Professional Documents
Culture Documents
Nguyên T
Nguyên T
Nguyên tố phi kim có số lượng electron tổng cộng nhiều hơn so với nguyên tố kim
loại. Tuy nhiên, hóa trị của nguyên tố phi kim chỉ bằng với số electron chưa có
trong lớp ngoài cùng của nguyên tử, chứ không bằng với tổng số electron của nó.
Điều này là do hóa trị của một nguyên tố là chỉ số đại diện cho khả năng kết hợp
hoặc chia sẻ electron của nguyên tử đó với nguyên tử khác trong quá trình hóa hợp.
Nguyên tố phi kim thường có hóa trị cao vì chúng có nhiều electron trong lớp ngoài
cùng, ở trạng thái không ổn định, muốn kết hợp với các nguyên tử khác để đạt tới
trạng thái ổn định hơn. Ví dụ, nguyên tố Oxygen (O) có 6 electron trong lớp ngoài
cùng, nó cần 2 electron nữa để trở thành ổn định hơn (tổng cộng 8 electron), do đó
hóa trị của Oxygen là 2, mặc dù nó có tổng cộng 8 electron.
Mangan (Mn) là một nguyên tố hóa học thuộc nhóm chuyển tiếp, có ký hiệu là Mn và số
nguyên tử 25 trong bảng tuần hoàn. Ở trạng thái nguyên tử tự do, Mangan có 2
electron trong lớp ngoài cùng (nằm trong lớp 4s) và 5 electron trong lớp bên trong
(nằm trong lớp 3d), cho nên có tổng cộng 7 electron hóa trị. Nhưng hóa trị của
Mangan không cố định, mà thay đổi rất nhiều. Hóa trị của Mangan có thể là +2, +3,
+4, +6, và +7, tùy thuộc vào trạng thái hợp chất mà nó đang ở. Việc hóa trị thay
đổi rộng rãi này phản ánh tính linh hoạt của Mangan trong việc nhường hoặc nhận
electron.
Vì vậy, khi mangan mất từ 1 đến 7 electron từ môi trường xung quanh của nó, nó có
thể chuyển qua các trạng thái oxi hóa khác nhau: Mn+1, Mn+2, Mn+3, Mn+4, Mn+6, và
Mn+7 — tương ứng với số lượng electron đã bị mất. Ngoài ra, cấp độ "d" trong những
nguyên tố này có thể chứa từ 1 tới 5 cặp electron, cho phép chúng tạo ra nhiều cấu
hình electron tương đối ổn định. Thực tế này giúp giải thích giải thích tại sao
mangan có khả năng biến đổi nhiều hóa trị.
đưa ra một vài nguyên tố có hóa trị thay đổi như mangan và cho tôi ví dụ về cách
chuyển đổi electron hóa trị hay nguyên tố của chúng
Ngoài mangan, có rất nhiều nguyên tố chuyển tiếp khác có hóa trị thay đổi, bởi vì
cấu trúc điện tử của chúng cho phép chúng chuyển đổi electron giữa các lớp năng
lượng d và s. Một số ví dụ bao gồm sắt (Fe), coban (Co), vanadi (V), và Crom (Cr).
Ví dụ, sắt (Fe) có cấu trúc electron [Ar] 3d6 4s2. Sắt thường gặp ở hai trạng thái
ôxid hóa, +2 và +3. Trong trạng thái +2 (Fe2+), sắt mất 2 electron trong lớp 4s,
còn lại [Ar] 3d6. Trong trạng thái ôxid hóa +3 (Fe3+), sắt mất tất cả 2 electron
trong lớp 4s và thêm 1 electron từ lớp 3d, còn lại [Ar] 3d5. Như vậy, sắt có thể
chỉnh sửa cấu trúc điện tử của nó nhanh chóng để thích ứng với các trạng thái ôxid
hóa khác nhau.
Đối với vanadi (V) có cấu trúc electron [Ar] 3d3 4s2. Vanadi có thể có trạng thái
ôxid hóa từ +2 đến +5. Trong trạng thái +2, nó mất 2 electron ở lớp 4s, còn lại
[Ar] 3d3; Trong trạng thái +5 (V5+), vanadi mất tất cả 2 electron ở lớp 4s và 3
electron ở lớp 3d, còn lại [Ar]. Khi chuyển đổi giữa các trạng thái ôxid hóa,
vanadi có thể tạo ra nhiều chất khác nhau, với màu sắc khác nhau do cấu trúc
electron của nó thay đổi.