Professional Documents
Culture Documents
đọc - thử - Bản tính tinh diệu 2
đọc - thử - Bản tính tinh diệu 2
3
Kinh lịch: Tiến sĩ máy móc công trình tại đại học
Arizona, nghiên cứu thuỷ động học và tính toán cao tốc.
Năm 1991 đến 2015 làm việc tại cục network tốc độc cao
và trung tâm tính toán, kiêm nhiệm phó giáo sư ở đại học
Thanh Hoa.
4
Mục lục
GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ ..............................................3
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................7
CHƯƠNG IV: VŨ KHÚC ..............................................12
Bản tính cơ bản ............................................................15
Tác dụng "Tướng tinh" của Vũ Khúc ..........................17
Vũ Khúc Hỏa Tinh là hung cách Quả Tú ....................26
Phân tích tác dụng của Vũ Khúc ở nam Mệnh ............28
Tác dụng của Tứ Mã ....................................................39
Hữu tình khắc và vô tình khắc .....................................66
Cách cục và lý luận lá số..............................................78
Tác dụng Mệnh lý của Bạch Hổ ................................141
CHƯƠNG V: THIÊN ĐỒNG .......................................151
Bản tính cơ bản ..........................................................154
Đại hạn đến cung Thiên Đồng tọa .............................175
Ấm phúc tụ không sợ hung nguy ...............................181
Đồng Lương Tị Hợi tại hôn nhân phong tình ............185
Thủy tinh tọa nhập đất Mộc dục ................................190
5
Nữ Mệnh Thiên Đồng tại Dậu ...................................192
Nữ Mệnh Đồng Âm tại Tý .........................................193
Nữ Mệnh Thiên Đồng tại Sửu Mùi ............................194
Tác dụng của cung vị Thái Tuế..................................201
Thái Tuế nhập cung pháp và suy luận về bệnh tật .....214
Cách cục và lý luận lá số............................................225
CHƯƠNG SÁU: LIÊM TRINH ...................................293
Bản tính cơ bản ..........................................................296
Tinh diệu thiện ác và giới định chính tà ....................307
Tác dụng của Xương (Khúc) Tham ...........................335
Cách cục và lý luận lá số............................................353
6
LỜI NÓI ĐẦU
Hai mươi năm, không tính là ngắn, nhưng đối với
việc nghiên cứu Đẩu số mà nói thì hẳn là chỉ vượt qua được
cánh cửa, bắt đầu bước lên điểm xuất phát của con đường
đăng đường nhập thất.
7
tính tinh diệu, là công phu cơ sở nhất để nhập môn, lầu cao
vạn trượng là dựng từ đất bằng".
Quyển sách này chủ yếu căn cứ vào nội dung trong
các khóa học về bản tính của tinh diệu của Tử Vân lão sư
trong nhiều năm tại "Sáng kiến đường", những nội dung
khác thì lấy trong các bài giảng của lớp "Tử Vi Đấu Sổ tâm
pháp". Các lá số ví dụ thì lấy các ví dụ tại các sách của Tử
Vân lão sư, hi vọng qua cuốn sách này có thể liên kết với
8
các sách của Tử Vân lão sư. Từ cơ sở này, đem nội dung
mà Tử Vân lão sư giảng về bản tính của tinh diệu hệ thống
hóa chỉnh lý, áp dụng cấp độ rõ ràng, logic nhất quán, hi
vọng có thể qua đây giải thích từ cạn tới sâu và cũng có thể
lý giải hoàn chỉnh bản tính của tinh diệu.
Quyển sách bắt đầu từ chương "Làm thế nào học tốt
bản tính của tinh diệu?", rồi tuần tự bao gồm Tử Vi, Thiên
Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh,
Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng,
Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân mười bốn chủ tinh. Tiếp
theo là Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên
Khôi, Thiên Việt Lục Cát Tinh và Hỏa Tinh, Linh Tinh,
Địa Không, Địa Kiếp, (Lộc Tồn), Kình Dương, Đà La Lục
Sát tinh. Tiếp theo thì là Tứ hóa, tức hóa Lộc, hóa Quyền,
hóa Khoa, hóa Kỵ. Cuối cùng là các bàng tinh gồm Hồng
Loan, Thiên Hỉ, Thiên Mã, Thiên Hình, Thiên Diêu, Long
Trì, Phượng Các, Hàm Trì, Đại Hao, Bạch Hổ, Tang Môn,
Thiên Hư, Thiên Khốc, Cô Thần, Quả Tú vân vân.
Mỗi chủ tinh được chia thành hai bộ phận là bản tính
cơ bản và cách cục và lý luận về lá số. Bản tính cơ bản từ
tinh diệu Nam Bắc Đẩu, Âm Dương Ngũ Hành, sinh khắc
chế hóa, miếu vượng lợi hãm, nghĩa gốc của tinh diệu thì
cũng đề cập đến ứng dụng đẩu số tại Sơn, Y, Mệnh, Bặc,
Tướng. Cách cục và lý luận lá số ngoài bao gồm các cách
cục thường gặp trong đẩu số thì thông qua thảo luận lá số
có cách cục tương quan để độc giả có lý giải đối với tinh
diệu này và cũng có thể học cách luận đoán lá số và quan
niệm và phương pháp cơ bản cần thiết tương quan. Lục Cát
Tinh và Lục Sát tinh về đại thể thì sẽ như chủ tinh, các tinh
9
diệu còn lại vì nội dung không nhiều nên sẽ trực tiếp giải
thích mà không phân chia như vậy nữa.
10
500 lá số, để độc giả đọc dễ hơn nên dự tính phân làm năm
tập.
11
CHƯƠNG IV: VŨ KHÚC
VUÄ
KHUÁC
12
Vũ Khúc là chủ Tài bạch, lại là danh tướng tinh, bài
này sẽ xuyên qua hai bản tính này, lại mượn ngũ hành
thuộc tính kim và thuộc tính âm của Vũ Khúc để dần dần
tiến hành giải thích tác dụng Mệnh lý của tinh diệu này.
13
thiếu niên" có thể nói là những cách cục của Vũ Khúc được
nhiều người biết rõ nhất. Còn các cách cục khác thì vì Vũ
Khúc là Tài tinh và tướng tinh nên phần lớn quay chung
quanh hai chủ đề này, ví dụ "Vũ Khúc văn tinh với thân
Mệnh, văn võ kiêm toàn", "Vũ Khúc miếu vượng, uy danh
hách dịch", "Vũ Khúc Lộc Mã giao trì, phát tài viễn ấp",
"Vũ Khúc Khôi Việt cư miếu vượng, Tài phú chi Quan",
"Vũ Khúc thêm cát tọa Thiên di, cự thương cao giả", "Vũ
Khúc Tham Lang Tài trạch vị, hoành phát của cải" v.v...
Bài này ngoài việc áp dụng lý luận lá số để thuyết minh tác
dụng của những cách cục này thì cũng sẽ dùng các ví dụ
thực tế để độc giả có thể hiểu rõ hơn.
14
Bản tính cơ bản
Tiên hiền nói: "Vũ Khúc âm kim, tinh diệu thứ sáu
thuộc Bắc Đẩu, chủ Tài bạch, lại danh tướng tinh. Vũ Khúc
âm kim, chuyên chủ Tài bạch, là tinh diệu cương nghị"
Khi xem Tài lợi của một người, ngoài cung Tài bạch
ra thì cung Phúc đức và cung Điền trạch cũng có quan hệ
với Tài lợi. Do đó, Vũ Khúc Tài tinh tọa nhập cung Mệnh
hoặc cung Tài bạch, tác dụng tại phương diện Tài lợi là
cường liệt nhất, nhưng nếu là tọa nhập cung Phúc đức và
cung Điền trạch thì tác dụng tại phương diện Tài lợi cũng
15
khá mạnh, cái này chính là cái mà « Toàn thư chư tinh vấn
đáp luận » nói Vũ Khúc lấy "Điền trạch, Tài bạch là chỗ
chuyên ti, có thể chủ cự phú". Chỉ có điều cần chú ý chính
là Tài tinh tọa nhập Tài cung, đúng là được địa, nhưng vẫn
cần hội nhiều cát tinh, đặc biệt là tọa hội Lộc tinh (hóa Lộc
hoặc Lộc Tồn) ở vượng địa thì mới có thể phát huy đầy đủ
tác dụng chính diện tại Tài lợi. Ví dụ, tiên hiền với cái này
có nói Vũ Khúc "Thích nhất cùng Lộc Tồn đồng độ ở cung
Điền Tài, tất phát tài cự vạn", nhưng nhất định phải là Vũ
Khúc vượng cung được Lộc Tồn đồng tọa và hội nhiều cát
tinh thì mới có thể suy luận như vậy. Nếu Vũ Khúc hãm
cung được Lộc Tồn đồng tọa tại cung Tài, lại hội nhiều cát
tinh mà hội ít sát tinh thì vẫn có thể nổi bật ra tác dụng Tài
tinh của Vũ Khúc, chỉ là vất vả được Tài chứ khó có thể
nói là "Phát tài cự vạn". Đồng dạng là Vũ Khúc hãm cung
được Lộc Tồn đồng tọa tại cung Tài, nếu là hóa Kỵ hoặc
nhiều sát tinh mà ít cát tinh (thậm chí không có cát tinh)
thì ngược lại sẽ bất lợi cho tài. Mặt khác, « Toàn tập thái
vi phú » cũng nói là "Tài cư Tài vị: Gặp người phú xa", tác
dụng của phú văn Mệnh lý này đã nói ở phần Tử Vi, ở đây
không nhắc lại nữa.
16
cường" của Vũ Khúc nên có thể giải thích đạo lý mà cổ
nhân đem Vũ Khúc coi là "Tướng tinh", vì đối với một
chiến tướng có thể xông pha chiến đấu trên chiến trường,
bình thường cần tính cương rồi mới mới có thể dũng mãnh.
17
thì có thể nổi bật lên tác dụng chính diện, ngược lại nếu hội
nhiều sát mà hội ít cát, thậm chí không hội cát thì cho dù
là tại vượng cung, tác dụng tại mệnh lý vẫn sẽ đa phần là
mặt trái. Nhất định phải chú ý chính là Vũ Khúc tại Dần
Thân tuy là bình cung nhưng hợp luận cùng Thiên Tướng
đồng cung, thì có Vũ Tướng tại Dần kết hợp vượng cung,
mà Vũ Tướng tại Thân thì luận là bình cung. Tương tự, Vũ
Khúc tại Tị Hợi tuy là bình cung nhưng cùng đồng cung
Phá Quân hợp luận thì có phân chia vượng hãm. Tức Vũ
Phá tại Tị kết hợp là vượng cung, mà Vũ Phá tại Hợi thì
luận là yếu hãm. Do đó, Vũ Phá cố thủ tại Hợi mặc dù có
hội nhiều cát tinh thì bản tính cũng sẽ phát huy tác dụng
chính diện nhưng tác dụng đó không mạnh bằng Vũ Phá
Tỵ, chỉ vì một là yếu hãm một là miếu vượng nên vậy.
Cũng vì yếu hãm cho nên người có Vũ Phá tọa Mệnh tại
Hợi cho dù hội nhiều cát tinh thì cũng suốt đời vất vả.
Cuối cùng còn một điểm cần nói là tác dụng "Tướng
tinh" của Vũ Khúc biểu hiện tại phương diện cầu tài, thái
độ sẽ có vẻ tương đối chủ động tích cực, cũng tương đối
kiên trì, nhưng vì thuộc tính là "Âm", âm chủ "Nội liễm",
do đó khi hội nhiều cát tinh thì dù là tích cực cầu tài nhưng
vẫn sẽ giảng cứu mưu lược và phương pháp mà không chỉ
vì cầu tài mà mạnh mẽ luồn cúi khắp nơi.
18
« Toàn thư chư tinh nhập Mệnh Thân hạn cát hung
quyết » nói: "Vũ Khúc tính cương quả quyết, tâm thẳng
không độc, hình nhỏ giọng cao mà đảm lượng lớn".
19
thường tương đối cao lớn, nhưng nếu tinh diệu ở cung
Mệnh yếu hãm thì sẽ khá gầy yếu. Không chỉ có như thế,
nếu là vượng cung tọa Mệnh nhưng hội nhiều sát tinh thì
dáng người cũng sẽ khá gầy yếu.
20
Còn như việc cá tính của người có Vũ Khúc tọa
Mệnh là tương đối "Tính cương tâm thẳng" thì như đã nói,
không nói lại nữa. Mặt khác, tiên hiền có nói Vũ Khúc tọa
Mệnh "Khí lượng khoan dung độ lượng" thì gần như chỉ
khi cố thủ tại cung vị vượng lại hội nhiều cát tinh mới có
thể nói như vậy, nếu hội nhiều sát ít cát hoặc không hội cát
thì vì kim vật tính "Nội tụ", ngược lại chủ một thân khí
lượng nhỏ hẹp.
21
hỏa khắc kim, cho nên phía Đông Nam tương đối bất lợi
cho kim. Vì Vũ Khúc có ngũ hành thuộc tính kim cho nên
thảo luận kể trên sẽ có thể áp dụng cho người có Vũ Khúc
tọa Mệnh, tức Vũ Khúc tọa Mệnh nếu sinh ở hướng Tây
Bắc thì sẽ tốt hơn so với sinh ở phía Đông Nam.
Luận Mệnh truyền thống khi nói tới Mệnh cách của
một người thì tốt nhất là phú quý song toàn, nhưng nếu
không thể song toàn thì "Quý" sẽ ít hơn "Phú". Do đó khi
Mệnh cách của một người bị phá thì sẽ nếu không phải là
tuy "Có phú quý" nhưng lại không thể lâu dài thì sẽ là
người có thể "Phú" mà không thể "Quý".
Nhưng trên thực tế lại không thể chỉ bằng vào người
sinh hướng Tây Bắc hoặc phía Đông Nam là có thể kết luận
Vũ Khúc tọa Mệnh ai ưu ai kém hoặc là phú quý hay không
được mà vẫn cần lấy cung vị cố thủ vượng yếu cát hung để
luận. (chú thích một)
22
Chú thích một: Đẩu số phú văn cổ truyền căn cứ
thuộc tính ngũ hành của tinh diệu đối với người sinh ở các
địa vực khác biệt mà định cát hung. Tuy nhiên cái này chỉ
sợ có thể dùng làm tham khảo cho dân tàu chứ không thể
áp dụng người sinh ở địa phương khác được. Nếu không
chẳng nhẽ người sinh ở Ấn Độ hoặc châu Nam Mĩ có Vũ
Khúc tọa Mệnh chẳng phải sẽ là phú quý không lâu hoặc
phú mà không quý ư?
23
Mệnh tương đối cương trực, cường ngạnh, nói chuyện
hành động cũng tương đối thẳng, lại thêm tác dụng của
"Tướng tinh" nên khi làm việc chẳng những mạnh mẽ mà
còn mười phần bốc đồng. Do đó, khi Vũ Khúc vượng cung
tọa Mệnh lại hội nhiều cát tinh thì chẳng những có thể phát
huy đầy đủ tác dụng chính diện có lợi kể trên mà lại vì hội
nhiều cát tinh nên người này bản thân ý thức mặc dù rất
mạnh nhưng khi làm việc vẫn sẽ cân nhắc đến lập trường
hoặc cảm thụ của người khác mà không chỉ làm theo ý
mình, đồng thời làm việc sẽ có mưu định rồi mới động,
không mạnh mẽ cắm đầu cắm cổ lao đến, lại thêm cá tính
sáng sủa, ngược lại sẽ có lợi đối với làm việc theo nhóm.
Nhưng nếu Vũ Khúc tọa Mệnh không hội cát, thậm chí hội
nhiều sát thì lại có những mặt tương phản, tức là sự bất lợi
cho việc quan hệ xã hội sẽ nổi bật ra, tạo thành hiện tượng
khó hoà hợp với người khác.
24
thì cho rằng nữ Mệnh âm nhu là tốt. Mà nữ Mệnh có Vũ
Khúc cố thủ thì dù tại vượng cung lại hội nhiều cát tinh
cũng sẽ tương đối dương cương, vẫn là không được hoàn
mỹ, trái lại nếu hội nhiều sát tinh thì Vũ Khúc sẽ nổi bật ra
tác dụng bất lợi với thân tình và quan hệ nhân tế, cũng sẽ
bất lợi cho hôn nhân và tình cảm.
Còn nữa:
Cung Phu thê đại biểu một loại "hình thái ý thức" tại
phương diện tình cảm nam nữ và hôn nhân của Mệnh tạo,
mà loại "hình thái ý thức" này thường thường là quan niệm
hoặc chuẩn tắc mà Mệnh tạo này có tại phương diện tình
cảm và hôn nhân (chú thích hai). Do đó, khi nói tới hôn
nhân và tình cảm, nữ Mệnh có Vũ Khúc tọa nhập Phu thê
cũng có tác dụng tương tự như Vũ Khúc tọa Mệnh.
25
Vũ Khúc Hỏa Tinh là hung cách Quả Tú
26
Tinh lại cũng có ngũ hành thuộc hỏa, cho nên Vũ Khúc hội
hợp Linh Tinh cũng sẽ có tác dụng tương tự.
27
Phân tích tác dụng của Vũ Khúc ở nam Mệnh
Bên dưới chỉ trích lục phú văn cổ truyền để độc giả
tham khảo nhưng sẽ không phân tích. « Toàn thư chư tinh
tại Mệnh thân và mười hai cung cát hung yếu quyết » có
nói: "Vũ Khúc thủ Mệnh miếu vượng trị Kình Đà, chủ cô
khắc; thủ nới bình hãm hội Tứ Sát, chủ cô lại chủ bần, phá
tướng sinh trưởng" (chú thích ba), "Nếu cư cung Phu thê
thì nam khắc vợ, nữ khắc chồng; thủ ở Thân Mệnh, nếu
chủ tinh của cung Phu thê nhàn hãm, cũng cùng một lý
đoán. Duy vợ đoạt quyền chồng mà nhà trai bất kể, có thể
miễn hình khắc, xấu thì hai cương tương địch, tất là nguyên
nhân chính khắc sinh ly", mà tiên hiền cũng có thuyết pháp
tương tự như sau: "Tinh diệu này bất luận nam hay nữ gặp
28
lại hội hợp Kình Đà, nam cô, nữ quả, hình khắc cực nặng"
(chú thích bốn). Tứ Sát trong phú văn là chỉ Kình Đà Hỏa
Linh.
Nếu theo cách cục Mệnh Thân mà nói, Lâm thái thái
hẳn là thuộc về loại hình nữ cường nhân. Mặt khác, cung
Phu thê tiên thiên của Lâm thái thái tại Tuất, mặc dù là
29
cung vị "Tử Phá Thìn Tuất, quân thần bất nghĩa", nhưng vì
tam phương tứ chính cung Tuất không thấy sát diệu, cùng
cung Mệnh và Phu thê cung phân biệt nhìn thấy Tả Phụ và
Hữu Bật, cho nên cung Tuất trong hôn nhân không nhất
định sẽ tạo thành hiện tượng vợ chồng "Bất nghĩa". Nhưng
vì tổ hợp tinh diệu của cung Mệnh và cung Phu thê tiên
thiên quá mức dương cương, do đó cần phải lưu ý tới vấn
đề hôn nhân hài hòa.
30
Nếu lại cẩn thận xem xét cung Tý (tức cung Mệnh
tiên thiên của Lâm thái thái) cũng sẽ phát hiện hai cung lân
cận phân biệt có Linh Tinh và Hỏa Tinh tọa nhập, không
31
chỉ có như thế, lại có Hỏa Tinh đồng cung Thiên Đồng hóa
Kỵ, lúc này chỉ cần hành hạn tạo thành Thái Âm hoặc Thái
Dương hóa Kỵ sẽ khiến cung Tý trở thành cung vị song Kỵ
giáp chế, thì Hỏa Linh nhị tinh diệu cũng sẽ vì tinh diệu
đồng cung hóa Kỵ mà trở thành "Tà hỏa", đối với Vũ Khúc
sinh ra tác dụng khắc hại "Hỏa khắc Kim". Vũ Khúc một
khi bị Hỏa Linh khắc hại sẽ trở thành hung cách "Quả Tú",
khá bất lợi cho hôn nhân tình cảm, lúc này nếu phối ngẫu
tọa nhập cung vị Thái Tuế (chú thích năm) không tốt thì
chỉ sợ cũng không dễ duy trì hôn nhân hài hòa.
Năng lực làm việc của Lâm thái thái rất mạnh, ham
muốn với sự nghiệp rất lớn, năm Ất Mão (một chín bảy
mươi lăm) sau khi kết hôn vợ chồng hai người cùng kinh
doanh. Sau khi kết hôn mười năm, Lâm tiên sinh đối với
phu nhân coi như ôn hòa quan tâm, nhưng sau này, quan
hệ vợ chồng phát sinh kịch biến. Tức bắt đầu từ hạn Ất
Dậu, Lâm tiên sinh mặc kệ việc buôn bán, toàn bộ giao hết
cho vợ còn mình cả ngày chính sự không làm, chơi bời lêu
lổng, lại thường xuyên nhậu nhẹt, suốt ngày sống mơ mơ
màng màng. Lâm thái thái liều mạng kiếm tiền, mắt thấy
chồng láo nháo như thế thì cũng có khi khó tránh khỏi sẽ
nói chồng vài câu, lúc này Lâm tiên sinh say rượu mất lý
trí thường sẽ đánh vợ. (chú thích sáu)
Năm Ất Mão, Lâm thái thái hai mươi sáu tuổi, vừa
vặn đi đến hạn Bính Tuất. Bính làm Thiên Đồng hóa Lộc
vừa vặn cùng Thái Dương hóa Lộc hợp phụ cung Mệnh
tiên thiên, mà Linh Tinh và Hỏa Tinh vì đồng cung Thái
Dương và Thiên Đồng hóa Lộc nên đối với Vũ Khúc cũng
không có tác dụng khắc hại Hỏa khắc Kim, mà cung Mệnh
32