lắm mới không đỏ mặt. “Sao lại xảy ra chuyện đó?”

Will ơ hờ phẩy tay. “Anh say…”

“Vớ vẩn. Anh chưa bao giờ thực sự say.”

“Ngược lại là khác – để học cách giả say bí tỉ, một người phải say bí tỉ thật sự ít nhất một
lần. Nigel Sáu Ngón đã cho anh uống rượu táo…”

“Thật là có Nigel Sáu Ngón à?”

“Tất nhiên là có…” Will bắt đầu với một nụ cười tươi, rồi héo đi. Anh đang nhìn qua
Tessa, về phía phòng khiêu vũ. Cô quay đầu nhìn theo và thấy chính người đàn ông cao
ráo tóc trắng đã nói chuyện với Charlotte lúc nãy đang lách người qua đám đông để đi về
phía họ.

Chú ấy to con, có vẻ vào cuối độ tuổi ba mươi, quai hàm có một vết sẹo dài, tóc rối màu
bạch kim, và mắt xanh, da sạm nắng. Nước da ấy trông còn sẫm hơn vì cái áo sơ mi
trắng. Có gì đó quen thuộc ở chú ấy, một điều gì đó khiến Tessa nghĩ mãi không ra.
Chú ấy dừng lại trước họ, mắt liếc nhìn Will. Chúng nhạt hơn màu mắt Will, gần giống
màu hoa đậu. Vùng da quanh mắt nâu và lờ mờ vết chân chim. Chú ấy nói, “Cháu là
William Herondale?”

Will gật đầu không nói.

“Chú là Elias Carstairs,” người đàn ông nói. “Là chú của Jem Carstairs.”

Will tái mặt, và Tessa nhận ra điểm nào ở người đàn ông khiến cô thấy quen thuộc – có gì
đó ở chú ấy, một điểm gì đó ở cách nói năng và đôi tay chú ấy khiến cô nhớ đến Jem. Vì
Will có vẻ không cất nổi lên lời, Tessa nói:

“Vâng, đấy là Will Herondale. Còn cháu là Theresa Gray.”

“Cô gái biến hình,” người đàn ông – Elias, Tessa nhắc nhở mình, nói; Thợ Săn Bóng Tối
thích được gọi bằng tên người ấy xưng. “Cháu đính hôn với James trước khi nó trở thành
Tu Huynh Câm.”

“Đúng thế,” Tessa bình tĩnh đáp. “Cháu rất yêu anh ấy.”

Chú ấy nhìn cô – không thù địch hay thách thức, mà chỉ tò mò. Rồi chú ấy nhìn sang
Will. “Cháu là parabatai của nó?”

Will cuối cùng cũng nói được. “Vẫn là,” anh nói và bạnh hàm tỏ vẻ cứng đầu.

“James có nhắc đến cháu,” Elias nói. “Khi chú rời Trung Quốc, khi chú trở lại Idris, chú
đã hỏi nó có muốn tới sống với chú không. Bọn chú đã đưa nó đi khỏi Thượng Hải, vì
thấy để nó ở lại không an toàn, khi mà đám lâu la của Diêm La còn nhởn nhơ, tìm cách
trả thù. Nhưng khi chú đề nghị nó tới cùng sống ở Idris, nó từ chối. Chú bảo nó cân nhắc
lại. Nói rằng chú là người nhà, là máu mủ của nó. Nhưng nó nói nó không thể bỏ
parabatai lại, vì đó là gì đó còn quan trọng hơn máu mủ.” Đôi mắt xanh nhạt của Elias
kiên định. “Chú mang quà cho cháu đấy, Will Herondale. Có một thứ chú định giao cho
nó, khi nó đến tuổi trưởng thành, vì bố nó chẳng còn để tặng nó nữa. Nhưng giờ chú
không thể tặng nó được rồi.”

Toàn thân Will căng cứng, một một dây cung bị căng quá đà. Anh bảo: “Cháu chẳng làm
gì để xứng với món quà đó.”

“Chú nghĩ là có.” Elias rút từ thắt lưng ra một thanh đoản kiếm nằm trong cái bao được
chạm khắc tinh tế. Chú ấy chìa cho Will, sau một lát, anh nhận lấy. Vỏ bao được trang trí
hình khắc lá và các chữ rune rất tinh sảo, sáng lên dưới ánh sáng vàng. Rất dứt khoát,
Will rút kiếm và giơ lên trước mặt.
Chuôi kiếm cũng được chạm khắc những hình lá và chữ rune tương tự, nhưng lưỡi kiếm
đơn giản và để trơn, trừ mọc hàng chữ chạy dọc gân kiếm. Tessa nhoài tới để đọc cho rõ:

Ta là Cortana, rèn từ cùng thứ thép và nhiệt độ như Joyeuse và Durendal.

“Joyeuse là kiếm của Charlemagne,” Will nói, giọng vẫn nghèn nghẹt như Tessa biết mỗi
khi anh cố đè nén cảm xúc. “Durendal là kiếm của Roland. Thanh kiếm này… là một
thanh kiếm huyền thoại.”

“Được rèn bằng người chế tạo vũ khí đầu tiên của Thợ Săn Bóng Tối, Wayland Thợ Rèn.
Chuôi kiếm có lông vũ từ cánh Thiên Thần đấy,” Elias nói. “Nó được truyền trong dòng
họ Carstairs hàng trăm năm nay. Chú được bố Jem phó thác giao lại cho Jem khi nó được
mười tám. Nhưng Tu Huynh Câm không được nhận quà.” Chú ấy nhìn Will. “Cháu là
parabatai của nó. Cháu nên nhận lấy.”

Will tra kiếm vào bao. “Cháu không thể. Cháu sẽ không nhận.”

Elias có vẻ bối rối. “Nhưng cháu phải nhận. Nó là parabatai của cháu, và yêu quý
cháu…”

Will chìa thanh kiếm cho Elias Carstairs, chuôi ra trước. Sau một lát, Elias nhận lấy, và
Will quay lưng bỏ đi, biến mất trong đám đông.

Elias bối rối nhìn theo. “Chú không định làm nó phật ý.”

“Chú nói như thể Jem đã chết,” Tessa nói. “Jem không ở cùng bọn cháu nữa, nhưng anh
ấy chưa chết. Will – anh ấy không chịu được chuyện người khác nghĩ Jem đã chết, hay bị
lãng quên.”

“Chú không định quên cháu mình,” Elias nói. “Chú chỉ có ý là các Tu Huynh Câm không
có cảm xúc như chúng ta. Họ không có những cảm nhận giống chúng ta. Nếu họ yêu…”

“Jem vẫn yêu quý Will,” Tessa nói. “Dù anh ấy có là Tu Huynh Câm hay không. Có
những thứ không một phép thuật nào hủy hoại được, vì bản thân chúng đã là phép màu
rồi. Chú chưa từng thấy họ bên nhau, còn cháu thì có.”

“Chú thật lòng muốn tặng Cortana cho Will,” Elias nói. “Chú không thể trao cho James,
vậy nên chú nghĩ parabatai của nó nên nhận lấy.”

“Chú có ý tốt,” Tessa nói. “Nhưng thứ lỗi cho sự xấc xược của cháu, chú Carstairs – chú
đã bao giờ tính có con chưa?”

Mắt chú ấy mở lớn. “Chú chưa từng nghĩ…”


Tessa nhìn thanh kiếm bóng loáng, và rồi nhìn người đàn ông đang cầm nó. Cô có thể
thấy chút Jem nơi chú ấy, như thể cô nhìn hình phản chiếu của người cô yêu qua mặt
nước sóng sánh. Thứ tình yêu, được nhớ và hiện hữu, khiến giọng cô nhẹ nhàng khi cô
nói. “Nếu chú không chắc chắn,” cô nói, “vậy giữ nó đi. Giữ nó cho con cái chú. Will
muốn vậy hơn. Vì anh ấy không cần một thanh kiếm để nhìn vật nhớ người. Hơn nữa lại
là một vật nổi tiếng như thế.”

Ngoài thềm Học Viện lạnh giá, mà Will đứng đó không mũ mão, nhìn vào màn đêm tuyết
bay. Gió thổi những luồng tuyết hắt vào má, vào bàn tay không đeo găng và anh nghe,
như luôn vậy, giọng Jem trong đầu, bảo anh đừng có vớ vẩn, hãy vào trong trước khi
khiến mình bị cảm lạnh.

Mùa đông luôn là mùa trong lành nhất đối với Will – kể cả khói và bụi bẩn của Luân Đôn
dường như cũng bị cái lạnh đóng băng, và tẩy sạch. Sáng nay anh phải đục lớp băng hình
thành trên ca nước, trước khi té nước lạnh lên mặt và rùng mình khi nhìn vào gương, mái
tóc ướt tạo thành những vệt đen trước gương mặt anh. Giáng Sinh đầu tiên trong sáu năm
không có Jem. Cái lạnh sảng khoái nhất, mang lại cái đau lớn nhất.

“Will.” Một tiếng thì thầm vang lên, nghe rất quen thuộc. Anh quay đầu, hình ảnh già
Molly hiện lên trong đầu óc – nhưng ma hiếm khi đi xa nơi mình chết hay được chôn, và
hơn nữa, giờ mụ cần gì ở anh?

Một đôi mắt đen nhìn thẳng vào mắt anh. Phần còn lại của cô không quá trong suốt mà
hơi bàng bạc: mái tóc vàng, gương mặt xinh xắn như búp bê, bộ váy trắng cô mặc lúc
chết. Máu, đỏ như một đóa hoa trên ngực.

“Jessamine,” anh nói.

“Chúc Giáng Sinh an lành, Will.”

Tim anh, vừa ngừng đập một lát, bắt đầu đập lại, máu chảy nhanh trong mạch máu anh.
“Jessamine, sao… em làm gì ở đây?”

Cô hơi bĩu môi. “Em ở đây vì em chết ở đây,” cô nói, giọng rõ ràng hơn. Ma không phải
khó trở nên đặc khối và nói rõ tiếng gần như khi còn là người, nhất là với người có thể
nghe thấy chúng. Cô chỉ cái sân dưới chân, nơi Will đã ôm cô vào phút lâm chung, máu
chảy xuống nền đá lát. “Anh không vui được thấy em hả, Will?”

“Anh nên vui sao?” Anh nói. “Jessie, thường khi anh thấy ma thì đó là do con ma đó còn
chuyện đang dở hoặc vì một nỗi buồn nào đó giữ chân kẻ đó lại thế giới này.”
Cô ngẩng đầu nhìn tuyết. Dù nó rơi quanh cô, cô vẫn không hề bị nó chạm vào, như thể
cô đang đứng dưới kính. “Nếu em buồn, anh có giúp em giải buồn không? Anh chưa từng
mấy quan tâm đến em.”

“Có chứ,” Will nói. “Và anh thực lòng xin lỗi nếu cho em cảm giác anh không hề quan
tâm đến em, hay ghét em, Jessamine. Anh nghĩ em làm anh liên tưởng tới bản thân nhiều
hơn anh muốn thừa nhận, và vì thế anh đánh giá em với sự khắc nghiệt anh vẫn đánh giá
mình.”

Nghe tới đó, cô phải nhìn anh thật. “Vì sao lại thẳng thắn vậy hả, Will? Anh thay đổi
nhiều quá.” Cô lùi một bước, và anh thấy cô không để lại dấu chân trên lớp tuyết ở bậc
thềm. “Em ở đây vì khi còn sống em không hề ước ao được là Thợ Săn Bóng Tối, bảo vệ
Nephilim. Nhưng giờ em nhận trách nhiệm bảo vệ Học Viện, đến khi nào nó còn cần
được bảo vệ.”

“Và em không ngại sao?” Anh hỏi. “Ở đây, cùng bọn anh, khi mà em có thể ra đi…”

Cô chun mũi. “Em không quan tâm tới việc chuyển kiếp. Lúc sống em đã thấy quá mệt
mỏi rồi, ai biết sau đây sẽ ra sao. Không, em hạnh phúc ở đây, quan sát tất cả, im lặng,
trôi lững lờ và không ai trông thấy.” Mái tóc bàng bạc của cô sáng lên dưới ánh trăng khi
cô nghiêng đầu về phía anh. “Dù anh làm em sắp phát điên.”

“Anh?”

“Chính thế. Em luôn nói anh là một gã theo đuổi dở tệ, Will, và anh đã chứng minh rằng
em đúng.”

“Thật à?” Will nói. “Em chết đi sống lại như bóng ma già Marley chỉ để chọc tức anh về
khía cạnh lãng mạn của anh à?”

“Khía cạnh nào? Anh đưa Tessa đi xe ngựa bao nhiêu lần, em cược là giờ trong đầu cô ấy
có cả một bản đồ Luân Đôn rồi, nhưng anh có cầu hôn không? Không hề. Một quý cô
không thể nào tự mình cầu hôn, William, và cô ấy không thể nói rằng cô ấy yêu anh nếu
anh không chịu tỏ rõ ý định!”

Will lắc đầu. “Jessamine, em đúng là khó sửa.”

“Em còn đúng nữa,” cô chỉ ra. “Anh sợ gì nào?”

“Rằng nếu anh nói rõ ý định, cô ấy sẽ bảo không hề yêu anh, không phải như đã yêu
Jem.”
“Cô ấy sẽ không yêu anh như đã yêu Jem. Cô ấy yêu anh như yêu anh, Will, một con
người hoàn toàn khác biệt. Anh ước cô ấy không yêu Jem hả?”

“Không, nhưng anh cũng không muốn kết hôn với một người không yêu anh.”

“Anh phải hỏi mới biết được chứ,” Jessamine nói. “Cuộc đời đầy những phút phải liều.
Chết thì dễ dàng hơn nhiều.”

“Sao anh không gặp em trước đêm nay, khi mà em ở đây suốt?” Anh hỏi.

“Em chưa thể vào Học Viện, và khi anh ở ngoài sân, anh luôn cùng một ai khác. Em đã
cố đi xuyên cửa, nhưng một lực gì đó ngăn em lại. Nhưng giờ đã khá hơn nhiều rồi. Lúc
đầu em chỉ đi được vài bước. Giờ em như anh trông thấy đấy.” Cô chỉ vị trí trên bậc
thềm. “Một ngày nào đó em sẽ vào được trong kia.”

“Khi đó, em sẽ thấy phòng em vẫn như cũ, và những con búp bê cũng thế,” Will nói.

Jessamine nở một nụ cười khiến Will băn khoăn rằng có phải cô luôn buồn thế, hay chết
đã làm thay đổi nhiều hơn mức anh nghĩ một hồn ma có thể thay đổi. Trước khi anh nói
tiếp, mặt cô đã thoáng vẻ hoảng hốt, rồi cô biến mất trong một cuộn tuyết.

Will quay lại và thấy điều gì làm cô gái kia sợ hãi. Cửa Học Viện mở, và Magnus bước
ra. Anh ta mặc chiếc áo choàng lông dài, cái mũ chóp cao bằng lụa đã lấm tấm tuyết.

“Tôi đáng ra phải biết sẽ tìm thấy cậu ngoài này và đang cố hết sức để hóa băng chứ nhỉ,”
Magnus nói và bước xuống các bậc thềm tới khi đứng cạnh Will, nhìn ra ngoài sân.

Will không định nhắc tới Jessamine. Không hiểu sao anh nghĩ cô sẽ không muốn. “Anh
rời buổi tiệc à? Hay chỉ ra tìm tôi?”

“Cả hai,” Magnus nói và đeo đôi găng trắng vào. “Nói đúng ra là tôi sắp rời Luân Đôn.”

“Rời Luân Đôn?” Will có vẻ thất vọng. “Anh không nói thật..”

“Sao lại không chứ?” Magnus chọc ngón tay vào một bông tuyết. Nó lóe ánh xanh rồi
biến mất. “Tôi không phải người Luân Đôn, Will. Thi thoảng tôi sẽ ghé qua thăm
Woolsey, nhưng nhà cậu ấy không phải nhà tôi, và hai chúng tôi cũng chẳng chịu được
nhau lâu.”

“Anh sẽ đi đâu?”

“New York. Tân Thế Giới! Một cuộc sống mới, một lục địa mới.” Magnus giơ tay lên
trời. “Có lẽ tôi sẽ mang con mèo của cậu đi cùng. Charlotte nói nó ủ rũ từ hồi Jem đi.”
“Ờ, nó bạ ai cũng cắn. Nó có vẻ thích anh. Anh nghĩ nó sẽ thích New York chứ?”

“Ai mà biết? Chúng tôi sẽ cùng nhau tìm hiểu. Những điều bất ngờ sẽ giúp tôi khỏi mụ
mẫm.”

“Những người không sống mãi như anh không thích thay đổi như những người bất tử các
anh. Tôi đã chán mất bạn bè người thân rồi,” Will nói.

“Tôi cũng vậy,” Magnus nói. “Nhưng như tôi đã nói rồi nhỉ? Ta phải học cách chịu đựng
thôi.”

“Tôi nghe nói đôi khi những người đã mất tay hay chân vẫn cảm nhận thấy sự đau đớn ở
những chi đó, dù chúng đã mất,” Will nói. “Đôi lúc chúng ta sẽ có cảm giác tương tự vậy.
Tôi có thể cảm thấy Jem bên tôi, dù cậu ấy đã đi, và tôi có cảm giác như mất đi một phần
của mình.”

“Nhưng cậu thì không,” Magnus nói. “Cậu ấy không chết, Will. Cậu ấy sống vì cậu chịu
để cậu ấy đi. Cậu ấy có thể ở cùng cậu và chết, nếu cậu yêu cầu, nhưng cậu yêu quý cậu
ấy nhiều đủ để muốn cậu ấy sống hơn, kể cả nếu sống phải xa rời cậu. Và đó, hơn tất cả
mọi điều, chứng minh cậu không phải Sydney Carton, Will, rằng tình yêu của cậu không
phải loại tình yêu chỉ có thể được đền bù qua hủy diệt. Đó là cái tôi luôn thấy ở cậu,
khiến tôi muốn giúp cậu. Rằng cậu không tuyệt vọng. Rằng cậu chứa trong mình năng
lượng vui vẻ vô biên.” Anh ta đặt một tay dưới cằm Will và bắt Will ngẩng mặt. Không
có nhiều người mà Will phải ngẩng đầu mới nhìn thẳng được vào mắt người ta, nhưng
Magnus là một trong số đó. “Ngôi sao sáng,” Magnus nói và đôi mắt trầm ngâm như thể
anh ta đang nhớ ra gì đó, hoặc ai đó. “Những người đời sống có hạn như cậu cháy mãnh
liệt lắm. Và cậu cháy mãnh liệt hơn cả, Will. Tôi sẽ không bao giờ quên cậu.”

“Tôi cũng không bao giờ quên anh,” Will nói. “Tôi nợ anh rất nhiều. Anh đã giải lời
nguyền cho tôi.”

“Cậu không bị nguyền.”

“Có đấy,” Will nói. “Có đấy. Cảm ơn anh, Magnus, vì mọi điều anh làm cho tôi. Nếu
trước đây không nói, thì giờ tôi đang nói đây. Cảm ơn anh.”

Magnus hạ tay xuống. “Hình như chưa từng có một Thợ Săn Bóng Tối nào cảm ơn tôi thì
phải.”

Will cười nhếch mép. “Tôi cũng không định quen với câu nói đó. Chúng tôi không phải
những người dễ nói lời cảm ơn.”
“Không,” Magnus cười. “Tôi sẽ không quen đâu.” Đôi mắt mèo sáng rực của anh ta nheo
lại. “Tôi nghĩ mình đã để cậu vào một bàn tay tốt, Will Herondale.”

“Ý anh là Tessa.”

“Đúng, ý tôi là Tessa. Hay cậu định chối rằng cô ấy không nắm giữ trái tim cậu?”
Magnus bắt đầu bước xuống thềm, rồi dừng lại và ngoái nhìn Will.

“Tôi không chối,” Will nói. “Nhưng cô ấy sẽ buồn vì anh đi mà không tạm biệt cô ấy.”

“À,” Magnus nói và quay lại khi đứng ở bậc cuối, và nở một nụ cười lạ lùng. “Tôi không
nghĩ là cần thiết đâu. Hãy nói rằng tôi sẽ còn gặp lại cô ấy.”

Will gật đầu. Magnus quay bước, tay nhét túi áo khoác, và bắt đầu bước ra cổng Học
Viện. Will quan sát tới khi dáng hình anh ta hòa cùng màn trắng của tuyết.

Tessa rời khỏi phòng khiêu vũ mà không ai nhận ra. Kể cả đôi mắt thường chăm chú để ý
của Charlotte cũng lơ đãng, khi chị ngồi cạnh Henry trên xe lăn, tay nằm trong tay anh,
mỉm cười trước những màn tấu hài của các nghệ sĩ.

Tessa không mất nhiều thời gian để tìm ra Will. Cô đã đoán được anh ở đâu, và đã đúng
– anh đứng trước thềm Học Viện, không đội mũ mặc áo khoác, mặc tuyết rơi xuống vai
và đầu. Tuyết phủ trắng sân, như một lớp đường kính, phủ lên hàng xe ngựa đợi ngoài đó,
cánh cổng sắt đen, sân đá nơi Jessamine chết. Will đang chăm chú nhìn thẳng, như đang
cố phân biệt gì đó qua màn tuyết rơi.

“Will,” Tessa nói, và anh quay lại ngước nhìn cô. Cô khoác tấm khăn lụa, nhưng chỉ vậy,
và cô thấy những bông tuyết lạnh nhoi nhói nơi da trần ở cổ và vai.

“Đáng ra anh nên lịch sự hơn với chú Elias Carstairs,” Will nói thay lời đáp. Anh đang
ngước nhìn trời, nơi vầng trăng khuyết trắng ngần thấp thoáng giữa những đám mây và
sương mù. Những bông tuyết đã rơi và lẫn vào mái tóc đen của anh. Má và môi anh đỏ
hồng vì lạnh. Anh trông đẹp trai hơn bao giờ hết. “Thay vào đó anh lại đi cư xử… như
trước kia.”

Tessa hiểu ý anh. Với Will chỉ có một trước đây và sau này.

“Anh giận thế cũng phải,” cô nói. “Em đã nói rồi, em không muốn anh hoàn hảo. Chỉ cần
là Will.”

“Người sẽ chẳng bao giờ hoàn hảo.”


“Hoàn hảo nhàm lắm,” Tessa nói và bước xuống đứng cùng anh ở chân thềm. “Họ đang
chơi ‘hoàn thành câu thơ’ trong kia. Anh có thể tung hoành được đấy. Em không nghĩ có
ai có thể thách thức kiến thức văn học của anh.”

“Ngoài em.”

“Em cũng trầy trật lắm đấy. Có lẽ chúng ta nên hợp lực và chia đôi phần thưởng.”

“Có vẻ là một cặp đôi tệ đây.” Will lơ đãng nói và ngửa đầu. Tuyết trắng xoay tròn quanh
họ, như thể họ đang đứng dưới một xoáy nước. “Hôm nay, khi Sophie Tiến Cấp…”

“Vâng?”

“Có phải đấy là điều em muốn không?” Anh quay sang nhìn cô, tuyết trắng dính vào
hàng mi đen của anh. “Cho em?”

“Anh biết em không thể mà, Will. Em là pháp sư. Hoặc ít nhất đấy là cách miêu tả gần
với em nhất. Em không bao giờ có thể hoàn toàn là Nephilim.”

“Anh biết.” Anh nhìn xuống tay mình, mở bàn tay để cho tuyết đậu xuống, tan ra.
“Nhưng ở Cadair Idris em đã nói em mong là một Thợ Săn Bóng Tối – rằng Mortmain đã
phá vỡ những hi vọng đó…”

“Lúc đó em cảm thấy như thế thật,” cô đồng tình. “Nhưng khi em biến thành Ithuriel…
Khi em Biến Hình và tiêu diệt Mortmain – sao em có thể ghét một điều cho phép em bảo
vệ những người em yêu quý? Khác biệt không hề dễ, và độc nhất vô nhị lại còn khó hơn.
Nhưng em bắt đầu nghĩ định mệnh không cho em bước trên con đường trải hoa hồng.”

Will cười. “Con đường trải hoa hồng? Không, không dành cho em đâu, Tessa của anh.”

“Em là Tessa của anh?” Cô quấn khăn chặt hơn, giả bộ chỉ run vì lạnh. “Anh chán bản
chất em rồi hả, Will? Rằng em không giống anh?”

Những lời đó vang giữa họ, không cần ai phải nói ra: Không có tương lai nào cho một
Thợ Săn Bóng Tối chơi đùa với pháp sư.

Will tái nhợt. “Những điều anh nói trên mái nhà, rất lâu về trước – em biết là anh không
nói thật lòng mà.”

“Em biết…”

“Anh không muốn em khác bây giờ, Tessa ạ. Em cứ là em, và anh yêu em. Anh không
yêu em chỉ vì một phần trong em được Clave chấp thuận…”
Cô nhướng mày. “Và anh sẵn lòng chịu đựng phần còn lại?”

Anh vuốt mái tóc đen ướt nước tuyết tan. “Không. Anh nói sai rồi. Chẳng có phần nào
trong em anh có thể tưởng tượng không yêu. Em có thực lòng nghĩ chuyện em là
Nephilim quan trọng với anh không? Mẹ anh không phải Thợ Săn Bóng Tối. Và khi anh
thấy em biến thành thiên thần – khi anh thấy em bừng sáng lửa Thiên Đàng – nó thật rực
rỡ, Tess ạ.” Anh tiến một bước về phía cô. “Em là ai, em có thể làm gì, tất cả như một
phép nhiệm màu lớn của thế giới này, như lửa hay hoa dại hay hơi thở của biển cả. Em là
độc nhất vô nhị trên thế giới này, như em là độc nhất vô nhị trong trái tim anh, và sẽ
chẳng có lúc nào anh không yêu em. Anh yêu em kể cả nếu em chẳng có chút phần nào
của một Thợ Săn Bóng Tối…”

Cô run run cười với anh. “Nhưng em mừng là em là một Thợ Săn Bóng Tối, dù chỉ là bán
Thợ Săn Bóng Tối thôi,” cô nói. “vì như vậy có nghĩa là em có thể ở với anh, ở đây,
trong Học Viện này. Rằng gia đình em tìm thấy tại nơi đây sẽ vẫn là gia đình của em.
Charlotte nói rằng nếu muốn, em có thể từ bỏ họ Gray và dùng cái họ đáng ra là họ mẹ
em trước khi cưới. Em có thể là người nhà Starkweather. Em có thể có một cái họ Thợ
Săn Bóng Tối thực thụ.”

Cô nghe Will thở ra một hơi. Nó hóa thành một luồng hơi trắng trong cái lạnh. Mắt anh
xanh, mở lớn và trong trẻo, nhìn thẳng vào mặt cô. Anh mang vẻ mặt của người đàn ông
đang lấy tinh thần để làm một chuyện kinh khủng, và quyết làm tới cùng. “Tất nhiên em
có thể sử dụng một cái họ Thợ Săn Bóng Tối thực thụ,” Will nói. “Em có thể dùng họ của
anh.”

Tessa chằm chằm nhìn anh, đang mặc trắng đen nổi bật trên nền đen trắng của tuyết và
đá. “Họ của anh?”

Will bước một bước về phía cô, tới khi họ đứng mặt đối mặt. Rồi anh đưa tay nắm tay cô,
cởi găng của cô và nhét vào túi áo mình. Anh cầm bàn tay trần của cô, những ngón tay
nắm lấy tay cô. Tay anh ấm và chai sần, và được anh chạm vào làm cô run rẩy. Mắt anh
kiên định và xanh biếc; chúng đúng như con người Will: thành thật và dịu dàng, sắc nhọn
và láu lỉnh, giàu tình thương và nhân hậu. “Hãy kết hôn cùng anh,” anh nói. “Hãy kết hôn
với anh, Tess. Hãy kết hôn với anh và trở thành Tessa Herondale. Hoặc Tessa Gray, hoặc
bất cứ cái tên gì em muốn, nhưng hãy kết hôn với anh, ở cùng anh và không bao giờ rời
xa anh, vì anh không thể chịu nổi lấy một ngày trong đời trôi qua mà không có em.”

Tuyết vẫn rơi xuống quanh họ, trắng, lạnh và hoàn mĩ. Mây trên cao rẽ ra, và qua các kẽ
hở, cô có thể thấy những ngôi sao lấp lánh.
“Jem cho anh biết Ragnor Fell đã nói gì về bố anh,” Will tiếp tục. “Rằng đối với bố chỉ
có duy nhất một người phụ nữ bố yêu, và hoặc là người đó, hoặc là không ai khác. Em
chính là người dành cho anh. Anh yêu em và chỉ yêu em cho tới khi anh chết…”

“Will!”

Anh cắn môi. Tóc anh đầy những tuyết, lông mi cũng dính tuyết. “Đó là một phát ngôn
quá to tát à? Anh dọa em sợ sao? Em biết anh dùng từ ngữ ra sao mà…”

“Ồ, em biết.”

“Anh nhớ em đã từng nói,” Will tiếp tục. “Rằng ngôn từ có sức mạnh thay đổi chúng ta.
Những lời em nói đã thay đổi anh, Tess ạ; chúng khiến anh trở thành một con người tốt
hơn. Cuộc sống là một cuốn sách, và có cả ngàn trang anh chưa đọc. Anh sẽ đọc chúng
cùng em, bao nhiêu anh có thể, trước khi anh chết…”

Cô đặt tay lên ngực anh, ngay trên tim anh, và cảm nhận được nhịp đập của nó, độc nhất
vô nhị. “Em chỉ ước anh không nói đến chết chóc,” cô nói. “Nhưng kể cả vậy, có, em biết
anh với những từ ngữ như thế nào, và Will – em yêu tất cả những lời anh nói. Những lời
ngốc nghếch, điên rồ, đẹp đẽ, và những lời chỉ dành cho em. Em yêu chúng, và em yêu
anh.”

Will định nói, nhưng Tessa đã che miệng anh.

“Em yêu lời anh nói, Will của em, nhưng đợi một chút đã,” cô nói và cười. “Hãy nghĩ tới
những lời em đã giấu bao lâu nay, khi em không biết ý định của anh. Khi anh vào phòng
khách và nói rằng anh yêu em, khiến anh bỏ đi là điều khó nhất em từng làm. Anh nói
anh yêu những lời của trái tim em, hình dáng linh hồn em. Em nhớ. Em nhớ mọi lời anh
nói từ đó tới nay. Em sẽ không bao giờ quên. Có rất nhiều lời em muốn nói với anh, và
rất nhiều lời em ước anh sẽ nói với em. Em hi vọng chúng ta sẽ có cả cuộc đời phía trước
để nói cho nhau nghe.”

“Vậy em sẽ kết hôn với anh chứ?” Will nói, trông bối rối như thể không tin vào vận may
của mình.

“Vâng,” cô nói – từ cuối cùng, đơn giản nhất, và quan trọng nhất.

Và Will, người luôn biết phải nói gì trong mọi dịp, mở miệng rồi ngậm lại không nói
không rằng, và thay vào đó anh ôm ghì lấy cô. Chiếc khăn của cô rơi xuống thềm, nhưng
vòng tay anh thật ấm áp, và đôi môi anh nóng áp lên môi cô khi anh cúi đầu hôn cô. Anh
có vị của bông tuyết và rượu, như mùa đông và Will và Luân Đôn. Môi anh mềm mại, tay
anh đan vào tóc cô, làm rơi những quả mọng trắng xuống bậc thềm đá. Tessa ôm chặt lấy
Will khi tuyết rơi quanh họ. Qua các ô cửa sổ của Học Viện, cô có thể nghe thấy văng
vẳng tiếng nhạc trong phòng khiêu vũ: tiếng dương cầm, cello, và trên tất cả, như ánh lửa
bốc lên trời, là tiếng vĩ cầm êm dịu.

“Em không dám tin là chúng ta thực sự sắp về nhà,” Cecily nói. Tay cô ấy đang chắp
đằng trước, và đôi chân đi giày da dê trắng đang nhảy chân sáo. Cô ấy khoác áo choàng
đỏ, thứ chóe nhất trong hầm mộ tôi trừ chính Cổng Dịch Chuyển, lớn, bàng bạc và tỏa
sáng trên tường.

Qua đó Tessa có thể thấy một thoáng, một thoáng như mơ, bầu trời xanh (bầu trời ngoài
Học Viện là một mảnh trời Luân Đôn xám xịt) và những ngọn đồi trắng tuyết. Will đứng
cạnh, vai sượt qua vai cô. Nhìn anh tái mét và bồn chồn làm cô rất muốn nắm tay anh.
“Chúng ta không về nhà, Cecy,” anh nói. “Không ở lại. Chúng ta chỉ thăm nhà thôi. Anh
muốn giới thiệu với bố mẹ vợ sắp cưới của anh” – và tới đó anh bớt tái và môi cong lên
thành một nụ cười – “để họ được biết cô gái sắp kết hôn với anh.”

“Ôi, làm ơn cho em xin,” Cecily nói. “Chúng ta có thể dùng Cổng Dịch Chuyển để gặp
họ bất cứ khi nào muốn! Charlotte là Quan Chấp Chính và chúng ta không thể nào gặp
rắc rối gì.”

Charlotte rên rẩm. “Cecily, chỉ có một chuyến này thôi. Đây không phải đồ chơi. Em
không thể tùy tiện sử dụng Cổng Dịch Chuyển khi nào em muốn, và chuyện lần này phải
được giữ bí mật. Không ai ngoài chúng ta ở đây biết các em đi thăm bố mẹ, rằng chị cho
phép các em phạm Luật!”

“Em không nói với ai đâu!” Cecily phản đối. “Và Gabriel cũng thế.” Cô liếc nhìn chàng
trai bên cạnh. “Anh sẽ không nói, phải không?”

“Mà sao chúng ta phải dẫn anh ta theo?” Will hỏi, chẳng hỏi rõ một ai, nhưng rõ ràng đó
là câu hỏi dành cho cô em.

Cecily chống hông. “Thế sao anh dẫn Tessa theo?”

“Vì Tessa và anh sẽ kết hôn,” Will nói, làm Tessa mỉm cười; cái cách cô em của Will
khiến anh xù lông nhím vẫn luôn khiến cô thích thú.

“Ờ, Gabriel và em có lẽ sẽ kết hôn,” Cecily nói. “Vào một ngày nào đó.”

Gabriel sặc, và mặt chuyển sang màu tím đáng lo ngại.


Will giơ tay lên trời. “Em không thể kết hôn, Cecily! Em mới mười lăm! Khi anh kết
hôn, anh mười tám rồi. Là người lớn đấy nhé!”

Cecily có vẻ chẳng xi nhê gì. “Bọn em đính hôn lâu lâu rồi cưới cũng được,” cô ấy nói.
“Nhưng em không hiểu sao anh lại đi khuyên em kết hôn với người bố mẹ chưa từng
gặp.”

Will lắp bắp. “Anh không đi khuyên em kết hôn với người bố mẹ chưa từng gặp!”

“Vậy chúng ta thỏa thuận xong. Gabriel phải gặp bố mẹ.” Cecily quay sang Henry.
“Cổng Dịch Chuyển dùng được chưa anh?”

Tessa xích lại gần Will. “Em thực sự thích cách em nó xoay anh như chong chóng,” cô
thì thầm. “Xem vui ra phết.”

“Hãy đợi tới khi em gặp mẹ anh đi,” Will nói và nắm tay cô. Tay anh lạnh; tim anh chắc
đập nhanh lắm. Tessa biết anh đã thức trắng đêm. Ý tưởng gặp lại bố mẹ sau nhiều năm
xa cách khiến anh vừa vui vừa sợ. Cô biết cái cảm giác phấp phỏng pha lẫn sợ hãi là thế
nào, chắc chắn kinh hơn là chỉ một cảm giác thôi.

“Cổng Dịch Chuyển sắp dùng được rồi,” Henry nói. “Và nhớ này, trong một giờ nữa anh
sẽ mở lại, và các em phải về đấy.”

“Và hiểu rằng chỉ có lần này thôi,” Charlotte lo lắng nói. “Kể cả nếu chị là Quan Chấp
Chính, chị cũng không được phép cho các em đến thăm gia đình người phàm…”

“Kể cả dịp Giáng Sinh?” Cecily nói, mắt mở to, tỏ vẻ buồn thảm.

Charlotte có vẻ mủi lòng thấy rõ. “Ờ, có lẽ Giáng Sinh…”

“Và những dịp sinh nhật nữa,” Tessa nói. “Sinh nhật rất đặc biệt.”

Charlotte đập tay vào mặt. “Ôi, lạy Thiên Thần.”

Henry cười và dang tay chỉ cửa. “Đi qua đi,” anh nói, và Cecily đi trước, biến mất qua
Cổng Dịch Chuyển như thể đi qua một thác nước. Gabriel đi theo, rồi đến Will và Tessa
nắm chặt tay nhau. Tessa tập trung vào độ ấm của tay Will, nhịp máu chảy dồn dưới da
anh khi cảm giác lạnh lẽo và bóng tối bao lấy họ, xoay vần họ trong một khoảnh khắc bí
bách tưởng chừng như vĩnh cửu. Ánh sáng bừng sau mắt cô, và cô đột nhiên rời khỏi
vùng tối, chớp mắt và lảo đảo. Will ôm cô để cô khỏi ngã.

Họ đang đứng trên con đường uốn lượn rộng rãi ngay trước trang viên Ravenscar. Tessa
mới thấy nơi này từ trên cao xuống, khi cô, Jem và Will cùng nhau tới Yorkshire, không
hề biết giờ gia đình Will sống ở đó. Cô nhớ rằng trang viên nằm giữa một thung lũng, với
những ngọn đồi bao quanh, mọc đầy kim tước và thạch nam – giờ rải rác tuyết đây đó.
Cây hồi đó còn xanh, nhưng giờ đã trụi lá, và từ mái ngói sẫm màu của trang viên rủ
xuống những mầm băng lấp lánh.

Cửa lớn bằng gỗ sồi, ở giữa gắn một miếng gõ cửa bằng đồng nặng trịch. Will nhìn em
gái, cô ấy vội gật đầu với anh, rồi anh ưỡn vai đưa tay nhấc nó lên rồi buông ra. Một
tiếng động lớn dường như vọng khắp thung lũng, và Will lầm bầm chửi thề.

Tessa khẽ chạm vào cổ tay anh. “Dũng cảm lên,”cô nói. “Đấy có phải vịt đâu, nhỉ?”

Anh quay sang cười với cô, những sợi tóc đen xòa xuống mắt, đúng lúc cửa mở cho thấy
một cô hầu gái ăn vận gọn gàng, với váy đen và đội mũ trắng. Cô ta nhìn cả nhóm đứng
ngoài cửa một cái, mắt mở to như cái đĩa trà.

“Cô Cecily,” cô ta há hốc miệng rồi nhìn sang Will. Cô ta đưa tay bịt miệng, quay người
và nhảy lùi vào nhà.

“Ôi trời,” Tessa nói.

“Anh có ảnh hưởng đấy với phụ nữ đó,” Will nói. “Đáng ra anh nên nói với em trước khi
em đồng ý lấy anh.”

“Em vẫn đổi ý được,” Tessa ngọt ngào nói.

“Em dám…” anh vừa nói vừa cố nén cười thì đột ngột có hai người đứng ngoài cửa – một
người đàn ông cao ráo, vai rộng, tóc vàng đã điểm bạc, và mắt xanh da trời nhạt. Ngay
sau ông là một người phụ nữ: thon thả và tuyệt sắc, có mái tóc đen như mực giống Will
và Cecily, cùng đôi mắt xanh sẫm như màu hoa violet. Bà hét lớn ngay khi nhìn thấy
Will, hai tay giơ lên chấp chới như những con chim trắng giật mình trong gió xoáy.

Tessa buông tay Will. Anh có vẻ sững sờ, như con cáo sắp bị đàn chó săn tóm được. “Đi
đi,” Tessa nói khẽ và anh tiến lên, rồi mẹ anh ồm chầm lấy anh mà nói, “Mẹ biết con sẽ
trở về. Mẹ biết mà,” theo sau đó là một tràng tiếng Wales mà Tessa chỉ nghe ra được mỗi
tên Will. Bố họ đứng im nhưng mỉm cười, chìa tay với Cecily, và Tessa chưa từng thấy
cô ấy ngoan ngoãn như lúc lao vào vòng tay bố.

Một lát sau, Tessa và Gabriel ngượng nghịu đứng trước thềm cửa, không nhìn nhau
nhưng cũng chẳng biết phải nhìn ai. Sau một lúc lâu Will buông mẹ, nhè nhẹ vỗ vai bà.
Bà cười, dù mắt vẫn ầng ậc nước mắt, và nói gì đó bằng tiếng Wales mà Tessa cực kì
nghi là lời nhận xét rằng giờ Will cao lớn hơn bà rồi.
“Mẹ bé nhỏ,” anh âu yếm nói, xác nhận nghi vấn của Tessa, và anh quay lại đúng lúc ánh
mắt mẹ rơi xuống Tessa, rồi Gabriel, sau đó đôi mắt mở lớn. “Bố mẹ, đây là Theresa
Gray. Chúng con đã đính hôn và năm sau sẽ cưới.”

Mẹ Will há hốc miệng – dù bà có vẻ ngạc nhiên là nhiều, và Tessa thấy nhẹ nhõm hẳn –
còn ánh mắt bố Will chiếu tướng Gabriel, rồi Cecily, mắt nheo lại. “Còn cậu đây là?”

Nụ cười của Will thêm phần tươi rói. “Đấy là… bạn của Cecily, anh Gabriel
Lightworm.”

Gabriel, đang dở chìa tay chào hỏi ông Herondale, hoảng hốt sững lại. “Lightwood,” anh
ta lắp bắp. “Gabriel Lightwood…”

“Will!” Cecily nói và rời khỏi vòng tay bố để lườm anh trai.

Will nhìn Tessa, đôi mắt xanh sáng lên. Cô mở miệng định chấn chỉnh anh, để nói Will
như Cecily vừa rồi, nhưng đã quá muộn – cô đã cười phá ra.
KẾT THÚC
Khi nắp quan tài đóng lại,

Cửa Thiên Đàng mở ra

Đừng tưởng chết là hết,

Ấy là điểm bắt đầu.

– Victor Hugo, At Villequier

Luân Đôn, cầu Blackfriars, 2008

Cơn gió lạnh thổi tung bụi bặm và rác rều – những vỏ bim bim, mẩu giấy báo, các hóa
đơn cũ – trên vỉa hè khi Tessa, vội vàng đảo mắt quan sát giao thông lao qua cầu
Blackfriars.

Ai nhìn đều thấy cô là một cô gái bình thường độ chừng đôi tám hoặc hai mươi, đi bốt,
mặc quần bò, cùng cái áo vải cashmere được giảm giá một nửa cô mua nhân mùa giảm
giá tháng một, mái tóc nâu dài hơi xoăn vì thời tiết ẩm thả xuống lưng. Nếu người đó là
người có con mắt thời trang, họ sẽ đoán chiếc khăn họa tiết cánh hoa Liberty-print cô đeo
là hàng giả chứ không phải hàng thật đã một trăm năm tuổi, và rằng chiếc vòng tay là đồ
cổ chứ không phải một món quà được chồng cô tặng nhân kỉ niệm ba mươi năm ngày
cưới.

Những bước chân của Tessa chậm lại khi cô tới một băng ghế bên thành cầu. Những
băng ghế xi măng giờ được xây liền vào đó, để ta có thể ngồi và ngắm nhìn mặt nước
xanh xám chảy dưới chân cọc cầu, hoặc về phía nhà thờ Saint Paul xa xa. Thành phố
sống động với đủ thứ âm thanh – tiếng giao thông: tiếng còi bim bim, tiếng xình xịch của
những chiếc xe buýt hai tầng; tiếng chuông của hàng tá điện thoại; tiếng người đi đường
xì xào nói chuyện; tiếng nhạc khe khẽ lọt ra từ những chiếc tai nghe iPod trăng trắng.

Tessa ngồi xuống ghế, co chân lại. Không khí trong lành bất ngờ – khói và ô nhiễm từng
khiến không khí có màu vàng và đen thời cô còn con gái đã biến mất, và bầu trời mang
màu đá cẩm thạch xám xanh. Thứ chướng mắt từng là cầu đường sắt Dover và Chatham
cũng đã không còn; chỉ còn những chân cầu trồi lên khỏi mặt nước như những dấu tích kì
lạ của thứ từng tồn tại. Những chiếc phao vàng nổi bập bềnh trên mặt nước và những
chiếc thuyền du lịch bình bịch phóng qua, các giọng nói phát qua loa của các hướng dẫn
viên du lịch oang oang. Mấy chiếc xe buýt đỏ như những viên kẹo đỏ tăng tốc phóng qua
cầu, khiến những chiếc lá khô bay lên vỉa hè.
Cô nhìn đồng hồ. Năm phút nửa là tới trưa. Cô tới hơi sớm, nhưng cô luôn vậy vào những
lần họ gặp nhau hàng năm. Vậy cô sẽ có thời gian suy nghĩ – nghĩ và hoài niệm, và
không còn nơi nào tốt hơn là ở đây, trên cầu Blackfriars này, nơi lần đầu tiên họ thực sự
trò chuyện với nhau.

Bên cạnh chiếc đồng hồ là chiếc vòng tay cô vẫn luôn đeo. Cô chưa từng tháo nó ra. Will
đã tặng nó cho cô vào dịp kỉ niệm ba mươi năm ngày cưới, và anh đã mỉm cười khi anh
đeo nó cho cô. Hồi đó tóc anh đã điểm bạc, cô biết nhưng thực sự chưa từng để ý. Như
thể tình yêu của cô đã cho anh khả năng biến hình, mặc cho bao nhiêu thời gian trôi qua,
khi cô nhìn anh, cô luôn thấy chàng trai tóc đen điên khùng cô đã yêu.

Đến giờ đôi lúc cô vẫn thấy thật khó tin chuyện họ đã cùng già đi bên nhau, cô và Will
Herondale, người Gabriel Lightwood từng nói sẽ chẳng thể sống qua tuổi mười chín. Họ
cũng là bạn tốt với nhà Lightwood trong bao nhiêu năm đó. Tất nhiên Will khó thể nào
không làm bạn với em rể mình. Cả Cecily và Gabriel đều có mặt vào ngày Will tạ thế,
cùng với Sophie, nhưng Gideon đã qua đời trước đó vài năm.

Tessa vẫn nhớ y nguyên cái ngày hôm ấy, cái ngày các Tu Huynh Câm bảo rằng họ
không thể làm gì hơn để giữ mạng Will. Hồi đó anh đã chẳng thể rời giường. Tessa đã
ưỡn thẳng ngực, tới báo tin cho gia đình và người thân, cố vì họ mà bình tĩnh hết mức có
thể, dù tim cô như bị lôi ra khỏi cơ thể.

Đó là một ngày tháng sáu, một mùa hè nắng nóng năm 1937, họ kéo rèm sang bên cho
ánh nắng rực rỡ tràn vào phòng, Mọi người đều tề tựu đông đủ: con cái của cô và Will,
cháu ruột và cháu họ của họ – những đứa con trai mắt xanh của Cecy, cao ráo và điển
trai, hai cô con gái của Gideon và Sophie – và những người gần gũi chẳng khác nào
người nhà; Charlotte, tóc bạc trắng và đứng thẳng, cùng những đứa con trai con gái nhà
Fairchild mang mái tóc xoăn đỏ như Henry thời trước.

Cả ngày Tessa ngồi trên giường với Will bên cạnh, dựa đầu vào vai cô. Cảnh tượng một
cô gái trẻ âu yếm ôm một ông già đáng tuổi ông cô ta, tay hai người lồng vào nhau hẳn sẽ
khiến nhiều người khác thấy kì cục, nhưng với gia đình họ cảnh tượng đó rất quen thuộc
– đó chỉ là Tessa và Will mà thôi. Và vì đó là Tessa và Will, những người khác đến và đi
cả ngày như Thợ Săn Bóng Tối thường làm bên tử sàng, kể những câu chuyện về đời
Will và những điều anh cùng Tessa đã làm trong bao nhiêu năm tháng bên nhau.

Những đứa con họ hào hứng kể chuyện bố luôn yêu mẹ, mạnh mẽ và toàn tâm, cách bố
chưa từng để mắt nhìn ai, và bố mẹ họ đã tạo hình mẫu tình yêu cho họ hi vọng sẽ tìm
được trong đời mình. Họ nói bố yêu sách thế nào, và bố đã dạy tất cả đều biết yêu sách,
biết trân trọng những trang giấy in và những câu chuyện trong đó. Họ nói về cách bố vẫn
chửi thề bằng tiếng Wales mỗi khi làm rơi thứ gì, dù bình thường chẳng mấy khi dùng
đến, và rằng những bài văn xuôi của bố rất tuyệt vời – bố đã viết vài cuốn sử kí Thợ Săn
Bóng Tối khi nghỉ hưu được đánh giá cao – nhưng những bài thơ của bố rất kinh khủng,
dù điều đó không thể ngăn bố ngâm nga chúng.

Cậu con cả, James, đã vừa cười vừa kể chuyện bố không hiểu sao vô cùng sợ vịt và cuộc
chiến không hồi kết để không cho chúng lảng vảng trong cái ao trong ngôi nhà tại
Yorkshire.

Lũ cháu lại nhắc Will nhớ lại bài hát về đậu mùa quỷ anh dạy – Tessa luôn nghĩ hồi đó
chúng còn rất nhỏ, thế mà chúng đều nhớ cả. Chúng hát cùng nhau và lạc điệu, khiến
Sophie chướng tai vô cùng.

Với nước mắt đầm đìa gương mặt, Cecily đã nhắc anh nhớ lại hồi cô cưới Gabriel; hồi ấy
anh phát biểu một bài tuyệt hay ca ngợi chủ rể, cuối cùng thì tuyên bố, “Thưa Chúa kính
yêu, con nghĩ em con đang cưới Gideon. Con xin rút lại tất cả,” và chọc giận không chỉ
Cecily và Gabriel, mà còn Sophie nữa – và Will, dù đã mệt đến chẳng cười thành tiếng
được, vẫn mỉm cười và siết tay em gái.

Tất cả đều cười về thói quen đưa Tessa đi “nghỉ” lãng mạn tới hết những nơi trong tiểu
thuyết Gothic, kể cả cánh đồng hoang xấu xí ai đó đã chết, một lâu đài lạnh lẽo có ma, và
tất nhiên cả quảng trường ở Paris được anh quyết định rằng đấy là nơi Sydney Carton bị
xử chém, nơi Will khiến những người qua đường hoảng hồn khi hét lên “Tôi có thể thấy
máu trên những phiến đá lót đường” bằng tiếng Pháp.

Cuối ngày hôm đó, khi trời tối dần, cả gia đình quây quần quanh giường Will và hôn anh
rồi ra đi, tới khi chỉ còn lại Will và Tessa. Tessa đã nằm xuống bên anh và chuồi tay dưới
đầu anh, và áp đầu vào ngực, lắng nghe tiếng đập yếu ớt hơn bao giờ hết của tim anh. Và
trong bóng tối, họ thì thào nói chuyện, nhắc nhau nhớ những câu chuyện chỉ họ mới biết.
Về cô gái đã dùng bình nước đập vào đầu chàng trai tới cứu mình, và anh chàng đã yêu
cô ấy ngay phút đó thế nào. Về buổi vũ hội và ban công cùng vầng trăng như con thuyền
trôi trên bầu trời. Về tiếng đập cánh của mặt dây chuyền thiên sứ. Về nước thánh và máu.

Gần nửa đêm, cửa mở và Jem bước vào. Tessa chắc lúc ấy cô nên nghĩ anh là Tu Huynh
Zachariah, nhưng cả Will lẫn Tessa đều chưa từng gọi anh bằng tên đó. Anh vào như một
cái bóng mặc áo choàng trắng, và Tessa hít một hơi sâu khi thấy anh, vì cô biết đấy là
điều Will chờ đợi, và giây phút đó đã đến.

Anh không đến bên Will ngay lập tức, mà đi qua phòng tới cái hộp gỗ hồng nằm trên nóc
tủ. Họ vẫn luôn giữ cây vĩ cầm cho Jem, như Will đã hứa. Nó được giữ gìn tốt và sạch sẽ,
và chốt hộp không kêu cọt kẹt khi Jem mở ra và lấy cây đàn. Họ quan sát khi anh xát cô-
lô-phan bằng những ngón tay thon quen thuộc, cổ tay trắng xanh ẩn dưới lớp áo choàng
Tu Huynh Câm nhạt màu hơn.

Rồi anh đặt cây đàn lên vai, và nâng cây vĩ. Rồi anh chơi.

Tri âm. Jem từng nói với cô rằng từ đó có nghĩa là hiểu nhạc, và cũng là mối kết nối sâu
sắc hơn cả tình bạn. Jem chơi, và anh chơi về những năm tháng đời Will như anh được
chứng kiến. Anh chơi về hai cậu bé trong phòng tập, người này dạy người kia cách phóng
dao, và anh chơi về nghi lễ parabatai: ngọn lửa, lời thề và những chữ rune nóng rát. Anh
chơi về hai chàng trai trẻ chạy khắp đường phố Luân Đôn trong đêm tối, dừng lại dựa vào
một bức tường và cười với nhau. Anh chơi về cái ngày ở trong thư viện khi anh và Will
nói giỡn với Tessa về lũ vịt, và anh chơi về chuyến tàu đi Yorkshire mà Jem đã nói rằng
parabatai nghĩa là yêu quý nhau như yêu chính linh hồn mình. Anh chơi về tình yêu đó,
và anh chơi về tình yêu họ dành cho Tessa, của cô đối với họ, và anh chơi câu nói của
Will, Trong mắt bồ tôi luôn tìm thấy sự bình yên. Anh chơi về vài lần ít ỏi anh được gặp
họ sau khi anh gia nhập hội Tu Huynh – những lần gặp qua loa ở Học Viện; lần Will bị
một con quỷ Shax cắn suýt chết và Jem đã từ Thành phố Câm Lặng đến ngồi với anh cả
đêm, mặc kệ khả năng có thể bị phát hiện và trừng phạt. Và anh chơi về ngày đứa con
đầu lòng của vợ chồng họ chào đời, và nghi lễ bảo vệ được cử hành trên đứa bé tại Thành
phố Câm Lặng. Will không cho Tu Huynh Câm nào ngoại trừ Jem thực hiện. Và Jem đã
chơi về cách anh che gương mặt mang sẹo bằng bàn tay và quay đi khi biết tên đứa bé là
James.

Anh chơi về tình yêu, mất mát và những năm tháng câm lặng, những lời không được nói
và những lời thề không được cất lên, và tất cả khoảng cách giữa tim anh và tim họ; và sau
khi xong, anh trả cây đàn về hộp, mắt Will nhắm nhưng mắt Tessa đong đầy lệ. Jem đặt
cây vĩ rồi tới giường, bỏ mũ nên cô có thể thấy đôi mắt nhắm và gương mặt mang sẹo của
anh. Anh đã ngồi xuống bên họ trên giường, cầm tay Will, bàn tay Tessa không nắm và
cả Will lẫn Tessa đều nghe rõ giọng Jem vang trong đầu.

Tôi cầm tay anh, người anh em, để anh được ra đi thanh thản.

Will mở đôi mắt xanh chưa bao giờ mất đi màu sắc của chúng sau bao nhiêu năm qua, và
nhìn Jem rồi Tessa, sau đó mỉm cười, từ giã cõi đời với đầu Tessa dựa trên vai anh và tay
anh nằm trong tay Jem.

Nỗi đau mất Will chưa bao giờ nguôi ngoai trong cô. Sau khi anh đi, Tessa đã bỏ chạy.
Con cái họ đã lớn và sinh con đẻ cái; cô tự nhủ rằng chúng không cần mình nữa và cố
giấu suy nghĩ vẫn luôn ám ảnh cô: Cô không thể chịu nổi ở lại và chứng kiến chúng già
hơn cô. Tiếp tục sống sau khi chồng qua đời là một chuyện, nhưng sau khi con cái mình
chết lại là chuyện khác – cô không thể ngồi im mà chứng kiến. Chuyện đó sẽ, và phải xảy
ra, nhưng cô sẽ không ở đó.

Và hơn nữa, còn những chuyện Will phó thác cho cô.

Con đường dẫn từ Shrewbury tới Welshpool không còn như hồi Will phi qua trong cơn
vội vã cuống cuồng đi cứu cô khỏi tay Mortmain nữa. Will để lại những chỉ dẫn, chi tiết,
miêu tả các ngôi làng và một cây sồi tỏa tán rộng nào đó. Cô đã lái con Morris Minor đi
ngược xuôi vài bận mới tìm được nó: cái cây, đúng như anh vẽ trong cuốn nhật kí anh
đưa, hồi đó tay anh hơi run nhưng trí nhớ vẫn minh mẫn.

Con dao nằm đó giữa đám rễ cây mọc bao quanh chuôi dao. Cô phải chặt một vài rễ, và
đào đất cùng đá bằng một cái bay, trước khi rút được nó ra. Con dao của Jem, giờ đã xỉn
màu vì dãi dầu mưa gió và năm tháng.

Năm ấy cô đã mang con dao cho Jem ở trên cầu. Đó là năm 1937 và những cuộc oanh tạc
chưa san phẳng những tòa nhà xung quanh Saint Paul, lửa chưa bay đầy trời và thiêu rụi
những bức tường của thành phố Tessa yêu. Nhưng vẫn có một bóng đen phủ khắp thế
giới, dấu hiệu của đêm tối sắp đến.

“Họ giết nhau và chúng ta chẳng thể làm gì,” Tessa đã nói thế, tay đặt trên lan can đá đã
mòn vẹt. Cô đang nghĩ về Thế Chiến, về bao nhiêu con người ngã xuống. Không phải
một cuộc chiến của Thợ Săn Bóng Tối, nhưng máu đổ và chiến tranh sẽ sinh ra quỷ dữ,
và trách nhiệm của Nephilim là ngăn cản quỷ tàn phá mạnh thêm.

Chúng ta không thể cứu họ khỏi chính họ, Jem đáp vậy. Anh đội mũ trùm, nhưng gió thổi
nó ật xuống, cho cô thấy gò má anh.

“Sắp có chuyện gì đó. Một nỗi kinh hoàng chỉ Mortmain mới tưởng tượng nổi. Em linh
cảm được.”

Không ai có thể tẩy sạch cái ác khỏi thế giới này, Tessa.

Và khi cô rút con dao của anh, được quấn bằng lụa, vẫn còn bẩn và dính đất cát cùng máu
Will từ túi áo khoác và đưa cho anh, anh cúi đầu và giơ ra nhìn, vai so lại như thể bảo vệ
tim mình khỏi vết thương gì đó.

Hãy giữ nó giùm anh. Có thể ngày ấy sẽ đến.

Cô không hỏi xem ý anh là gì, nhưng vẫn giữ. Giữ lúc cô rời Anh, những vách đá trắng
của thị trấn Dover lùi đi như những đám mây ở đằng xa khi cô vượt kênh đào Manche. Ở
Paris, cô tìm Magnus, hiện đang sống trong một căn hộ gác mái và làm họa sĩ, một nghề
nghiệp anh ta chọn bừa để đốt thời gian. Anh ta để cô ngủ trên cái đệm bên cửa sổ, và
trong đêm, khi cô tỉnh giấc hét gọi tên Will, anh ta tới và ôm cô, người thoang thoảng
mùi nhựa thông.

“Lần đầu bao giờ cũng khó khăn nhất,” anh ta nói.

“Lần đầu?”

“Lần đầu cô chứng kiến một người cô yêu ra đi,” anh ta nói. “Dần dà sẽ dễ hơn thôi.”

Khi chiến tranh lan đến Paris, họ cùng nhau đến New York, và Magnus giới thiệu cô với
thành phố quê hương – giờ là một đô thị nhộn nhịp, rực rỡ ánh đèn cô chẳng còn mấy
nhận ra, nơi những chiếc xe hơi nhung nhúc trên đường phố như kiến cỏ, và những con
tàu lướt đi trên đường sắt đôn cao. Cô không gặp Jem năm đó, vì những chiếc máy bay
Đức Quốc Xã đang oanh tạc Luân Đôn bằng lửa và anh thấy gặp nhau vậy nguy hiểm
quá, nhưng trong những năm sau đó…

“Tessa?”

Tim cô ngừng đập.

Một cảm giác váng vất ập qua cô, và trong một thoáng cô tự hỏi có phải mình sắp điên,
nếu sau bao nhiêu năm quá khứ và hiện tại hòa vào nhau trong trí nhớ của cô tới khi cô
không còn phân biệt được sự khác biệt. Vì giọng nói cô nghe thấy không phải giọng êm
ái, yên lặng vang trong tâm trí cô của Tu Huynh Zachariah. Giọng nói đã vang trong đầu
cô mỗi năm một lần một trăm ba mươi năm qua.

Đó là giọng nói vang lên từ kí ức đang ngày càng mỏng đi sau bao nhiêu năm tháng, như
giấy được gấp và mở không biết bao nhiêu lần. Giọng nói đó mang về, như một cơn sóng,
kí ức về một lần khác trên cầu, một đêm rất lâu rồi, mọi thứ đều đen, bạc và nước chảy rì
rào dưới chân cô…

Tim cô đang đập quá mạnh, cô có cảm giác như nó có thể nổ tung trong lồng ngực. Cô từ
từ quay lại khỏi hàng lan can. Và nhìn trân trối.

Anh đứng trên vỉa hè ngay trước, cười ngượng ngùng, tay nhét trong túi một chiếc quần
bò rất hợp thời. Anh mặc áo phông xanh xắn tay tới khuỷu. Những vết sẹo trắng mờ nhạt
trang điểm cho cẳng tay anh như đăng ten. Cô có thể thấy hình dáng chữ rune Bình thản,
từng rất đen và nổi bật trên da anh, giờ đã nhạt thành một vết sẹo lõm bàng bạc.
“Jem?” Cô thì thầm, giờ nhận ra vì sao lúc trước cô không thấy anh khi quan sát đám
đông. Cô đang tìm Tu Huynh Zachariah, mặc chiếc áo choàng da dê, di chuyển chẳng ai
trông thấy giữa đám người Luân Đôn. Nhưng đây không phải Tu Huynh Zachariah.

Đây là Jem.

Cô không thể rời mắt khỏi anh. Cô luôn nghĩ Jem đẹp. Và giờ vẻ đẹp đó không hề giảm
bớt. Anh từng có mái tóc bạc và đôi mắt mang màu trời xám. Jem này có mái tóc đen như
mực, hơi xoăn vì không khí ẩm, và đôi mắt nâu có ánh vàng trong đồng tử. Da anh từng
trắng xanh nhưng giờ hồng hào hơn hẳn. Nếu trước khi là Tu Huynh Câm gương mặt anh
nhẵn nhụi thì nay có thêm hai vết sẹo sậm màu, những chữ rune đầu tiên một Tu Huynh
Câm phải nhận, nổi bật và đen ở hai bên gò má.

Ở nơi cổ áo anh hơi sâu xuống, cô có thể thấy hình dáng tinh tế của chữ rune parabatai
từng ràng buộc anh với Will. Giờ có lẽ nó vẫn ràng buộc họ, nếu một người tưởng tượng
linh hồn có thể kết chặt vượt trên sự chia cắt của cái chết.

“Jem,” cô lại gọi. Chỉ nhìn qua, trông anh chỉ chừng mười chín hoặc hai mươi, hơi chín
chắn hơn hồi anh mới trở thành Tu Huynh Câm. Khi nhìn kĩ hơn, cô thấy một người đàn
ông – những năm tháng dài dằng dặc đớn đau và học hỏi hiện trong mắt anh; kể cả cách
anh di chuyển cũng toát lên sự quan tâm của một sự hi sinh thầm lặng. “Anh” – giọng cô
cất lên cùng niềm hi vọng ngông cuồng – “đây là vĩnh viễn? Anh không bị ràng buộc với
hội Tu Huynh Câm nữa?”

“Không,” anh nói. Anh thở hơi hụt hơi; anh nhìn cô như thể anh không biết cô sẽ phản
ứng thế nào với sự xuất hiện đường đột của mình. “Không còn nữa rồi.”

“Thuốc giải – anh đã tìm ra?”

“Anh không tự tìm ra,” anh nói chậm rãi. “Nhưng… có rồi.”

“Em đã gặp Magnus ở Alicante vài tháng trước. Chúng em có nhắc đến anh. Anh ấy
không hề nói…”

“Anh ấy không biết,” Jem nói. “Đây là một năm khó khăn, một năm đen tối với Thợ Săn
Bóng Tối. Nhưng từ máu và lửa, mất mát và đau thương đã sinh ra những thay đổi mới
lớn lao.” Anh chìa tay, và với chút hân hoan trong giọng, anh nói. “Bản thân anh đã thay
đổi.”

“Sao…”
“Anh sẽ kể em nghe. Một câu chuyện khác về nhà Lightwood, Herondale và Fairchild.
Nhưng một giờ kể sẽ chẳng hết chuyện, mà hẳn em lạnh lắm rồi.” Anh tiến tới như thể
định chạm vào vai cô, rồi dường như nhớ ra, và buông tay xuống.

“Em…” Từ ngữ rời bỏ cô. Cô vẫn còn bàng hoàng vì được thấy anh như thế này. Đúng,
cô gặp anh hằng năm, ở chính nơi này, trên chính cây cầu này. Nhưng đến giây phút này
cô mới nhớ ra mình đang được trông thấy một Jem thay đổi nhiều thế nào. Nhưng đây –
đây giống như rơi trở về quá khứ, cả một thế kỉ qua bị xóa bỏ, và cô thấy váng vất, lâng
lâng và hoảng hốt. “Nhưng – sau ngày hôm nay? Anh sẽ đi đâu? Tới Idris ư?”

Anh nhìn, trong một lúc, thực sự bối rối – và dù cô biết anh nhiều tuổi thế nào, trông anh
rất trẻ. “Anh không biết,” anh nói. “Anh chưa từng lên kế hoạch cho đời mình.”

“Vậy… tới một Học Viện khác?” Đừng đi, Tessa muốn nói. Ở lại đi. Làm ơn.

“Anh không nghĩ anh sẽ tới Idris, hoặc một Học Viện nào,” anh nói sau khi im lặng rất
lâu khiến cô tưởng đầu gối cô khuỵu xuống nếu anh không lên tiếng. “Anh không biết
sống ở một thế giới không có Will là thế nào. Anh không nghĩ là mình muốn cơ. Anh vẫn
là một parabatai, nhưng nửa kia của anh đã không còn. Nếu anh tới một Học Viện nào đó
và đề nghị họ nhận mình, anh sẽ không bao giờ quên được chuyện đó. Anh sẽ không bao
giờ cảm nhận được mình vẹn nguyên.”

“Vậy thì đi đâu…”

“Đó phụ thuộc vào em.”

“Vào em?” Cô hoảng hốt. Cô biết cô muốn anh nói gì, nhưng điều đó dường như không
thể. Trong suốt bao năm cô được gặp anh khi anh là Tu Huynh Câm, anh dường như xa
cách. Không phải là không tử tế hay vô cảm, nhưng như thể có một lớp kính giữa anh và
thế giới. Cô nhớ chàng trai cô từng biết, người đã trao tình yêu của mình nhẹ nhàng như
hơi thở, nhưng đó không phải người đàn ông cô gặp mỗi năm một lần trong suốt hơn một
thế kỉ qua. Cô biết khoảng thời gian từ đó đến giờ đã thay đổi cô nhiều thế nào. Phải qua
bao nhiêu năm nữa thời gian mới thay đổi được anh đây? Cô không biết cô muốn gì từ
cuộc đời mới của anh, hay cấp thiết hơn, từ cô. Cô muốn nói với anh bất cứ điều gì anh
muốn nghe, muốn lao tới ôm anh, muốn nắm tay anh và nhờ chúng an ủi mình – nhưng
không dám khi không biết anh muốn gì từ cô. Quá nhiều năm đã trôi qua. Sao cô dám
đoán tình cảm của anh vẫn như xưa?

“Anh…” Anh nhìn xuống đôi cánh tay gầy, và nắm lấy lan can xi măng. “Trong một trăm
ba mươi năm, mỗi giờ trong đời anh đều được lên kế hoạch. Anh thường xuyên nghĩ
mình sẽ làm gì nếu được tự do, nếu tìm được thuốc giải. Anh nghĩ mình sẽ nhảy tung lên
ngay như chim xổ lồng. Anh không hề nghĩ mình sẽ bước ra và thấy thế giới thay đổi quá
triệt để. Anh muốn sống, nhưng chỉ vì một lí do. Anh ước…”

“Anh ước gì?”

Anh không đáp. Thay vào đó anh đưa tay khẽ chạm vào vòng tay ngọc trai của cô. “Đây
là vòng tay kỉ niệm ba mươi năm ngày cưới của em,” anh nói. “Em vẫn đeo.”

Tessa nuốt khan. Cô nổi da gà, nhịp tim tăng. Cô nhận ra mình không cảm nhận được
cảm giác lo lắng phấn khích này trong suốt bao nhiêu năm qua, đến độ cô đã gần quên
mất nó. “Vâng.”

“Từ hồi Will tới giờ, em không hề yêu ai khác?”

“Anh không biết đáp án ư?”

“Anh không muốn nói tới yêu con cái hay bạn bè. Tessa, em biết anh hỏi gì mà.”

“Em không,” cô nói. “Em nghĩ em cần anh nói em nghe.”

“Chúng ta từng sắp cưới,” anh nói. “Và anh luôn yêu em – suốt một trăm năm mươi năm.
Và anh biết em yêu Will. Anh thấy hai người bên nhau bao nhiêu năm đó. Và anh biết
tình yêu đó quá lớn, lớn hơn mọi tình yêu khác, kể cả tình yêu chúng ta có khi còn rất trẻ
so ra cũng rất nhỏ bé và không quan trọng. Em yêu cậu ấy ở đời, Tessa. Quá nhiều năm.
Có con cái. Những kí ức anh không hề mong sẽ…”

Anh ngừng lại và giật nẩy mình.

“Không,” anh nói và buông cổ tay cô. “Anh không thể. Anh thật ngốc mới nghĩ… Tessa,
tha thứ cho anh,” anh nói và quay người lao vào đám người đang đi trên cầu.

Tessa bàng hoàng đứng một lúc; nhưng chỉ một lúc, cũng đủ để anh khuất dạng trong
đám đông. Cô giơ một tay ra để đứng cho vững. Đá cầu lành lạnh dưới tay cô – lạnh, hệt
như cái đêm họ lần đầu tiên cùng nhau tới nơi này, khi họ lần đầu nói chuyện. Anh là
người đầu tiên cô thổ lộ nỗi sợ lớn nhất: rằng sức mạnh của cô sẽ biến cô thành thứ gì
khác, một thứ không phải người. Em là người, anh đã nói vậy. Theo mọi cách điều đó
quan trọng.

Cô nhớ anh, nhớ chàng trai dễ mến dù bản thân sắp chết vẫn không tiếc thời gian an ủi cô
gái đang hoảng hốt mà anh không quen biết, và không hề nói một lời nào về nỗi sợ hãi
của chính mình. Tất nhiên anh đã để lại dấu ấn trong tim cô. Sao có thể không cơ chứ?
Cô nhớ hồi anh tặng cô mặt dây chuyền ngọc bích của mẹ anh, giơ ra bằng bàn tay run
run. Cô nhớ những nụ hôn trong xe ngựa. Cô nhớ đã bước vào phòng anh, ngập tràn ánh
trăng và nhìn chàng trai tóc bạc đứng trước cửa sổ, tạo ra tiếng nhạc tuyệt đẹp hơn mọi
ước vọng từ chính cây vĩ cầm trong tay mình.

Will, anh đã nói, Là bồ sao, Will?

Will. Trong một khoảnh khắc, trái tim cô lưỡng lự. Cô nhớ hồi Will qua đời, nỗi đau đớn
của cô, những đêm dài đơn độc, mỗi sáng vẫn vươn tay sờ giường khi tỉnh giấc, nhiều
năm trời mong thấy anh bên mình và chỉ dần dần quen với chuyện bên giường luôn trống
trải. Mỗi khi cô thấy gì đó hài hước và quay sang định chia sẻ với anh, nỗi bàng hoàng lại
trở về như mới vì anh không ở đó. Những khoảnh khắc tồi tệ nhất, khi ngồi một mình ăn
sáng, cô nhận ra cô đã quên mất màu xanh của mắt anh hay độ trầm của tiếng cười anh ra
sao; chúng, cũng như tiếng đàn của Jem, đã chìm vào quá vãng xa xôi.

Jem là người thường rồi. Anh sẽ già đi như Will, và rồi cũng sẽ chết, và cô không biết
mình có chịu nổi một lần nữa không.

Nhưng.

Người nào may mắn lắm mới có được một tình yêu lớn trong đời. Cô lại tìm được hai.

Đột ngột chân cô di chuyển, gần như không cần cô điều khiển. Cô đang lao qua đám
đông, xô đẩy những người lạ, lầm bầm xin lỗi khi suýt vấp phải chân một người bộ hành
hay thúc khuỷu tay vào họ. Cô không quan tâm. Cô đang chạy qua cầu, dừng sững lại ở
cuối cầu, nơi một loạt những bậc đá hẹp dẫn xuống nước sông Thames.

Cô bước hai bậc một, suýt trượt trên đá ướt. Ở bậc thang cuối là một cái bến neo tàu nho
nhỏ bằng xi măng, được bao quanh bằng lan can kim loại. Nước sông dâng cao và vỗ lên
giữa các thanh kim loại, khiến không gian nhỏ đó ngập mùi phù sa và nước sông.

Jem đứng bên lan can, nhìn ra mặt nước. Tay anh nhét sâu vào túi quần, vai so lại như
đang chống lại cơn gió mạnh. Anh đang đờ đẫn giương mắt nhìn xa xăm, và trong lúc
đang chăm chú như vậy anh không dường như không hề nghe tiếng chân cô lại gần. Cô
kéo tay áo anh, và kéo anh quay lại nhìn cô.

“Này,” cô hổn hển nói. “Anh định hỏi em gì thế, Jem?”

Mắt anh mở to. Má anh ửng hồng, cô không rõ do chạy hay vì thời tiết lạnh. Anh nhìn cô
như thể cô là một thứ thực vật lạ lùng mọc lên từ chỗ này, khiến anh kinh ngạc. “Tessa –
em đi theo anh?”
“Tất nhiên rồi. Anh chạy khi chưa nói hết câu mà!”

“Đấy không phải một câu hay.” Anh nhìn xuống đất rồi lại ngước nhìn cô, một nụ cười,
vẫn quen thuộc như trong trí nhớ của cô, thấp thoáng nơi khóe môi anh. Bỗng một kí ức
đã mất như không hề bị lãng quên chợt quay lại với cô: nụ cười của Jem luôn rạng rỡ như
ánh nắng. “Anh chưa bao giờ giỏi dùng từ ngữ thổ lộ lòng mình,” anh nói. “Nếu anh có
cây vĩ cầm, anh có thể chơi cho em nghe điều anh muốn nói.”

“Cứ thử đi.”

“Anh không – anh không chắc anh có thể. Anh đã chuẩn bị trước năm hay sáu bài phát
biểu, và giờ hình như anh quên hết rồi.”

Tay anh nhét sâu vào túi quần. Tessa đưa tay nhẹ nhàng nắm cổ tay anh. “Ừ thì em giỏi
dùng lời diễn tả lòng mình,” cô nói. “Vậy để em hỏi anh vậy.”

Anh rút tay khỏi túi và để cô nắm cổ tay anh. Họ đứng đó, Jem ngước nhìn cô từ dưới
mái tóc nâu – nó lòa xòa trên mặt anh vì gió từ sông thổi đến. Vẫn còn một lọn bạc duy
nhất, tương phản rõ ràng với nền màu sẫm.

“Anh hỏi liệu em có yêu ai ngoài Will không,” cô nói. “Và câu trả lời là có. Em yêu anh.
Em luôn, và sẽ luôn yêu anh.”

Cô cảm nhận được anh hít một hơi sâu. Mạch cổ anh đập dồn dập, rõ ràng trên làn da
trắng xanh thấp thoáng những vết sẹo trắng mờ do chữ rune của hội Tu Huynh để lại.

“Họ nói ta không thể chia đều tình yêu cho hai người,” cô nói. “Và có lẽ với những người
khác điều đó đúng. Nhưng anh và Will – hai người không giống những con người bình
thường, những người có thể ghen tị với nhau, hay tưởng tượng tình yêu em dành cho
người này sẽ bị ảnh hưởng vì tình yêu em dành cho người kia. Linh hồn hai người đã hòa
làm một từ thời niên thiếu. Em không thể yêu Will nhiều đến thế nếu không yêu anh. Và
em không thể yêu anh nếu em không yêu Will như vậy.”

Những ngón tay cô nắm hờ cổ tay anh, ngay dưới tay áo. Được chạm vào anh thế này –
cảm giác thật lạ, nhưng lại làm cô muốn chạm vào anh hơn. Cô gần như đã quên mình
nhớ cảm giác được chạm vào người mình yêu là thế nào.

Nhưng cô buộc mình buông tay anh, và cho tay vào cổ áo. Cẩn thận cô kéo ra một sợi
dây chuyền và giơ lên để anh có thể thấy treo trên đó là mặt dây chuyền ngọc bích anh đã
trao cô ất lâu về trước. Những dòng khắc mặt sau vẫn lấp lánh như trước.

Khi tâm hai người là một, họ có thể đập tan cả sắt hay đồng.
“Anh có nhớ anh để lại thứ này cho em không?” cô nói. “Em chưa từng tháo ra.”

Anh nhắm mắt. Lông mi rợp trên má, dài và đẹp. “Suốt bao nhiêu năm qua,” anh thầm
thì, và đó không phải là giọng của chàng trai khi xưa, nhưng vẫn là giọng nói cô yêu.
“Bao nhiêu năm qua em vẫn đeo ư? Anh không hề biết.”

“Nói ra chỉ là gánh nặng cho anh, vì anh là Tu Huynh Câm. Em sợ anh sẽ nghĩ em đeo là
vì kì vọng gì nơi anh. Một kì vọng anh không thể hoàn thành.”

Anh im lặng một lúc lâu. Tessa có thể nghe tiếng nước sông vỗ bờ, tiếng xe cộ đi lại từ xa
vọng tới. Cô còn tưởng mình nghe được tiếng mây bay ngang trời. Mọi dây thần kinh
trong người cô đều gào thét xin anh cất tiếng, nhưng cô vẫn đợi: đợi khi những biểu cảm
thay nhau xuất hiện trên gương mặt anh, và cuối cùng anh nói.

“Là một Tu Huynh Câm,” anh nói, “là cùng lúc nhìn thấy tất cả và chẳng thấy gì. Anh có
thể thấy tấm bản đồ lớn của cuộc đời trải ra trước mắt. Anh có thể thấy những dòng chảy
của thế giới. Và đời người như một trò chơi, được ai đó từ xa điều khiển. Khi họ lấy
những chữ rune khỏi anh, khi anh không còn là Tu Huynh nữa, đó như tỉnh giấc sau một
cơn mê dài, hoặc như thể tấm khiên thủy tinh bao quanh anh vỡ tan tành. Anh cảm nhận
được tất cả cùng một lúc. Toàn bộ nhân tính mà những thần chú của hội Tu Huynh lấy
khỏi anh. Rất nhiều thứ tình cảm thuộc về con người trở về với anh… Đó là vì em. Nếu
anh không có em, Tessa, nếu anh không có những lần gặp nhau hằng năm làm mỏ neo và
kim chỉ nam, anh không biết anh có thể trở lại không nữa.”

Có ánh sáng trong đôi mắt nâu của anh, và tim cô nhói đau. Cô chỉ yêu hai người đàn ông
trong đời, và cô chưa từng nghĩ sẽ được nhìn ngắm một gương mặt nào thêm lần nữa.
“Nhưng anh đã quay về,” cô thì thầm. “Và đó là một phép màu. Và anh nhớ điều anh
từng nói với em về phép màu chứ?”

Anh lại mỉm cười. “Một người không được nghi vấn về phép màu, hay phàn nàn rằng
chúng không hoan hảo với sở thích của mình.’ Anh nghĩ em nói đúng. Anh ước anh được
trở về với em sớm hơn. Anh ước mình vẫn là chàng trai em từng yêu. Anh sợ năm tháng
đã thay đổi anh thành con người khác.”

Cô chăm chú quan sát gương mặt anh. Từ xa cô nghe có tiếng xe cộ, nhưng ở đây, bên bờ
sông, cô gần như có thể tưởng tượng mình là cô gái năm xưa, rồi không khí mờ sương và
khói, tiếng lịch kịch của đường ray xe lửa đằng xa… “Năm tháng cũng thay đổi em,” cô
nói. “Em đã làm mẹ và làm bà, và thấy những người thân yêu qua đời, cùng những thế hệ
sau ra đời. Anh nói về các dòng chảy của thế giới. Em cũng thấy chúng. Nếu em vẫn là
cô gái anh từng biết, em sẽ không thể thẳng thắn nói ra tâm tình của mình như lúc rồi. Em
sẽ không thể hỏi anh điều em sắp hỏi đây.”

Anh giơ hai tay ôm gương mặt cô. Cô có thể thấy hi vọng trên gương mặt anh, từ từ rạng
rỡ. “Và đó là gì?”

“Đi cùng em,” cô nói. “Sống cùng em. Ở bên em. Cùng em ngắm nhìn tất cả. Em đã đi
khắp thế giới và thấy quá nhiều, nhưng còn rất nhiều điều khác và em không muốn chứng
kiến tất cả với ai khác ngoài anh. Em sẽ đi tới mọi nơi và bất kì nơi nào, miễn là có anh
bên cạnh, James Carstairs.”

Ngón cái của anh vuốt ve gò má cô. Cô run rẩy. Đã rất lâu rồi mới có người nhìn cô như
vậy, như thể cô là báu vật của thế gian, và cô biết cô cũng nhìn anh như thế. “Thật phi
thực,” anh bâng khuâng nói. “Anh đã yêu em rất lâu. Sao điều này có thể là thực?”

“Đấy là một trong những điều thực nhất của đời em,” Tessa nói. “Anh có đi cùng em
không? Vì em không thể đợi chia sẻ thế giới cùng anh, Jem. Còn rất nhiều điều để trông
thấy.”

Cô không biết ai là người chủ động, nhưng chỉ một lát sau cô đã ở trong vòng tay anh và
anh thì thầm, “Ừ, tất nhiên rồi,” bên tóc cô. Anh ngập ngừng đặt nụ hôn lên môi cô; cô
cảm nhận được sự căng thẳng trong cái dịu dàng của anh, sức nặng của bao nhiêu năm
tháng trôi qua giữa nụ hôn cuối và nụ hôn ngay lúc này. Cô đưa tay ôm qua gáy anh, kéo
anh xuống, thì thầm. “Bie zhao ji.” Đừng lo lắng, đừng lo lắng. Cô hôn má anh, khóe
môi anh, và cuối cùng đến đôi môi anh, cảm giác môi anh áp lên môi cô thật mãnh liệt và
tuyệt diệu. Ôi, nhịp đập trái tim anh, hương vị đôi môi anh, nhịp thở của anh. Mọi giác
quan của cô đều nhớ lại chuyện quá khứ: anh từng gầy gò thế nào, cảm giác xương vai
anh gồ lên sắc như dao bên dưới lớp vải linen của những chiếc áo sơ mi anh từng mặc.
Giờ cô có thể cảm nhận được những cơ bắp rắn chắc khi ôm anh, sức sống chảy trong cơ
thể anh đang áp lên cơ thể cô, lớp vải cotton mềm mại cô đang xoắn trong tay.

Tessa ý thức được trên kia người ta vẫn đi đi lại lại trên cầu Blackfrairs, rằng xe cộ vẫn di
chuyển, và có thể những khách bộ hàng đang theo dõi, nhưng cô không quan tâm; sau
bao nhiêu năm như thế, cô đã học được điều gì quan trọng và điều gì là không. Và điều
này quan trọng: Jem, trái tim đập dồn dập và tăng tốc của anh, sự duyên dáng của đôi tay
dịu dàng đang ôm gương mặt cô, đôi môi anh mềm áp lên môi cô. Cảm giác ấm áp cho
thấy anh là thật. Lần đầu tiên trong suốt bao nhiêu năm dài qua, cô mở rộng lòng mình,
và biết tình yêu không chỉ là một kí ức.
Không, điều cuối cùng cô quan tâm là người ta có nhìn chàng trai và cô gái đang hôn
nhau bên bờ sông, khi London, những phố phường, tòa tháp, nhà thờ, cầu, đường phố bao
quanh họ như một kí ức về một giấc mơ. Và liệu sông Thames chảy bên cạnh, phẳng lặng
và bàng bạc trong ánh chiều tà, gợi lại một đêm rất lâu về trước, khi trăng sáng vằng vặc
như đồng shilling chiếu trên cũng chàng trai và cô gái này, hoặc liệu những tảng đá của
cầu Blackfriars biết dấu chân họ và thầm nghĩ: Cuối cùng đâu đã về đấy, nhưng chúng
giữ im lặng.

You might also like