You are on page 1of 125

n j « ---- a c------*T_n

' LÀNG
: NGUYỆT VIÊN :
Ị [ĩp.ĩHnnHHún] 1

u U i ___3 r rJ~b

y \ ầ m bên dòng sông M ã, làng N guy ệt Viên, xã


H oằng Q uang, huyện H oằng H oá, từih Thanh H oá (xã
H oằng Q uang nay thuộc th àn h phô" Thanh H óa) được
biết đ ến n hư m ột địa d an h có tru y ền thông h iếu học
bậc nhâ"t xứ Thanh.
Địa th ế làng N guyệt Viên có n ú i Phong C h âu làm
án, d ò n g sông Mã uô"n quanh, non sông h u n đ ú c khí
thiêng. Địa linh sinh n h â n kiệt, đâ"t n à y đã sinh ra
nhiều nhân tài hào kiệt, đặc biệt là danh n h â n khoa
bảng. Xưa, làng có tên là Phúc C hâu, N g u y ệt G iang
và N guyệt N ổ, đến năm 1637 được đổi tên là N g u y ệt
Viên. Tương truyền, vua Lê T hánh Tông đã đ ổ i tên
làng N guyệt N ổ th àn h N guyệt Viên. Trong m ộ t lần
nhà vua đi thuyền rồng qua đây, chứng kiến phong
cảnh thơ m ộng, người d â n có nhiều phong tục th u ần
h ậ u , sống trong cảnh yên bình, no â'm nên đ ặ t lại tên
làng n h ư vậy.

1ŨQ
Xưa kia, làng N guyệt Viên nổi tiếng ở xứ Thanh,
được n h iều người biết đ ến là "Làng khoa bảng" hay
"làng đ ạ i khoa". Cả xã H oằng Q uang có 22 người đỗ
khoa b ả n g thì làng N g u y ệt Việt có 11 người, tấ t cả
đ ều được ghi danh tại V ăn M iếu ở Hà N ội và Huế.
N gười đỗ khoa bảng cuôl cùng của làng N guyệt Viên
là ông Lê Viết Tạo đ ậ u Phó bảng khoa thi H ội năm
Kỷ M ùi 1919, làm quan dưới triều nhà N guyễn.
Theo m ộ t sô" sử liệu của h u yện H oằng H óa còn
ghi lại: "Trước kia, khi văn m inh sông nước còn thịnh,
N g u y ệt V iên là bến đỗ của các thương thuyền. Bến
N guyệt Viên nhộn nhịp trên bến dưới thuyền, trăm
người bán, v ạn người m ua. Các quan tổng, quan phủ
cũng thườ ng đ ến đ ây nghe h á t và tiêu dao thơ phú
nơi sông nước h ữ u tình". N gày nay, trong d ân gian
v ẫ n còn tru y ề n tụng: "Cơm N ông C ông, cá Q uảng
Xương, v ă n chương H oằng H óa"; hay "N guyệt Viên
có 18 ông nghè, ông cưỡi ngựa tía ông che lọng vàng".
N ếu n h ư thời trước, làng N guyệt Viên có nhiều
người học h àn h đỗ đ ạ t cao, như: N guyễn N hân Trị đỗ
Tiến sĩ n ăm G iáp Tuâ"t (1634), Lê Bình Trung đỗ Đệ
tam giáp Đ ồng Tiến sĩ khoa C anh Thìn (1640), N guyễn
Kứih đ ỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ khoa Tân Sửu
(1661), N g u y ễ n Tông đỗ Tiến sĩ năm C anh Thân
(1680)... thì ngày nay (năm 2010), người ta thông kê
v ù n g quê n à y cũng đã có 2 giáo sư, 4 phó giáo sư,
hơn 30 tiến sĩ, hơn 20 thạc sĩ... ở N guyệt Viên, có
n h ữ ng d ò n g họ lây việc đỗ đ ạ t thành tài làm tôn chỉ
m ục đích trong cuộc sông, và đã đóng góp được râ"t

1Ũ7
n h iều cho đ ấ t nước n h ư dòng họ Lê Viết...
N g o à i tru y ề n th ô n g khoa b ả n g thì lang N g u y ệ t
V iên còn có n hữ ng d i tích cổ kứửi m à n ổ i b ậ t n h ấ t là
nghè N g u y ệt Viên trô n g ra d ò n g sông M ã. Khi xưa
nghè n à y nằm sát m ép nước, nay được n g ă n cách bởi
m ộ t con đê vữ ng chãi. H ướng của nghè cũ n g chứửi là
b ến sông, nơi có nhữ ng con thuyền sau n h ữ n g chuyến
lên ngược về xuôi, buô n g chài quăng lưới, chuyên chở
"chè ngon xuông biển, cá ngon lên rừng" trở về bến
đ ậ u , hư ớ ng m ũ i thuyền chầu vào nghè chiêm b ái vị
Thành H oàng và m ong được thần chở che, p h ù hộ cho
họ có cuộc sống no đ ủ , bình yên.
M ặc d ù đã qua nhiều lần trù n g tu, song n g h è v ẫ n
còn lư u giữ được nghệ th u ậ t trang trí và đ iê u khắc
thời Lê. Theo các d ò n g chữ ở thư ợ ng lương th ì nghè
được xây d ự n g vào năm Q uý Tỵ, n iên h iệ u Q uang
H ưng (1593) và dược tu bổ lớn vào n ăm Đ inh H ợi,
n iê n h iệ u M inh M ệnh (1827), tu sửa tiế p v à o n ăm
Bính T hân, n iên h iệu T hành T hái (1896) và g ần đ ây
n h ấ t là trù n g tu vào năm 2008. N ghè N g u y ệ t V iên
được xây dự n g từ cuôi thê kỷ 16, trải qua tu b ổ rửiiều
lần, n h ư n g v ẫ n giữ được nhữ ng n ét kiến trú c và đ iêu
khắc cổ.

1ŨQ
mọĩsôDnnHnHrlnĩiẼUBiểU:

Nguyễn Văn Phó (? - ?)


N g u y ễ n V ăn Phú sinh ra và lớn lên tại làng
N g u y ệt Viên, tổng Từ Q uang, huyện H oằng Hóa, trân
Thanh Ba. N ay là làng N guyệt Viên xã H oằng Quang,
th àn h phô" Thanh H óa.
ô n g xuâ't th ân là quan ngự y dưới triều vua Dụ
T ông (1705-1729). Trong chuyến hộ tông hoàng đ ế
tu â n d u v ào N am , ố ng đã lưu lại v ù n g đâ"t Q uảng
N am lập nghiệp. Sau khi rời quê hương N guyệt Viên,
T hanh H óa di cư v ào N am , ông đã ở lại xã M ông
Lãnh, thuộc p h ủ Thăng Hoa, dinh Q uảng N am , địa
d an h xã M ông Lãnh có từ thời \ma Lê Thánh Tông.

Ngô Cao Lãng (? - ?)


N gô Cao Lãng là m ột nhà văn, nhà nghiên cứu văn

1ŨQ
hóa nổi tiếng và là m ột tác gia lớn triều N guyễn. Tuy
nhiên, ông được người đời biết đ ế n nhiều với vai trò là
m ột nhà sử học qua bộ sử tư n h â n Lịch triều tạp kỷ.
T ên chính của ông là Cao Lãng; có khi lây họ là
Lê ho ặc N gô; tự Lệnh P hủ, h iệ u là V iên Trai; quê ở
làn g N g u y ệt Viên (nay là xã H oằng Q uang, th àn h p h ố
T h an h H óa, tm h Thanh H óa). N ă m 1807, ô n g đỗ
H ương công, làm quan đ ế n Tri p h ủ , sau về kinh làm
ở Quô"c sử quán triều N guyễn. Bên cạnh vai trò là m ột
v iên quan cai trị, ô n g còn là nhà văn, nhà sử học nổi
tiến g đương thời. Ô ng đ ể lại n h iều tác p h ẩm có giá
trị, trong đó đ án g kể n h ất là bộ Lịch triều tạp kỷ được
b iên soạn vào đ ầ u th ế kỷ 19, chép các sự việc theo
th ể biên niên (1672 - 1789). Bộ sử bao gồm các tư liệu
về v ua Lê, chúa Trinh và chúa N guyễn, có nh iều sự
việc không thấy chép trong các sách chm h sử n h ư sử
ký toàn thư và Việt sử cương mục. Lịch triều tạp kỷ chứa
n h iề u sử liệu quý, gồm 6 q u yển chép tay với 420 tờ
(hiện th iếu quyển 5), đã được NXB Khoa học Xã hội
tổ chức dịch và xuâ't bản vào n ă m 1975.
N g u ồ n tư liệu phong p h ú trong Lịch triều tạp kỷ
là kho tàng đ ể các nhà nghiên cứ u khai thác, tra cứu
n h iều thông tin quan trọng. Đ ây là m ột bộ dã sử - sử
tư n h â n rấ t quý giá, xét về phư ơ ng d iện tư liệu v ăn
học. Q ua đó, ta có thêm n h iều h iểu biết về các v ấn
đề của v ă n học sử trung đại, từ quan niệm v ăn học
đ ế n quan niệm thẩm m ỹ, đời sông v ă n học, v ấn đề
n g ô n n g ữ v ă n tự của văn học. N ổ i b ậ t trong đó là lôl
xướng họa thơ ca cung đình đ ặc sắc của các chúa, bề

1 lũ
tôi y êu thơ và đặc biệt là sự chuộng N ôm , sành N ôm
của các chúa Trịnh, đã đưa vị trí của chữ N ôm ngang
h àn g với chữ H án - th ứ v ăn tự vốn được coi là Quốc
thông, chm h đ ạo (Theo tác giả N gô Thị Xuân H ồng -
Đề tài lu ận v ă n cao học).
K hông chỉ Lịch triều tạp kỷ, N gô Cao Lãng còn để
lại n h iều tác p h ẩ m quan trọ n g khác như Lê triều lịch
khoa tiến sĩ đề danh bi kỷ, Quốc triều xử trí ,Vạn Tượng
sự nghi lục, N gũ man phong thổ ký, Bắc kỳ tạp biên,
Thanh Hóa dư đồ sự tích ký,... Sáng tác thơ v ăn của ông
được tập h Ợ p trong các cuốn: Viền Trai thi tập, Viền
Trai văn tập.

Nguyễn Hữu Độ (1813 - 1888)


ồ n g là đ ạ i th ầ n đ ờ i v u a Đ ồ n g K h án h , tự Hi
B ùi, h iệ u T ô n g K hê, d ò n g d õ i n h à thơ N g u y ễ n
T rãi, q u ê là n g N g u y ệ t V iên, h u y ệ n H o ằ n g H ó a
(nay là là n g N g u y ệ t V iên, xã H o ằn g Q uang, th à n h
phô" T h anh H óa).
Ô ng đỗ C ử n h ân năm 1837, đỗ Tiến sĩ năm 1883.
Làm quan từ Thượng th ư đ ến Phụ Chmh đại thần, Cơ
m ậ t viện đ ại thần.
ô n g là người học thức uyên bác, từng giữ nhiều
chức v ụ quan trọng trong triều vua Đ ồng Khánh. Từ
n ăm 1880 đ ế n 1883 ông giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ
khi q u ân P háp chiếm H à N ội. Sau này ông là người
giữ m ột vai trò quyết dịnh cho việc Đ ồng K hánh lên

111
n g ô i (vì con g ái ông là ch án h p h i củ a v u a Đ ồng
K hánh) n ên được phong làm cô" m ạn g lưcíng th ần gia
hàm T hái sư, c ầ n chánh đ iện Đ ại học sĩ kiêm Cơ m ậ t
đ ại thần.
Ô ng cũng là người góp p h ầ n m ở ra m ôl quan hệ
giao lưu V iệt N am - N h ậ t Bản. V ào k h o ản g n h ữ n g
năm 1880 - 1883, ông thay m ặt triều đìn h nhà N g u y ễn
tặng cho chm h p h ủ N h ậ t Bản bộ sách Đại Việt sử ký
toàn thư của nước ta. Sau đ ó , các học giả N h ậ t Bản
thây rằn g d ây là m ột bộ Lịch sử An N am có giá trị
nên đã cho khắc in lại tạ i N h ậ t Bản. Bộ sách Đại Việt
sử ký toàn thư b ản khắc in tại N h ậ t Bản có thêm hai
lời tựa; Lời tựa th ứ nhâ"t, Lời tựa th ứ hai và Phàm lệ
do người N h ậ t Bản viết...
N gày 18-12-1888, ông mâ't tại Hà N ội, thọ 75 tuổi,
di hài đưa về chôn ở H uế.
Tác p h ẩ m của ông: Đại Nam thực lục chính biên,
Tông Khê tấu nghị tập.

Lê Viết Tạo (1876 - 1925)


Lê Viết Tạo sinh năm 1876 tại làng N g u y ệt Viên,
xã H oằng Q uang, h u yện H oằng H óa, từửi Thanh H óa
(xã H oằng Q uang nay thuộc th àn h phô' Thanh H óa).
Lúc nhỏ tên là H ữu Dỡn, sau đ ổ i th à n h Viết Tạo. Tự
là Thăng Học.
Sinh ra trong m ột gia đình nông d â n nghèo nhưng
h iếu học. Cha là Lê H ữ u G iáo (1854 - 1908), m ẹ là

112
N g u y ễn Thị N gu (1854 - 1896). Từ nhỏ đã có tư châ^t
thông m ũứi.
Đ ể th o á t k h ỏ i cản h nghèo h èn , ôn g sớm cùng
ngư ờ i em ru ộ t là H ữ u C ôn ra làm công ở Hà N ội,
anh em nương tựa, kiếm chôn học h à n h và kiến thức
được m ở rộ n g n h iề u p h ầ n . Sau v ài năm , ông được
đưa về quê. N h ữ n g cử tử trong h u yện xếp ông vào
h ạ n g cự phách.
N ă m Bính N gọ (1906) ông thi đỗ Tú tài. N ăm
34 tu ổ i, khoa th i Kỷ D ậu (1909) ô n g th i đỗ G iải
n g u y ê n . Đ ến n ă m Đ inh Tỵ (1917), ôn g được b ổ làm
q u a n tạ i N iế t ty (Ty Á n sát) N ghệ A n h à m Bát
p h ẩ m . H ơ n m ộ t n ầ m sau , khoa th i H ộ i, â n khoa
cuôT c ù n g c ủ a n h à N g u y ễ n , n ă m Kỷ M ù i (1919),
ô n g v à o Đ ình đổTi được â n tứ Ấ t b ả n g T iến sĩ (Phó
bản g ). Bấy giờ ô n g đã 44 tuổi. T riều đ ìn h b ổ nh iệm
ô n g là m T h ừ a p h á i Bộ H ình, d ầ n d ầ n th ă n g lên
H àn lâ m v iệ n T hừ a chỉ.
Ô ng sán g tác n h iều thơ văn, đôX p h ú và dịch
thuật. Tiếng hay chữ của ông lẫy lừng thiên hạ, khắp
trong N am ngoài Bắc.
N ăm N h âm T uất (1922), ông được b ổ làm Tri
h u y ện T ân Đ ịnh (Bình Định). Hơn hai năm , ông xm
về kinh, sung chức Tự vụ ở Cơ m ật viện. Sau đó, được
thăng Q uang lộc tự khanh.
Ô ng m ấ t khi đang tại chức ở kũứi đô H uế, ngày
14 th án g 12 năm Ấ t Sửu (1925), thọ 50 tuổi, ô n g được
ghi d ấ u là m ộ t trong hai người cuôl cùng của xứ

113
T hanh đỗ đ ạ i khoa, khép lại tru y ề n th ố n g khoa cử
N ho học V iệt N am nói chung, nhà N g u y ễn nó i riêng
( người th ứ hai là N guyễn Phong Di, đồ Đệ tam giáp
Đ ồng T iến sĩ x u ất thân).
Lê V iết Tạo luôn nêu gương sáng của m ột vị đ ại
khoa tài d a n h m à đức độ, th àn h đ ạ t cả đườ ng công
d an h và gia đình, ô n g kết d u y ê n c ù n g con gái cụ cửu
p h ẩ m C ao Lập, người cùng làng sinh được 5 trai, 1
gái. N oi gương ông, các người con và các th ế hệ h ậ u
d u ệ củ a ô n g , n h iề u người rấ t th à n h đ ạ t tro n g con
đ ư ờ n g h ọ c v â n và kinh d o anh ở p h ạ m v i tro n g và
ngoài nước.

Nguyễn Phong Di (1889 - ?)


N g u y ễ n Phong Di tên th ậ t là N g u y ễ n T hái Bạt,
sinh n ăm 1889, người xã N guyệt V iên, h u y ệ n H oằng
H óa, p h ủ H à T rung, từih T hanh H óa (xã H oằng
Q uang nay thuộc thành phô" Thanh H óa).
Thời trẻ ông từng theo phong trà o Đ ông Du, sang
N h ậ t Bản học ở Đ ồng v ăn học hiệu . K hi p h o n g trào
Đ ông D u bị đ à n áp , Phan Bội C h â u p h ả i lá n h về
T rung Q uốc, chừih ông là người hộ tô n g H o àn g th ân
C ường Đ ể c ù n g Phan Bội C h âu về h o ạ t đ ộ n g ở
Q uảng Đ ông. Sau này vì các phong trà o y êu nước lần
lượt bị th ấ t bại, ông trở về nước và ra trình d iện chứih
quyền thực dân. số n g ở quê nhà, tự th ây p h ả i có chức
d an h thì m ới g iú p được d â n địa phươ ng, vì v ậ y ông

114
đ à n h theo lôi học cử tử, m ặc d ù b ấy giờ N ho học đã
suy tàn.
Ô n g đã lầ n lư ợ t thi đỗ C ử n h â n rồ i đỗ đ ầ u Đệ
tam g áp Đ ồng T iến sỹ xuâT th â n khoa thi cuôT củng
N h o h ọ c (khoa Kỷ M ủi - 1919 - lú c ô n g 30 tuôT).
N g u y ễ n P hong Di ra làm q u an chưa được bao lâu
th ì bị b ệ n h m à chết, v ă n th â n xứ N ghệ đã viến g đô i
c â u đôT: "M ột n é n hươ ng đư a ngư ờ i chí s ĩ / T răm
n ă m cò n m ã i tiế n g đ ìn h nguyên".

115
n - i c---- ‘T n

LÀNG ^
p n M N LÝ
Ị [nflmsiicH.HAiDư ne]
0

uT#x— 3 f u

'^Óàng N h â n Lý xưa kia do T ran g Đ ào và Trang


Si h ợ p lại, th u ộ c h u y ệ n T h an h L âm , p h ủ N am Sách
lộ Đ ông H ải. Đ ến đờ i N g u y ễ n , N h â n Lý th u ộ c tổ n g
A n Lương, h u y ệ n N am Sách, tỉn h H ả i D ương. Từ
1945, N h â n Lý th u ộ c xã T h an h L âm . Từ N ă m 1989
xã T h an h Lâm đ ổ i th à n h th ị trấ n N am Sách.
Q ua các khoa thi từ n ă m 1076 đ ế n n ă m 1919,
N h â n Lý đã có tớ i 11 n g ư ờ i đ ỗ T iến sĩ. Có d ò n g
h ọ có tớ i 2, 3 n g ư ờ i đỗ T iế n sĩ. Có gia đ ìn h m ấy
đ ờ i có n g ư ờ i đ ỗ T iến sĩ. L à n g N h ầ n Lý có sô"
n g ư ờ i đỗ T iến sĩ đ ô n g v à o h ạ n g th ứ n h ì tỉn h H ả i
D ương xưa, chỉ sau là n g M ộ T rạ c h (xã T ân H ồ n g ,
h u y ệ n Bình G iang v đ i 36 n g ư ờ i đ ỗ T iến sĩ và
T rạ n g n g u y ê n ).
N g o à i tru y ề n th ô n g h iế u h ọ c và khoa b ả n g ,
N h â n Lý còn có m ộ t d i s ả n v ă n h ó a q u ý g iá, đ ó là

1 1B
n g ô i d in h cổ h à n g tră m n ă m tu ổ i. Đ ình N h ân Lý
k h ô n g n h ữ n g là d i sả n v ă n hoá đặc sắc m à còn gắn
liề n v ớ i n h iề u sự tích, tru y ề n th u y ế t lịch sử. Đ ình
là nơi thờ đươ ng c ản h T h àn h H oàng Đ ại vương Đ ào
T u ấ n Lương, n g ư ờ i có công â m p h ù đ á n h giặc
Lương th ế kỷ th ứ 6, tro n g cuộc khở i nghĩa của Lý
B ôn (Lý N am Đ ế) d ự n g nước V ạn X uân đ ộc lập.
T heo tru y ề n th u y ế t, Đ ức T h à n h h o à n g còn b áo
m ộ n g cho v u a T rầ n và Đ ức T rần H ưng Đ ạo, h iến
k ế đ á n h giặc N g u y ê n khi q u â n T rần đ ồ n trú tại khu
rừ n g T hanh L âm tro n g kh u vực A n Lương, cẩm Lý,
Lang K hê, N h á n Lý, Đ ồng K hê. Q ua lời báo m ộng
c ủ a Đ ức T h à n h h o à n g , q u â n n h à T rầ n đ ã ch iến
th ắ n g q u â n N g u y ê n tro n g trậ n ấy. Sau th ờ i gian đó,
v u a T rầ n sắc p h o n g cho Đ ức T h à n h h o à n g Đ ào
T u ấ n Lương tước S ù n g V ăn m ẫ u công, đương cảnh
T h à n h h o à n g , giao cho 4 làn g thờ p h ụ n g tạ i đình
N h â n Lý.
Đ ể tư ở n g n h ớ c ô n g đ ứ c c ủ a n g à i, đ ã g ầ n
n g h ìn n ă m n a y cứ đ ế n n g à y 10-2 (âm lịch) h à n g
n ă m , n h â n d ầ n các làng: N h â n Lý, B ạch Đa, Đ ồng
K hê v à L ang K hê lạ i long trọ n g m d h ộ i và là m lễ
d â n g hư ơ ng.

117
íĩiộĩsôDnnHnHRnĩiỀUBÉ:

Phạm Như Trung (1413 - ?)


Phạm N gười xã N hân Lý, h u y ện Thanh Lâm (nay
thuộc thị trấn N am Sách, huyện N am Sách). N ăm 30
tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất th ân khoa
N hâm Tuâ't, niên hiệu Đại Bảo 3 (1442). Làm quan đến
chức Đ ông các H iệu thư.

Phạm Bá Khuê (1 4 19-?)


Phạm Bá Khuê người xã N hân Lý (nay thuộc thị trấn
Nam Sách, huyện N am Sách), ô n g dỗ Đệ nhị giáp Tiến
sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Quý Dậu, niên hiệu Thái
Hoà 11 (1453). Ô ng làm quan đến chức quan Thị lang,
được cử đi sứ nhà Mữứi (12-1464). Phạm Bá Khuê là ông
nội của Phạm Dương, viễn tổ của Tiến sĩ Phạm Hưng
Nhân, Phạm Khắc Mũửi, Phạm Văn Tuấn.

1 1Q
Nguyễn Hoản (? - ?)
N g u y ễn H o ản người xã N h ân Lý, h u yện Thanh
Lâm (nay thuộc thị trấ h N am Sách, huyện N am Sách).
Ô ng đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuâT thân (H oàng giáp),
khoa Q uý Sửu, n iên h iệu H ồng Đức 24 (1493). ô n g
làm q u an tới chức H àn lâm viện H iệu lý.
Ô n g là th à n h v iên H ội Tao Đ àn. Là anh tiến sĩ
N g u y ễn H uyên.

Phạm Dương (1470 - ?)


P h ạm D ương người xã N h â n Lý, h u yện Thanh
Lâm (nay thuộc thị trấn N am Sách, huyện N am Sách).
N ăm 24 tuổi, ông đỗ H ội nguyên, Đệ tam giáp Đ ồng
Tiến sĩ xuâT thân, khoa Q uý Sửu, niên hiệu H ồng Đức
24 (1493). Sau đó, ông làm quan tới chức Tham chửih.
Ô ng là cháu nội của Tiến sĩ Phạm Bá Khuê, là bác
của P hạm H ưng N hân, ông n ộ i Phạm Khắc Mữih,
tằn g tổ Phạm V ăn Tuá'n.

Nguyễn Minh Bích (1521 - ?)


N guyên quán của N guyễn M inh Bích ở thôn N hân
Lý, hu y ện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn N am Sách,
h u yện N am Sách), ô n g trú tại xã An N inh, huyện Chí
Linh (nay thuộc xã A n Bình, huyện N am Sách). N ăm

119
42 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ x uất th â n (H oàng
giáp), khoa N hâm T uất, n iê n h iệ u T h u ần Phúc th ứ
n h ấ t (1562). Ô ng từng được cử đ i sứ T rung Q uôc, sau
về làm quan đ ế n chức T hượng thư, tước Lâm Xuyên
bá. Được về trí sĩ, sau theo nhà Lê.

Phạm Khắc Minh (1545 - ?)


Phạm Khắc M ữih người xã N h ân Lý, h u y ện Thanh
Lâm (nay là thôn N hân Lý, thị trấ n N am Sách, h u y ện
N am Sách). N ăm 36 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng
T iến sĩ xuâT th ân , khoa C anh Thìn, n iê n h iệ u D iên
T hành 3 (1580). ô n g làm quan tới chức Thượng thư,
tước h ầu . Ô ng là bác Tiến sĩ P hạm V ăn Tuấn.

Phạm Văn Tuấn (1 5 9 8 -? )


Phạm V ăn T uân N gười xã N h â n Lý, h u y ện Thanh
Lâm (nay thuộc thị trâ n N am Sách, h u yện N am Sách).
N ăm 49 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất
th ân , khoa Bính Tuâ't, n iên h iệu Phúc Thái 4 (1646).
Ô ng làm quan tới chức G iám sát.
Phạm V ăn T uấh là cháu n ộ i của P hạm Bá K huê,
ch áu họ P hạm Khắc M inh; v iễ n tô n P h ạm H ưng
N h ân, đ ề u là Tiến sĩ.

12Ũ
Nguyễn Thế Khải (1709 - ?)
N g u y ễn T h ế K hải người xã N h ân Lý, huyện
Thanh Lâm (nay là thị trấ n N am Sách, h u yện Nam
Sách). N ăm 28 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ
x u ất th ân , khoa Bmh Thìn, n iên h iệu Vĩnh H ự u 2
(1736). ô n g làm quan tới chức H ữu thị lang Bộ Hình,
hiệp thống lĩnh, tước hầu. Bị bãi chức sau được phục
d ụ n g , th ăng H àm lâm H iệu lý. Sau đó, ông được bổ
làm Lưu thủ trấn Thanh Hoa (Thánh H óa ngày nay)
và m ất trên đư ờ ng đi.

121
n p*---- 1T c-------- »n n

LÀNG
.ÀNG ]
líl TUI J
PHÚ THỊ
[Gii)Llìni.HllnQi]
I___3 c------nTU

a ^ à n g P hú Thị tên N ôm là làng Sủi, nay thuộc xã


Phú Thị, h u y ệ n Gia Lâm. "Sủi" có gốc từ âm V iệt cổ
"S'lủi", sau p h iê n âm ra chữ H án là Thổ Lỗi, sau đ ổ i
th àn h Siêu Loại. Từ thờ i Lý, đ â y là tru n g tâ m của
hương Thổ Lỗi. K hông rõ từ bao giờ, làng được đ ổ i
tên thành Phú Thị. Tên xã Phú Thị xuất hiện sớm n h ất
trong lời v ă n m ộ t số tấm bia, n h ư bia "Công đức tạo
san bi" n iên h iệu Dương H oà th ứ 2 (1636) h iện d ự n g
trước đình làng. V ào cuôT đời Lê Trung H ưng, P hú
Thị còn được triều đình ban tặng hai chữ v àn g là làng
"Trung Nghĩa" m à tâ'm bia "Trung nghĩa bi kí" đ ã ghi
lại những tru y ền thống tốt đẹp, những đặc ân m à làng
đã được nhà nước phong kiến trước đ â y ban tặng.
Phú Thị là m ộ t làng cổ có tru y ền thố n g h iếu học,
khoa bảng với 10 người đỗ đ ại khoa trong k hoảng 70
năm của th ế kỷ 18 (1703 - 1779), trong đó họ N g u y ễn
H uy chiếm đ ô n g nhâ't: 5 người, gồm N g u y ễ n H u y

122
N h u ận (đỗ năm 1703), con ông là N guyễn H uy D ẫn
(đỗ 1748), ch áu nội (con H uy Dẩn) là N guyễn H uy
C ận (1760); anh em hàng chú bác ru ộ t của N guyễn
H uy N h u ậ n là N guyễn H uy M ãn (1721), N guyễn H uy
T huật (1733). 5 tiến sĩ còn lại là (Đoàn Q uang Dung
hay Bá D ung, đỗ năm 1710), Cao (Cao Dương Trạc,
1715), Trịnh (Trịnh Bá Tướng, 1721), Trần (Trần H uy
Liễn, 1779) và N guyễn Xuân (N guyễn Xuân H àn, cùng
năm 1779).
Trong số các Tiến sĩ của làng Phú Thị, có 4 người
ở xóm G iữa (N guyễn H uy N huận, Cao Dương Trạc,
Đ oàn Q uang Dung, Trịnh Bá Tướng) cùng làm Thượng
thư, cùng tham gia vào những chứih sách lớn của triều
đình Lê - Trịnh trong gần 10 năm từ giữa thập kỷ 30
đ ế n đ ầ u th ập kỷ 40 th ế kỷ ". C âu ngạn ngữ "NhâT
m ôn tam Tiến sĩ, đồng triều tứ Thượng thư" và câu
ca trong Kmh Bắc phong thổ diễn quốc sự "C hung
linh đ ấ t Sủi ai vì, Thượng th ư m ột ngõ, bô"n vì hiển
vin h " x u ất xứ từ đây. Có 2 người (N guyễn H uy
N h u ận , Đ oàn Bá Dung) p h ụ n g m ệnh đi sứ. Trong sô"
các Tiến sĩ làng Phú Thị, sử sách nhắc n h iều đ ến
N guyễn H uy N h uận, làm quan đ ế n Tham tụ n g (Tể
tướng), là m ột trong 5 vị "Phụng thị ngũ lão" (về hưu
mà v ẫn được vời ra g iúp triều chmh) của triều Lê -
Trịnh, ông được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh (1723).
N ăm 1728, được cử lên Tuyên Q uang nhận đâ"t do nhà
Thanh trả lại cho ta. ô n g cùng các sứ thần nhà Lê -
Trịnh xông pha lăn lộn những nơi lam chướng, hiểm
trd, đi qua các xưởng bạc, xưởng đồng, n h ận ra đ ú n g
chỗ sông Đồ C hú m à m ột số quan lại địa phương nhà

123
Thanh cố tình làm lệch m ốc, b èn dự ng bia ở nơi giáp
giới. Từ đấy, cương giới hai bên m ới ổn định.
K hông chỉ có 10 tiến sĩ, làng Sủi còn có g ầ n 20
H ương công thời Lê, 5 C ử n h â n thời N gu y ễn . Trong
sô' họ, có N gu y ễn H uy Lượng từ ng nổi tiến g với bài
Tây Hồ phú, Cao Bá Q u át nổi tiếng về thơ văn .
Phú Thị k h ô n g chỉ là m ộ t làn g khoa b ả n g , m ộ t
làng v ăn chương, m à còn là m ộ t d ả i đâT đã đ i v à o sử
sách từ nghìn n ăm trước đây. T hế kỷ th ứ 10, v u a Đinh
Bộ Lĩnh đã cho m ộ t sứ q u â n đóng đ ạ i b ả n d o a n h ở
đ â y đ ể trâ n giữ v ù n g y ế t h ầ u của con đ ư ờ n g n ố i
th à n h Đ ại La (tức H à N ộ i n g ày nay) vớ i v ù n g Luy
Lâu (Dâu, T h u ận Thành) và Lục Đ ầu G iang.
V ùng đ ấ t n à y cũng là nơi khởi đ ầ u của cuộc hôn
nhân đẹp giữa vua Lý Thánh Tông và m ột cô gái làng,
sau n ày trở th à n h n g u y ên phi rồ i H oàng th á i h ậ u Ỷ
Lan (thế kỷ 12). T hái h ậ u Ỷ Lan là m ộ t n h à v ă n hóa
lớn, thông hiểu tam giáo nhưng sùng dạo Phật. Bà cho
xây d ự n g n h iề u ch ù a trê n đ ấ t Bắc, tạc n h iề u pho
tượng có giá trị th ẩm m ỹ cao. Là nhà chứih trị, h ai lần
n h iếp chm h th ay chồng và con, bà đã g iữ n g h iêm
được kỷ cương p h é p nước, trị b ọ n q u a n lạ i tham
n h ũ n g d ù là quô'c thích vương tôn. C hùứi bà là người
chỉ huy tốì cao cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
nhà Tông n ă m 1076-1077 m à Lý T hư ờng K iệt là vị
thống lĩnh q u â n đ ộ i đ ạ i tài...
Lịch sử lâ u đờ i và tru y ề n thông v ă n hoá c ủ a Phú
Thị còn gắn v ớ i các d i tích lịch sử - v ăn hoá của v ù n g
quê. Địa d a n h v ă n hoá Phú Thị còn có ch ù a th ờ Phật,

124
đ ìn h thờ Đ ào Liên Hoa, m ột trong những danh thần
của Đũứi Tiên H oàng có công d ẹp loạn 12 sứ quân.
Ô ng được thờ làm Thành hoàng làng. Bên cạnh đó là
n g ô i d ền thờ N guyên phi Ỷ Lan.
Kiến trúc của di tích Phú Thị với đình, đền, chùa tạo
thành m ột quần thể kiến trúc tôn giáo khép kfri, hoàn
chỉrứi trên m ột khuôn viên rộng lớn bên đường làng.
Đền thờ N guyên phi Ỷ Lan ở phía ngoài cùng, đình
và đ ền ở phía sau theo dạng kiến trúc Tiền Thần - H ậu
Phật. Kiến trúc đ ền đầy đ ủ các nếp tiền tế, phương
đình, h ậu cung. Đình là khu nhà lớn, các nét kiến trúc
hiện đại có ở thời N guyên. Các xà, quá giang, đầu d ư
... được chạm rồng m ang phong cách đời N guyễn.
Chùa Đại Dương (còn có tên là Sùng Phúc Tự) được
xây lui vào phía sau đình, đền, các con rường, kẻ...,
trong chùa trang trí đơn giản hình mây, hoa lá, rồng...
T hế kỉ 17 đ ến 18, quần thể di tích được trù n g tu,
tô n tạo nhiều lần. Khu di tích Phú Thị có bề dày lịch
sử lâu đời. Địa danh văn hoá này còn lưu giữ được
rấ t lửiiều di v ật có giá trị trải d ài qua các thời kì lịch
sử v ớ i n h iề u loại hình và c h ất liệu. Bia đá còn lại
trong khu di tích có tới 20 tấm , nhiều bia trang trí đẹp,
có n iên đ ạ i cuôl th ế kỉ 17 - đ ầ u th ế kỉ 18.
H ệ th ố n g pho tượng trò n rấ t lớn, gồm 73 pho,
trong đó có nhiều pho được tạc từ th ế kỉ 17 - 18 như
tượng Tam Thế, A Di Đà, Q uan  m nghìn m ắt, nghìn
tay... cùng nhiều chuông đồng, khánh đá, hoành phi,
câu đ ố i ...

125
(ỉiỆ ĩsốD onH nH nnĩiÊ U B É :

Lê Thị Yến (Nguyên phi Ỷ Lan, 1044-1117)


Bà Lê Thị Yến (N guyên phi Ỷ Lan) quê ở làng Thể
Lỗi sau đổi thành Siêu Loại (Thuận T hành, Bắc N inh),
nay là Phú Thị, Gia Lâm, H à Nội. Vì m ẹ mâ't từ lúc
12 tuổi, cha lấy vỢ k ế n ên thân p h ậ n Ỷ Lan k h ổ n h ư
cô Tâ'm trong chuyện cổ. Sử ghi, Ý Lan là cô Tấm lộ
Bắc (nhân d â n gọi đ ền thờ Ỷ Lan ở D ương Xá, Gia
Lâm, H à N ội là đ ền thờ Bà Tâ'm là vì thế).
N ăm ắy, vua Lý Thánh Tông 40 tu ổ i chưa có con
trai nối dõi nên về chùa D âu cầu tự. Vua và q u ần thần
v ã n cảnh trong vùng, chợt thấy trong n g à y hộ i vui,
m à trên nương vẫn có m ột người con gái v ừ a h ái d â u
vừa hát, vua vời đến hỏi sự tình. T hấy Lê Thị Y ến bội
p h ầ n xm h đ ẹp , lại đối đ á p lưu loát, v u a cảm m ến đưa
về triều, rồi phong làm N guyên phi, cho xây m ột cung
riêng, đ ặ t tên là cung Ý Lan.
Khác với các h ậ u phi, Ỷ Lan không lâ'y việc trau

12B
c h u ô t n h a n sắc, m ong chiếm được tình yêu của vua
m à q u an tâm đ ến hết thảy m ọi công việc trong triều
đ ìn h . Ý Lan khổ công học hỏi, m iệt m ài đọc sách,
n g h iền ngẫm nghĩa sách n ên chỉ trong m ột thời gian
n g ắ n , m ọ i người đ ề u kinh ngạc trước sự hiểu biết
u y ê n th âm về nhiều m ặ t của Ỷ Lan. Triều thần khâm
p h ụ c Ỷ Lan là người có tài. M ột lần, vua Lý Thánh
Tông hỏ i Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu: "Muốn nước
giàu d â n m ạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián
củ a đâ'ng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai
n hư ng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu
nhưng chữa được bệnh. Đ iều hệ trọng thứ hai là phải
xem q u y ền hành là m ột th ứ đáng sỢ. Q uyền lực và
d a n h vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu
đức đ ể giáo hóa dân thì sâu hơn m ệnh lệnh, dân bắt
chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước m uốn
m ạnh, H oàng đ ế còn phải nhân từ với m uôn dân. Phàm
xoay cái th ế thiên hạ ở n h ân chứ không phải ở bạo.
H ội đ ủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch."
N ghe Ỷ Lan tâu, vua phục lắm. Bởi thế, năm 1069,
v u a Lý T hánh Tông thân cầm quân đi đ án h giặc, đã
trao q u y ền nhiếp chm h cho Ỷ Lan. C ũng ngay năm
ấy, nước Đại Việt không m ay bị lụt lớn, m ùa m àng
thâT b át, nhiều nơi sinh loạn. N hưng nhờ có k ế sách
trị nước đ ú n g đắn, quyết đ o án táo bạo, loạn lạc đã
được d ẹ p yên, d â n đói đã được cứu sống. C ảm cái ơn
ấy, cũ n g là cách suy tôn m ột tài năng, nhân d ân đã
tô n th ờ Ỷ Lan là Q uan  m N ữ. Vua đ á n h giặc lâu
k h ô n g th ắn g , b èn trao q u y ền binh cho Lý Thường
Kiệt, đem m ột cánh quân nhỏ quay về. Đ ến châu Cư

127
Liên (Tiên Lữ, H ưng Yên) hãy tin Ỷ Lan đã vữ n g vàng
đ ư a đ ấ t nước v ư ợ t qua m u ô n trù n g khó k h ăn , giữ
cản h th á i bình, thịnh trị, v u a h ổ th ẹ n q u ay ra trậ n
q u y ết đ á n h cho kỳ th ắn g m ới về.
N ăm N hâm Tý (1072), v u a Lý T h án h T ông đ ộ t
n g ộ t qua đời, triều Lý k h ô n g trá n h khỏi rô"i ren.
N h ư n g khi Ỷ Lan trở th à n h H o àn g th á i h ậ u n h iế p
chúìh và Lý T hường K iệt n ắ m q u y ề n Tể tư ớ n g thì
nước Đại Việt lại khởi sắc, n h an h chóng th ịn h cường.
Ý Lan đã thi h àn h n hữ ng biện p h á p d ự n g nước yên
d â n , khiến cho th ế nước và sức d â n dã m ạn h h ẳ n lên.
N ăm Đ inh Tỵ (1077), T ông triề u p h á t đ ạ i b in h
sang xâm lược. Đ ể Lý Thường Kiệt rản h tay lo việc
trậ n m ạc, Thái h ậ u Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ,
đ iều Lý Đạo Thành từ N ghệ A n về, trao chức Thái sư
n h ư cũ, đ ể cùng m ình đ iều khiển triều đình, h u y đ ộ n g
sức người sức của vào trận. N hờ vậy, nước Đ ại Việt
đ ã làm nên chiến thắng h iển hách. Q uân giặc h ù n g
h ổ toan làm cỏ nước Đ ại Việt đã p h ả i cam chịu th ấ t
bại, lủi th ủ i rú t q u ân về nước.
Làm nên chiến th ắn g này, công Thái h ậ u Ỷ Lan
quả là rấ t lớn.
Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, H oàng h ậu
Thượng Dương dựa vào th ế lực của Thái sư Lỷ Đạo
Thành, đã gạt Ý Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau,
có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ý Lan mới ữở lại nắm quyền
nhiếp clúnh. về nội trị, bà ban hành nhiều chứửi sách tiến
bộ như chuộc nô tỳ, tha cimg nữ, giảm tô thuế, cấm giết
trâu bò. Là người hâm mộ đạo Phật, có công xây dựng

1Efl
hàng trăm ngôi chùa, am hiểu Phật học, không kém các
thiền sư nổi tiếng đưcíng thời. Bà có viết một bài kệ:
Sắc thị không, không tức sắc
Không thị sắc, sắc tức không
Sắc không quân bất quản
PhWng đắc kh ế chăn không.
N ghĩa là:
Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc không đều chẳng quản
Mới đitợc hợp chân tông.
Với b ài kệ này, H oàng Thái h ậ u Ỷ Lan được các
nhà nghiên cứu văn học xếp vào hàng tác gia v ăn học
thời Lý - T rần
Bà mâ't ngày 25 tháng 7 năm 1117. Sau khi bà m ất,
nh iều nơi đã xây d ự n g chùa tháp, đền thờ bà. C ùng
với n h ữ ng ngôi đ ền lớn thờ bà ở h u yện Gia Lâm (Hà
Nội), hiện ở H ưng Yên cũng có ngôi đền G hênh (thôn
N gọc Q uỳnh, thị trấn N hư Q uỳnh, huyện Văn Lâm)
và ngôi chùa H ương Lãng, xã M inh H ải thuộc Văn
Lâm thờ bà.

Nguyễn Huy Nhuận (1678 - 1758)


N g u y ễn H uy N h u ậ n sinh n ăm 1678, tên tự là

12B
Q uang N h uận, sau đ ổ i th à n h H uy N h u ận , n g ư ờ i làng
Phú Thị, h u y ệ n Gia Lâm , tỉn h Bắc N m h (nay th u ộ c
H à Nội).
Lúc nhỏ, N guyễn H uy N h u ậ n đã bộc lộ ý chí theo
đ u ổ i n g h iệp học, đ ế n 26 tu ổ i ông đỗ Đệ ta m g iáp
Đ ồng Tiến sĩ x u ấ t th â n khoa Q uý M ùi, n iê n h iệu
Chính H òa, đời V ua Lê H y Tông (1703). Sau khi thi
đ ỗ , ô n g đ ảm nhiệm nh iều chức vụ khác nhau.
Tháng 10 năm Bảo T hái th ứ tư (Q uý M ão 1723)
ô ng được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh. C húửi sứ là
Phạm K hiêm ích, sang m ừ ng v u a Thanh (U ng Chúứi)
m ới lên ngôi. Ba năm sau (1726) đi sứ trở về, ô ng được
làm Tả thị lang Bộ Hình, tước Triệu quận công. N hữ ng
khi rỗi việc quan, ông m ở lớp d ạy học, học trò có đ ến
h à n g trăm người, n h iều người đỗ đ ạ i khoa n h ư Lê
H oàn Viện (làng Bát Tràng), các em con chú của ông
là N guyễn H uy M ãn, N guyễn H uy Thuật.
Khi đang làm Tả thị lang Bộ Bừih, ôn g được cử
lên T uyên Q uang c ù n g với T ế tử u Quô"c T ử giám
N guyễn C ông Thái lăn lộn scm lam chướng khí, đ àm
p h án đòi lại 40 d ặm đâ't biên giới do nhà T hanh chiếm
giữ, trong đó có khu vực m ỏ đ ồ n g Tụ Long, lậ p mốc
giới và dự n g bia b ên bờ N am sông Đồ C hú. V ăn bia
do N guyễn H uy N h u ậ n soạn có nội dung: "G iới mô"c
châu Vị Xuyên, trấ n Tuyên Q uang, nước A n N am , lấy
sông Đồ C hú làm căn cứ. N gày 18 th án g 9 n ă m Ung
C húứi th ứ 6 (1728), chúng ta là N guyễn H u y N h u ận ,
Tả thị lang Bộ Binh và N g u y ễ n C ông T hái, T ế tử u
Q uốc Tử giám , được triều đ ìn h ủ y sai, v ân g theo chỉ

13Ũ
d ụ , lập bia đá này". Từ đó, cương giới hai bên mới
ổ n dinh.
Sau đó, N guyễn H uy N huận được vua Lê giao lần
lư ợt đ ả m trách Thượng T hư trả i 5 bộ, cao n h ấ t là
Tham tụ n g (Tể tướng).
N ăm Q uý H ợi (1743), Thiếu phó Triệu quận công
N g u y ễ n H uy N h u ận trí sĩ (về hưu). Lúc bây giờ ông
N h u ậ n 66 tu ổ i thăng thụ Thái tử Thái bảo. C húa ban
cho 12 cờ lục thêu, câu đôi và m ột bài thơ Q uan Phủ
Liêu, giao cho d ân xã của sáu tổng huyện (Gia Lâm)
đ ế n rước về làng.
Đ ầu n ă m 1745, ông lại được chúa Trịnh m ời ra
g iú p triều chứih. Bấy giờ, bốn phương không yên, giặc
giã n ổ i d ậy , giấy tờ việc binh bề bộn. N guyễn H uy
N h u ậ n n ắm giữ cả việc q u ân sự và hành chính, cai
q u ản tướng sĩ, khuyên bảo quan lại, dẹp giặc yên dân...
N ă m 1756, ông được cử giữ chức Tri quô"c Tử
giám . C h iếu d ụ rằng: "N hà G iám là nơi tác thành
n h â n tài. G ần đ ây dạy và học hơi trễ nải, văn th ể hơi
biến đổi. Các khanh là bậc túc N ho ở vào chức vụ nhà
T h à n h q u â n (Đại học) nên lưu ý cổ v ũ , bồi dưỡng
n h â n tài đ ể triều đình dùng".
N g u y ễn H uy N huận m ất tháng 4 năm 1758, thọ
81 tuổi. Sau khi m ất, ông được tặng Q uan hàm : Đại
tư m ã, Tham tụng, Đặc tiến kim tử Vinh lộc đ ạ i phu,
N h ập thị kừửi diên, Tri quô'c Tử giám , Trí sĩ, Phụng
thị n g ũ lão, tước Triệu Q u ận công, Tự Trung m ẫn,
th ụ y Đ oan Túc, triều đình ban tiền p h ú n g 500 quan.

131
ba xã p h ụ n g thờ...
Sách Đại Việt sử ký tục biên v iết về ông; "N hư ông,
d ò n g d an h N ho ở m ạn Bắc sông N hị H à, bậc n h â n
k iệ t ở p hía N am sao Bắc Đ ẩu. Đ ăn g khoa tu ổ i trẻ,
trê n v u i lòng còn 2 bóng xuân h u y ên . M ở nước công
d an h , xét công đ ầ u cả hai lần p h iê n niết. L àm chức
tai m ắt: Ba lần N gự sử, giữ nơi h ọ n g lưỡi; N ă m lượt
th ư ợ n g thư. Sang sứ m ệnh ở Y ên K inh 3 n ăm . Bàn
cương giới ở Vị Tây m ấy tháng. K inh lu â n thực d ụ n g
hơn bồ'n m ươi năm . C ây tù n g bách trá i ré t m ủ a đ ô n g
xóm v àn g nhạc n g ự a ...".

Cao Dương Trạc (1681 - ?)


Cao Dương Trạc (có tài liệu ghi ông đ ổ i tên là Cao
H uy Trạc) sinh năm 1681, n g ư ờ i xã P h ú T hị, h u y ệ n
G ia L âm (n ay là xã P h ú T hị, h u y ệ n G ia L ầm ,
th à n h phô' H à N ộ i), ô n g g iữ các c h ứ c q u a n n h ư
B ồi tụ n g T h ư ợ n g th ư Bộ H ộ , Đô'c đ ồ n g N g h ệ A n,
tư ớ c L âm Q u ậ n công. Sau khi m â't, ô n g đ ư ợ c tặ n g
h à m T h iế u p h ó .

Nguyễn Huy Lượng (? - 1808)


N g u y ễn H uy Lượng là người làng P hú Thị, h u y ện
Gia Lâm , sau dời sang làng Lương Xá, h u y ệ n C hương
M ỹ, tỉn h H à Đ ông (nay thuộc h u y ệ n C hương M ỹ,

132
th à n h p h ố H à Nội).
H ọ N guyễn H uy là m ột trong những họ có nhiều
người hiển đ ạt của làng Phú Thị. N guyễn Huy N huận
đỗ Tiến sĩ năm 1703 (làm quan trải đến chức tể tướng).
Con ông là N guyễn H uy Dẩn đỗ Tiến sĩ năm 1748. Con
ông D ận là N guyễn H uy c ẩ n đỗ Tiến sĩ năm 1760,...
Dưới thời Lê - Trịnh, N guyễn H uy Lượng thi đỗ
H ương cống (Cử nhân), được bổ làm Phụng nghị ở Bộ
Lễ (tức là m ột chức quan nhỏ ph ụ trách việc xem xét
các lễ v ậ t khi cúng tế).

M ùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), vua Q uang Trung ra
Bắc, đại phá quân Thanh, giải phóng Bắc Hà. Nguyễn
H uy Lượng sau đó ra làm quan cho triều Tây Sơn.
N ăm 1801, vua C ảnh Thinh làm lễ tế giao ở m ột
địa đ iểm g ần H ồ Tây, đã giao cho N guyễn H uy
Lượng, bâ'y giờ đang là H ữu thị lang bộ Hộ (nên còn
được gọi là H ữu Hộ Lượng, tước C hương Lĩnh hầu),
soạn m ộ t bài thơ và m ột bài phú tiến dâng, và bài
Tụng Tây Hồ phú nổi tiếng đã ra dời n h â n dịp này.
Sau khi nhà Tây Sơn bị diệt, triều N guyễn (Gia
Long) triệu tập ông, bổ làm tri ph ủ X uân Trường
(N am Định). Khi vua Gia Long đi tuần dụ, ông được
d i theo. N hờ vậy, ông soạn được b ài Ngự đạo hành
cung nhật trình (Con đườ ng từ ng ngày của nhà vua
qua các h à n h cung).
N guyễn H uy Lượng bị bức tử năm 1808 (theo sách
M inh đô sử).
Sáng tác của N guyễn H uy Lượng đều viết bằng

133
chữ N ôm , hiện còn:
- Tụng Tây Hồ phú (Phú ca tụ n g H ồ Tây). Đ ây là
bài p h ú chữ N ôm , gồm 86 liên, d ù n g chỉ m ột v ầ n "hồ"
(độc vận). D ụng ý của tác giả là m ượn cảnh T ây H ồ
đ ể tán tụ n g sự nghiệp và công đứ c của nhà T ây Sơn.
Đ ây là lúc triều đại n ày đã su y m à ông v ẫ n v iết n ê n
bài p h ú với m ột niềm say sưa không hề giảm .
- Lượng như long phú (Phú Lượng n h ư rồng).
- N gự đạo hành cung nhật trình (Con đ ư ờ ng từ n g
n g ày của nhà vua qua các h à n h cung).
- Cung oán thi (Thơ về nỗi oán của người cung nữ).
Đ ây là tập thơ gồm 100 b ài thơ Đ ường lu ật (thất n g ô n
b á t cú). Có tài liệu nói đ â y là tác p h ẩm của Vũ Trinh
hoặc N guyễn H ữu C hm h, tuy n h iên gần đ â y m ới xác
đ ịn h là của ông.

Cao Bá Quát (1 8 0 9 -1 8 5 5 )
Cao Bá Q u át tự là C hu T hần, h iệu C úc Đ ường,
biệt h iệu M ẫn H iên, người làng Phú Thị, h u y ện Gia
Lâm , tỉnh Bắc N inh (nay là xã Phú Thị, h u y ệ n Gia
Lâm , ng o ại th àn h Hà N ội), ô n g là con Cao T ử u
C hiếu, tuy không đỗ đ ạ t n hư ng là m ộ t nhà N ho khá
nổ i danh; và là em (song sinh) với Cao Bá Đạt.
Cao Bá Q uát nổi tiếng là người có cá tứửi m ạn h
m ẽ, cương trực, không luồn cúi, sống vượt ra ngoài
k h u ôn p h é p của lễ giáo p h ong kiến.

134
Có lẽ tửih cách đó đã ít nhiều ảnh hưởng tới thơ
của ông, cha của ông cũng đã nhận xét rằng "văn của
Bá Đ ạt hơn về khuôn phép nhưng kém về tài tử, tứ
v ăn của Bá Q uát hơn về tài tử nhiừìg kém về khuôn
ph ép ". C húih vì sự vượt ra ngoài khuôn phép đó mà
m ãi đ ế n n ăm 22 tuổi (1831) ông mới đ ậ u đ ầu ở kỳ thi
Hương, sau đó ông vào H u ế thi tiếp nhưng không đậu.
N ăm 1840 vua M inh M ạng m ất, vua Thiệu Trị lên
ngôi, tỏ ý trọ n g hiền tài, ông được vời vào kinh làm
chức h à n h tẩ u Bộ Lễ. Tuy nhiên công việc nh àn rỗi
n ê n ô n g sinh ra chán nản. N ăm 1841, Thiệu Trị
N guyên n iên m ở khoa thi, ông được cử làm sơ khảo
trư ờ ng th i T hừa Thiên. Khi đọc m ộ t b ài v ăn hay
n hư ng lại p h ạ m h ú y ông tiếc người tài, sợ bị đ án h
trư ợt n ên đã tự ý lấy sơn hòa m uội đ èn chữa hộ. Việc
b ại lộ, ô ng bị kết án xử chém , sau được xét lại b ắt
giam 3 n ăm như ng rồi tạm tha cho đi công cán xa lấy
công chuộc tội. N ăm 1847, ông làm việc ở Viện H àn
lâm, chuyên sưu tầm và sắp xếp thơ văn cho vua dọc.
Thời gian ở H u ế ông thường giao du với những nhân
vật n h ư N guyễn Văn Siêu, N guyễn H àm Nừửi, Đinh
N hật Tân.
N hận rõ bộ m ặt thối tha của triều đình phong kiến
nên ông đã nhiều lần làm thơ đả kích chúng, ô n g như
cái gai tro n g m ắ t triều đình phong kiến, nên đã bị
điều ra Bắc làm G iáo thụ ở Q uốc Oai (Hà Tây cũ),
ông v iện cớ mẹ già ô"m nặng nên đã từ quan về quê.
H ai n ăm 1853 - 1854, hai tm h Sơn Tây, Bắc N inh
bị h ạn hán, châu chấu hoành h àn h cắn phá lúa, nhân

135
d â n đ ó i khô đặc biệt là vùng Lương Sơn, C hương Mỹ
(Hà Tây). Lòng b ấ t m ãn với triều đ ình p h o n g kiến,
nên n h â n cơ hội n ày ông đã tổ chức m ộ t cuộc khởi
nghĩa trên đâ't Mỹ Lương, tôn Lê D uy C ự làm m inh
chủ, tự xưng làm Q uốc sư. Trên lá cờ có ghi h à n g chữ
"Bình Dương, Bồ Bản vô N ghiêu, T huân / M ục D ã,
M inh Đ iền h ữ u Vũ, Thang. Tạm dịch là "Bình D ương,
Bồ Bản không vua N ghiêu vua T huấn, thì ở M ục Dã,
M inh Đ iền có vua Vũ vua T hang". T uy n h iê n cuộc
khởi nghĩa của Cao Bá Q uát chưa kịp b ù n g lên th ì bị
b ại lộ, chỉ kéo d ài được m ấy tháng. Trong m ộ t cuộc
chiến giữa nghĩa q u ân và triều đình, Cao Bá Q u á t hy
sinh, vua Tự Đức dã ra lệnh tru di ba họ, bà con nội
ngoại của họ Cao nhiều người b ị'g iế t hại...
N ếu đứng dưới góc độ triều đình phong kiến thì
ông là m ột tội đồ, nhưng đôl với nhân d ân bị áp bức
thì ông là m ột người anlr hùng, đã xả thán cho lý tưởng.
v ề khía cạnh văn học nước nhà, Cao Bá Q u á t đ ể
lại m ột d â u ân đặc biệt với tư cách là m ộ t nhà thơ
lớn. Thơ ông sán g tác chủ yếu b ằ n g chữ H án , chữ
N ôm cũng có nhưng ít. N gay khi Cao Bá Q u á t tham
gia cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), các tác
p h ẩm của ông đã bị triều đình nhà N gu y ễn cho th u
đ ố t, cấm tàn g trữ và lưu h àn h , n ê n đã bị th ấ t lạc
không ít.*\Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên so ạn sách
Thơ văn Cao Bả Quát, dã tìm d ế n kho sách cổ của Thư
viện Khoa học kĩ th u ậ t Trung ương (Hà N ội), và sau
khi loai trừ nhữ ng bài chắc chắn không p h ả i của ông,
thì sô" tác p h ẩm còn sót lại cũng còn được trên n g àn

13B
b ài được viết bằng thứ chữ N ôm và chữ Hán.
Cụ th ể là h iện còn 1.353 b ài thơ và 21 bài văn
xuôi, gồm 11 bài viết theo thê ký hoặc luận văn và 10
tru y ệ n ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong sô" này về
chữ N ôm , có m ột sô" bài h át nói, thơ Đường luật và
bài p h ú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng),
về chữ H án, khôi lượng thơ nhiều hơn, được tập hỢp
trong các tập: Cao Bá Quát thi tập; Cao Chu Thần di thảo;
Cao Chu Thần thi tập; Mẩn Hiên thi tập.
v ề m ặt chữ N ôm ông có bài phú nổi tiếng Tài tử
đa cùng. N goài ra ông còn có m ột số bài thơ Đường luật
và ca trù. Sau khi nhà thơ qua đời, tác phẩm của ông
cũng p h ải chịu sự bạc đãi của triều đình nhà Nguyễn.
Thơ Cao Bá Q uát có những đặc trưng nổi bật đó
chữứi là tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc được
ô ng v iế t n ên trên n hữ ng vần thơ. N hữ ng người anh
h ù n g d â n tộc, n h ữ n g cảnh đ ẹp n ú i sông được ông
khắc h ọ a và vẽ n ê n b ằn g n h ữ n g ca từ m ộc mạc,
n h ư n g lại râ"t chân thực. Thơ ông cũng giàu lòng vị
tha, cảm thông \'ới n h ữ n g m ảnh đời bâ"t hạnh. M ột
đặc trư ng khác nữa đó chm h là phê p h á n hiện thực,
tinh th ần trách nhiệm cao cả. Có lẽ chính vì vậy mà
n h ữ n g ai tiếp xúc với thơ ông đ ều p hải cảm phục,
y êu thích, say sưa không dứt. ‘

n I

137
n p ' ----- 1 e-----

LÀNG
: quANTỈ
Ị [LSPTHOCH.UỈnHPHÚC]
C— nTU

O u a n T ử là m ột làng N ho học, là m ộ t tro n g bô"n


là n g th u ộ c xã Sơn Đ ông, h u y ệ n L ập T h ạch , tỉn h
V ĩnh Phúc. Từ triều Lê về trước, là n g có tê n là tran g
Sơn Đ ông (âp Sơn Đ ông) th u ộ c h u y ệ n L ập T hạch,
lộ T am Đ ái. Đ ến triều Lê, lộ đư ợ c đ ổ i th à n h p h ủ và
n h ậ p v à o Sơn Tây T hừa T uyên, đ ờ i n h à N g u y ễ n đ ổ i
th à n h tỉn h Sơn Tây. Làng Q u an T ử n ổ i tiế n g n h ấ t vì
là n g có đ ế n 12 vị T iến sĩ th ờ i Lê sơ v à th ờ i M ạc,
đ ồ n g th ờ i là m ộ t làn g v ă n hoá tru y ề n th ô n g ở đ ấ t
V ĩnh Y ên xưa.
T hành h o àng của làng Q uan Tử là n h à giáo Đỗ
Khắc C hung, ô n g được coi là ngư ờ i khai sáng trí tuệ
của cả v ù n g đ ấ t rộng lớn trong k h á n g ch iến chống
q u â n N gu y ên - M ông, ô n g lập được n h iều công lao
trong ngoại giao, hoà bình được đ ổ i quô"c tứữi (sang
họ T rần) và giữ trọng trách trong triều đ ìn h bô"n đời
v u a Trần. Sau 150 năm kể từ khi thầy giáo Đỗ Khắc

138
C hung về làng m ở trường d ạy học, làng Q uan Tử xuất
hiện vị Tiến sĩ H án học đ ầ u tiên và liên tục sau đó
gần 100 n ăm (các Triều Lê - Mạc) trong làng có tổng
cộng 12 vị đỗ đ ạ i khoa. Với ch ế độ thi cử chặt chẽ
thời p h ong kiến, đ ể có 12 Tiến sỹ chắc chắn làng phải
có cả trăm C ử nhân, cả nghìn Tú tài! Trong báo cáo
đ iều tra gửi V iện V iễn Đ ông Bác cổ của Lý trưởng
làng v ào n ăm 1938, có đ o ạ n viết: "... Thời ấy khoa
m ục thịiứi lắm , cả làng có m ười hai vị đỗ Tiến sĩ, còn
H ương công, Sinh đồ nhà nào cũng có...". Kể từ khi
có lu ậ t H ồng Đức, người đỗ đ ạ t ra làm quan phải bổ
d ụ n g ở nơi khác và không được m ang vợ con đi cùng,
làng có h àng trăm người đi 'Tàm quan" ở nơi khác để
lại vỢ con ở làng, vì vậy thời ấy cứ ra đến ngõ là gặp
con "nhà quan", tương tru y ền Lê Thánh Tông nghe
th ấ y tiến g thơm , b èn ban cho làng tên m ới là làng
Q uan Tử (con quan).
12 người đỗ Tiến sĩ và d an h túìh còn được khắc
trê n bia đá thờ trong m iếu Q uan Tử:
1. N g u y ễn Tướng công: tên tự là Tử, thi đỗ khoa
Q uý D ậu , Đệ n h ị g iáp T iến sĩ.
2. Đô N gự sử Lê Tướng công: tên chữ là Thúc
C h ẩ n , th i đỗ khoa Bính TuâT, Đệ tam g iá p Đ ồng
T iến sĩ.
3. H iến s á t sứ N g u y ễ n Tướng công: tê n chữ là
T ộ, th i đỗ khoa N h â m Thìn, Đệ nhị g iáp T iến sĩ.
4. Lại bộ T hư ợng th ư N g u y ễ n Tướng công, tên
ch ữ là Phúc Trịnh, thi đỗ khoa Ấ t M ùi, Đệ tam giáp

139
Đ ồ n g T iến sĩ.
5. Tham chính N g u y ễ n T ư ớng công: tê n chữ là
P h ú c Tự, thi đỗ khoa Ấ t M ủ i, Đệ tam g iá p Đ ồng
T iến sĩ.
6. Thượng th ư T rần Tướng công: tên chữ là Thập,
thi đỗ khoa G iáp Thìn, Đệ n h ị g iáp Đ ồng T iến sĩ.
7. Đô N g ự sứ Lê T ư ớng công: tê n ch ữ là Đ ức
T o àn , th i đỗ khoa G iá p T hìn, Đệ tam g iá p Đ ồ n g
T iến sĩ.
8. Đ ặn g T ư ớ ng công: tê n ch ữ là T h ậ p , th i đỗ
khoa C anh Tuâ't, Đệ n h ị g iá p Đ ồ n g T iến sĩ.
9. Tri h u y ệ n , Lê T ư ớng công: tê n ch ữ là K hiết,
th i đ ỗ khoa C anh T u ấ t, Đệ tam g iáp Đ ồ n g T iến sĩ.
10. H iến sá t sứ Đ ặng T ư ớng công; tê n chữ là
Khiết, thi đỗ khoa Ấ t Sửu, Đệ nhị giáp Đ ồng Tiến sĩ.
11. T hư ợng th ư N g u y ễ n T ư ớ ng công: tê n chữ là
P hu H ự u , thi đỗ khoa T ân Sứu, Đệ tam g iá p Đ ồng
T iến sĩ.
12. Lại bộ Tả thị lang Vũ T ư ớng công: tê n chữ
là D o ãn Tự, thi đỗ khoa T ân S ứ u, Đệ tam g iá p
Đ ồ n g T iến sĩ.
Trong 12 vị đỗ đ ạt khoa này có 4 vị đỗ Đệ nhị giáp
(H oàng giáp) còn lại đ ều là Đệ tam (Đ ồng Tiến sĩ)...
Q uá khứ đỗ đạt m ột thời vang bóng của làng Q uan
Tử chỉ là m ột p h ần nhữ ng gì m à m ảnh đ ấ t bên sông
Lô này còn lưu lại cho h ậu thế. Xa xưa, từ thời các vua
H ùng, v ù n g đ âl này đã là m ột làng gô'm nổi d an h có

14D
tên là Sơn Đông. Trải qua râ't nhiều thăng trầm , làng
gô"m Sơn Đ ông nay thuộc xã Sơn Đ ông, huyện Lập
Thạch, tủứi Vĩnh Phúc.
N hữ ng người d â n ở Sơn Đ ông cũng còn có niềm
tự hào chm h đ á n g khác, quê hương họ là nơi sinh ra
Tả tướng quô"c T rần N guyên H ãn thời nhà Lê chông
q u â n M inh. Sau n h ữ n g chiến công h iển hách, do
n hữ ng d èm pha của thuộc hạ, ông th ất sủng nên về
sông Lô để trâm m ình vào ngày 26 tháng 2 năm Kỷ
D ậu (1429) h ầ u giữ gìn khí tiết. Truyền thuyết kể rằng
lúc th u y ền ra đ ế n giữa sông, ông rú t gươm tự vẫn,
vừa lúc đó m ưa gió sâ'm chớp nổi lên đ ù n g đ ù n g và
cuốn con th u y ền đ i v ào trời đất. Bây giờ, ngay trước
cửa đ ề n thờ ông ở cuôd làng, v ẫ n còn m ộ t hòn đá
lớn, người đời nói rằn g đó chm h là hò n đá mà khi
còn sồng, Tả tướng quô"c đã d ù n g nó đ ể m ài gươm...
M ạch n g uồn v ă n h iến của làng còn m ãi đ ến ngày
nay. H iện tại, theo th ô n g kê chưa đ ầy đ ủ , con cháu
của làn g có g ầ n 20 ngư ờ i có học vị T iến sĩ, nh iều
người có học h à m G iáo sư, Phó Giáo sư, hàn g trăm
cử n h ân , nhiều người là cán bộ quản lý, cán bộ quân
đ ộ i tru n g cao cấp...

141
oiOĩsÍDnnHnuAnTiẼun,

Đỗ Khắc Chung (1247 -1330)


ĐỖ Khắc C hung sinh ngày 24 th án g 11 n ă m Đ inh
M ùi ở làng C am Lộ, h u y ện G iáp Scm, tỉnh H iíng Yên.
Phụ thân ông là Đỗ N huận, m ẹ là Vũ Thị H ương cùng
làng Cam Lộ, cả nhà đ ề u làm nghề thầy thuôc.
Ô ng là m ộ t N ho sm h túc học, ông rấ t q u an tâm
đ ế n sách vở và d ạ y bảo học trò. Trong m ộ t lầ n d u
lãm đ ế n ấp Sơn Đ ông, lộ Tam Đ ái (xã Sơn Đ ông,
huyện Lập Thạch ngày nay), thây n h ân d â n chất phác,
học hỏi ít, n hư ng bù lại phong cảnh n ú i sông lại đ ẹp ,
địa th ế giao thông th u ận lợi từ kinh thành Thăng Long
qua m iền ngã ba sông Bạch Hạc, lên tậ n đ ầ u n g u ồ n
xứ Tuyên Q uang, ông m ới bảo nhân d â n d ự n g trư ờng
học, d ạ y cho chữ nghĩa. Thời gian chừng k h o ản g 6-7
năm , d â n tục đã trở nên tốt đẹp, học hỏ i được tinh
thông, trở th àn h m ộ t v ù n g d â n có lễ nghĩa, n ê n ai ai
cũng rấ t m ến p h ụ c ông.

142
Sau thờ i gian ở Sơn Đ ông, Đỗ Khắc C hung về
triều đ ìn h thi đỗ và gia n h ập hàng ngũ sĩ phu, làm
quan triều T rần trong thời gian tới 50 năm , luôn thăng
tiến, ô ng có công lớn trong cuộc kháng chiến chông
q u ân N g u y ên lần th ứ hai với tư cách n hư Bộ trưởng
N g o ại giao, ôn g đã ra vào tổng h à n h d inh q u ân
N g u y ên n h iều lần đ ể đàm phán, điều đình, thực hiện
xuâ't sắc chiến lược vừa đ á n h vừa đ àm của triều đình
nhà Trần.
Vào năm 1280, Đỗ Khắc C hung được phong chức
T hiếu b ảo h à n h T hánh từ cung (Tể tướng th ứ hai).
Ô ng làm quan dưới bô"n triều vua Trần: Trần N hân
Tông: Từ 1280 - 1293; T rần A nh Tông: 1293 - 1314;
T rần M inh Tông: 1314 - 1329; Trần H iến Tông: 1329
đ ế n th án g 7 năm C anh N gọ (1330) thì m ất, hưởng thọ
84 tuổi.
N gày nay, đ ền thờ Đỗ Khắc C hung ở làng Q uan
Tử, xã Sơn Đ ông, h u y ện Lập Thạch. Đ ền được xây
d ự n g vào khoảng giữa th ế kỷ 14 trên nền lớp học cũ
m à nhà giáo d ù n g làm nơi dạy học cho nhiều th ế hệ
con em d â n làng Q uan Tử tức làng Gốm xưa, d â n
quen gọi là m iếu cụ Đỗ bởi ông được nhân d ân tôn
vm h là T hành H oàng làng.
Đ ền có kiến trúc m ặt bằng kiểu "nội đinh, ngoại
nhất" qua cổng tam quan 2 tầng 4 m ái thì tới sân đình
lá t gạch vuô n g rồi vào tiền tế 5 gian, đến toà trung tế
3 gian song song và kề m ái với toà tiền tế, bên trong
là h ậ u cung với 3 gian lối với trung tế theo hình chữ
đinh, tổng d iện tích xây d ự n g khoảng 600m^.

143
Đ ền còn lưu giữ n h iề u h iệ n v ậ t và tư liệ u quý
như: M ột b ả n th ần phả chữ H án do Đ ông các Đ ại học
sĩ N gu y ễn Bứih p h ụ n g soạn năm H ồ n g P húc ng u y ên
n iên (1572) và m ộ t bia đá ghi d an h các bậc tiên hiền
liệt vị, n h ữ n g người đỗ đ ạ t của làng Q u an T ử năm
Tự Đức th ứ 31 (1878). Đặc biệt có b ả n p h ả lục về sự
tích Đỗ K hắc C hung m ộ t công th ầ n n h à T rần do
Đ ông các Đ ại học sĩ Lê T rung soạn n ă m H ồ n g Phúc
th ứ n h ấ t (1572).
Đ ền là nơi tôn thờ m ột vị thầy giáo đem đ ế n chữ
nghĩa, lễ giáo và trí tuệ cho d â n làn g , m ở ra m ột
hướng m ới, hướng đ ầ u tư vào nghiệp học của cả làng,
có tru y ền th ố n g tới hơn 700 năm nay.
N g ày m ồ n g 3 th á n g 10 âm lịch h à n g n ăm , d ân
làng Q uan Tử tổ chức làm ngày lễ chm h vì đ â y (là
n g ày Đỗ Khắc C hung m ở trường d ạ y học), đồ tế lễ
gồm m ộ t con trâ u đực, b ảy cái b á n h d à y to. H ai thứ
trê n được rước vào đ ề n đ i theo hìn h ch ữ "á" theo tự
d ạ n g chữ "Hán" đ ặ t giữa nhà tiền tế rồ i m ớ i b ắ t đ ầ u
các n g h i thức tế lễ. Q ua 2 ngày lễ hội, đồ lễ được
p h á cỗ, chia lộc cho tấ t cả m ọi th à n h v iê n tro n g làng
th ụ hưởng. t

Trần Nguyên Hãn (1390 -1429)


T rần N g u y ê n H ãn sinh n ăm 1390 tạ i tra n g Sơn
Đ ông, sau thuộc xã Q uan Tử triề u N g u y ễ n , n a y là
th ô n Đa Cai, xã Sơn Đ ông, h u y ê n L ập T hạch, tỉnh

144
Vĩnh Phúc.
C u ô l n ăm Đinh D ậu 1417, ông vào Lam Sơn tụ
n g h ĩa, do Bình Đ ịnh V ương xướng xuâ't, ông được
g iữ chức q u an Tư đ ồ. SuôT 10 năm k h áng chiến
chô'ng q u â n M inh (1418 - 1427), ông luôn là người
đư ợ c Bình Đ ịnh Vương tin tưởng, thườ ng được d ự
b à n n h ữ n g việc bí m ật.
T h án g Bảy năm  t Tị (1425), ông đem q u ân vào
giải p h ó n g xứ Tân Bình - T huận H óa, gồm m ột vùng
đ ấ t d à i rộng suốt từ phía bắc tỉnh Q uảng Bình đến
tỉnh T hừa Thiên - H uế. Lập căn cứ, tuyển binh lửih
làm h ậ u th u ẫn cho công cuộc tiến quân ra đồng bằng
Bắc bộ, giải p h ó n g Đ ông Đô.
T h áng M ười năm Bính N gọ (1426), ông chỉ huy
hơn 100 chiến thuyền, bao vây phía bắc thàn h Đ ông
Q uan đ á n h m ộ t trận "khói lửa n g ú t trời", khiến quân
bô" p h ò n g của Vương Thông p h ả i bỏ m ặt m ật trận
rú t v ào th à n h cố thủ. T hành Đ ông Q uan h o àn toàn
bị cô lập với các thành bên ngoài như Điêu Điêu (Gia
Lâm ), Thị c ầ u (Bắc N inh)... Sau trận này ông được
p h o n g chức Thái úy, là chức quan đứ ng đ ầ u hàng
q u a n võ.
T h á n g C hín n ă m Đ inh M ùi (1427), đ ể cô lập
th à n h Đ ông Q uan với v iện binh của tướng M inh An
V iễn h ầ u Liễu Thăng sắp trà n vào biên ải, ông được
Bình Đ ịnh Vương Lê Lợi cử binh cùng với các tướng
Tư m ã Lê Sát, Lê Lý đ á n h th à n h Xương Giang, ô n g
chỉ h u y m ặ t trậ n công th à n h , khoét đ ầ t đ ào đường
h ầ m , m ở d ư ờ ng tiến công giặc, lại kết hỢp các loại

145
v ũ khí chiến th u ậ t n h ư tê n lử a, sú n g lửa, câu liêm ,
g iáo d à i, nỏ cứ ng 4 m ặ t đ á n h v à o th à n h , n ê n chưa
đ ầ y 1 giờ th à n h Xương G iang k iên cô' đã bị h ạ. C ác
tư ớ n g giặc giữ th à n h n h ư K im D ận, Lý N h ậ m đ ề u
tự sát.
T rong chiến dịch C hi L ăng - Xương G iang th á n g
C h ín cùng năm â'y, đ ó n đ á n h L iễu T hăng, ô n g cù n g
Lê Sát p h ụ c b inh ở C hi L ăng, góp công lao lớn v ào
ch iến dịch, chém L iễu T h ăn g ở ả i C hi Lăng. Sau đó
ô n g lại được Bình Đ ịnh Vương sai đ i chặn đư ờ n g tiếp
tế lương thự c củ a g iặc cho đ o à n q u â n củ a L iễu
T hăng. N hiệm vụ được h o à n th àn h , ôn g thực sự dã
có công lao to lớn tro n g to à n bộ chiến dịch - xứng
đ á n g với 4 chữ lớ n K hai quô'c n g u y ê n h u â n (công
đ ầ u m ở nước) đư ợ c b an tặ n g . Bởi v ậy , tro n g cuộc
h ộ i thề ở phía N am th à n h Đ ông Q uan ngày 22 th á n g
M ột n ăm Đ inh M ùi, trong d a n h sách đ o à n do Bình
Đ ịnh Vương Lê Lợi cầm đ ầ u , tê n ông được đ ứ n g sau
liề n tê n vua, sử sách v ẫ n ca ngợ i về việc n à y là "đủ
đ ể kính trọ n g n h ư thế".
Đâ't nư ớ c h ế t b ó n g g iặ c n g o ạ i x â m , trđ lạ i
th a n h b ìn h , n g à y m ồ n g 8 th á n g Ba n ă m M ậu T h â n
(1428) ô n g đư ợ c p h o n g ch ứ c q u a n Tả T ư ớ ng quô'c.
Sau đ ó , ôn g xin về h ư u . v ề q u ê , ô n g cho d ự n g p h ủ
lớ n , đ ó n g th u y ề n to. V iệc n à y b ị q u y k ế t là lộ n g
h à n h và có â m m ư u th o á n n g h ịc h . N h ữ n g kẻ
k h ô n g ưa c ũ n g th ừ a cơ b u ô n g lờ i x ú i bâ’y. T rầ n
N g u y ê n H ã n bị Lê Lợi ra lệ n h b ắ t về triề u đ ể x ét
h ỏ i. N h ư n g trê n d ư ờ n g lê n k in h th à n h , tớ i b ế n Sơn
Đ ô n g , ô n g tự trầ m m ìn h m à c h ế t. T rước k h i c h ết.

14B
ố n g n ổ i: "Tôi v ớ i H o à n g th ư ợ n g c ủ n g m ư u cứ u
nư ớ c, cứ u d â n , n ay sự n g h iệp lớn đã th à n h , H oàng
th ư ợ n g n g h e lờ i d è m m à h ạ i tô i. H o à n g th iê n có
b iế t không?".
Lê T hái TỔ sau đó ra lệnh tịch thu ruộng đ ấ t, b ắt
giam vỢ và con ôn g làm kẻ h ầ u người ở. Đ ến năm
D iện N inh th ứ H ai (1455) tức là p h ả i 26 năm sau khi
ô n g trầ m m ình ở b ến Đ ông H ồ, vua Lê N hân Tông
xét rõ n ỗ i oan của ông, m ới ra lệnh trả lại ruộn g đâT,
n h à cửa, tha cho n h ữ n g người trong gia tộc còn sống
só t. N h â n d â n xã Sơn Đ ông tư ở ng nhớ người anh
h ù n g nơi quê m ình, đã lập đ ề n thờ.

Nguyễn Từ (1429 - ?)
N guyễn Từ sinh năm 1429, quê ở làng Q uan Tử,
Sơn Đông, Lập Thạch.
T ro n g lịch sử khoa cử c ủ a là n g Q uan Tử thì
N g u y ễ n Từ chính là Tiến sĩ đ ầ u tiên, ô n g đỗ Đệ
n h ị g iá p T iến sĩ (H oàng giáp) khoa Q uý D ậu, n iên
h iệ u T hái H òa 11 (1453) đ ờ i v u a Lê N h â n Tổng.
Ô n g đ ỗ n ăm 24 tu ổ i và làm quan đ ế n chức Thiên
đ ổ n g ự sứ.

Lê Thúc Chẩn (1435 - ?)


Lê T húc C h ẩn sinh n ăm 1435, quê ở làng Q uan

147
Tử, Sơn Đ ô n g , L ập T hạch, ổ n g đ ỗ Đệ tam g iá p
Đ ồ ng T iến sĩ x u ấ t th â n khoa Bính T u ấ t, n iê n h iệ u
Q u an g T h u ậ n th ứ 7 (1466), đ ờ i v u a Lê T h á n h T ông.
N ăm đ ó , ô n g 31 tuổi. Sau khi đ ỗ , ô n g là m q u a n tới
chức Đô n g ự sử. T ên ông, h iệ n v ẫ n cò n trê n v ă n
bia ở V ăn M iếu - Quô"c Tứ giám (bia lậ p n g à y 15
th á n g 8 n iê n h iệ u H ồ n g Đ ức th ứ 15 (1484), đ ờ i Lê
T h án h T ông.
Lê Thúc C hẩn chính là người đã m ở m an g d an h
vọng cho dòng họ Lê ở làng Q uan Tử. ô n g là chú của
Lê Đức Toản, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa G iáp Thìn
(1484) và Lê Khiết, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ n ăm 1490.

Nguyễn Tộ (1 4 40-?)
N g u y ễn Tộ sinh n ă m 1440, quê ở làn g Q u an Tử,
Sơn Đ ông, L ập T hạch. N ă m 32 tu ổ i, ô n g đ ỗ Đ ệ nh ị
g iá p T iến sĩ x u ấ t th â n (H o à n g g iá p ), k h o a C an h
T hìn (1472), n iê n h iệ u H ồ n g Đ ức th ứ 3, đ ờ i v u a Lê
T h á n h T ông.
Sau đó, ông làm quan đ ến chức H iến sát sứ. Ba
năm sau khi ông đỗ Đệ n h ị g iá p T iến sĩ x u ấ t th â n ,
hai ngư ờ i em ru ộ t của ông cũng đỗ rấ t cao. O ng
N guyễn Thúc Trinh đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ n ăm 1475,
giữ chức T hượng thư Bộ Lại, được khắc bia ở V ăn
M iếu. Ô ng N guyễn Tư Phúc đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ
và cũng được khắc bia ở Văn M iếu.
N hư vậy, m ột gia đình có ba anh em ru ộ t n h ư gia

14Q
đ ìn h ông N guyễn Tộ đ ề u là Tiến sĩ, hai anh em lại
cù n g đỗ m ột khoá là rấ t hiếm .

Lê Đức Toản (1452 - 1509)


Lê Đức Toản sinh n ă m 1452, tại xã Sơn Đ ông,
h u y ệ n Lập Thạch, ph ủ Tam Đái, thừa tuyên Sơn Tây.
N ay là thôn Q uan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch,
tm h Vĩnh Phúc.
N ăm 33 tuổi ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân
(H oàng giáp) khoa G iáp Thìn niên hiệu H ồng Đức thứ
15 (1484) đời vua Lê Thárửi Tông.
Về sự n g h iệ p , ô n g là m q u a n tới chức Đô N g ự
sứ . T heo n h ư th iê n "Q u an chức chí" tro n g bộ Lịch
triều hiến chương loại chí củ a tác giả Phan H uy C hú,
đ â y là chức q u a n đ ứ n g đ ầ u N g ự sứ đ à i d ư ớ i triề u
v u a Lê T h á n h T ông, cơ q u a n giữ p h o n g h ó a p h á p
đ ộ , chức d a n h rấ t trọ n g . Khi đ ả m đươ ng chức vụ
đ ó , ô n g là ngư ờ i cương trự c, quyêT đ o á n , xử sự rấ t
cô n g m inh. T rải các triề u v u a T h án h T ông, H iến
T ô n g (1498 - 1504), T úc T ông (1504), Uy M ục Đ ế
(1505 - 1509), ôn g m ộ t n iề m g iữ lò n g liêm chính,
vô tư, n ê n đư ợ c các sĩ p h u trọ n g v ọ n g , n h â n d â n
k ín h m ến . ô n g Lê Đ dc T o ẩn cò n là m ộ t côn g th ầ n
tiế t n g h ĩa c ủ a triề u Lê sơ. C ác sách Đăng khoa lục
v iế t ở triề u Lê h iệ n đ a n g lưu trữ tạ i V iện n g h iê n
c ứ u H á n N ô m c ũ n g đ ề u có ghi về ổ n g h ai chữ
" tiế t n g h ĩa".
Trong các sách địa chí cổ, cụ thể như Lịch triều

149
hiến chuơng loại chí, của tác giả Phan H u y C hú, p h ần
"N h ân v ậ t chí" và sau đó là bộ Đại Nam nhất thông chí
d o Quô"c Sử quán triều N guyễn biên soạn (m ục N h ân
v ậ t tỉnh Sơn Tây) nói về hai ông Lê Đ ức Toản cùng
m ộ t quê quán (xã Sơn Đ ông, h u y ện Lập Thạch, p hủ
Tam Đ ái, thừa tuyên Sơn Tây) nhưng theo n hữ ng tài
liệu còn giữ được ở làng Q uan Tử thì chỉ có m ột ông
Lê Đ ức Toản và đó chính là ngườ i đ ã k h ông theo
Tương Dực Đế, tự th ắt cổ chết khi hay tin vua Uy M ục
Đ ế chạy ra ngoài kinh thành.
N gười đời sau rấ t kính trọng ông. Các đời vua sau
đó đ ề u có sắc phong và cho p h ép con cháu xây đền
đ ể thờ ông. H iện trong nhà thờ họ Lê v ẫn còn đô i câu
đô i của tiến sĩ H à N hậm Đ ại (khoa G iáp T uất - 1574)
tặn g khi qua đây:
Tiến sĩ cao danh khảng khái Đô đài thiên cổ trọng.
Sơn Đông di miếu khanh oanh Hà Đại nhất thiên ngâm.
(Tiến sĩ danh cao khảng k hái Đô đ à i nghìn năm
trọ n g / Sơn Đ ông m iếu cũ vang lừng H à Đ ại m ộ t
chương ngâm ).
N g ày nay, ngôi từ đư ờ ng cd a trư ở n g họ Lê đã
được xếp hạng d i tích cấp tm h, được tu sửa khang
trang và con cháu v ẫn giữ tế tự "xuân th u nhị kì".

Lê Khiết (1464 - ?)
Ô n g sinh n ăm 1464, ngư ờ i xã Sơn Đ ông h u y ệ n

150
Lập Thạch, ph ủ Tam Đ ái, xứ Sơn Tây. N ay thuộc xóm
D ầu th ô n Q uan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch.
Ô ng thi đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ, khoa Canh
TuâT n iên hiệu H ồng Đ ức th ứ 21, đời vua Lê Thánh
Tông (1490).
ô n g là cháu gọi ông Lê Đức Toản bằng chú. Chú
cháu cùng thi đỗ Tiến sĩ, làm quan cùng triều vua Lê
Thánh Tông. Tên ông từng được ghi trên bia ở Văn Miếu
- Q uốc Tử giám. Song hiện nay bia khoa này bị thất lạc.
Tên ông còn được ghi trên bia Văn M iếu huyện Lập
Thạch, trên bia Tiên hiền liệt vị đ ặt trong đền thờ Đỗ
Khắc Chvmg.

Hoàng Mậu Lâm (1876 - 1970)


H o à n g M ậu L âm sinh n ăm 1876, đỗ C ứ n h â n
n ăm 1903, là vị C ử n h â n H án học cuôì cùng của làng.
L àm q u an H u ấn đ ạ o m ộ t thời gian ngắn, hưởng ứng
p h o n g trào c ầ n Vương, ông theo vua H àm N ghi và
T ôn T hất T huyết chông Pháp. Phong trào c ầ n Vương
thâT b ại, ông lại tham gia Đ ông Kinh N ghĩa Thục,
cù n g các ông Đ ặng N g u y ên c ẩ n , N gô Đức K ế tuyên
tru y ề n y êu nước, k h án g P háp. Khi Đ ông Kinh Nghĩa
T hục bị đ à n áp, P háp b ắ t ông rồi đưa về qu ản thúc
ở quê nhà. Làng v ă n h iế n vô"n tô n trọ n g sự học, tô n
ông làm Tiên chỉ của làng, ở hoàn cảnh m ới ông tiếp
tụ c tru y ề n bá tư tưở ng chông P háp cho các th ế hệ
trí th ứ c lớp sau của làng , n h ấ t là n h ữ n g người trong

151
d ò n g họ, n h ư các ôn g H oàng M inh Kiến, H o àn g D uy
T h àn h, H oàng Kim Côi.... K háng chiến chống P h áp
thắng lợi, ông tiếp tục được nhà nước mời ra làm việc
ở Ban Tu th ư T rung ương, m ãi đ ế n những n ăm 1960
m ới nghỉ hưu. ô n g là nhà N ho yêu nước, có từih th ần
d â n tộc, kháng P háp m ạn h m ẽ, được người cùng thời
h ết lòng ca ngỢi, km h trọng.

152
q jv i— 3 c— ■-T_n
>

[ LÀNG ^
p TA THANH O A I:
L TẢ TUAMU n

Ị [ĩHRnHĩRlHnnỆi]
3r nJ u

“C-ả Thanh Oai là ngôi làng cổ có truyền thông


khoa b ản g và v ăn chương. Làng còn có tên gọi là Kẻ
Tó, thuộc xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, ngoại
th àn h H à N ội. Sách Lịch sử địa yêu địa lý, m ục địa lý
có đ o ạ n v iế t về làng Tả Thanh O ai n hư sau: "D ân
p h ầ n n h iều là kẻ sĩ sính về đư ờ ng học, coi là việc
h àn g đ ầ u , còn đua nhau cầu lợi, lo tích trước sau đều
không p h ả i là địa th ế ở đây", v ề địa lý hành chmh,
cuối thời Lê, đ ầ u thời N guyễn, làng (cũng là xã) Tả
Thanh Oai thuộc tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh
Oai, p h ủ ứng Thiên (đời vua M inh M ệnh đổi thành
p h ủ ứ n g H òa), trâ n Sơn N am Thượng, (từ năm 1831
là tỉnh Hà N ội, năm 1838, thuộc tỉnh c ầ u Đơ, đ ến
n ăm 1904, đ ổ i th àn h từih Hà Đống). Sau cách m ạng
th á n g T ám n ăm 1945, Tả Thanh O ai v ẫn là m ột xã
độc lập. T háng 2-1949, làng n h ập với các làng Siêu
Q uần, Thượng Phúc, N hân H òa th àn h xã Đại Thanh,

153
h u y ệ n Liên N am (sau d ổ i là h u y ệ n T han h O ai, tm h
Hà Tây). C uối năm 1978, xã được cắt về h u y ệ n Thanh
Trì, H à N ội.
N iềm tự hào về sức học, th à n h tích học tập của
người làng Tả Thanh Oai được nhắc đ ế n trong n hữ ng
câu ca dao: "Quê ta làng Tả Thanh Oai / Đuờng làng,
sông Nhuệ chạy dài ven bên / Dân làng ta rất tự hào /
M.UỜĨ hai Tiến sĩ ở vào quê ta / Xứng "làng khoa bảng"
nUớc nhà / Họ Ngô, họ Nguyễn thật là hiển vinh...".
Làng Tả Thanh Oai được cả nước biết đ ến là làng
khoa bảng với 12 người dỗ đại khoa, gồm 4 H oàng giáp
và 8 Tiến sĩ. Đặc biệt, có họ N gô với d ò n g "N gô gia
văn phái" và các danh nhân N gô Thì Sĩ, N gô Thì N hậm
đ ã đ i vào lịch sử đ ấ t nước. K hông chỉ vậy, làng còn có
27 H ương công thời Lê, 10 C ử nhân thời N guyễn...
Họ, tên, năm đỗ, chức quan của các Tiến sĩ đó được
ghi trên tấm bia Lịch triều đại khoa, dự ng vào ngày tốt,
tháng năm , năm Kỷ Sửu (1889), trước kia đ ặ t tại Văn
Chỉ, gần đ ây chuyển về sau đình làng. Bao gồm:
1, N gu y ễn Chỉ, đỗ khoa Q uý D ậu n iên h iệu Thái
H oà, đời Lê N h ân Tông (1453).
2, N guyễn K hánh D ung, đỗ khoa M ậu T u ất (1478),
đời Lê T hánh Tông, sau làm quan đ ế n chức Quô'c Tử
giám T ế tửu.
3, N gô T uấn DỊ, Tiến sĩ khoa M ậu Thìn (1688), đời
Lê H y Tông, làm quan H àn lâm v iện H iệu thảo.
4, N gô Vi Thực, đỗ khoa T ân M ùi (1691), đời Lê
H y Tông, làm qua Lễ khoa C ấp sự tru n g , sau được cử

154
đ i đốc chiến ở Cao Bằng, tử trận, được phong tặng Lễ
khoa Đô câp sự trung.
5, N gô Vi N ho, Tiến sĩ khoa G iáp T uất (1694), đời
Lê H y Tông, làm quan G iám sát N gự sử.
6, N gô Đ ình Thạc, đỗ khoa C anh Thìn (1700), đời
Lê H y Tông, từng giữ nhiều trọng trách: Phó sứ sang
n h à T hanh, rồi Thượng th ư Bộ Binh, N h ập thị kmh
d iên , tước Q uận công; Tham tụ n g kiêm Thượng thư
Bộ Hộ...
7, N gô Đ ình ChâT, em N gô Đ ình Thạc, Tiến sĩ
khoa T ân Sửu (1721), đời Lê Dụ Tông, ô n g làm quan,
trả i n h iều bước thăng trầm , rồi cũng làm tới Thượng
th ư Bộ Bũứi.
8, N g u y ễn Tông Trình, hiệu Song N gạc, nổ i tiếng
v ă n hay và đức độ, đỗ khoa G iáp TuâT (1754), đời Lê
H iển Tông, làm quan đến Đ ông các H iệu thư, Phó Đô"c
th ị N ghệ An.
9, N gô Thì Sĩ (1725-1780), tự T hế Lộc, hiệu Ngọ
Phong. Sau khi đỗ H ương tiến, ông đỗ đ ầ u khoa chọn
ngườ i giỏi, được chọn làm tuỳ giảng cho T hế tử Trịnh
Sâm . M ãi đ ế n khoa Bính T uất (1766), đ ờ i Lê H iển
Tông, ông mới đỗ H oàng giáp, rồi làm quan trải nhiều
chức trọng.
10, N gô Thì N hậm , con trai trưởng của N gô Thì
Sĩ, h iệu Đ ạt H iên, đỗ khoa Ấ t M ùi (1755), đời Lê H iển
Tông. Sau này, ông làm quan cho nhà Tây Sơn đến
chức Thượng th ư Bộ Binh, tước Phương Q uận công.
11, N guyễn N ha, hiệu Tả Khê, đỗ Tiến sĩ khoa Ất

155
M ù i (1775), đời Lê H iển T ông, là m q u an đ ế n chức
Thừa C húìh sứ, tước Tả Khê bá.
12, N gô Điền, đỗ khoa T ân Sửu (1841), đời Thiệu
Trị, làm quan Tri phủ.
C ùng với truyền thông hiếu học và đỗ đạt, làng Tả
Thanh Oai còn được biết đến là ngôi làng văn chương
lớn bậc nhâ't của Thăng Long - H à N ội nói riêng và cả
nước nói chung. Các nhà khoa bảng làng Tả Thanh Oai
có rửiiều đóng góp cho đâT nước, đặc biệt là về văn
học, giáo dục. Hai cha con N gô Thì Sĩ, N gô Thì N hậm
là những danh nhân kiệt xuất, học v ấn sâu rộng, làm
rạng rỡ cho tông phái nhà N ho, vừa là quan văn, vừa
là tướng, vừa là nhà sử học, rửià thơ, đ ể lại nhiều tác
p h ẩm có giá trị. Họ N gô còn nổi tiếng với dòng "Ngô
gia văn phái", với thiên tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống
chí có giá trị lớn về tư liệu lịch sử.
N gay từ xa xưa, làng Tả T hanh O ai đã có chế độ
k huyên học thoả đáng. Làng d à n h 40 m ẫu ru ộ n g đ ể
làm học điền. N hững người đỗ đ ạ t được trọng vọng.
Trong tâm thức của người làng, th ế d ấ t của làng p h á t
đ ạ t về m ặt học hành nên có ý thức với việc học. C uốn
Lư sử điển yếu điều lệ (soạn n ăm 1791), viết: "Làng Tả
Thanh Oai đ â ì do sông Tô d ẫ n m ạch, m iếu do sông
N h u ệ bồi cơ, danh đ ăn g khoa giáp, th ế p h iết thi thư,
q u ý m à không p h ú , p h ầ n n h iề u là sĩ d â n sm h về
đườ ng học, coi là việc h àn g đầu...".
Làng Tả Thanh Oai là nơi hội tụ n h iều di tích lịch
sử, đền, chùa, m iếu, m ang đ ậ m d â u â n của làng quê
đ ồ n g b ằ n g Bắc Bộ. Trước đ â y có 2 đ ìn h là đ ìn h Tổ

15Q
Thị và đình H oa Xá (nay chỉ còn đình Hoa Xá), thờ
Lê H oàn và Bà C húa H ến - cô gái làng Tó được Lê
H o àn lây làm phi trong dịp d ẫn đại quân theo đường
sô n g ra Bắc đ ể tiêu d iệt q u ân xâm lược Tông, ghé
th ăm làng (năm 981). H ội làng tổ chức trong 3 ngày:
13, 14, 15 tháng G iêng, có rước cỗ thờ và rước Giầu
v à n g từ đ ình Hoa Xá đ ến M inh N gự Lâu (nhà Bà
C húa Hến) đ ể kỉ niệm cuộc gặp gỡ tình duyên giữa
Bà và vua Lê Đại H ành... Lcàng còn giữ được 4 chùa
và đặc biệt là 4 nhà thờ của các dòng họ khoa bảng,
nhà thờ các danh n h ân Ngô Thì Sĩ, N gô Thì N hậm -
các di tích p h ả n ánh truyền thông hiếu học và khoa
b ản g của làng.

157
nìỆĩsốDnnHnHÂnĩiẼUBÉ:

Nguyễn Chỉ (? - ?)
N guyễn Chỉ người xã Tả Thanh Oai, h u y ện Thanh
Oai, nay là th ô n Tả T hanh O ai, xã Tả T hanh O ai,
h u yện Thanh Trì, th àn h phô" H à N ội. ô n g thi đỗ Tiến
sỹ khoa Q uý D ậu 1453, n iên h iệu Thái H òa, đời vua
Lê N hân Tông.
N gười d â n Tả T hanh O ai cho đ ế n b â y giờ v ẫ n
truyền nhau câu "Ngô lập ấp, N guyễn khai khoa", có
nghĩa là người họ N gô tuy đ ến đây khai phá sinh sống
đ ầ u tiên, nhưng người khai khoa cho làng lại là người
thuộc dòng họ N guyễn - N gu y ễn Chỉ.

Ngô Tuấn Dị (1 6 5 5 -? )
N gô T uân Dị sinh năm 1655, tự M inh Tuệ (đời thứ
28 chi ất), con N gô Đức T uân, em N gô T uân C ung, là

156
người m ở đ ầ u đ ại khoa họ N gô Thì làng Tả Thanh
Oai. N ăm 34 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng tiến sĩ
xuất th ân , khoa M ậu Thìn niên hiệu Chm h Hoà năm
th ứ 9 (1688). Sau đó, ông làm quan đến chức H àn lâm
viện H iệu thảo, Thị lang.

Ngô Đình Thạc (1678 -1740)


N gô Đ ình Thạc sinh năm 1678 tạ i xã Tả Thanh
Oai, h u y ện Thanh Oai, nay là thôn Tả Thanh Oai, xã
Tả T hanh Oai, huyện Thanh Trì, thành p h ố H à Nội.
N ăm 1700, ông đỗ Tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuâT
th ân , làm đ ế n chức-Thượng th ư Bộ Lại, giảng sách
trong cung, tước Q uận công.
N ăm 1732, ông được cử đi sứ nhà Thanh báo tang
Lê Dụ Tông. Trở về, làm quan đ ế n chức Binh Bộ
Thượng thư.
Cuô'i n ăm 1739, ông giữ chức Thượng thư Bộ Hộ,
được p h á i lên làm Trấn thủ Lạng Sơn.
Tháng 3 năm 1740, Toản Cơ làm phản, đem quân
đến vây đánh Đoàn Thành. Lúc ấy trong thành không
có bũứi lứứi, có người khuyên ông chạy trôn, nhưng ông
nói: "Chức phận của ta là ở chỗ giữ đất triều đình, ta
phải sống chết với thành này, toan chạy đi đâu?", rồi bị
địch bắt. Ô ng không chịu khuất phục, bị bọn Toản Cơ
giết, thọ 62 tuổi. Sau được truy thăng hàm Thiếu bảo.

159
Ngô Đình Chất (1686 - 1758)
N gô Đ ình C hất còn có tên là Đ ình O ánh, h iệu
T hận Trai, sinh năm 1686 tại xã Tả Thanh Oai, h u y ện
Thanh Oai, nay là thôn Tả T hanh O ai, xã Tả Thanh
Oai, huyện Thanh Trì, th àn h phô" H à N ội.
N ăm 1721 thời Lê Dụ Tông, N gô Đ ình ChâT đỗ
Đ ồng tiến sĩ. ô n g đổi tên là N gô Đ ình O ánh. Ban đ ầ u
ông làm ở Viện H àn lâm , sau đó ra làm H iến sát sứ
Thanh H óa. Được ít lâu, ông về triều làm Thiêm sai,
kiêm Phó đô N gự sử.
N ăm 1740, Đ àng N goài có n h iề u n ô n g d â n nổ i
dậy chống triều đình, trong khi đó chúa Trịnh Giang
chơi bời làm hỏ ng chm h sự. A nh ô n g là N gô Đ ình
Thạc bị quân nổi d ậy Toản Cơ g iết chết. N gô Đình
ChâT cùng các đ ại thcần bàn đưa em Trịnh G iang là
Trịnh D oanh lên ngôi. Từ đó tình hình d ầ n d ầ n ổn
định trở lại.
N hờ công ủng hộ Trịnh D oanh, ông được thăng
làm Tuyên lực công thần, phong chức Thượng th ư Bộ
Binh, tước Phương Đình hầu.
Khi giữ chức quyền Tể tướng, ông có trách nhiệm
câ"t nhắc quan lại, ổn định kỷ cương trong triều, làm
việc nghiêm túc và trong sạch. Trịnh D oanh m ến tài
ông, khen là "thanh, thận, trung, cần" (trong sạch, cẩn
thận, trung thành và siêng năng).
N ăm 1750, ông đã 65 tuổi, bèn xin nghỉ hưu. Trịnh
D oanh không m uôn đ ể ông về. ô n g p h ả i xin 3 lần
mới được châ"p th u ận và tới năm sau (1751) ông mới

1BŨ
chính thức được về. Các quan tiễn đưa trọng thể, văn
thơ chúc tụ n g thắm thiết.
Khi triều đình có việc, vua Lê H iển Tông và chúa
Trịnh D oanh lại triệu ông ra làm Bồi tụng. Ngô Đình
ChâT qua đời năm 1758, thọ 73 tuổi, được truy tặng
Thái bảo, tước N huệ quận công.

Ngô Thì ức (1709 - 1736)


N gô Thì ứ c hiệu Tuyết Trai cư sĩ, sinh năm Kỷ
Sửu (1709) tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai,
trấ n Sơn N am (nay thuộc xã Tả Thanh Oai, h u yện
Thanh Trì, Hà Nội).
Thuở nhỏ, ông học với thầy Đan N hạc, vừa lớn
lên ông học với Tiến sĩ Vũ Huy. ô n g học giỏi, đàn
giỏi và giỏi cả nghề thuô"c.
N ăm 24 tuổi, ông thi đỗ H ương cô"ng. Là con
người không đ ể chí vào con đường khoa hoạn, ông
chỉ chú tâm vào sáng tác văn chương nên sớm có tác
phâ'm Nam trình liên vịnh tập gồm 30 bài thơ ngâm
vịnh với người bạn là Trương H ạo Trai khi đi chơi ở
Đ ông Q uan, Sơn Nam . Theo Phan H uy Chú thì Ngô
Thì ứ c còn có tác phẩm An Nam chí, tiếc là nay không
còn thấy văn bản.
Tác p h ẩm chừih của ông là: Nam trình liên vịnh tập
(Tập thơ ngâm nối vần cùng bạn trên hành trình về phía
Nam) gồm khoảng 30 bài ngâm vịnh với bạn; Tuyết Trai
thi tập, còn gọi là Nghi vịnh thi tập gồm 90 bài thơ...

1B1
ô n g là cha N gô Thì Sĩ, N gô Thì Đạo; và là ông
nội N gô Thì N hậm , Ngô Thì Du, N gô Thì H ương, Ngô
Thì T rí...
N ăm 1736, ông m ất khi m ới 27 tuổi, v ề sau ông
được triều đ ìn h truy phong là Phong T rạch bá.

Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780)


N gô Thì Sĩ tự T hế Lộc, hiệu N gọ Phong, đ ạ o hiệu
N hị Thanh cư sĩ, quê ở xã Tả Thanh Oai, h u y ệ n Thanh
O ai, n ay là th ô n Tả Thanh O ai, xã Tả T h an h Oai,
h u y ện Thanh Trì, thành p h ố Hà N ội. ô n g là m ộ t nhà
sử học lớn với các tác phẩm Việt sử tiêu án, Đại Việt
sử ký tiền biền, m ột p h ần Đại Việt sử ký tục biên. Lôì
chép sử của ông có tinh thần d â n tộc, có n h iều p h á t
hiện, và có pho n g cách khoa học.
N gô Thì Sĩ sinh ngày 20 th án g 9 n ăm Búìh N gọ
(tức 15 tháng 10 năm 1726). ô n g nội ông là N gô Trân,
h iệu Đ an N hạc, là m ột người n ổ i tiến g về sức học
uyên bác và tài văn chương, được người đương thời
liệt là m ộ t trong "bảy con hổ của km h th à n h Thăng
Long" (Trường An thất hổ). Bô" ôn g là N gô Thì ứ c ,
cũng n ổ i tiếng hay chữ.
Từ 7 đ ế n 11 tuổi, N gô Thì Sĩ được ô n g n ộ i rèn
dạy. Sau đ ó, ông được cho ra T hăng Long theo học
các bậc d a n h N ho. N ăm Q uý H ợi (1743), N gô Thì Sĩ
thi đỗ H ương tiến (Cử nhân), như ng bị h ỏ n g khoa thi
H ội ngay sau đó.

1B2
C ũng lận đ ậ n trong thi cử nên đến năm 1766, Ngô
Thì Sĩ m ới đỗ được H oàng giáp, ô n g liên tiếp làm
quan ở nhiều nơi: Thái N guyên, Thanh Hóa, N ghệ An,
rồi cuôì cùng là Đô"c trân ở Lạng Sơn.
Trên lĩnh vực sử học, ông là m ột sử gia nổi tiếng.
Việt sử tiều án, Đại Việt sử ký tiền biên của ông là hai
công trình có giá trị lớn, ở đó thể hiện rõ Ngô Thì Sĩ
là nhà sử học vừ a có tinh thần làm việc khoa học cẩn
trọng, có nhiều p h á t hiện m ới và suy nghĩ riêng, vừa
có ngòi b ú t viết sử sinh động, lôỉ cuô"n người đọc.
Đại Việt sử ký tiền biên là bộ sử biên niên gồm 17
quyển, được N gô Thì Sĩ biên soạn bằng chữ H án, thể
h iện giai đ o ạ n lịch sử từ H ồng Bàng đ ến h ết thời
thuộc M inh, chia thành 2 phần: ngoại kỉ từ H ồng Bàng
đ ến N gô sứ q u ân gồm 7 quyển; bản kỷ từ nhà Đinh
đ ến h ết thuộc M inh, gồm 10 quyển.
Với Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ cũng đã
tra cứu bổ sung được khá nh iều sự kiện, cải chính
được khá nhiều sai sót của sử cũ mà chính bộ Khâm
định Việt sử thông giám cuơng mục đã công nhận và bổ
biên sửa chữa.
Không chỉ là m ột sử gia nổi tiếng, Ngô Thì Sĩ cũng
là m ột nhà v ăn đa dạng về b ú t p h áp và có m ột khôi
lượng tác p h ẩm khá lớn. Bảo chướng hoằng mộ cho ta
th ây sự sắc sảo, giàu tinh thần phê phán của ngòi bú t
nghị luận. Ngọ phong văn tập thể hiện châl hiện thực,
p h o n g p h ú của ngòi b ú t ký sự. Anh ngôn thi tập thể
h iện châl hào hoa đằm thắm của m ột tâm hồn thi sĩ
g iàu n h ân ái, tru n g hậu... Song có lẽ nổi bật n h ầl ở

1B3
N gô Thì Sĩ là châ't cận đại trong thi p h á p của ông. Đó
là châT văn xuôi, chất đời sống thườ ng xuâ^t hiện đậm
n ét ở m ọi thể loại. Có thể gặp trong tác p h ẩm của ông
n h ữ n g con số thô^ng kê có thực, n h ữ n g cản h thực,
người và chuyện thực. Đ iều này là m ới m ẻ so với b ú t
p h á p ước lệ, khoa trương, tượng trư ng của v ă n học
thời T rung đại.
N gô Thì Sĩ đã đ ể lại n h iều tác p h ẩ m v ă n học nổi
tiếng cho h ậ u th ế như: Anh ngôn thi tập (Tập thơ chim
v ẹ t học nói), q u yển thư ợ ng và q u y ể n h ạ; Anh ngôn
phú tập (Tập p h ú chim v ẹ t học nói); Quan lan thi tập
(Tập thơ xem sóng); Nhị thanh động tập (Tập thơ làm
ở đ ộ n g N hị Thanh); Khuê ai lục (Ghi n ỗ i b u ồ n đau
về ch u y ện p h ò n g khuê); Ngọ phong văn tập (Tập v ăn
N gọ phong), quyển n h ấ t và q u y ể n nhị; Hậu hiệu tần
thi tập; Bảo chương hoằng mộ; Sách chê' khải tập; Khoa
sớ tập biên...
Trong các nhân vật ở thế kỷ XVIII, N gô Thì Sĩ được
Phan H uy Chú đánh giá là người có "học vân sâu rộng,
v ăn chương hùng sĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nho
gia, là m ột đại gia ở N am C hâu (Sơn N am Thượng).
N gô Thì Sĩ mâ't ngày 29 tháng 8 năm C anh Tý (tức
22 th án g 10 năm 1780).

Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803)


N gô Thì N hậm tự là H y D oãn, h iệu là Đ ạt H iên,
sinh ngày 25-10-1746 tại làng Tả T han h Oai, h u y ện

104
Thanh Oai, tỉnh H à Đ ông cũ (nay thuộc Hà Nội). Cha
ô ng là N gô Thì Sĩ, đ ậ u Tiến sĩ, làm quan thời Lê -
Trịnh đồng thời là nhà sử học và nhà thơ. Các em ông
đ ều học giỏi đỗ cao. Em rể ông là Phan H uy ích, một
trí thức nổi tiếng thời Tây Sơn.
N ăm 29 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ, ra làm quan và được
th ăn g chức C ông Bộ thị lang nhà hậu Lê. Bị phe chúa
Trịnh khủng bô", ô n g p h ả i trán h về vùng Sơn Nam 6
năm . Khi Q uang T rung ra Bắc, ông được tiến cử phụ
tá cho N gô Văn Sở giữ th àn h Thăng Long.
N ăm 1788, q u â n T hanh sang xâm lược nước ta,
ô n g chủ trư ơng lui b in h về giữ p h ò n g tu y ến Tam
Đ iệp - Biện Sơn (N inh Bình) đ ể bảo toàn lực lượng
chờ đ ạ i q u â n c ủ a T ây Sơn. N ước cờ n à y đã góp
p h ầ n cho Q uang T rung làm cuộc h à n h q u ầ n th ần
tô"c ra Bắc đ ại phá q u â n T hanh trong trận N gọc H ồi
- Đ ông Đa lịch sứ... Sau đ ó , ông ph ụ trách ngoại
giao \'ới triều T hanh và sang sứ báo tang vua Q uang
T rung. N hà Tây Sơn mâ"t, ông bị triều N guyễn b ắt
giam đ á n h đ ò n ở sân V ăn M iếu, về nhà m ây hôm
thì mâT (1803).
N hững đóng góp của ông cho người anh hùng
N guyễn H uệ (cũng là cho đâ’t nước) râ"t đáng kể, cả \'ề
chính trị, ngoại giao lẫn quân sự. ô n g đã bổ khuyết
n h ữ ng chỗ thiếu h ụ t của Q uang Trung (do nhà vua
xuâT thân từ tầng lớp bình dân, không thể có được vốn
học vân uyên bác n hư ông). Có thể nói, sức m ạnh anh
h ù n g vô song của N guyễn H uệ cộng với trí tuệ viên
m ãn của N gô Thì N hậm là những nhân tô" cực kì quan

1B5
trọ n g khiến triều đ ại Tây Sơn đ ạ t tới đm h cao h iển
hách, đã làm cho triều đình nhà Thanh vô cùng vị nể.
N goài n h ữ n g tài năng về sách lược q u â n sự, N gô
Thì N hậm còn được thể hiện rõ nét trên bìrửi d iện v ăn
chương. Ô ng là m ộ t thi nhân đích thực, chủ n h â n của
m ột gia tài v ăn chương đồ sộ: 600 b ài thơ và 15 tác
p h ẩm lớn.
N goài thơ, N gô Thì N hậm còn viết ph ú và n h ữ n g
bài "chiếu" làm thay vua Q uang T rung, (như N g u y ễn
T rãi xưa viết thay Lê Lợi) mà người ta th ấy ông đã
lồng không ít n hữ ng lý tưởng của ông trong đó: Chiêu
lên ngôi vua (1788), Chiếu cầu hiền v.v...
Phan H uy ích đã nhận định về ông; "Tài u y ên bác
thông đạt, trở th àn h ngọn cờ chót v ó t giữa rừ n g nho
chúng ta".
Có thể khẳng đmh, Ngô Thì N hậm là bậc "sĩ p hu Bắc
H à" kiệt xuất, là nhà văn hóa lớn của nước ta với khá
nhiều tác phẩm văn thơ, lịch sử, ngoại giao, triết học.

1QQ
nj ^ -1 tr

LÀNG
TAM S0N
[ĩísơn.BổcninH]
f wJ u

=>^ng Tam Sơn sở d ĩ có tên là Tam Sơn là bởi làng


có 3 ngọn n ú i đ ộ t khởi lên giữa vùng đồng bằng, đó
là n ú i Vương, n ú i Giữa và núi C hùa. Làng nằm giữa
trung tâm xã Tam Sơn, gồm 6 xóm: xóm Tây và xóm
N ú i đứ ng riêng biệt ở hai khoảnh tre. Bốn xóm còn
lại (xóm Xanh, xóm Ô , xóm Đ ông, xóm Trước) tập
tru n g th àn h m ột khu vực d ân cư. Xóm Xanh và xóm
N ú i có nhiều công trình kiến trúc cổ (như đền, chùa,
m iếu) và cũng là nơi cư trú của nhiều cự tộc, n h ư họ
N gô, họ N guyễn. Theo lời kể của các cụ cao tuổi thì
xóm Xanh và xóm N ú i có người đ ến sinh cơ lập
nghiệp sớm nhất.
Làng Tam Sơn xưa thuộc tổng Tam Sơn, h u y ện
Đ ông N gàn, p h ủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc. N ay thuộc xã
Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng Tam Sơn
với 17 người đỗ đ ạ i khoa từ Phó bảng đ ến Trạng
n g u y ên trong các kỳ thi N ho học, là làng khoa bảng

1B7
lớn thứ 4 ở Việt N am thời xưa, chỉ đ ứ n g sau các làng
Mộ Trạch (H ải Dương), Kim Đôi (Bắc N inh) và Đ ông
N gạc (Hà Nội).
Trên tâ'm bia "Tam Sơn xã đăng khoa bi k ý" (Bia
ghi đ ăng khoa xã Tam Sơn) dự ng ở tả m ạc ch ù a Cảm
ư n g , xã Tam Sơn có ghi đầy đủ tên họ, n ăm thi đỗ
của các vị đại khoa, bao gồm:
1, N guyễn Q uan Q uang, Trạng n g u y ên n ăm 1246;
2, N gô Luân, Tam giáp Đ ồng Tiến sĩ n ăm 1475;
3, N guyễn Uc, Tam giáp Đ ồng Tiến sĩ n ăm 1487;
4, N gô Thẩm , Bảng nhãn năm 1493;
5, N guyễn Khiết Tú, N hị giáp Tiến sĩ (H oàng giáp)
năm 1496;
6, N guyễn Hy Tái, Nhị giáp Tiến sĩ (H oàng giáp)
năm 1511;
7, N g u y ễn Tự C ường, N hị giáp T iến sĩ (H oàng
giáp) năm 1514;
8, N gô M iễn Thiệu, Tnạng nguyên n ăm 1518;
9, Nguyễn Hòa Trung, Tam giáp Đồng Tiến sĩ năm 1518;
10, N guyễn Tảo, Tam giáp Đ ồng Tiến sĩ năm 1518;
11, N gô Diễn, Tam giáp Đồng Tiến sĩ n ăm 1550;
12, N gô Dịch, Tam giáp Đồng Tiến sĩ n ăm 1556;
13, N gô Sách Thí, Tam giáp Đồng Tiến sĩ năm 1659;
14, N gô Sách Dụ, Tam giáp Đồng Tiến sĩ năm 1664;
15, Ngô Sách Tuân, Tam giáp Đồng Tiến sĩ năm 1676;

1BB
16, N gô Sách Tố, Thám hoa năm 1721;
17, N guyễn Thiện Kế, Phó bảng năm 1898.
Với 17 vị Tiến sĩ H án học trên dây, Tam Sơn là
làng có sô" Tiến sĩ nh iều th ứ hai trong tỉnh Bắc Ninh,
chỉ đ ứ n g sau Kim Đôi. N hưng Tam Sơn nổi trội ở chỗ
là tro n g sô" 17 vị Tiến sĩ n ày đã có đ ến 2 vị Trạng
n g u y ên và có đủ cả Bảng nhãn, Thám hoa... Tam Sơn
th ậ t xứng đáng đ ể người đời ca ngợi:
Tam Sơn có đất ba yò
Của trời vô tận một kho nhân tài
Làng Tam Sơn là m ột trong những làng văn hiến
tiêu biểu của đâ"t Bắc N inh còn được thể hiện qua
n h ữ n g công trình kiến trúc, đ iêu khắc cổ.
Trước hết là chùa C ảm ứ n g . Căn cứ vào các thư
tịch cổ, thì m uộn nhâ"t, ngôi chùa này cũng được xây
v^ào n ăm có niên hiệu ứ n g Thiên (995 - 1007). Năm
1063, Lý Thánh Tông lại cho xây dựng lại vơi quy mô
to đ ẹ p hơn. D âu vết v ật châ"t của lần xây dựng này,
đ ế n n g ày nay chúng ta còn thây đó là nhữ ng viên
gạch hoa nổi hình lá đề, gạch dâ't nung quanh chùa.
N ăm 1519, sau khi đỗ Trạng nguyên, Ngô M iễu Thiệu
lại cho trùng tu lại chùa. Lần trùng tu này, chùa dược
m ở rộng với quy mô râ"t lớn (trăm gian). Vào các năm
1672, 1693, 1697 chùa được tu b ể và xây dự n g gác
ch u ô n g với sự hưng công của Tiến sĩ Ngô Sách Tuân
vả p h u nhân là N guyễn Thị N gọc Vĩnh. N ăm 1826,
chùa lại được trùng tu và đúc ẽiuả chuông lớn cao 1,3
m ét, n ặn g 300kg. H iện tại chùa còn 12 công trình xây

IBQ
d ự n g được bô" trí theo kiểu "n ộ i công n g o ại quô"c",
tro n g đó tác phẩm kiến trúc đặc sắc là "gác chuông".
Trong chùa cũng còn nhiều hiện v ật quý. Đó là khánh
đ á, tạo vào năm 1672, cây hương đá được d ự n g vào
n ăm 1697, chuông đồng, tượng Q uan  m nghìn m ắt
n g h ìn tay, tượng các th iền sư Lã Đ inh H ương, Bảo
Tm h, M inh Tâm.
N gôi chùa thứ hai của làng Tam Sơn là chùa Linh
K hánh. Tương truyền ngôi chùa n ày do Trạng n guyên
N g u y ễ n Q uan Q uang cù n g p h u n h â n đ ứ n g ra làm .
H iện tại khu vực chùa cũ còn m ột cây hương đá dự n g
v ào năm Chm h H òa th ứ 18 (1697)...

17Ũ
mQĩsốDnnHnHRnĩiêuBÉ:

Nguyễn Quan Quang (? - ?)


N guyễn Quan Q uang (có tài liệu ghi là Quán Quang)
là người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc,
nay là xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Trong lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam, kể từ khoa
thi đầu tiên, gọi là thi Nho học tam trường vào năm Ât
M ão (1075) đời Lý N hân Tông, trải qua hơn 100 năm,
năm 1239, niên hiệu Thiên ứ n g Chírủi Bình thứ 8 đời
vua Trần Thái Tông, đã có 5 kỳ thi đại khoa, nhưng triều
Lý và đầu triều Trần đều chưa lây đậu Trạng nguyên.
Các vị đỗ đ ầu n h ư Lê Văn Thịnh, Mạc H iển Tích,
Bùi Quô'c Khái, Trương H anh và Lưu M iễn chỉ được
lấy đỗ đ ầ u n h ất giáp... Phải tới khoa thi thứ 6 (khoa
Đ ại tỉ th ủ sĩ) vào n ăm Bính N gọ (1246), niên hiệu
Thiên ứ n g Chm h Bình thứ 15, đời vua Trần Thái Tông
m ới đ ặ t danh hiệu Tam khôi (Trạng nguyên - Bảng
n h ã n - Thám hoa) và N guyễn Q uan Q uang đã đ ậ u

171
T rạn g n g u y ên , Phạm V ăn T u ấn đ ậ u Bảng n h ã n ,
Vương H ữu P hùng đ ậ u Thám hoa (theo Các nhà khoa
bảng Việt Nam). N hư vậy, ông N guyễn Q uan Q uang
là vị Trạng nguyên đ ầ u tiên của nước ta.
N guyễn Q uan Q uang nổi tiếng thông m inh học m ột
biết mười. Mặc dù chỉ học lỏm nhưng ông sớm thông
kừih sử, ứng khẩu thành thơ, luận bàn việc đời thông
thái uyên thâm . G ặp khoa thi Hương, ông ứng thi đ ậu
Giải nguyên. Đến thi H ội lại đ ậ u H ội nguyên, khi vua
Trần Thái Tông m ở khoa thi Đại tỉ thủ sĩ, ông đ ậ u Đệ
nhâd giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhâd danh (Trạng nguyên).
N gười đương thời cũng n hư người đời sau đ ề u gọi
ông là "ông Tam nguyên".
Tương tru y ền , sau khi vdnh quy bái tổ, N g u y ễn
Q uan Q uang vào chầu vua đ ể được ra xuất chứih. Bâ'y
giờ, quân xâm lược M ông c ổ tiến đến biên giới, lăm
le đợi ngày xâm chiếm nước ta. Vua ra chiếu cử
N guyễn Q uan Q uang sang thương nghị với giặc. Tên
tướng gicặc nổi tiếng là kiêu h ù n g và thâm th ú y cho
rằng, Q uan Q uang đ ến là đ ể m ang ba tâ’c lưỡi th u y ết
khách, hắn bèn nghĩ cách d ù n g uy đ ể chế áp ông.
N hân đi qua ao bèo, hắn vớt m ột cây bèo lên, nắm
gọn trong lòng bàn tay rồi bóp chặt. Lát sau, h ắn m ở
ra chìa cho Q uan Q uang xem; C ây bèo đã n át V'ụn, th ế
rồi hắn cười sằng sặc ra chiều đắc ý lắm. Q uan Q uang
hiểu rằng tướng giặc tỏ ý coi nước Việt n h ư n hữ ng
cánh bèo non yếu chỉ cần khẽ đánh là tan. ô n g liền
n h ặ t m ột hòn đá rấ t to, rồi ném xuông giữa ao. Bèo
d ạ t ra m ộ t k h o ản g trô n g , n hư ng chỉ g iây lát sau

172
n h ữ n g cánh bèo tụ lại kín m ặt ao. Tướng giặc tái m ặt
h iể u th â m ý của Q uan Q uang: N gười Việt bao giờ
cũng đ o àn kết toàn dân để bảo vệ giang sơn, không
m ộ t sức m ạn h nào có thể k h u ât phục được. Sau đó,
tướ ng giặc đã h o ãn binh mà không dám tiến quân
sang xâm lược nước ta ngay.
Trong cuộc kháng chiến chông q u ân xâm lược
M ông Cổ lần th ứ nhâT (1258), N guyễn Q uan Q uang
có n h iều công hiến nên được nhà vua thăng đến chức
Bộc xạ (tương đương Tể tướng).
N guyễn Q uan Q uang là ông quan hết lòng vì dân
vì nước, thanh liêm, trung thực, được trong triều ngoài
d â n m ến phục cả về tài lẫn về đức. Khi tuổi già, ông
về quê hương m ở trường dạy học, sống m ột cuộc đời
th an h đ ạm . N gười d â n Tam Sơn cho rằng, ông là
người khai sán g nền H án học của quê hương, mở
đ ư ờ n g cho đ ấ t "Ba Gò" sau này có "m ột kho n h ân
tài"... N ơi N guyễn Q uan Q uang dạy học về sau dân
d ự n g lên m ộ t ngôi chùa đ ể tưởng nhớ đến người
"sông n hư tu", gọi là chùa Linh Khánh...
H ằn g năm cứ vào dịp 22 tháng C hạp âm lịch, dân
v ù n g Tam Sơn lại tổ chức "Tế phong mã" đ ể tưởng
nhớ tới vị trạng nguyên tài năng và đầy ân đức.

Nguyễn Tự Cường (1488 - 1548)


N guyễn Tự Cường sinh năm 1488, người làng Tam
Sơn (nay là xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn), có cha là cụ

173
N guyễn Úc đỗ Đệ tam g iáp Đ ồng Tiến sĩ khoa Đinh
M ùi (1487), đời Lê T hánh T ông và làm quan đ ế n chức
Lại bộ Tả thị lang, có anh ru ộ t là N guyễn H y Tái là
H oàng giáp Đô N gự sử đài.
Sinh trưởng trong m ột gia đình dòng dõi, d an h gia
vọng tộc và lớn lên ở làng Tam Sơn - m ộ t trong bô"n
ngôi làng có tru y ền thô n g khoa bảng nổi tiếng của xứ
Kinh Bắc nên từ nhỏ N g u y ễn Tự C ường đ ã chăm chỉ
đ èn sách, chuyên tâm d ù i m ài kinh sử. N ăm 26 tuổi,
N guyễn Tự C ường lên km h d ự thi và đỗ Đệ nhị giáp
Tiến sĩ xuất thân (H oàng giáp) khoa G iáp T uất niên
hiệu H ồng Thuận 6 (1514), đờ i Lê Tương Dực và làm
quan đ ến chức H iến Sát sứ, được tặng là Tiết nghĩa
Đại vương.
T hần tích, th ần phả làng Tam Sơn chép n g ắn gọn
rằng, khi M ạc Đ ăng D ung g ây biến, N g u y ễ n Tự
C ường vâng p h ụ n g m ật chiếu cương q u y ết đề xướng
d ẹ p giặc ở Cổ Pháp, ô n g đã h ọ p 18 vị tiến sỹ trong
v ù n g như: cụ Đ àm T h ận H u y , N gu y ễn K iến Đ ôi...
d ự n g nghĩa quân c ầ n V ương đ á n h nhà M ạc nhưng
không thành.
N gày nay, v ù n g Tam Sơn còn lưu tru y ề n câu
chuyện H oàng giáp N g u y ễn Tự C ường tu ẫ n tiết: Khi
nhà M ạc làm lễ đ ă n g quang, n h ận thấy vị q u an H iến
Sát sứ triều Lê là người tài n ê n đã trọng d ụ n g m ời ra
d ự lễ nhưng N g u y ễn T ự C ư ờng cáo ô'm, n h ấ t đ ịn h
không ra. Ba hôm sau, triều đ ìn h buộc ông p h ải lên
chầu. Vì không m uôn nhìn trực d iện kẻ cướp ngôi nên
ô ng giả cách đ au m ắt đ ể d ù n g vải the che m ắt. Lúc

174
v ào triều ông cũng không quỳ lạy mà chỉ vái từ xa
rồi tiến gần đ ến bệ rồng - nơi vua Mạc đang ngự, chỉ
thẳng vào m ặt Mạc Đ ăng D ung dõng dạc nói: "Ta phò
Lê chứ không phò Mạc" sau đó, ông cắn lưỡi tu ẫn tiết
ngay tại sân rồng để thể hiện lòng cương trực, trung
th àn h với nhà Lê.
Biết tin quan N guyễn Tự Cường m ất, nh ân dân
Tam Sơn vô cùng tiếc thương và lập đền thờ ông. Đến
thời Lê Trung H ưng, năm C ảnh Trị 4 (1666), xét thây
N g u y ễn Tự Cường là bậc công thần nghĩa liệt, trung
th àn h với nhà Lê nên đã triều đình ban sắc chỉ phong
là Thượng đẳng thần. N gày nay, đền thờ Tiết nghĩa
Đ ại vương N guyễn Tự C ường tọa lạc trên m ột khu
đấ i đ ẹp lưng chừng sườn núi C hùa, m ột bên là lăng
ba vị Đức Bà, m ột bên là chùa làng.

Ngô Miễn Thiệu (1498 hay 1499 - ?)


N gô M iễn T h iệu ng ư ờ i xã Tam Sơn, h u y ệ n
Đ ông N g àn , p h ủ Từ Sơn, K inh Bắc (nay th u ộ c xã
Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, Bắc N inh). N gô M iễn Thiệu
đỗ T rạn g n g u y ên khoa M ậu D ần - Q uang T hiệu thứ
3 (1518), đờ i Lê C hiêu T ông. C ù n g khoa với ô n g có
N g u y ễ n M ẫn Đô"c đỗ B ảng n h ã n , Lưu K hải C h u y ên
đ ỗ T h ám hoa.
N gô M iễn Thiệu là con trai cda Bảng nh ãn Ngô
Thầm . N gô Thầm hiệu là H oè H iên, đỗ Bảng nhãn
khoa Q uý Sửu, niên hiệu H ồng Đức 24 (1493), đời Lê

175
T hánh Tông, th àn h viên H ội Tao đ àn , làm q u an đ ến
chức H àn lâm viện Thị thư. Bác ru ộ t N gô M iễn Thiệu
là N gô Luân, Tiến sĩ khoa Ả t M ùi, niên hiệu H ồng
Đức 6 (1475), đời Lê Thánh Tông, làm quan đ ế n chức
Thượng thư kiêm Đ ông các Đ ại học sĩ.
Trạng nguyên N gô M iễn Thiệu làm quan triều Lê
đ ế n chức Lại bộ Thượng thư, kiêm Đô N g ự sử, tước
Lý Khê bá. Sau đó ông làm q u an nhà M ạc, đ ế n chức
Lễ bộ Thương thư, Đ ông các học sĩ, N gự sử đ à i Đô
N gự sử, H àn lâm viện Thị thư, tước Trình Khê hầu.
Thuở thiếu thời, N gô M iễn Thiệu nổi tiếng thông
m inh m ẫn tiệp, là người hội tụ được tru y ề n th ô n g
hiếu học và khoa bảng của d ò n g họ N gô.
N gô M iễn Thiệu không chỉ là bậc quan tài năng
m ẫn cán, mà còn là người thầy giỏi giang m ẫu mực
v^ề trí tuệ và đức độ, vì vậy đã đ ào tạo nên n h iều bậc
n h ân tài cho đ ấ t nước, ngay trong lúc cư q u an nh ậm
chức, cũng n h ư lúc nghỉ hưu, m ở trư ờng d ạ y học tại
quê nhà. Với sự d ạy dỗ rèn cặp trực tiếp của ông, hai
người con trai đ ều đỗ Tiến sĩ: N gô D iễn đ ỗ Tiến sĩ
khoa C anh Tuâ't niên hiệu C ảnh Lịch th ứ ba (1550);
N gô Dịch đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên h iệu Q uang
Bảo th ứ ba (1556).
Thầy giáo Trạng nguyên N gô M iễn Thiệu chừih
là người từ ng d ạ y N guyễn Gia M ưu (quê làng N ghĩa
Lập, nay thuộc xã Phù Khê, h u y ệ n Tiên Sơn) đ o ạ t học
vị Tiến sĩ, và trở th à n h ngoại tổ của d ò n g họ N gô
N guyễn ở Tam Sơn - m ột trong ba d ò n g họ nôT đời
khoa bảng ở làng quê nổi tiếng này.

17B
Được sự g iú p đỡ trực tiếp của thầy Ngô M iễn
T hiệu, N g u y ễn Gia M ưu thực sự bộc lộ được tô" châ"t
của người học trò thông minh, chăm học và hiếu thảo.
C hính vì Vtậy thầy càng yêu quý, tin tưởng v à o ità i
n ăn g của người học trò chắc chắn sẽ thành đạt, đi tới
th u ận lòng gả con gái của mình cho người học trò yêu:
N g u y ễn Gia M ưu.
T h ế là th ầy học, đồng thời là b ố vỢ - Trạng
n g u y ê n N gô M iễn Thiệu đã ngày đêm d ạy dỗ, chỉ
bảo, cho người con rể của m ình, đợi ngày đoạt chiếm
b ản g V'àng... N ăm năm m iệt m ài kinh sử, văn sách,
N g u y ễn Gia M ưu đỗ Hương công khi ông 33 tuổi, và
đ ế n n ăm 37 tuổi ông đỗ Tiến sĩ và chọn Tam Sơn làm
nơi sinh cơ lập nghiệp. Từ đây, nảy sinh m ột dòng họ
nôi đời khoa bảng, mà ngoại tổ chứih là Trạng nguyên
N gô M iễn Thiệu.

Ngô Sách Thí (1632 - ?)


N gô Sách Thí người xã Tam Sơn, huyện Đông
N g àn (nav là xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
N inh). Ổ ng đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi năm 1659 đời Lê
T hần Tông, làm quan tới chức Á n sát sứ.
N gô Sách Thí là ông tổ khoa bảng dòng họ Ngô
Sách (mà gô'c là họ N guyễn) ở Tam Sơn, đồng thời
cũng là người đ ặt nền m óng cho sự hiển đ ạt thần kỳ
của d ò n g họ N gô nơi đầy. N gô Sách Thí lại có hai
người con trai đ ều đỗ đ ạt là N gô Sách Dụ và Ngô

177
Sách T uân. N gô Sách Dụ đỗ Tiến sĩ khoa G iáp Thìn
năm 1664, đời Lê H uyền Tông khi m ới 25 tuổi, ô n g
làm quan đ ế n chức Phụng thiên P hủ doãn. N gô Sách
T uân đỗ Tiến sĩ năm Bính Thìn 1676, đời Lê H y Tông.
Ô ng làm quan tới chức Lại bộ H ữ u thị lang.

Ngô Sách Tố (1690 - 1747)


N gô Sách Tố (tên khác là N gô Sách H ân) sừih năm
1690, người xã Tam Sơn h u y ện Đ ông N gàn (nay là xã
Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tm h Bắc N inh), ô n g là cháu
n ộ i của N gô Sách Thí và là con N gô Sách Tuân.
N gô Sách Tô" đỗ T hám hoa khoa T ân Sửu n ăm
1721 đời Lê D ụ Tông khi 32 tuổi. Sau khi thi đỗ Ngô
Sách Tô" được bổ làm Đ ông các H iệu thư, th ăn g bổ
Đô"c đ ồ n g Sơn N am , đ ổ i làm Đô"c đ ồ n g An Q uảng.
K hoảng đ ầ u niên hiệu C ảnh H ưng (1740 - 1786) được
th ă n g chức Hộ bộ Thị lang. Khi  n vương Trịnh
D oanh châ"p chính, ông được th ăn g chức H àn h Tham
tụng, sau đổi sang võ chức làm tới Binh bộ Thượng
thư, N h ậ p thị Tham tụng, hàm T hiếu bảo, tước H uy
Q u ận công. N ăm 65 tuổi, ông xm về trí sĩ và m ở lớp
d ạy học. N hiều học trò các nơi đ ế n xin theo học và
đ ỗ đ ạ t làm quan. Sau khi mâ"t, ô n g được tru y tặn g
h àm T hiếu bảo.

17Q
n P'-----J í—

L
[ LÀNG
THO HOANG
[nnĩHi.Hi(nGVẼn]
J c___ r j u

^ à n g Thổ H oàng Cả, tổng Thổ H oàng, huyện


Thiên Thi, đạo Scfn N am (nay thuộc thị trấn Ân Thi,
huyện  n Thi, tủih H ưng Yên). Được hình thành cách
đây gần 2.000 năm , dân cư làng Thổ H oàng Cả chủ yếu
sông bằng nghề nông, trồng lúa nước. Căn cứ vào các
tài liệu còn lưu giữ được của làng, vào khoảng thế kỉ 6,
làng đã định hình hương ấp với tổ chức khá chặt chẽ.
‘Theo thời gian, làng Thổ H oàng Cả phát triển trong sự
định hình của thiết chế N ho giáo và bị tác động mạnh
mẽ bởi tư tưởng đó. Bởi thế, cho đến ngày nay, làng
vẫn còn giữ được những truyền thống văn vật, những
thuần phong mỹ tục và nền khoa cử bậc nhất Việt Nam.
Tương tru y ề n n h iều N ho sinh các nơi đã từng
d ừ n g chân ở Thổ H oàng đ ể củng cố kiến thức trước
khi đỗ đ ạ t ở những khoá thi Hương, thi H ội như: Tiến
sĩ N g u y ễn Lệ ở Bình H ồ, Tiến sĩ Lê Trọng Thứ ở
D uyên H à (cha của nhà bác học Lê Q uý Đôn). Sau khi

179
đỗ đ ạt, m ến cảnh, m ến người v ù n g đ ấ t này, ô ng Lê
T rọng Thứ đã cho con trai m ình là Lê Q uý Thái, em
ru ộ t nhà bác học Lê Q uý Đ ôn về T hổ H oàng sinh cơ
lập nghiệp và lập ra xóm Vườn H ồng, là xóm thứ tám
của làng Thô H oàng, ô n g Lê Q uý Thái cũng là cụ tổ
của dòng họ Lê Q uý ở đây.
T hành h o àng làng T hổ H o à n g là ông Bùi C ông
Hộ, m ột tướng của Dạ Trạch vương Triệu Q uang Phục
đã có công lao trong cuộc k h áng chiến chông q u ân
xâm lược nhà Lương. H iện nay làng còn giữ được 7
đ ạo sắc phong của các triều đ ại nhà l.ê, nhà N guyễn
và m ột bài thơ ca ngỢi thần của Tiến sĩ N guyễn Trung
N gạn (thời nhà Trần). N guyên V 'ă n bài thơ ấy n h ư sau:
"Độc mộc phù Vương dị; Thiên kim m ãi chúa nam ;
NhâT xoang trung d ữ nghĩa; Cô’ h ậ u trọng n h ư san".
Theo hương ước còn lưu giữ đến bây giờ, trong thời
Nho học, làng có hàng trăm người đỗ Cử nhân, Tú tài ở
các kỳ thi Hương, đặc biệt có 10 người đỗ đại khoa (trong
đó có 1 Bảng nhãn, 9 Tiến sĩ). Tiêu biểu nhất trong các
Tiến sĩ, đó là ông N guyễn Trung N gạn - vị Tiến sĩ H oàng
giáp đầu tiên của nền khoa cử Việt N am (ông đỗ Tiến sĩ
năm 1304, đời Trần), ô n g được phong làm Thân Quô"c
Công, giữ trọng trách nội trị, bang giao, được sử sách
lưu truyền. Tên của ông được lưu ở Văn Miếu Quốc Tử
giám (Hà Nội) và Văn M iếu Xích Đ ằng ở H ưng Yên.
về sô" người đỗ Tiến sĩ của làng Thổ H oàng hiện
còn có nhiều quan niệm chưa thông nhâ"t. N hiều tài
liệu ghi là 10 Tiến sĩ. Tuy nh iên tạ i V ăn M iếu Xích
Đ ằng (được xây dự ng từ th ế kỷ 17 và trù n g tu, tôn tạo

1flũ
lớn vào năm Kỷ H ợi (1839), trên nền của chùa làng
Xích Đ ằng, xã N h ân Dục, tổng An Tảo, huyện Kim
Động. N ay thuộc phườ ng Lam Sơn, thành ph ố Hưng
Yên, từih H ưng Yên) lại ghi tên tuổi 13 vị Tiến sĩ làng
Thổ H oàng n hư sau:
- Bia thứ nhất:
1, N guyễn T rung N gạn, đỗ H oàng giáp năm 1304
2, C áp P hùng, đỗ Tiến sĩ năm 1463
- Bia thứ tư:
3, N guyễn V ăn Bừih, đỗ Tiến sĩ năm 1505
4, N guyễn C hấn Chi, đỗ H oàng giáp năm 1518
- Bia thứ năm:
5, Vũ Đ àn, đỗ Tiến sĩ năm 1526
6, H oàng Tuân, đỗ Bảng nhãn năm 1553
- Bia thứ sáu:
7, N guyễn Đức Trân, đỗ Tiến sĩ năm 1562
8, H oàng C hân N am , đỗ Tiến sĩ năm 1571
9, H oàng C ông Sân, đỗ Tiến sĩ năm 1670
- Bia thứ bảy:
10, H oàng C ông Bảo, đỗ Tiến sĩ năm 1710
- Bia thứ tám:
11, Vũ C ông Thắng, đỗ Tiến sĩ năm 1867
12, Vũ Trác O ánh, đỗ Tiến sĩ năm 1556
13, H oàng Bình Chính, đỗ Tiến sĩ năm 1775.

101
mỆĩsốDnnHnHnnĩiêuBÉ:

Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370)


N guyễn Trung N gạn tự là Bang Trực, hiệu là Giới
Hiên, sữứi năm Kỷ Sửu (1289, có tài liệu ghi là năm Canh
Dần, 1280), người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay
thuộc thị trấh Ân Thi, huyên Ân Thi), tm h H ưng Yên.
Ông là m ột nhà chúứi trị, m ột đại thần có tài, được xếp
vào hàng "Người phò tá có công lao tài đức đời Trần".
N guyễn T rung N gạn xuất thân trong m ộ t gia đình
bình d ân , như ng từ lúc nhỏ đã nổi tiếng th ầ n đồng,
16 tu ổ i đỗ H o àn g giáp, khoa G iáp Thìn n iê n hiệu
H ưng Long th ứ 12 (1304), đời vua T rần A nh Tông.
N ăm 1313, khi 24 tuổi, ông làm G iám quan. Vua
T rần M inh T ông lên ngôi (1314) ông được cử đ i sứ
nhà N gu y ên lúc 26 tuổi. N ăm Đ ại K hánh th ứ 8 (1321)
ông làm chức Thị N gự sử ở Đ ài n gự sử, sau đ ổ i ra
làm Thông p h á n ở châu A nh Lãng {Đại Việt sử ký toàn
thư chép là V iêm Lãng), ở đó ông nổi tiến g giỏi về

182
chúìh sự, được cất nhắc làm Thiêm tri coi việc ở cung
Thánh từ. N ăm Khai Thái thứ 3 (1326) ông được cử làm
An Phủ sứ Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa). N ăm Khai
Thái th ứ 6 (1329) ông hộ giá vua Trần Minh Tông đi
đánh Đà Giang; ông vâng lệnh vua viết quyển Thực lục
về cuộc hành quân này. N ăm Khai H ựu thứ 4 coi việc ở
Viện thẩm hình, kiêm An Phủ sứ Thanh Hoa. Năm Khai
H ựu thứ 9 (1337), ông làm An Phủ sứ Nghệ An, coi việc
chép quốc sử, rồi làm Tào Vận sứ ở lộ Khoái Châu, ô n g
đ ặt Tào Thương kho, chuẩn cấp cho dân đói. Năm Khai
H ựu thứ 12 (1340), ông làm Đại doãn ở Kũih sư.
N ăm 1341, vua Dụ Tông lên ngôi, N guyễn Trung
N g ạn cùng với Trương H án Siêu biên định bộ Hoàng
Triều đại điển, khảo soạn bộ Hình thư thi hành. N ăm
Thiệu Phong th ứ 2 (1342) ông được thăng chức H ành
khiển coi viện Khu m ật. N ăm thứ 15 (1355) ông được
T hăng Kmh lược sứ trấn Lạng Giang, N hập nội Đại
h àn h khiển, Thượng thư h ữ u bật, kiêm viện Khu m ật,
Đ ại học sĩ h ầ u ở tòa Kinh d u y ên , trụ quô'c, Khai
H u y ện bá, gia T hân quốc công...
Trải qua 4 triều vua nhà Trần trong hơn 60 năm
làm việc tại triều , N guyễn Trung N gạn là người trí
thức N ho học thực sự có tài về quản lý chúứi sự, luật
p h áp , ngoại giao, lịch sử, kể cả quân sự. N guyễn Trung
N g ạn đã trị nhậm ở nhiều địa phương như An Phủ sứ
ở Thanh H oá, N ghệ An, Kinh lược sứ Lạng Giang...
Dù các công việc râ't khác nhau, không gian rất xa,
trong đ iều kiện giao thông, đi lại khá thô sơ của thế
kỷ 14, nhưng vì sự tm nhiệm của triều đình, sự m ẫn

1B3
cán và năng lực quản lý khá toàn d iện của b ản thân,
N guyễn Trung N gạn đều hoàn thành tốt các công việc.
N guyễn Trung N gạn còn là nhà v ăn , n hà thơ có
tài. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, P han H uy Chú
đã n h ậ n xét về thơ N guyễn Trung N gạn: "Lời thơ hào
m ại, p h óng khoáng, có khí phách và côT cách Đỗ Lăng
(tức Đỗ Phủ). N hững câu thơ hay nhiều k h ô n g kể xiết.
Thơ tứ tu y ệt lại càng hay, không kém gì thơ thời thịnh
Đ ường". Tác p h ẩm của ông gồm có: Giới Hiên thi tập;
Hình luật thư; Hoàng triều đại điển; Thanh chi Đà Giang
thực lục; Ma nhai ký cổng bi văn.
Sau khi ông qua đời, nhiều địa phư ơ ng đ ã lập đền
thờ đ ể tưởng nhớ. Riêng tại Thăng Long - H à N ội, nơi
N g u yễn T rung N gạn từng có nh iều n ă m g ắ n bó và
làm đ ế n chức Kinh sư Đ ại d o ã n trự c tiế p cai quản
kinh thành, đã có 7 nơi thờ N guyễn T rung N gạn; Đền
Tiên Hạ: 46A ngõ Phất Lộc; Đ ền H ương Tượng: 64 Mã
M ây; Đ ền H ương Nghĩa: 13B Đ ào D uy Từ; Đ ình Mỹ
Lộc: 45 N guyễn H ữu H uân; Đ ình H ương Bài: 90 Trần
N h ật D uật; Đình ư u Nghĩa: 2A N g u y ễn H ữ u H uân;
Đ ình Phúc Lộc: 6 Lương N gọc Q uyến
T rên quê hương Thổ H oàng, Â n Thi, H ưng Yên,
p h ầ n m ộ của ông N guyễn T rung N g ạn đ ặ t trên cồn
C on N h ạn , n ằm ở phía T ây N am là n g T h ổ H oàng.
C òn nhà thờ cụ N guyễn Trung N g ạn là m ộ t ngôi nhà
ngói ba gian, có tổng diện tích khoảng 35 m^ trên m ột
th ử a đ ấ t rộng gần 200m^.
Tại Nghệ An, có họ N guyên Công tại xã Thái Sơn,
huyện Đô Lương được coi là dòng dõi của N guyễn Trung

184
Ngạn. Họ N guyễn Tài tại xã Thanh Văn, huyên Thanh
Chương cũng là hậu duệ của N guyễn Trung Ngạn. Tại
thôn Thuận Lý, xã Thuận Sơn, huyện Đô Lương có đền
Linh Kiếm là nơi thờ Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn.

Hoàng Tuân (1 5 1 7 -? )
H oàng T uân người xã Thổ H oàng, huyện Thiên
Thi (nay thuộc thị trấn  n Thi, huyện Ân Thi), tỉnh
H ưng Yên. N ăm 37 tuổi, ông đỗ Đệ n hất giáp Tiến sĩ
cập đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Q uý Sửu, niên
h iệ u C ảnh Lịch 6 (1553) đời Mạc Tuyên Tông (Mạc
Phúc N guyên), ô n g Làm quan đến chức Tham chính.
Bảng n h ã n H oàng T u ân là ông nội của H oàng
C hân N am (Tiến sĩ khoa Tân M ùi - 1571), là viễn tổ
của H oàng C ông Bảo (Tiến sĩ khoa Canh D ần -1710),
H oàng Bình Chính (Tiến sĩ khoa Ấ t M ùi -1775).

Hoàng Chân Nam (1539 - ?)


H oàng C hân N am ngư ờ i xã Thổ H oàng, huyện
Thiên Thi (nay thuộc thị trân Ân Thi, huyện Ân Thi),
tửửi H ưng Yên.
N ăm 33 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ
x u ấ t th ân khoa T ân M ùi n iên hiệu Sùng Khang 4
(1571) đời M ạc M ậu H ợp. Sau đó làm quan đến chức
Đ ông các H iệu thư.

185
H oàng C hân N am là cháu H oàng T uân và là ông
n ộ i của H oàng C ông Bảo (đỗ Tiến sĩ n ă m 1710).

Hoàng Bình Chính (1740 - 1786)


H oàng Bình Chúứi còn gọi là H oàng Trọng Chúứ\,
tự Xuân Như, hiệu Liên Phong, dòng dõi Tiến sĩ H oàng
C hân Nam quê ở làng Thổ Hoàng, huyên Thiên Thi (nay
thuộc thị trấn Ân Thi, huyện Ân Thi), tủih H ưng Yên.
N ăm Ấ t M ùi (1775), ông đỗ Tiến sĩ, được b ổ làm
H iệu lý V iện H àn lâm , sau đó cử đ i sứ nhà T hanh
(Trung Quốc). N ăm Ất Tỵ (1785), ông trở về n hà thì
mâ't, hưởng dương 49 tuổi, được phong Đ ông các Đ ại
học sĩ, tước Kim X uyên bá.
Ô ng có soạn bộ Hưng Hoá phong thổ lục ký và cùng
với Phan H uy ô n sưu tập và đề tựa bộ Giới Hiên thi
tập của N guyễn Trung N gạn.
Bộ Hưiíg Hoá phong thổ lục ký (1 cuốn) do ông biên
soạn năm 1778. Sách bắt đầu bằng bài tựa của tác giả
viết năm M ậu Tuất (1778) C ảnh H ưng thứ 39; khi đó tác
giả được cử làm Đô"c đồng xứ H ưng H oá được gần hai
năm . Đ ầu bài tựa ghi: Đinh D ậu xuân chúìh p h ụ n g (sai)
H ưng Hoá xứ đốc đồng ...(Mùa xuân, tháng giêng năm
Đũứi Dậu (1777) được cử làm Đô"c đồng xứ H ưng Hoá).
Tiếp đ ế n là Hưng Hoá phong thổ tổng. Thiên n ày
nó i khái q u át về lịch sử d iên cách địa thế, sông n ú i,
th ổ sản phong tục toàn xứ H ưng H oá lúc đó.

1BQ
---1i cc—
n r *-— «]_□
lÀNG ]
VĨNH KIỂU ị
[Tíson.BlỉcninH] 1

J C _ rJu

o ^ n g Vĩnh Kiều còn có tên Nôm là làng Viềng, xưa


là xã Vĩnh Kiều (hay. Vịnh c ầ u ) thuộc tổng Tam Sơn,
huyện Đông N gàn, phủ Từ Sơn, tủứi Bắc Ninh. Làng
Vĩnh Kiều ngày nay là khu p h ố Vĩnh Kiều thuộc
phường Đồng N guyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Xưa kia, làng nằm bên dòng sông Tiêu Tương gắn với
huyền tích Trương Chi nổi tiếng. Dấu tích xưa vẫn còn
đó với cầu ván Tam Lư, Vĩnh c ầ u , đầm Sậy, chợ Viềng...
D ân Kinh Bắc xưa nói: "Mộc Choá ngoã Viềng" là
đ ể chỉ nghề mộc truyền thống làng Choá xã D ũng Liệt
h u yện Yên Phong và ngề thợ ngoã (hay còn gọi là thợ
nề) làng Viềng (Vĩnh Kiều) ở Từ Sơn.
Thợ ngõa làng Vĩnh Kiều có m ặt h ầu khắp chốn
kinh kỳ đô hội, khéo léo dựng lên những m ái đền đài,
lăng tẩm , đình chùa với độ tinh xảo khó bề phường
thợ nào sán h kịp. T rên bước đườ ng dự n g nghiệp.

107
người làng Vĩnh K iều k h ông chỉ học hỏ i, n ắ m b ắ t
được nhiều kinh nghiệm của các phườ ng thợ m à còn
tiếp thu n h ữ n g tinh hoa v ă n hóa của n ền g iáo d ụ c
N ho học đươ ng thời, đ ó n g góp cho nước Đ ại V iệt
nhiều danh nhân, khoa bảng.
Làng Vĩnh Kiều có m ột dòng họ N guyễn nổ i d an h
về m ặt khoa cử. Trong vòng hơn 300 năm từ k h o ản g
gần giữa th ế kỷ th ứ 16 đ ến cuối th ế kỷ 19, d ò n g họ
N g u y ễn làng Vĩnh K iều đã sản sinh ra 10 T iến sĩ,
trong đó có 7 người được phong hầu, m ộ t người được
tặng phong Thái bảo, m ột người được p h o n g tước bá
cùng 30 cử n h ân và 60 tú tài. Thành tích n à y đ ã đưa
d ò n g họ N gu y ễn làng Vĩnh Kiều lên th àn h m ộ t trong
những dòng họ có nhiều người đỗ đ ạt n h ất thời phong
kiến ở Việt N am . N gười khai m ở con đ ư ờ n g khoa cử
làng Vĩnh Kiều là Tiến sĩ N guyễn V ăn H uy. ô n g đỗ
thứ 2 khoa Kỷ Sửu 1529, giữ chức Lễ bộ T hư ợng th ư
kiêm Đ ông các Đại học sĩ...
Sách Đăng khoa ỉục Kỉnh Bắc ghi "N guyễn V ăn H uy
có 3 con trai là N gu y ễn Trọng Q uýnh, N g u y ễ n Đ ạt
Thiện \'à N guyễn H iển Tích đ ều đỗ Tiến sĩ. C on trai
của Trọng Q uýnh là G iáo Phường đỗ T hám hoa năm
1586". N hữ ng Tiến sĩ k ế tiếp của làng V ĩnh K iều là
N guyễn M inh Tâm đỗ năm 1585, N gu y ễn D anh N ho
đỗ n ăm 1670, N g u y ễ n C ông V ọng đỗ n ă m 1673,
N guyễn H ồng Vĩ đỗ năm 1678. Đặc biệt, đ ờ i th ứ bảy
có N guyễn N h ân N guyên đỗ H ương công (Cử n h ân )
năm 27 tuổi, ô n g sinh được 7 con trai thì 3 n g ư ờ i đỗ
Tiến sĩ, bô"n người đỗ H ương công.

IBS
C ho đ ế n n g ày nay, cư d â n làng Vĩnh Kiều còn
tru y ề n tụ n g bài ca sự tích họ N guyễn Vĩnh Kiều với
câu: "Có lúc bảy ông con m ột cụ. Bô"n đỗ Hưcíng công,
ba đ ạ i khoa. N gười làm thượng thư, người tổng đô'c.
Tiếng thơm lừng lẫy khắp gần xa"...
N gười Kinh Bắc xưa xếp họ N guyễn làng Vĩnh
K iều cù n g với họ N gu y ễn Đ ăng ở làng Bựu, họ
N g u y ễn ở làng Kim Đôi và họ N guyễn ở làng Tam
Sơn vào hàng "tứ gia vọng tộc" vì những dòng họ này
có n h iều người đỗ đ ạ t cao làm nên sự nghiệp vẻ vang
cho d ò n g họ, rạng rỡ quê hương đ ất nước.
N gày nay, dòng họ N guyễn còn lưu m ột bản gia
p h ả m ang tên Vĩnh Kiều gia phả, ghi lại thế thư và
p h ả n án h nhữ ng nét lớn về lịch sử dòng họ, n h ất là
về m ặ t khoa cử và quan chức.

IBS
môĩsôDnnHnHHnĩiGUBÉ:

Nguyễn Văn Huy (1466 - ?)


Theo Vĩĩih Kiều gia phả thì N guyễn V ăn H uy, tự là
C úc Đ àm , sinh năm Bính N gọ (1466), người xã Vĩnh
K iều, h u yện Đ ông N gàn (nay là khu phô" Vĩnh Kiều,
p h ư ờ ng Đ ồng N guyên, thị xã Từ Sơn, từih Bắc Ninh).
Thuở thiếu thời, N guyễn Văn H uy làm con nuôi
của ông Phạm Đôn Tích ở xã Yên Lạc, h u yện Thanh
Lâm, sau đó ông lại trở về nguyên quán. N ăm 44 tuổi,
ông đỗ Đệ nhâ"t giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ tam d an h khoa
Kỷ Sửu, niên hiệu M ũth Đức thứ 3, đời Mạc Đ ăng Dung
(1529). Ô ng làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lễ, kiêm
Đ ông các Đại học sĩ, Chừih tự kharửi, Thượng chế. ô n g
từng đi sứ phương Bắc, năm 67 tuổi, ông về trí sĩ.
N guyễn V ăn H uy có 3 người con đ ề u đ ỗ Tiến sĩ:
N g u y ễ n T rọng Q uýnh, N g u y ễn Đ ạt T hiện, N g u y ễn
H iển Tích và m ột cháu nội là N gu y ễn G iáo Phường
cũ n g đỗ đ ạ i khoa.

IQŨ
Tên tuổi khoa d a n h của ông được ghi khắc ở Văn
M iếu Bắc N inh. Bia Kim bảng lưu phương ghi về tiến sĩ
N g u y ễn V ăn H uy n h ư sau:
"Khoa Kỷ Sửu n iê n h iệu M inh Đức (1529): có
N g u y ễ n V ăn H uy, quê h u y ện Đ ông N gàn, xã Vĩnh
K iều, giữ chức Thượng thư, sau về trí sĩ".

Nguyễn Trọng Quýnh (1527 - 1597)


N g u y ễ n T rọ n g Q u ý n h , tự T rạch T hiên, h iệ u
D ương Sơn, sinh n ă m Đ inh H ợi (1527) ngư ờ i xã
Đ ồ n g N g u y ên , h u y ệ n Đ ông N g àn (nay là khu phô'
V ĩnh K iều, p h ư ờ n g Đ ồng N g u y ê n , thị xã Từ Sơn,
tỉn h Bắc N inh). N ă m 21 tu ổ i ô n g đỗ Đệ nh ị giáp
T iến sĩ xuâ't thân.
N guyễn Trọng Q uýnh làm quan đến chức Đặc tiến
kim tử Vinh lộc đ ại p h u , chức Thượng thư Bộ Lễ, Tri
C hiêu v ăn quán, kiêm Tú lâm cục, Chm h tự khanh
thượng chế, đi sứ phương Bắc. ô n g mâ't ngày 19 tháng
4 n ăm Đinh D ậu (1597), thọ 71 tuổi.
Tiến sĩ N guyễn Trọng Q uýnh được ghi khắc tên
tu ổ i và khoa danh ở Văn M iếu Bắc Ninh. Bia Kim bảng
lưu phương ghi các Tiến sĩ đỗ từ khoa Kỷ Sửu (1529)
đ ế n khoa C anh Tuâ't (1550) trong đó: "N guyễn Trọng
Q u ý n h : quê h u y ệ n Đ ông N gàn, xã Vĩnh Kiều, làm
q u an đ ến Thượng thư'.

ig i
Nguyễn Hiển Tích (1524 - 1593)
N guyễn H iển Tích sinh n ăm G iáp T hân (1524),
người xã Đ ồng N guyên, h u y ệ n Đ ông N g àn (nay là
khu phô" Vĩnh Kiều, phư ờ ng Đ ồng N guyên, thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh). N guyễn H iển Tích là con th ứ ba
của Tiến sĩ N guyễn V ăn H uy, là em Tiến sĩ N guyễn
Trọng Q uýnh, N guyễn Đ ạt Thiện, là chú của tiến sĩ
N guyễn Giáo Phường.
Ô ng đỗ H ương công sớm , nhưng vì loạn lạc n ên
đỗ Tiến sĩ m uộn. N ăm 48 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp
Tiến sĩ xuâ"t thân khoa  t Sửu, niên hiệu T h u ần Phúc
th ứ 4, đời Mạc M ậu HỢp (1565). ô n g làm quan đ ến
chức Tả thị lang Bộ Binh, tước N ghi Khê bá.
Vĩnh Kiều gia phả ghi ông làm quan nhà M ạc 28
năm . Khi nhà M ạc thâ"t th ủ , M ạc Kính C hỉ cát cứ
h u yện Thanh Lâm (nay là h u yện N am Sách, tỉnh H ải
Dương), ông đi theo, sau bị thâ^t bại, ông chạy lên chùa
 m Sơn (nay thuộc h u y ệ n Đ ông T riều, tỉnh Q u ản g
N inh), bị quân nhà Lê b ắ t được. N gày 27 th án g G iêng
năm Q uý Tỵ, niên hiệu Q uang H ưng thứ 16, đời Lê
T hế Tông (1593), ông cù n g q u ầ n th ần n hà M ạc bị
Trịnh Tùng đưa hành qu y ết ở bãi Thảo Tân, trên sông
N hị H à, khi đó ông 69 tuổi.
Bia Kim bảng lưu phưc/ng ờ Văn M iếu Bắc Nữìh khắc
v ào th án g 10 năm Kỷ Sửu đờ i T hành T hái (bia các
Tiến sĩ đỗ từ khoa Q uý Sửu thời Mạc C ảnh Lịch (Mạc
Tuyên Tông) (1553) đ ế n khoa N hâm Thìn niên hiệu
H ồng N inh (1592) ghi; "N guyễn H iển Tích quê h u yện

192
Đ ông N gàn, xã Vĩnh Kiều, làm quan đến Thị lang".

Nguyễn Giáo Phường (1549 - 1592)


N g u yễn G iáo Phường tự là Hoa N ghĩa, sinh năm
Kỷ D ậu (1549) người xã Đ ồng N guyên, huyện Đông
N g à n (nay là khu phô' Vĩnh Kiều, phường Đ ồng
N guyên, thị xã Từ Sơn, từih Bắc Ninh) (theo tư liệu
của họ tộc).
N ăm 1586, khi 38 tuổi, ông đỗ Hội nguyên, kỳ thi
Đ ình ông đỗ Đệ nhâ't giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh
khoa Bmh Tuâ't, niên h iệu Đ oan Thái thứ nhâ't, đời
M ạc M ậu H ợp.
Tư liệu v ăn bia Kim bảng lưu phương ở Văn M iếu
Bắc N inh khắc năm Kỷ Sửu đời Thành Thái, ghi các
vị đỗ tiến sĩ từ khoa Q uý Sửu - thời Mạc C ảnh Lịch
(Mạc Tuyên Tông - 1553) đến khoa N hâm Thìn, H ồng
N in h (1592), ghi về N guyễn G iáo Phường n h ư sau:
"Khoa Bmh Tuâ't niên hiệu Đoan Thái (1586); Đệ nhâ't
giáp Thám hoa - N guyễn Giáo Phường: người huyện
Đ ông N g àn , xã Vĩnh Kiều; đỗ giải ng u y ên kỳ thi
H ương, H ội, Đ'mh, làm quan đến chức Thượng thư".
Vĩnh Kiều gia phả ghi rằng: Giáo Phường thông
m m h h iếu học. Trong kỳ thi Đình khi đọc bài p hú của
ông, nhà vua phê rằng; "Văn của Giáo Phường như
sông G iang, sông H án càng chảy càng lạ". Kỳ thi ứng
ch ế ông lại đỗ đầu. N guyễn Giáo Phường làm quan
nhà M ạc hơn 6 năm , khi nhà Mạc thát thế, ông theo

193
M ạc Kmh C ung lên giữ đ ấ t Thái N guyên, C ao Bằng.
Khi Tô q u ận công Phạm Sảo, M ỹ q u ậ n công Bùi
V ăn K huê m ưu p hản, N guyễn H oàng về giữ T huận
Q uảng, ông bèn thu tàn binh nhà M ạc về giữ v ù n g
Vũ N inh, Thị c ầ u sau đó tiến đ á n h kinh đ ô T hăng
Long. Bị bại, ông về tử thủ ở Thái N guyên , rồ i bị làm
phản, ông m ất năm N hâm D ần (1592), khi m ới 44 tuổi.

Nguyễn Công Vọng (1644 - 1690)


Vĩnh Kiều gia phả chép: N g u y ễn Đ ức V ọng (tức
N guyễn C ông V ọng - BT), còn có tên là Thạch, tự là
Đ oan Túc, h iệu là M inh M ẫn, ôn g sinh n ă m G iáp
T hân (1644)... N ăm 30 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng
tiến sĩ xuâ't thân khoa Q uý Sửu, niên h iệu D ương Đức
th ứ 2, đời Lê Gia Tông (1673) thi ứng c h ế hỢp cách,
n ăm Bmh Thìn niên hiệu Vĩnh Trị th ứ nhâT, đời Lê Hi
Tông (1676), trú n g th ứ 3 khoa Đ ông các.
Là người "thông minh, có học vấn uyên bác, lại am
tường điển cổ, thông đ ạt chửih thể, ứng đối nhanh, thích
d ù n g văn chương tới mức quán thế và giỏi làm sớ điều
trần..." nên Trịnh Tạc m ến tài điều ông vào kữửi là "Thị
văn nội các" (chuyên thảo biểu, chiếu, sắc luật...), ô n g
được vua tin yêu trọng dụng, lúc nào cũng được kề cận
như vị "quân sư'. Đặc biệt, N guyên C ông Vọng có tài
ngoại giao và hùng biện xuất chúng nên liên tục được
cử đi sứ. N ăm Kỷ M ùi (1679) ông sang Trung Quốc cống
khoản và tiếp kiến nhà Thanh hai lần v ào thời vua

194
K hang H y thứ 14 và 17. Đến năm N hâm Tuất (1682),
N guyên Công Vọng lại được triều đình cử đi sứ thông
niên (nhiều năm ). Với trọng trách m ột sứ thần nước
Việt, ông đã hoàn thành xuất sắc mọi công việc được
giao phó.
Khi về nước, n hất là thời Chiêu tổ Khang vưcíng
Trịnh C ăn (1682 - 1709), N guyễn Công Vọng luôn được
triệu vào triều bàn luận những việc cơ m ật, quan trọng.
Ô ng được thừa lệnh "đặc biệt" đi giải quyết vùng biên
giới ở trấn Lạng Sơn đ ạt kết quả, được trọng thưởng
"lộc điền" ở hai ấp Tam Đảo và Hồi Quan, ô n g luôn có
tư tưởng "lấy dân làm gốc", thời Nam Bắc lưỡng triều,
Trịnh - N guyễn phân tranh, ông đi lại, vào ra dàn xếp
nhiều lần...
N guyễn Công Vọng được giao nhiều chức vụ quan
trọng. N goài những năm dài đi sứ, về kinh ông phụ
trách việc thi cử, tuyển dụng nhân tài vào làm các công
việc ở triều chính đồng thời dạy học cho các con vua và
các quan đại thần... ô n g làm quan đ ến chức Đô N gự
sử, khi mâ't được tặng Thượng thư Bộ Hộ.
Tác phẩm của ông có: Hoa thông biên (3 tập); viết
khi đ i sứ và 4 bài thơ trong Toàn Việt thi lục.
Ô ng m ất ngày 15 tháng 7 năm Canh Ngọ (1690) thọ
47 tuổi. Vua Lê ra "đặc chỉ" phong chức "Binh bộ
Thượng thư’ và truy tặng đôi câu đôì: "Nam Bắc lưỡng
triều giai đa h ữ u / Vãng hậu công văn nhất nhật công".
Có nghĩa: Khi đi sứ đ ạt nhiều công lao, về triều làm
việc quên ngày tháng!

195
N gu y ễn C ông V ọng là h ậ u d u ệ của N g u y ễn Văn
H uy, N guyễn Trọng Q uýnh. H iện nay tại d ò n g họ còn
lư u g iữ 8 đ ạ o sắc p h ong của ô n g , do các triều đ ạ i
p h ong kiến ban tặng.

Nguyễn Công Viên (1691 - ?)


Ô ng sm h năm Tân M ùi (1691), n ăm 28 tuổi đỗ thứ
5 kỳ thi H ội, khi vào thi Đ ình đỗ Đệ tam giáp Đ ồng
Tiến sĩ xuất thân, đó là vào khoa M ậu TuâT, n iên hiệu
V ĩnh T hịnh thứ 14, đời Lê D ụ T ông (1718). ô n g làm
q u an đ ế n chức Đ ông các h iệ u thư, Đô'c đ ồ n g Cao
Bằng. Theo gia phả, ông m ất n g ày 30 thán g 8, được
pho n g sắc Đ ại nguyên soái, T hông quô"c chm h, G iám
sát N gự sử. Ô ng là em N guyễn Quô"c ích, N guyễn Đức
Đ ôn, là h ậ u duệ N g u y ễn V ăn H u y , N g u y ễn T rọng
Q u ý n h, N guyễn H iển Tích, N g u y ễn G iáo Phương.
Sắc p h o n g do triều đ ìn h b a n tặ n g cho N g u y ễn
C ông Viên gồm có 3 đạo.

Nguyễn Đức Đôn (1689 - 1752)


Theo Vĩnh Kiều gia phả thì th u ở nhỏ ông tên là Ý,
h iệu là Trang Giản, sinh năm Kỷ Tỵ (1689). N ăm 33
tuổi, ô n g đỗ thứ hai kỳ thi H ội, v ào thi Đình, ô ng đỗ
Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ x uất th ân , đó là khoa Tân
Sửu, n iên hiệu Bảo Thái th ứ 2, đờ i Lê Dụ Tông (1721).

IQQ
ô n g làm quan đ ến chức Tả thị lang Bộ Lễ, tước N gạn
Xuyên bá, làm quan đến chức Đặc tiến Kim tử Vinh
lộc đ ạ i p h u , Lễ bộ h ữ u thị lang, C húìh tự khanh
thượng chế, H ành Lạng Sc(n xứ, Tán trị thừa chừih sứ.
Rồi trải qua các chức: Lại khoa đô câ'p sự trung, thăng
N g ự sử đạo Thanh Hoa, rồi n h ận chức H àn lâm thị
chế, T ổng đô"c Tuyên Q uang, Đ ông các H iệu thư,
Đ ông các Đại học sĩ, Tổng đô"c H ải Dương, Q uán lộc
thị khanh, Lễ bộ H ữu thị lang.
Ô ng m ất ngày 27 tháng 6 năm N hâm Thân, niên
h iệu C ảnh H ưng thứ 13 (1752) thọ 64 tuổi, ô n g là anh
T iến sĩ N gu y ễn C ông V iên, là em Tiến sĩ N guyễn
QuôT ích. Ba anh em ông được ghi khắc trong m ột bia
Kim bảng lưu phw ng ở V ăn M iếu Bắc Ninh.

107
--------- 1 e --------- ‘q n

ỊÀNG ]
p XUÂN CẨU ,
[uHneiRnG.HưnGVÊn]
^ r ..... .n i u

xa xưa, Xuân c ầ u (trước đ ây có tên là Hoa


Kiều, Hoa Cầu, H uê c ầ u , nay Icà thôn Xuân c ầ u , xã
Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) vô’n là
m iền đ ất nổi tiếng không chỉ có nhiều người kiệt xucất
mà còn là m ảnh đ ất cửa ngõ phía Đông của kinh thành
Thăng Long xưa. Xuân c ầ u cán ngữ cả dường thủy và
dường bộ lai kinh của hào kiệt trcân Đông Vcà là đường
di trân giữ vùng Hcải Đông, ccS cửa biên Vân Đồn giao
thương với bên ngoài của nhcà nưđc phong kiến Đại
Việt. Lcàng Xucân Ccầu có tên trong Dỉỉ Địa chí (1435) của
N guyễn Trãi.
Suô"t chiều d ài lịch sử, Xuân c ầ u luôn sản sinh ra
n h ữ n g danh n h ân , n h ữ n g nhà khoa b ản g cho đ ấ t
nước. Xuân c ầ u có đến 11 người thi đỗ đại khoa trong
các triều đ ạ i pho n g kiến: N g u y ễ n H ằn g (1586),
N guyễn Tính (1640), N guyễn H ành (1688), Q uản D anh
Dương (1710), N guyễn Quô'c Dực (1718), Q u ản Dĩnh

1QQ
(1727), Q u ản Đ ình Du (1731), N guyễn Gia C át (1787),
Tô T rân (Tô N gọc Giang) (1826) Tô H u ân (1868),
N g u y ễ n Đ ạo Q u án (1898). Trong sô" đó, dòng họ
N g u y ễn và dòng họ Tô chiếm sô" lượng lớn các vị đại
khoa. Họ N guyễn, có ông N guyễn H ằng đỗ Tiến sĩ
n ăm 1586, N guyễn Tính đỗ Tiến sĩ năm 1640, N guyễn
H àn h đỗ Tiến sĩ năm 1688, N guyễn Gia C át đỗ Tiến
sĩ n ăm 1787... Họ Tô, có ông Tô Trân đỗ Tiến sĩ năm
1826, Tô Đ ăng đỗ Cử nhân năm 1867, Tô H u ân đỗ
Phó bảng năm 1868, Tô Ngọc H uyền đỗ Cử nhân năm
1825, Tô N gọc N ữu đỗ Cử nhân năm 1850...
Đ ầu thê" kỷ 20, làng Xuân c ầ u lại xuâ"t hiện nhà
v ăn lớn N guyễn C ông H oan, với nhiều tác phẩm văn
học có giá trị lớn, đóng góp không nhỏ vào kho tàng
v ă n học Việt N am và Tô N gọc Vân - họa sĩ bậc thầy
trong làng hội họa nước ta với n hữ ng họa phẩm nổi
tiếng: Thiếu nữ bên hoa sen (1951), Thiếu nữ bên hoa
huệ (1943), Hai thiếu nữ và em bé (1944)...
Xuân C ầu là m ột làng quê giàu truyền thông cách
m ạng, với n h ữ n g người con ưu tú , n hữ n g chiến sĩ
cộng sản kiên trung như: Tô H iệu, Tô C hân, Lê Văn
Lương (tức N guyễn C ông Miều), Tô Q uang Đẩu, Tô
Gĩ (Lê Giản)... Tâm gương liệt sĩ Tô H iệu sáng mãi
trong lịch sử d ân tộc ta, với tinh thần lạc quan cách
m ạng. Tâ"m gương về bản lĩnh và khí p h ách cách
m ạng của ông Lê Văn Lương. Trong suô"t 15 năm lao
tù , trong đó có 11 năm bị giam giữ tại nhà tù Côn
Đảo, nơi được coi là địa ngục trần gian, nhưng ông
luôn giữ vữ ng khí tiết cách m ạng, phẩm châ"t người

ig g
cộng sản kiên trung, biến nhà tù đ ế quô"c th àn h trường
học cách lỴiạng...
Làng Xuân c ầ u còn nổi danh với nghề n h u ộ m vải
thâm . Theo tru y ề n th u y ết thì nghề n à y ở H uê c ầ u
(Xuân C ầu) c ũ n g có n gót n g h ét 2.000 năm . Thuôc
n h u ộ m là củ n â u , đ u n trong nước lá sòi (m ột loại cây
thân gỗ m ọc hoang), có nơi d ù n g lá bàng, hoặc h ạt
dền , sau đó lấy b ù n trát kín vài lần. Sau khi n h u ộ m
xong, tấm vải có m àu đen thâm , không p h ai và tấm
vải cực kỳ dai và bền, dày d ặ n nhưng m ặc lại không
nóng, không bí.

2Ũ0
m ộ ĩs ố D n n H n H H n ĩic u B É :

Nguyễn Hằng (1548 - 1625)


N guyễn H ằng người làng Xuân cầu, xã Nghĩa Trụ
huyện Văn Giang, tình Hưng Yên. ô n g đậu Tiến sĩ năm
39 tuổi khoa Bừứi Tuất, đời H ậu Lê (1586) và làm quan
đến chức Đặc tiến Kim tử Virứi lộc đại phu, Scín Tây đẳng
sứ Thừa chứìh uy Tham chúìh, tước Thọ Kiều tử. Khi về
hưu ông được vua tặng chức Thái bảo, tước Thọ Kiều
hầu. Làm quan to nhưng tính ông giản dị, ở thì nhà
tranh, ăn thì rau luộc châm m uối, sống một cuộc đời
thanh bạch, ô n g luôn giữ vững khí tiết và râd vui tứủi.
Phả ký họ N guyễn làng Xuân c ầ u chép về ông
n h ư sau: "Tổ đời thứ tư là cụ Thủ Khiêm (N guyễn
H ằng) đỗ tiến sĩ khoa Bính TuâT tức là cụ Thuỷ Khoa
Tổ. Đệ tứ đại Thủy Khoa Tổ. Tứ Bính Tuất, đệ tam
giáp đ ồ ng tiến sĩ xuất thân, Đặc tiến kim tử vinh lộc
đ ạ i p h u , Sơn Tây đẳng sứ Tán trị Thừa chính sứ, tự
Tham chm h, Thọ Kiều tử, p h ụ n g chí sĩ tặng Tự khanh,
ấm tặn g Thái bảo Thọ Kiều hầu, N guyễn Truyết công

2Ũ1
tự Thủ khiêm , th ụ y Thường Tâ’u ph ủ quân...".
Sinh thời ông làm b ài thơ "N ghèo" v ẫ n được
tru y ền tụ n g cho đến nay:
ứ hữ trên đầu tóc đã hai
N ghĩ mình khó ngặt chửa bằng ai
Nằm nhà dột khư khư ngáy
Lắc hầu không khích khích cười
Cột thiếu mành to che tháng giá
Bếp không niêu đất nấu canh khoai
Lại nghe Chu Dịch lời này nữa
Bĩ cực ngày rày ắt thái lai.
Khi thi đỗ đ ạ t rồi, ông vinh quy bái tổ, cũng chỉ
có rau m uôi dưa cà đ ãi khách:
Ba mươi chín tuổi đậu đãng khoa
Song biết ai bằng song biết ta
Đãi khách vẻ vang rau luộc muôi
Liễn canh chan chứa nước dưa cà.

Nguyễn Tính (1611-?)


N guyễn Tm h sinh năm 1611, người làng H oa c ầ u ,
xã N ghĩa T rụ, huyện Văn G iang, tỉnh H ưng Yên. ô n g
là con của N guyễn H ằng, làm quan H ữ u thị lang Bộ
Lễ, tước N ghĩa Q uận công. Sau khi m ấ t, ô n g được

2Ũ2
tặng chức Tả thị lang Bộ Binh.
Phả ký họ N guyễn làng Xuân c ầ u chép về ông
N guyễn Tính: "Cụ N ghĩa Q uận Công tên huý là Tmh,
tên tự là H oằng Đạo, tiểu tôn thờ là Biệt chi tổ, có
ru ộ n g 2 m ẫu. Làng ta báo ân làm đình thờ làm á thần.
Có ru ộ n g cúng Tết m ười m ẫu, đến nay đã được 2 dạo
sắc p h ong làm Thần H oàng".

Quản Danh Dương (1666 - 1730)


Q uản D anh Dương sinh năm 1666, người làng Hoa
C ầu, xã Nghĩa Trụ, h uyện Văn Giang, tm h H ưng Yên.
N ăm 1710, ông đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất
th ân khoa C anh D ần, niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ
6 triều Lê Dụ Tông. Sau đó, ông làm quan H àn lâm
Thừa chỉ và được cử làm Phó sứ (năm 1729) sang nhà
Thanh (Trung QuôY) cảm ơn nhà Thanh trả lại mỏ
đ ồ n g Tụ Long cho ta, khi đ ến Yên Kinh ông bị ốm rồi
mâd (1730). Sau khi mâd, ông được tặng Tả thị lang Bộ
C ông, tước Hoa Phái hầu.

Nguyễn Quốc Dực (1693 - ?)


N guyễn QuôY Dực sinh năm 1693, người làng Hoa
C ầu, xã N ghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tm h H ưng Yên.
N ăm 1718, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất
th ân khoa M ậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Thừứi năm thứ

203
14. Ô ng làm quan Tham chm h. Sau khi m ất, ông được
tặng chức Phó Đô N g ự sứ.

Quản Đình Du (1703 - ?)


Q u ản Đ ình Du sinh n ăm 1703, ngườ i làng H oa
C ầu, xã N ghĩa Trụ, h u y ệ n V ăn Giang, tm h H ưng Yên.
N ăm 1731, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất th ân
khoa Tân Hợi, niên h iệu Vĩnh K hánh n ăm th ứ 3.
Khoa n ày N g u y ễn N ghiễm (thân p h ụ nhà thơ
N guyễn Du) cũng đỗ H oàng giáp. (Đây là khoa thi
duy n h ất đời vua Vĩnh K hánh. Vì chúa Trịnh buộc Lê
Dụ Tông thoái vị, đưa Thái tử D uy Phường lên ngôi,
đ ặ t hiệu năm là Vĩnh K hánh, nhưng sau bị chúa Trịnh
Giang tru â t p h ế nên đời vua này không có tôn hiệu,
lấy hiệu năm mà gọi là Vĩnh K hánh đế).
Tương truyền, Q u ản Đình Du tuổi trẻ tài cao, nổi
tiếng văn chương, giỏi việc chính trị. Lúc đ ầ u làm Đãi
ch ế ở Viện H àn lâm , về sau nhờ N guyễn N ghiễm và
anh em Trần D anh N inh, Trần D anh Lâm ủ n g hộ, ông
cũng có danh vọng m ột thời, ô n g làm đ ến H ữu tham
tri, tước H ầu, rồi nghỉ hưu.

Nguyễn Gia Cát (1762 - ?)


Theo Phả ký họ N g u y ễ n làng X uân c ầ u thì
N g u y ễn Gia C át tức N g u y ễn Q uý G iang tiên sinh.

204
Sinh năm C ảnh H ưng th ứ 23 (1762) dời H ậu Lê. Là
m ột người rấ t thông m ữih m ẫn tiệp.
N ăm ông 26 tuổi, ông đậu đặc cách với học vị Đệ
nhị giáp Đ ồng C hế khoa xuất thân (Tiến sĩ) vào khoa
Đ inh M ùi (1787) đời Lê M ẫn Đ ế (Lê C hiêu Thông).
Ô ng từ ng được cử đi sứ Trung Quốc.

2Ũ5
n r -----3 e-----‘o p

LÀNG
: YÊN NINH
NI
Ị [uiỆĩvẼn.Bâi
[uiỆĩvẼn.Bâceiiin6]
rh - 1 C- n i u

^ à n g Yên N ữih (có tên N ôm là làng N ếnh), thuộc


thị trân N ếnh, h u y ện Việt Yên, tửìh Bắc G iang là m ột
làng cổ có tru y ền thông v ăn hiến lâu đời. Thời pho n g
kiến, làng có n h iều d ò n g họ cư trú , nhưng có 6 d ò n g
họ có người đỗ đ ại khoa trong các kỳ thi N ho học thời
phong kiến, đã làm rạng danh tru y ền thôn g h iế u học
của làng, đó là: T hân, N gô, N g u y ễn , Đ ỗ, D oãn,
H oàng. Trong k h o ản g thời gian 150 n ăm , là n g Y ên
N inh có 10 vị N ho học ưu tú đỗ đại khoa. C hứìh vì
thế, mà người thời nay tôn vinh Yên N in h là "làng
tiến sĩ".
T hân N h â n T rung (1418 - 1499) là vị khai khoa
truyền thô n g khoa cử, hiếu học của làng Y ên N inh.
Ô ng thi đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất th â n khoa
Kỷ Sửu, niên h iệu Q uang T huận th ứ 10 (1469). ô n g
được vua Lê T hánh Tông rât tin d ù n g và làm quan
đ ến chức Thượng th ư Bộ Lại. Khi vua Lê T h án h Tông
khởi xướng H ội thơ Tao đàn, quy tụ 28 ngườ i giỏi thơ

2ŨB
n h ấ t thờ i b ấy giờ, T hân N h ân Trung (cùng với Đỗ
N h u ận ) được vua phong là Tao đ àn phó nguyên súy
(1495) chỉ đứ n g sau vua Lê Thánh Tông.
N ăm 1484, T hân N hân Trung vâng sắc soạn bài
v ă n bia đ ầ u tiên ở Văn M iếu - Quô"c Tử giám . Trong
b à i v ă n này, ông không chỉ nói về ý nghĩa của các
khoa thi kén chọn n h ân tài cho đ ấ t nước của các bậc
đ ế vương, mà ông còn đưa ra m ột chân lý b ất hủ:
"...H iền tà i là nguyên khí của quô"c gia, nguyên khí
th ịn h thì th ế nước m ạn h mà hưng thịnh, ng u y ên khí
suy thì th ế nước yếu mà thâ'p hèn...". Trong gia đình,
n g o ài ôn g ra còn có ba người: T hân N hân Tín con
củ a T h ân N h ân Trung đỗ Đệ tam giáp đồn g tiến sĩ
x u â t th ân , khoa thi C anh T uất, niên hiệu H ồng Đức
th ứ 21 (1490); T hân N h ân Vũ con th ư T hân N h ân
T rung, đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuâT thân, khoa
th i T ân Sửu, niên hiệu H ồng Đức thứ 12 (1481) đời
Lê T h án h Tông; T hân C ảnh V ân là cháu Thân N hân
T ru n g , đỗ Đệ n h ất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ tam danh
(T hám hoa), khoa thi Đ inh M ùi, niên hiệu H ồng Đức
th ứ 18 (1487).
G iai đ o ạ n này, k h ô n g chỉ có n h ữ n g người của
gia đ ìn h T hân N h â n T rung đỗ đ ạ i khoa mà trong
là n g Y ên N inh còn có N g u y ễn Lễ Kính đỗ Đệ tam
g iá p Đ ồng Tiến sĩ x uất th â n khoa Ẩ t M ùi, n iên h iệu
H ồ n g Đ ức th ứ 6 (1475); N gô V ăn C ảnh đỗ Đệ nhị
g iá p T iến sĩ x u ất th â n (H oàng giáp) khoa thi Tân
Sử u (1481).
P h át huy truyền thông khoa cử â'y, con em làng

207
Yên N inh cố gắng học tập đ ể th àn h tài giúp dân , giúp
nước. Từ năm 1520 đ ến năm 1620 có thêm b ố n người
con nữ a của Y ên N inh đỗ đ ạ t cao, đó là: Đỗ V ăn
Q uýnh, đỗ Đệ Tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuâ't th ân , khoa
C anh Thìn, Q uang Thiệu (1520).
D oãn Đại H iệu, đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuâ't
th ân khoa Tân Sửu, Q uảng H òa 1 (1541) nhà Mạc.
N g u y ễn N ghĩa Lập, cháu n h iều đờ i N g u y ễ n Lễ
Kính, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất th ân khoa Q uý Sửu,
C ảnh Lịch (1553) nhà Mạc.
H oàng C ông Phụ, 53 tu ổ i đỗ Đệ tam giáp Đ ồng
Tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ M ùi, H oằng Đinh 20 (1619),
đời Lê T rung H ưng.
H iện làng Yên N inh có m ột di tích thờ các danh
n h ân khoa bảng của làng, đó là Đ ền thờ Tiến sĩ (Tiến
sĩ từ). Đ ền nằm trên khu đâ't rừng N gò, xưa kia là m ột
ngôi m iếu nhỏ thờ thổ th ần và các N ho sĩ ưu tú trong
địa phươ ng đỗ đ ại khoa. N ăm 1994, địa phươ ng đã
cho m ở rộng ngôi m iếu nhỏ th àn h m ộ t ngôi đ ền lấy
tên là Tiến sĩ từ. Đ ền thờ các vị đ ạ i khoa gồm :
1, T hân N hân Trung, đỗ Tiến sĩ n ăm 1469
2, N guyễn Lễ Kính, đỗ Tiến sĩ năm 1475
3, T hân N h ân Vũ (con trai th ứ T hân N h â n Trung),
đỗ Tiến sĩ 1481
4, N gô V ăn C ảnh, đỗ Tiến sĩ n ăm 1481
5, T hân C ảnh V ân (cháu T hân N h ân T rung), đỗ
T hám hoa năm 1487

Eũa
6, T hân N hân Tứì (con trai trư ởng T hân N hân
Trung), đỗ Tiến sĩ năm 1490
7, Đỗ Văn Q uýnh (Giang), đỗ Tiến sĩ năm 1520
8, D oãn Đại H iệu, đỗ Tiến sĩ năm 1541
9, N guyễn N ghĩa Lập, đỗ Tiến sĩ năm 1553
10, H oàng C ông Phụ, đỗ Tiến sĩ năm 1619.

2Ũ0
inQĩsÍDiinHnHAiiTiỄilbÉ:

Thân Nhân Trung (1418 -1499)


Thân N hân Trung tự là H ậ u Phd, sinh n ăm 1418,
người làng Yên N inh, tục gọi là làng N ếnh, p h ủ Bắc
G iang (nay thuộc thị trấ n N ếrih, hưyện Việt Yên, từih
Bắc Giang). Cho đ ế h nay, vẫrì khổng rõ T hân N h ân
T rung đích thực sinh và m ấ t n ãih nào, chỉ b iết ông
sinh khoầng năm 1418 và m ấ t khoảng năm 14^9.
N ăm Q uang Thuận th ứ 10 đời vua Lê Thárìh Tôhg,
tức là năm Kỷ Sứu (1469), ôhg thi (iậu H ội nguyên, Đệ
tam giáp Đồng t iế n sĩ x uất thâh. Sau đó, ông tững giữ
các chức Đ ông các Đ ại học sĩ kiêm Tế tử u Q uốc Tử
giám , kiêm Thượng th ư Bộ Lễ, tn íở n g H àn lâm viện
sự, Thượng thứ Bộ Lại, NÌiậị? hội p h ụ chính.
N hâm Dần năm th ứ 13 (1482), vUa đã ra sắc d ụ ,
giao cho Thân NÌiân tlù n g , QUáth Dinh Bảo, Dỗ
N huận, Đăo Cử, Qăm VầH Lễ sdậh thảo hai bộ sách lớn
của thời đố, ià Thiên Nam dư hạ Và Thiêh Nam ký sự.
G iáp Thìn riăm th ữ 15 (Ì484), ngăỳ 15 th án g 8, khi
d ự n g bia đề tên các Tiến sĩ từ khoa N hâm Tuất, năm
Đại Bảo thứ 3 triều Thái Tông trở đi, Thân N hân Trung
được giao soạn bài văn bia cho khoa thi Tiến sĩ đầu
tiên năm N hâm T uất (1442). Đây được coi là tư tưởng
cốt lõi của nền giáo dục Việt N am từ xưa đến nay:
"...H iền tà i là nguyên khí của quô"c gia, nguyên
khí thịnh thì th ế nước m ạnh m à hưng thịnh, nguyên
khí suy thì th ế nước yếu mà thấp hèn... Bởi th ế các
Đức T hánh đ ế m inh vương chẳng ai không lây việc
bồi dưỡng n h ân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên
khí làm việc đ ầ u tiên.
Kẻ sĩ có m ôì quan hệ th ật là quan trọng đối với
sự p h á t triển của đ ấ t nước, vì th ế cái ý tôn trọng thật
là vô cùng, nên đã ban ân sủng bằng khoa danh, lại
gia thêm bằng tước trật, ơn ban cho đã lớn, vẫn còn
cho là chưa đ ủ , lại cho đề tên ờ Tháp N hạn, ban tự
hiệu ở bảng Long H ổ, m ở tiệc vui triều đình m ừng
được người tài, không cái gì không ở mức cao nhất...
Thế thì việc dựng tấm bia đã này lợi ích biết chừng
nào, kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà cố
gắng. Làm sáng tỏ những điều đã qua, mở rộng dạy
bảo cho h ậ u thế, m ột là để dài m ãi tư chất danh tiết
cho kẻ sĩ, hai là củng cố sự bền vững của quốc gia".
Ấ t M ão năm thứ 26 (1495), vua lập Tao Đ àn nhị
thập b át tú, tự xưng là Tao đàn Đô nguyên suý, cử
T hân N h ân T rung và Đỗ N huận làm Phó Đô nguyên
súy. Vua soạn c ổ kim cung từ thi tập, tự làm tựa, rồi
giao cho T hân N hân Trung và N gô Luân phê bình.
T hân N hân T rung đã góp công quan trọng, cùng 26

1
v ăn th ầ n khác trong việc b iên soạn các tậ p th ơ của
Tao Đ àn còn tru y ền lại đ ế n nay là Quỳnh uyển cửu ca
và Hồng Đức quô'c âm thi tập.
T iến sĩ T hân N h ân T rung được p h o n g Lễ bộ
Thượng thư, trưởng H àn lâm viện sự, rồi th ă n g Lại
bộ Thượng thư, N h ập nội p h ụ chính, chức q u an cao
n h ât của triều đ ìn h ...
Tư tưởng xuyên suô"t con người Thân N h ân Trung,
kể cả trong văn chương d ù làm trong lúc vua tôi ngâm
vịnh, có tính thù tạc, người đọc v ẫn th ấy ở ô ng m ột
tấm lòng yêu nước thương d â n sâu xa, m ộ t ý thức
trách nhiệm cao với d ân , với nước, m ột đ ò i hỏ i cao
về đ ạo đứ c đôi với m ọi người, ngay cả với bậc đê
vương. T hân N hân T rung không chỉ là m ộ t vị quan
đ ại triều có uy tín về đức độ và tài n ăn g m à ông còn
là nhà giáo d ụ c m ẫu m ực của thời đại. ô n g là tấm
gương sáng về tinh thần hiếu học để gia đình, con cháu
và quê hương noi theo. H ai người con và cháu của ông
đ ều có ý chí học tập và đỗ đại khoa: T hân N h ân Vũ
(con thứ), đỗ khoa Tân Sửu, H ồng Đức 12 (1481); Thân
C ảnh V ân (cháu đích tôn, con Thân N h ân Từi), đỗ Đệ
nhất giáp Tiến sĩ Cập đệ tam danh khoa Kỷ M ùi, H ồng
Đức thứ 18 (1487); T hân N hân Tửi (con trưởng) đỗ Đệ
tam giáp Đ ồng Tiến sĩ x u ất thân khoa C anh T uất,
H ồng Đức 21 (1490).
Đ ối vớ i quê hươ ng - làn g N ế n h , T h â n N h â n
T rung là ngư ờ i khai khoa, xây n ê n tru y ề n th ố n g thi
th ư của làng. Kể từ T hân N h â n T rung (đỗ n ă m 1469)
đ ế n khoa thi Kỷ M ùi, n iê n h iệu H o ằn g Đ ịnh th ứ hai

212
m ươi (n ă m 1619), H o à n g C ông Phụ đỗ Tam giáp
Đ ồng T iến sĩ xuâ't th ân , trong khoảng 150 năm Yên
N in h có 10 người đỗ đ ạ i khoa, trong đó họ Thân có
4 người.

Ngô Văn Cảnh (1443 - ?)


N gô V ăn C ảnh sinh năm 1443, nguyên quán làng
Yên N inh, ph ủ Bắc Giang (nay thuộc thị trấn N ếnh,
h u y ện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang), trú quán xã Liên Hồ
cùng h u y ệ n (nay thuộc xã Q uảng M inh, huyện Việt
Yên, tủìh Bắc Giang).
N gô V ăn C ảnh, đỗ Tiến sĩ năm 1481. Sau đó, ông
làm q u an H iến sát sứ.

Thân Cảnh Vân (1463 - 1531)


T h ám hoa T hân C ản h V ân sinh n ăm Q uý M ùi
(1463) ở là n g Y ên N inh (tên N ôm là là n g N ếnh),
xưa th u ộ c h u y ệ n Y ên D ũ n g , trâ n K inh Bắc, nay
th u ộ c th ị trấ n N ế n h , h u y ệ n V iệt Y ên, tỉnh Bắc
G iang. Ô n g là con của T iến sĩ T hần N h ân Tín, cháu
đ ích tô n Phó N gu y ên sú y H ội Tao đ à n nhị th ập b át
tú T h â n N h â n Trung.
Y ên N in h quê ô n g từ n g n ổ i tiến g có tru y ề n
th ô n g thi th ư và họ T hân nhà quan Thám hoa Thân
C ản h V ân là m ột gia tộc nổi d an h về tru y ền thông

213
khoa b ả n g tiê u b iể u với cụ k h ả i tổ m ở đ ư ờ n g cứ
n g h iệ p là T hân N h â n T rung đỗ T iến sĩ n ă m 1469.
Sau ô n g là hai ngư ờ i con trai; T h â n N h ân Tín (đỗ
T iến sĩ n ăm 1490) và T hân N h â n V ũ (đỗ T iến sĩ n ăm
1481). Đ ược sinh ra tro n g m ộ t gia đ ìn h có tru y ề n
th ô n g thi thư, khoa cử n h ư v ậ y n ê n ngay từ n hỏ
T h â n C ản h V ân đã p h ả i rèn lu y ệ n theo k h u ô n m ẫ u
c ủ a N ho giáo. N hà Lê khi đó đ ặ t ra lệ "B ảo k ết thi
h ư ơ n g " b ắ t các xã p h ả i chịu trá c h n h iệ m về tư cách
đ ạ o đ ứ c của ngườ i đi thi, và lệ "C u n g khai tam đ ạ i"
b ắ t n gư ờ i đi thi p h ả i khai rõ lý lịch ba đời, hễ con
n h à xư ớ ng ca hay có tộ i vớ i triề u đ ìn h n h ấ t th iế t
k h ô n g được d ự thi.
Ô ng là con nhà quan, lại sinh ra ở m ột làng quê
có tru y ề n thông thi th ư n h ư v ậ y n ê n có đ iều kiện
th u ậ n lợi trong việc học hành. Do vậy, năm 25 tuổi,
ô ng d ự khoa thi Đinh M ùi, niên h iệ u H ồng Đưc thứ
18 (1487) đỗ Đệ n h ất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh,
d ự h à n g Thám hoa. V ăn bia đ ề d a n h Tiến sĩ khoa
Đ inh M ùi n iên h iệu H ồng Đ ức n ă m th ứ 18 (1487)
chép: "N gày m ồng 7 tháng 4, H o àn g thượng n g ự ở
h iên điện , ra câu h ỏ i về đ ạ o trị nước. Sau khi xem
q u y ển thi, lại gọi các sĩ nhân h ạ n g ưu vào cửa N guyệt
Q u an g, đích th ân xét định th ứ bậc. Lấy T rần Sùng
D ĩnh đỗ đ ầ u , N g u y ễn Đức H u ấ n đỗ th ứ hai, T hân
C ản h Vân đỗ thứ ba, đ ề u ban cho h ạn g Tiến sĩ cập
đệ; b ọ n Vũ C ảnh 30 người được ban Tiến sĩ xuất thân;
b ọ n Phạm Trân 27 người được ban Đ ồng Tiến sĩ xuất
thân. Đó là sự tuyển chọn râT th ậ n trọ n g vậy...".

214
Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam chép: "Thân Cảnh
Vân người xã Yên N inh, huyện Yên Dũng - nay là thôn
Yên N inh, xã N ữìh Sơn, huyện Việt Yên, tmh Hà Bắc
là cháu nội Thân N hân Trung, con của Thân N hân Tm,
25 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh
(Thám hoa) khoa Đ ùìh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ
18 (1487), đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến chức
Thị lang".
Sau khi đư ợ c d ự lễ ban y ế n ở triề u đ ìn h d à n h
cho n h ữ n g n g ư ờ i đỗ đ ạ t cao, q u an T hám hoa T hần
C ả n h V ân về là n g tiế n h à n h n ghi thứ c lạy tạ v in h
q u y rồ i sau đó lê n k inh th à n h làm quan, ô n g làm
đ ế n chức Thị lang, c ù n g làm việc v ớ i ô n g n ộ i là
T h ầ n N h â n T ru n g , vớ i chú ru ộ t là T hân N h â n Vũ,
sa u n ữ a là v đ i cha T h ân N h â n Tín và các q u an
đ ồ n g hư ơ n g là N g u y ễ n K ính, N gô V ăn C ảnh, Đỗ
V ăn Q u ý n h ...
C ha, con, ông, cháu Thám hoa T hân C ảnh V ân
trước sau có tới 4 người đỗ đại khoa và làm quan cùng
triều . Trước cảnh thịnh đ ạt â'y của gia đình họ Thân,
vua Lê Thánh Tông từng ca ngợi:
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử mộc ân vinh.
(M ười anh em nhà họ Trịnh cùng hưởng p hú quý
H ai cha con nhà họ Thân đ ều được ân vinh).
N ăm Tân M ão (1531), đời Mạc Thái Tông, sau hơn
40 n ăm tận tâm tận lực phục vụ triều chứih nhà Lê,
q u an Thị lang T hân C ảnh Vân qua đời, thọ 68 tuổi.

215
ồ n g m ất đi đ ể lại bao nhiêu tình thương n h ớ cho bà
con trong họ ngoài làng. C ũ n g từ đó đến h ết thời kỳ
phong kiến nhà N guyễn sau này, họ Thân không có ai
theo con đườ ng khoa b ả n g đ ể p h ụ c vụ triều đ ìn h
phong kiến nữa.

Hoàng Công Phụ (1567 - 1644)


H o à n g C ô n g P h ụ tự là Câ’m Q u ô c , th ụ y là
H iế u L iêm p h ủ q u â n , ô n g s in h v à o tiế t T ru n g
n g u y ê n , n ă m Đ inh M ão, n iê n h iệ u S ùng K hang th ứ
2, n h à M ạc (1567) tạ i xã Y ên N in h , tổ n g M ật N in h ,
h u y ệ n Y ên D ũ n g , p h ủ L ạ n g G ian g , xứ K inh Bắc
xưa. N ay là th ô n Y ên N in h (d â n g ian q u e n g ọ i là
là n g N ế n h ) th u ộ c th ị trấ n N ế n h , h u y ệ n V iệt Y ên,
tỉn h Bắc G iang.
Theo tác giả N g u y ễ n V ăn P hong (Sđ V ăn h ó a
T hể thao và Du lịch tỉn h Bắc G iang) thì cuộc đ ờ i và
sự n g h iệ p T iến sĩ H o à n g C ô n g P h ụ đư ợ c gh i lạ i
tươ ng đ ô i kỹ trong b à i v ă n bia Thực lục Hoàng công
bi và các tà i liệ u đ ă n g k h o a lục. Có đ o ạ n ch ép :
"...T iết T rung n g u y ê n , n ă m Đ inh M ão (1567) nhà ta
sin h ra tư ớ n g công. T huở n h ỏ đ ọ c rộ n g th i - thư,
lớ n lên ch u y ên tâ m v ă n học... N ă m  t D ậu (1585)
đ ủ 19 tu ổ i đỗ kỳ th i H ương. T ừ n ă m ba m ươi đ ế n
ba m ươi b ả y tu ổ i liên tiế p đề d a n h th á p n h ạ n . N ăm
42 tu ổ i d ự kỳ thi H ộ i đ ỗ h ạ n g ư u trú n g cách. N ăm
53 tu ổ i đỗ T iến sĩ x u ấ t th â n . T ừ đó ô n g ra làm
q u an , ban đ ầ u n h ậ n chức G iám s á t N g ự sứ , sau th ụ

21B
n h ậ n ơn giờ i được th ă n g đ ổ i chức Lễ khoa cấp sự
tru n g . R ằm th á n g 10 n ăm Ẩ t Sửu (1625) v â n g m ệnh
theo h ầ u th á n h vương. N ăm Q uý H ợi (1623), nước
n h à có sự... Kỷ M ùi n ă m th ứ 20 (1619) trong khoa
th i Đ ình, H o à n g tư ớ n g c ô n g m ới đ ă n g khoa đỗ
Đ ồ n g T iến sĩ x u ất th â n củ n g với 6 người khác nữa
ở tro n g nước. Buổi đ ầ u tướng công được nh ậm chức
G iám s á t N g ự sử, chức q u an có n h iệm vụ xét hỏi
các v ụ k ê u k iện do N gự sứ đ à i d u y ệ t lại đ ể trình
lên q u an b á n đ à i xét sứ, và cuôì năm trìn h b ày về
ch ín h sự h iệ n thời...".
N ăm Q uý Hợi (1623), đâ't nước xảy ra sự biến, vì
có công theo triều đình dẹp giặc cỏ nên H oàng Công
Phụ đã được triều đình vinh phong làm Dực vận tán
trị công thần, tước Tử, lại được cấp cho 50 người trong
bản xã đ ể sai bảo.
N ăm Đ inh M ão (1627), ông được thăng chức Binh
khoa cấp sự trung. N ăm M ậu Thìn, triều đình truy xét
công trạn g bề tôi hoàn thành tô’t nhiệm vụ bang giao
nên H oàng C ông Phụ được phong tước Bá, chức Tham
C hánh sứ H ải Dương.
C anh N gọ niên h iệu Đức Long năm thứ 2 (1630),
th á n g 11, v u a sai ch án h sứ là T rần H ữ u Lễ, Dương
Trí T rạch , p h ó sư là N g u y ễ n Kim Tế, Bùi Bình
Q u â n , N g u y ễ n N ghi, H oàng C ông Phụ đ i sứ nhà
M inh. Đ ây là lần thứ hai H oàng Công Phụ được triều
đ ìn h cử đ i sứ nhà M inh... Sau 3 năm đi sứ, hoàn
th à n h m ện h nhiệm triều đìn h giao phó về đ ến kinh
sư ít lâu, ô n g được triều đình cho nhậm chức Thừa

217
C hánh sứ Sơn N am và được câ'p cho 22 người trong
b ả n xã cùng với d â n xã N gọc Lý đ ể sai p h á i về làm
ruộng. Lại cho đ ể nguyên ru ộ n g đ i sứ ở các h u y ện
xã, cộng tâ't cả là 45 m ẫu.
N ăm C anh D ần th ứ 6 (1642) H o àn g C ông Phụ
được kiêm thêm chức Q uốc Tử giám Tư nghiệp. Họ
h àn g nội ngoại lần lượt được gia p h o n g chức tước,
h u â n d anh vẻ vang m ấy đời...
H oàng Công Phụ tạ th ế năm G iáp Thân, niên hiệu
Phúc Thái năm thứ 2 (1644), hưở ng thọ 78 tuổi.

21B
M ực lực

Lời g iớ i thiệu 5

LÀNG CHI NÊ 9
Ngô Cung (1557- ?) 11
Ngô Khuê (1633 - 7) 11
Ngô Cầu (1 6 3 8 - 7) 12
Lê Hiếu T rung (7 - 7) 13

LÀNG Cổ ĐÔI 14
Đỗ Phi Tán (1508 - 7) 16
Đỗ D anh Đại (1 5 1 4 -7 ) 16
Đỗ Tế Mỹ (1535 - 1597) 17
Lê Nghĩa Trạch (1536 - 1614) 19
Lê T hất Dục (1570 - 7) 19
Lê N hân Triệt (1612 - 7) 19

219
3, LÀNG ĐÔNG NGẠC 21
Phan Phù Tiên (? - ?) 25
Lê Đức Mao (1462 - 1529) 27
Phạm Thọ Chỉ (1539 -7 ) 28
Phạm Gia chuyên (1791 - 1862) 29
H oàng T ăng Bí (1883-1939) 31
H oàng M inh Giám (1904-1995) 32

4, LÀNG ĐÔNG THÁI 36


Phan Văn Nhã (1806 - 7) 38
Phan Tam Tỉnh ( 1 8 1 6 -7 ) 39
P han Đình Tuyển (7 - 7) 41
Phan Trọng Mưu (1851-7) 41
Phan Huy N huận (1844 - 7) 42
Phan Đình Phùng (1847 - 1895) 43
H oàng Ngọc Phách (1896 - 1973) 45
H oàng Ngọc Hiến (1930 - 2011) 47

5, LÀNG HẠ YÊN QUYẾT 49


H oàng Q uán chi (7 - 7) 53
Nguyễn Như Uyên (1436 - 7) 54
Nguyễn N hật Tráng (7 - 7) 56

220
6. LÀNG HƯƠNG MẠC 59
Đàm T hận Huy (1462 - 1526) 61
Nguyễn Giản T hanh (1482 - ?) 63

7, LÀNG KIM ĐÔI 67


Nguyễn N hân Bỉ (1448 - ?) 70
Nguyễn X ung Xác (1451 - ?) 71
Nguyễn N hân Thiếp (1452 - 7) 72

8, LÀNG LẠC ĐẠO 74


Dương Phúc Tư (1505 - 1563) 75
Dương H oàng (? - ?) 77
Dương Hạo (7 - 7) 78
Dương Công Thụ (7 - 7) 78
Dương Sử (1 7 0 7 - 1764) 80

9, LÀNG M ộ TRẠCH 81
Vũ Nghiêu Tá & Vũ H án Bi 84
Vũ Hữu ( 1 4 4 3 - 1530) 85
Vũ Quỳnh (1452 - 1516) 87
Vũ Cán (1475 - 7) 88
Lê Nại (1479 - 7) 90
Lê Q uang Bí (1506 - 7) 92

221
VŨ Công Đạo (1629 - 1714) 94
Vũ Huyên ( 1 6 7 0 - ? ) 96

10, LÀNG NGUYỆT ÁNG 97


Nguyễn Quốc Trinh (1625 - 1674) 100
Nguyễn Đình Trụ (1627 - 1703) 102
Lưu Quỹ (1811 - ? ) 103

11, LÀNG NGUYỆT VIÊN 106


Nguyễn Văn Phú (? - 7) 109
Ngô Cao L ãng (? - ?) 109
Nguyễn H ữu Độ (1813 - 1888) 111
Lê Viết Tạo (1876 - 1925) 112
Nguyễn Phong Di (1889 - ?) 114

12, LÀNG NHÂN LÝ 116


Phạm Như T rung (1 4 1 3 -7 ) 118
Phạm Bá Khuê (1419 - 7) 118
Nguyễn H oàn (7 - 7) 119
Phạm Dương (1 4 7 0 -7 ) 119
Nguyễn M inh Bích (1521 - 7) 119
Phạm Khắc M inh (1545 - 7) 120
Phạm Văn T u ấn (1598 - 7) 120

222
N guyễn Thế Khải (1709 - 7) 121

13, LÀNG PHÚ THỊ 122


Lê Thị Yến (Ỷ Lan, 1 0 4 4 -1 1 1 7 ) 126
N guyễn H uy N huận (1678 - 1758) 129
Cao Dương Trạc (1681 - 7) 132
N guyễn H uy Lượng (7 - 1808) 132
Cao Bá Q uát ( 1 8 0 9 - 1855) 134

14, LÀNG QUAN TỬ 138


Đỗ Khắc Chung (1247 - 1330) 142
Trần Nguyên Hãn (1390 - 1429) 144
N guyễn Từ (1429 - 7) 147
Lê Thúc Chẩn (1435 - 7) 147
Nguyễn Tộ (1440 - 7) 148
Lê Đ ứcToản (1452 - 1509) 149
Lê Khiết (1464 - 7) 150
H oàng M ậu Lâm (1876 - 1970) 151

15, LÀNG TẢ THANH OAI 153


Nguyễn Chỉ (7 - 7) 158
Ngô T uấn Dị (1655- 7) 158
Ngô Đình Thạc (1678 - 1740) 159

223
Ngô Đình Chất (1686 - 1758) 160
Ngô Thì ứ c (1709 - 1736) 161
Ngô Thì Sĩ (1 7 2 6 - 1780) 162
Ngô Thì N hậm (1746 - 1803) 164

16, LÀNG TAM SƠN 167


Nguyễn Q uan Q uang (? - ?) 171
Nguyễn Tự cường (1488 - 1548) 173
Ngô Miễn Thiệu (1498 h a y 1499 - ?) 175
Ngô Sách Thí (1632 - ?) 177
Ngô Sách Tố (1690 - 1747) 178

17, LÀNG THỔ HOÀNG 179


Nguyễn T rung Ngạn (1289 - 1370) 182
H oàng T uân (1 5 1 7 -7 ) 185
H oàng Chân Nam (1539 - ?) 185
H oàng Bình Chính (1740 - 1786) 186

18, LÀNG VĨNH KIỀU 187


Nguyễn Văn Huy (1466 - ?) 190
Nguyễn Trọng Quýnh (1527 - 1597) 191
Nguyễn Hiển Tích (1524 - 1593) 192
Nguyễn Giáo Phương (1549 - 1592) 193

224
N guyễn Công Vọng (1644 - ?) 194
Nguyễn Công Viên (1691 - ?) 196
N guyễn Đức Đôn (1689 - 1752) 196

19, LÀNG XUÂN CẦU 198


N guyễn H ằng (1548 - 1625) 201
Nguyễn Tính (1611 - ?) 202
Q uản D anh Dương (1666 - 1730) 203
Nguyễn Quốc Dực (1693 - 7) 203
Q uản Đình Du (1703 - ?) 204
Nguyễn Gia c á t (1762 - ?) 204

20, LÀNG YÊN NINH 206


T hân N hân T rung (1418 - 1499) 210
Ngô Văn Cảnh (1443 - 7) 213
T hân Cảnh ^ân (1463 - 1531) 213
H oàng Công Phụ (1567 - 1644) 216

225
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Sách:
1, Từ điển nhân vật lịch sử v i ệ t Nam
- Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Bá Thế
- Nhà xuất bản Khoa học xã hội, HN, 1991, 1992
2, Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 - 1919)
- Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nguyễn Thuý Nga
và Nguyễn Hữu Mùi - Nhà xuất bản Văn học, HN 1993
3, Tiên sĩ Nho học Thăng Long - Hà Nội
- Bùi Xuân Đính (Biên soạn) - Nxb Thanh Niên, 2010
4, Tiến sĩ Nho học Hải Dương (1075 - 1919)
- Hội đông biên soạn địa chí Hải Dương -1999
5, Các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh
- Lê Viết Nga (chủ biên), Nguyễn Văn Đáp, Lê Thị Hiển,
Đỗ Thị Thủy - Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, 2003
6, Người Hà Tây trong làng khoa bảng
- Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, 2001

22B
Internet:
1, hahnom.vass.ổov:<^ - Vỉện nghiên cứu Hán Nôm
- Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
2, www.giaphavietnam.vn - Gia phả trực tuyến.
3, bacninh.gov.vn - cổng thông tin điện tử Bắc Ninh
4, hungyen.gov.vn - cổng thông tin điện tử Hưng Yên
5, haiduong.gov.vn - cổng thông Jtin điện tử Hải Dương
6, vỉnhphuc.gov.vn - cổng thông tin điện tử Vĩnh Phúc
7, thanhhoa.gov.vn - cổng thông tin điện tử Thanh Hóa
8, hatinh.gov.vn - cổng thông tin điện tử Thanh Hóa

22 7
NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
B2 Bà Triệu - Hà Nội - BT: (84.Ũ4). 39434044 - B2B317...
Fax; 04.3943BŨ24. WBhsitE;nxbthanhnien.vn,-
email: infũ@nxbthanhniEn.vn
Chi nhánh; 27B Nguyẫn Bình Chiểu, phuòng Ba Kan,
ũuận 1, TP. Hồ cíú Minh. DT; (Dẻ) 39305243

DRnHnHi
LRnGKHonBnnGuiỆĩnníi]
SŨNG LAM
(Biên saạn)

Chịu trách nhiệm xuất bản:


Giám đốc^ Tổng biên tập
NGUYÊN TRƯỜNG
Biên tập;
BÌNH MINH
Thiết kế bìa:
STAR BOOKS
Thiết kế m ỹ thuật:
LAM CHÂU
Sửa bản in:
MốcS

ISBN: 97&€04-64^717-8
In 800 cuốn, khổ 13 X 20,5 cm, tại Công Ty In Văn Hóa Sài Gòn
Địa chỉ: 754 Hàm Tử, P.10, Q.5, TP.HCM
ĐKKH xuất bản s ố : 373 - 2016/CXBIPH/58 - oemsi
QĐXB số; 27/QĐ-NXBTN, ngày 1»02/2016
In xong và nộp luU chiểu năm 2016.
zm
ISBN: 978-604-64-3717-8

You might also like