You are on page 1of 30

GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ

Tiến sĩ Thẩm Trừng Vũ nghiên tập Tử Vi Đấu Sổ


hơn hai mươi năm, năm 1994 đi theo Tử Vân tiên sinh học
tập Tử Vi Đấu Sổ cho tới nay, từng có những tọa đàm trên
internet "Mệnh há nên tuyệt?", "Tử Vi Đấu Sổ và hỗn độn
—— Loạn bên trong có thứ tự", "Đẩu số canh giờ lấy
Dụng", cũng đáp ứng lời mời đến các trường đại học hoặc
tổ chức dân gian diễn thuyết, như "Khoa học kỹ thuật và
mệnh lý" (thành đại công trình khoa học), "Từ lý luận hỗn
độn xem năng lực dự đoán Tử Vi Đấu Sổ", "Nắm giữ chính
mình, phóng nhãn tương lai? Đẩu Số xem nhân sinh". Trừ
Tử Vi Đấu Sổ luận Mệnh ra, đối với việc ứng dụng Tử Vi
đấu số trong phong thuỷ, bói toán và chọn ngày tốt xấu
cũng có đọc lướt qua. Từ năm 2015 đảm nhiệm giảng sư
về bản tính của tinh diệu và Tử Vi Đấu Sổ thôi diễn sơ giai
tại Sáng kiến đường.

3
Kinh lịch: Tiến sĩ máy móc công trình tại đại học
Arizona, nghiên cứu thuỷ động học và tính toán cao tốc.
Năm 1991 đến 2015 làm việc tại cục network tốc độc cao
và trung tâm tính toán, kiêm nhiệm phó giáo sư ở đại học
Thanh Hoa.

Hiện chuyên nghiên cứu về mệnh lý, dạy học và


kinh doanh.

4
Mục lục
GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ ..............................................3
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................7
CHƯƠNG IV: VŨ KHÚC ..............................................12
Bản tính cơ bản ............................................................15
Tác dụng "Tướng tinh" của Vũ Khúc ..........................17
Vũ Khúc Hỏa Tinh là hung cách Quả Tú ....................26
Phân tích tác dụng của Vũ Khúc ở nam Mệnh ............28
Tác dụng của Tứ Mã ....................................................39
Hữu tình khắc và vô tình khắc .....................................66
Cách cục và lý luận lá số..............................................78
Tác dụng Mệnh lý của Bạch Hổ ................................141
CHƯƠNG V: THIÊN ĐỒNG .......................................151
Bản tính cơ bản ..........................................................154
Đại hạn đến cung Thiên Đồng tọa .............................175
Ấm phúc tụ không sợ hung nguy ...............................181
Đồng Lương Tị Hợi tại hôn nhân phong tình ............185
Thủy tinh tọa nhập đất Mộc dục ................................190

5
Nữ Mệnh Thiên Đồng tại Dậu ...................................192
Nữ Mệnh Đồng Âm tại Tý .........................................193
Nữ Mệnh Thiên Đồng tại Sửu Mùi ............................194
Tác dụng của cung vị Thái Tuế..................................201
Thái Tuế nhập cung pháp và suy luận về bệnh tật .....214
Cách cục và lý luận lá số............................................225
CHƯƠNG SÁU: LIÊM TRINH ...................................293
Bản tính cơ bản ..........................................................296
Tinh diệu thiện ác và giới định chính tà ....................307
Tác dụng của Xương (Khúc) Tham ...........................335
Cách cục và lý luận lá số............................................353

6
LỜI NÓI ĐẦU
Hai mươi năm, không tính là ngắn, nhưng đối với
việc nghiên cứu Đẩu số mà nói thì hẳn là chỉ vượt qua được
cánh cửa, bắt đầu bước lên điểm xuất phát của con đường
đăng đường nhập thất.

Nhớ năm 1994 đến "Sáng kiến đường" theo học Tử


Vân lão sư lớp "Bản tính của tinh diệu", sau đó học tiếp
lớp "Hoạt bàn thôi diễn" rồi lớp "Tử Vi Đấu Sổ tâm pháp",
cứ như vậy theo Tử Vân lão sư học tập đẩu số, đến năm
nay (2014) là vừa vặn đầy hai mươi năm.

Từ khi bắt đầu đi theo Tử Vân lão sư học tập Tử Vi


Đấu Sổ đến mấy năm gần đây dạy "Đẩu số - Bản tính của
tinh diệu" và "Hoạt bàn sơ giai khóa trình", cũng như làm
người luận Mệnh nhiều năm, Tử Vân lão sư lý giải đối với
bản tính của tinh diệu và sáng tạo pháp tắc thôi diễn đẩu số
xác thực cực kỳ thực dụng. Đồng thời, cũng có thể cảm
nhận thật sâu được câu mà Tử Vân lão sư nói tới "Muốn
nghiên cứu đẩu số mệnh lý thì cần lý giải hoàn chỉnh bản

7
tính tinh diệu, là công phu cơ sở nhất để nhập môn, lầu cao
vạn trượng là dựng từ đất bằng".

Tiếc là có rất nhiều sách có nói về bản tính của tinh


diệu nhưng lại hiếm có sách nào nói rõ ràng bài bản, đặc
biệt là có thể đưa ra lý giải về bản tính của tinh diệu một
cách logic. Đối với người có tâm học đẩu số thi luôn cảm
thấy thiếu vậy, có khi thậm chí muốn học tốt bản tính của
tinh diệu cũng không thể được. Mà trong các sách của Tử
Vân lão sư trừ quyển « Đẩu số dữ nhân sinh » có nói sơ
qua về bản tính tinh diệu còn các sách khác đều là chuyên
luận, trừ khi bắt buộc phải nói về bản tính của tinh diệu
mới lý giải sơ sơ, nên đối với độc giả mà nói muốn có thể
từ đó học được bản tính của tinh diệu thì không thể nào
hiểu được toàn cảnh. Dựa vào đây, nhiều năm trước người
viết được Tử Vân lão sư chỉ đạo, căn cứ vào nội dung đào
tạo, hoàn thành sơ thảo bản tính của tinh diệu đối với Tử
Vi, Thiên Cơ, Thái dương, Vũ Khúc, trong đó một số nội
dung đã được đưa lên "Sáng kiến đường". Sau vì công vụ
bề bộn mà không thể tiếp tục được nữa, cái này một bút để
xuống, mười sáu mười bảy năm liền đi qua. Thẳng đến năm
ngoái, mới lại nhặt bút lên, ngoài việc một lần nữa tinh
chỉnh lại bản thảo cũ thì cũng lần lượt viết thêm về các tinh
diệu khác.

Quyển sách này chủ yếu căn cứ vào nội dung trong
các khóa học về bản tính của tinh diệu của Tử Vân lão sư
trong nhiều năm tại "Sáng kiến đường", những nội dung
khác thì lấy trong các bài giảng của lớp "Tử Vi Đấu Sổ tâm
pháp". Các lá số ví dụ thì lấy các ví dụ tại các sách của Tử
Vân lão sư, hi vọng qua cuốn sách này có thể liên kết với

8
các sách của Tử Vân lão sư. Từ cơ sở này, đem nội dung
mà Tử Vân lão sư giảng về bản tính của tinh diệu hệ thống
hóa chỉnh lý, áp dụng cấp độ rõ ràng, logic nhất quán, hi
vọng có thể qua đây giải thích từ cạn tới sâu và cũng có thể
lý giải hoàn chỉnh bản tính của tinh diệu.

Quyển sách bắt đầu từ chương "Làm thế nào học tốt
bản tính của tinh diệu?", rồi tuần tự bao gồm Tử Vi, Thiên
Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh,
Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng,
Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân mười bốn chủ tinh. Tiếp
theo là Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên
Khôi, Thiên Việt Lục Cát Tinh và Hỏa Tinh, Linh Tinh,
Địa Không, Địa Kiếp, (Lộc Tồn), Kình Dương, Đà La Lục
Sát tinh. Tiếp theo thì là Tứ hóa, tức hóa Lộc, hóa Quyền,
hóa Khoa, hóa Kỵ. Cuối cùng là các bàng tinh gồm Hồng
Loan, Thiên Hỉ, Thiên Mã, Thiên Hình, Thiên Diêu, Long
Trì, Phượng Các, Hàm Trì, Đại Hao, Bạch Hổ, Tang Môn,
Thiên Hư, Thiên Khốc, Cô Thần, Quả Tú vân vân.

Mỗi chủ tinh được chia thành hai bộ phận là bản tính
cơ bản và cách cục và lý luận về lá số. Bản tính cơ bản từ
tinh diệu Nam Bắc Đẩu, Âm Dương Ngũ Hành, sinh khắc
chế hóa, miếu vượng lợi hãm, nghĩa gốc của tinh diệu thì
cũng đề cập đến ứng dụng đẩu số tại Sơn, Y, Mệnh, Bặc,
Tướng. Cách cục và lý luận lá số ngoài bao gồm các cách
cục thường gặp trong đẩu số thì thông qua thảo luận lá số
có cách cục tương quan để độc giả có lý giải đối với tinh
diệu này và cũng có thể học cách luận đoán lá số và quan
niệm và phương pháp cơ bản cần thiết tương quan. Lục Cát
Tinh và Lục Sát tinh về đại thể thì sẽ như chủ tinh, các tinh

9
diệu còn lại vì nội dung không nhiều nên sẽ trực tiếp giải
thích mà không phân chia như vậy nữa.

Nội dung mỗi một chương trên cơ bản là lấy nội


dung từ các bài giảng của Tử Vân lão sư làm chủ, chỉ thỉnh
thoảng thêm các điển tịch phú văn để giúp độc giả có lý
giải thêm. Khi viết cuốn sách này, tận khả năng từ góc độ
học thuật để chính sửa bản thảo, lại vì nội dung rất nhiều
mà cần bảo trì chủ đề nội dung nhất quán và thông thuận,
do đó sẽ có khá nhiều chú giải và trích dẫn tại.

Vì quyển sách nói về bản tính của tinh diệu nên dù


khi viết đã làm hết khả năng để diễn giải thật dễ hiểu nhưng
dù sao quyển sách cũng không phải là sách nhập môn đẩu
số cho nên sẽ có hai loại độc giả. Một loại độc giả là đã có
hiểu biết nhất định về đẩu số, hi vọng đọc xong quyển sách
này thì có thể càng lý giải sâu hơn về bản tính của tinh diệu.
Một loại khác thì là độc giả của Tử Vân lão sư, hi vọng qua
quyển sách này có thể nhận biết hoàn chỉnh bản tính của
tinh diệu, từ đó có thể có trợ giúp đọc sách của Tử Vân lão
sư tốt hơn. Nhưng bất luận là ai thì tin tưởng sau khi đọc
quyển sách này đều có thể đạt tới mục đích của mình. Duy
vì trong sách viết từ cạn tới sâu, vòng vòng đan xen cho
nên độc giả khi đọc sách tốt nhất có thể đọc kỹ càng thì
mới không bỏ lỡ tinh hoa trong sách. Quyển sách khi soạn
thảo ngoại trừ được Tử Vân lão sư chỉ dẫn thì bản thảo cuối
cùng cũng được Ngài xem kỹ và tu chỉnh. Đồng thời được
sự đồng ý của Tử Vân lão sư, cuốn sách này gọi là « Tử
Vân luận đẩu số bản tính của tinh diệu », cũng mời Ngài
viết một chương phi lộ tên là "Tử Vi Đấu Sổ đàm luận cái
gì". Vì nội dung quyển sách khá nhiều, có đến 50 vạn chữ,

10
500 lá số, để độc giả đọc dễ hơn nên dự tính phân làm năm
tập.

Đẩu số Dịch Học khó tinh, những năm này nếu


không phải Tử Vân lão sư cổ vũ và chỉ đạo người viết thì
chỉ sợ cũng rất khó tiếp tục nghiên cứu đẩu số mệnh lý cho
tới bây giờ. Người viết khi xuất bản quyển đẩu số thư tịch
đầu tiên này, chỉ muốn lấy cuốn sách này biểu đạt cảm kích
và kính ý của người viết đối với Tử Vân lão sư. Mặt khác
thì phải tạ ơn Ngô Duy Hán, Lý Huệ Lỵ, Trần Chí Hào đã
cung cấp ghi chép của bọn họ khi học khóa bản tính của
tinh diệu của Tử Vân lão sư để tham khảo, khiến cho nội
dung quyển sách này càng đạt đến mức hoàn chỉnh. Đồng
thời cực kỳ cảm tạ hỗ trợ và nỗ lực của vợ chồng Vương
Vĩ Tượng để cuốn sách này có thể thuận lợi xuất bản.

11
CHƯƠNG IV: VŨ KHÚC

VUÄ
KHUÁC

12
Vũ Khúc là chủ Tài bạch, lại là danh tướng tinh, bài
này sẽ xuyên qua hai bản tính này, lại mượn ngũ hành
thuộc tính kim và thuộc tính âm của Vũ Khúc để dần dần
tiến hành giải thích tác dụng Mệnh lý của tinh diệu này.

Luận Mệnh truyền thống không thích nhất là Vũ


Khúc cố thủ nữ Mệnh, chủ yếu là vì tác dụng "Quả Tú" của
Vũ Khúc, đặc biệt là khi Vũ Khúc gia hội Hỏa Tinh thì
càng là như vậy. Bài này ngoài việc từ bản tính của tinh
diệu cùng với ngũ hành sinh khắc chế hóa đối với tác dụng
"Quả Tú" của Vũ Khúc để tiến hành giải thích ra thì đồng
thời cũng sẽ nói về hiện tượng Mệnh lý này đối với hôn
nhân của nữ Mệnh.

Phú văn cổ truyền miêu tả rất nhiều về bản tính của


Vũ Khúc, trong đó viết nhiều nhất về ba loại tổ hợp Vũ
Tham, Vũ Sát và Vũ Phá, nhưng khuynh hướng thường
thường lại thiên về mặt trái. Bài này sẽ luận thuật về các
hiện tượng Mệnh lý liên quan qua bản tính của tinh diệu
cùng với ngũ hành sinh khắc chế hóa.

"Tài và tù cừu" cũng là một cách cục mặt trái được


nói rất nhiều của Vũ Khúc, nhưng trên thực tế nhất định
phải xem mức độ cát hóa và hành hạn vận cát hung mới có
thể luận đoán là tốt hay là xấu. Bài này sẽ đưa ra ví dụ của
Vương Vĩnh Khánh tiên sinh để chứng tỏ tác dụng của cách
cục "Tài và tù cừu" chưa chắc chỉ có mỗi một mặt không
tốt.

Ngoài "Tài và tù cừu" ra thì "Linh Xương Đà La


Vũ", "Vì Tài cầm đao" và "Vũ Tham không phát người

13
thiếu niên" có thể nói là những cách cục của Vũ Khúc được
nhiều người biết rõ nhất. Còn các cách cục khác thì vì Vũ
Khúc là Tài tinh và tướng tinh nên phần lớn quay chung
quanh hai chủ đề này, ví dụ "Vũ Khúc văn tinh với thân
Mệnh, văn võ kiêm toàn", "Vũ Khúc miếu vượng, uy danh
hách dịch", "Vũ Khúc Lộc Mã giao trì, phát tài viễn ấp",
"Vũ Khúc Khôi Việt cư miếu vượng, Tài phú chi Quan",
"Vũ Khúc thêm cát tọa Thiên di, cự thương cao giả", "Vũ
Khúc Tham Lang Tài trạch vị, hoành phát của cải" v.v...
Bài này ngoài việc áp dụng lý luận lá số để thuyết minh tác
dụng của những cách cục này thì cũng sẽ dùng các ví dụ
thực tế để độc giả có thể hiểu rõ hơn.

14
Bản tính cơ bản

Tiên hiền nói: "Vũ Khúc âm kim, tinh diệu thứ sáu
thuộc Bắc Đẩu, chủ Tài bạch, lại danh tướng tinh. Vũ Khúc
âm kim, chuyên chủ Tài bạch, là tinh diệu cương nghị"

Vũ Khúc ngũ hành thuộc tính kim, thuộc tính là âm,


là tinh diệu thứ sáu trong Bắc Đẩu, tác dụng tại mệnh lý sẽ
hiển lộ đặc biệt rõ ràng tại phương diện "Tài bạch", còn gọi
là tướng tinh, là một viên tinh diệu kiên cường kiên nghị.

Vũ Khúc đã là chủ "Tài bạch" do đó khi xem về Tài


lợi của một người thì sẽ có vai trò vô cùng trọng yếu. Khi
Vũ Khúc tọa nhập cung Tài bạch thì vì là Tài tinh, tọa nhập
cung Tài bạch, ảnh hưởng đối với tài lợi tự nhiên là rất lớn.
Nhưng nếu Vũ Khúc tọa Mệnh thì khi luận tài lợi cát hung
lại không thể chỉ lấy cung Tài bạch để phân tích, lúc này
nhất định phải kiêm xem cung Mệnh có Vũ Khúc tinh tọa
hạ phát sinh ảnh hưởng đối với Tài lợi như thế nào để so
sánh.

Khi xem Tài lợi của một người, ngoài cung Tài bạch
ra thì cung Phúc đức và cung Điền trạch cũng có quan hệ
với Tài lợi. Do đó, Vũ Khúc Tài tinh tọa nhập cung Mệnh
hoặc cung Tài bạch, tác dụng tại phương diện Tài lợi là
cường liệt nhất, nhưng nếu là tọa nhập cung Phúc đức và
cung Điền trạch thì tác dụng tại phương diện Tài lợi cũng

15
khá mạnh, cái này chính là cái mà « Toàn thư chư tinh vấn
đáp luận » nói Vũ Khúc lấy "Điền trạch, Tài bạch là chỗ
chuyên ti, có thể chủ cự phú". Chỉ có điều cần chú ý chính
là Tài tinh tọa nhập Tài cung, đúng là được địa, nhưng vẫn
cần hội nhiều cát tinh, đặc biệt là tọa hội Lộc tinh (hóa Lộc
hoặc Lộc Tồn) ở vượng địa thì mới có thể phát huy đầy đủ
tác dụng chính diện tại Tài lợi. Ví dụ, tiên hiền với cái này
có nói Vũ Khúc "Thích nhất cùng Lộc Tồn đồng độ ở cung
Điền Tài, tất phát tài cự vạn", nhưng nhất định phải là Vũ
Khúc vượng cung được Lộc Tồn đồng tọa và hội nhiều cát
tinh thì mới có thể suy luận như vậy. Nếu Vũ Khúc hãm
cung được Lộc Tồn đồng tọa tại cung Tài, lại hội nhiều cát
tinh mà hội ít sát tinh thì vẫn có thể nổi bật ra tác dụng Tài
tinh của Vũ Khúc, chỉ là vất vả được Tài chứ khó có thể
nói là "Phát tài cự vạn". Đồng dạng là Vũ Khúc hãm cung
được Lộc Tồn đồng tọa tại cung Tài, nếu là hóa Kỵ hoặc
nhiều sát tinh mà ít cát tinh (thậm chí không có cát tinh)
thì ngược lại sẽ bất lợi cho tài. Mặt khác, « Toàn tập thái
vi phú » cũng nói là "Tài cư Tài vị: Gặp người phú xa", tác
dụng của phú văn Mệnh lý này đã nói ở phần Tử Vi, ở đây
không nhắc lại nữa.

Vũ Khúc ngũ hành thuộc tính kim, kim vật tính là


"Nội tụ", bởi vì "Nội tụ" nên sẽ tương đối "Kiên cường".
Khi bàn về cá tính một người thì phẩm chất "Kiên cường"
này sẽ thành cá tính tương đối cương trực, cường ngạnh,
đây chính là lý do mà tiên hiền cho rằng Vũ Khúc là "tinh
diệu cương nghị ". Do đó, cá tính của người có Vũ Khúc
tọa Mệnh bình thường mà nói thì tương đối cương trực,
cường ngạnh, biểu hiện khi nói chuyện hành động thì
tương đối thẳng. Đồng thời cũng vì phẩm chất "Kiên

16
cường" của Vũ Khúc nên có thể giải thích đạo lý mà cổ
nhân đem Vũ Khúc coi là "Tướng tinh", vì đối với một
chiến tướng có thể xông pha chiến đấu trên chiến trường,
bình thường cần tính cương rồi mới mới có thể dũng mãnh.

Tác dụng "Tướng tinh" của Vũ Khúc

Thuyết pháp có quan hệ với Vũ Khúc là "Tướng


tinh", tại « Toàn tập chư tinh cách cục đều lấy quý luận »
bên trong gọi là "Tướng tinh đắc địa", chẳng những có chú
giải như sau: "Vũ Khúc lâm vượng cung thủ Mệnh là vậy",
cũng có thơ nói: "Tướng tinh nhập miếu thật là tường, vị
chính Quan cao khắp nơi mạnh, chiếm đất công thành đa
diệu đạo, uy phong lẫm lẫm trấn biên cương". Nhưng có
thể chỉ bằng vào điều kiện Vũ Khúc tọa Mệnh là có thể
xem là "Tướng tinh" hay không? Từ giải thích tương quan
trong « Toàn tập chư tinh cách cục đều lấy quý luận » thì
có thể thấy được nhất định phải là Vũ Khúc "Vượng cung"
tọa Mệnh mới có thể luận là "Tướng tinh".

Vũ Khúc tại mười hai cung vị địa chi không có yếu


hãm: Chỉ có năm cung Dần Thân Tị Hợi Dậu là bình cung,
còn lại đều là vượng cung (lá số thứ nhất). Do đó cũng như
Tử Vi, khi luận Vũ Khúc tọa nhập cung vị vượng nhược
thì nhất định phải lấy tam phương tứ chính hội cát hoặc sát
nhiều hay ít để định cung vị đó là vượng hay yếu. Cho nên
khi nói đến Vũ Khúc, cung vị hội nhiều cát mà hội ít sát

17
thì có thể nổi bật lên tác dụng chính diện, ngược lại nếu hội
nhiều sát mà hội ít cát, thậm chí không hội cát thì cho dù
là tại vượng cung, tác dụng tại mệnh lý vẫn sẽ đa phần là
mặt trái. Nhất định phải chú ý chính là Vũ Khúc tại Dần
Thân tuy là bình cung nhưng hợp luận cùng Thiên Tướng
đồng cung, thì có Vũ Tướng tại Dần kết hợp vượng cung,
mà Vũ Tướng tại Thân thì luận là bình cung. Tương tự, Vũ
Khúc tại Tị Hợi tuy là bình cung nhưng cùng đồng cung
Phá Quân hợp luận thì có phân chia vượng hãm. Tức Vũ
Phá tại Tị kết hợp là vượng cung, mà Vũ Phá tại Hợi thì
luận là yếu hãm. Do đó, Vũ Phá cố thủ tại Hợi mặc dù có
hội nhiều cát tinh thì bản tính cũng sẽ phát huy tác dụng
chính diện nhưng tác dụng đó không mạnh bằng Vũ Phá
Tỵ, chỉ vì một là yếu hãm một là miếu vượng nên vậy.
Cũng vì yếu hãm cho nên người có Vũ Phá tọa Mệnh tại
Hợi cho dù hội nhiều cát tinh thì cũng suốt đời vất vả.

Từ sự miếu vượng lợi hãm của Vũ Khúc tại mười


hai cung vị địa chi kể trên thì có thể biết được Vũ Khúc tọa
Mệnh nhất định phải tại vượng cung lại hội nhiều cát tinh
thì mới có thể luận là "Tướng tinh".

Cuối cùng còn một điểm cần nói là tác dụng "Tướng
tinh" của Vũ Khúc biểu hiện tại phương diện cầu tài, thái
độ sẽ có vẻ tương đối chủ động tích cực, cũng tương đối
kiên trì, nhưng vì thuộc tính là "Âm", âm chủ "Nội liễm",
do đó khi hội nhiều cát tinh thì dù là tích cực cầu tài nhưng
vẫn sẽ giảng cứu mưu lược và phương pháp mà không chỉ
vì cầu tài mà mạnh mẽ luồn cúi khắp nơi.

18
« Toàn thư chư tinh nhập Mệnh Thân hạn cát hung
quyết » nói: "Vũ Khúc tính cương quả quyết, tâm thẳng
không độc, hình nhỏ giọng cao mà đảm lượng lớn".

Miêu tả về cá tính và bề ngoài của người có Vũ Khúc


tọa Mệnh ngoài phú văn kể trên thì « Toàn tập hình tính
phú » cũng có thuyết pháp "Vũ Khúc Tham Lang, hình nhỏ
giọng cao mà lượng nhiều", mà tiên hiền thì có nói: "Nhập
Mệnh chủ thiếu niên mặt màu xanh trắng hoặc màu xanh
đen, lão niên sắc xanh vàng, hình thể thấp mà cường tráng,
mặt vuông tròn mà âm lượng hùng vĩ, tính cương tâm
thẳng, khoan dung độ lượng". Căn cứ tác giả luận Mệnh
thì thấy bất luận là tinh diệu gì tọa Mệnh chỉ cần là tại
vượng cung lại hội nhiều cát tinh thì dáng người thông

19
thường tương đối cao lớn, nhưng nếu tinh diệu ở cung
Mệnh yếu hãm thì sẽ khá gầy yếu. Không chỉ có như thế,
nếu là vượng cung tọa Mệnh nhưng hội nhiều sát tinh thì
dáng người cũng sẽ khá gầy yếu.

Do đó, Vũ Khúc tọa Mệnh nếu là tại vượng cung lại


hội nhiều cát mà hội ít sát (thậm chí không hội sát) thì
người đó sẽ tương đối cao lớn. Nhưng nếu không phải như
thế thì vì Vũ Khúc ngũ hành thuộc tính kim, mà kim vật
tính "Nội tụ" cho nên khi luận hình thể của người có Vũ
Khúc tọa Mệnh thì bình thường vóc người sẽ có khuynh
hướng trung đẳng hoặc hơi lùn nhỏ, nhưng lại khá rắn chắc,
cường tráng. Nhưng trên thực tế có đúng là như thế không
thì vẫn cần xem cố thủ cung vị vượng yếu cát hung mà định
ra.

Bình thường khi nói tới thanh âm nói chuyện của


một người có vang dội hay không thì cần xem lượng hô
hấp lớn nhỏ mà định ra. Lượng hô hấp lớn, thanh âm nói
chuyện sẽ vang dội, trái lại thì trung khí không đủ hoặc là
giọng nói nhỏ yếu.

Theo lý luận Trung y, Phế kinh thuộc kim, mà Vũ


Khúc ngũ hành thuộc tính kim, do đó có thể suy luận Vũ
Khúc tọa Mệnh âm thanh vang dội. Vũ Khúc tọa Mệnh nếu
là vượng cung lại hội nhiều cát tinh thì thanh âm nói
chuyện sẽ khá vang dội, nếu là vượng cung mà không hội
cát hoặc là hãm cung thì giọng nói sẽ nhỏ yếu, nếu hội sát
nhiều mà hội cát ít (thậm chí không hội cát) thì thường khi
nói chuyện trung khí không đủ hoặc thanh âm hơi khàn
khàn.

20
Còn như việc cá tính của người có Vũ Khúc tọa
Mệnh là tương đối "Tính cương tâm thẳng" thì như đã nói,
không nói lại nữa. Mặt khác, tiên hiền có nói Vũ Khúc tọa
Mệnh "Khí lượng khoan dung độ lượng" thì gần như chỉ
khi cố thủ tại cung vị vượng lại hội nhiều cát tinh mới có
thể nói như vậy, nếu hội nhiều sát ít cát hoặc không hội cát
thì vì kim vật tính "Nội tụ", ngược lại chủ một thân khí
lượng nhỏ hẹp.

Cuối cùng lại bàn đến màu da và khuôn mặt của


người có Vũ Khúc tọa Mệnh. Vì kim là màu trắng do đó
có thể thấy vì sao tiên hiền cho rằng Vũ Khúc tọa Mệnh thì
"Thiếu niên mặt màu xanh trắng". Ở trên đã nói về màu sắc
của ngũ hành để luận đoán màu da của một người là chỉ có
thể tham khảo, không thể dùng là căn cứ để luận đoán, ở
đây cũng không ngoại lệ. Mặt khác, căn cứ tác giả khi luận
Mệnh quan sát được thì người có Vũ Khúc tọa Mệnh cằm
dưới bình thường sẽ tương đối rộng, có góc cạnh nhưng
khuôn mặt có như tiên hiền nói là "Mặt vuông tròn" hay
không thì cần xem tổ hợp tinh diệu thực tế mà định ra.

Tiên hiền nói: "Thích nhất người sinh hướng Tây


Bắc; sinh phía Đông Nam, phú quý không lâu: Hoặc phú
không quý”. Hướng Tây Bắc của tàu tương đối rét lạnh lại
thêm thổ vượng, mà kim có tính "Túc sát", đặc điểm này
vừa vặn phù hợp với "Rét lạnh", lại lấy ngũ hành mà nói
thì thổ vượng có thể sinh kim, cho nên hướng Tây Bắc
tương đối có lợi cho kim. Còn như phía Đông Nam vì nhiều
thủy lại tương đối nóng bức, theo ngũ hành thì kim có thể
sinh thủy, cho nên bất lợi cho kim, lại vì nóng bức, mà
nóng bức là tượng của hỏa nên có thể dẫn tới hiện tượng

21
hỏa khắc kim, cho nên phía Đông Nam tương đối bất lợi
cho kim. Vì Vũ Khúc có ngũ hành thuộc tính kim cho nên
thảo luận kể trên sẽ có thể áp dụng cho người có Vũ Khúc
tọa Mệnh, tức Vũ Khúc tọa Mệnh nếu sinh ở hướng Tây
Bắc thì sẽ tốt hơn so với sinh ở phía Đông Nam.

Luận Mệnh truyền thống khi nói tới Mệnh cách của
một người thì tốt nhất là phú quý song toàn, nhưng nếu
không thể song toàn thì "Quý" sẽ ít hơn "Phú". Do đó khi
Mệnh cách của một người bị phá thì sẽ nếu không phải là
tuy "Có phú quý" nhưng lại không thể lâu dài thì sẽ là
người có thể "Phú" mà không thể "Quý".

Vì Vũ Khúc là "Tài tinh" nên có thể nói tới "Phú",


tăng thêm tác dụng "Tướng tinh" của Vũ Khúc nên còn có
thể nói là "Quý", nhưng dựa vào phú văn kể trên hướng
Tây Bắc lợi kim hơn phía Đông Nam nên Vũ Khúc tọa
Mệnh tương đối thích người sinh hướng Tây Bắc mà tương
đối không thích người sinh phương Đông Nam, cho nên
nếu là người sinh phía Đông Nam thì phải không phải phú
quý không lâu thì chính là phú mà không quý. « Toàn thư
chư tinh tại Mệnh thân và mười hai cung cát hung yếu
quyết » cũng có thuyết pháp tương tự như sau: "Vũ Khúc
thủ Mệnh, người sinh Tây Bắc phúc dày, người sinh Đông
Nam bình thường.

Nhưng trên thực tế lại không thể chỉ bằng vào người
sinh hướng Tây Bắc hoặc phía Đông Nam là có thể kết luận
Vũ Khúc tọa Mệnh ai ưu ai kém hoặc là phú quý hay không
được mà vẫn cần lấy cung vị cố thủ vượng yếu cát hung để
luận. (chú thích một)

22
Chú thích một: Đẩu số phú văn cổ truyền căn cứ
thuộc tính ngũ hành của tinh diệu đối với người sinh ở các
địa vực khác biệt mà định cát hung. Tuy nhiên cái này chỉ
sợ có thể dùng làm tham khảo cho dân tàu chứ không thể
áp dụng người sinh ở địa phương khác được. Nếu không
chẳng nhẽ người sinh ở Ấn Độ hoặc châu Nam Mĩ có Vũ
Khúc tọa Mệnh chẳng phải sẽ là phú quý không lâu hoặc
phú mà không quý ư?

« Toàn tập --- nữ Mệnh phú » nói: "Vũ Khúc chi


túc là Quả Tú".

Phú văn cổ truyền khi nói tới nữ Mệnh có Vũ Khúc


cố thủ thì dù cũng giống như « Toàn thư nữ Mệnh các luận
» nói là "Thủ ở Thân Mệnh nhập miếu, tam phương cát ủi
không sát xung phá đa phần là phu nhân", nhưng lời bình
mặt trái cũng rất nhiều. Ví dụ, cũng là « Toàn thư nữ Mệnh
các luận » đã có "Vũ Khúc tại Thân Mệnh mà lâm hãm địa,
gặp Không Kiếp thêm Tứ Sát đa phần chủ bần cô và hình
phu khắc tử lại không chính", mà « Toàn thư chư tinh vấn
đáp luận » cũng có thuyết pháp tương tự như sau: "Nữ nhân
nhiều cát là phu nhân, thêm sát xung phá, cô khắc, có hình
tai chi ác", còn tiên hiền thì ngoài miêu tả "Nữ Mệnh thêm
cát tuy tốt, nhưng đa phần cô quả" ra thì cũng đối với tổ
hợp Vũ Khúc và Hỏa Tinh có "Vũ Khúc Hỏa Tinh là Liêm
túc" mà nói thì cũng có chú giải như sau: "Vũ Khúc Tài
tinh mang cô khắc, cho nên nữ Mệnh không thích, thêm
Hỏa Tinh, kim bị hỏa phá, đa phần hôn nhân không mỹ
mãn, sớm thì sinh ly, trễ đến trung niên, đa phần là quả
phụ". Như trước đã có đề cập, Vũ Khúc vì có ngũ hành
thuộc tính kim nên khiến cá tính của người có Vũ Khúc tọa

23
Mệnh tương đối cương trực, cường ngạnh, nói chuyện
hành động cũng tương đối thẳng, lại thêm tác dụng của
"Tướng tinh" nên khi làm việc chẳng những mạnh mẽ mà
còn mười phần bốc đồng. Do đó, khi Vũ Khúc vượng cung
tọa Mệnh lại hội nhiều cát tinh thì chẳng những có thể phát
huy đầy đủ tác dụng chính diện có lợi kể trên mà lại vì hội
nhiều cát tinh nên người này bản thân ý thức mặc dù rất
mạnh nhưng khi làm việc vẫn sẽ cân nhắc đến lập trường
hoặc cảm thụ của người khác mà không chỉ làm theo ý
mình, đồng thời làm việc sẽ có mưu định rồi mới động,
không mạnh mẽ cắm đầu cắm cổ lao đến, lại thêm cá tính
sáng sủa, ngược lại sẽ có lợi đối với làm việc theo nhóm.
Nhưng nếu Vũ Khúc tọa Mệnh không hội cát, thậm chí hội
nhiều sát thì lại có những mặt tương phản, tức là sự bất lợi
cho việc quan hệ xã hội sẽ nổi bật ra, tạo thành hiện tượng
khó hoà hợp với người khác.

Trong truyền thống, nam thích dương cương, nữ hỉ


âm nhu, do đó nữ Mệnh nếu là quá mức kiên cường thì lại
không luận là cát. Đồng thời, tại thời đại xã hội nông
nghiệp, hình thái sinh hoạt là nam chủ ngoại, nữ chủ nội,
lại là đại gia đình nên nữ Mệnh khi lo liệu việc nhà thì cần
đối mặt với nhiều người nhà, do đó khi ở chung với người
nhà cần dĩ hòa vi quý, mà người có Vũ Khúc tọa Mệnh trừ
phi là tại vượng cung lại hội nhiều cát tinh, nếu không sẽ
vì phẩm chất như đã nói mà dễ tạo thành việc khó hoà hợp
với lục thân, đặc biệt nếu còn hội hợp Kình Dương, Đà La,
Hỏa Tinh và Linh Tinh thì vì tác dụng của những sát tinh
này gây bất lợi đối với thân tình và quan hệ nhân tế nên sẽ
càng hiển lộ rõ ràng thêm mặt bất lợi này của Vũ Khúc.
Mặt khác, truyền thống khi nói tới hôn nhân và tình cảm

24
thì cho rằng nữ Mệnh âm nhu là tốt. Mà nữ Mệnh có Vũ
Khúc cố thủ thì dù tại vượng cung lại hội nhiều cát tinh
cũng sẽ tương đối dương cương, vẫn là không được hoàn
mỹ, trái lại nếu hội nhiều sát tinh thì Vũ Khúc sẽ nổi bật ra
tác dụng bất lợi với thân tình và quan hệ nhân tế, cũng sẽ
bất lợi cho hôn nhân và tình cảm.

Còn nữa:

Cung Phu thê đại biểu một loại "hình thái ý thức" tại
phương diện tình cảm nam nữ và hôn nhân của Mệnh tạo,
mà loại "hình thái ý thức" này thường thường là quan niệm
hoặc chuẩn tắc mà Mệnh tạo này có tại phương diện tình
cảm và hôn nhân (chú thích hai). Do đó, khi nói tới hôn
nhân và tình cảm, nữ Mệnh có Vũ Khúc tọa nhập Phu thê
cũng có tác dụng tương tự như Vũ Khúc tọa Mệnh.

Còn nữ Mệnh có Vũ Khúc tọa nhập cung Mệnh hoặc


cung Phu thê nếu hội nhiều sát tinh sẽ như phú văn nói là
"Thêm sát xung phá, cô khắc, có hình phu chi ác" hoặc
"Hình phu khắc tử" hoặc "đa phần sớm quả" hay không?
Lúc này vẫn cần xem cung Mệnh và và cung Phu thê hội
sát nhiều hay ít và phối ngẫu cá biệt khác biệt để suy tính,
không thể đoán linh tinh.

25
Vũ Khúc Hỏa Tinh là hung cách Quả Tú

Như trước đã nhiều lần đề cập, khi tinh diệu cư


vượng cung thì tác dụng chính diện rất dễ nổi bật, lúc này
nếu lại gặp nhiều cát tinh thì càng có thể phát huy tác dụng
chính diện này, không chỉ có như thế, nếu tinh diệu ngũ
hành lại tương sinh thì càng có thể phát huy đầy đủ tác
dụng chính diện. Cũng có thể nói là, tinh diệu chỉ có tại
vượng cung hội cát mà lại tương sinh thì mới có thể hoàn
toàn hiển lộ rõ tác dụng chính diện. Trái lại, nếu tinh diệu
tại hãm cung tương khắc mà lại hội nhiều sát tinh thì có thể
biết tác dụng mặt trái sẽ nổi bật.

Khi Vũ Khúc hội hợp Hỏa Tinh, ngoài việc vì tác


dụng sát tinh của Hỏa Tinh sẽ làm nổi bật tác dụng mặt trái
của Vũ Khúc mà càng vì Hỏa Tinh có ngũ hành thuộc hỏa,
hỏa đến khắc (Vũ Khúc) kim nên sẽ càng làm nặng thêm
tác dụng bất lợi cho hôn nhân tình cảm và quan hệ thân
tình nhân tế của Vũ Khúc, lúc này nếu lại gặp ít cát tinh
(thậm chí không có cát tinh), thì sợ dễ như tiên hiền nói
"Nữ Mệnh không thích, thêm Hỏa Tinh, kim bị hỏa phá,
đa phần hôn nhân không mỹ mãn", nhưng có "Sớm thì sinh
ly, trễ đến trung niên, đa phần làm quả phụ" hay không thì
cần xem cát hung vượng yếu của tổ hợp tinh diệu thực tế
và phối ngẫu cá biệt khác biệt mới có thể luận đoán. Mặt
khác, vì Linh Tinh và Hỏa Tinh là tinh diệu thành đôi, Linh

26
Tinh lại cũng có ngũ hành thuộc hỏa, cho nên Vũ Khúc hội
hợp Linh Tinh cũng sẽ có tác dụng tương tự.

Nhất định phải chú ý chính là Vũ Khúc và Hỏa Tinh


trên bản chất tương khắc: Nếu không có hóa Kỵ đến dẫn
động hung tượng thì chỉ luận là không tốt mà không nhất
định sẽ có trở ngại, nhưng nếu có hóa Kỵ (nếu Vũ Khúc
hóa Kỵ) đến dẫn động hung tượng hỏa "Khắc" kim thì trở
thành chính cách hung cách "Quả Tú", sẽ khá hung, lúc
này không chỉ có bất lợi cho nhân tế thân tình mà còn vì
Vũ Khúc là chủ Tài bạch nên cũng bất lợi cho việc cầu tài.
Nhưng nếu Vũ Khúc hóa Lộc thì Vũ Khúc Hỏa Tinh trở
thành hỏa "Luyện" kim, chẳng những không có gì đáng
ngại với nhân tế thân tình mà cũng có lợi cho việc cầu tài.
Duy vì Vũ Khúc hóa Lộc gia hội Hỏa Tinh vẫn ngại quá
mức dương cương do đó khi nói về hôn nhân và tình cảm
của nữ Mệnh thì trừ phi cá tính của phối ngẫu tương đối
yếu đuối hoặc hay nhường nhịn, nếu không chung quy sẽ
là không được hoàn mỹ, cái này sẽ như « Toàn thư nữ
Mệnh các luận » nói tới "Vũ Khúc chi tinh là Quả Tú, thích
hợp với nam không hợp nữ, nếu phu tinh yếu, thì vợ đoạt
phu quyền có thể miễn hình khắc. Nếu phu tinh lại có tính
cương thì hai cương tương địch sẽ hình khắc mà sinh ly".
Yếu đuối trong phú văn có ý là mềm yếu, yếu đuối.

27
Phân tích tác dụng của Vũ Khúc ở nam Mệnh

Phía trước có nói Vũ Khúc là "Quả Tú" đều là lấy


nữ Mệnh làm chủ, kì thực cũng có thể áp dụng với nam
Mệnh, chỉ bất quá vì truyền thống cho rằng nam thích
dương cương, nữ hỉ âm nhu, cho nên sẽ tương đối bất lợi
cho nữ Mệnh. Kỳ thật bất luận nam nữ chỉ cần là Vũ Khúc
tọa Mệnh mà không hội cát mà lại hội nhiều sát thì đều sẽ
bất lợi cho hôn nhân tình cảm và quan hệ tình thân nhân
mạch. Duy có điều cần chú ý chính là khi Vũ Khúc tọa
Mệnh hội nhiều sát, đặc biệt là tọa hội Hỏa Linh, lúc này
nếu lại có hóa Kỵ đến xung thì có thể là vấn đề sức khỏe
của bản thân. Liên quan với việc luận đoán bệnh tật với Vũ
Khúc sẽ nói sau.

Bên dưới chỉ trích lục phú văn cổ truyền để độc giả
tham khảo nhưng sẽ không phân tích. « Toàn thư chư tinh
tại Mệnh thân và mười hai cung cát hung yếu quyết » có
nói: "Vũ Khúc thủ Mệnh miếu vượng trị Kình Đà, chủ cô
khắc; thủ nới bình hãm hội Tứ Sát, chủ cô lại chủ bần, phá
tướng sinh trưởng" (chú thích ba), "Nếu cư cung Phu thê
thì nam khắc vợ, nữ khắc chồng; thủ ở Thân Mệnh, nếu
chủ tinh của cung Phu thê nhàn hãm, cũng cùng một lý
đoán. Duy vợ đoạt quyền chồng mà nhà trai bất kể, có thể
miễn hình khắc, xấu thì hai cương tương địch, tất là nguyên
nhân chính khắc sinh ly", mà tiên hiền cũng có thuyết pháp
tương tự như sau: "Tinh diệu này bất luận nam hay nữ gặp

28
lại hội hợp Kình Đà, nam cô, nữ quả, hình khắc cực nặng"
(chú thích bốn). Tứ Sát trong phú văn là chỉ Kình Đà Hỏa
Linh.

Mệnh Ví dụ —— Nữ cường nhân

Để độc giả hiểu hơn về Vũ Khúc tọa Mệnh xin đưa


ra một ví dụ. Lâm thái thái cung Mệnh tại Tý, Vũ Khúc
Thiên Phủ và Văn Xương Tả Phụ cố thủ, cũng có Lộc
Quyền chiếu hội, cung Thân tại Thân, ngoài Liêm Trinh
còn có Lộc Tồn Thiên Mã đồng cung cố thủ, tam phương
cũng có Xương Khúc Tả Hữu đến hợp, Mệnh Thân đều là
đại cách cục "Tử Phủ tướng triều viên" (Lá số hai). Nữ
Mệnh tiên thiên Mệnh lý cách cục quá mạnh, nếu một ít
điều kiện hậu thiên chưa thể phối hợp, sợ khó "Phú quý
toàn đẹp", ngược lại có thể biến thành mệnh cách vất vả
"Người giỏi phải làm nhiều việc". Trong những điều kiện
hậu thiên phối hợp này thì hôn nhân đặc biệt quan trọng.
Mà quan hệ vợ chồng quý ở sự hài hòa, muốn hài hòa nhất
định quan hệ giữa vợ chồng cần cân đối tốt đẹp, nếu có một
phương quá mức kiên cường thì luôn bất lợi cho hôn nhân.
Từ kinh nghiệm tích lũy có thể thấy nữ Mệnh mệnh cách
quá mạnh trong gia đình thường sẽ là "Khôn" mạnh "Càn"
yếu, "Càn Khôn" điên đảo mà có hiện tượng vợ đoạt quyền
chồng, lúc này trừ phi phối ngẫu có thể bao dung và
nhượng bộ nếu không sợ không dễ duy trì hôn nhân hài
hòa.

Nếu theo cách cục Mệnh Thân mà nói, Lâm thái thái
hẳn là thuộc về loại hình nữ cường nhân. Mặt khác, cung
Phu thê tiên thiên của Lâm thái thái tại Tuất, mặc dù là

29
cung vị "Tử Phá Thìn Tuất, quân thần bất nghĩa", nhưng vì
tam phương tứ chính cung Tuất không thấy sát diệu, cùng
cung Mệnh và Phu thê cung phân biệt nhìn thấy Tả Phụ và
Hữu Bật, cho nên cung Tuất trong hôn nhân không nhất
định sẽ tạo thành hiện tượng vợ chồng "Bất nghĩa". Nhưng
vì tổ hợp tinh diệu của cung Mệnh và cung Phu thê tiên
thiên quá mức dương cương, do đó cần phải lưu ý tới vấn
đề hôn nhân hài hòa.

30
Nếu lại cẩn thận xem xét cung Tý (tức cung Mệnh
tiên thiên của Lâm thái thái) cũng sẽ phát hiện hai cung lân
cận phân biệt có Linh Tinh và Hỏa Tinh tọa nhập, không

31
chỉ có như thế, lại có Hỏa Tinh đồng cung Thiên Đồng hóa
Kỵ, lúc này chỉ cần hành hạn tạo thành Thái Âm hoặc Thái
Dương hóa Kỵ sẽ khiến cung Tý trở thành cung vị song Kỵ
giáp chế, thì Hỏa Linh nhị tinh diệu cũng sẽ vì tinh diệu
đồng cung hóa Kỵ mà trở thành "Tà hỏa", đối với Vũ Khúc
sinh ra tác dụng khắc hại "Hỏa khắc Kim". Vũ Khúc một
khi bị Hỏa Linh khắc hại sẽ trở thành hung cách "Quả Tú",
khá bất lợi cho hôn nhân tình cảm, lúc này nếu phối ngẫu
tọa nhập cung vị Thái Tuế (chú thích năm) không tốt thì
chỉ sợ cũng không dễ duy trì hôn nhân hài hòa.

Năng lực làm việc của Lâm thái thái rất mạnh, ham
muốn với sự nghiệp rất lớn, năm Ất Mão (một chín bảy
mươi lăm) sau khi kết hôn vợ chồng hai người cùng kinh
doanh. Sau khi kết hôn mười năm, Lâm tiên sinh đối với
phu nhân coi như ôn hòa quan tâm, nhưng sau này, quan
hệ vợ chồng phát sinh kịch biến. Tức bắt đầu từ hạn Ất
Dậu, Lâm tiên sinh mặc kệ việc buôn bán, toàn bộ giao hết
cho vợ còn mình cả ngày chính sự không làm, chơi bời lêu
lổng, lại thường xuyên nhậu nhẹt, suốt ngày sống mơ mơ
màng màng. Lâm thái thái liều mạng kiếm tiền, mắt thấy
chồng láo nháo như thế thì cũng có khi khó tránh khỏi sẽ
nói chồng vài câu, lúc này Lâm tiên sinh say rượu mất lý
trí thường sẽ đánh vợ. (chú thích sáu)

Năm Ất Mão, Lâm thái thái hai mươi sáu tuổi, vừa
vặn đi đến hạn Bính Tuất. Bính làm Thiên Đồng hóa Lộc
vừa vặn cùng Thái Dương hóa Lộc hợp phụ cung Mệnh
tiên thiên, mà Linh Tinh và Hỏa Tinh vì đồng cung Thái
Dương và Thiên Đồng hóa Lộc nên đối với Vũ Khúc cũng
không có tác dụng khắc hại Hỏa khắc Kim, mà cung Mệnh

32

You might also like