Professional Documents
Culture Documents
VN Khảo Cổ Tập San 8
VN Khảo Cổ Tập San 8
https://books.google.com
Since
MAMMENSLA
18416-495-5715192
1040
5557
AC
CORNELL
il d UNIVERSITY
1.8 LIBRARY
974
hot
up' d32200
t
ال
SỐ VIII
07
DS
556
MAIN
S
I
S
R
E
P
FS
I
V
RI
00
***
10
1
تور
! **
ཏཱ ཡཾ དྷནཾ ཏ
SO VIII
41
VIỆT - NAM
។កា
SAIGON 1974
*** quaj
LỜI TỰA
Trải qua một thời gian khá lâu Khảo - cô tập -san không. đến tay
quí độc giả một phần vì ảnh hưởng thời cuộc nên công cuộc sưutầm
tài -liệu của chúng tôi chưa đượcdồi dào phong -phú như ý muốn ..
Cũng vì lẽ đó nhân khi gửi đến quý vị tập san này ― chúng tôi còn
có ý mong mỏi rằng sẽ được quý đọc giả phụ giúp với chúng tôi hoặc
bằng những lời khuyên giải, hoặc bằng sự cộng -tác thiết -thực... Nghĩa
là gửi những bài khảo cứu về các nền văn -minh lịch sử của các
chủng tộc trong nước và các quốc - gia lân cận , phồ biến những kiến
thức có giá trị về sử học , cô -vật học , nhân chủng học , ngônngữ
học .......
Chúng tôi nhận xét có những dọc giả không đọc được tiếng
Việt, nhưng lại rất quan tâm đến đời sống của Xã -Hội Việt– Nam , nên
chúng tôi cũng chấp nhận cả những bài viết bằng Anh hay Pháp ngữ
cũng như cho phiên dịch những tàiliệu ngoạingữ có giá trị đề phô
biến cho đọc giả Việt-Nam .
Chúng tôi ước mong được sự cộng tác rộng rãi của tất cả các
học giả trong hay ngoài nước để tập san này ngày càng có giá trị
nhiều hơn .
V.K.C.
.. .....
، ܐ،
F
NOTE DE LA RÉDACTION
Ouvrages suivants :
compliquée.
CHAPITRE I
AUSTROASIATIQUES ET AUSTRONÉSIENNES “
Egyptiens est éteinte pour ainsi dire, mais le Copte reste vivant,
au moins dans les églises . Les langues ne sont pas plus
(1) Dans cet article, le terme Anthropologie est employé sous cette accep
tation : Ethnologie et le terme Ethnologie sera employé ailleurs sous l'acceptation :
Cultural anthropology.
Voici le bilan des résultats acquis en Extrême-Orient : (1 )
Japon est mieux connu que les autres pays de cette région et
que c'est au Japon seulement que les fouilles stratigraphiques
ont pu être menées à bien , les vestiges des Austroasiatiques
LA PREMIÈRE PERSONNE... 13
11 KING TAP
entier serait atteint par la loi Swadesh qui estime que tous
les mille ans, une langue perd environ 20% de son vocabulaire
et en conserve environ 80%. Cinq mille ans se sont écoulés et
tout le vocabulaire Austroasiatique peut être entièrement
périmé . Mais la réalité est un peu différente. Il n'y a pas de
règle sans exception d'autant plus que cette fameuse loi ne
1 Japonais.
LA PREMIÈRE PERSONNE...
17
fl
mais on peut toujours identifier MAT et TA à MATA. MAT et
TA sont d'ailleurs des formes rarement usitées .
MA : ANY ( 1)
Sedang : Á
Vieux Japonais : A
Nahuatl : NI
COREEN : NA
Kha Feuilles Jaunes
: AI
Vietnamien archaïque
AI
Cham ( Ninh - thuận ) (Dalh ) : AK
Insulinde
: AKU → Polynésie : Ja, Ya 'e
Chinois du
Houpei Mai
Japonais moderne : ( Wat ) AKU (shi) - Hounan : ANUNG
Chinois du
Tché-kiang : ALAP
Katu KU
Cham ( Binh - tuy )
: KAU
Vietnamien ( Quảng - Bình )
TAU
Radé : KAO
Pacoh : KU
Vietnamien moderne : TAO
Braoù : KUK
Vietnamien moderne :
ΤΟΙ Raglai : KOU
Lac : Mo
ANH n
Churu :
ANH
Muong Gar : ANH
Bahnar :
INH
(1 ) Il s'agit des Ma de Lâm Đồng qui s'étaient retirés très profondément
dans la jungle. Les Me étudiés par les Occidentaux sont les proches voisins
d'autres communautés et ils ont leur pronom personnel sous la forme ANH comme
leurs voisins .
5 TAY SAN
n'est pas vrai. Tous les Chinois parlent Chinois, avec des accents
provinciaux, bien entendu ; il n'y a pas de dialectes en Chine.
Mais les provinces du Sud de la Chine ont pu conserver cha
cune environ 200 mots Malais de l'Insulinde et les deux pro.
(1 ) Bình -nguyên -Lộc : Nguồn gốc Mã- lai của dân tộc Việt- Nam (Origines
malaises du peuple vietnamien). Bách Bộc éd. Saigon, 1971 .
B 43
LA PREMIÈRE PERSONne... 19
non plus entre les Lac qui disent Anh et les Bahnar qui disent
Inh. Par contre, il y a voisinage entre les Sedang qui disent Á
et les Bahnar qui disent Inh.
•
Le voisinage géographique ne joue pas en Indochine .
troasiatiques.
(1 ) G.Coedha , op.dt.
LA PREMIÈRE PERSONNE...
21
ETUDE DIACHRONIQUE
idéal pour les vieux mots inusités de nos jours. Par une
malchance décevante, notre « JE » ne se retrouve pas sous
--
Gì mà nghe như là có tiếng súng đàng xa hở anh ?
(Chéri , as-tu entendu des coups de fusil dans le lointain ?)
Ai biết đâu !
LA PREMIÈRE PERSONNE... 23
L'ADJECTIF POSSESSIF
Groupe Groupe
Groupe CHIEN TOI Groupe CHIEN TOI Groupe CHIEN TOI ΤΟΙ mixte
CHIEN
Việtnam : Chó anh | V.N .: Chó của anh | Br. : Acho phân Japonais : Kha tu :
Braoû : Acho mới mới Anata Anuk mai
Sedang : Chó ch no inu Anuk ong
Paeoh : Acho may mai
Bahnar : Ko ih Ngai anuk
Me : So mai
Cua : So may
Siêng : So ai
Mnong : Sau me
Khmer : Chxke
aeng
L'ADJECTIF POSSESSIF 25
VOCABULAIRES
A ) Me, Mới , Mai , May etc ... sont de forme primitive des
peuples non évolués. Les autres en ont également.
DIALECTES
OMISSION VOLONTAIRE
ETUDE
par la conjonction A :
vue « pensée » , mais l'agent lui même n'a qu'un rôle gram
Cet état de chose est un peu curieux . Nous avons dit que
le rôle grammatical de l'agent de liaison est insignifiant. Mais
son rôle logique est considérable. Les hommes qui parlent une
langue ont une conception tout à fait différente de celle des
logique.
TON CHIEN
YOUR DOG
( t) Bình nguyên Lộc.– Lột trần Việt-ngữ . Nguồn Xưa édit . Sròn sơn .
L'ADJECTIF POSSESSIF 29སེ
Japonais
Kha Tu = Austroasiatique + Mongol + Tokharien
Maya
européen.
avons vII :
Iro ha nihohedo
Chirinuru wo
Wa ga yo tare zo
** adio franquia13
Tombent. Ainsi
Vietnam : Anh
Pacol : Aam
Kha Tu : Ano
Japonais Ani
O = Votre
→ Ni
Ani <
quoi que ces deux peuples soient séparés par cinq mille kilo
mètres d'espace . Mais les Kha Tu sont des métis timides. Faut
il prendre franchement l'allure indo- européenne ? Ils ne l'ont
pas osé mais ils y ont pensé jour et nuit . A la fin, ils adoptent
la philosophie du « Juste milieu ». Ils se sont placés dangereu
sement au bord du précipice et il suffit d'une légère secousse
lent. On voit qu'un peuple non évolué que sont les Kha Tu ,
sens indo-européenne.
européenne.
Insulinde : Asu
Cham Ninh Thuận : AThow
Cham Binh Tuy : Thow
La souche sera restituée comme suit :
Insulinde : Asu
Rag!ai : Asou
Cham Ninh Thuận : Athow
Pacoh : Acho
Vietnamien : Cho
Khmèr : CHXOKE
Corée : Kae
Vietnamien Kầy
Les chainons s'enchaînent logiquement.
L'ADJECTIF POSSESSIF 37
Chinois était le fait d'un autre peuple connu des Chinois sous
Nhung jaunes.
jungles. Quelque vingt ans après , les Han n'avaient plus ces
moyens, pendant que la nature avait repris ses droits sur cette
piste.
DISCUSSIONS SUGGÉRÉES
disciplines.
les Malais. On ne peut pas dire que les Thai sont des Austro
nésiens. Donc Austroasiatiques et Austronésiens ne font qu'UN
et les Mois sont bien des Austroasiatiques. Seulement l'ouvrage
L'ADJECTIF POSSESSIF... 41
Il n'a jamais utilisé ces travaux. Ce sont des études des crânes
l'antiquité.
Mys 5.
·
MỘT NGÀNH TIỂU -CÔNG NGHỆ CÓ TRUYỀN VIỆT-NAM :
Cuộc chiến-tranh khốc liệt kéo dài gần 1/1 thế kỷ đã làm
triều - lãm ở Tokyo hồi đầu năm 1973, do Hội Thân - hữu Phụ
nữ Á- châu -Asian Ladies Frienship Society to - chức ).
Một trong những ngành tiêu -công -nghệ đảng kẻ nhất của
nước nhà là nghề thêu tay . Nhưng nghề này cũng biển chuyền
thế việc xét lại từ nguồn gốc đến kỹ thuật thêu cổ truyền của
ta rất cần - thiết , đề có thể tìm một đường hướng cho sự phát
triển ngành tiêu-công-nghệ đảng quý này .
Theo truyền thuyết thì nghề dệt lụa và thêu thùa xuất
Thời xưa ở Trung hoa nghề nuôi tằm , dệt lụa được coi
là một trong những hoạt động tôn quý và quan trọng nhất :
Hàng năm vào đầu mùa xuân , trong khi Hoàng - Đế ra đồng cây
3 luống đất trong lễ Tịch điền (thường chọn ngày Hợi , nhằm
12 tháng giêng âm -lịch ) thì Hoàng -hậu ở trong cung cũng làm
trứng tâm cho người ngoại quốc đều bị xử tội tử hình . Tuy vậy
đến thế -kỷ thứ III sau Tây -lịch , các nước lân - cận như Đại- hàn ,
Nhật bản , Việt nam cũng khám -phá được những bi-quyết
ay ! ( 1)
thành một loại hàngmàu vàng nhợt kém xa lụa của Trung hoa .
Mãi đến thế- kỷ thứ VI trứng tắm mới được đưa sang Byzance
và sau đó nghề tắm tang mới phổ biến ở miền duyên hải
Phrygie ( Tiêu Á ) . Sang thế- kỷ thứ IX thì người Å.rập truyền
bả nghề dệt lụa ra khắp vùng ven biên Địa - trung -hải .
mới
Riêng ở nước ta , mãi thế-kỷ thứ X nghề tằm tang
thực sự phát triển ở miền Bắc . Một thử thuế đánh vào các bãi
kin . Hầu hết các đồ trần thiết rực- rỡ trong triều -đình hay ngoài
lăng miếu như tản lọng , mũ áo thời xưa đều phải mua của
Trung-hoa . Theo các nhà thiếu ngày nay ở Saigon thì đến đầu
thế -kỷ thứ XVI nghề thêm mới phò -biển sang Việt- nam , do sự
cố gắng của ông Lê-công-Hạnh , Thượngthư dưới triều vua
sử Trung- hoa mấy năm đã học được những bí quyết của nghề
làm lọng và thêm xiêm áo của người Trung -hoa ở vùng Quảng
đông . Khi về nước ông được vua cho phép dạy các dân làng
Thượng - phúc nghề thêu và dân làng Hiền lương nghề làm
lọng . Khi dân mấy làng này học được nghề thêu rồi bèn rủ
nhau lên kẻ chợ làm ăn . Họ sống quay quần ở hai khu phố
Hà -nội là phố hàng Lọng và phố hàng Thêu (phố hàng thêu
sau gọi là phổ hàng Trống và phố Mã -vỹ ). Đến khi ông Lê- công .
Hanh mất , họ suy tôn làm ông tồ nghề thêu và lập đền thờ ở
đồi bao nhiêu so với Trung -hoa thường vẫn chỉ là hoa quả ,
phương đứng xòe rộng đôi cánh mỏ ngậm giải lụa buộc vào
một cuốn thư , con rùa mang trên lưng một chồng sách , con kỳ .
làn và con rồng mà Bác sĩ cho là hình dạng tựa như con bò
(sic) Người thợ Việt- nam tỏ ra rất kéo- léo trong việc điều
động các màu sắc thật sậm trên hàng lụa đề có những b
theu hòa hợp không chát chúa . Ông cho biết phần lớn hàng
thên Việt -nam xuất- cảng sang Trung-hoa đã chiếm địa vị chủ .
yếu trong một ngành thương-mại quan trọng ở• đấy . Khi quan
sát người thợ làm việc, đã nhiều lần ông tự hỏi sao hàng thêm
Việt-nam không được ưu đãi trong các cửa hàng của người
Âu ? Muốn được thế, chỉ cần làm cho nền bức thêu đừng gay
gắt quả bằng cách thay thể loại hàng có màu sắc quả chát - chúa
(như đỏ sẫm, xanh lục ) bằng những hàng có màu êm dịu hơn .
Những loại hàng này đều có thể nhập cảng dễ dàng từ Âu
châu qua .
nhiêu . Một phần vì thợ thêu thiếu trí sáng-kiến , họ chỉ lo bắt
chước Trung- hoa mà lại bắt chước dở ! Phần khác cả chủ lẫn
thợ đều không có dịp tiếp-xúc với người ngoại quốc như những
Nên qua hàng thế kỷ , nghề thêu của ta vẫn không thay đổi
phép vài thợ khéo vào bậc thầy sang Tàu học hỏi , nhưng thiều
Một nguyên - nhân sâu xa hơn làm cho nghề thêu Việt .
nam không thể phát- triển là tại lòng tham -lam , ích-kỷ của vua
thường không dám phô trương hết tài - nghệ vì sợ bị triệu vào
kinh làm việc . Nếu không may bị nhà vua chiếu cố thì suốt
quãng đời còn lại anh ta đành cặm cụi làm riêng cho hoàng
tộc . Anh sẽ chẳng được trả công xứng đáng, mà đôi khi cò
Nghề thêu tay đòi hỏi sự khéo léo và nhẫn nại . Nhưng
người Việt - nam không có ốc kinh -doanh lớn nên ít chủ
trọng việc đào tạo thợ khéo . Mỗi nhà hàng thêu chỉ mướn
một số nhân công nhất định , ngoài ra họ sẽ tập cho
con cháu phụ giúp những công việc dễ -dàng như lên khung ,
phơi chỉ nhuộm , cắt rơm và giấy bản làm độn , v.v... Dần dần
những cô cậu chừng 12 , 13 tuổi ấy sẽ tập cầm kin khơi bỏ
những màu giấy vẽ kiều mẫu mà người thợ vừa thêu đè lên ,
học tập đánh dây biên , thêu đột giúp các thợ chính . Vài năm
sau nếu chịu khó các cô cậu đã thành thợ phụ . Rồi cuối cùng
sẽ được cha chú truyền cho tất cả bí quyết đề thành thợ thêu
lành nghề. Lúc đó nếu có vốn họ có thể ra lập nhà thêu riêng
đề sinh sống .
hay lụa theo kích thước, ấn định mẫu thêu và màu chỉ sao cho
điều hòa rồi mới chia phần việc cho mỗi người thợ. Hàng thêu
sẽ được căng lên khung , gọi là bàn hay giả thêu , làm bằng tre .
Mẫu thêu phải dùng bút lông đồ lên mặt hàng bằng mực tàu .
Có khi họ cũng đính ngay vào mặt hàng do những đường chi
lược. Thợ thêu sẽ ngồi quây quần xung quanh khung , có khi
đến 6 , 7 người , vừa thêu vừa ngâm nga mấy khúc hát trữ tình
cho thêm hứng thủ.
Lâu lâu ông chủ ghé lại xem xét công việc của mỗi người
thợ : chỉ vẽ chỗ sai làm , sửa lại vài điềm sơ sót hoặc răn bảo
kẻ lười biếng. Thông thường một bức thêu , nếu làm kỹ , phải
hàng tháng mới xong . Đôi khi có những bức đòi hỏi đến 8 tháng .
A .
48 KHẢO CỔ TẬP SAN
1 năm mới hoàn thành . Thời-gian đó thực quá lâu để chủ động
nói chi đến sự chăm sóc của nhà hàng từ đường kim mũi chỉ,
đến việc giữ gìn tấm hàng , mẫu thêu , màu chỉ nhuộm sao
cho in hệt nhau trong suốt giai đoạn đang thực hiện ? Ấy
là chưa kẻ đến sự tốn kém về công thợ, giả cả vật - liệu thay
đòi , v.v... Nhưng chính vì thế hàng thêu tay Việt-nam được
người ngoại quốc ưa chuộng hơn hàng thêu máy hay đan bằng
chi (dentelle ).
Nay ta hãy xét về dụng -cụ của người thợ thêu trước khi
bàn đến việc chọn mẫu và kỹ - thuật thêu cổ truyền .
A. DỤNG - CỤ THÊU
tre hay gỗ dài bằng nhau từng đôi một. Hai thanh lớn
cỡ 6cm bề dày và dài chừng 3 đến 4m hay hơn nữa . Hai thành
nhỏ dài bằng bề ngang tấm liễn , hai đầu chuốt dèm dẹp đề .
đút vào các lỗ mộng đục ở thân các thanh lớn . Người ta đục
sẵn nhiều lỗ mộng trên những thanh này đề có thề tùy tiện ráp
thành những khung thêu lớn , nhỏ tùy khuôn khò tấm liễn . Hai
tấm nẹp dài được dùng đề căng tấm liễn vào khung. Nếu bức
thêu quá lớn thì một đầu tấm liễn sẽ được cuốn bớt lên một
cải trục đề xô ra dần dần .
xưa nên những khung thêu cỡ lớn đó đã hiếm dần . Thợ thêu
bây giờ ưa dùng loại khung cá-nhân rộng chừng 50 đến 60 phân
và dài độ 1 thước . Những khung này gồm 4 thanh gỗ đóng chặt
vào nhau thành hình chữ nhật. Trong lòng lại có một khung
nhỏ căng sẵn một tấm bố dảy , trên mặt khoét 1 , 2 lỗ hình tròn
hay bầu - dục , vừa đủ rộng để thêu một hình tượng gì đó .
Khung nhỏ sẽ căng trong lòng khung thêu bằng nhiều mối dậy
buộc khắp 4 phía.
Lối lên khung này làm cho tấm bố không quá căng ,
đến nhăn cả mép những lỗ khoét trên mặt tấm bố , mà cũng vừa
đủ êm phẳng không gây trở ngại cho việc luồn kim . Người thợ
sẽ ghim hàng thêu lên mặt tấm bố này và thêu trong phạm -vi
những lỗ khoét sẵn trên tấm bố bằng cách dùng cả hai tay :
tay phải đâm kim từ trên mặt tấm liễu thẳng xuống , rồi tay
trái đón kim ở phía dưới đàm ngược trở lên mặt trên .
·
Muốn đặt khung thèn bằng phẳng trước mặt, người thợ
phải kẻ bộ khung lên đòi giá hay mễ ( chưa ngựa ) cao độ 4 tấc
thì vừa tầm tay .
2. Cây tao : Trong kỹ - thuật thêu Việt nam việc pha màu
chỉ đậm nhạt rất quan trọng . Đề khỏi mất thời giờ trao qua
trao lại những con chỉ màu sắc khác nhau chút ít , người thợ
phải dùng đến « cây tạo » . Đó là những khúc cây hoặc tre dài
chừng 10 phân mét , hình dạng tựa như cái mô của anh bán mà
rong . Khi chỉ tơ nhuộm đã khổ rồi , họ sẽ cuốn vào mỗi cây
tao 4 lọn chỉ đồng màunhưng đậm nhạt khác nhau . Mỗi khi
cần thêu một màu nào họ chỉ cần lựa Vmột cây tao là có đủ 4
sắc thái đậm nhạt mà dùng .
cho thanh thì sau này bức thêu không lem luốc dù có bị nh
nước . Từ khi có hút chỉ và giấy than , thợ thêu Việt-nam dò min
thêu dễ dàng hơn . Cũng có khi họ căng mẫu thêu lên ở kinh
của sở rồi trùm tấm hàng lên mà đồ lại .
Comme
Y phục của nhà quyền quý thì thêu trên vóc , nhiều
hay đoạn .
-
Từ khi người Pháp sang, ta có thêm satin và tussor.
Ngoài ra những náp bàn , náp đồ trà hay café thì dùng hàng
vải phin vừa bền vừa đẹp .
đồng... còn màu vàng thì dùng chỉ kim - tuyến mới rực - rỡ ! Thời
xưa thuốc nhuộm đều mua của Trung -hoa , trừ một vài thử
như chàm , vỏ già, lá vông, củ nâu , v.V...
Trước hết muốn nhuộm ra một loại màu nào người thợ
chia cuồng tơ ra làm 4 lọn rồi nhưng vào nước chanh thật chua .
Sau đó họ nhưng lọn thứ nhất vào nước thuốc đã pha thật
đậm . Dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ vuốt mạnh cho thuốc
ngấm đều khắp lọn chỉ rồi mới bỏ ra phơi trong bóng râm .
Lọn thứ hai cũng nhúng vào nước thuốc ấy nhưng đã pha
thêm chút nước lã cho loãng bớt , và cũng vuốt mạnh trước
khi phơi như lợn trước . Lọn thứ ba và thứ tư cũng vậy ,
trước khi nhúng vào nước thuốc đều phải hãm màu bằng nước
trái chanh . Thuốc nhuộm , mỗi lần nhưng lọn chỉ nào vào rồi
lại pha thêm chút nước cho loãng bớt . Cuối cùng ta được 4 lợn
chỉ đồng màu nhưng đậm nhạt khác nhau có thể thỏa mãn
toàn rập khuôn theo ngoại quốc . Tuy cũng là những vật tượng
trưng ngụ một ý- tưởng gì đỏ nhưng nghệ -sĩ Việt-nam không ưa
sự cầu kỳ , phiền toái từ hình thức đến danh xưng như người
Trung hoa . Các họa-phẩm có điền của Tàu thường mang
những tên rất kêu như Phúc duyên thiện khánh , Bách niên
hòa hợp, Trúc báo bình an, Long phụng trình tường, Liên
sinh quý tử v.v... (1 ).
giải lụa buộc vào một cái khánh , bên phải là cái quạt ( phiến)
bảo vật của Chung-ly- Quyền , một trong bát tiên và bên trái là
trải thị ( thiện ).
( bách ) trồng trong một tô nhỏ. Cạnh đấy là một bình hoa cắm
vài bông sen (liên = niên ). Phía dưới có vài chiếc lá to bản tựa
lá cây lưỡi hồ và 2 trái phật thủ (?).
→
Bức thứ ba , Trúc bảo bình an , có thể dùng hai hình
thức : Hoặc là một đứa trẻ đang nhảy múa tỏ ý vui mừng, hai
tay giơ cao hai cành trúc. Hoặc tràng pháo tre (làm bằng ống
tre hay trúc ) nằm cạnh bình hoa đào . Bên dưới lại có 3 trái
cày tựa như trái thi, nhưng đã ngắt rời ra không còn dinh vào
cành lá .
rồng và con chim phượng đang bay liệng trên không- trung. Một
vị tiên cưỡi trên lưng rồng miệng thời ống sáo (Hàn - tương - Tử )
và trên lưng phượng là Hà -tiền - Cô tay cầm bảo - vật hình chiếc
35
Miny
-
Bức thứ năm , Liên sinh quý tử gồm một đứa trẻ
(đồng tử ) đang thời nhạc khi tựa như cái khin ( sinh = sinh ).
bên phải là mấy chiếc hương sen (liên bông ) và bên trái là giỏ
lan , một loại hoa cao quý .
-
Trái lại người nghệ -sĩ Việt nam chuộng sự giản dị , nên
chỉ dùng đến 2 vật là cùng đề phô bày nội… dung tác phẩm của
mình . Thí dụ trong các bức liễn mừng, ta có thề thấy những
đề tài sau đây :
-
Mừng thọ : tùng hạc hay tùng lộc, gồm một cây thông
với con chim hạc hay con hươu .
-
Bảo hi : Song phụng kỳ duyên là hai con phượng
đang nhảy múa .
-
Quan tước : Kỳ lân đội sắc ấn hoặc con rủa đội cuốn
thur.
-
Chi-khi cao : Sư tử hi cầu hoặc Anh - hủng độc -lập
tượng- trưng bằng con chim đại- bàng đậu trên hải đảo , tử bề
sóng vô nhấp nhô .
OL HA
9
6
1 y
offof
S
公司 JMMC
JLI
Kiều thêu . PHƯỢNG HOÀNG đậu giữa ánh bình minh , (trên hòn do có mây
phủ xung quanh, dưới thủy ba sóng gòn ) thêu màu sắc trên một mảnh với
Bồ từ đinh vào thân trước do phân slive dùng trong việc Lê-nghi,
MỘT NGÀNH TIỀU CÔNG NGHỆ ... 55
linh -động . Nếu là đồ tự-khi như nghi môn , quần bàn , tàn , lọng.
tin , v.v.. sẽ dùng các đề tài như lưỡng long chầu nguyệt ,
lưỡng long tranh châu , phụng hoàng ngậm giải lụa , cá hóa
long. Y - phục như xiêm áo, mũ hài có thể thêu rồng, phượng,
hoặc hồ phù , thủy ba , hoa bướm , hạc , dơi và các loại chữ thọ
(100 kiều viết khác nhau ) . Các đồ thông -dụng như náp bàn , gối
xếp ( dùng khi đi cáng ) hay những bức thêu treo chơi có thể là
cay cỏ 4 mùa (cúc, trúc, lan , mai) , 4 thủ thanh nhàn ( ngư, tiều ,
canh , mục), 7 vị hiền -triết đời Tấn ( Sơn - Đào , Nguyễn - Tịch , Kệ
hoặc phong-cảnh đồng ruộng , cảnh sơn thủy hữu tình hay chi
là một bầy cá vàng , một cành hoa với vài con bướm .
hàng bị ràng buộc vào ý thích của khách , lại không trường
vốn nên ít khi dám mạo hiểm đặt ra những mẫu thêu mới .
Vì vậy có thể nói mẫu thêu của ta không được dồi dào . Hầu
hết có tính cách ước định cho mỗi loại vật dụng , cho mỗi
trường hợp cần một tác phẩm mỹ thuật đề nói lên cảm nghĩ
của mình . Chỉ từ đầu thế - kỷ XX , khi chính -phủ bảo - hộ tổ - chức
những cuộc triền -lãm mỹ -thuật cho các ngành tiểu -công -nghệ
Việt- nam , các nhà hàng thêu mới nghĩ đến việc đặt ra những
kiều mẫu mới ( 1 ) . Sau đó một số sinh viên trường Cao- đẳng
Mỹ - thuật Hà- nội cũng giúp thêm vào việc sáng tác các mẫu
thêu . Đề- tài rất dồi - dào ; từ những cảnh thiên - nhiên (đêm trăng,
( i) Nguyên văn bản thông cáo về cuộc Triền lãm Mỹ- thuật kỳ hai như sau :
SECONDE EXPOSITION D'ART
INDUSTRIEL ANNAMITE
56 KHẢO CÒ TẬP DÂN
đàn cò trắng bay trên cánh đồng lau sậy ngả nghiêng theo
chiều gió , đàn chim rẽ trong đám ruộng lầy , v.v... ) tới những
thủ -vật , hoa cỏ khác hẳn xưa (cả vàng , ếch nhái , hoa hồng,
hoa mào gà , v.v ... ) Nhưng chính vì đề tài dồi dào mà đôi khi
ta gặp những bức thêu quá rậmrạp , xếp đặt vụng- về mất tự
nhiên . Như trong cuộc Triền - lãm Mỹ - thuật kỳ 4 ở Hà nội (năm
1914 ) có một bức thêu con công đậu trên một cảnh tre mọc
thẳng đứng, xung quanh trang- trí bằng nhiều loại chim chóc ,
bướm ong bay tứ tung về mọi phía ( 1 ).
Khung thêu đặt nằm ngang trên đôi mễ (chưa ngựa ) kê trước
mặt , thợ thêu dùng tay phải đâm kim từ trên tấm liễn thắng
Mr
La seconde exposition d'art industriel annamite se tiendra du 20-12-1908
au 18-1-1909. Le comité est placé sous la présidence d'honneur de Mr Le Résident
Supérieur. Le comité s'est donné pour but de réunir les travaux d'art d'ouvriers
indigènes à l'effet de développer chez les annamites les sentiments artistiques,
de faire revivre les industries d'art local en les perfectionnant et en les encoura
geant. Le comité recevra toutes les oeuvres revêtant ' un cachet artistique, sans
limitation de nombre dessins, peintures, aquarelles, sculptures, broderies, orfèvreries
etc... De nombreuses récompenses seront distribuées à la clôture de l'Exposition
et les exposants auront la faculté de vendre leurs oeuvres.
Nous vous demandons de nous adresser votre adhésion et celles que vous
aurez pu recueillir avant le 15 Novembre prochain,
Le comité
S. Ex, Nguyên-hou-Bai, Ministre des Travaux Publics
M.M. Auclair, Inspecteur des Bâtiments Civils.
- Chochod, Professeur de dessin à l'École professionnelle.
- Eberhardt, Précepteur de Sa Majesté.
Paréra, Chef de Cabinet du Résident Supérieur,
- Petitjean, Directeur de l'École Professionnelle.
Les adhésions doivent être adressées à M. Auclair, Travaux publics ou à
M. Chochod à l'École Professionnelle (Hué).
(1) Marcel Bernanose, Les arts décoratifs au Tonkin, Revue Indochinoise
No 1, Nouvelle série, Hanoi, 1914.
MỘT NGÀNH TIỀU-CÔNG - NGHỆ ... 57
xuống . Rồi tay trái đón kim ở phía dưới , lại đâm ngược trở
lên . Thời xưa họ chưa có ý -niệm vững chắc về luật phối cảnh
viễn họa (perspectice ) chỉ nhờ khảo lựa màu chỉ đậm nhạt và
các tiểu xảo như dồi độn hoặc chia mẫu thêu thành nhiều
1. Làm độn : Khi thêu đồ tự khi hay những tấm liễn lớn
thợ thêu phải độn lên trong dề các hình rồng phượng, mây ,
ngợi lũ , vậ ... rồi cao lên cho đẹp .
Đậu làm bằng giấy bản hay rơm khô chứ không mấy
khi làm bằng bông gòn ( Độn bằng bông kim bị rất khó thêu và
sau này lỡ thấm nước bóng dòn cục lại bức thêu sẽ xô lệch , méo
mó ) giấy dùng làm độn phải rọc thành từng băng , rộng từ nửa
đến 2 phin nét. Dùng tay về băng giấy , rồi vặn lại thật chặt , chia
thành 3 loại con độn dày , mỏng khác nhau . Khi thêu mình con
rồng chẳng hạn , thợ thêu phải kết con độn vào từng chặng
dùng chỉ thứ mảnh nhất định chặt lại. Bắt sang con độn khác
hai đầu độn bao giờ cũng phải hớt chéo thi chỉ thêu sau này
mới nằm xuôi êm không bị gờ cao , đứt quãng . Độn lại một
chặng cũng vậy , phải hút chảo đoạn cuối con độn rồi khu ghịt
lại cho chắc .
Độn bằng rơm khô , thoạt đầu cũng lấy ít rơm thôi , sau
mới tăng dần cho con độn vừa đủ lớn và đến cuối đoạn lại của
Làm độn đảm máy hay ngọn lửa thì bắt đầu từ tâm điểm .
Con độn uốn cuộn tròn như hình trôn ốc tỏa dần ra theo mẫu
vẽ . Chỉ khác là đám mây dùng độn số 1 thật dày , còn ngọn lửa
dùng độn mỏng số 3 vì không cần nồi cao cho lắm.
jour . v.v ... Tuy nhiên về phương diện kỹ - thuật cũng có nhiều
điềm đáng chú ý .
·
- a) Đột : Đợt là khâu từng mũi chỉ một . Trong nghề thêu ,
khâu đột dễ nhất vì chỉ đòi hỏi mũi kim đều đặn một chút là
được . Nhưng đột cũng có nhiều cách , hoặc đột riêng rẽ từng
mũi như đột nhị hoa hay đột trong lòng đám mây ở những bức
thêu rồng ngày nay ( náp bàn , ảo gối , v.v .. ). Hoặc đợt một mũi
rồi rút kim ra sụt xuống 1 ly lại đột tiếp một mũi nữa . Đột kiền
này tạo nên một đường khá dày dặn , thường áp -dụng đề thêu
cho rõ các đường vòng quanh vi rồng , cánh bướm , chân chim ,
v.v... Hoặc đột sụt lại từng mũi như trên những đường thêu
đi hơi xiên vì cần tạo ra những nét khi thanh khi đậm như
đầu sậm rồi lợt dần dần về phía đầu kia như ngày nay . Bởi
vậy thợ thêu thường chia mẫu thêu ra từng phần mà thêu trùm .
Thí dụ cánh chim hạc được chia làm 3 phần : phía vai và đầu
cánh thêu trùm bằng chỉ xanh sậm , hàng long giữa cánh dùng
chỉ màu xanh nhạt hơn , đến hàng lông chót cánh ở phía ngoài
thì gắn thành trắng . Nhữngmẫu khác như cánh hoa , ngọn lửa ,
v.v... cũng đều thêu trùm , nhưng đường đi hơi xiên cốt diễn
tả sự vật cho tinh -tế giống như thực. Trong những bức thêu
lớn có cây to như cây thông chẳng hạn , thợ thêu trùm trên đi
hình nan quạt. Tức là bắt từ vành ngoài kiều về trở vào th
điềm vòng tròn . Đường chỉ thứ nhất xong rời , đến đường thư
hai đừng cho dài tới tận trung tâm . Nếu vòng tròn lớn mà chỉ
MỘT NGÀNH TIỀU CÔNG NGHỆ ... 59
thêu quá mảnh thì 2 , 3 mũi chỉ hãy thêm một mũi dài đến tận
tâm . Như vậy vòng tròn vừa kín vừa đều rất đẹp.
d ) Thêu chỉ kim tuyến : Với chỉ kim tuyến phải nói là
đinh vào mới đúng chứ không phải thêu . Vì người thợ chỉ đặt
kim -tuyến vào mẫu vẽ rồi dùng chỉ tơ thật nhỏ níu lại cho chặt
mà thôi . Nếu phải luồn xuyên qua tấm hàng ( như thêu huy .
hiệu quân đội chẳng hạn ) người ta sẽ ước lượng coi mũi thêu
dài chừng nào rồi cắt một đoạn kim -tuyến tương xứng, vừa
đủ thêu mũi ấy thôi ! Dĩ nhiên tốn công, nhưng nếu kéo xuyên
qua tấm hàng nhiều lần như chỉ thì kim- tuyến sẽ bị xơ đứt ,
hoặc kéo theo những sợi bợn nho nhỏ làm mất hết vẻ óng ánh
mỹ - thuật của nó . Những chữ đại tự trong một tấm liền lớn ,
nếu muốn thêu bằng kim -tuyến thi phải thêu riêng biệt từng
chữ rồi sau mới đinh vào . Vì nét chữ quá rộng có khi thợ
theu xếp đặt như kiều đồ đan bằng tre , nghĩa là chia nét chữ
thành nhiều ô vuông mỗi chiều chừng một phân , cử một ô đặt
sợi kim tuyến ngang lại một ô đặt dọc . Trông xa lấp lánh đều
đặn nét chữ lại có vẻ mạnh mẽ rất đặc sắc .
|'
d ) Kim kinh và chân chi hạt bột : Trong xã -hội tồn -trọng J.
thần …quyền như Việt-nam thời xưa , người ta còn nghĩ ra nhiều
của nơi thờ tự. Ngoài việc dùng chỉ màu , chỉ kim tuyến ,
thợ thêu còn nghĩ ra cách đánh thêm lên nghi- môn , tàn , lọng
nhiều loại kim kính và các tua chân chỉ , hạt bột ngũ sắc.
Kim kinh là những mảnh kim loại tròn và muỗng , lớn nhỏ
như hạt đỗ đến lớn bằng chiếc nút áo , được đính vào các
đường viền xung quanh bức thêu . Trên cái tàn hay trong
lòng chiếc lọng người ta cũng gắn kim kỉnh bên những ngư
bông ngũ sắc luôn luôn rung rinh theo làn gió .
Chân chỉ hạt bột có thể coi như một thứ « dentelle w
bán sẵn đề đinh vào phần dưới tấm nghi mòn hay những
14 2.09.
60 KHẢO CỔ TẬP SAN
cải tàn , cái tán cho thêm vẻ mềm mại , thành tu . Tua
chân chỉ hạt bột gồm 2 phần : trên và một thử lưới n
bằng chỉ , thường dùng màu đỏ sau cho nồi . Dưới là những
chùm tua , vốn là chân những lọn chỉ đan bên trên . Hai phần
này cách nhau bằng một hàng hạt bột ngũ sắc , lớn bằng hột sen
Những hạt này tương -đối nặng nên một làn gió nhẹ thoảng qua
cũng đủ làm cho những chùm tua phía dưới lay động mãi
không thôi .
Chúng ta đã thấy trong quá -khử nghề thêu tay không thể
phát triển vì người thợ Việt- nam thiếu sáng-kiến , chỉ muốn
Máy cô thợ thêu trong một nhà hàng ở Thị-Nghè (Hội Cầm Tú).
MỘT NGÀNH TIỀU.CÔNG- NGHỆ... 61
bắt chước hơn là sáng-tác . Chủ thì ít vốn và chưa biết cách to
hợp thành công-ty . Còn triều -đình đáng lẽ phải nâng đỡ , khuyến
khích nhân -tài lại làm thui chợt vì cưỡng ép thợ khéo làm việc
Theo một số nhà thêu ở Thị - nghè thì lương tháng một
cô thợ khéo chỉ trên dưới 10 ngàn đồng . Trả cao nữa thì không
có lãi vì số hàng tiêu - thụ không khi nào vượt mức dù gặp dịp
tết nhất . Đã thế hàng sản - xuất ra lại không thề bán trực tiếp
mà phải gửi bà con có cửa tiệm trên phố . Trừ đầu , trừ đuôi
vốn liếng lại nằm đấy, nên lờ lãi chỉ đủ ăn không ai nghĩ đến
việc khuếch trương gì nữa.
Cũng vì vậy số thợ khéo chỉ có phần sút giảm chư khung
gia tăng. Một ông trong hội Cảm -tủ cho biết trước đây có người
đã sang Pháp tìm hiều đường lối kinh doanh . Được một hãng
đặt làm một số hàng khá lớn , nhưng xét ra không thề cung- cấp
đều đặn và đủ số lượng nên ông đành hủy giao kèo 1
những họa sĩ chuyên -môn nghiên cửu cách diễn tả qua đường
kim mũi chỉ. Phải chăng nghề thêu đem lại ít hoa lợi hay nó
không hấp dẫn bằng những ngành mỹ -thuật khác nên chẳng họa.
sĩ nào chú ý tới
tài- chinh , những hội đoàn thiết - tha đến mỹ-thuật cổ truyền
khuyến-khích bằng những cuộc triển lãm , những giải thưởng
thì may ra ngành mỹ- thuật này mới có cơ hội phục- hưng được .
Mong lắm thay !
MỘT NGÀNH TIỀU -CÔNG NGHỆ ... 6:
3
RÉSUMÉ :
những khi họ gặp các việc không may . Họ tin -tưởng có thần
linh xem xét hành động của họ nên họ cần lễ bái đề cầu nguyện
xin xỏ một điều gì . Bình thường họ không năng đến đền , sự
tin -tưởng của họ không cuồng -nhiệt và tha –thiết lắm . Hạng thử
hai là các “ con nhang » tức là những tín -đò đã làm lễ đội bút
« binh lính » của Mẫu đều cho rằng không phải tự nhiên họ
đó họ sẽ phải gánh lấy nhiều tai họa . Vì vậy khi một người
đã bị các Ngài chấm rồi thì sớm muộn gì cũng phải lo thu
xếp đề ra trình đồng. Tôi nói là thu xếp vì công việc ấy
không phải là giản dị mà trái lại phiền -phức và nhất là rất
tốn hao . Có nhiều người vì nghèo không thu xếp nồi cử
phải làm sở khất quanh năm . Bù lại sự hao tốn họ sẽ được
các Ngài ban phát bồng lộc, đó là mọi sự may mắn mà họ sẽ
được hưởng . Khi đã được chưvị thần -linh chọn và muốn
+
TÍN NGƯỠNG ĐỒNG BÓNG 65
trở thành đồng phải trải qua 2 lễ cầu -thiết : đội bát nhang và
ra đàn tứ phủ . Có làm xong những nghi- lễ này thì sau đó mới
Khi một tín đồ đồng bóng thấy mình gặp nhiều sự không
may , hết việc nọ đến việc kia như đau ốm , làm ăn thất bại , vợ
chồng xích -mich , con cái nuôi không được , hao người tốn của
v.v ... Lễ bái ở các đền phủ không khỏi , làm bao nhiêu sở sảm
hối vẫn không thoát qua , bấy giờ họ sẽ nghĩ rằng căn -cơmình
quá nặng phải ra « đầu » các quan thì mới khỏi . Lễ sơ khởi
là lễ đội bát nhang. Lễ này không tốn kém bao nhiêu . Người
muốn đội bát nhang phải nhờ ông sư ( 1 ) ở nhà đền , hay thầy
viết sở coi tuổi đề biết mình thuộc căn cơ nào, phủ nào (vì có
tử -phủ và người nào cũng thuộc một trong hồn phủ đó) quan
cai đầu đồng là ai .
như thế nào đề biết căn nặng hay nhẹ và đề quyết đinh, đội
mấy bát nhang , làm lễ vào mùa nào . Khi đã chọn được ngày
tháng thích hợp rồi thì người sắp làm lễ trao cho người trụ trì
Đến hôm ấy nhà đền làm mâm cỗ dọn lên bàn thờ với nhang
đèn hoa quả . Người đội bát nhang ăn mặc sạch sẽ thường thì
áo dài trắng, đốt nhang khấn lễ trước khắp các bàn thờ xong
trở lại ngồi xếp bằng trước giá hầu . Hai tay đè ngửa trên bắp
( r ) Người coi giữ đền là một ông hay bà đồng đền . Ngoài ông hay bà đồng
đền có đền lại còn có sư trụ trì
45 5
3. A
ALK 2.A
14
When
vế, mắt nhắm , đội khăn phủ diện màu đỏ , Bà đồng đền hoặc
các hầu dâng phụ giúp buổi lễ hôm ấy sẽ đặt lên đầu người
đội bát nhang một cái chân nhang tròn trên đề mâm bát nhang.
Mỗi bát nhang có cắm một cây nhang và có dán bảng tên của
con nhang viết bằng chữ nôm , chữ Hán hoặc chữ quốc ngữ . Bát
nhang tốt xấu , lớn nhỏ tùy theo ý muốn của người đội . Có khi
tất cả bát nhang cùng cỡ, có khi có bát lớn đề chính giữa . Đội
mấy bát là tùy theo căn mạng tuổi tác . Sư cụ hay cung căn
đọc sở, trong khi bả đồng hay a hầu dâng » vịu mâm nhang
TÍN- NGƯỠNG ĐỒNG BÓNG 67
miệng luôn lâm - râm khấn vái trong tiếng đàn tiếng hát tiê
Trong 5 hay lâu lắm là 10 phút sau , người đội bát nhang
bắt đầu đảo. Thân mình vẫn giữ nguyên nhưng đầu có vận động
đảo tròn , ban đầu từ từ nhè nhẹ lần lần nhanh hơn rồi trở lại
trạng thái ban đầu và ngừng lại. Thời gian đảo kéo dài lắm
chừng 2 phút. Các bát nhang không ngã được vì có người phụ
vịn . Người đảo it, có người đảo nhiều, có người không đảo gì
cả. Trường- hợp những người đảo it hay không đảo về sau nếu
$
có lên đồng thì trước khi hầu bóng họ thường phải đảo lại các
bát nhang. Trường -hợp người đội bát nhang đảo nhanh tức là
đã được ở các Ngài hoan -hỉ chấm » thế nào rồi cũng phải ra
đồng .
Các bát nhang đó hoặc đặt trên các giá đề nơi nhà đền
chăm sóc hoặc đem về nhà tùy ý con nhang . Nhưng thưởng thì
X hay Y chẳng hạn . Vì vậy đến bất cứ đền nào ta cũng thấy
đầy dẫy những bát nhang đặt la -liệt trên các kệ ( bệ) dọc bên
vich đèn .
Đối với người nghèo họ không làm lễ đội bát nhang riêng
như vậy mà họ lựa ngày nào cửa đền có người hầu bóng , họ
sẽ đến xin làm lễ đội bát nhang . Như vậy có hai cái lợi : một
là khỏi tốn tiền mâm cỗ , hai là lại được các Ngài về chứng sở
cho. Có người sau khi đội bát nhang về nhà cử hay dở dở ương
ương , nhảy múa như điên loạn , hoặc đau ốm bịnh tật nhiều
hơn . Như vậy tức là căn -cơ quả nặng phải làm lễ trình đồng rồi
ra hầu bóng thì mới khỏi . Có người ngược lại sau khi đội bát
nhang thì khỏi hẳn tai ương . Khi gặp những chuyện không may
đề khấn vái cho qua khỏi , họ lại phải làm lễ tôn nhang trở lại .
LỄ TRÌNH ĐỒNG
Như trên đã nói sau khi đã tôn nhang mà mọi việc vẫn
không có gì thay đổi hoặc có khi lại còn trầm trọng hơn trước
thì các tín - đồ đồng bóng thường cho rằng như vậy là căn quả
nặng phải ra đàn tử phủ sơn trang đề chính -thức trở thành ghế
đệm cho các Ngài thì mới khỏi được . Họ quan niệm rằng sở
dĩ gặp những điều không may nhất là bịnh hoạn là tại các
Ngài đã chấm mà không chịu ra đầu các Ngài nên bị hành , chỉ
cần ra đàn xong là khỏi .
Lễ này có mục -đích trình diện con đồng với chư vị mẫu
mẹ vua cha , với các ông hoàng bà chúa . Mở dàn đề ra trình .
TÍN NGƯỠNG ĐỒNG BÓNG 69
diện với 4 phủ và sau lễ ấy thì mới được chính thức làm ghế
đệm đề các Ngài về phản bảo và làm việc quan . Lễ này tương
đối phải chịu nhiều tốn kém . Người nghèo thì a đàn mỏng lễ sơ » ,
người giàu thì tổ -chức rình -rang hơn . Khoảng 1964 một đàn to
nhất có thể tốn kém khoảng 50 ngàn đồng , và hiện nay một đàn
nhỏ nhất cũng phải tốn hẳng 100 ngàn . Thường tín - đồ chỉ đưa
tiền cho nhà đền , nhà đền sẽ lo hộ cho tất cả mọi lễ-vật . Cuộc
cần rất nhiều lễ -vật như : hoa quả đề bày trên khắp các bàn
thờ , thường dùng nhất là hoa huệ trắng. Đặc - biệt bàn thờ trước
giá hầu họ hay cắm hoa hồng . Có khi người ta lấy tiền giấy
kết thành hình con bướm mắc vào các cảnh huệ đề « các Ngài
dùng những cành huệ ấy mà phát lộc . Rất nhiều trái cây đủ
loại bày thành từng mâm . Một vài mâm đặc - biệt mà buồi hầu
bóng nào cũng phải có : đó là một mâm quạt , mâm lược và
gương soi đề dâng cho giả cô Bơ phủ . Một mâm hoa quả như
phết một loại nhựa (thuốc phiện ?) để dâng giả ông hoàng bảy.
sơn trang nhỏ hay lớn tùy theo ý của người ra đàn . Đài sơn
trang là một cái động nằm trong khu rừng âm - u , trong động có
các nàng tiên nữ theo hầu bà chúa Sơn -trang, có người gảy đàn ,
,người múa hát , v.v ... Tất cả đều bằng giấy , có thể thèm bớt ,
đẹp , xấu tùy theo sự khéo léo của người hoa man . Bốn hình
nhân thể mạng lớn bằng hình người thật hoặc nhỏ thì cũng
bằng 1m chiều cao , mặc sắc- phục khác nhau : xanh , đỏ , trắng,
vàn laser và banner aka 4 nh Mỗi hình
24
thoi ( 1 ), một lốt (2 ), một ngựa , một voi , rất nhiều cổ mũ bảy
trên bàn thờ hay treo trên trần đền và thật nhiều thoi vàng .
Loại lễ- vật thứ ba là một mâm sở, 4 quyền số, 4 nghiên
son , thỏi mực , bút lông . Mỗi số dành cho một phủ .
là 1 dãy lụa xanh , đỏ , trắng, vàng trải dài trên bàn phủ xuống
tận đất. Mỗi vuông lụa ngang khoảng 7 đến 9 tấc, dài chừng
2 ,m50 . Những vuông lụa đó phủ kín đề che giấu bèn trong là 1
cái thau , 1 cái gáo múc nước đề trên thau , một hũ nước dân
miệng kín lại bằng một tờ giấy cùng màu với phủ , một mâm
gạo, trứng, thuốc lá , trà tàu , một hộp trầu cau . Tất cả đều mới
và đều cùng màu với phủ.
Bên ngoài đền có bày một mâm gạo , trứng, muối và cháo
đề cúng chủng - sinh .
một người quen nào đó đã là ông hay bà đồng rồi hầu mở phủ
dùm cho . Có khi hai hoặc nhiều hơn ông bà đồng cùng hầu mở
phủ , hoặc không mở phủ thì cũng « hầu cho vui » . Người ra
đàn phải mang theo những y - phục mà mình may sắm đề trình
đồng . Những y -phục này chỉ có giá- trị khi đã dâng lên và được
các Ngài « chứng » bằng cách điềm dấu nhang lên trên đó.
Trong khi bà đồng sửa soạn hầu mở phủ thì cung -văn
đọc sở và người ra đàn lễ bái trước tất cả các bàn thờ , xong trở
lại ngồi chầu nơi bệ hầu đề khấn vái luôn miệng và để chờ nghe
« các Ngài phản bảo .
PRÁŠKA ŽALN
Giá cô Bơ
Mồi phủ có một quan cai đầu đồng và quan nào thì mở
phủ ấy. Thí- dụ : Quan Bơ phủ về mở phủ thứ ba , sắc trắng. Sau
( r) Sẽ trình -bày rõ những diễn -tiến và nghi- lễ của một buổi lên đồng trong
bin
AKÉRT
Giá cậu
những nghi- thức thường lệ , quan cầm một bỏ nhang đốt cháy ,
tay trái cầm chéo khăn và « chống nạnh ». Quan dậm chân , hét
một tiếng to, lúc ấy chiêng trống nồi lên dồn dập . Quan cầm bó
nhang , xoay xoay trước bàn thờ và 4 phía , tiến đến các phủ
cũng làm dấu điểm nhang . Đoạn ngồi xuống , nghe cung văn
đọc sở, đọc xong dâng mâm sở lên cho quan điểm nhang, quan
kiêm số bằng cách chấm bút son vào các sò . Rồi đứng dậy
tiến tới phủ của mình , quan dở khăn choàng phủ ra , hầu dang
xếp khăn lại đặt trở lên bàn thờ. Quan lấy vài miếng trầu cau ,
TÍN NGƯỠNG ĐỒNG BÓNG 73
khi đã điểm nhang trên các vật ấy . Quan lấy gáo chọc thủng
nắp thổ nước mức 4 gáo đồ vào thau . Như vậy là mở phủ xong,
quan trở lại chỗ hầu , nghe văn , ban lộc và « xa giả hồi loan .
Các quan ở phủ khác cũng đều làm giống như thế . Và khi đã
mở xong 4 phủ tức là buổi lễ mở phủ đã xong . Suốt trong buổi
hầu , người ra trình đồng phải hì-hục khẩn vải và quấn - quít bên
cạnh người lên đồng . Các quan mở phủ hay chứng đàn xong
và ban tài lộc , phản truyền hay chữa bệnh cho người ra đàn
nếu có ――― nhân vật được hưởng phúc lộc được các Ngài
Sau phần nghi- lễ chánh , nhà đền bảy tiệc thết đãi linh
định . Có thể tiền đàn ngay ngày hôm sau hoặc đề cách một
hòm . Nếu đề cách thì người ra đàn cũng chỉ đến lễ bái thôi chứ
các bàn thờ . Các mâm cổ mặn được bày củng trước các bàn thờ.
Vẫn có dĩa gạo , muối , trầu cau , chảo đề ngoài sân củng chúng.
sinh . Trước đầu các voi , ngựa , thuyền đều có đề bát nhang .
Buổi hầu này cũng giống như buổi bầu chứng đàn mở
phủ . Nhưng cần nhất là một quan tiễn đàn . Tiễn đàn xong tức
là lễ tất . Hầu thêm cho vui hay không là tùy ý các bà đồng . Khi
quan nào chịu tiễn đàn thì quan sẽ chửng sở và ra lịnh cho hầu
dùng cắm một thanh gươm và một cây cờ sau lưng . Tay trái
quan cầm một góc khăn và chống nạnh , tay phải cầm một góc
khăn và một bỏ nhang to đốt cháy . Quang -cảnh thật là rộn rịp .
Chiêng trống nồi lên dồn dập , mọi người vội vàng bảy hết đồ
mã ra xếp dọc hai bên cửa đến hưởng về phía đường đi . Quan
1a Serpm gNSENTRA^**
cho các hình nhân , những bông vạn - thọ được xẻ nát ra trộn vào
mịt , chiêng trống dập-dồn , thì bên trong quan trở lại ngồi trên
bệ hầu, uống rượu , nghe văn , phát lộc và thăng . Buổi lễ ra đàn
từ đó họ đã trở thành một a con đồng ». Tuy vậy những lần đầu
hầu bóng họ vẫn thường đảo lại bát nhang và xin quẻ âm dương.
RÉSUMÉ :
Hồi giữa năm 1967 một phái đoàn Viện -Khảo.Cô gồm có
phẳng được chạm trô thành những hình người ngồi , đứng
•
hoặc đang đi tùy theo hình thẻ của mặt đá. Tại am Cây -Khỏi
có 4 phiến cao khoảng 40 cm đến 60 cm và rộng từ 30 cm đến
hòn bi kết hợp thành 2 hay 3 vòng chung -quanh mặt giống
như 1 bông hoa hướng dương cảnh tròn. Đây có thể là :
( z) Am Cây Khỏi : Ở đường Chj-Lăng Huế . Ở đây có một cây cổ thụ thân
rồng , người ta thấy khói bốc lên nên gọi tên am như vậy .
1 e ành hi tân h vi
< in it . 一般
76 KHẢO CỔ TẬP
hơn đứng hầu . « Pho tượng này tục trong thế đang bước ( i)
-
b / – Và là những vị nữ thần vì nếu ta đề ý ở 2 pho tượng
khác cũng tạc theo thể ngồi sẽ thấy những pho này minh ở
trần đề lộ nhũ hoa -- 1 pho bụng phệ người béo trông tựa
211
Tượng lạ ở Huế
F
NHỮNG PHO TƯỢNG ĐÁ KIÊU LẠ
Cái vẻ đầy -đủ mãn nguyện này còn được thể hiện ở pho
thử tu hình dung một người đang bước đi , tay ôm , tay giơ,
những trái cây ? Pho này đội kiều mũ trông giống như của sắc
dân Ami ở Đài Loan ngày nay với 3 tầng bông tròn ở trên đầu và
2 giải tua dài ở 2 bên mặt rũ xuống 2 vai . Tiếp theo là 1 vòng dây
chuyền dài hay vòng hoa kết hợp bằng những viên tròn đeo ở
trước ngực . Cũng 2 bên và bên dưới vòng này còn có những
- trong khi cánh
hình tròn to nhỏ được cánh tay trái ôm đờ
tay phải ép một bên mà 1 bàn tay thì giơ cao lên 1 số những
viên tròn khác . Phải chăng đây là những trái cây — những cái
hình tròn to lớn hơn hết mà bàn tay trái đỡ ở dưới bụng lại có
nét khắc mường tượng như một đồng tiền lớn , khiến ta có thể
suy -tưởng có thể đây là người tượng trưng cho sự phì nhiêu
phong-phú -
— một thần tài thần thịnh - vượng như những vị thần
Yaksha (nam thần) — Yakshini (nữ thần ) của Ấn -Độ nguyên là
những thổ địa thần phù hộ cho ruộng vườn mầu mỡ 11 – cây trái
Yaksha và Yakshini lúc thì được coi là Thần cây , thần hoa
mầu , lúc thì được coi là thổ địa và thần các phương hướng , là
vị thần hộ trì các đền miếu nên nhiệm vụ và hình dạng thay
đó là những lượng Chàm . Ông Ưng - Tương (quản thủ Viện -Bảo
Tàng Huế) sau một thời gian dò hỏi cho biết là những pho
Tại một vài địa - điềm ven bờ sông Hương và tại Bình.Định
(miền Bồng - Sơn ; TamQuan ) cũng thấy loại điêu khắc này .
Những loại này chỉ giống những tượng Chàm tới nay được
biết ở chất đá cũng là sa - thạch màu hung nâu , còn đề tài và
đường nét mô -thức có thể nói là khác hẳn . Có người cho rằng
đây là những di-vật điêu khắc Chàm thời sơ-khai hoặc thuộc
¡ về thời đại sau cùng khi đã suy - vi . Thiết- tưởng cho đây là sản
phẩm của thời đại suy vi (tức là vào thời đại sau cùng) thì
không mấy có lý vì vào thời đại này chỉ nhắc lại những đề.
tải của thời trước đã có sẵn , tức là tạc những vị thần theo tinh
thần Bà La Môn giáo, thì dù đường nét này có vụng về đi
nữa vẫn có thể nhận định ra được . Ở dày tuy mô - thức có vẻ
« hoang dại phảng phất như những tượng thần linh ngoài
hải đảo Thái Bình -Dương nhưng đường nét lại sinh động đầy
nhựa sống của một nghệ thuật bắt đầu hình thành . Vũ lại nếu là
thời kỳ suy- vi tức là vào thời kỳ sắp tan rã của vương quốc
Chiêm - Thành có thể là bắt đầu vào thế kỷ XV thì riêng tại miền
Huế , Thừa Thiên này bấy giờ cũng không còn bao nhiêu người
Chim đề tạo ra những vật điêu khắc này .
Vậy ta có thể tạm kết luận không quả táo bạo rằng đây là
những vật điêu khắc bình dân đề phục vụ nhu cầu tin ngưỡng
của dân -gian sống bằng nông -nghiệp cần sự hộ- tri của những
vị « thô địa thần »» hộ- tri cho lúa , hoa màu được tươi tốt ,
•
cây được đầy hoa sai trái , đời sống được đầy đủ ấm no mà tục
thờ phụng đã phổ thông hầu như với tất cả các dân tộc ở bản
đảo Ấn Hoa về những thời xưa .
Và nếu là những vật điêu khắc của Chiêm Thành thì phải
là vào những thời kỳ sơ khởi của nền văn hóa này trước kh
NHỮNG PHO TƯỢNG ĐÁ KIỀU LẠ 79
máy pho tượng trên đây chưa cho phép kết luận một cách cụ thể
connues jusqu'alors tant par leur styte que par les sujets
traités.
NGUYỄN - BÁ-LĂNG
Do sự báo -cáo của Ông Nguyễn - Hượt ngụ tại Qui- Nhơn
về việc phát hiện 1 trung tâm sản xuất đồ gốm . Vào tháng 03/1974
một phải đoàn Viện -Khảo -Cò gồm các Ông NGUYỄN -BÁ -LĂNG ,
Giảm -Đốc - ĐOÀN.VĂN.XUẢN : Chánh Sự Vụ . NGHIÊM
THẦM : Quản - thủ Viện -Bảo Tàng Quốc -Gia Sàigòn đã đến
Quang gồm những xóm nhà lập trên những gò đất nồi trên
mặt đồng ruộng . Trong số có Gò- Sành là nơi đã phát hiện
được những đồ gốm mà các bảo loan tin là thuộc loại Celadon
và Annamese ( 1 ) . Thực ra ở đây từ lâu người ta đã đề ý và
lượm nhặt được nhiều những mảnh và đồ sinh vì vậy mà gò .
này được mệnh danh như thế. Rồi gần đây , theo lời người địa
phương cho biết thì người ta lượm nhặt được những chén bát
nguyên vẹn ở dưới lòng sông rạch và cả trên đất Gò ngày càng
nhiều . Gặp phong trào có người sưu -lầm đồ cổ , những đờ này
đem bán rất được giá nên nhiều người trong thôn ấp ra công
(1) Annamese : Danh từ đề chỉ loại đồ gồm của Việt- Nam có nước men
nét vẽ và cả hình dáng độc đáo.
Celadon : Ta gọi Đông - Thanh có nước men màu xanh rêu , giống sản phẩm
thuộc loại này của đời Tống - Trung Hoa . Tại Việt-Nam đã phát -hiện được nhiều
sảnphẩm này tại miền Đông - Sơn – ThanhHóa .
d… lời vườn đất quanh nhà và đã phát hiện ra được những
bảng chứng chứng tỏ rằng nơi đây là trung -lâm sản xuất đồ
gốm . Chẳng hạn có những cái ghè còn chứa đựng những chén
but cùng kiều , với những con kẻ ( kiềng) bằng đất , những chồng
bát (chén ) dính liền nhau và cũng có khá nhiều những chén
bát trong tình trạng nguyên vẹn nhưng méo- mó chứng tỏ đây
-
là những đồ bị loại ra sau khi rỡ lò – và những đống sành
nồi cao 1 mét rưỡi. 2 mét .
wwwwwww
MAMA
Đồ chế tạo còn gồm cả tô, hũ , lọ , dĩa , ngói hoặc vật liệu
kiến -trúc trông tựa như ngói dẹt dài và đầu nhọn . Có hòn
ngói mũi nỗi cao giống như kiều ngói mũi hài ở ngoài Bắc.
Đất nung gồm cả đất màu trắng và màu nâu xám tro
nhưng đa số làm bằng đất trắng . Có cái nâu đất, đỏ hồng nhưng
thật ra là mầu xám bị ôxyt hóa . Màu men gồm có từ màu
trắng – xám trắng — nguyệt-bạch – rêu - rêu
nhạt – đậm -
da lương - màu nâu. Nước men trông hoặc sậm xám hoặc
trơn bỏng. Tất cả đều không có trang hoàng bằng hình vẽ -
...
ngoại trừ 1 vài nét vạch thành những vòng tròn đồng -tâm song
hành theo miệng bát , hoặc có nét gợn nhấp nhô như những
vòng sóng song hành . Những nét trang điềm này đã được
người thợ cao hứng tạo ra trong lúc quay -nặn . Ở những tỏ
bát, hầu hết men không phủ -kin trong lòng mà thường đề lại t
vòng tròn không men . Tuy nhiên cũng có cái được men phủ
kín hoàn toàn . Màu men đôi khi tùy theo màu đất mà được thực
hoa hòe gì . Tuy vậy mà phẩm chất đồ gốm này khá cao xét
về kỹ thuật vàmỹ thuật. Như trên đã nói màu sắc phong -phủ -
nước men đạt đến mức trong sáng óng mượt 1 hình dáng chén
Dân chúng ở đây đã đào xới nhiều chỗ thấy khá nhiều
như làm thềm nhà, lót đường mà phái đoàn nhận thấy ở rải
rác khắp nơi trong xóm . Có người cho rằng đó là những gạch
Đống sành to cao nhất ở giữa xóm trên có 1 cây thị mọc
trùm lên trên . Tại đây dân thôn đã đào những hố to sâu hơn
cả và lượm được nhiều ghè cùng những chén bát mèo dinh bị
hư hại – hoặc những đồ toàn hảo xếp đầy trong ghè có đậy
nắp. Những hố đào này cho ta thấy nếu tiếp tục đào bởi sâu
thêm chắc chắn còn thấy nhiều đồ lạ hơn nữa . Theo như các
-----
báo loan tin thì đây là đồ gốm Chàm nhưng lúc này chưa
thề xác định vội- vàng được vì :
nét đặc thù về hình dáng nước men đề nghiên -cứu với các
loại tìm thấy Hòn ngói kiều mũi hài Bắc - Việt và những pho
tượng Phật nhỏ bằng sành tráng men tim thấy ở trong những
đống sành này tạo thêm điều phức tạp cho bài giải đáp .
--
Đồ phát hiện ở đây trong hình dáng nước men và cả
mặt sành không tráng men m không có vẻ xưa lắm -mặc dù
có chỗ mặt sành đất trắng hay xám đồi sang sắc hồng đỏ
theo thời gian đã bị oxyt hóa . Còn cây thị mọc trên đống sành
quan trọng nhất – cao khoảng 6m , 7 m có lẽ chỉ xưa độ chừng
1 thế kỷ trở lại. Hỏi những dân thôn vùng này không ai được
ghè đựng những chén bát chưa tráng men còn nguyên vẹn đầy
đủ , ta có thể suy ra là cơ sở tiều - công-nghệ này đã bị bỏ phế
bất thình lình do 1 biến cố thiên nhiên như bão lụt, hoặc xã .
đó sau thất DU NGOÀI Tom ( 0,5 vui này con cáp Trung Cu
Xã Nham - Lộc ở cach do khoảng h , phí thượng lưu cũng lu
1 trung lâm sản - xuất lò gốm và hình như có trang hoàng băng
nét vẽ .
Vậy công cuộc khảo sát sản phẩm tiêu công - nghệ phát
hiện ở vùng này còn cần phải nghiên cứu sâu rộng hơn nữa .
cảnh đồng ruộng lúa gần đường xe lửa và ở sát cạnh 1 hố bom .
Sau khi đào thử khoảng 1 thước sâu - phái đoàn Um được 1
số gạch vuông giống loại dùng xây Tháp Chàm được xếp thành
hàng như chân tường. Nhưng chỉ đào được đến đây thì công-tác
phải ngưng vì thời gian và điều kiện cho phép không đủ . Điểm
đặc biệt là tại Phủ -Mỹ , địa -điểm khai quật nằm cách không xa l
tháp hay miếu thờ của người Chàm – hiện đã đỏ nát — chỉ còn
lại nền gạch . Các lớp đất trong khu vực này sau khi đào xới lên
đề cày bừa đã đề lộ ra nhiều mảnh sành vỡ của các loại đồ sử
và đồ sành có trang hoảng .
Để kết luận qua chuyển công tác tại Qui-Nhơn , Phái đoàn
Định có nhiều dấu hiệu cho thấy có thể có những di- tích lịch sử
và cò -vật còn chôn sâu dưới lòng đất. Như vậy muốn khai quật
phải có đủ chuyên - viên và phương tiện cần thiết. Nhưng những
cuộc khai quật quy-mô chưa thể thực hiện được trong tỉnh thể
hiện tại .
JAVAA رن
ܕܪܠܬܬ
V.K.C. Saigon
Do một đoàn tin đăng trên một vài nhật bảo phát hành
tại Saigon về một pho tượng Phật mới được phát hiện tại Bình
-
− Ô. Nguyễn văn Luận , chủ sự phòng khảo cứu , đã đến
ấp Kim Bình , xã Kim Ngọc , quận Thiện Giáo, tỉnh Bình Thuận
đề quan sát pho tượng này.
Sau khi xem xét , phái đoàn V.K.C. đã ghi nhận được
những sự kiện như sau :
-
Tượng được đúc bằng đồng chứ không phải bằng
vùng như lời đồn đãi – điều này có thể thấy rõ khi lật xem
trong lòng pho tượng và dùng vật bên nhọn vạch vài nét đề
ước lượng sự cứng rắn và màu sắc của kim loại .
Ve Việt Phái hiện 3/
――
- Tượng cao độ 04 tấc , nặng trên 20kg , ngồi theo
thể tọa thiền , hai chân xếp bằng, tay đặt khoanh trên đùi ,
bàn tay trái đè ngửa trên bàn tay phải , mặc áo, tốc xoăn thành
từng núm hình trôn ốc . Vì chôn dưới đất lâu ngày nên toàn
thân xạm đen , vài nơi đã han rỉ xanh.
1,5 AYT CÓ TÂY SAN
23420
1000
-
Đây là kiều tượng Phật khá phổ thông nếu nhìn theo
dầu quá lớn , hai đầu gối thu hẹp lại có vẻ gò bó . Điềm đặc biệt
là phía lưng thật thẳng tạo nên dáng ngồi không ung dung của
G
những pho tượng thời không xa xưa lắm — Thèm vào đỏ những
nếp áo , nhưng đường gờ trên vành mắt, sống mũi còn rất sắc
cạnh , chứng tỏ pho tượng mới đúc khoảng hơn một thế kỷ trở
lại đây.
-
Ngoài ra trong lòng pho tượng lẫn với đất cát còn có
một vài đồng tiền điểu , nhưng rất tiếc dàn chúng đã chia nhau
làm thuốc nên không rõ đó là tiền có từ đời nào ?
một vài phiến đá cao độ 1m , rộng 0m40 trên có tạc sơ sài hình
mặt người — Đó là 1 loại Kut (mộ chí , bài vị) của người Chàn
nên có thể tin chắc nơi đây trước kia có miếu thờ (Banun ) của
một dòng họ người Chàm . Những đền thờ loại này rất thông
thường trong tỉnh Bình Thuận : như Banun thờ Po Nraup ở làng
Chàm Bah -Plom (Tông Túy Tinh , quận Phan Lý Chàm ) hay
thề nói đây là một loại Kut lạ không giống các kiều Kut được
thấy từ trước , thường có hình dáng cân đối và được trang hoảng
bằng những nét chạm trò kỹ lưỡng, trau chuốt ; Tấm Kut mới
được tìm thấy gần như được giữ nguyên kích thước thông
thường của một phiến đá , dài và hẹp , trên mặt được tạc rất
giản dị một mặt người , không có đầu , cặp lông mày thật dài
hai đầu giao nhau , còn hai duỗi lại uốn cong như cặp sừng trâu ,
đòi con mắt sếch , đặc biệt ria mép cũng cong vòng lên . Tất cả
được xếp đặt gọn gàng trong khuôn mặt hình tam giác --- Net
chạm tuy rất sơ sài nhưng thật linh động khiến chúng ta có thể
đoán là tẩm Kut này được tạc vào thịnh thời của Vương
Quốc Chàm . Bởi vì sau khi Vương Quốc Chàm suy sụp thì
nền nghệ thuật của họ cũng tàn theo , ít có tác phẩm điêu khắc
nào có đường nét sinh động . Còn về tín ngưỡng thị từ triều
Po Panraun Kamar
Po Panraun Laban
pho tượng lại nơi đã phát hiện đề dựng chùa thờ cúng .
V.K.C.
Saigon
RÉSUMÉ :
M. BARNOUIN,
Minh Mạng nhị thập niên Kỷ Hợi lục nguyệt cát nhật tạo . »
C-à-d : de Minh Mạng la vingtième année (nommée ) Kỷ Hợi ,
à la sixième lune , en un jour favorable, (cette stèle) fut édifiée .
Le père Cadière a raison de dire que la stèle est située
sur la rive Ouest du canal, mais il la situe sur le territoire du
village de Trúc Lâm qui est la rive Nord du cours d'eau venant
de Kim Long assez loin d'ailleurs. En réalité la stèle est au Sud 1
de ce cours d'eau, sur le territoire de Van Xuân (actuellement
Huyền hạc (la grue noire) qui était face à la porte Chính Bắc
M. BARNOUIN
Thàn
nộhi
cửa
Chí nh
Tây
An
at
ninh
M
N
o
r
t
bi
đá
cầ a
u
a
l!
ŏ
Cửi
Lợ a
-
mi êu
Thần
Vâ
Xu ạn
n
9
Ls ôn
Ti
Gi g
ểu
an g
đườ
quống
c
lộ
I.
sô ng
Kẻ
Vạ n
đường
từ.
chợ
Vạn
Xuân
đến
ཙ༔ ཀཎ' ཐཱ
LA STELE DO
DANS LE « MUR
< CHÀM » DE HUẾ ?
figurant généralement pas sur les cartes, mais très nette sur le
terrain car elle y domine une ligne de crête relativement
nelle .
par les gens ayant besoin de bonne terre pour leurs travaux
végétation. 1
I
Ù
1
dallé ?
I II III IV V VI
Live
"
M. BARNOUIN
( Đại chủng viện , H.T. 13O , Huế )
·
· La colline de Long Thọ avec ses bâtiments militaires
située un peu en aval de la pagode Thiên Mụ, de l'autre côté
du fleuve des Parfums, cst bien connue de tous ceux qui
ont visité Huế. Les érudits savaient aussi que Minh Mạng
plénitude de grandeur.
a choisi ce nom c'était pour honorer son père Gia Long (c'est
ce mème caractère Long) qui avait aussi le nom sacré de
« lointain (descendant) .
selon Đào duy Anh : sông núi (chaîne ou plutôt aréte mon
promontoire .
chỗ ( cảnh sát vv... ) đứng gác , c’est -a -dire : point de sur
veillance, poste de garde (tenu par la police, etc...). On tra
duirait alors la stèle : « (ceci est) le promontoire - et point
Đại Nam Nhất thống chỉ, II : Thừa thiên phủ (tập thượng )
Văn Hóa Tùng Thư , tập số to, 1961 , do Nha Văn Hóa xuất
bin (Saigon ) trg 56 :
« Gò Long Thọ Vi L
· Ở phía tây bắc huyện Hương Thủy 17 dặm ; phía Bắc gối sông
Hương Giang, tương đối hơi xiên với gò Thiên Mụ, trấn áp thượng
lưu sông Hương Giang , nhà địa lý nhận cho gò nầy là ải trời trục
đất vậy. Đầu niên hiệu Minh Mạng có dựng đình bát giác trên gò
ấy , kỳ dư có nói rõ trong quyền Kinh - Sư ” .
Văn Hóa Tùng Thư tập sổ 6, 196o , do Nha Văn Hóa xuất
bản tại Saigon , trg 91 : (trong mục Tự quán )
« Tương truyền trên gò xưa có nhà cửa, từng đem quan tài của
Anh - Tôn Hoàng Đế , Hiếu Tôn Hoàng Đế, Túc Tôn Hoàng Đế, Thể
Tôn Hoàng Đế , tạm trú ở đây. Sau khi binh biển , đồng võ hoang phế.
Đầu niên hiệu Gia Long đồi tên làm Thọ Xương . Năm Minh Mạng
thứ 5 ( 1824) đòi tên làm Long thọ cang , trên gò dựng đình bát giác ,
đặt tên làm Long- thọ-cang- đình , có chạm bị chế đề lưu thắng cảnh ..
La source des indications sur Long Thọ que donne le père Cadière semble
bien être le ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ, rédigé vers 1907-19so et qui donne
la valeur géomantique du site, ses divers noms successifs, le dernier donné par
Minh Mạng en 1824.
Le Đại Nam nhất thống chí indique de plus l'édification par Minh Mạng
d'un temple octogonal. Pourquoi octogonal ? Probablement pour figurer les 8
directions de l'horizon (et de la boussole) et consacrer la valeur géomantique de ce
beau point d'observation tous azimuts.
Cette même source nous dit que la colline portait un édifice où l'on déposait
les corps des rois à mi chemin du parcours vers leurs tombeaux . Cela explique
sans doute le nom de Thọ qui outre la longévité signifie aussi la survie éternelle
des défunts et qualifie leur culte.
BIBLIOGRAPHIE : LES PRINCIPAUX DICTIONNAIRES
namienne est ensuite paginé à part : pp. 1-107 suivi de l'index par
ordre des clefs : pp. 108-126.
Trần văn Hiệp , tức Thanh Yên , Hán -Việt Tự -điền , Hà Nội .
1952.
VÀO ĐỀ :
Trước khi cứu xét vào nội- dung vấn - đề , chúng ta tưởng
nên đề tâm đến hai quan điểm về ý - nghĩa lịch sử phổ quát :
Thứ nhất là tất cả các hệ thống văn hóa lớn đều có khuynh
hướng bành trưởng lan rộng . Ảnh hưởng của một hệ thống đi
theo các nẻo giao thông đường bộ hay đường thủy đến tiếp xúc
với các hệ-thống khác, thì kết quả dĩ nhiên là tạo ra một sự
pha trộn sắc thái và biến đòi về nội dung . Chỉ có sự khích thích
liên–tiếp của ngoại lai mà một nền văn hóa bản-xử về mặt học
thức và tư tưởng mới có thể bảo tồn được sức sống lành mạnh
Tất cả các hệ thống văn hóa lớn của thế giới thịnh vượng
trong các thời đại lịch sử nhân loại khác nhau đều có giá trị
đặc biệt và hoàn hảo của chúng. Sự sinh tồn văn - hóa Ấn- Độ là
thời phục hưng lại là một hệ - thống thứ ba . Đến như Trung -Hoa
thì văn hóa bắt nguồn tối cổ và mang một sức thâu hóa và biến
cải lạ lùng. Do đấy không có chỉ lạ mà thấy hiện diện của nó ở tại
st ": Krige Ja ** 3 * ***** 7. &
1:6 mels cth LAN
các đường giao thông chính t thời này đến thời khác . Như vị
trí địa lý của nó, tỉnh Quảng- Đông là một vị trí ở Trung -Hoa
có tiếp xúc thường xuyên với thế giới bên ngoài cả về đường
giao- thông thủy - lục .
Ở thời nhà Tần , nhà Hán , Ti- Văn Lề Sil và Hợp - Phổ
cái khả năng của Quảng -Đông đối với ảnh hưởng văn hóa
ngoại lai. Cả tính và tư- tưởng Ấn- Độ , Ả -Rập và Âu - Tay cận
đại du -nhập cùng với các nhà buôn và truyền giáo. Những yếu
tố văn hóa từ ngoài du nhập đã từ Quảng - Đông đi vào các
miền khác Trung -Hoa , sau khi trãi qua một sự thích ứng với
hoàn cảnh khi gặp các yếu - tố văn hóa bản xử. Theo đấy thì
Quảng- Đông có một ý nghĩa đặc biệt trong phạm vi học thức
tư -tưởng vậy.
Nhận định thứ hai của chúng tôi là về ảnh hưởng của
minh Trung -Hoa bắt nguồn hay là này nở sớm nhất . Một
đường đi từ Tây - An ( 3 * ), dọc theo xuống sông Hán
tới Phúc - Kiến . Từ Phúc -Kiến , hoặc nó ven bờ biền Triều Châu
Đại khái có bốn thời kỳ có những cuộc di- dàn lộn xuống
Quảng- Đông . Kề từ thời Tần - Thủy -Hoàng -Đế ( tô ý gì
nhất. Trào lưu ấy rất mạnh vào khoảng cuối triều nhà Đông - Hin
khi nội chiếu đã xô đầy nhiều dân tìm lánh xuống miền cực
Vào thời xâm lăng lớn dân tiện của Man-Địch lại có cuộc
di cư đáng kẻ khác xuống phương Nam của dân chúng từ
Thiêm - Tây và Cam - Túc phô- thông đi con đường thử nhất , còn
dân chúng tử Hồ Nam và Sơn - Tây thông thương đi con đường
thứ hai , và dân chúng từ Sơn.Đông và Hồ - Bắc đi con đường
thứ ba . Đấy là giai đoạn di-dan thứ hai .
Armypr
Vào cuối triều Nam Tống , cuộc bành trưởng của Mông- Cô
xuống phương Nam lại xô đuôi một phần người Tàu rời khỏi
quê hương và dần đến một cuộc di -dân đại chủng khác. Nhưng
nên có thể đoán biết rằng học thức và văn - hóa của tỉnh này
sẽ có một đặc tính do trường hợp di-cư và ảnh hưởng của sự
giao thông liên tiếp đời nọ qua đời kia nó cấu tạo nên vậy . Sự
tình cờ và gian -nan của di -cư làm khó- khăn cho sự bảo- vệ tài
liệu và thư tịch , và nản lòng cho sự tu -bồ các hình thức học
thức lệ thuộc vào sự sưu tập và hệ thống hóa trí -thức như lịch.
thời- gian lâu dài của lịch - sử đang xét cứu , thì cũng có một sự
BY
thay đời tương đương trong trọng tâm học thức ở Quảng
Đông trong thời gian dài .
Thời kỳ này bắt đầu với nhà Hán cho tới Nam Bắc triền
(南北 朝 420_ 588 C.N. ). Trước thời nhà Hán , miền Quảng
Đông còn ở ngoài phạm vi ảnh hưởng Trung- Hoa và theo đấy
Có một thực kiện phồ - thông rằng ở mỗi khu vực văn hóa ,
động cơ thúc đầy tiến bộ thường là phát xuất từ miền nào tập
trung được nhân dân trù mật. Vào thời nhà Hán và mấy thế.
kỷ kế tiếp , Quan - Trung ( + ) gồm Thiềm - Tây và các tỉnh lân
cận trong đó kinh đô Huyện (Hsiên ) đã được định vị trí . Đây
là trung tâm của nhân-dân tập -trung và do đấy là trung -tâm
văn -hóa và học.vấn . Do đấy mà văn -minh Trung-Hoa đã ảnh
giả ở Quảng - Tin đã đại biểu cho trình độ văn -hóa và học
fax Wi¨*do*n (**).19MB ) shipeurde.
với học văn , vì Nho -điều mà còn đối với Nhatdền nữa . Hig
tinh lấy một số tiểu liên -hệ đến các nhân - vật lỗi lạc đề chứng
minh điềm này .
3
g 16i
B
Hsin Bk ** ) Trần - kham đều ở Quảng- Tín . Trần -Kham theo học
168, bản -sách cô điền ) và được xếp vào hàng học giả như Hoàn
he tiếng bậc thày về môn học Huấn -Hồ buồi đầu thời Đông
JAD Hán . Vì sự cốsức chuyển sách Tả truyện thành môn học
Day nhà nước bảo trợ , với danh dự và chức tước buộc cho
am người công - chức diễn giải chính thức là Bác Sĩ ( là ± ) ông là
nb. bắt buộc phải tranh biện với một nhóm chú giải do Phạm
Sng Thăng ( ề 4 ) cầm đầu . Tuy nhiên chủ trương của Ông đã
g thắng . Mặc dầu trước thời Ông , sách tả truyện đã được tổn
ai,
trọng lắm , nhưng nếu không có sự cố gắng của ông thì không
ào chắc nó đã được địa vị cao như thế về sau trong Hán học ở
ợc Trung - quốc . Dùng làm tiêu chuẩn đề bồ- túc và giải thích cho
ng sách Xuân - Thu quá vắn tắt , sách Tả · truyện đáp ứng cho đại
-úa
chúng về ý-nghĩa phò thông , nó mở rộng ảnh hưởng cho bộ
trò
Kinh Xuân -Thu . Nhìn ở phương diện này thì sự cổng hiến của
nh
Trần Nguyên vào giới học-giả Tàu đặc biệt đáng kề . Sự chú-ý
ong đặc biệt vào sách Tả truyện của học giả miền Tây -Giang còn
τρε mãi tới thời Tam Quốc. Một học giả có tên là Sĩ Nhiếp (Shih
OC
3 SỰ BÀNH TRƯỜNG VĂN HÓA ... 123
Giao -Chỉ ( * Ft hiện thời là Bắc Việt -Nam ). Trong khi Ông
làm công việc cai trị như một ông vua , ông còn giảng dạy cho
một lớp thính giả công cộng hàng hải. Ông sở trưởng về nghĩa
Tả Truyện , tự mình có viết chủ giải được các học giả lỗi .
lạc phương -bắc rất ca - tụng. Khác với học-giả đương thời , ông
không đề ý đến cuộc tranh biện giữa phải Kin -văn (ệt ) với
Cô - văn ( Łt) Ông chỉ chuyên vào những nguyên -lý đại- cương
trong cổ điền . Trong chủ -trương ấy , ông đã đem cho sự học vấn ,
đất Quảng- Đông một khuynh -hưởng riêng và giúp cho một
khuynh hưởng chung tiên phong cho sự phát - triển về học -vấn
của cả Trung - Hoa .
Về lịch -sử Phật - học ở Trung - Hoa , thì địa vị của Mau -Bắc
những nghi ngờ » phải được đặt ở vị- trí danh -dự vì là sự trình
bảy về Phật- Giáo Tàu của một tác -giả cổ xưa nhất.
Tác giả ( Lý hoặc luận ) sinh vào cuối triều Đông Hán ,
giữa khi Trung Quốc lâm vào tình trạng hỗn loạn , tranh chấp
và học- giả số đông tụ tập kéo nhau lánh nạn xuống Thượng
Ngô, Mâu - Dung (Bác) vốn là một Khồng - Nho , sau chuyền sang
Đạo sĩ học và chỉ đến tuổi già mới bắt đầu nhiệt thành nghiên
cứu Đạo - Phật . Vì khuynh hưởng tinh thần ấy mà Ông đã bị
người đương thời phê-phản mãi cho rằng đã « phản bội cải học
Ngũ Kinh đề đi theo ngoại đạo » . Đề tự bênh -vực nên Ông viết
tác - phẩm « Lý hoặc luận » .
thuyết, Ông đã đặt chân đầu tiên trên đất Tầu ở chỗ gọi là Tây
Lai sơ địa ( j * * H. Hsi.Lai Ch’u -ti ) ngày nay là Tây Quan
đầu tiên truyền - giáo một dòng giáo -lý về sau kết tinh
thành dòng Thiền ( Nhật - Bản là Zen ), ( Tầu là Thiền -Tông ).
Kinh đô chính - trị miền Hoa -Nam trong thời kỳ phân tranh là
sau khi ở lại Quảng- Đông ít lâu . Chắc Ông có đến Lạc.Dương
trên đường truyền giáo
của ông. Xem thế thấy rằng sớm chịu
1
ảnh hưởng Phật Giáo , tỉnh Quảng Đông đã tiến bộ và tín
ngưỡng sùng bái , và về trí thức dễ có thể sản sinh ra một vị
không những là Tô của Thiền Tông mà còn trứ danh đặc -biệt
qua các thời vì tinh thần độc - đáo và trí thức vững mạnh , ấy là
Tuệ- Năng ( ỵ . ), vị Tô thứ sáu của dòng thiền vậy »
thời Tùy qua Đường cho tới Tống ( 588.968 ). Hệ thống khảo
hạch công-chức bắt đầu thiết lập thành một định - chế phổ thông
và một kỷ- nguyên mới bắt đầu mở ra trong sinh - hoạt văn hóa
của quốc gia . Tuy Kinh - Đô chính - trị của nhà Tùy cũng như của
phương Bắc cũng thiên sang phía Đông . Con đường khởi từ hồ
B -Dương và con đường khởi từ hồ Thái trở nên sầm uất về
giao dịch , còn con đường căn cứ vào hồ Động Đình dần dần
bị bỏ . Sau khi thiết lập triều Nam Tống , đặt kinh đô ở Hàng
của Thái Hồ làm cho dân Quảng - Đông dễ đến kinh đô hơn
thời này người đại biểu cho học vấn đất Quảng- Đông là Trương
còn là hiếm có ở toàn cõi Trung -Hoa thời nhà Đường nữa . Mặc
tưởng . Ông ta có thể thành tựu ở bản thân cái lý -tưởng hành
vi phụng sự và gương mẫu , được tất cả học -giả chân chính quỷ
trọng . Và như thế Ông đã đặt ra mô thức cho giới trí thức
Quảng - Đông vậy.
***
Da poyokan
WILLS Cb TIF SAM
có thể tự hào về một thanh công khác nữa ù nhân -vat Lưu .
Chiêm , vừa chính - khách vừa văn -sĩ . Và một nhà văn tuy- bút,
rất tài về lối văn - ò , ấy là Lưu -Khu (Liu -ho ) hay Chu - Riang .
Ông này cũng nổi tiếng về cái học chuyên -môn giải thích
sách Xuân -Thu , căn -cứ vào ba truyện , và danh tiếng văn chương
có thể so với Hàn -Dù (* )và Liêu Tông -Nguyên ( tập đi )
hai danh sư về tản văn . Về triều đại nhà Tống , miền này sản
xuất Yui- Ching của Khúc Giang ( ; ) . Ông này cũng như
Trương- Cửu - Linh (3k + đề ) được nổi tiếng về những tiểu luận
có giá trị , về đức hạnh và về một đời công -chức quốc - gia thành
công . Tuy so với Âu.Dương - Tu ( # F ) và Sải- Tương ( ** )
thì Khúc - Giang kém tiếng - tăm với hậu thế hơn, nhưng đương
thời được đề cao và người ta tự lấy làm hãnh-diện sưu tập
được những tiều - luận của Ông ta, đặc biệt là những bi- mộ-ký ,
tranh chấp . Và Ông ta cũng hợp tác với Tổng - Địch Thanh
thời rất xưng tụng ông về đức trung nghĩa và tinh thần cao .
trí -thức trong hàng Không học . Tuy nhiên chính ở phạm vi
Phật-học mà Quảng- Đông vào thời nhà Đường đã đạt tới điềm
vinh quang nhất và ảnh hưởng vào văn hóa Trung - Hoa những
thế kỷ sau này một cách sâu rộng. Nhân vật then chốt của sự
Thời thể sự thực rất thích hợp cho việc xuất hiện của
các vị Phật-gia trên đây. Kể từ thời Phân tranh cho tới thời nhà
Đường, miền Quảng -đông đã chứng kiến một sử đồ Phật- Giáo
từ Ấn - Độ nhu nhập và cũng có một dòng du -hành Phật- Tử
điền Phật- Giáo . Tôn Giáo mới đến đã ăn sâu vào trong di
sống của nhân -dân , và chúng ta sẽ không lạ thấy xuất hiện một
bản dịch diện địa phương đầu -tiên về Phật-Giáo. Huệ -Năng
mà tên tục là , Lạc là người từ Huyện Tân -Hưng tới P
( ).
Tuy không biết chữ nhưng ông rất thông minh . Tự nguyện
hiến thân cho việc truyền -bản giáo- lý Phật, Òng bắt đầu
đến Khúc- Giang đề tìm một ông thầy thiện trí thức và sau
cùng đến ngôi chùa của Ngũ Tổ Thiền -Tông ở Hoàng -Mai , tỉnh
Hò.Bắc và được nhận vào hàng bò củi , gánh nước . Ngũ-Tô
Huệ Năng , một tin đồ mới đến , chậm chạp , nghĩ bài kẻ trên
không lấy làm vừa ý, bèn đưa ra bài kệ của mình , đang đang
đề tài của bài trên .
何處 惹 塵埃 Hà xứ nhạ trần ai ?
and chİP SAN
Ngụ ý trong bài thi- kệ của Thần - Tủ là con đường tiện tiến
giác ngộ. Ông tìm gỡ những mối thắc-mắc bằng cách nhận
thức chúng và nắm chặt lấy chúng mỗi khi chúng hiện ra .
Mặt khác , Huệ Năng chủ trương quan niệm đến ngộ .
giác ngộ tức -khắc một lúc . Phương pháp này để giải-quyết vấn
đề là từ chối không thừa nhận chúng là như thế và từ bỏ
chúng đi . Ông chủ trương rằng tất cả chúng sinh đều có khả
năng đạt tới trình độ tinh - thần siêu việt , bản tính vô thường và
ảo-hóa . Đây là trạng-thái giác- ngộ của Phật. Thực vậy , tinh
thần là hiện thân của Phật- tinh .
bắt nguồn tử bản tinh nhân loại, Sư khẳng nhận thiện-tính bản
lai, bất hủy bất diệt tự túc viên- mãn, thanh tĩnh bất nhiễm
Ngoài giá -trị đặc-biệt của Huệ -Năng với hệ- thống thiền
học « Tâm vô niệm » , sự cống hiến lớn nhất cho học -thức
là ảnh hưởng của Sư đã tạo nên sự phát-sinh và hình thức
phát triển của Tân Nho.Học . Sự học vấn về Kinh sách Không
Nho kề từ khi phát hành « Chủ kinh chính nghĩa » ( ử A A)
được chính phủ hoàng triều nhà Đường công nhận thì có
khuynh hướng quá nghiêm khắc và khuôn sáo. Do đấy mà
tính chất tương đối không giáo - điều của học phải phương .
tư-tưởng . Đề tài siêu - việt và phương pháp tiếp cận hợp lý của
Nam Tông khích khởi trí tưởng tượng cho học - giả trong
giả sớm chịu ảnh hưởng . Tuy Ông là đệ tử thực thụ của Hàn
Dũ , nhà tản văn danh tiếng ấy , ông cũng chỉ hấp thụ của
thầy về kỹ thuật khảo luận thôi . Trong lối tư -tưởng thì Ông
chịu ảnh hưởng của Huệ Năng hơn qua đệ tử đời thứ IV .
Trong khi Ông làm quan cai trị Lương Châu . Ông có nhiều
dịp đề thảo luận với Huệ -năng về đạo lý và các vấn đề
học vấn . Kết-quả người ta không lấy làm lạ rằng có một
sự đồng tình chung giữa hai bên về nguyên tắc nhân sinh
dù có phản đối ngẫu tương ở Phật -Giáo , khi Ông làm quan
cai trị ở Triều Châu , cũng không quá tựcao để giao -thiệp
với nhà Sư Đại- Điên , và ngần- ngại tỏ thái độ kính -mộ giáo - ly
mới-mẻ và dũng cảm của Sư. Như thế là tư- tưởng Phật- giáo
đã tràn vào khu vực thế giới Nho- Giảo một cách nhất định .
Từ bước đầu còn mơ hồ trong văn- phẩm của Lý Cao, cái
khuynh - hướng giải thích các vấn đề nhân -sinh xã hội bằng
quan - niệm của Phật- Giáo càng ngày càng phát- triển mạnh
trong thời Ngũ- Đại đề trở nên Tân Không Giáo ở Triều Đại
Bắc - Tống . Sự nhấn mạnh vào tâm của Tân Không -Giáo thường
gọi là Tống -Nho , coi tâm như nguồn tri thức cả về trật tự
rõ ràng dấu hiệu ảnh hưởng của Thiền Tông . Chu - Đôn -Di
( 7 ) phô thông được coi như sáng lập ra học phải Tổng
Nho Tân Không Giáo thì đã trực tiếp chịu ảnh hưởng của
chủ -trọng vào giá -trị của tri thức và đời sống đạo đức . Đối
giới trí thức Trung Quốc . Những học - giả Tân Không Giáo
Tống Nho trứ danh thời Tống thuộc về Quảng- Đông gồm
chú ý. Ông này là học trò Dương- Thì và tự coi duy trì
chân truyền của Chu Trình . Ngoài ra Ông tìm điều hòa hai
** 230162
học phải Tống Nho và cổ tôn trọng cả đòi hỏi về trực giác
lẫn trí thức trong quan niệm về sự vật . Trong phạm vi hành .
cho Ông nổi tiếng cùng với một người nữa mang tên Châu
Tung , trong khi Ông làm Giảng -sư ở Đại học tại Kinh Đô ,
điều hòa trong điều kiện nhục nhã như là một hành động
Giai đoạn này trải qua triều nhà Minh và phần lớn
triều nhà Thanh đến giữa những năm triều vua Quang Tự
(* ). Tuy rằng tất cả địa hạt tỉnh Quảng-Đông đều tiến
thức. Một điểm đặc biệt Quảng- Đông bắt đầu phân biệt các
ngành học -thức của tínđồ của chúng. Phần lớn tri- thức của
mục mới sau khi chịu ảnh hưởng không- khí văn hóa Quảng
Đông .
ông cũng tự giữ mình tránh tất cả thái độ cực đoan hay hành
động mạo hiểm. Căn -cứ vào hòa điệu chi-phối điều lý thiên
nhiên trong thế- giới , nguyên tắc học thức tu sửa của Ông cũng
案情告
không phải không quan trọng . Ông chủ -trương trong - tâm bình
tĩnh người ta phải tìm thấy cái đạo đức là điều vẻ- vang nhất
con người có thể đạt được. Tu - tâm là quá trình tiệm- tiến
nhất- định. Tuy giống các nhà thần-bi học chủ trương và
phương- pháp cầu đạo , nhưng ông khác về mục-đích . Đối
với ông ta thì học vấn là phương tiện đề đạt tới trình độ
hoàn thiện con người gồm có việc chỉnh lý công -việc cả nhân
riêng và làm tròn phận sự đối với tha nhân. Như Trần - Hiến
Chương quan niệm thì trình độ hoàn thiện đạt được khi nào
một dưluận phò - thông trong giới bình luận đời sau cho rằng
nhờ trí óc của ông mà Tân Nho-Giáo đã đạt tới tuyệt- đinh
tinh.vi. Sự coi trọng ích lợi của học vấn là đặc trưng của tỉnh
thần học giả Quảng - Đông do ông khởi xướng vậy . Tinh thần
ấy gọi là « lĩnh học » ( ).
thì cỏ Trạm Cam -Tuyền . Ông này nhấn mạnh vào sự cần thiết
quan -sát đinh-luật thiên - nhiên trong đời sống thực tế của nhân
quần xã -hội và trong tinh thần nhân loại . Cùng nổi tiếng có
rõ bằng những tỉ-dụ . Đây là khuynh -hướng thực dụng của học
giả Quảng -Đông được củng cố thêm . Sự thực hầu hết văn-nhân
Quảng -Đông thời nhà Minh đều thấm nhuần tinh thần Tống
Nho hay là Tân Nho Giáo rất thịnh hành vào thời bấy giờ .
Hành - văn nghiêm chỉnh , trí- thức thực dụng, tính cách liêm. .
khiết và sự sốt- sắng giúp chính quyền đã được luyện vào trong
một công - thức được đa số trong giới tri thức tánthưởng . Kết
quan- hệ đến việc đời thực tế . Trào lưu ấy phân biệt học- thức
Quảng -Đông đã diễn tiến không ngừng qua triều đại Khang
Hy (y ) và Càn -Long ( % ) và sản xuất ra một nhân vật danh
tiếng cuối cùng là Chu - Thử -Kỳ ( * * H ) người Nam Hải thời
Hàm -Phong (** ) và Đồng - Trị (la á ) . Về già ông mở trường dạy
ở bản tỉnh và xác định lại với tất cả uy tín vốn có cải truyền
thống học thức của Quảng - Đông. Ông dạy học trò hai phương
diện của cải đạo đọc sách và tu - thân đề phát triển một nhân
cách hoàn -toàn ngụ sự thực hiện lý tưởng hành động phụng -sự .
Đọc sách để đưa đến thông hiều sự vật đề một người có thể sử
dụng và điều hành công -việc . Điều chỉnh tự -ngã là một bước đầu
thiết yếu đề trị dân được chính đảng. Như thế ông giải -thích sự
liên quan giữa tu -thân tự -ước -chế với sự đọc sách trong vấn đề
tiếp vật của ông . Chương trình đọc sách của ông gồm 5 mục :
Nho điền , Lịch Sử , Sưu-tập về chế độ học , Triết học và Khảo
• A
Sự hăng hải và kỹ-thuật trong giới học giả mới của Hán
học ( ; g ) do Nguyễn -Nguyên du- nhập vào Quảng- Đông vào
cuối triều Gia -Khảnh khi ông làm quan cai -trị Quảng - Đông và
Quảng - Tây .
dối với sự phân biệt và xếp loại mẫu âm và phụ -âm cùng
là mô thức điều hòa âm thanh . Đảng được đề ý là những
chuyên khảo của ông không những ông trung thành với
nguyên tắc suy luận và ông cũng bày tỏ tư tưởng độc đảo .
Tuy nhiên tinh thần ông quá mạnh đề có thể tự giam vào
trong thực ước thông thường của Hán học . Kết quả là ông
từ chối luận điệu mầu mè phổ thông khiến các danh sư
Không- Giáo cô -điền đã hoàn toàn không đề ý đến sự giải- thích
tranh biện với phe Tống- Học bằng cách chứng minh tính chất
bồ túc lẫn nhau trong tác phẩm vĩ đại của ông nhan đề « Hán
Nho Thông Nghĩa » Giày ít i ) và « Đông-thục độc thư ký ,
chỉ có học hỏi các danh- sư Hán học mà thôi , hơn nữa chúng
ta còn phải bắt chước đức hạnh của họ . » Vô hình trung các
học giả Hán -Học đều đáng được khen về lòng hiếu đề đối với
Trong hàng học trò đệ tử của ông có nhiều người có tài truyền
kế ảnh hưởng tốt đẹp ấy .
về sử - địa học quan hệ đến các đất biên -cương phía Bắc và
Mông -Cô . Tất cả các trào lưu mới ấy đã thiết- lập theo đã diễn
khi ông làm Tông Đốc Lưỡng Quảng (Quảng- Đông , Quảng - Tây )
chương trình nguyên thủy , môn sử học chỉ là một trong bốn
môn phối hợp với nhau như kinh điền Không -Giáo , Triết
học cao đẳng và Luận - văn , nhưng thời thế đòi dành cho sử
học địa vị ưu đãi . Bởi thế mà trong những tác phẩm sưu tập
người ta thấy nội - dung hai phần ba thuộc về sử học . Một trong
các nhà xuất bản chính là T’u -Chi tự ông ta cũng là một chuyên
môn về lịch -sử Mông -Cô . Cả về môn nghiên -cứu kinh điều
đã có võ học phái Tàn -Văn và chống đối kịch liệt phương -pháp
cùng nguyên - tắc của các nhà cò -văn học triều Hán . Động cơ của
Ông trong việc này là chủ ý trình bày Không -Tử, nhà hiền
triết không phải một người chàn chính bênh vực truyền -thống
và định chế cổ xưa như phổ thông người ta hiều , mà là một
nhà cấp tiến sáng tạo , lấy hình ảnh truyền thống có tính chất
mơ - hò chỉ đề bênh vực cho sáng kiến của mình . Như thế là
ông tìm thay đồi những dấu vết cũ trong quan niệm cải cách
trò không nhỏ trong cái mộng cố - gắng cải cách năm thứ 24
ngoài hoạt động cho phong trào cải cách ở tài ký giả khôn khéo,
những nhân vật lịch -sử trong triền vọng mới nhìn theo con
mắt hiện thời .
SỰ BANH TRƯỞNG VĂN -HÓA ... 137
phát triển và thâu thái ảnh-hưởng. Những sắc - thái mới -mẻ
đáng chú-ý nhất của thời kỳ này là sự tiên phong trên đường
tân khoa -học thiên nhiên . Ở tại Quảng-Đông , các khoa học
Âu Tây đã từ lâu bắt đầu xuất hiện . Vào cuối thời nhà Minh ,
giáo phái Jésuit đã dùng Quảng- Đông làm bước đầu trong việc
gắng công truyền giáo cho Trung - Hoa . Fr. Matthew Ricci cùng
với M. Ruggieri và F. Sambiasi tìm lấy lòng các nhà cầm quyền
địa phương đề cư ngụ lâu ở Quảng- Đông bằng cách đem
một thời đã trở nên trường học kiêu mẫu cho người Tầu về
các môn học như thiên-văn , toán học, địa lý học , vật- lý -học ,
v-học, phóng- pháo học và kiến -trúc- học . Rồi Ricci rời Quảng
Đông đề đi Giang Tây , sau một thời gian ở lại Nam.Kinh ông
·
• bèn đi lên Bắc Kinh . Sau khi đã củngcố , sự bảo -trợ lâu bền
cho đồng chí và người kế nghiệp ông đã làm cho sự tiếp tục
giữa khoa -học Tây- Phương với văn hóa Trung -Hoa có sự tiếp
xúc. Suốt những năm cuối triều Minh và đầu triều Thanh , vua
Khang -Hy duy- trì chủ trương không nhượng bộ hòa-giải trong
cuộc tranh biện gọi là Tranh biện Nghi-Lễ đã mở màn cho
chính sách đàn-áp , nó dần dần trở nên nghiêm khắc chặt chẽ
đến trục xuất các giáo -sĩ dòng Tên . Mất sự môi giới của họ
thì đồng -thời cũng mất sự khích động của nguồn văn -minhTây
phương tự gốc cần thiết đề duy - trì và bảo- vệ sự mở-mang khoa
học Tây- Phương ở Trung -Hoa . Nhưng ở Quảng -Đông nhờ vị
1.38 *L
tri dia -lý tru -đãi của nó , không khi trang tro
thế giới bên ngoài không bị cắt dirt . No còn đươc khi đi th
hơn nhờ có các trào lưu người Tàu hải ngoại đem về và
diện đã bắt buộc ý-thức Trung -Hoa phải chúý vì những cuộc
mục kích sự thử thách ấy và tự mình thích ửng bằng cách gửi
lớp người du -học đầu tiên sang Âu - Tây . Jung- Hung (Yung
Wing) được học bồng sang Mỹ và Ho-Kai sang Anh là những ·
tiền- phong đã gây nên phong trào du -học sang các nước Tây .
Phương bằng tự thân làm kiều mẫu và bằng các lời cô võ .
Người Tàu đầu tiên được huấn -luyện thành một kỹ - sư tân thời
là Jeme Tien Yau , cũng là người đất Quảng-Đông sinh trưởng
có khả- năng tiềm tàng về khoa học , kết quả của mấy thế kỷ
tiếp xúc và thu hoạch với thế giới bên ngoài . Một khi gặp cơ
hội là sẵn sàng thể hiện . Sự sẵn -sàng mà Quảng- Đông lợi dụng
và thâu hóa khoa -học Tây- Phương giải -thích phần lớn về học
vấn tài ba của nó ở thời kỳ này. Nhà học giả trử -danh nhất
tục học chương trình cao - học kiều Tây - Phương ở Hồng- Kông
SŲ BANDA
khi các hội -viên hội truyền giáo Luân - Đôn ở Hồng -Kông do Ho .
Kai lãnh -đạo , lập ra trường Y-Khoa cho người Tàu ở Hồng
giáo- dục và học-thức tương -đương với một Đại- Học điền hình
tay các học giả Âu -Mỹ dùng tiếng Anh làm tiếng chuyên ngữ .
Họ Tôn không những học giỏi các môn trong chương trình
như vật lý , hóa học , thực -vật học, cơ thề học, sinh.lý học, và
cồ -điền Trung- Hoa . Thời kỳ học sinh của ông còn gần với thời
kể sau cái chết của Darwin khi thuyết tiến -hóa luận của ống
này đã được truyền bá đi mau-lẹ và môn sử về thời kỳ sau
Pháp Quốc Cách Mệnh cũng đang bành trướng ở Âu Châu .
Họ Tôn rất thích-thủ các loại văn chương ấy và đọc sách miệt
mài nhưng với tinh thần biện biệt . Do những suy tư về sự
đọc sách ấy và do sự mong muốn cải tiến tập quán của đồng
bào ông , ông tạo nên học thuyết « tri nan hành dị » ( ầm đ
tí k ) . Ông không thề hoàn toàn thừa nhận học thuyết Tiến
đề lại , ông quan niệm sự tiến-hóa của thế giới theo ba giai
đoạn. Giai-đoạn thứ nhất là sự tiến hóa của vật-chất , kết-thúc
vào sự xuất hiện của vũ trụ vật lý . Giai đoạn thứ hai là sự
tiến hóa của sinh vật, và giai đoạn thứ ba là sự tiếnhóa của
nhân loại . Định luật hành động bên trong và chi phối sự tiến .
hóa ở các giai đoạn thì khác nhau . Trước hết là định luật
vật-lý hóa , thử đến là định luật của sự chọn-lọc thiên - nhiên
tiến hóa của nhân loại, ông có phân biệt ra ba pha din
chinh :
một trình độ hiểu biết hành vi sau khi đã xảy ra và đạt tới
cái khả -năng ấy đề biết được hậu quả trước khi hành động
và bản năng phản- ửng đối với sự chọn hạnh phúc tránh đau
khô . Cho nên cải tinh thần hợp tác và hỗ trợ đã trở nên cái
định luật và nguyên-lý định hướng cuộc tiến hóa đến chỗ
chi -thiện . Xét về phương diện thứ hai , họ Tôn phân lịch sử
nhân loại làm thời kỳ tranh đấu chống thủ - tinh , thời kỳ tranh
đấu chống thiênnhiên , thời- kỳ tranh đấu chống chính quyền
chuyên -chế , và thời kỳ tranh đấu giữa bọn có thiện chí với
bọn ích kỷ trong xã hội dân chủ . Đấy là những giai-đoạn kể.
tiếp nhau trên lịch-trình tiến-hóa song hành đi đôi với lịch.
yếu cho sự an toàn và sung túc. Tìm cung cấp phương tiện
sinh -sống cho quần chúng đấy là nhiệm vụ chính của văn
minh . Cốt tính của lịch sử ở tại trong sự tiến hóa về chế độ
xã hội và kinh - tế .
Bác -sĩ Tôn - Dật Tiên rất coi trọng khoa học và đã làm
bắt phụng sự cho nhân loại chứ không phát triển làm thương
Við aðgera v
hại đến hạnh -phúc nhân loại . Nó phải đi đòi với triết -học đề
củng cố bản tính đạo - đức của con người chống với sự sa -đọa
vào bản năng cầm-thủ khát-máu . Bởi thế mà ông đặc biệt đề
cao sách Đại-Học (* ) với mục tiêu : « Minh -minh đức (BÀ HÀ "
Tương tự như thế mà Trung- Hoa cũng không có thể làm ngơ
khoa học , đẻ đến nguy hại . Nó phải cấp-bách khuếch trương
kỹ -thuật và khả năng khoa học ngõ hầu bảo vệ cuộc sống
dân - tộc của nó với các dân - tộc văn -minh trên thế - giới . Hai
yếu tố giáo-dục khoa học và giáo - dục đạo đức phải được điều
hòa đúng mức độ trong chương -trình giáo-dục Trung- Hoa.
Tinh thần học rộng của ông với tài liên-hệ các yếu -tổ của
các ngành học thức khác nhau đã khiến ông có lời nói có
uy-tin về nhiều vấn đề khác biệt đối với đồng bào của ông
đương thời vậy.
KẾT- LUẬN
của Việtlộc . Tuy chúng có một trình độ văn hóa khá tiến bộ
tương- đối , chúng cũng chưa đến trình độ đề có thể ghi lại
nở ở khu vực Xuân - Thu ChiếnQuốc (vào hậu bản triều đại
nhà Chu ) , thì Quảng- Đông hãy còn ở ngoài ảnh hưởng của
nền văn-minh ấy. Sự thực mãi đến thời tương đối gần nó còn
2 #54 7 Ds
112 KHẢO TAP A
là một miền bản khai thì không ai chối cãi và được ai mặc
Sau triều - đại nhà Hán , Quảng- Đông bắt đầu chuyền
dịch hoạt động vào trung -tâm văn hóa . Nó có hai ưu -điềm ,
trình độ trí thức cao của người đến cư ngụ , và ảnh hưởng
của sự gặp gỡ giữa văn hóa Trung-Hoa và văn hóa ngoại lai .
RÉSUMÉ :
Cần phải nói rõ rằng các triều đại Việt Nam rất lưu ý
đến vấn đề bang giao với làn quốc vĩ đại là Trung- Quốc . Trên
quan điềm này chúng tôi cố gắng xét về chính sách của mỗi
triều đại áp dụng đối với người Trung Hoa . Trong một bài
này những chi tiết nhỏ nhặt xin miễn đề cập. Tôi mong độc
giả sẽ tìm đọc những bài khác của chúng tôi liên quan đến đề
tài này .
Như mọi người đều biết , Việt Nam dành được độc lập
sau khi đã bị Trung Hoa đô hộ hơn một ngàn năm từ cuối thời
Đường. Qua thời Ngũ Đại tới đầu đời Tống có thể nói là một
giai đoạn biến chuyền nhanh chóng và trở thành độc lập thực
sự lúc Đinh Bộ - Lĩnh lên ngôi và lập thành quốc gia vào đầu
đời Tống . Từ đó cho tới khi Việt-Nam bị chinh phục và sát
nhập bởi vua Thành-Tô ( Vĩnh Lạc ) nhà Minh có nhiều triều
đại lên xuống kế tiếp nhau như Đinh, Tiền Lê, Lý , Trần , Hồ.
Nhưng với những tài liệu hiếm hoi còn lại thật là khó có
thề giải thích cặn kẽ về từng chính sách mà các triều đại ấy
đã dùng đối với Hoa -Kiều tại Việt-Nam. Vì thế tôi chỉ đưa
ra những nét đại cương của các triều đại chính đối với Hoa
Kiều tại Việt -Nam , và đặc biệt nhấn mạnh vào hai triều đại
Lý và Trần .
Hoa . Tuy vậy có rất ít các viên chức cao cấp của các triều đại
đầu tiên ở Việt -Nam được ghi nhận là có nguồn gốc Trung - Hoa .
Nhưng vào năm « Thiên Phúc thứ chín » (988) dưới sự trị vì
của Đại Hành Hoàng Đế (Lê Hoàn ) trong Lê Kỷ ( Một phần của
Đại Việt Sử Ký toàn thư, một cuốn sử chính thức của Việt Nam ).
Về cái chết của Hồng Hiến , là Thái Sư của Lê Hoàn , có ghi như
sau : « Hiến là người Bắc phương . Ông rất thông hiều sách,
sử. Ông đảm trách công việc chỉ huy quân đội Việt–Nam. Khi
vua Đại Hành Hoàng Đế lên ngôi , ông tự nguyện hiến thân vì
quyền lợi đất nước và tận trung với nước . Hoàng đế hết lòng
tin dùng ông » .
Điều này cho thấy Hồng- Hiến là người gốc Trung - Hoa ,
và là một sử liệu giá trị . Theo sách trên , Hồng-Hiến phục
tin cần và giữ vai trò quan trọng trong các công việc quân sự
và chính trị . Điều này có thể cho ta vài ý kiến về chính sách
của những triều đại đầu tiên đối với Hoa - Kiều ở Việt- Nam .
Một chính sách tương tự đối với Hoa - Kiều cũng được
nhận thấy rõ ràng hơn dưới triều Lý qua đoạn sau đây trong
sách « Quế hải ngu hành chí » viết bởi Phạm Thành - Đại ( 1 ) và
trích dẫn trong « Văn hiến thông khảo » quyền 330 Giao Chỉ .
« Nhà cầm quyền luôn luôn đón tiếp nồng hậu người Man
(có nghĩa người Phúc Kiến ) , họ đến Việt- Nam bằng tầu thuyền .
Chính quyền cho phép người Man tham chính và tham khảo ý
kiến họ trước khi ban hành phép nước ! »
Đoạn này không thấy trong các bản thường của bộ « Quế
hải ngu hành chí » , nhưng có thể là có trong nguyên bản và tác
giả của « Văn - hiến thông khảo » bất ngờ đã trích dẫn Bộ « Quế
hải ngu hành chí » đã được viết vào cuối thế kỷ XII ( nghĩa là
cuối triều Lý) và căn cứ trên nguyên văn do Phạm Thành - Tài
tác giả cuốn sách (2) , khi ông ta làm thái thủ ở Tĩnh - Giang một
nơi không xa Việt - Nam là bao . Có thể nói rằng sách này mang
lại nhiều sự thật . Vì thế , ta có thể tin vào điều mà đoạn sách
vừa trích nói về một chính sách thân hữu của triều Lý đối
với Hoa Kiều ở Việt- Nam .
được dự đoán là triều đình trông cậy vào các Hoa - Kiều đã quen
thuộc với hệ thống Trung Hoa và nền văn minh Trung Hoa , vì
Việt Nam đã du nhập hệ -thống văn minh Trung -Hoa từ khi
lập quốc , và theo quan điềm của nhà cầm quyền có rất ít các
quan lại địa phương hiều thấu đáo về Trung Quốc . Nhưng
(1) Đại việt sử ký toàn thư , Lý kỷ, phần tháng hai , năm thứ so Đại Định
dưới triều Anh Tôn ,
(a ) Cuốn sách này được viết bằng (kinh nghiệm) tai nghe mắt thấy của
chính tác giả khi ông xuất ngoại hai lần vào tiền bán thế kỷ thứ 14. Những điều
Thi trong đó thường đều đã được các học chứng nhận .
đối với Hoa Kiều , họ được triều Lý đón tiếp nồng hậu , văn
giao phó những địa vị tin cần , có lẽ chỉ có một người duy
nhất định lập nghiệp thường trực tại Việt Nam . Mặt khác , đổi
với các thương nhân Trung- Hoa đến đây một thời gian ngắn
với mục đích buôn bán có thề cho rằng triều đình giới hạn
chặt chẽ nơi cư ngụ và hoạt động của họ.
với ngoại quốc (đóng cửa đối với các nước ngoài ). Câu « Nước
không giao dịch » trong phần Giao Chỉ của sách Chư -tiên -chí do
Triệu-Như.Quát viết năm 1225 cho thấy điều đó . Tuy vậy triều
Lý cho lập một trang ( nơi di dân ) ở Vân Đồn có thể coi đó
như là đảo « Iles des Sangliers » và được đặt ở ngoài biên
cách phía đông Hải Phòng hiện nay chừng 80km , vào năm
Đại Định thử mười ( 1149) dưới triều vua Anh Tôn . Chỉ ở nơi
này , người ngoại quốc được phép cư ngụ và buôn bán . Không
cần phải nói chúng ta cũng biết là đã có những thương
nhân Trung Hoa được phép đến sống ở dịch trường.
Nhưng vì Vân Đồn là một hòn đảo , và giới cầm quyền cho
lập một dịch trường ( tràng) ở đây nhưng trên căn bản chính
sách bế-quan vẫn không thay đổi , chính sách này không cho
phép người ngoại quốc vào đất liền . Lý do quan trọng nhất
khiến nhà Lý áp - dụng chính sách này có thề vì sợ những bí
mật quốc gia lọt ra ngoại quốc. Dưới thời Tiền Lê và Lý Việt
Nam đã bị quân Tống xâm lăng hai lần và vài lần chiến đấu
chống Chiêm.Thành . Có lẽ vì thế, bí mật quốc gia cần được giữ
kin trong thời này . Và ngoài ngoại kiều , nhất là Hoa thương
không có ý định lập nghiệp tại Việt Nam , (phải trở thành
những nhân vật coi như có hành vi nguy hiềm). Vì thế có thể
dự đoán rằng đương nhiên triều Lý phải kiểm soát chặt chẽ sự
cư ngụ và hoạt động của họ.
Nếu triều đại trước đã vậy , hoàn cảnh có đời khác với
triều đại kế tiếp không, triều nhà Trần ? Trước hết , trong
jampo
chương nhan đề « Giao Chi » của sách Đảo di chỉ lược một
tác phẩm viết đồng thời bởi Đại Uyên (Wan - Ta - Yuan ) một
« Các thương nhân trên tầu không thề buôn bán với
người trong xử. Những tàu buôn phải đậu quanh Đoạn Sơn
(Tuan chan ) và không được phép vào nơi công sở . Bởi vì nhà
cầm quyền sợ người Trung Hoa có thể dòm ngó và tiết lộ thực
trạng trong nước. »
Câu đầu « Người trên tầu không thề buôn bán với người
cho thấy là đảo Vân Đồn ( 1 ). Sau hết , theo đoạn văn trích
dẫn trong Đảo di chỉ lược ( Tao - i chih-lueh ) triều Trần cũng thi
Chiêm Thành . Trong hoàn cảnh đó Việt Nam luôn luôn bị họa
ngoại xâm đe dọa . Đương nhiên , đề giữ bí mật quốc gia , cần
phải đề phòng gắt gao các cá nhân có thể làm lộ bí mật , nhất
là người Trung Hoa . Cho nên triều Trần cũng như triều Lý
giới hạn chặt chẽ người Trung Hoa vào trong nước .
Tuy nhiên , thí dụ sau cho thấy triều Trần cũng ân cần
đón nhận các Hoa Kiều có ý định lập nghiệp trong xử . Năm Bảo
Phù thứ hai, tháng mười dưới triều vua Thánh Tông trong chương
dưới triều Trần và nhà cầm quyền thấy ít cần đến các người
vừa đề cập tới đã được triều Trần đón tiếp và cho ở Kinh Đô ,
Mòng -Cô tấn công và họ không thể tiết lộ bí mật quốc gia
được .
Hồ) đối với Hoa-Kiều chỉ có trong mấy năm từ lúc lật đồ
nhà Trần đến lúc bị vua Thán , Thánh- Tô nhà Minh khuất phục,
tài liệu . Trong thời nảy nhà Hồ đang đánh nhau với Chiêm
Tóm lại , chính sách của các triều đại đầu tiên với triều
Lý và Trần được tóm lược như sau : mỗi triều đại phân biệt
hai hạng người Trung - Hoa , hạng định lập nghiệp tại Việt- Nam
và hạng không. Đối với hạng trên họ được đón tiếp ân cần , họ
được tham chính và họ được dùng hết hiều biết và khả năng
vào việc trị nước. Đối với hạng người sau , vì cần giữ bí mật
quốc -gia buộc nhà cầm -quyền phải kiềm -soát gắt gao đối với
họ , nghĩa là cấm họ vào đất liền . Nhưng về chi tiết của các
chính sách đối với Hoa - Kiều mà mỗi triều đại áp dụng và tình
trạng Hoa - Kiều ở Việt-Nam dưới mỗi triều đại thật khó mà
Việt - Nam trong những năm triều Minh cai trị Trung Hoa — từ
1407 ( năm Thánh - Tô thứ năm ) tới năm 1427 (năm thứ hai
đời Tuyên Đức ) Theo bài viết về năm Canh Ngọ trong « Minh
thực lục » ngày mười bảy tháng chạp năm thứ hai đời Tuyên
Đức ( 1427 ) , số thường dân và quân sĩ thuộc Tam -tòa (three
sống tại Việt- Nam thời đó . Tuy vậy , ở cuối đoạn đó cũng có
Lê từ năm 142 đến 1430. Những chi - tiết này được ghi trong
Minh - thực -lục » ( 1 ) . Lê-Lợi nhất định rằng việc hồi hương đã
hoàn tất và không còn một tù binh nào ở Việt-Nam , và cuộc
đàm phán kết- thúc. Chắc rằng không phải là ít tù binh còn ở
lại Việt -Nam , nhưng họ hy vọng lập-nghiệp tại đây và đã ghi
tên vào số đinh khiến vua Lê- Lợi coi họ như dân Việt và
Triều đại Lê Lợi , nghĩa là nhà Hậu -Lê dành được độc
lập sau khi nhà Minh đã chiếm cứ đất này hai mươi năm và
thiết lập bang- giao bình thường với nhà Minh trong quan - điềm
ê chề của dĩ- vãng . Hơn nữa phải luôn luôn đối phó với xâm
lăng của Chiêm - Thành ở phía Nam cũng như mối đe dọa của
nhà Minh , triều Lê cấm đoán dân Việt liên lạc thân thiết với
ngoại kiều đến mức nào có thề, kết án bằng những hình phạt
( 1) Minh Thực lục đoạn 18 tháng 5 năm thứ 3 ; 11 tháng 9 năm thứ 4 }
28 tháng 3 năm thứ 4, 11 tháng 3 năm thứ 9 và 15 tháng 4 năm thứ 5 Tuyên
Đức.
*. léga¹-¤<»**___*_ *** M
150 KHẢO CÓ TẬp sang
quyền buộc họ phải ở lại Vân-Đồn , Vạn -Ninh , Cần Hải, Hội.
Thống, Hội- Triều , Thông Lĩnh , Phú Lương, Tam Kì và Trúc .
Hoa .
ghi như Vân Đồn , Vạn -Ninh ở Quảng Yên , Cần Hải , Hội
khẩn cấp vì người Trung Hoa còn ở lại Việt- Nam sau khi quân
Minh rút lui là một số đảng kề . Theo Toàn - Thư , phần Bản Kỉ
thật lục tháng chạp năm Thiệu - Bình thứ tư người Minh , ( có
nghĩa là người Trung- Hoa ), bị buộc phải mang y phục phương
Việt có ác cảm với Hoa -Kiều nên chính quyền áp dụng một
chính sách chặt chẽ như vậy. Một chính -sách chú trọng về hình
thức như vậy chưa bao giờ được áp dụng trước đây. Nó cho
thấy biểu dương một chính -sách đàn áp đối với người Trung
Hoa ở Việt- Nam .
được phép xuất ngoại nếu không được phép chính thức , nhưng
lẽ có vài người đã đến Vân - Đồn . Tuy vậy , việc họ ở lại Việt
Nam , An-phủ- ty cho phép dựa trên thẻ bài do trưởng sở cấp
mới cho phép ngoại nhân được ngụ tại dịch -trường ».
biện -pháp trên trước đây chưa bao giờ dùng tới.
dự và hoạt động chính -trị quốc-gia , con số gia tăng đến mức
không cần sự trợ giúp của Hoa Kiều . Nhưng phần lớn là v
người Việt ghét và nghi ngờ Trung Quốc cũng như Hoa-Kiều
sau khi Việt-Nam bị quân Minh xâm lăng khiến phải áp dụng
chính sách này. Tuy vậy , chắc chắn rằng chính sách đàn
áp Hoa -Kiều của nhà Hậu - Lê cộng thêm sự cấm xuất ngoại
và giao thương của triều - đình Trung Hoa đã thành một trở
lực cho sự làm giàu của Hoa - Kiều tại Việt- Nam . Có lẽ vì thế
mà trong suốt thịnh thời của nhà Hậu - Lê (từ Lê Lợi đến khi
Mạc-đăng - Dung cướp quyền ) không thấy có ghi nhắc tới
các thương nhân Trung-Hoa . Chỉ tới giai đoạn sau của triều
Hậu -Lê , khi triều đại suy đồi , các thương nhân Trung Hoa mới
trở thành giàu có đảng kẻ ở Việt- Nam .
- Na
152 XnẮ
IV. – CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ TRỊNH ĐỐI VỚI HOA KIỀU
Triều Hậu -Lê bị tạm gián đoạn do sự đảo - chính của Mac
Đăng -Dung , nhưng chỉ ít lâu sau lại được tải lập . Năm 1592 Mac
đăng- Dung bị đánh bại và thủ đô Đông Kinh (Hà nội ) được chiếm
lại nhưng nhà Lê chỉ còn lại hư vị còn thực quyền nằm trong
tay họ Trịnh . Lúc này vào thế kỷ 17. Việt-Nam bị chia làm 2, do
2 họ Trịnh và Nguyễn . Họ Nguyễn chống họ Trịnh và đặt căn
Tây - Sơn khởi nghĩa 1773, 2 họ luôn luôn chống đối nhau và
giữ tình trạng hưu - chiến . Chính trong tình trạng chống đối
Tài liệu đầu tiên về chính sách của họ Trịnh đối với
Hoa Kiều ở Việt Nam có thể thấy trong chỉ dụ tháng tám năm
Cảnh Trị thứ nhất ( 1663 ) đời vua Huyền Tôn .
nếu có khách ngoại quốc sống trong quản - hạt, phải phân loại
dân chúng theo quốc tịch , bảo cáo về triều đình và cho họ
cư ngụ riêng biệt tùy nơi họ muốn và cho giữ nguyên phong
tục và y phục .
Trung -Hoa là chủ đề chính được đề cập tới trong lệnh này .
Theo « Lịch.Triều Hiến Chương Loại chí » do Phan - Huy -Chủ
soạn, chỉ-dụ sau cũng được ban hành năm thứ 4 Cảnh Trị
phải ghi tên trong số đinh và phải tuân theo phong tục và
tập quán của xử này . Tên tuổi sẽ được phép phân hạng và
ghi vào số đinh của xã thôn , trang hay tầng nơi cư ngụ . »
Như đã biết , những xáo trộn lúc giao thời Thanh thay Minh
ở Trung -Hoa đã khiến nhiều người Trung Hoa di cư sang
nước ngoài , nên có thề nhiều Hoa - Kiều đã đến Việt -Nam , vì
trì trật -tự công -cộng và đề thu thuế, và buộc cưỡng bách lao
động bằng cách ghi tên họ tại hộ tịch xã , thôn , nơi họ cư
ngụ . Có thể nói rằng , những biện pháp này cộng thêm với
sự cưỡng- bách theo phong-tục , tập-quán , phục- sức cũng như
nhà ở của người Việt là những định – chế cứng rắn đối với Hoa
Kiều ở Việt- Nam .
Một chỉ -dụ khác cùng loại này (nhằm đàn áp Hoa- Kiều )
đã được ban hành vào năm Chinh - Hòa thử 17 ( 1696) đời vua
Hi.Tôn vào tháng 07 năm đó. Sách Cương -mục ghi như sau :
khi nhà Thanh chinh phục Trung - Quốc , tất cả mọi người Trung
Hoa đều phải cắt tóc , mặc áo ngắn và theo có tục Mãn - Thanh
đến mức mà bao nhiêu thuần phong mỹ tục của thời Tống và
thời Minh đều biến mất. Thương nhân từ Bắc phương thường
cũng như ngôn ngữ và phục sức . Thương nhân Bắc phương
không được phép ra vào kinh - đồ tự do , ngoại trừ có liên lạc
thân -thích . Người trong xử (người Việt ) không được phép bắt
chước ngôn ngữ và y phục ngoại nhân . Kẻ bất tuân sẽ bị
trứng tri . »
154 THẢO CÓ TẬP SÀI
và giao dịch với ngoại quốc ( 1 ) Đương nhiên việc này khiến
những hoạt động của Hoa Kiều gia tăng hơn nữa – chỉ dụ của
nhà vua ban hành , theo Cương Mục , vào đúng lúc này , và
số lớn thương nhân Trung Hoa đến lập nghiệp ở Việt Nam
và đề đối phó với tình thể nhà vua phải ban hành chỉ dụ
trên - một lần nữa .
những chi tiết về việc này được ghi lại như sau :
« Việc giới hạn đặt ra cho tất cả các mỏ ở các trấn , cho
tất cả các mỏ như vàng , bạc , đồng và thiếc , phần lớn người
khai mỏ tuyền công nhân người Thanh đề khai mỏ . Số công
nhận mỗi ngày một tăng , cho nên nhà cầm quyền sợ rằng họ
có thể nổi loạn . Vì thế một chỉ dụ đã được ban hành. Từ đó
về sau người khai thác những mỏ lớn nhất có thể dùng 300
() Thanh Thực Lục , đoạn 4 tháng 4 năm thứ 24 Khang Hi (1683 ) . Tuy
nhiên sau đó từ năm thứ 20 Khang Hi (1717 ) tới năm thứ 9 Ung - chính (Yung
chêng ) (1727) việc này lại bị cấm , và sự cấm đoán này thực sự có hiệu lực ngay
cả sau năm thứ 23 triều Còn Long (Ch’ien -lung) ( 78).
CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI DÂN...
155
công nhân Trung - Hoa , cỡ trung 200 và cỡ nhỏ 100 người. Không
được phép dùng số công nhân lớn hơn. Đó là giới hạn đầu tiên
về mỏ được đặt ra » ,
Tây Bắc của đồng bằng Bắc - phần . Thời cận -đại , người khai-thác
những mỏ này phần lớn vẫn là Hoa - Kiều . Vì thế, rất nhiều
Tuy vậy, dường như những điều- lệ trên không được thi
hành và người ta ghi nhận nhiều Hoa- Kiều đã vi phạm điều
cấm và cư ngụ chung với người Việt , và có một số đã mở
tiệm ở nhiều nơi trong nước. Vào khoảng giữa đời Cảnh -Hưng
nhân Trung - Hoa tập trung tại đây và đã xảy ra một vụ nồi
loạn lớn . Sử có đề cập tới rằng họ Trịnh phải gửi tới một
đạo quân đề dẹp họ trong năm thứ 28 đời Cảnh -Hưng ( 1767 )
về sau (2).
(s ) Cương mục Chính biên , quyền 42 , đoạn tháng 7, năm thứ 35 Cảnh
Hưng (1764 ) . Đại Việt Sử ký tục biên đoạn tháng 5, năm thứ 3a Tân Mão (1775)
và đoạn tháng 4 , năm thứ 33 Nhâm dần . (1772 )
(a ) Lịch triều hiến chương loại chí , quyền 9%, Quốc dụng chỉ. Cương mục
chính biên , cuốn ta đoạn tháng giêng , năm thứ 18 Cảnh Hưng (1767) Wada Hironori
• Bọc (silver ) nhập cảng từ Việt Nam và Miến Điện trong khoảng triều đại nhà
Thanh (Ch'ing ) – .. Shijaku , cuốn 93 , số 4 , trang 12 , tin–- 1961.
th
156 B
khăn trong việc tìm kiếm đủ sử -liệu liên quan đến Hành
phố Trung Hoa ( Phố Hiến ) ( 2) ở nơi gọi là Hiến Nam hay gọi
là phố Hiến , thuộc tỉnh Hưng - Yên ngày nay. Có vẻ như thanh .
phố này rất phồn thịnh trong thời gian này, vì trong « Hiến
Nam có cung » của tỉnh Hưng - Yên trong « Đại Nam Nhất
thống chi » , tình trạng của thành phố được mô tả như sau :
Tóm lại , họ Trịnh dùng chính -sách đàn áp như một biện
pháp đề chống lại sự gia tăng đột-ngột số Hoa- Kiều ở Việt -Nam ,
cũng phù hợp với những biện pháp cũ của triều Lê. Không
nghi ngờ gì , rằng chính sách này đã ngăn ngừa các hoạt động
của họ và giới hạn sự bành trướng. Tuy vậy , có một vài người
đã bành -trướng hoạt-động một cách đáng kể . Có lẽ là nhờ vào
ảnh-hưởng của việc cho tựdo xuất ngoại . Cũng phải lưu ý
rằng việc di- cư sang Việt- Nam có lợi cho họ rất nhiều . Chẳng
hạn 10 ngàn Hoa -Kiều tụ tập quanh mỏ bạc Đồng - Tĩnh chỉ dựa
vào yếu - tổ là họ có thể lợi dụng được khi khai thác bạc, một
qui kim lưu- hành rộng rãi ở xứ sở họ . Tương tự, một số lớn
Hoa thương cư ngụ tại Hiến -Nam có lẽ vì nơi đó thích hợp
là một nơi gặp gỡ giữa họ để giao dịch với Kẻ chợ ( Thăng
Long ) và cũng có thể lợi dụng đề buôn bán với Bồ - Đào -Nha
Năm 1558 Nguyễn . Hoàng tới Thuận -Hóa , 1570 về sau ông
bắt đầu cai trị luôn xứ Quảng -Nam . Lúc này đất đai của họ
(1) Yamamoto Tatsurò " Hanoi no kakyò ni kansuru shiryo » (sử liệu liên
quan về Hoa kiều ở Hà Nội). Nanpòshi Kenkyu I, trang 100 –- 1959.
(2) C B Maybon " Histoire moderne du Pays d'Annam, 1592-1820, * Paris
ngao , trang 59 Kin Ei Ken ; Indoshine to Nihon to no kankei (Những liên lạc giữa
Đông Dương và Nhật Bản) Tokyo , 1943 , « Về Phổ Khách ở Hưng yên , Bắc việt n
của Đông Dương thuộc Pháp », trang 199 234 .
(3) Maybon, « ibid ».
Уведь и
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DÂN ... 157
Nguyễn còn hẹp , vì thế lợi tức thu được cũng ít . Quan điểm
của họ Nguyễn là khuyến khích ngoại thương 3 gắng đề
lôi cuốn khách ngoại quốc .
cửa ngõ của Quảng Nam dưới triều chúa Nguyễn thường có các
thương thuyền ngoại quốc lui tới , và một nền ngoại thương
phồn thịnh đã diễn ra qua cảng này . Trong thị trấn có nhiều khu
ngoại kiều cư ngụ nhất là Hoa Kiều và Nhật Bản . Đè đối phó ,
các chúa Nguyễn thành lập những nơi cư ngụ tại mỗi khu vực,
và cho phép họ sống riêng trong những nơi đó sống theo luật
quốc gia họ, và phù hợp với phong tục quốc gia họ ( 1 ) Sự
phát triển của thành phố tàu ở Hội An phần lớn nhờ cách
đối xử thuận lợi của chúa Nguyễn đối với ngoại kiều .
quên một thời gian mà còn sát nhập phần đất còn lại của Chiêm
Thành vào hậu bán thế kỷ 17. Hơn nữa họ Nguyễn còn xen
lấn vào những vấn đề nội bộ của Cam Bốt thiết lập ảnh hưởng
tại xứ này và cố gắng đề Việt Nam hóa phần đất Nam Việt
( Thủy Chan Lạp ) vùng đất phía Đông Cam Bốt . Chinh các Hoa
Kiều trong dịp này đã đóng góp vào việc Việt Hóa xứ thủy
Chân Lạp và đặt nền móng cho sự bành trướng lãnh thổ. Và
chính Dương -Ngạn - Địch và Trần - Thượng- Xuyên ( tự phong
tướng và đám cướp biển lừng danh , Trịnh Thành - Công ( Chông
Chủng King ) và dòng bọn và Mạc Cin cùng con Mac thiên
Tử tại Hà- Tiền (cả 2 là Hoa Kiều sống trên đất Cam 18t ) đã
làm cho việc trên tiến triển nhiều .
Theo một sử liệu Việt - Nam , như là Gia Định thống chí
năm 1679 , Dương- ngạn- Địch và Trần - Chi- Tài -
— vào cảng Đảng
trong dẫn theo nhiều quân sĩ , chiến- thuyền và xin thần phục
Phổ (phần phía Đông • của Thủy-Chân -Lạp lúc đó còn thuộc
Cam Bốt) đề khai thác tài nguyên của vùng đó ( 1 ). Theo những
giết bởi một thủ hạ và các người còn lại do Trần - Chi- Tài chỉ
huy. Chúa Nguyễn dùng Tài và cho ông chinh phục Cam Bốt và
phát - triển nguồn lợi tại xử này. Nhận thấy rằng việc phát triển
đến một mức độ nào đó nhờ sự cố gắng của Hoa Kiều , Chúa
Nguyễn biệt phái Nguyễn - Hữu - Kính đề thay đổi chính sách
chinh phục Cam- Bốt và chiếm giữ phần phía tây của Thủy- Chân
Lạp . Theo cuộc sưu tầm mới đây , có lẽ nhà Nguyễn cho lập
Gia - Định - phủ vào năm 1700 và những cơ -sở chính quyền tại
miền này . Họ thâu thập các lưu dân ở Bố.Chinh , và phía Nam,
đem họ vào định cư tại đây và khai thác triệt đề vùng này (3 ) .
(s ) Gia Định Thông Chi, cuốn 3, Cương vực chí, Đại Nam Thực lục tiền
biên , cuốn 5, đoạn tháng giêng , năm thứ 3. Kỷ vị, vào triều vua Thái Tôn
(1679 ). v.v. Tuy nhiên, G. Aubaret trong cuốn • Histoire de la Basse-Cochinchiner
(dịch từ chữ GiaĐịnh Thông- Chí) - Paris , 1863, trang 4 , đã ghi sai làm rằng
năm 1680 -- Do đó đã có không ít sách căn cứ vào tài liệu của Pháp đó và phạm
lỗi y hệt .
(2) Chen Ching ho, op cit, trang 454, 466.
(3) Chen Ching họ ( cuộc di cư của các nghĩa quân Trịnh (Chèng ) tới
Nam Việt Nam II (The migration of the Chèng Partisans to South Vietnam II) ―
The New Asia Journal - Quyền 8 - Só a, 1968- trang 425-458 - - Lita
quan tới năm Gia Định Phủ được thiết lập , vào năm 1698 , theo Gia Định thông
chi - Cuốn 3 — và Đại Nam thực lục tiền biên , phần : Cuốn 6 ; nhưng theo ông
Cheng Ching họ thì vào năm 1700 , căn cứ vào nhiều sử liệu khác nhau ( coi bài
trên , trang 458 ).
CHÍNH-SÁCH ĐỐI VỚI DÂN... 159
Việc Việt-Nam - hóa đất Thủy - Chân Lạp , được nhắm đề biến
thành một phần của Việt-Nam , bắt đầu vào thời này .
Nguyễn cho các thương nhân nhà Thanh ngụ tại Trấn-Biên
Hoa- Kiều tự lập nên trong những vùng này . Có lẽ rằng sau
này nhà cầm quyền chấp nhận chúng như những đơn vị hành
chánh và tên của chúng được dùng cho những làng Hoa - Kiều
ở những vùng khác (2 ) . Theo Gia-Định thông- chi cho con cháu
.
« nhà Đường » ( Tảng people ) lập Thanh - Hà xã ở Biên - Hòa và
Minh Hương xã ở Gia - Định , điều này có lẽ hơi khác với điều
đã ghi trong « Thật lục tiền biên » (3) . Tuy vậy nếu so -sánh
với trường hợp Hội-An , không nhất thiết những người lập
Mặt khác, Mạc- Cửu đã di cư sang Căm bốt đầu tiên và lập
nghiệp ở Nam -Vang được giao trọng -trách trông coi việc
( 1) Đại Nam Thực lục tiền biên – phần 1 cuốn 6, đoạn tháng giêng nhuận
năm thứ a Kỷ ty ( 1689 )
(a) Liên quan tới Minh Hương Xã và Thanh Hà Xã ở Hội An , xem cuốn
« Annam no meikyò no igi oyobi meikyòsha no kigen ni tsuite » (của Jujiwara
Riichirò ). Sự quan trọng của người Minh Hương ở Việt Nam và nguồn gốc của
Minh Hương Xã , ―――― Bunka Shigaku , số 5, 1952, trang 65 , 67 – Về Hoa kiều ở
Huế, xem Chèn Ching Ho 8: • Làng Minh hương xã và phố Thanh Hà ở tỉnh Thừa
Thiên ( Trung Việt) - The New Asia Journal cuốn 4, số 1, 1959 , trang 306-308 .
(3 ) Gia Định thông chi , cuốn 3 .
Az alumin • ས་ ཡཎྜ སོ ནུཔཏྟིཾ
160 * ui
vinh Xiêm -La (Gulf of Siam ) chủng ban như Hu - Tiền và những
tỉnh khác . Tuy nhiên , cuộc nội loạn ở Cám Bốt đã không t
sợ rằng ông sẽ không giữ nội địa vị . Cho nên vào năm 1
Mạc xin thần phục chúa Nguyễn , dâng đất đai cho chu
Nguyễn cai trị . Đề bù lại , nhà Nguyễn cử Mạc làm tổng binh
( một chức quan võ cai trị địa phương ) ở trấn Hà - Tiền và cho
phép ông tiếp tục cai trị phần lãnh thổ ông đã có quyền hành
từ trước . Do đó không những Mạc - Cửu góp phần vào việc mở
mang lãnh thổ của nhà Nguyễn mà còn khiến cho dân Trung
Hoa dưới sự giám sát của ông , trở nên mỗi ngày một thịnh
vượng hơn trước ( 1 ) .
Sau cái chết của Mạc Cửu , nhà Nguyễn chỉ- định con ông
là Thiên Tử, làm Đô đốc ( một chức quan võ cai trị địa phương ,
chức vị không cao bằng tồng -binh ) của trấn Hà Tiên , và cho
phép ông này cai quản phần đất mà cha ông ta đã cầm quyền
khi xưa . Nhà Nguyễn đối xử với ông tửtế , cho ông nhiều đặc
quyền như buôn bán , đúc tiền v.v... Cảm cải lòng tốt đó , Thiên
Tử đã góp công lớn với nhà Nguyễn , biển Hà - Tiền thành một
thành trẻ chống ngoại xâm , bắt Cambốt hiến một phần lãnh
thì cho nhà Nguyễn , và đã thành công ; Ngoài ra Thiên - Tử
còn dáng cũng nhà Nguyễn những báu vật ngoại quốc và
tung ra một lực- lượng tuần cảnh dề trừng phạt những bọn
cướp biển và bắt chúng phải thần phục . ( 2)
trường hợp của Trần Thượng Xuyên , của cha con Mạc Cửu .
Một thí dụ khác về cách dùng người hữu ích được thấy ở
chúa Minh Vương (1691-1721 ) khi ngài sai vài người Trung .
Hoa đi sứ Bắc Kinh , mang văn thư và lễ vật triều cống , xin
(r) Jujiwara Riichirò " Maku Kyu Jiseki ko ». (về những công trình của Mạc
Cừu , một Hoa kiều ở Hà Tiên , Đông Dương ) Shisò , số 5,6, trang 1, xã - 1994.
(2 ) Đại Nam liệt truyện tiền biên - tiểu sử Mạc Thiên Tử , do Chen
Ching Ho - (viết về “ Hà tiên trán , hiệp - trấn Mạc thị gia phả » ) (Bulletin of the
Collège of Arts, National Taiwan University) số 7 tháng 4, 1956.
whyhe
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DÂN ... 161
nhà Thanh (Ching ) ban đất đai . Ngài còn sai những người
khúc dò la thực trạng của xứ Bắc Hà , miền này thuộc quyền
chúa Trịnh . Một thí dụ về cách đối xử hậu hỉ sau đây đáng
nhận rằng : một cách bao quát, nhà Nguyễn rất khoan dung
đối với Hoa -kiều , so với nhà Trịnh , và trong vài trường hợp ,
triều đại này đối xử với người Trung -Hoa rất nhân hậu . Lý
do của sự tử tế này có thể là : vì đất đai của họ Nguyễn
còn thưa dân so với họ Trịnh , nên họ cần triệt đề lợi
dụng số Hoa - kiều đông đảo đang cư ngụ trên lãnh thổ của
mình , đề có thể chống lại nhà Trịnh và đề mở mang những
tài nguyên ở phương Nam . Hơn nữa vì đất đai họ Nguyễn
không tiếp giáp với Trung- Hoa như đất họ Trịnh , nhà
Nguyễn không phải canh chừng kỹ lưỡng Trung Quốc và
sợ những Hoa - kiều trên lãnh thò của mình . Họ Nguyễn , do
đó lợi dụng hoàn cảnh của những người Trung.Hoa trên lãnh
thô của mình , dùng họ đề tạo liên lạc ngoại giao với Trung
Quốc và dò xét thực trạng lãnh thỗ họ Trịnh . Điều này thực
đáng kể như một chỉ dẫn về sự liên lạc chặt chẽ giữa nhà
Nguyễn và dân Trung- Hoa trên lãnh thổ này , trong thời đó .
sách của nhà Nguyễn đề tạo nên một cộng đồng Trung- Hoa
vững chắc ở nhiều nơi trên đất Việt và củng cố nền tảng cho
khai sinh của nhiều thành phố Tầu như là Nông Nại đai nhố và
104
Trung Hoa ( 2) Khi nhà Nguyễn lo lũng tìm biện pháp đáp
ứng sự thiếu hụt tiền đồng (copper ) đè lưu hành , thì một ngưn
Trung Hoa tên là Hoàng đã đưa ra một đề nghị ngõ hầu có thể
giúp nhà Nguyễn tìm một lối thoát hiềm , bằng cách đúc tiền
kẽm (Zinc coins ) . Đó là bằng chứng cho ta thấy trong lãnh
VI. CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN ĐỐI VỚI HOA KIỀU
đã hoàn toàn thay đổi tinh-hình chính -trị Việt-Nam và tạo nên
sự xuất hiện của một chính quyền độc nhất triều đại nhà
Nguyễn . Tuy nhiên , các Hoa kiều ở Việt Nam đã phải trải qua
nhiều thử thách khắt khe trong thời này . Những biến cố điền
hình nhất về sự chịu đựng của Hoa kiều tại đất Việt trong
thời này là các cuộc chiến liên tiếp đã tàn phá thành phố Hội .
An , một thành-phố Tàu rất thịnh vượng , và cuộc tàn sát hơn
10 ngàn người Trung Hoa ở Chợ lớn bởi tay nhà Tây Sơn .
độ Tây - Sơn đối với Hoa -kiều ở Việt- Nam trong khoảng thời
thời này. Nhưng theo những người Trung Hoa ở Saigon thì nhiều
Hoa kiều đã gia nhập quân đội chúa Nguyễn , điều này có lẽ
đã khiến nhà Tây Sơn có ác cảm với họ . Do đó có lẽ vì vậy
() Gia Định Thống Chi , cuốn 6, Thành trả chi, Chen Chính họ (Ghi chủ
d
về Thành trị chỉ của Gia Định thông chí, do Trịnh Hoài Đức chọn — Journal of
the South Sees Society - Cuốn ra , Số g G 1956.
() Đại Nam thực lục tiền biên - Cuốn ra , đoạn tháng 11 năm thứ 10 At
vị , triều vua Duệ Tôn (1725 )
(3 ) Đại Nam thực lục chính biên , phần 1, cuốn 1, đoạn tháng 4 năm thứ 3
- Cuốn 1,
nhâm dần , triều Thể Tô (2782 ) Gia Định Thông chỉ
"
có thể đoán rằng khuynh hướng quốc gia của nhà Tây Sơn đã
khiến họ chấp nhận một chính sách hà khắc như vậy với người
Trung Hoa .
nhưng tới năm 1780. Nguyễn phúc Anh , một nhân vật sống
sót của họ này đã lên ngôi và khởi sự phục hưng . Sau khi lưu
lạc nhiều nơi trên đất nước, ngoài lập đại bản doanh ở Saigon
năm 1788 và bắt đầu 1 cuộc chiến có kế hoạch toàn diện đề
chống lại nhà Tây Sơn , mong lật đồ chế độ này. Nguyễn Phúc
Ảnh trọng đãi các sĩ quan Pháp và các người ngoại quốc tình
nguyện giúp ngài và cố dùng người Trung Hoa đang sống trong
lãnh thổ của mình một cách hữu hiệu nhất.
Theo Đại Nam thật lục chính biên (từ đây gọi là Thật
lục chính biên ) thì ngay sau khi tới Saigon năm 1788 , Nguyễn
Phúc Anh đã ra lệnh cho ghi tên những người Đường ( Táng
người Trung Hoa ở Việt Nam phải đóng thuế và phục vụ cho
quốc gia với tư cách một người lính hoặc một người dân ( 1 ).
Trung Hoa mới lập nghiệp ở Việt Nam và tên tuổi chưa được
ghi trong sở danh bộ , trong khi đó những người Đường cũ có
thề là những người Trung Hoa đã ghi tên vào số danh bộ của
Minh Hương và Thanh Hà . Tuy nhiên trong đoạn văn nói về
tháng 5, năm thứ 12 Tân Hợi , khoảng triều vua Thế Tô (Nguyễn
Phúc- Anh ) trong Thật lục chính biên, trong đoạn đảng lẽ có
những chữ a những người Đường cũ và mới », thì đã được
thay thế bởi những chữ khác « người Đường » và « Minh
hình như đã ghi tên vào số dân số dưới tên xã Minh Hương
quê quán và ghi vào số bộ trong năm 1790 và sau đó , điều này
có thể coi như nguồn gốc của hệ- thống « bang » (tồ hợp gim
Như đã thấy ở Đại Nam thật lục trên kia, mỗi người
Trung Hoa ở Việt Nam đều bị thử bắt buộc trở thành một người
linh hay một người dân . Nhưng sự ép buộc gia nhập quân đội
đó hình như chỉ là một bước thí nghiệm. Chế độ cưỡng bức
trạng này cũng y hệt như ở các thuộc địa Trung Hoa (3)
Tóm lại , qua cuộc nổi dậy của Tây.Sơn, chế độ Nguyễn
Phúc Ánh đã tận dụng khả-năng của người Trung Hoa , bắt
họ chiến đấu chống lại quân Tây- Sơn. Đề đền bù ; nhà Nguyễn
cho họ được tham chính , dự vào việc triều đình , buôn bán ,
đúc tiền và như vậy họ được hoạt động trên mọi lãnh vực .
Nguyễn Phúc Ánh khôi phục lại Huế, thủ phủ của tô
tiền ngài . Năm 1801 , lập ra triều Nguyễn vào năm sau đó ,
và thành công trong việc đàn áp cuộc nổi dậy của Tây Sơn .
Như vậy bờ biển phía đông của dảy đất bao bọc Trung Hoa
(r) Chữ * bang , xuất hiện lần đầu tiên trong sử liệu Việt Nam, có lẽ là
trong Đại Nam thật lục chính biên - Cuốn gì, đoạn tháng 11 , năm thứ 9 triều
Gia Long (18ro ).
(a ) Đại Nam thật lục chính biên , Cuốn 4 , đoạn tháng 4 , năm thứ 11
Canh tuất (1790 ).
(3 ) Sách trên - Cuốn 3, đoạn tháng 1, năm thứ ra Tân Hợi (1791) .
,, 。 CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DÂN ... 165
Minh Hương ; ngài cho 2 người dâng triều đình nhà Thanh
1 cái ấn và một tờ chiếu phong quốc vương chư hầu mà vua
thuyết được thuận lợi với nhà Thanh ở Bắc Kinh . Tận dụng
Hoa kiều ở Việt- Nam đề nâng cao những bang giao thân hữu
với nhà Thanh Trung -Hoa hình như đã là một chính sách có
tập quản từ chế độ nhà Nguyễn dưới triều Hậu Lê , và là một
chính sách mà những triều Nguyễn sau này vẫn phải noi theo .
Đức phụ tá . Vì thế năm 1804 , một ban phong sử của nhà
Thanh (một sứ giả tới ban trên nguyên tắc đất cho chư hầu ),
tới Việt- Nam và những liên lạc ngoại giao giữa 2 nước,
đặt căn bản trên sự bảo trợ của nhà Thanh được thiết lập .
thành với nhà Thanh trong bất cứ trường hợp nào và đều đặn
giữ lệ triều cống. Họ làm như vậy cốt mục đích chiếm được ăn
( ) Sách trên - Cuốn 17 , đoạn tháng 5, năm thứ nhất Gia Long ( 8oa ).
(2) Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập . - cuốn 11 , tiêu sử của Trịnh
Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh .
saba reko *** A
166 xudo (
sủng của Thanh triều . Đề bảo đảm cho sự thần phục này , nhân
Tuy vậy triều đình cũng không thề xao lãng việc canh phòng
và thường xuyên bắt các người Trung -Hoa ở Việt- Nam phải
dò xét tình hình nhà Thanh Trung -Hoa . ( 1 ) Trong khi các
triều đại quá khứ của Việt-Nam có một chính sách hà khắc với
Trung - Quốc , thì triều Nguyễn cũng như các chúa Nguyễn trước
thu nhận được những tin tức về quốc gia này bởi đã liên kết
với các Hoa kiều và đã triệt để lợi dụng hoàn cảnh ấy.
Cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn đã gây thiệt hại nặng nề tới
người Trung Hoa ở Việt Nam nhưng sau này họ dần dần lấy
lại được thế lực . Trong rất nhiều thi dụ , ta thấy đáng chú ý
nhất là sự bành trưởng của Hoa Kiều ở miền Gia-Định trong
thời Minh Mạng (1820-40 ) . Một thống kê chép viết vào năm
thứ 10 củng thời ( 1819) nói rằng mỗi năm có hàng ngàn người
quả của sự đối đãi rộng lượng của triều đại nhà Nguyễn trong
những ngày này . Ngoài ra nhà Nguyễn còn cho phép các Hoa
kiều được tự do trong các hoạt động kinh tế ở xứ sở này , cho
họ tự do xuất , nhập, du lịch và cư ngụ ; họ còn được hậu đãi
hơn chính dân Việt -Nam về vấn đề thuế mà và tạp dịch . Điềm
này chứng -minh rằng triều Nguyễn đã nhận thức được sự đóng
góp lớn lao của Hoa-kiều vào việc mở mang đất đai chẳng
(s ) Đại Nam thật lục chính biên - Phần a , cuốn 85 , đoạn tháng 10 năm
thứ 13 Minh Mạng ( 183a ) - Phần a , cuốn 327, đoạn tháng 7 năm thứ a Minh
Mạng ( 84o ).
tháng 8 , năm thứ so Minh Mạng (i8a9 ) .
(a) Sách trên - Cuốn 6s, đoạn
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DÂN ... 167
Tuy nhiên một số người mới tới đã được miễn thuế mặc
dù họ rất giàu và càng ngày người Trung Hoa cảng nhúng vào
những việc buôn bất hợp pháp và bán gạo, thuốc phiện là
những thử bị cấm đoán . Sự việc này đã làm tồn hại đời sống
quốc gia rất nhiều và cũng làm suy đồi đạo lý chung . Vấn đề
lại càng rối ren hơn khi những Hoa kiều khác đem các đứa
con lai của họ trở về Trung -quốc , những đứa con ( được sinh
ra bởi những người đàn bà Việt mà họ đã cưới xin) ( 1 ) mà
Hoa-kiều ngay cả những người mới tới , phải đóng thuế tùy
theo khả năng của họ . Và đề làm thăng bằng các gánh nặng
Hoa kiều , gánh nặng này thay đổi tùy theo nơi cư trú , nhà vua
quyết định đánh thuế thân nhất định hàng năm vào những
người Trung Hoa, cả Minh Hương lẫn những người không
dụ , nhưng ngài không thành công. Tuy vậy triều đại nhà
Nguyễn xét thấy thực trạng sự việc , bèn quyết định ra một
đạo luật liên quan tới việc nhập cảnh của người Trung Hoa .
Lúc đó vào năm thứ 10 triều Minh - Mạng (1829 ). Theo sắc luật
này thì người Thủ-lãnh Minh -Hương hay người trưởng « bang a
cần phải chứng thực hạnh - kiềm của người mới tới trước khi
chấp nhận cho vào xử ; và tên của người đó được ghi vào số
(1) Đại Nam thật lực chính biên - Phần II . Cuốn 62, đoạn tháng xo , năm
thử so Minh Mạng ( 829 ).
(a ) Sách trên - Cuốn gì , đoạn tháng 7 , năm thứ 7 Minh Mạng ( 8a6 ).
Jujiwara Kiichirò Annan Genchò chika no meikyò no mondai » ( Minh Hương
dưới triều Nguyễn Annam ) Tùyòshi Kenkyu – Cuốn 11, số 2 , trang 3x, 37.
Spende of 3. vojs Best"te vang 'na
168 #HÅ C
danh bộ với tư cách một người Trung- lon , sau đó họ phải chạ
thuế thân ( 1 ).
Ngoài ra , đối với việc người Trung Hoa định đem các đơn
con lai của họ về quê quán họ , triều Nguyễn cho ra một đao
không được mang vợ con trở về quê hương và bắt vợ con cắt
tóc buộc đuôi xam theo kiểu Tầu. Cũng theo đạo dụ đó , Minh
Nguyễn nhưng vào những ngày này , một tổ chức cùng loại gọi
là Thanh-Hà xã cũng đã hiện hữu . Có lẽ do chế độ Nguyễn -Phúc
Ảnh ở Gia - Định mà những tổ chức này đã kết hợp lại dưới
tên Minh -Hương xã . Nhưng hình như nhà Nguyễn sau khi đã
chiếm và sát nhập Bắc Hà (miền đất ở phía bắc sông Linh
Giang ) vào năm 1802 , quyết định đặt tên cho tất cả các làng
Trung Hoa đã hiện hữu trong cùng một miền từ trước thời
nào nói rằng có những biến cố như vậy xảy ra vào năm 1827
hay 1835. Nhưng trong « Đại Nam hội điền sự lệ » , ta tìm thấy
những hàng sau :
« Vào năm thứ hai Thiệu Trị , triều đình sau khi tham
khảo ý kiến , đã chấp thuận điều sau : « nếu có một người nhà
Thanh , Trung Hoa có ý định lập nghiệp ở bất cử phần đất nào
trên xứ sở, tên người đó sẽ được ghi trong số dân số của 1 abang
và người đó phải đóng thuế theo luật định . Không một đứa con
hoặc cháu nào của họ được phép kết tóc đuôi sam . Khi 1 đứa
trẻ tới 18 tuổi, người trưởng bang của nó phải lập tức báo cáo
sự kiện đó với một viên chức chính quyền . Tên đứa trẻ đó sẽ
theo tục lệ Minh Hương và tên nó sẽ không được phép ghi vào
sở những người nhà Thanh Trung -Hoa như tên cha hoặc ông
bang (những người hơn 18 tuổi) dĩ nhiên sẽ phải lập tức ghi tên
vào sổ bộ của Minh Hương xã. Tuy nhiên , nếu trong một miền
chỉ có những bang cho người Thanh Trung -Hoa và không có
Minh Hương xã thì con cháu người Trung Hoa thuộc về một
bang , nếu hơn năm người trong số đó ghi tên vào sở dinh
(bộ nội vụ của Việt-Nam vào thời đó ) , sau theo luật lệ, những
người này sẽ phải đóng thuế » ( 1 ).
Theo đoạn văn trên , ta thấy rằng một xã Minh Hương đặc
những người khác cùng giữ một lập luận rằng xã này đã được
tạo dựng hoàn tất vào năm 1842 (2). Tuy nhiên như ta đã
thấy trong đoạn văn trích - dẫn trên kia thì không phải có một
xã Minh Hương khác đã nhập vào xã Minh.Hương có sẵn mà
thực ra đó là xã cũ được cải tỏ lại . Điều này có thể coi như một
bước gây sức mạnh cho sự kiềm soát những người lai được
sinh ra .
Ở Việt Nam ngày nay , một đứa trẻ do một người Trung
( t ) Đại Nam hội điền sự lệ, cuốn 44 , đoạn Thanh nhân trong Hộ bộ . Tuy
nhiên người ta không tìm thấy bút tích tương tự như vậy trong Đại Nam thật lục.
(2 ) Dù không có đoạn văn nào liên quan tới vấn đề này trong đoạn nói
về năm thứ hai Thiệu Trị của cuốn Đại Nam thật lục : nhưng trong đoạn tháng
4, năm thứ 3 Thiệu Trị của cùng cuốn sách đó ( Chánh biên , đoạn 3 cuốn 30 ) người
ta tìm thấy đoạn nói về sự hiện hữu của một hệ thống Minh Hương xã mới như
vậy , như đã phê bình trong Đại Nam hội điền sự lệ . Theo đoạn văn này , có một
có đông người Trung Hoa mới di cư tới Việt Nam, và nhập vào Minh Hương xã
hoặc vẫn ghi là di dân Trung Hoa trong số kiêm tra dân số của a bang ” , mặc dù
họ là những người lai . Điều này có lẽ đã chứng tỏ được sự kiện là trong vài vùng ,
hệ thống mới đãkhông được chấp nhận hoàn toàn vì chưa đủ thì giờ đề bắt buộc
mọi người tuân theo .
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DÂN ... 171
.Nhưng nếu một phần tử của 1 xã Minh -Hương mới trở thành
một kẻ lang thang hư hỏng vì quá nghèo , hay không thề nộp
thuế được thì kẻ đó sẽ bị gạch tên trong số , và sẽ được đối xử
như một người Việt -Nam. Lúc đó hắn sẽ không còn là một
người Minh Hương nữa . Với trường hợp như vậy, ta có thể
giải thích rằng Minh-Hương là một người có tên được ghi trong
số của một xã Minh –Hương ( 1 ).
Tóm lại theo chính sách của các chúa Nguyễn và nhận thấy
sự đóng góp của người Trung Hoa vào việc mở mang bờ cõi
nên triều đại nhà Nguyễn , ngay từ khi mới tạo lập , đã đối đãi
với các Hoa kiều rất trọng -hậu . Do đỏ dân số Hoa kiều tăng lên
rất mau , không những thế, họ còn rất thịnh vượng , nhưng
những tệ hại cũng mỗi ngày một phát triển . Bởi thế , triều
Theo những tài liệu lịch sử mà tôi góp nhặt được thì những
biện pháp cấp thời đề đối phó với sự khó khăn đã hầu như
không có ảnh hưởng sâu đậm tới số phận Hoa kiều ở Việt -Nam.
Nhưng ta có thể nói chắc chắn và hữu lý rằng những cuộc rối
loạn liên tiếp từ giữa thời Nguyễn trở đi đã có 1 hậu - quả trầm
(1) A. Schreiner, trang 68. Juijwara Riichirò (The significance of Minh Hương
in Annam and the origin of Minh Hương xã) (Sự quan trọng của người Minh
Hương tại Việt Nam và nguồn gốc của Minh Hương xã) trang 69-70 . Theo ông
G. Aubaret , chữ Minh Hương ,chỉ nên áp dụng cho tầng lớp quý phải dòng dõi
của những người Tr ng Hoa di cư và đàn bà Việt Nam . (G. Aubaret, op . citip.to ).
(2 ) Sau triều Hoàng Đế Thiệu Trị , người Minh Hương và Hoa Kiều ở
Việt Nam thường được miễn thuế thân tại nhiều vùng . Điều này chứng tỏ chính
sách ưu đãi của triều Nguyễn đối với di dân Trung Hoa , và đồng thời cũng cho
thấy tình trạng nghèo nàn của di dân Trung Hoa thời này . ( Theo Đại Nam thật
lục chính biên - đoạn 3 và 4 .
172 KHẢO CÒ TẬP SAN
Chúng ta vừa duyệt qua những chính sách khác nhau đối
với Hoa kiều tại Việt-Nam của các triều đại và chính thề chính
tại Việt-Nam , cho tới khi quốc gia này bị đặt dưới quyền thống
trị của người Pháp . Chủ trọng nhất vào các triều Hậu Lê , chế
theo gương đó . Tuy nhiên dưới chính thề nhà Nguyễn , vì đang
phải chiến đấu với họ Trịnh , đã chấp nhận một chính sách
hoàn toàn ưu - đãi Hoa kiều , và triều Nguyễn sau này đã theo
sách- lược đỏ.
giành được độc lập từ tay người Trung Hoa , và ngay sau đó .
nước Việt đã là một mồi ngon khiến Trung -Hoa luôn luôn tìm
cách xâm lăng , vì vậy đất nước này luôn luôn bị đe dọa .
Không cần phải nói ta cũng biết rằng Hoa kiều ở Việt Nam là
lưu trú ở Việt -Nam một thời gian như những thương gia Trung
Quốc , những người tới thăm thân quyền , dĩ nhiên đều bị nhà
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DÂN ... 173
cầm quyền theo dõi , đề phòng họ sẽ tiết lộ bi - mật quốc gia với
kẻ thù .
khi có độc lập tới thời Trịnh đã chấp nhận một chính sách gần
như áp bức với các Hoa kiều tại Việt-Nam. Nhưng các chúa
Nguyễn khác hẳn , đã mở rộng vòng tay với họ vì thấy rằng
không cần thiết phải đề phòng nghiêm ngặt như các chính thề
trên đã làm vì rằng Trung Hoa không trực tiếp giáp giới với
lãnh thổ nhà Nguyễn , do đó không còn là một đe dọa trực tiếp .
Rồi tới triều đại nhà Nguyễn (bắt đầu từ Gia -Long ) trái lại ,
đất đai kề cận ngay Trung- Quốc , không nhiều thì ít , bị quốc
khéo léo dàn xếp để tránh áp lực của người Trung Hoa bằng
cách khẩn thiết xin được giao . hảo với Trung Quốc và tìm cách
dùng Hoa kiều ở Việt Nam một cách hữu hiệu nhất , triều đình
đề có biển những kiến thức của họ vào việc công ích . Nhưng tới
thời Lê , khi việc làm đó không cần nữa , nhà cầm quyền đã
theo một chính sách áp bức hoàn toàn . Khi các chúa Nguyễn
nắm quyền , một chính sách ưu đãi toàn vẹn đã được chấp
nhận ở lãnh thồ của dòng họ này vì sự hiếm hoi người bản
xử nên chính quyền cần triệt để khai thác Hoa kiều đề nâng
cao nền ngoại thương , đề mở mang đất đai và nhiều việc khác.
Nói tóm lại, người Trung -Hoa ở Việt-Nam đã khiến dân tộc
này phải đẻ mắt trông chừng, nhưng ngược lại cũng đã giúp
ích rất nhiều . Chắc chắn về phương diện nội trị và giao thiệp
với Trung Quốc , nhà Lê và Trịnh đã áp - dụng một chính –sách
**** 1 *
174 KHẢO CŨ TẬP 94
độc tài và cần một đề phòng mọi bất trắc . Nhưng tới các chúa
Nguyễn và triều Nguyễn thì họ có một chính sách ưu đãi hơn
và họ chú trọng tới những lợi ích mà người Trung Hoa có thể
đem tới được . Còn những triều đại trước có một chính -sách hai
mặt cũng vì tình thế lúc đó bắt buộc phải như vậy .
Thực là rõ ràng rằng chính sách của dân bản xử đối với
Hoa kiều đã ảnh hưởng tới số mệnh của họ . Xét từ những điều
chúng ta đã biết , điều này đúng với trường hợp Hoa kiều tại
Việt Nam . Nhưng với trường hợp Hoa kiều sống dưới chế độ
nhà Trịnh và hậu bản của thời Hậu Lê thì lại khác , ta thấy một
thí dụ nồi bật là người Trung Hoa đã được lợi rất nhiều dù
dưới sự áp bức. Điều này chứng tỏ rằng còn nhiều vấn đề
quan trọng có liên quan mật thiết tới số phận người Trung
Hoa . Ngoài chính sách của một quốc gia đối với Hoa kiều
sống trong nước họ .
Trung Quốc đe dọa nên các triều đại Việt kề trên đã áp dụng
những chính sách như vậy . Ngay cả các chúa Nguyễn và triều
Nguyễn dù có một chính sách ưu đãi với Hoa kiều cũng luôn
luôn phải bận tâm về những liên lạc với Trung - Quốc . Họ dùng
Hoa kiều trong lãnh vực của những người này , đề dò xét thực
Việt quá bé nhỏ , lại kề cận bên Trung Hoa quả to lớn .
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DÂN... 175
RÉSUMÉ :
Đúng 345 năm trước đây , quân miền Bắc đã vào xâm
phạm miền Nam cũng như ngày nay quân đội Cộng -sản đã
Thời ấy, quân của Chúa Trịnh hùng hậu hơn của
Chúa Nguyễn rất nhiều , nhưng phải nếm nhiều thất bại vì
vì gặp phải một danh tưởng của Chúa Nguyễn thời ấy được
người đời ca ngợi là một Không -Minh , một Lưu-Bả-Ôn và
thành trì của Chúa Nguyễn , đã từng đánh đuôi quân của
cao sâu với lòng từ thiện hiểu sinh của vị danh tưởng ấy sẽ
được trình bày tiếp theo đây đề quý độc giả suy xét lời ca
TẠ.QUANG - PHÁT
tog
NGUYỄN HỮU DẬT 177
được bỏ chức văn quan vì tài văn -học , kế đó tàu đối nghịch ý
Năm Bính dần ( 1626 ) nhằm năm Chúa Sãi Hy - tông thứ
14 (tức là 8 năm sau) Nguyễn -Hữu -Dạt được vào làm chức
•
quan văn tham cơ vụ luyện đạt chính thẻ, được Chúa yêu.
Năm Đinh - mão ( 1627 ) nhằm năm Chúa Hy -tông thứ 15,
mùa xuân, Trịnh - Tráng kéo quân đến xâm phạm miền Nam .
Nguyễn -Hữu -Dật lập công đã lắm lần phả quân Trịnh ,
lại tung bọn giản điệp phao tin nói : « Trịnh Gia Trịnh Nhạc
hai anh em mưu làm loạn .
Năm Tân -vị ( 1631 ) nhằm năm Chúa Hy - tông thử 19, mùa
thu , Nguyễn - Hữu - Dật và Đào- Duy- Từ cùng xây đắp lũy Nhật - lệ .
Đồng thời tiết nữa thì
mùa đông . Trịnh Tráng lại đem quân thủy bộ đến xâm phạm ,
đến thẳng cửa biên Nhật- lệ .
Chúa Nguyễn sai Nguyễn -Hữu -Dật đem binh chống ngăn
quân Trịnh , đắp lũy Trường -sa đề bảo vệ Chính lũy.
Hơn 10 ngày Nguyễn - Hữu - Dật thấy quân Trịnh hơi mệt
mỏi bèn đem quân đột xuất đánh to một trận phá được quân
Tưởng Trịnh Khắc- Liệt lại sai người xin hàng phục Chúa
Thượng Thần -tông Nguyễn- Phúc-Lan.
Nguyễn -Hữu - Dật nói : « Khắc- Liệt phản bội tiều nhân ,
Trịnh- Tráng tuy dùng mà trong lòng thật nghi ngờ , xin làm
một bức thư phản - giản đưa cho họ Trịnh , nói Khắc Liệt đã
hẹn ước với bên ta giả làm bất hòa , hễ quân ta đánh úp thì
giả thua chạy, dụ Trịnh.Tráng đến mà giết, đề chọc giận Trịnh
Tráng . Ta nhân đỏ sai quân lén qua sông Linh - giang xin Khắc
Liệt hội-nghị đề thi - hành lời hẹn trước , rồi thừa lúc hắn không
phòng - bị mà đánh úp , nếu Khắc -Liệt không bị ta bắt , ắt cũng
bị họ Trịnh giết đi .
Bố chính . Khi quân Trịnh đến đấy thì Khắc -Liệt đã bị tưởng
Trịnh- Kiều cho rằng Khắc.Liệt giả thua bèn bắt Khắc -Liệt
Năm Mậu -tỷ ( 1648 ) nhằm năm Chúa Thượng Thần - tông
thử 13, mùa xuân , họ Trịnh sai tưởng là Trịnh -Đào cất đại
quân xâm phạm miền Nam , thủy quân đến đóng ở Vũ -xả.
Chúa Thượng sai Thế tử tiết chế các doanh , chia đường
tiến dánh .
Nguyễn -Hữu :Dạt cùng Tôn -thất– Lộc lãnh bộ binh đi tiên
phong đến xã An- đại tại Quảng-bình gặp gió ngược thời mạnh .
"
Tồn - thất-Lộc muốn án binh cố thủ .
-
Nghiệm thiên -tượng này thì đó là điềm quân Nam
đại thắng , thì cố thủ làm gì ?
---
Quân Trịnh tuy đông nhưng phải ven theo núi mà đi ,
chưa biết địa hình hiềm-trở hay dễ dàng, ta cử nắm giữ chỗ
hiem -yếu thì ắt đánh bại được chúng .
Nói rồi Nguyễn - Hữu -Dật liền chỉnh -tề quân ngũ gấp tiến
lên, gặp bộ binh của Trịnh và đánh phủ được.
Quần thể của Nguyễn Hữu - Dật phẩn - chắn lên lớn lao .
Thế -tử tiếp đến , thia ban đêm sai Nguyễn Hữu - Tiến đem đội
binh voi đạp phá lũy giặc, cả phá quân Trịnh .
Năm Mậu.tỷ ( 1648) nhằm năm đầu đời Chúa Hiền Thái
tông Hiếu -triết hoàng -đế , Chúa thăng Nguyễn- Hữu- Dật làm
Cai-cơ lãnh chức Kỷ-lục Bố chính .
Năm Canh- dần ( 1650 ) nhằm năm Chúa Hiền thứ 3 , mùa
xuân , Nguyễn - Hữu - Dật thường ra lịnh cho các tướng sĩ mặc
quần áo của người Bắc hà , mang cờ xí của quân Trịnh , mưu
làm rối loạn quân Trịnh , lại làm thư trả hàng đưa sang quân
Trịnh , ước làm nội- ửng , chưa kịp tỏ bày cho Chúa Hiền rõ , thì
Tôn -thất- Tráng có mối hiềm khích với Nguyễn -Hữu -Dật, bèn
nhận đó giảm pha Nguyễn -Hữu -Đạt.
Nguyễn-Hữu- Dật bèn làm tờ tấu kề sách Anh liệt chi đầu
đời Minh chép truyện vợ của Hoa-Van họ Cáo (Hoa - Vân chưởi
quân giặc mà chết, vợ là nàng họ Cao cũng vì nghĩa mà chết
theo ) đề làm sáng tỏ ý chí của mình , nhờ viên giữ ngục dâng lên.
Chùa Hiền xem tờ tấu ấy , tha cho Nguyễn - Hữu -Dật, lại
cho Nguyễn - Hữu-Dật làm chức văn quan và yêu kính đối đãi
như xưa .
Năm Ất- vị (1655 ) nhằm năm Chúa Hiền thử 8,mùa xuân ,
tướng Trịnh là Phạm - Tất.Đồng đem binh vượt sông xam -phạm
miền Nam.
nhân vì tên Nguyễn -Hữu -Dạt ứng vào bài thơ trong mộng ( 1 ),
(a ) Chúa Hiền muốn đuôi quân Trịnh , mong được bậc hiền tài đề giao phó
việc biên thủy . Một hôm Chúa nằm mộng thấy thânnhân cho một bài thơ :
H
nên càng thân tín dùng Nguyễn.Hữu Dật hơn nữa , mới sai
-
Gần đây luôn mấy năm phải dùng binh , bên ta chưa
từng độ quân ra Bắc mà đánh . Nay thần xin chia quân ra làm
ba đạo.
先 結 人 心 順
後 苑 德 化 13
枝葉 堪 摧 落
根本 也 迎接
DỊCH NGHĨA
DỊCH THƠ :
toàn thắng .
-
– Xem lời diệu luận của khanh , dẫu những mưu thần
đời xưa cũng không hơn được .
Hữu -Dật lại xin ở những cửa biền đất Quảng -bình đặt
những dài hỏa -hiệu đề việc thông báo tin tức ở biên cảnh
được nhanh , và sửa sang kho vựa ở Trường -dục , chở thóc
đến chứa trữ , cùng sai tưởng sĩ các doanh ở Quảng -binh và
Bố -chính phải chỉnh-bị quân -nhu đợi ngày trưng phát .
Chúa Hiền đều nghe theo, trao cho Hữu -Dạt chức Đốc.
chiến đề cùng Tiết - chế Nguyễn -Hữu -Tiến đem quân thủy bộ
qua sông Linh giang tiến đánh . Quân Nam đi đến đâu đều
Năm Bính thân ( 1656) nhằm năm Chúa Hiền thử 9 , mùa
hạ, xa giả Chúa Hiền đến Quảng -bình , dừng ở An- trạch , Hữu
Dật đến bái yết ở hành tại .
Chúa Hiền hỏi về việc binh . Hữu -Dật tâu đối rất tiêm
tất , nhân đỏ tàu thêm rằng :
―
— Hai năm nay dùng binh mới dẹp yên được bảy huyện
ở Nghệ -an . Được bảy huyện ấy rất khó mà sở phi rất lớn . Nay
tình thế chưa có thể thừa cơ , xin ở bờ phía nam sông Lam .
giang dựng lũy mà phòng giữ đề chờ cơ -hội .
Vả lại dụng binh trước hết phải luận tưởng. Nay người
cầm binh phần nhiều là thân thích và bạnbè cũ của Chúa
•
Thượng, có kẻ không quen kỷ-luật, tiến thoái trái ngược,
cũng có kẻ thả quân đi cướp khá đề làm mất lòng trông đợi
1
NGUYỄN HỮU - DẬT 183
của dân . Những điều đó đều là không phải đường lối đề toàn
thắng. 1
Như thế thì dụng đúng người tài mà đánh giặc thì không
bao giờ không thẳng .
Chúa Hiền cho là phải , ban cho vàng bạc và bảo kiếm
lại sai trở về trong quân .
Nguyễn -Hữu Dật biết được mưu kế ấy, liền mật bảo
cho Tống - Hữu- Đại bày trận mà đợi . Thế rồi quân Trịnh đồ
bộ lên bờ chưa được mấy dặm thì gặp quân của Tống Hữu
Đại cùng đánh nhau .
phục binh chợt nổi lên , quân Trịnh chạy tan vỡ , quân ta đuổi
theo đến bờ sông mới trở về.
Nghe tin thắng trận, Chúa Hiền thưởng các tướng vàng
lụa có khác nhau .
184 KHẢO CÔ TẬP SAN
họ) đòn ở lũy Đồng hôn . Đất này âm thấp sợ vào mùa thu
nước lụt sẽ bị quân Nguyễn đánh úp, bàn nghị dời về đồn ở
dưới núi Thô sơn .
Điệp - viên báo cho Nguyễn -Hữu -Dật biết. Nguyễn -Hữu
Dật nói với Nguyễn - Hữu - Tiến rằng :
qua chỗ tinh thứ sao Bắc-đầu , mây trắng che ở cung Chấn ,
Nguyễn - Hữu -Dật dẫn binh đánh thẳng vào lũy Đồng
hôn , thừa nước lụt công phá . Thắng - Nham lên núi Thô sơn
chạy trốn . Quân ta thu được khi-giới rất nhiều.
Nguyễn -Hữu Tiến vui mừng nói với Nguyễn Hữu Dật
rằng :
-
Ông có thể gọi là thần toán.
Nhờ anh linh của Chúa thượng và sức của các đạo
quân , chở Hữu - Dạt sao làm được như thế !
mùa thu. Nguyễn - Hữu-Dật mưu tinh quấy rối quân Trịnh ,
bèn chia binh thay nhau tiến ra mấy địa phương Đông thành ,
Hưng -nguyên và Nam- đường.
lãnh binh vào giữ thay. Vân - Khả là người tham bạo, mình có
- Hôm qua tôi xem thiên văn thấy mây đen che ở sao
Khôi , ngày 11 là Mậu-thin tức là ngày lục long (sáu con rồng
ắt có mưa lụt , mình nên thừa lúc nước dâng lên mà đánh
thì không bao giờ không thành công.
Nguyễn Hữu -Dạt bèn ước hẹn với Nguyễn Hữu Tiến
hội binh mà đánh.
Nguyễn -Hữu - Dật trước hết dẫn đoàn chiến thuyền thành
linh đến lũy Đồng -hôn đánh rất gấp . Quân Trịnh kinh hãi vỡ
tan . Tường Vân-Khải chạy về An - trường . Nguyễn -Hữu - Dạt cả
thắng dẫn quân về .
thu, Trịnh Tạc thấy quân đội bại luôn, rất lo buồn, mưu tính
dụ Nguyễn - Hữu.Dật , bèn sai người đem trân châu vàng khối
Khi sứ giả của Chúa Trịnh đi rồi , Nguyễn -Hữu -Dật liền
đem bức thư và những món tặng biểu của Trịnh Tạc trình lên
Chùa Hiền xem , và tàu :
•
186 KHẢO CÔ TẢ : 94
משך ―
Thần thờ Chúa - thượng , ơn như cha con , nào dám có
mưu -đồ gì khác . Nay muốn tương kế tựu kế đề bắt quân giặc
ấy, chỉ sợ ỷ ấy không được minh bạch, thì tội không gì
lớn bằng .
D -
Ta vốn biết lòng trung -thành của khanh . Những món
tặng hiếu của họ Trịnh , khanh cử lấy , chở hiềm nghi giữ ý.
Tộ - Long đi , không cho bàn mưu với mình cho nên rất lấy làm
Tab.
không vừa ý.
¿nå
BO
Đại quân đi chinh -phạt, lịnh là ở Nguyên -suy , quan
Đốc chiến tự ý cho Tộ-Long đi là tại làm sao ? Huống chỉ lúc
bai trước bức mật-thư hư thực chưa rõ, lời nói của Tộ - Long sao
-
. Tôi và các tướng vàng lịnh xuất quân, chỉ ở báo quốc .
Lit Ngày trước bức mật -thứ của họ Trịnh dụ tôi , tôi đã tau bày
Len cho Chúa- thượng hay biết, chính là muốn tương kế tựu kế đề
thành đại sự. Các ông sao lại nghi-ngờ ?
NGUYỄN -HỮU -DẬT 187
―
Chúng tôi nhận ơn nặng của quốc-gia , chỉ lo đồng
tâm bảo đáp, có điều gì nghi đâu ? Nhưng lời các tướng chờ
đợi cơ- hội cũng có lý , quan Đốc chiến nên nghe theo.
Năm Canh - tý (1660 ) nhằm năm Chúa Hiền thử 13, quân
Nguyễn đòn trú lâu ngày muốn trở về, quân mới đầu hàng ở
Nghệ-an cũng có nhiều đứa trốn đi .
Nguyên -Hữu - Dật thì quyết ý muốn tiến binh , phần nhiều
không hợp với các tướng .
- Ông nói quả lời . Đạo làm tôi lấy trung ái làm đầu,
trung đề thờ vua , ai đề kết bằng hữu , hả lại có thể nghi kỵ
(s ) Quản- Trọng, người ở Dinh thượng nước Tề đời Xuân thu , tên là Di
Ngô , tự là Trọng , lúc đầu thờ Công- tử Cử , về sau thờ Tề Hoàn công , làm chức
T2- tướng , làm cho nước Tề dân giàu binh mạnh , được Tề Hoàn công tôn làm
Trọng phụ .
(a ) Nhạc Nghị, người nước Yên đời chiến quốc , có tài giỏi về quân s
làm Thượng - tướng thời Yên Chiêu vương , đánh lấy hơn 70 thành của nước Tề,
được phong Xương quốc quân
188 KHẢO CÒ TẬP SAN
Nguyễn -Hữu - Tiến lúc đầu cùng các tưởng hội binh không
Đến khi Nguyễn -Hữu - Dật nghe tiếng súng nở , sai người
chạy đi hỏi, thì Nguyễn Hữu - Tiến liền sai Nguyễn -Hữu.Dạt
tiến đánh lũy Đồng hôn .
nhau mà chế ngự quân địch ), lại sai làm cầu nồi bắc qua bờ
Trịnh - Căn nghe tin cả kinh , muốn bỏ Nghệ -an lui giữ
Thanh -hóa , được các thuộc tưởng ngăn cản mới thôi .
Chùa Hiền cho rằng mùa thu mùa đông mưa gió lạnh
lẽo âm thấp, lại quân đóng ở nơi không có địa hiềm đề có thẻ
cậy được , nhân tình đồn trú lâu ngày muốn trở về , nay nếu
dùng binh thật chưa có lợi, bèn ra lịnh cho rút quân về lũy cũ
Thế rồi Trịnh - Căn lại sai tướng Trần Công - Bách làm
Tiên - phong mưu đồ đánh Lộn -sơn , sai nhóm Hoàng -Nghĩa.Giao
thấy quân Nam từ xa đã chạy trốn . Trịnh - Căn đem hết quân.
-
Việc quân còn nghiêm trọng lại phải cứu xét đến bọn
C
làm phản , nên giết một hai đứa đề cảnh cáo bọn còn lại.
Nay chủ yếu của việc hành binh là ở nhân hòa. Lòng
người mà hòa thì đánh giặc không bao giờ không thẳng.
Nhưng phải kết chặt lòng người bằng An huệ , cảm động
lòng người bằng tín - nhiệm thì người tự thấy vui mà được dùng,
bèn giả vờ cùng Nguyễn -Hữu - Dật định ngày đánh doanh trai
của Trịnh nhưng dặn riêng các tướng ban đêm trở về châu
Nam Bố -Chinh .
Đêm ấy Nguyễn - Hữu- Dạt mặc giáp ngồi chờ, đến khi
Nguyễn- Hữu -Dật bèn gấp sai quân ca hát làm vui , nhưng
bí -mật dạy các quân hãy từ từ rút trở về .
Trịnh Căn nghe trong doanh trại của Nguyễn- Hữu -Dật
có tiếng đàn tiếng sáo , nghi ngai không dám tiến sát đến .
Nguyễn -Hữu- Dật đem toàn quân về đến Hoành -sơn , hợp binh
với Nguyễn - Hữu- Tiến , lại sai người kéo củi chà cây dương bụi
lên ở trong rừng , treo cờ trên cây đề làm kể nghi binh .
Quân Trịnh đuôi theo thấy thể nghi ngại có phục binh
bèn kéo trở về .
Năm Tân Sửu ( 1661 ) nhằm năm Chúa Hiền thử 14 , mùa
xuân , Chúa Hiền thăng Nguyễn Hữu - Dạt lên chức Chưởng-cơ ,
cho trấn giữ doanh Bố -chinh , sửa thành lũy, vỗ về quân dân ,
việc phòng- bị biên - cảnh càng kiên-có , rồi sai dời quân đồn ở
xã Phúc-lộc , dựng lũy từ biên xã An- niễu đến núi xã Chu thị,
tiếp giáp với đại lũy Động -hồi , lập pháo đài, sửa đường lộ làm
kế chống giữ.
Mùa đông năm ấy , Trịnh - Căn đến xâm -lăng miền Nam .
Nguyễn -Hữu -Dật làm kế thanh -dã ( 1 ), đem dân ở Nam Bố - chính
(1) Thanh -da , phươnglược chống quân xâmlăng , dời dân và đem hét của
cải jai- sản ở ngoài đồng ruộng vào thành cho quân xâm lăng không thì cướp Uy
máy may gì đề nuôi quân .
NGUYỄN HỮU -DẬT 191
Hơn một tháng , quân Trịnh hết lương thực . Bấy giờ
Nguyễn - Hữu - Dật mới sai Trương- Văn - Vân giả trang làm quân
Trịnh , thửa đêm hôm lén kéo ra khe Động - hồi đánh úp doanh
trại của tướng Trịnh Đào-Quang- Nhiều giết hơn một trăm quân
Trịnh . Còn các tướng thì reo hò ở trong thành đề hưởng-ửng.
Đào - Quang -Nhiều cả kinh cho là đại quân của miền Nam
up đến , phải bỏ lũy mà chạy.
Sảng bình - minh Nguyễn - Hữu - Dật dẫn quân thủy bộ cùng
tiến. Trịnh -Căn cũng bỏ doanh trại mà trốn . Quân ta đuôi đến
sông Linh - giang , thu hết voi ngựa khí- giới của quân Trịnh .
―
- Nguyễn - Hữu - Dật phá được quân đại địch thật là bậc
tướng tài , thì ta còn lo gì nữa ?
Năm Giáp - thìn ( 1663) nhằm năm Chúa Hiền thử 17,
mùa hạ , Nguyễn -Hữu Tiến nhân bịnh xin trở về , Chúa bèn cho
Nguyễn - Hữu -Dật làm Chưởng -doanh Tiết chế ở đạo Lưu - đồn .
Năm Nhâm -tỷ ( 1672) nhằm năm Chúa Hiền thử 25 , mùa
hạ , Trịnh - Căn đem binh mười vạn (100.000 ) nói là mười tám
vạn ( 180.000 ) đến xâm - lăng miền Nam. Trịnh - Tạc đem Vua
Le dẫn quân hậu-đạo tiếp -ứng .
(z ) Kỳ- giác , chia quân ra hai mặt đề tiếp ửng miền mà như nào anh định
192 "
KHACC
Thế rồi quân Trịnh tiến sát đến lũy Trấn -ninh , lũy sắp
bị phá lắm lần. Tướng trấn giữ là Trương -Phúc- Nguyên bao
tin nguy cấp.
Hoàng tử Hiệp sai người gọi Nguyễn -Hữu -Dạt đến cứu .
• Nguyễn - Hữu - Dật nói :
Chức của tôi là giữ lũy Sa- bộ. Việc lũy Trấn-ninh
Nguyễn -Hữu -Dật liền dẫn binh đi cứu , ở dọc đường cho
đẽo cây đa lấy chỗ trắng viết chữ ( 1 ) rằng : « Hữu Dật đã đến
lũy Trấn.ninh , xin Nguyên- soái đem binh giữ thể Sa-bộ » .
Đến khi tới Trấn ninh , ông thấy lũy đã bị hãm khuyết
Gặp lúc chiều hôm , khi đêm tối tăm , người ta ở cách
nhau trong gang tấc mà trông không rõ, Nguyễn-Hữu-Dạt liền
sai lấy củi rơm kết lại làm đuốc đốt lửa sáng rực như ban ngày.
Nguyễn -Hữu -Dật bèn sai quân và dân kết cây gỗ làm
hàng rào chở đất cát và lại chỗ lũy bị phá vỡ.
Đến sáng sớm quân Trịnh tấn -công mãnh liệt thì lũy
đã được củng-cổ hoàn toàn không thề nào lấy được .
(3 ) Bạch thử , đảo cây lấy chị trắng viết chữ đá nhân tin ở dọc đường .
NGUYỄN - HỮU - DẬT 193
thấy dấu chữ của Nguyễn -Hữu Dật nhắn gởi ở thàn cây mới
đem binh về Sa- bộ.
nguy cấp , sai sử chạy hỏi tin quân - sự. Nguyễn- Hữu - Dật tàu :
quân Trịnh còn không phạm nổi , huống chi ta đã có lũy cao
hào sâu lấy địa vị chủ chờ khách đến đánh thì còn lo sợ gì nữa
-
– « Thần nguyện ra sức cổ thủ , phá địch đề báo đền ơn
« nước , nếu có điều chi sơ sót sai làm, xin Chúa - thượng cử
--
Nguyễn -Hữu - Dật từ khi đăng đàn bái tướng đến nay
dang kể hiến mưu đánh giặc không bao giờ không đắc thắng .
Nay được nghe mấy lời này , thì ta không còn lo nữa.
Mùa đông ấy Trịnh - Tạc tấn -công lũy Trấn- ninh luôn mấy
tháng mà không lấy nồi, bèn rút quân về.
Chúa Hiền xem tờ biểu than thở nghẹn- ngào, truy tặng
tước Tán trị tỉnh nạn công thần đặc tiến phụ quốc Thượng
tưởng- quân Cầm y vệ Tả quân Đô đốc phủ chưởng phủ sự
Chiêu quận - công , ban tên thụy là Cần Tiết .
YL
191 KHẢO CỔ TẬP SA
Sau khi ông mất , nhân -dân ở Quảng -bình tưởng nhớ ông
gọi ông là Bồ -Tát ( 3) , lập đền ở Thạch -xá mà thờ phụng ông.
Quốc Chủa Hiền -tông Hiếu -minh hoàng -đế Nguyễn - Phúc
Chu năm thứ 3 nhằm năm Giáp -tuất (1694) truy cấp tự-điền
Vua Thế- tô trong niên -hiệu Gia - long thứ 4 (1805 ) ban
cho ông làm Công- thần thượng đẳng được cúng tế ở Thái- miếu ,
con cháu một người được làm đội trưởng được đời đời giữ
việc cúng tế, cấp cho tự điền 15 mẫu , mộ phu (phu giữ mộ )
6 người
Năm Gia –long thử 9 ( 1801 ) ông được cúng tế ở Khai quốc
công- thần miếu .
Năm Minh -mệnh thứ 12 ( 1831 ) , ông được truy tặng chức
Khai-quốc công -thần đặc tiến Tráng vũ Tướng quân , Hữu - quân
Đô thống phủ chưởng phủ sự Thái-phó , cải tên thụy là Nghị
Vũ , được phong Tĩnh quốc -công , vẫn được cúng tế ở miếu đình .
(2) KhôngMinh Gia- Cát- Lượng , làm quânsư nhiều kỳ-mưu đại lược, giỏi
thiên văn thần toán giúp Lưu - Bị lập nên nhà Thực Hán .
(a ) Bá - Ôn , tự là LưuCơ , người đất Thanh - điền đời Minh , thông kinh sử ,
giỏi thi văn, tinh về thiên văn và binh -pháp , giúp Minh Thái-tô diệt Tràn- Hữu
Lượng, dẹp Trương- Si- Thành , đánh Trung - nguyên thông -nhất thiên - hạ , làm quan
đến chức Ngự …sử Trung- thừa kiêm Thái-sử lịnh , được phong tước Thànhý báo
(3 ) Mùa đông năm Canh -tỷ (1660) Nguyễn -Hữu Dật can ngăn việc tàn sắt
quân đầu hàng toan làm phản , cho nên ông được gọi là Bồ tát .
NGUYỄN.HỮU.DẬT 195
Năm Minh -mệnh thứ 17 ( 1836 ), triều -đình cho sở tại sửa
chữa lại mộ phần của ông .
RÉSUMÉ :
tôi được biết phút cuối cùng của quân Tây -sơn rút chạy
tưởng Tây -sơn trao đổi nhau trước khi rút chạy.
Những lời lẽ này chứng minh các tướng Tây -sơn đều
TẠ -QUANG - PHÁT
PHÚT CUỐI CÙNG ... 197
« viện ( Vườn cao ), binh của hạ-thần Lê -Văn - Duyệt dựng bảo ở
a Kiên - hạ , hai đạo đề phòng, quân giặc thể cùng quẫn , xin
« nhà Vua xuống sắc cho các doanh chia binh chận nơi yếu
« Lúc lâm trận phảm việc bắt sống tướng sĩ , quân ta chờ
« Bình định từ khi hai bên giao binh đến nay , tàn tệ
« ngày càng quả lắm , phải cấm dứt ba quân không được bắt
« bờ cướp đoạt » .
« nung đúc ắt không chịu đầu hàng. Nhưng lời văn bảo cho
« biết về quânsự cũng không nên bỏ.
將軍 提 數 暠 之 兵 犯 我 平定 绍 个 二 年 不
体 足 知 將 略。
然 熟 思西 山勢 萬難 全 , 富春 - 戰 猛
虎 離 山 。 潔 江 再來 黔 驢 窮 技 。 今 則 邀遊 詩
酒 無 計 兵 謀 。 而 且 龍城 千 篇 里 而 遙 ,
為 策應 。
夫 随 勢 立功 士夫 所以 通晓 , 投 明 案 瞶
君子 所以 顯身 。
吾主 愛惜 人才 , 親 讎 無間
間 , 中 營 阮 郡公
張 , 左 軍 黎 公
郡公 質 , 固 西 臣 也 , 待 之 誠 而 如
以 功 。
掠 將軍 素 所 聞 知 且 將軍 煮 將 猛將 精兵
军品
調 就 平定 使 神 京 空虚 , 王 師 不再 戰 , 將軍
寔 所有 大功 于 我 南 然 也 。 將軍 今日 改 轅
僕 與 黎 都 統 請 為之 駕 。
PHIÊN ÂM
duyệt kim nhị niên bất hưu , túc tri tướng lược.
Nhiên thục tư Tây- sơn sự thế , khủng vạn nan toàn. Phú
cùng kỹ. Kim tắc ngao du thi tửu , vô quốc kế binh mưu . Nhi thả
Phù , tùy thế lập công , sĩ phu sở dĩ thông biến . Đầu minh
Ngô chủ ải tích nhân tài , thân thủ vô giản. Trung doanh
Nguyễn Quận -công Trương , Tả quân Lê Quận công Chất , cố
không hư, vương sự bất lao tải chiến . Tướng quân thực âm hữu
DỊCH NGHĨA
« Tướng quân cầm binh mấy vạn xâm phạm Bình -định
« của ta , trải đến nay đã hai năm mà không thôi , thì đủ biết
• Nhưng suy nghĩ chín -chắn thấy rằng sự thế nhà Tây.
« sơn sợ khó được vạn toàn .
« Thành Phú - xuân , quân Nam một lần tiến đánh thì mãnh
« thông ( 1 ). Tới nơi sáng , bỏ chỗ tối , người quân -tử sở dĩ tấm
« thân được vinh hiền .
« thủ không có giản cách. Trung - doanh Quận -công Nguyễn - Văn
« Trương , Tả-quân Quận -công Lê- Chất hẳn là bề tôi của nhà
« Xét Tưởng- quân vốn được nghe biết tiếng tăm , và lại
« Tưởng- quân đem hết mãnh tướng tinh binh điều động đến
Nguyễn- Quang- Diệu xem thư , trầm ngâm khá lâu . Võ.
Ở đây nói Vua Tây -sơn Nguyễn - Quang- Toản tài năng vụng về mà khoa
trương thanh - thể cũng như con lừa ở đất Kiềm vậy .
(1 ) Thông biến il
in z • cùng thì biến , biến thì thông. Biết quyền biển
thì được hành thông .
(a ) Cải viên } } đề (cải là đôi ; viên là xe) cũng như cải triệt 改 轍
我 心 則 降
Nghĩa là
>
Ông không đọc Thư hay sao ? Kinh Thư có câu :
我 不願 行进
(1) Câu này xuất xứ ở thiên Thảo trùng thuộc phần Thiệu nam trong kinh
Thi. Trọn chương này như sau :
DỊCH THƠ
Thơ Thảo trùng kẻ lại việc quan đại phu của chư -bầu đi làm việc ở ngoài
vợ ở một mình , cảm đến sự biến thay của vạn vật tùy theo mùa theo tiết mà nhớ
tưởng đến chồng như thế.
(a ) Hành độn ft II , tránh đời đi ở ăn . Câu Nga bất có hành độn
để 不顧
我 t đi 行进 ff I (= ( = Tôi không đoái đến việc tránh đời đi ở ln ) xuất
xứ ở phần Vi- từ trong kinh Thư .
202 KHẢO CỔ TẬP SAN
Nghĩa là
-
Xin nghe lời chỉ giáo tôn quý của quan Thiếu - phó .
- triều ,
Nguyễn -Văn - Trương và Lê - Chất đầu hàng Nam
lúc ấy đúng là nguy cấp. Người tài của nước Sở mà nước Tấn
dùng , Nam - triều nhờ đó mà thành công, cho nên họ rất được
tin cậy .
Ông không nghe việc Chúa Nam -triều trở về Kinh đô hay
sao ? Chúa Nam -triều hủy hoại lăng tâm của Tiên - vương ta bày
thi hài và bêu đầu của Ngài. Những tưởng soái đứng đầu và
con cháu của Tây -sơn bị bắt đều bị xử bằng hình phạt nặng-nề
Lợi đã hiến thân theo Nam-triều , Lê -Văn - Duyệt dâng biểu xin
tiến dụng tài - năng của những vị ấy , bị Nguyễn -Văn - Thành và
Nguyễn -Đức - Xuyên can gián ngăn trở , vì về sau bị ngờ làm
(x ) Lăng trì (lăng là xâm phạm , hung bạo - trì là chậm ), sách
Trung-văn đại từ -điền giải-thích : Lăng - trì là một cực hình ngày xưa rất thịnh hành
vào thời nhà Tống, trước hết người ta chặt tay chân thân thề của kẻ tội phạm , rồi
sau mới cắt cổ họng .
Sách Hán -Việt từ điền của Đào Duy - Anh giải thích : Lăng- trì là thứ hình
phạt ngày xưa rất tàn khốc , đem người tội phạm ra, trước cát chân tay rồi xèo
thịt dần dần làm cho chết .
PHÚT CUỐI CÙNG ... 203
triều Tây-sơn , phản bội Chúa yếu đuối mà theo về Vua hùng
cường thì ai cho ta là trung thành ? Nay tôi đang cầm binh
phải trở về phụ giúp Vua la kinh lý miền Bắc hà , phân vạch
ranh giới xưa của triều nhà Lê , hay bảo - vệ cái thế yên vững
riêng một cõi .
– Tôi thường bói quẻ Dịch , như lời của Thiếu phó
trốn thì tốt, hanh thông) , xin chọn binh cường dũng theo
sách Lễ ký có nói :
軍旅 思 險 隱情 以
江 虞
NGHĨA LÀ
Nếu ta gặp binh Nam triều ngăn chận , thì xin hát bài
( 1 ) Tứ trụ thần U9 đề É , bốn vị đại thần như bốn cây cột chống đỡ cái
nhà của Tây-sơn gồm có : 1. Thiếu - phó Nguyễn- Quang -Diệu . 2. Thiêu - bảo Nguyễn
Văn -Huấn . 3. Đại Tư -đồ Võ- Văn- Dũng . 4. Đại Tư -mã Nguyễn - Văn - Danh hay Tử .
(2) Quân lữ tư hiêm , ân tình di ngu 軍旅 思 險 , 隐情 *^
Ả (quân lữ là quân đội - tư là lo nghĩ ―― hiêm là hiềm nguy - ân là ý niệm
- tình là tình thế của mình - di là đề ngu là liệu độ ). Câu này xuất xứ ở
thiên Thiếu nghi trong sách Lễ kỷ có nghĩa là : Quân đội lo ngại việc hiềm nguy ,
phải suy nghĩ khả năng của tình thể mình đề liệu độ binh địch .
(5 ) Nga tấn À h (ngu là sầu buồn , lễ tế sau khi chôn người chết -
tấn là dừng đám tang), bài hát đưa đám ma .
2 tra i det ++ bje
204 KHẢO CÓ TẬP SAN
-
– Các nước thời Xuân thu tranh nhau phần nhiều dùng
binh cường dũng ba ngàn người , voi đực tám mươi sáu thịt ,
bỏ thành ( Bình định ) trốn thoát trong ban đêm.
truyền hịch cho các tướng đuôi theo, đến nơi thì thấy binh
Nguyễn - Văn -Thành bèn thu nạp quân đầu hàng hơn ba
đánh thành Bình định , đến ngày tháng 3 năm Nhâm -tuất
(1802 ) lui binh , cộng chung được hai mươi tám tháng ( 28 ) .
RÉSUMÉ :
Ces paroles prouvent bien que les chefs militaires des Tây
sơn étaient des lettres bien versés dans les Livres canoniques.
NHỮNG DI TÍCH LỊCH SỬ Ở CỐ ĐÔ HUẾ :
PHƯƠNG -PHỦ
tặng các bức hình về bia mộ Cụ Đức- Quốc -Công Phạm- Đăng
Hưng đề tại nhà thờ của Cụ gần cầu Bạch - hồ ở xã Phủ - Xuân ,
quận Hương - Trà . Linh -mục phải chụp đến 13 tấm hình mới hết
bài văn trong bia , không ngoài mục đích bảo-tồn di tích lịch
sir .
Đáp lại nhã - ý của Linh -mục , chúng tôi xin sao nguyên
văn của tấm bia và dịch lại đề cống hiến quý vị độc giả một
di-tích của tiền nhân .
Theo lịch -sử thời năm Tự đức thứ 10 ( 1857) , nhà vua
xuống chỉ cho các Cụ Hiệp - biện Đại Học - sĩ Lễ-bộ Thượng- thư
Phan - Thanh - Giản và Hình -bộ Thượng -thư Trương- Quốc- Dụng
soạn thảo bài văn bia này rồi khắc vào bia chở bằng ghe từ
200 KHẢO CÓ TẬP BAN
Huế vào Nam dựng ở mộ của Cụ, nhưng chẳng may đi nửa
Năm 1860 viên Đại -ủy Thủy quân Lục - chiến của Pháp
là Barbé bị quân ta phục -kích giết chết . Quân Pháp lại dùng
bia này khắc mấy hàng chữ :
Về sau người ta thấy cái bia có khắc đầy chữ Hán , truy
ra mới biết là bia mộ của Cụ Đức Quốc -Công Phạm Đăng
Hưng. Hiện nay tấm bia này còn dựng tại nghĩa trang Đất.
thánh Saigon .
huệ Khang -thọ Thái - hoàng Thái- hậu khắc lại vào ngày
BẢN DỊCH
LỜI TỰ :
Cụ được nhà vua nghĩ tới đức cũ , truy theo phúc xưa ,
xuống mệnh cho chúng tôi là Phan - Thanh - Giản , Trương - Quốc
NHƯNG DI TÍCH LỊCH SỰ . 207
Dung , xét các công -nghiệp của Cụ và theo thứ ghi khắc vào bia
đề đời đời không quên .
chịu mệnh trời đến các vị vua kế -nghiệp trị vì sau này , tuy bên
trong phải có đức tốt nhưng cũng phải có sự giúp đỡ của các
ngoại -thich .
Như các ông Quy - Quốc , Thọ - Quốc , Đức - Quốc đều là hết
trung giúp vua , có công với xã tắc , việc ban thưởng chức cao .
lễ hậu , chính để đáp lại công lớn , chứ không phải vì thân
tình vậy .
Cụ vào thuở trung- hưng , trước sau hết sức, trí dụng đồng
đều , có nhiều công lớn , nay đem ra tôn sùng biều -dương , chính- -
không muốn ra làm quan . Nhân gặp lúc Đức Thái- Tô Gia- Du
Hoàng-để triều ta vào mở nghiệp ở Thuận Hóa , nên Cụ đem
cả họ theo vào Nam , lúc đầu ở đất Ái-Tử, sau dời về Phủ- Xuân
Cụ tô- phu tên là Đăng -Dinh , tinh thông các ngành nho.
Định , nên lại dời về ở tại thôn Tân - Niền -Đông , xã Tàu H
tir đỏ Cụ lại là người Gia - Định .
sinh, đời nào cũng có người phát- đạt , hưởng thọ đến tuổi
Cụ thấy thời còn rối loạn , bấm chí lập công đề cửu giúp
đại- cuộc .
bộ làm Phủ lễ -sinh , sau đòi qua làm Phấn võ vệ Tham -tản ,
trong khi làm chức -vụ này các cấm - ước trong quân đều
theo rành mạch , giấy tờ kẻ báo không có mảy may sai lầm .
Đây là bước nho nhỏ đầu tiên đề thử tài.
Đến khi nước Tiêm- La bị nước (-Đậu vây đánh đem thư
tới cầu cứu. Cụ được nhà vua sai đi theo đại đội quan binh
vượt biển đề cứu -viện . Quân ta đi đến đâu, quân giặc khiếp sợ,
việc quản trị quan chức đều qua tay Cụ . Cho nên việc sở tẩu
siêng-năng , tùy theo việc sắp đặt xong xuôi . việc ở bộ không
bỏ qua một tỷ gì .
Gặp lúc có giỏ Nam thôi lên , ta đem binh thuyền vượt
biền đánh giặc. Hạ phủ Diên - Khánh , lấy đất Trái- Mông , đốt đồn
Định -Quốc ở Thị Nại , quân Tư-Võ đầu hàng ở Qui -Nhơn , lấy
lại Thần -kinh , bình định Bắc-Hà , thiên - binh đến đâu , giặc đều
thua chạy .
Chính giữa lúc mưu -thần , mạnh tướng , gặp hội gió mây,
tài cao, công lớn , chói lọi một đời, mà Cụ thời không chỗ nguy
hiểm nào là không qua , không trận đánh lớn nào là không
ở ngoài ngàn dặm , trù hoạch tính -toán , công thật lớn -lao .
Đương lúc nước nhà vừa thu phục, thiên hạ mới bình
định , đất thần châu là chỗ đô - hội , có hàng ức vạn người tới
kinh- sư , việc chuyền - vận từ Bắc-đô vàn, đường liền gập ghềnh
gian hiềm , mà trong khi Cụ kiêm nhiệm chức Trưởng- đà thời
các kỳ hạn qua lại , các mức độ lên lui , sắp đặt định liệu đều
được đầy đủ tốt đẹp. Mỗi năm đề lại lúa , tiền , đồ-vật đều trên
số vạn . Nhân vậy mà chi tiêu dư dàt . các thuyền hộ đều vui
lòng làm việc .
việc kham khổ , Cụ ngày đêm lo lắng , trù hoạch thêm bớt, rất
có bồ ích .
là một huy- ngôn của Đông -lộ để lại , cương mục rõ -ràng , cũng
là một yếu-đạo của các đấng Đế- vương trị dân . Quyền sách này
quan nhà Tống là Tôn -Đức- Tú đã bàn rất nhiều và rõ ràng lắm
đầy đủ rõ ràng , thật do các vị tiền bối lão thành đã lưu tâm
lập được nhiều công vậy .
kể gì không bảo cáo cho vua biết. Tánh người trung thành , cần
thận được nhà vua đặc - biệt yêu chuộng, kính trọng. Như vậy
Trong lúc này triều -đình nhàn hạ , vua tôi một lòng tin
lẫn nhau thật là nghìn xưa một thuở vậy ,
Qua năm thứ 18 Thế-tồ Cao Hoàng để mất , khi gần mất
Minh-Mạng năm đầu có thánh - minh nối trị ở trên , các tôi
vàng đức ở dưới . Cựu thần giúp chánh, chốn miếu đường ung
* 480× 3
dung , thiên - hạ đều trông tưởng phong thề . Cụ một lòng siêng
năng gìn -giữ , hôm sớm không quên , cải tình trung đốc càng
già càng thêm bền bỉ. Mỗi khi gặp việc thời trong lòng nghĩ ngợi
ngang dọc , lo sao cho việc được lâu dài , trước thời tin và chắc
Năm đầu Cụ được nhà vua giao sửa lại ngọc- phô (sử
sách nhà vua ) công việc mới bắt đầu , mở đường , đặt lệ, mọi
việc đều khó khăn . Cụ mới nghị xin đặt ra tiền-kỷ, chánh - biên
Phó Tồng-tài đề sửa sách lục của liệt-thánh . Sau khi có binh .
biến sự việc chép lại nhiều chỗ thiếu sót. Cụ lo cứu xét lượm
lặt không quản khó nhọc đến nỗi đêm nằm còn mơ -màng trong
giấc chiêm bao. Huân vọng hai triều , một lòng trung cần , chỉ
lo toan việc nước còn việc nhà thời không nghĩ tới .
dậy được . Trong bệnh Cụ tự nghĩ rằng : Làm quyền Thực - lục
là đề lưu truyền lại đời sau . Triều ta trong bước đầu gầy dựng
biết bao mưu thần chước lạ , co giãn muôn mặt , nhưng từ năm
Đinh-Vị về trước sử chép còn thiếu nhiều , chỉ từ năm Mậu - Thân
đến năm Tân Dậu phàm 14 năm các bản thảo và lược biên còn
đề ở bộ Lại, ta thấy có hơn 100 tập , có thẻ lượm lặt được ít
nhiều sự tích , nếu nay ta không nói , ngày sau không ai biết
được tức là trách nhiệm của ta . Cụ liền dâng sở xin đem giao
qua Sử quán , sau này cũng nhờ đỏ mà sưu - tầm thêm được . Cái
lòng trung đốc của Cụ hình trên công việc như vậy rất nhiều .
thuy -hiệu là Trung -nhã . Phải quan tới trị tang đem về chốn ở
Hoàng Thái hậu là con gái đầu của Cụ , Đồ -Sơn nối nhà Hạ
( 1 ) , Sản- Tỷ dựng nhà Châu (2) . Nhóm phúc đúc trinh từ trước
đã có rồi.
xét tham điền lệ gia tặng Cụ chức Đặc-tiến Vinh -lộc Đại-phu
Thái-bảo Cần -chánh -điện Đại -Học -sĩ , phong tước Đức Quốc.
công , nhưng lấy thụy- hiệu là Trung-nhã , Phu nhân là Phạm
văn - Thị phong nhất-phẩm Đức -quốc Phu nhân , thụy hiệu
là Đoan -từ , dựng tồn-từ ở Kinh sư .
Nhà vua đã suy trọng thể- đức, lại bao phong các tiền
đại . Tiên.khảo của Cụ được tặng chức Tư-thiện Đại phu Lại
bộ Thượng -thư Phú -yên hầu , thụy hiệu là Trang -mẫn . Tiền -tỷ
là Phan - thị tặng Đoàn -khiết Phu nhân . Tồ tặng Gia - nghi
Đại- phu Hàn -lim - viện Chưởng-viện Học- sĩ tước Bình -thinh -báo
thụy hiện là Cần -lãng. Tỷ là Trương -thị tặng Đoan -hòa Thục .
nhân . Tổng- lồ tặng Trung- thuận Đại phu Hàn -lâm - viện Thị -độc
phu Thiện -sự Phủ Thiếu thiêm sự , thụy- hiệu Hòa- mẫn . Tỷ là
Nguyễn -thị tặng Đoan thục Cung nhân , biệt thờ tại nhà thờ
(1) Đồ sơn : Vua Võ trị thủy tới . Đồ sơn gặp người con gái lấy làm vợ ,
về sau sinh con là vua Khải lập ra nhà Hộ.
(a ) Sân - Tỷ : Vợ vua Văn -Vương sinh ra vua Võ Vương
NHỮNG DI-TÍCH LỊCH SỬ ... 213
luân liệt rõ -ràng , trước sau hoàn tiết liệt vào nguyên tự , theo
lệ mới đảng . Nhà Vua xuống chiếu chuẩn y . Từ đấy Cụ cùng
các Ông Trịnh - Hoài- Đức , Lê- Công Định phụ thờ vào miếu
Trung hưng Công -thần . Ôi việc thiện là chủ của đức nguồn của
Cai -đội , Đăng - Thuật làm quan Lễ -bộ Lang - trung lấy Công- chúa
thăng chức Phủ-mã Đô - ủy.
Sau vàng triều chỉ cho đích tôn Đăng-Đạt Ấm -thọ Phó
Quản cơ , Đăng - Nghi, Đăng Đệ đều Ấm-thọ Cai -đội. Tùng -tử
đích phái là Đăng -Trử Ấm thọ Quản -cơ , Đăng Thi Ấm-thọ
Hoàng hy Thế tử ,
Dị thánh kế thánh .
Vũ trụ triêm nhân ,
Vạn vật chính tinh .
Tự huy Khương - Tỷ .
Trường dẫn xương nguyên,
Kỷ tập đa chỉ
Chi tại khôn - nguyên ,
Thương-vi, Chu-Đậu, (5 )
(3 ) Thần – quy : Loài vật sống trên 1.000 năm, ý nói lâu đời.
(4 ) Đào Đường : Con cháu vua Nghiêu gọi là Đào Đường .
(5 ) Thương- Vi, Chu - Đậu : Con cháu vua Nghiêu : Đời nhà Ngu gọi là
' Đào Đường . Đời nhà Thương gọi là Vi - thị. Đời nhà Chu gọi là Đậu thị. Nhà
Chu suy chạy qua nhà Tán gọi là Phạmthị. ,
(6 ) Tôn - phương : Cửa nhà tônmiếu.
(7 ) Tổn -chủ hạ-minh : Đất cũ của vua Nghiêu gọi là đất Tấn . Vua Thành .
Vương phong cho em là Thúc Ngu trị ở đất này cho nên gọi là Tấnchủ . Tán
chủ hạminh là ỷ nội đời đời được hưởng tước lộc.
NHỮNG DI - TÍCH LỊCH SỬ.. 217
(s2 ) Nhân hiệp Càn -thi : Nhân thuộc về quẻ Càn đứng đầu 8 quẻ dịch ý núi
mọi việc lấy nhân làm đầu .
(13 ) Trường-lạc : Cung Trường - lạc là cung bà Hoàng hải v
Ravijis C орода во овут про
RÉSUMÉ
qui fut ensuite gravé, et la stèle fut transportée par jonque de mer de
Hué à la Cochinchine pour l'eriger sur le tombeau de Phạm Đăng Hưng.
les Français qui s'en servit, en gravant dessus les caractères chinois, pour
tandis que la stèle dont les photos ont été aimablement communiquées
par le R.P. Barnouin et dont la traduction est donnée ci-dessus . a été
refaite en la 3e année de Thành Thái ( 1891 ) sur l'ordre de la Reine- mère
太保 勤政殿
大学 士德 國公
范忠雅墓碑
KHẢO CÙ
臭 功臣太保
德 围公 以 明 命 六 年党 于官
歸葬 于 故
里之弟
原 公 奉上 追
徊盖德 遠 湖
慶源 命 潘清 簡
張國 用 者次
公 行能 而 表
之以垂 不朽
睡 等 窈 闻自古受命
帝王及融体牛
成 之君 其
内德 锥 度 亦有 外
戚 之耻 云
然 其 所以
褒 顯 之者
於 固
朝典 則 旭 善 美嶲
如歸 周 福園 諸公
皆以 佐命 宣
忠 在
社稷 高趺 厚癿 划答
无 熟 非 导 以 親友 也
公 於中共 之際 後 先 接
武智勇 同 乃今其 所以 褒祟表 頸者 義有 在英 公 荜 登鼎 字
220
聖 矩 嘉定 新 叔人回其先世 為盛 族 高祖
諱 奎科 薄 案有文
221
名 然正活閉质
鄭氏 弦 惜 不苟仕
方 我太祖 嘉裕皇帝肇
基准
瘐化攀 而角初 籍 爱子 後 徙富春是為
始 遷
遷 之祖 曾祖 諦管
之祖 曾
NHỮNG DI- TÍCH LỊCH-SỬ ...
仙 以文学補 思 義訓導 因 徙
美溪祖菲登
登 藏身
牛 通儒区
白 號玄 遠道 人爱 嘉走山水
越 卜居 于 新 和東 新年村 自是
始為
嘉定人老 諦登 龍 以 學 行 著 隱居 授徒 所在 救主 学者 以為
和先生世有医德 皆
皆年逾 着耆 門福壽 君子 占其 婚 大巴公
禀賦 類 異 而純 督 風神 秀朗入 從成 堂 長得 明 師尊達多
通無所 不有 我 世祖 高皇帝 經营 下 硅 繹 南中 于辰
贺 能 去 熹主 筆下 吏部环保知袁武文懂德行文章為
但模 柠 綎園之 配 主
身之 要公 皆得 南 取 莫恶
以 美歴心林
WHAO CD T养
忠质 嘉主事巨資 東 應 雨辰科王
三 宇格 站
谨生神貢士 优 綧 綸饯 萆 每共 请侍 之 要遷 奮武 的参
诒 军中 禁 約井井有條 翰 今 有開 事 小 做出 及 這
花鳥肚 所闺 來書話 救 艅 命從
來書請 大 尚官兵
從大 出洋赴援先锋
箴官 無 出洋 所
至 緬賊心 隨即離團
即 解闺 遁去
遁去 天周震涛 下周益 尊 午还超
型吏部 参如是辰令 我 维 列 六卿 而 天官 惩治 李 世間 掌 至
於亨 外 章疏 文武茶 授 亦當之蕃劇 在 也公 則勤 精祥都
222
扰 幻 蒙 祂 耐之见,
於無素 達阄尾 大 競 歲匐 舟師 下 涎度
223
定 围 婦 仁之 降习武 以及 後 神
东 疟北 河 天無所 至 無不 克從
真
谋臣 猛将 感會風雲 英姿
偉業 超 蛰 世而公則無除
不歷
NHỮNG DI- TÍCH LỊCH - SỬ ...
從容 郊及 兰治道公 獒 以 帝王之学
甚 要故 帝王 之治最純臣
步
見大學 衍 羨 言首
禝 聖賢性命 道 德 精青来古今活札
女 为之 迹 淵源 遠失 寔東
曾 教人之 徼言 綑月 檗 然 迪南
面
臨民之要道 朱臣 真 德秀
論之 詳矣昔德 秀有 真
儒 之孝 而
不能 行於 偏去 今臣等 無 德 店之
學而持 幸 度 於 聖明之朝
以其言進 钦奉 聖旨嘉 均 所以周朝禮 文改体
事事偷厚
而周 鲜諸 先正者成 寔 多有功高解 及 请 置 社合 以備芫年
給奉 聖旨 兰舟 難 能 待人 恐為民病 不準然 知無不言
224
有就必忠
尝 用旗 聖 情 簡春 特隆 恶 所謂聚精
225
相得益彰者 不於 見 之 子方 是 展 也 朝庭 閉 跃层筆
交 孚大 神朋
德風 相念 真千载
一期也乃於
乃於 几年
几年世祖
世祖高高皇帝
皇 龍 知上賔 张雷
NHỮNG DI TÍCH LỊCH SỬ ...
之 次 是公共 黎文悦同受
颜 命 而達 詔 乃公 含
安手 草也 其知遇 委
托 顧不 重欺明命初 元 聖明纔
於上群 於 下 墓 臣辅政
碓 雍容 廟堂 而 天下
莫不
不想
想望其
望 其风休
風 惟公 克勤 小 知 靡悷凤
宵 忠篤 這老 而 弥鞑子每當 李思思 経 緯 惟永 是
圖始要
信 而有微 終必垂諸 久遠 元年奉 充王譜
監修
谱 整修事 出 和善
始 剧 茶包 起 创 事皆 谁公則議 請定高 前把 為正 砩為附
载 者條 楮然後事 羲粲然 遵 也不易0 年奉
ferre
充國史
KHẢO CÒ TẬP SA
【刮 纔裁
缺修 列圣
籙無 文之後
事錕 限公攜农技
采
朱不算 壞 甚
至形诸羮麻 兩朝 甄望忠
望忌阂用李
争多質
於 身家 有 未 復及也
忽 於六年 I福 逑 至不
起病牛自念 日是籙
之
伐所以垂 示來世國 白
朝 締造 云和宸断关
謨春 好葛忧通
汀 未 以前 事 钗 阙如 惟戊
申 选于 亨两及十有四
年 之間其果
草本滴有存於夫部 觀百有餘酒必有可采展今不言後
之人 非及知之是 吾 也 即疏桔 狳送 胜 迄
今 編劇 員有動
馬
其忠 篤之
力於事者皆類至六月十四
日 莞公享齡六省 方
226
疾中使大臣相 問視相麇莞 日
皇情震悼,
227
贈荣祿
大 夫柱闺族群
大学士
贴 鑑店
雅 命官
于 新年
東 里公忠誠
懇 篤遭
潑 聖明
DI- TÍCH LỊCH SỬ ..
加之以
純重
以 家虎降生百福長
於生 奉今聖慈
皇太店公 鸡
女包逄
山弥夏 草 姚隆用
集 社儲精幀其
來有自
奉我皇上
嗣住 之 特命
典嚐加贈公特進荥稳大夫太保教
NHỮNG
殿大学士 封德 围
会 仍 谥 忠 稚 大夫怠大
成村| 五 德 用夫人 蘊
慈赭專 祠 于 京師 既
又 推崇世移
褒封 代者贈資
南言福生傾 詿 莊教
如酒或贈瑞潔
夫人祖館
談克翰林院
掌院学士年盛 伯 詿謹高
加 及民贖
KHẢO CỎ TẬP SAN
和 版人曾诅赠 忠 恒大
夫翰林院 侍讀 学士美度 子謚端
势
姚 裴氏贈銘茶
茶人 高 祖 贈中哽 走 詹
事府產 謹
李
沁敏姚 氏贈端 恭人 赳记 于積善
裙彰美摄也耐德 五
车销┃功臣祀典 食言合在 開創 之加賀震感或 格大定
之後弼諧廣政系烈 不移始終先 節 R
列恙元祀於
祀於理為
宜 詔 報 可於是公共鄭德黎公定諸公 记中要功臣
廚夫 善德之主
也 乏府协澡钩报功皆所以 觀
為善 以功祀
不 既.
以德 酎 以
積善善真其词 子公备
228
奎俊贈郎 登估贈員外郎筐 紹
紹應 授 箴堂
229
選 南公主 進 駙
馬
尉奉 朝 荜蝻
堂達
提管 奇
次 整傳廣 猥
副管奇
奎 隆筭
LỊCH SỬ ..
淩嬌泒 徙
李 筌 眏 度躞 管
奇肇嶷 府
提正崴 長
從婊管
苦腐 漫 誰後 現今筌 達奉 主
在貫 相業
墳 墓公
NHỮNG DI TÍCH
貧人資
基 均在 南原 相
去败 百变 大 以公之宮 或備 福 而贞
珉 术粘烧
為阙 事 也
令奉表 而
出之 以 詔 後
世 智
神 彰命氏 源自 淘唐 商
隼 周 社 世守 尊 祜 看 虫夏盟
苏氏其昌 降及中棠 剮 而 弥 長 自均 而唃 累世
载德
挺 生 哲人 温 恭維 赳 既 大红 尊 令 儀令 式 天今幻高
兼富 学 哐
嶽 神 誔降
昴宿儲 昻 痞
洿 輔 美图 之模
風雲感會 日
日月
日 依閃
月倧
梀 閃 經
綸車 坎 膂屯 3 四海廓清
回海事情
戎大 首鹕 诗言
歡 閹義欿 谨補
過 錢阙 ㄤ 收 散
遷
制度典章 蔚
然其 盛 皇奐世祖 不 重牝 命 咏 粤
仁祖
以 聖 鮭 聖 宇
宙 露仁 乩物 正 性 番 番
元老 凤夜 維祗
两朝 寅 亮 細 行
不 遣 度修 戢
夜 上窮思 駹 訣
還表
言 不夂 私 忠 詼 惧怕 人臣 之
師 爰篤其 庭 嗣
徽着她
長 引 昌源 昕 亲
善社 至 载坤毛 在 協
乾士 長樂春
瑶池 月美 警言童体 用
月美 廣 推祟 载稽希典 玉視庸地
Z 新
進 wat
mti
(
hayt
231
疏崇 钆 爵
勲茂息 隆 惟
筐哕 松锹
蔚科 当
綫前
NHỮNG DI-TÍCH LỊCH -SỬ ...
孔 源 擁d 精英所 萃 毓
阀年 靈 痰或愿 惟公德原
勒斯貞珉 以
垂 永久
翻德十年十月
郝模
協 大學士頠 禮部尚書
臣潘 清簡 刑部尚書 種美國用
三年十二月十六 日 教
奉
慈 铬海嘉康壽太皇太后 懿 苯婪
40RE4
1
foWh
ndo
234 *
KHẢO CỎ TẠP SAN
ಇಲ್ಲಿವೈ
» » M •UAG HƯNG
235
SrExper
33
236
日落
足
聯 手
造
转
有
龙
的动
,
合约
麻
麻花
GON
def
合约
KHẢO
CỔ
中選
惟
AP
T
稳
工程
班
A
Vakten
CONG
-
PE
MASOܪ ܝܕܐ
445 #
ed
reket
4
r
:t # appy
da ·
* * ** *
...
VĂN BIA PHẠM -ĐĂNG HƯNG
237
咽 弾きる
ね
238
KHẢO CỔ Tin t
25
サー
食
に
出版社
5
帐海
アニ
"}
LỄ TIẾN CUNG
L.T.S. Với mục đích cung cấp những tài- liệu có giá -tri
cho các nhà khảo
cứu chúng tôi cho trích đăng những đoạn sau
đây nói về một vài khía cạnh của cuộc sống trong cung vua phủ
chúa của thời Trịnh Nguyễn phân tranh . Những tài liệu này được
Ông NHƯ -LÂM TRƯƠNG -VĂN -KÍNH trình bày trong một truyện
dù sử danhnhân Việt-Nam : Bà Chúa Chênh.
Chung tôi trích đăng những tài- liệu sau đây với sự dè dặt
thường lệ và mong rằng sẽ góp được một phần vào những tài
liệu mà sửsách không ghi hoặc ghi thiếu sót .
CÒ
VIỆN KHẢO
210
****
LỄ TIỄN CUNG
Đối với nhà gái , Ông đã đàng hoàng cho làm đầy đủ nghi
thức về các lễ vấn -danh , nạp trưng , nạp cát , điên nhạn .
nghĩa không kết đôi hai lần , đi đầu có hàng có lối , có thứ tự.
Ý mong vợ chồng ăn ở sau này như đôi ngỗng .
Quan quân rước lên hai chiếc kiệu đặt ngay trước cửa
nhà gái. Rồi cung tần , thẻ nữ tấp nập khiêng vào các đồ sinh
Họ cắt đặt nhau kẻ thì ra đình nộp (cheo ) cho Làng , người
vô phòng riêng trang điểm và bận lễ phục cô dâu .
lộng- lẫy . Suối tóc soa dầu bóng mượt được quấn gọn ghẽ dưới
một chiếc mũ có năm con phượng bằng vàng , tua rũ bằng hạt
trân châu . Mũ dệt bằng lông đuôi ngựa , phía trước có thêm một
bông hoa hồng.
Da mặt Bà đen dòn được thoa nhẹ một làn phấn coi
mịn và sáng hơn . Đôi này vốn cong lại kẻ thuôn thuốc sang
hai bển như đôi lá - liễu. Làn môi mọng được bôi chút son
cho thêm tươi. Đôi hoa ngọc -bích đeo lóng lánh bên tai . Xiêm
bằng đoan trắng buông chung dưới chiếc áo bào nền gấm đỏ .
Hải nhung nhận cườm hình phụng múa , chân đi hơi chật
nhưng có gấu xiêm phủ kín , chỉ đề lộ đôi mũi, coi cũng xinh
xinh . Đó là nghệ thuật trang điểm của phụ nữ vào thời bấy giờ.
LỄ TIẾN CUNG 241
hai bên có hai hàng quân Túc-Vệ tay cầm hèo đỏ đi kèm .
múi bèn sườn với trên tay những nhạc cụ như đàn nhị , sảo,
sênh, kim tiền , não bạt . Có cái nạm bạc, cái khảm xà cừ, cái
lâu ngày lên nước bóng láng, cái bị sây xát phai màu nhưng
cải nào cũng còn dấu khắc của Phủ Chúa. Ngay bên họ là hai
Một giải lụa điều báo hi vắt ngang kiệu , buông thông
đòi bên hai đóa hoa hồng tết múi, đầu giải rũ xuống gần sát
đất.
( Hai lồng đèn, cái bên trái tượng trưng cho chồng, cái
bên phải tượng trưng cho vợ, nêu lên ý muốn lương duyên ,
được rực rỡ mãi mãi .
Không kẻ ngày hoặc đêm, một khi ngọn nến trong lòng
đèn đã thắp , người ta giữ gìn cần thận đừng đề lửa tắt nửa
bát bửu tàn tán , cờ quạt, chúng cùng bọn kỳ.lão trong làng
di theo tiến Chúa .
Đám rước đi tử nhà gái đến bến trong làn khói hương
nghi ngút một điệu nhạc du dương , điểm tiếng trống lồng
chiêng , lắm lúc bị át bởi tiếng pháo và tiếng reo hò chúc tụng :
Các quan sở tại cùng thuộc viên đứng dàn hai bên
đường. Sau dãy hương án có đỉnh trầm nghi ngút, họ chờ Chúa
qua , cúi đầu tung hổ chúc tụng .
Vin 3
LỄ TIẾN CUNG 243
thuyền Rồng . Khi từ - giã tiến Kinh , Chúa ban cho mỗi người
một vuông lụa và một chiếc quạt hoà .
Giữa vườn nhãn hiện nay, Bà cho dựng hai tòa cung
phủ rất nguy- nga tráng lệ , nền lát bằng đá hoa mài nhẵn rồi
đánh bóng .
Gian giữa thờ Tô . Hai bên hai hàng cột lim cao vòng
tròn khá lớn , cham nời hình rồng uốn khúc. Từ trong ra ngoài ,
dọc theo hàng cột, đặt hai giá bát bửu bằng đồng. Khoảng giữa
hai cột ở đầu hàng lên đến nóc , đóng bít một khuôn cửa vòng
sơn son .
Trước bàn thờ cắm đôi lọng vàng . Trên bàn một chiếc
đỉnh đồng rất lớn giữa hai con hạc cao nghệu , mỏ ngậm cành
hoa.
Sát bức tường hậu , kẻ cao ba cái khám . Trước khám bảy
gọn ghẽ những vật kỷ niệm các chiến công của dòng họ
Trương : Nào cây đoãn đao đã đoạt mệnh Liễu - Thăng đề bình
244 KHẢO CỒ TẬP SAN
Ngô khai quốc , nào đòi kiếm gia-truyền khẩn ngọc , nào hộp
sắc quận -công Thái- phó , nào mũ mãng càn - đai Vua ban .
Đề thờ riêng một ông chồng oanh liệt , Bà cho đặt tại
gian bên phải một ngai rồng dát vàng trên gắn bải vị của
Chúa Binh.
Trước ngai là hai hàng đồn bọc gấm. Rồi đến các giá
chiến lợi phẩm kỷ -niệm các cuộc tranh Bá Đồ-Vương của dòng
họ Trịnh .
Nào cây đao to bản lấy được của Mạc Mậu -Hợp , nào đôi
gươm mỏng có lưỡi xanh biếc của Mạc Kính-Vũ . Bên cây hoa
kính nhọn hoắc đã tước được của một tưởng nhà Nguyễn , có
cắm đôi chảy đồng gai đâm tua tủa của mãnh tướng Tàu do
Cái nào cũng đã rấy máu và như còn vấn vương những
Gian bên trái bỏ trống chỉ rải hai chiếu gai khô rộng
có con tiện . Rồi đến cái hiện dài chạy dưới hàng dui , đầu trò
hình con dơi . Con nào cũng trạm , dang hai cảnh đề cùng nâng
một mái ngói cong cong . Mỗi góc mái là hình một đuôi rồng
Cung Trí.Nguyên xây còn lộng lẫy hơn Phủ , cũng nền
đá hoa, cột chạm rồng . Nhờ có nhiều cửa từ sảnh đường thông
qua các phòng nên ngăn nắp và thâm nghiêm hơn .
Trong phòng nào giường thất bảo nàn bát tiên , giường
tư mã . Ngoài sảnh , nào sập sơn son , đôn bọc gấm , tủ chè mun ,
án thư trắc , trên bảy nhiều vật nho nhỏ xinh - xinh ,
Giữa cung và phủ là cái sân rộng lát gạch vuông Bát
Tràng . Trên sân một sạp đủ , bốn âu thư , một đòi nghê , một
đòi rồng , bè cạn , núi giả và nhiều chậu thống Giang - Tây trong
giống các loại cây cảnh như sơn-Trả , thùy dương, tường vi
Bên phải là một huê viên bốn mùa có trăm thử hoa cử
theo thì theo tiết mà nở, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt.
tần , thẻ nữ tha thướt từng bọn dẫn Trịnh Cương và đàn
cháu Chúa (con của hai anh con nhà bác cụ Trương- Phúc
Quảng và cụ Trương - Đôn - Hậu lúc đó đang giữ chức Chánh
Vô -Uy trong Triều ) ra vườn hái hoa bắt bướm rồi xuống hồ
rửa chân , nói nói cười cười vang rộn cả xóm làng.
những khóm tre rặng tần ủ -rũ , cử đêm đêm đom đóm lập lòe
soi gương , cuốc kêu ra - rả buồn thảm .
Nguyên khi cung phủ xây cất xong , Chúa Bà cho mở tiệc
hoàn thành .
246 KHẢO CŨ TẤT SAN
Họ chăng những giây hoa giấy, cải vàng , cái độ, cái trắng
từ nóc chòi đến bốn bờ hồ, từ cây nọ đến cây kia trong vườn .
Dọc theo dây , cử cách một thước lại buộc một chiếc đèn giấy
thắp bằng dầu lạc .
Họ đặt trên nóc cung phủ một hàng phao đèn rồi cắm
lọng cắm cờ la -liệt trước sân .
hai rương đầy quỷ vật còn niêm phong có ẩn dấu Hoàng Gia
và Phủ Chúa .
Chiều hôm đó , sau khi làm lễ thần linh thờ địa , Chúa Bà
mặc phẩm phục Thái.Phi ra ngự trên sập giữa sảnh đường .
Đại nhạc trời. Chúa Cương tiến vào sảnh đường làm lễ
tiên vị rồi đứng bên sập trên bảy chiếc chiếu chồng nhau .
LỄ TIẾN CUNG 247
Đại nhạc im , tiền nhạc cử. Viên đạo lễ dẫn các quan
vào lạy 5 lạy rồi dàn sang hai bên . Chúa ban rượu ngự mỗi
Sau lễ mừng , viên Thái- Giám đưa các quan đi coi cung
Chúa Bà đãi yến các quan dưới nhà Thủy Tạ và mời dân
Bữa tiệc hoàn thành kéo dài càng về khuya cùng vui.
Bao nhiêu đèn giấy đều đốt lên làm sáng rực một góc
trời . Trai gái trong làng được vô sân Cung coi nam nữ vũ sinh
múa điệu Lục dật, nghe hát khúc Trinh tường và tẩu nhạc .
« Điệu múa Lục Dạt giống điệu múa Lục- Triết- Hoa mã.
giây lưng ngũ sắc . Trong mặc áo thủy lục cọc , ngoài phủ lớ
tua nịt dây . Xiêm trường , quần giáp, chân quấn xà cạp, đi bị
tất trắng vai nịt chữ thập, hai tay cầm hai quạt hoặc bông hoa
Họ đứng làm 6 hàng cứ hai hàng đối diện nhau vừa múa
vira hát.
Hát khúc Tranh tường là khúc hát chúc thọ . Bài hát có
Dưới hồ chúa tôi nhà Trịnh cùng nhau yến âm rồi treo
amb đèn giấy chơi đó chữ và làm thư nôm , ca tụng cảnh đẹp cung
phủ và công đức Chúa Bà.
gự mở
Cách chơi đồ chữ tương tựa như sau :
Chúa cho đem ra treo một chiếc đèn giấy thắp sáng .
καί στη
Trên một ngọn đèn có ghi câu thơ đó .
VIL
g Ai đoán đúng thì Chúa đánh một hồi trống chầu , khen
loa tỉ Rồi lại chiếc đèn khác mang ra treo với câu đố mới ( 1 ) .
Mãi đến gần sáng thì cuộc vui tàn . Quan quân theo Chúa ,
kẻ về Cô - Bi người vô Kinh - Thành .
e,a 2
phu
Cung phủ Thái- Phi lại chìm trong cảnh trầm lặng của
pd chốn thôn quê.
Ongba
!! iv
vin
(3) - Trò chơi đó chữ này qua các thời đại vẫn được nhiều văn nhân ưa
thích sau đây là câu đó của Ông Nguyễn Công- Trứ dưới triều Vua Minh Mạng :
Ngã lưng cho thế gian nhờ
Chàng ưa thì cho còn ngờ bất trung
Đất xuất : Vật dụng , cấp : Đồ vật đề ngả lưng là cái phân . Bất trung
là phản .
LỄ TIẾN CUNG 249
RÉSUMÉ.—
danh thắng trong tỉnh Quảng -nam , người ta lại càng không bao
giờ quên nhắc đến Ngũ-Hành -Sơn trước hết , bởi vì Ngũ -Hành
Sơn đứng vào bậc nhứt thẳng - cảnh trong tỉnh Quảng- nam .
Cò-nhân có câu : « Cao tồn quần sơn độc hữu danh » là « Ngũ
Hành-Sơn cao thua các núi chi hơn danh .
Vì thế cho nên mỗi khi nói đến Quảng -nam tức là nói
đến Ngũ Hành Sơn , mà nói đến Ngũ- Hành.Sơn tức là nói đến
Quảng - nam, như « Ngũ - Hành -Sơn chi- sĩ », « Ngũ Hành - Sơn
danh nhân » V.V...
« Địa linh nhân kiệt » , từ ngàn xưa , thời đại nào cũng .
vậy , tỉnh Quảng nam đã sản - xuất rất nhiều trang anh hùng
Thai-Phiên, Trần -cao- Van , Phan -chu - Trinh , Huỳnh -thuc -Kháng.
V.V...
Ngũ - Hành Sơn thuở xưa mang tên là Ngũ - Huân -Sơn hay
Ngũ -Chí- Sơn (núi năm ngón tay ) . Đến đời Minh -Mạng , nhà vua
thường ngự giả đến viếng cảnh ở đấy, mới đồi tên là Ngũ .
Hành Sơn .
Trong Ngũ - Hành - Sơn , thì riêng Hỏa -sơn có hai ngọn núi
kề nhau, tức là Dương -hỏa sơn và Âmhỏa -sơn , và được
gọi chung là Hỏa -sơn .
Trên đây là bài thi của nữ thi -sĩ Cao -thị Ngọc Anh cảm
tác cách đây hai mươi lăm năm khi lão nữ thi sĩ có dịp đi
du ngoạn Ngũ.Hành - Sơn .
Ngũ - Hành - Sơn chẳng những chỉ xinh đẹp mà thôi , lại
còn giúp ích cho người nữa . Nơi đây sản - xuất các thứ đủ
cảm thạch rất đẹp . Tựu trung Thô-sơn chỉ sản - xuất các thứ
đá thường , còn các hòn núi khác đều sản xuất các thủ đã
cảm thạch , nhưng sắc đủ núi này không giống sắc đủ các núi
kia . Người dân bản xứ quen lấy đá ở các hòn núi ấy, mỗi khi
họ trông thấy đá thì biết ngay là đá lấy ở hòn núi nào thuộc
Ngũ -Hành Sơn .
làm bia , làm mộ-chi , làm tượng hay làm các dụng cụ như ấm ,
chén , bát , đĩa , hộp đựng thuốc lào , mặt bàn , mặt ghế , v.v...
Dương - Hỏa -Sơn có một cái động nhỏ, còn ÂmHỏa - Sơn
thì không có động .
Kin - Sơn , ngoài các động nho nhỏ không nói , còn có
một cái động rất lớn ở phía dưới chân núi ấy do một vị thiền
sư mới tìm thấy từ năm 1956 dưới đời nhà Ngô . Trong động
có tượng Đức Quan - Thế- Âm Bò - Tát, nên được đặt tên là động
Quan.Thế Âm .
NGŨ HÀNH SƠN แม่น
Động này cao và rộng, nhưng trong động thì tối đen ,
ai muốn vào xem phải có đèn hay đuốc mới trông thấy rõ . Có
nhiều người vào xem động , họ phải đốt một nắm hương đề
cho sáng và cho dễ tìm đường ra . Hai bên vách động cỏ nhiều
thạch nhũ ( vú đá ) hiện ra với nhiều hình-thái rất lạ. Đặc biệt
nhứt là ở chính giữa động có một cái thạch nhũ dài lòng
thòng xuống tận đất , hễ gõ hay đánh vào thạch nhũ ấy thì
đạp vào phiến đả thì nghe tiếng « thùng thùng » như tiếng
Thủy-sơn lại đẹp hơn Kim -Sơn rất nhiều . Đường leo lên
núi này vừa dài vừa dốc , cho nên từ đời xưa , người ta đã phải
xây từng tam cấp , đề cho những khách du lịch xa gần dễ bề
trèo lên thưởng thức cảnh đẹp. Lên đến hết tam cấp là đến
chùa Tam - Thai . Chùa này trông rất xưa , không biết xây cất
từ bao giờ ? Tại bên trong chùa cũng thờ Đức Phật như các
chùa khác . Ở trước tam quan chùa có rất nhiều cây cổ thụ sầm
mất thanh-u , trông thật ngoạn mục .
đài , những khách du lịch đứng ở hai nơi này khắp nhìn trời bè
mênh mông , nước non bát - ngát , thật là thích tình và khoan
cũng có tượng Đức Quan Thế Âm rất lớn mới xây độ chín
mười năm nay .
254 KHẢO CÔ TẬP SAN
động có những lỗ trống , ánh sáng mặt trời mỗi khi chiếu xuống
thật dịu- dàng, int-mẻ .
Trong động Huyền - Không này có một cái thạch nhũ tròn
trắng lúc nào cũng từ từ và luôn luôn nhỏ ra những giọt nước
Tương truyền rằng : Xưa kia trong động này có hai cái
thạch nhũ nhỏ nước thánh thoát đêm ngày như vậy. Đến khi
vua Minh.Mạng thăm động thấy vú đá xinh-đẹp, bèn lấy tay sờ
thử một cái , tự nhiên cải vú đá ấy không nhỏ nước nữa . Nhà
vua sợ hãi, không dám đụng đến vú đá kia nữa . Câu chuyện
truyền khẩu này không biết có đúng sự thật hay không ?
Trên sườn hòn núi Thủy - Sơn này , lại có hang thông lên
trời gọi là Vân - Thông- Cốc .
·
Phía Bắc sườn núi, có J Tiên -Long- Cốc tục gọi là hang
rồng , nửa thông xuống đất, nửa thông lên trời , lòng hang sâu
thăm thẳm , ngách đá đứng chồng -chềnh , cảnh trí thiên nhiên
thật là tuyệt hảo, tuyệt mỹ .
NGU-HANSU
Trên núi Thủy -Sơn lại có chùa Linh- Ứng . Trong chùa
này cũng thờ Phật như chùa Tam -Thai . Sau lưng chùa Linh
Tại bên cạnh hang Giảm - Tjai, có một cái giếng thật sâu ,
gọi là giếng Tiên . Nước giếng này quanh năm không lúc nào
(Đăng -Cốc ). Hang này tuy nhỏ , nhưng có nhiều thạch nhũ
trông rất đẹp mắt : cái thì hình như cô khoai , củi thi hình
như bông bắp, cái thì trông như chim đậu - phụng , cái thì trông
như bông lúa , vì thế người ta gọi hang này là hang Ngũ - Cốc .
Động Tiên -Chân cao , rộng và sáng -sủa . Trong động thờ :
Bát- Tiên , Thái- Thượng -Lão quân và Linh -Sơn Thánh Mẫu ,
trông rất tôn nghiêm khả kính . Còn trong động Tam -Thanh ,
người ta thờ tượng Đức Thích- Ca Mâu Ni .
Nói tóm lại , Ngũ - Hành - Sơn là đệ nhất thắng cảnh của
tỉnh Quảng - nam , và là một trong những danh sơn của nước
đẹp hơn hết . Tương đối thì Thủy - Sơn lại đẹp hơn Kim -Sơn .
Cảnh mỹ-miêu hòn -nhiên ấy, gần hai trăm năm nay từ
đời Minh -Mạng trở lại đây − , đã làm hao tồn không biết bao
nhiều tâm tư bút mực của các thi - nhân mặc khách .
Dưới đây , tôi xin trích dẫn một số bài thơ hay về Ngũ
Hành -Sơn :
Trước hết xin kẻ đến ba bài thơ tứ tuyệt của Mai- Sơn
Nguyễn -thượng Hiền Tiên- sinh làm trong khi Người mới đậu
Hoàng giáp :
lớn, đến ngày được tha về, có dịp đi qua Ngũ - Hành - Sơn , được
thấy lại cảnh cũ, đã vịnh một bài thi về Ngũ -Hành - Sơn như
sau :
Tôi | tác -giả bài này ] xin mạn phép phỏng dịch như
sau này :
Mùa thu năm 1958, tôi có dịp may tới du ngoan Ngũ .
Hành.Sơn , rồi cũng cảm tác một bài thi đề làm kỷ niệm như
sau :
RÉSUMÉ :
văn - hóa còn là một di tích lịch sử liệt hạng quý giá nữa .
Tọa lạc trên một ngọn đồi thuộc làng Ci -lao , Quận Vĩnh
Xương , Tỉnh Khánh Hòa Tháp Bà từ khi người Chàm đem
bản lại cho người Việt không được dân Chàm cúng tế nữa ( 1 ) .
Mọi hình thức tỏ lòng tôn kinh Thánh Mẫu Po Nagar ngày
giữa mây trời và bọt biển ! Trong cung cấm của bà có tất cả
bài hơn cả là 1 ) Po Nagar Đarn (có đền thờ ở làng Mộng Đức ).
Tara Noi Anach và 3) Po Bja likuk ( hiện thờ tại tháp Phổ
Hai ở Phan - Thiết ).
( , ) – Theo H.Parmentier , tờ cam kết của người Chàm bán lại Tháp này
hiện còn trong tay viên Tham biện Sestier. ( Inventaire descriptif des monuments
Chams de l'Annam , Paris : Emest Lecour
260 KHAO CO TAP SAN
mùa màng của dân chúng . Hiện nay trong ngôi tháp chính ở
Nha - Trang có một pho tượng sơn phết nhiều màu , mặc y phục
rực rỡ và đeo rất nhiều nữ trang. Theo người Việt thì đây là
một h.nh thức của nữ thần Una hay nữ dạng của thần Çiva ( 1 ).
(1) -Civa là một trong 3 vị thần linh chính của Án Độ giáo , được coi
là thần phi hoại đề tạo tác.
NHẢN VIỆC CHỈNH.ĐỐN ... 261
Tượng này nguyên bằng đá đen , tạc theo kiểu ngồi xếp
bằng, dựa lưng vào một bệ thờ chạm trổ khiến ta có cảm tưởng
như nữ thần đang từ miệng một loài thủy quái hiện ra . Tượng
có tới 10 tay , cầm nhiều biểu tượng khác nhau , thân mình chỉ
cuốn một chiếc sarong mà thôi . Trải qua nhiều biến cố , có
tượng bị gãy phải gắn lại nên trông hơi cao. Gần đây người
Việt còn tu sửa lại đầu và mặt , rồi khoác áo , đeo nữ trang theo
quan niệm tín ngưỡng bình dân Việt.Nam .
lớn nhất được xây vào năm 817. Nhưng trước thế kỷ thứ VII
Vrane never
90
lie
Tháp Po Nagar Nha Trang
262 KHẢO CÒ TẬP SAN
đã có một căn nhà gỗ được dựng lên gần đó để thờ cúng rồi .
Đến năm 774 , trong một cuộc chiến khốc hại với người Đồ Bà
( Javanais ) ngôi đền bằng gỗ này bị thiêu hủy . Sau người Chăm
xây lại bằng gạch và làm thêm nhiều Tháp , lần lượt vào
khoảng năm 1.143 và 1.256 . Ngày nay những kiến trúc này đã
mất cả , chỉ còn lại 4 ngôi tháp và 2 hàng cột gạch lớn cùng
tòa nhà tiền định ở dưới chân đời .
Bác Cổ đá tu -sửa ngôi tháp nhỏ ở phía Nam . Mấy năm 1930
1931 Ông Pajot còn trùng tu toàn thề di tích này . Nhưng đã
thực hiện không hoàn mỹ, nhất là ở ngôi tháp chính (Tháp Bà )
nên bị giới chuyên mòn chỉ trích . Sau Ông phải trồng cây hoa
giấy dựa theo sườn bên phải Tháp để che bớt nét trung -tu
thỏ- kệch . Đến thời chiến tranh Việt Pháp , năm 1943 , ngôi tháp
lớn bị trúng 2 phát trái phủ từ chiến hạm bắn lên , làm hư
hại gần trên ngọn . Qua năm 1957 ngôi tháp nhỏ ở bên cạnh
(tục gọi Tháp Ông) đã bị nứt một đường dài suốt từ trên xuống.
Viện - Khảo -Cô phải cho đánh đai sắt và bơm xi -măng lỏng vào
khe nứt.
yêu cầu nghiên cứu việc chỉnh đốn toàn thè Tháp Bà . Sau cuộc
thanh sát của phái đoàn Viện - Khảo -Cô , một số biện pháp sau
đây đã được đề nghị thực hiện :
ở sườn đồi phía mặt tiền và phía bờ sông cho thêm phần
tươi đẹp .
2/− Trét những chỗ nứt trên ngọn tháp và xây dựng lại
các chỗ bị đồ nát .
3 / – Giải tỏa những căn nhà xây cất bất hợp pháp chung
quanh đồi , thuộc phạm vi « bất trúc tạo » của khu vực cô - tích
liệt hạng. (1 ).
NHÂN VIỆC CHỈNH -ĐỐN ... 263
gb
(1) Thời Pháp thuộc Trường Viễn Đông Bác- Cô đã ấnđịnh ranh giới bất
trúc tạo cho di tích này . Nghị định của Toàn quyền Đông-Dương kỳ ngày ot -to
1932 có đăng trong Journal Officiel de l'Indochine Français ngày o8- to - 1932 .
Theo quyết định của Viện -Khảo Cò hồi 1958 thì vùng bất trúc tạo này được
thu hẹp bớt như sau :
- Phía Đông là quốc lộ 1
- Phía Nam là sông Cái
-
Phía Bắc cách chân núi Tháp Bà · zoom chênh chếch về phía Tây Nam đến
thẳng bờ sông .
-
Nhà cửa xây từ khoảng quốc lộ : trở ra phía Đông room không được
cao quá 6m đề khỏi ngăn tầm mắt và làm giảm vẻ đẹp của nơi côtích liệt- hạng .
Đề bảo vệ hữu hiệu khu có tích này Viện -Khảo Cô đã nghiên cứu đoán
xây một công lớn cao gần 8m theo kiến trúc có truyền của Chiêm Thành .
Ngoài ra vì nhu cầu và cũng đề giữ lại một di tích thời đại tòa pháo đài
bằng bê-tông ở chân đòi đề canh phòng cầu Sông Cái Nha- Trang cũng được
nghiên cứu sửa thành căn nhà trú vãng cho khách hành hương. Căn nhà này sẽ
được kiến trúc cho thích hợp với toàn thẻ khung cảnh Tháp Bà . Cũng theo tinh
thần này Viện -Khảo Cô hiện đang tìm cách giải quyết trường hợp căn nhà tiếp
tân và a miếu nhỏ làm bằng vậtliệu nhẹ ở phía trước tháp mà sự hiện diện đã
phương hại đến khung cảnh cô kinh chung .
O
Phước , Quận Diên Tường . Thành đắp bằng đất , bên ngoài
bao gạch cao đến 4m , có 4 công lớn xây gạch đề ra vào. Phía
ngoài lại có đảo hảo xung quanh , nhưng nay đã cạn . Hiện
nay chỉ có 2 công phía Đông và Tây còn mở cho dân chúng
qua lại , còn cửa tiền , cửa hậu đã đóng chặt không cho lưu
thông .
tiếc là những kiến trúc xưa ở trong thành như Hành Cung,
dinh Tuần Vũ v.v ... đều không còn . Chỉ có trại đề lao , 4 mặt
xây tường cao như một cấm thành là không bị phá hủy. Hiện
Cũng cần ghi nhận là khu vực bất trúc tạo ấn định cho
nhưng là nơi tàng trữ một di sản có giá -trị lịch- sử và mỹ thuật
lớn lao .
Được dự trù xây cất từ 1902 nhưng đến năm 1912 mới
thực hiện . Rồi sau 20 năm hoạt động , mãi tới 1936 sau khi được
nơi rộng thêm mới khánh thành , đề mang tên người đã khô
công đi sưu tầm và nghiên cứu nghệ thuật của Chiêm - Thành :
Henri Parmentier.
Bảo Tàng lịch sử và mỹ - thuật này tọa lạc trên một gi
đất , bên dòng sông Hàn thơ mộng , tại số 1 đại lộ Trưng Nữ
Vương Đà Nẵng . Với một diện tích tồng cộng 636ma , gồm 4
phòng xếp đặt theo hình chữ môn (FF ) , mang tên các vùng có
cô-vật được trưng bày .
4/− Phòng Đồng dương cũng ở trước mặt nhưng hơi sâu
vào phía trong.
coi như tuyệt phẩm của nền điêu khắc Chăm . Như pho tượng
vũ nữ Trà.Kiệu uyền -chuyển trong một vũ -khúc nhẹ - nhàng ,
hoặc bộc lộ những sắc thái đặc thù của nền nghệ thuật Chàm
tàng Đà nẵng được du khách quốc nội cũng như quốc ngoai
hết sức tản thưởng . Nhiều hiệp hội và các nhóm tư nhân đã tự
động tặng tiền bạc để góp thêm vào việc sửa sang và khuếch
trương cơ sở này . Trong số đó , gần đây , có hội Lions Việt
Nam , Công -thương kỹ- nghệ gia Sàigòn và Tồng-Hội Sinh - Viên
Sàigòn trợ cấp những số tiền quan trọng . Đồng thời chính
quyền địa phương cũng cho quét với toàn diện , làm hàng rào
ở phía bờ sông với kinh phí tổng cộng 2 triệu đồng. Một ủy
266 KHẢO CÒ TẬP SAN
ban vận động trùng tu và nới rộng Bảo -Tàng đã thành lập đà
xúc tiến mọi công việc .
Phái đoàn Viện - Khảo -Có nhận thấy trong nhà kho của
Bảo Tàng còn nhiều đồ vật giả trị cần được trưng bày nên
nhân dịp này đã thực-hiện một đồ án nơi rộng. Đồng thời yêu
cầu Tòa Thị Chinh Đà-Nẵng can thiệp với giới chức quân sự
nhượng lại một khoảng đất phía sau Bảo Tàng hiện hữu đề
thực hiện chương trình nới rộng này.
-
2/ Bốn phòng rộng, mỗi phòng diện tích trung bình
200m2 năm theo hình chữ khẩu , bao quanh một khu vườn
khá rộng . Những phòng này sẽ được dùng làm nơi trưng
bày cò - vật thu lượm từ các nơi về .
Ngoài ra vì xây tựa vào sườn đồi nên phía dưới những
phòng ấy còn có một tầng hầm dùng làm kho chứa cô -vật ,
Với kinh phí 5 triệu của ngàn sách quốc gia và 6 triệu
603 ngàn đồng do các hiệp hội tặng, Viện -Bảo - Tàng Đà -Nẵng
sẽ thực hiện việc nới rộng đợt đầu vào cuối năm 1973. Hy
vọng Viện BảoTàng này rồi đây sẽ thành một Trung làm
nghiên - cứu về lịch sử và mỹ -thuật Chàm đủ khả năng cung
ứng tài liệu và hướng dẫn các học giả cũng như các sinh viên
đến tham khảo .
NHÂN VIỆC CHỈNH ĐỐN ... 207
RÉSUME :
1.
#
* gruente
}
8
Trong dịp đi công -tác tại Đà - Lạt một chuyên viên khảo .
cô Việt-Nam được một thân hào mách rằng trong khu rừng rậm
thuộc vùng Krong Pha , về hướng Tây Bắc Sông Pha , còn an
tàng 3 ngọn tháp Chàm có kính mà các sách vở cũng như các
nhà khảo-có từ trước đến nay chưa hề nói tới .
Tiếc rằng người cho tin không phải nhà chuyên môn nên
ta chưa thể xác định gì về những ngọn tháp này . Cũng có người
tỏ ý ngờ vực nguồn tin trên , vì cho rằng người Pháp đã khảo
sát rất kỹ lưỡng miền cao nguyên Trung -phần tử nhiều năm
qua . Nhưng chính Marcel Ner lại thủ nhận trong mấy năm
1929 , 193 ' ) ông đã mất nhiều công trình mà chưa tìm ra di - tích
của một thành Chàm ở gần Đà - Lạt . Henri Parmentier thì cho
biết « dù chưa được khảo sát toàn thề, vùng đất đai người Mọi
(sic ) cư -ngụ đã chứng tỏ còn lưu giữ một phần những kỷ vật
của Chiêm -Thành đề lại ( 1 ) . Những kỷ vật nói đây có thể là
bảo vật của các Vua Chàm như ta đã thấy trong các kho tàng
thờ Tran Lai gần làng Palei Chu thuộc quận Cheo reo nay là
Tỉnh Phú -Bồn ( 1 ).
Nguồn tin trên , như vậy chưa hẳn là hoàn toàn vô căn
cử, nên đồng bào sắc tộc Chàm cũng như những người có
lòng hoài cổ rất mong một ngày kia được biết rõ hơn về 3
Trong chuyến du khảo của Hội đồng Văn- Hóa Giáo Dục
về Vĩnh - Bình hồi tháng 10-1972 một nhân viên Tòa Hành -Chánh
Tỉnh có gửi về Viện Khảo - Cò một ít xương cả rất đặc biệt , đào
Theo người cho tin thì dân địa phương tình-cờ đào thấy
lớp xương này chỗ cách mặt đất chừng 50 phân mét trên một
diện -tích khá rộng và dầy hàng thước tây. Số lượng khai thác
hiện tới hàng tạ , vì dàn -chúng tranh nhau mua , tin tưởng có
( kjokhen -modding ) của người tiền sử. Tuy miền Nam cùng
có nhiều còn -sò như ở Giồng Da , thuộc làng Bàn Tân Định ,
tỉnh Bạch Giá và ở giữa khoảng núi Sập và núi Ba Thủ . Nếu
là Còn số thì ngoài vỏ ốc , xương cả và thủ -vật phải lẫn cả
đó cần bỏ vào bao nylon tránh không đề các chất hữu cơ như
mỡ , máu , nước mũi súc vật dính vào . Gần đây ở Centre des
Faibles Radio activités de Gif-sur-Yvette người ta đã dùng C14
đề tim tuổi của một mẫu võ so xuất xứ từ vùng Cai-Lậy và
được biết tuổi của chúng chừng 2.550 năm trước Thiên Chúa ,
Tuy vậy phương pháp này chỉ có giá trị đối với các vật có số
tuổi hàng ngàn năm thời và vẫn chưa thể xác định được
những sự sai biệt chừng vài trăm năm .
MỤC - LỤC PHÂN TÍCH KHẢO - CỔ TẬP- SAN SỐ 1–7
Điểm sách : Ngô Thì Sĩ , Việt sử tiêu án . Bản dịch của Hội Việt
Nam Liên lạc Văn hóa Á châu , 3 , 277-281 .
Điềm sách : Dương Văn An , Ó châu cận lục . Bùi Lương phiên
Điểm sách : Nguyễn Siêu , Phương đình dư địa chí . Bản dịch
của Ngô Mạnh Nghinh , 3 , 3o8-311 .
Lam bản cuốn Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du , 4, 5-26 .
Sources du Đoạn trường tân thanh (litt. Nouvelle voix des
entrailles déchirées ). Traduit par Trịnh Huy Tiến, 4, 27-51 .
Mấy điều nhận xét về Minh hương xã và các cô tích tại Hội an ,
I, 1-20 ; 3, 7-40.
Some observations about the village of Minh hương and me
DANH sách đại biểu tham dự khóa Hội thảo Trung tâm Văn hóa
ASPAC, 6, 53-55.
Tường trình về khóa Hội thảo đầu tiên của Trung tâm Văn hóa
Xã hội Á châu Thái- bình dương tại Hán – thành ( 18 -a3 / 5 / 1969 ) ,
6, 50-52.
3. 111.
5, 209.
KHÂM định Đại Nam hội điền sự lệ . Nguyễn Đình Diệm dịch , 4
105-130.
<?
LÊ NGỌC TRỤ
Chữ quốc ngữ từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX , a, 113-16 .
Điềm sách : Đường thi trích dịch , của Đỗ Băng Đoàn và Bùi
Khánh Đản . i , 188- go .
LÊ XUÂN GIÁO
Bảo vệ di sản văn hóa ở các nước hội viên ASPAC , 6, 56-6o
MINH NGHĨA
Điềm sách : Đại Nam nhất thống chi. Lạc tỉnh Nam Việt , do
Tu -trai Nguyễn Tạo phiên dịch , 3, 305-3o8 .
NGHIÊM THÀM
Sơ lược về các kho tàng chứa bảo vật của các vua Chàm , 1 ,
151-163.
Phúc trình việc đi tiếp nhận những tảng đá chạm tại trường tiêu
Tờ trình v / v . đi xem công tác xây cất hai ngôi đền tại Kalong
( quận Phan - lý.Chàm tỉnh Bình thuận ) và ngôi đền tại Sopma
dronhay quận Đơn dương , tỉnh Tuyên đức) đề chứa bảo vật
của các vua Chàm và ghé thăm các tháp Po Dam , tháp Phổ
229
Rapport d'une mission de l'Institut de Recherches Historiques sur
la construction des temples - musées à Kalong ( district de Phan
NGUYỄN văn, phiên âm và dịch nghĩa bài văn bia tại lăng vua
Gia Long , Lê Phục Thiện dịch , 1 , 123-137.
NGUYÊN văn, phiên âm và dịch nghĩa bài văn bia tại lăng vua Minh
3. 112-157.
NGUYỄN BÁ LĂNG
bối cảnh xã hội chánh trị đất Thuận hóa đầu thế kỷ XVII
45-49.
Phật học Giao châu với sách • Lý hoặc luận ° của Mẫu Bác ,
6, 103-126 .
Đại quan tư tưởng thời đại nhà Trần (1225-1400 ), 7, 209 349 ,
NGUYỄN ĐÌNH DIỆM . Xem Khâm định Đại Nam hội điền sự lệ
Khảo cứu văn hóa Việt Nam có quan hệ với khảo cứu văn hóa Á
châu như thế nào ? 4, 131-136 .
Cò điền học Trung hoa ở Việt Nam xưa ; cuộc tiếp xúc quá khứ
của nó vào tư tưởng và văn học Việt Nam , 7, 107-137.
Góp phần nghiên cứu về tín ngưỡng của người Chàm , 5, 8r - 110
PELLIOT, Paul
Đi tìm địa điểm và di tích hai thành cô Quảng nam và Phủ yên
đầu thế kỷ XVII , 1 , 71-96 .
1, 97-104.
Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII dưới mắt Giáo sĩ Đắc Lộ , 2, 37-68 .
SAURIN , E.
Tóm lược : Một di tích khảo cô tại Dầu giây ( Tỉnh Long khánh ,
Nam Việt Nam ), tr . 102- I04 .
SCHURHAMMER, Georg
Nền văn chương công giáo về Phanxicô Xaviê tại Việt Nam . Đỗ
Văn Anh và Trương Bửu Lâm dịch , 2, 143-177 .
Sự quan hệ của Bác có Học viện đối với văn hóa nước ta
[Rapport entre l'étude de la culture vietnamienne et l'École
française d'Extrême-Orient], 5,7-14.
TẠ QUANG PHÁT
Điềm sách : Hửa Thận , Thuyết văn giải tự , do Đoàn Ngọc Thi
TEULIÈRES, R.
Tương lai cây bông vải tại Nam Việt . Đỗ Văn Anh tóm tắt,
3, 83-88.
TRẦN ANH
Điểm sách : Hồng đức thiện chính thư . Nguyễn Sĩ Giác dịch ,
1, 184-186 .
Điềm sách : Ngô Thời Chí , Hoàng Lê nhất thống chí. Bản dịch
của Ngô Tất Tố , 1 , 186 .
Điểm sách : Thanh Lãng, Biểu nhất lãm văn học cận đại (1862
Avertissement, 2, 15-18.
Điểm sách : Giáo sĩ Đắc Lộ với tác phẩm quốc ngữ đầu tiên , tái
bản trọn cuốn Phép giảng tám ngày , của Alexandre de Rhodes , do
André Marillier sao lục , chú thích và lập bảng tham chiếu , a,
216-222.
Điểm sách : Phan Phát Huồn , Việt Nam giáo sử, 2, 245-246 .
Điểm sách : Nguyễn Huyền Anh , Việt Nam danh nhân tự điền .
3. 301-305.
nam, 3, 314-315 .
Điểm sách : Thái Văn Kiêm , Đất Việt trời Nam , 3, 315.
Điềm sách : Đại học Văn khoa . Annales de la Faculté des Lettres
de Saigon.
TÙNG SƠN
Điểm sách : Phạm Đinh Khiêm , Người chứng thử nhất ; lịch sử
tôn giáo , chính trị miền Nam đầu thế kỷ XVII , x , 183-184 .
VĨ HƯƠNG ( Cư sĩ )
Điểm sách : Đào Đăng Vỹ, Việt Nam bách khoa tự điền , 2 ,
223-226.
VIỆN KHẢO CÒ
Phái đoàn Viện Khảo Cò đi quan sát tỉnh Quảng nam , s , r64-166 .
Hoạt động thường xuyên của Viện Khảo Cò trong tháng 5 năm
1961 , 2, 197-205.
Thi châm , văn khắc hay khảm trong Viện Bảo tàng Huế , 3,
159-196.
Hoạt động thường xuyên của Viện Khảo Cô trong tháng 3 năm
1962, 3, 237-243.
Hoạt động của Viện Khảo Cò trong năm 1971 [ Những lưỡi búa
đá thời tiền sử tại di chỉ bên sông Đồng nai, Gia định
-
Cuộc quan sát một số cô tích miền Nam ), 7, 199-207 .
nam]
VIVEKANANDA, Swami
Các đề tài quan trọng , thường có nêu trong nhan đề, được kèm theo
tên tác giả và số trang toàn bài, ngược lại với các đề tài phụ chỉ có số tập
san và số trang riêng biệt không thôi.
Cỡ chữ thường được dành cho đề tài, chữ nghiêng cho tên sách và
chữ hoa cho tên người .
Aspac (Asian Pacific Community ) : Danh sách đại biểu ... 6, 53-53 :
Đặng Phương Nghi, 6, so-52 ; Mai Thọ Truyền , 6, 56-60 ;
Nguyễn Đăng Thục , 6, 3-8 ; 6 , 45-49 .
Austro-Asiatic cultures : 4, 155-166.
Bác cò học viện : Sở Cuồng , 5 , 7-14 .
BỈNH ( Philiphê) : 2, 122-123 , 153-177.
CẢNH DỊ : 7, 339-340 .
Ciam : 1 , 73 , 80-81
Citadelles : Phạm Đình Khiêm , 1 , 97 - I04 .
Đại Nam thực lục chính biên ở Khâm định Đại Nam hội điền sự 1 ,
4, 105-130..
Đại Việt sử ký : 2, 202-203
Điềm sách :
Đại Nam nhất thống chỉ. Lục tỉnh Nam Việt (Minh Nghĩa ), 3,
305-308.
2, 249-256.
GIÁO SĨ ĐẮC LỘ với tác phẩm quốc ngữ đầu tiên (Trương Bửu
Lâm ), 2 , 216-222 .
2, 296-301.
HỨA THẬN, Thuyết văn giải tự (Tạ Quang Phát) , 3, a8g- a96 .
NGÔ THỜI CHÍ, Hoàng Lê nhất thống chí ( Trương Bửu Lâm
NGÔ THÌ SĨ , Việt sử tiêu án ( Bửu Cầm) , 3 , 277-28r.
Lâm ), a, a46-247 .
245-246.
THANH LÃNG , Biểu nhất lãm văn học cận đại (x86a -1945) . Tập
313-314.
Hạ mai ( đảo) : 1 , 2,
Hải phổ ( Faifo ) : a . 45 .
Hán học : Nguyễn Khắc Kham , 7, xo7-137 .
Hát môn ( đèn ) : 5, 225-226 .
Hậu sanh (làng) : T , 161-163 .
Hiểu lăng ( bia )
Histoire du Việt Nam : Trương Bửu Lâm , 1 , 45-49 .
HỒ NGUYÊN TRỪNG : 7, 331 332
Kemoy : 2, 43.
Khảo cô tập san : Trần Hữu Thế , I , III ; Trương Bửu Lâm ,
i . V.VI ; Viện Khảo Cô , 4. 3.
Khương mỹ, 3, a58.
7,27-55.7, 62-94.
3, 268-270 ; 4, 181-183. ·
6, 182-183.
NGUYỄN HOÀNG : 2 , 43 , 47 .
75-107.
RAMAKRISHNA PARAMAHAMSA : Vivekananda (Swami), 6,
127-161.
Tunquin 2, 40.
Turon : 2, 46.
Văn hóa Việt Nam : Nguyễn Đăng Thục , 6 , 9-27 ; Nguyễn Khắc
VŨ PHẠM HÀM : 6 , go - 9t .
Số 1 ( 1960 )
Trong
Trương Bửu Lâm Vài nhận xét về thời hiện đại trong
Việt sử 34
Việt Nam 45
A la recherche de l'emplacement et
des vestiges des deux anciennes cita
delles de Quảng nam et Phủ yên au
début du XVIe siècle 97
NGUYỄN văn, phiên âm và dịch nghĩa bài văn bia tại lăng
Thiệu Trị
170
Phần hành chính
173
ĐIỂM SÁCH
PHẠM ĐÌNH KHIÊM , Người chứng thứ nhất ( TÙNG SƠN ) 179
183
Hồng Đức Thiện chính thư (TRƯƠNG BỬU LÂM )
184
NGÔ THỜI CHỈ, Hoàng Lê nhất thống chí ( T.B.L )
184
Đường thi trích dịch (LÊ PHỤC THIỆN )
THANH LÃNG , Biều nhất lãm văn học cận đại ( 1862-1945) , 188
Tập 1 ( T.B.L )
187
Số 2 ( 1961 )
Nguyễn Khắc Xuyên Giáo sĩ Đắc Lộ với công việc xuất bản 183
Le Père de Rhodes et l'édition de ses
oeuvres 195
ĐIỂM SÁCH
Giáo sĩ Đắc Lộ với các phầm quốc ngữ đầu tiên ( TBL ) 216
(T.B.L.) 247
Số 3 ( 1962 )
Chen Ching-ho
Mấy điều nhận xét về Minh hương
xã và các cô tích tại Hội an (tiếp )
7
Some observations about the village
(concluded)
41
Teulières , R. L'avenir du cotonnier au Sud Viet
Nam
45
Tương lai cây bông vải tại Việt Nam ,
Đỗ Văn Anh tóm tắt Việt ngữ
83
Day. Arthur Colin Final consonants in Northern Viet
namese
89
Những tử âm cuối cùng trong Việt
ngữ
109
I. R. H. La stèle du tombeau de l'empereur
Minh Mạng
III
NGUYÊN văn, phiên âm và dịch nghĩa bài văn bia tại lăng
Cham 254
Trương Bửu Lâm (Bà) Tờ trình về cuộc đi khảo sát của phái
và Lưu Quý Tân đoàn Viện Khảo Cò đề quan sát các
cô tích Chàm , kiềm điềm các cô vật
tại Viện Bảo tàng Chàm, Đà nẵng , và
CHING-HO) 281
Đại Nam nhất thống chỉ : Lục tỉnh Nam Việt (MINH NGHĨA) 305
(T.B.L) 314
S6 4 (1966)
KHÂM định Đại Nam hội điền sự lệ . Nguyễn Đình Diệm dịch 105
Nguyễn Khắc Kham Khảo cứu văn hóa Việt Nam có quan
hệ với khảo cứu văn hóa Á châu
như thế nào ? 131
Vietnamese studies and their rela
ĐIỂM SÁCH
(T.B.L) 191
S65 (1968 )
Sở Cuồng
Sự quan hệ của Bác cò Học viện đối
Nguyễn Đăng Thục Nguyễn Cư Trinh với tư tưởng
• Trung Đạo • ; bối cảnh xã hội chính
trị đất Thuận hóa đầu thế kỷ XVII 16
Trần Thị Ngọc Diệp Một ngôi đình miền Nam III
Số 6 (1970)
DANH sách đại biểu tham dự khóa Hội thảo Trung tâm
Văn hóa ASPAC 53
Trần Thị Ngọc Diệp Những vị thánh của tín ngưỡng đồng
bóng 61
S6 7 (1971 )
Nguyễn Bá Lăng Sắc thái kiến trúc Phật giáo Việt Nam 57
86 92
BARNOUIN :
TẠ -QUANG -PHÁT :
--- Khổng Minh của chúa Nguyễn : Nguyễn Hữu
D&t. ― 195
176
- Phút cuối cùng của Tây Sơn 196-204
* PHƯƠNG -PHỦ :
III . – KÝ SỰ ( Chronique )
* ĐỖ VĂN - ANH :
TẬP SAN (Periodical ) : Việt -Nam Khảo -Có Tập San ( Transac
tions of the Archaeological Research Institute), số 1
II– Khâm - định Việt-sử thông giám mục . Quyền thủ (Text and
Commentary on the General History of Viet Nam by imperial
order. Head Vol ), 1960. ( Có bản chữ Hán, with text ).
III – Hồng -Đức bản đồ (Atlases of Hồng- Đức). 1962 (Có bản chữ
Hán, with text).
V− Bản triều bạn nghịch liệt truyện (History of the betrayer of the
Nguyễn dynasty) của KIỀU - OÁNH -MẬU 1963. (Có bản chữ
Hán, with text).
VI− Tô -chức chính quyền trung ương dưới triều Lê -Thánh -Tông
(The Organisation of Central Power in the Reign of Lê Thánh
VIII- Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens, by
NGHIÊM -THẦM . 1965 .
-
IX− Khâm -đinh Việt-sử thông giám cương mục , tiền biên . Quyền 1 .
X- Nhu viên, trong Đại -Nam hội diễn sự lệ ( Foreign relations and
XVIII− Quốc hiệu Việt - Nam từ An Nam đến Đại - Nam (Kingdom
Names of Viet Nam from Annam to Đại Nam của BỬU .
CẦM . 1969 .
XIX− Nhà Tây Sơn trong Đại - Nam thực lục (The Tây Sơn , in
Veritable Records of Dai Nam Principal Part. Head voi. and
Vol. 1 ). 1970. (Có bản chữ Hán with text ).
XXI– Đại Nam thực lục chính biên. Quyền thủ và quyền nhất
(Veritable Records of Dai Nam . Principal Part. Head Vol.
and Vol. 1 ) 1971. (Có bản chữ Hán , with text )
Thư từ xin gửi về :
VIỆN KHẢO . Cổ
34 Cia - Long , Saigon 1
Việt - Nam
CO68718393