You are on page 1of 49

Đề Cương

PHÂN TÍCH
CÁC TÁC PHẨM
VĂN THƠ LỚP 9
HỌC KÌ 2
Mùa xuân nho nhỏ Thanh Hải
Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười.
(Thơ xuân, Nguyễn Bính)
Nếu phải chọn ra ý nghĩa nhân văn nhất của thơ ca
trong đời sống thì đó là việc thơ ca đã cống hiến cho
cuộc đời này những tiếng lòng đẹp đẽ, những vẻ đẹp
trong sáng, đầy cảm xúc trong tâm hồn của các thi
nhân. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải xứng đáng
mang ý nghĩa cao đẹp ấy. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết
yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện
ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho
đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa
xuân lớn của cuộc đời.
Bài thơ ra đời năm 1980. Khi đó, Thanh Hải đang nằm
viện để điều trị một căn bệnh hiểm nghèo và không lâu
sau khi sáng tác bài thơ này, nhà thơ đã vĩnh viễn lìa bỏ
những mùa xuân khác nữa của cuộc đời mình. Năm 1980
cũng là năm đất nước đang gặp nhiều khó khăn trong
công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Trong hoàn cảnh
ấy, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ra đời đã
thể hiện cảm hứng đón nhận thanh sắc, đất trời mùa
xuân, cảm nhận đầy tự hào về bước đi lên thanh xuân
của đất nước, đồng thời cũng là tâm nguyện dâng hiến
sức xuân trong cuộc sống cách mạng của đất nước. Mùa
xuân nho nhỏ là tiếng thơ đầy cảm động của nhà thơ.
Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong sáu câu thơ
đầu được vẽ bằng vài nét phác hoạ nhưng rất đặc sắc.
Không gian cao rộng của bầu trời, chiều rộng dài của
dòng sông, màu sắc hài hoà của bông hoa tím biếc và
dòng sông xanh – đặc trưng của xứ Huế. Sự rộn rã; tươi
vui với tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim
trong ánh sáng xuân lan toả khắp bầu trời như đọng
thành “từng giọt long lanh rơi”.
Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể
hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời
bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên: “ơi”,
“hót”, “chi”, “mà”. Đặc biệt, cảm xúc của nhà thơ được
thể hiện trong một động tác vừa thể hiện sự trân trọng,
vừa tha thiết, trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy
từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước
hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt
sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây,
kẽ lá như những hạt ngọc. Ở đây, “giọt long lanh” cũng có
thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụ, một nghệ thuật chuyển
đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận
bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối,
cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh
sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác “đưa
tay hứng”. Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể
hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh
đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hoà vào
thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá
lạnh khiến ta vô cùng khâm phục.
Hình ảnh “lộc” xuân theo người ra đồng làm đẹp ý
thơ với cuộc sống lao động và chiến đấu, xây dựng và
bảo vệ, hai nhiệm vụ không thể tách rời. Họ đã đem mùa
xuân đến mọi nơi trên đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.
Hình ảnh “mùa xuân người cầm súng, lộc giắt đầy
trên lưng” khiến chúng ta liên tưởng đến những người
chiến sĩ ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá
ngụy trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non,
mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc”
còn làm cho người ta liên tưởng đến hình ảnh người lính
khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân tộc. Chính
màu xanh ấy đã tiếp cho người lính có thêm sức mạnh, ý
chí để họ xông lên phía trước tiêu diệt quân thù. Hình
ảnh “mùa xuân người ra đồng, lộc trải dài nương mạ” nói
về những người lao động, những người ươm mầm cho sự
sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê
hương. Từ “lộc” cho ta nghĩ tới những cánh đồng trải dài
mênh mông với những chồi non mới nhú xanh mướt. Từ
“lộc” còn mang sức sống, sức mạnh của con người. Có thể
nói, chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân
thiên nhiên, đất nước. Cuối cùng chỉ đọng lại, đan kết lại
trong ý thơ:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận mùa xuân đất
nước bằng hai từ láy “hối hả” và “xôn xao”, thể hiện tinh
thần và hành động khẩn trương, liên tục không dừng lại.
“Xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm thanh liên tiếp
vọng về, hoà lẫn với nhau xao động. Đây chính là tâm
trạng của tác giả, là sự náo nức trong tâm hồn. Tiếng
lòng của tác giả như reo vui, náo nức trước tinh thần lao
động khẩn trương của con người. Mùa xuân đất nước
được làm nên từ tinh thần hối hả ấy. Sức sống của đất
nước, của dân tộc cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo
nức của người cầm súng, người ra đồng. Như vậy, hình
ảnh mùa xuân đất nước đã được mở rộng dần. Đầu tiên,
nó chỉ gói gọn trên đôi vai, tấm lưng của người ra trận,
rồi cuối cùng được mở rộng thành một cánh đồng bao la.
Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng của đất
nước cho dù trước mắt còn nhiều vất vả, khó khăn. Và
đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh thật
đẹp, mang nhiều ý nghĩa:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
“Sao” là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng
vượt qua mọi không gian và thời gian. Sao cũng là hình
ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc đang tung bay trong
gió. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về một đất nước
Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường
tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và không
một thế lực nào ngăn cản được, nhất định đất nước cũng
sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đến tương
lai rực rỡ, đến bến bờ hạnh phúc. Đó là ý chí quyết tâm,
niềm tin sắt đá, niềm tự hào, lạc quan của cả dân tộc. Ở
câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên”
thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía
trước, vượt qua tất cả mọi khó khăn thử thách. Cảm xúc
của nhà thơ là sự lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống
của quê hương đất nước, của dân tộc khi mùa xuân về.
Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển
mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm
và tâm niệm của mình về lẽ sống, về ý nghĩa, giá trị của
cuộc đời mỗi con người:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Làm “con chim hót” giữa muôn ngàn tiếng chim vô
tư, cống hiến tiếng hót vui, làm “một cành hoa” giữa vườn
xuân rực rỡ, làm “một nốt trầm” giữa bản hoà tấu muôn
điệu, làm “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn
của đất nước, của cuộc đời chung. Ở phần đầu bài thơ,
tác giả đã phác hoạ hình ảnh mùa xuân bằng các chi
tiết “bông hoa” và “tiếng chim hót”. Câu từ lặp đi lặp lại
như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn lọc ấy
trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được
sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên. Điệp từ
“ta” như một lời khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm
thiết tha, chân thành của nhà thơ mà còn đề cập đến
một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Ước nguyện hoá thân đó vô cùng cháy bỏng, nhưng
được tác giả âm thầm, “lặng lẽ dâng cho đời”. “Nho
nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản
dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là một
mùa xuân nhỏ hoà vào cuộc sống, là ước nguyện sống có
ích, được cống hiến cho đời:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.
(Một khúc ca xuân, Tố Hữu)
Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo độc
đáo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm động. Nó đã
khắc sâu ý tưởng:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
(Đất Nước, Nguyễn Khoa Điểm)
Đó không phải là mong muốn trong một khoảnh
khắc mà là cả một cuộc đời:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng
ý thơ được nhấn mạnh làm cho người đọc không chỉ xúc
động trước giọng thơ ấm áp, mà còn bồi hồi trước lời
tâm sự thiết tha của một người đã từng trải qua hai
cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự
nghiệp cho cách mạng, vẫn tha thiết được sống đẹp,
sống có ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho
cuộc đời chung.
Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở
về miền cát bụi nhưng không gợi chút băn khoăn về bệnh
tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Và một nhịp
láy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm đã góp phần
làm tăng giá trị biểu hiện của các khổ thơ trên, đem lại
thi vị của xứ Huế mộng mơ, trìu mến mà tha thiết:
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Bài thơ khép lại trong âm điệu “khúc Nam ai, Nam
bình” xứ Huế. Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca
ngợi mùa xuân, để lại dư vị sầu lắng. Nhà thơ muốn hát
lên điệu “Nam ai, Nam bình”, điệu dân ca tha thiết xứ
Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời từ
biệt để hoà vào cát bụi vĩnh viễn. Nhưng ở đây không
phải là lời ca buồn mà ta đã từng nghe:
Anh đi rồi xứ Huế buồn hiu đó anh
Chim xa đàn không còn nghe hót trên cành…
(Huế buồn, Lê Dinh)
mà là “nhịp phách tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa.
“Nước non ngàn dặm mình, nước non ngàn dặm tình” còn
ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm
mới có thể hát lên trong hoàn cảnh nhà thơ lúc đó (đang
ốm nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng trân quý
tiếng hát và tấm lòng nhà thơ.
Như vậy, bài thơ không chỉ đơn thuần viết về mùa
xuân của thiên nhiên, đất trời. Từ tiếng chim chiền chiện
tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt
nhạc trầm nhập vào bản hoà ca đất nước, và đến đây là
khúc hát tạo ấn tượng một bài ca không dứt, bài thơ đã
trở thành bài ca yêu cuộc sống và thể hiện khát vọng
cống hiến của tác giả. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn
phổ nhạc thành bài hát và trở thành khúc ca xuân quen
thuộc, xúc động, còn mãi với đời. Thể thơ năm chữ gần
với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha
thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần liền
tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. Hình ảnh tự nhiên,
giản dị, giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt một số hình
ảnh cành hoa, con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và
nâng cao, gây ấn tượng sâu đậm. Câu từ bài thơ chặt
chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa
xuân: từ mùa xuân đất trời đến mùa xuân đất nước và
con người. Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của
tác giả: ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa
xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao
động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, trang
nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm. cống hiến
không mệt mỏi cho đất nước, nhà thơ vẫn khao khát “làm
con chim hót”, “làm một cành hoa”, “một nốt trầm xao
xuyến”, “một mùa xuân nho nhỏ” để “lặng lẽ dâng cho
đời”. Tiếng thơ đã thể hiện ước nguyện chân thành của
nhà thơ là được cống hiến cho đất nước, góp một mùa
xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời.
Hơn ba thập niên đã trôi qua từ ngày thi phẩm
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ra đời nhưng chưa một
mùa xuân nào đất nước lại thiếu vắng những tiếng thơ
ông hoà trong lời nhạc sôi nổi, say mê: “Mùa xuân, mùa
xuân, một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời…”. Bài
thơ ấy đã, đang và sẽ trở thành bản nhạc lĩnh xướng cho
dàn hoà ca đóng góp và dựng xây đất nước của toàn
dân tộc.
Viếng lăng Bác Viễn Phương
Có những tình cảm trong cuộc sống có ý nghĩa vô
cùng với tâm hồn mỗi người. Đó là tình yêu ruột thịt, là
tình bạn bè, anh em, đồng chí. Những tưởng không có sợi
dây nào gắn kết những con người tưởng chừng xa lạ,
nhưng luôn ấm áp tình thương. Ấy là người con miền Nam-
Viễn Phương với trái tim thành kính hướng về người cha
già. Người cha không cùng một dòng máu nhưng Người là
cha chung của toàn dân tộc Việt Nam. Viếng lăng Bác ra
đời là tấm lòng người con gửi đến cha.
Bài thơ được sáng tác năm 1976 tại một thời điểm
rất đặc biệt. Đây là năm đánh dấu sự kiện lăng Bác
được hoàn thành và những người con miền Nam trong đó
có Viễn Phương, lần đầu được đến thăm, gặp gỡ người
cha già của cả dân tộc. Với bốn khổ thơ tự do, một chỉnh
thể không quá dài nhưng tất cả là kết tinh cho niềm yêu,
nỗi nhớ, sự kính trọng khôn cùng của người con miền Nam
dành cho Bác.
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng"
Mở đầu là lời xưng hô “con - Bác” thật thân mật gần
gũi như người thân trong gia đình, giữa cha với con. Lời
xưng hô ấy là lời chào giới thiệu đứa con ở miền Nam ra
thăm lăng Bác. Cách nói giảm nói tránh “thăm lăng Bác”
dường như trong lòng Viễn Phương Bác vẫn còn sống mãi
để giờ đây người con xa xôi ra thăm cha. Đến với lăng
Bác nhà thơ bắt gặp hình ảnh “hàng tre trong sương
xanh ngát” bốn mùa. Hàng tre ấy được trồng quanh lăng
Bác gợi trong lòng cảm giác quen thuộc trở về với quê
hương. Cây tre là loài cây bé nhỏ dẻo dai không chịu
khuất phục bão táp mưa sa. Ngắm nhìn hàng tre mà nhà
thơ không khỏi bồi hồi xúc động “Ôi! Hàng tre xanh xanh
Việt Nam”. Dòng cảm xúc trào dâng được thể hiện bằng
từ “ôi” cùng nghệ thuật ẩn dụ hàng tre xanh xanh tượng
trưng cho cả dân tộc Việt Nam đang hội tụ quây quần
bên lăng Bác.
Tình cảm ấy không chỉ quyện hòa mà còn lắng đọng
trong niềm xúc cảm của người con xa. Khổ thơ thứ hai
trở thành điểm tựa để Viễn Phương bày tỏ trực tiếp
chân tình trước hình ảnh lớn lao của người cha:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày mặt trời đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"
Khổ thơ được tạo dựng bởi những hình ảnh thực cùng
hình ảnh ẩn dụ thật đẹp. Hai câu thơ đầu thông qua ẩn
dụ “mặt trời”, Viễn Phương ngợi ca công lao to lớn của
Bác. Mặt trời của tự nhiên trong câu thơ đầu là nguồn
sống cho muôn loài và đảm nhiệm nhiệm vụ lớn lao “ngày
ngày” duy trì sự sống. Mặt trời ấy quan trọng, quý giá và
chỉ có duy nhất. Ấy nhưng mặt trời tự nhiên lại bắt gặp
một mặt trời nữa cũng đẹp, cũng sáng. Ấy là “mặt trời
trong lăng”- ẩn dụ chỉ Bác Hồ với những hi sinh lớn lao
dành cho dân tộc. Và đâu chỉ có Viễn Phương, Bác cũng
luôn lồng lộng như ánh dương ấm áp trong ngòi bút Tố
Hữu: “Bác như trời đất của ta”. Với câu thơ của mình,
nhà thơ bên cạnh việc khẳng định công lao bất tử, sức
sống của Bác với dân tộc Việt Nam thì còn muốn nói lên
lòng biết ơn, sự tôn kính dành cho người cha già của cả
dân tộc.
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi
nhà thơ liên tưởng thật thú vị “ánh trăng”. Tác giả đã
thể hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tưởng kì
lạ đó. Bởi trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà
lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến dỗ giấc ngủ
ngàn thu cho Người. Với hình ảnh “vầng trăng sáng dịu
hiền” nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ
trụ để ví với Bác. Bác của chúng ta là vậy. “mặt trời”,
“vầng trăng”, “trời xanh” đó là những cái mênh mông bao
la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn
trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện cho sự vĩ
đại, rực rỡ của con người với sự nghiệp của Bác. Biết
rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và
tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao.
Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy đau nhói trong lòng
khi đứng trước thi thể Người. “Mà sao nghe nhói ở trong
tim”. Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim
thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của
nhà thơ.
Chính vì vậy mà khi chân còn ở trên đất Bác nghĩ
đến ngày mai trở về nhà thơ cảm thấy buồn, xúc động
lưu luyến không muốn xa rời. Dòng cảm xúc ấy rất tự
nhiên, chân thành tuôn trào thành giọt nước mắt để rồi
nhà thơ bày tỏ những ước nguyện:
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Viễn Phương muốn làm con chim để dâng tiếng hót
hay nhất của mình nơi lăng Bác, muốn làm bông hoa để
khoe hương khoe sắc làm đẹp nơi Bác yên nghỉ, muốn làm
cây tre để đứng canh cho giấc ngủ của Người. Nghệ
thuật ẩn dụ “con chim, nhành hoa, cây tre” chỉ nhà thơ
Viễn Phương người muôn hóa thân vào những gì nhỏ bé
nhưng đẹp đẽ để được gần gũi nơi Bác yên nghỉ. Điệp
ngữ “muốn làm” điệp cấu trúc điệp cách phô diễn càng
làm cho những ước nguyện chân thành tha thiết. Hình ảnh
cây tre trung hiếu còn là lời thề thiêng liêng nguyện
trung thành với lý tưởng của người. Hình ảnh cây tre kết
thúc ở cuối bài tạo cách kết thúc đầu cuối tương ứng.
Với một loạt hệ thống hình ảnh thơ giàu tính
biểu cảm, những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Viễn
Phương đã minh chứng cho người đọc một tình cảm thiết
tha sâu nặng mà người con muốn dành tặng người cha dù
bao xa cách trở. Tình cảm kính yêu, sự tự hào, niềm
thương, nỗi nhớ ấy luôn sống mãi cùng thời gian và bạn
đọc mọi thế hệ hôm nay.
Con Cò Chế Lan Viên
Ai đó đã từng nói: "Kì quan tuyệt phẩm nhất của
tạo hóa là trái tim người mẹ". Từ lâu, đề tài tình mẹ -
tình mẫu tử đã trở thành ngọn nguồn cảm hứng, khơi dậy
biết bao nhiêu cảm xúc cho các thi nhân viết lên những
áng thơ thật hay, thật xúc động lòng người. Nhà thơ
Nguyễn Duy trong bài thơ "Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa..."
đã từng có lời thơ:
"Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru."
Hay Chế Lan Viên cũng đã từng viết:
"Thêm một người trái đất sẽ trật hơn
Nhưng thiếu mẹ, thế giới đầy nước mắt
Đối với con, riêng mẹ là duy nhất
Mẹ từng ngày dõi theo bước chân con."
Và cũng viết về tình mẹ, Chế Lan Viên – một trong
những tên tuổi hàng đầu của nền thơ ca Việt Nam thế kỉ
XX với thi phẩm "Con cò" (1962) đã thể hiện thật xuất
sắc, thật cảm động tình yêu thương con vô bờ và ý nghĩa
lời hát ru của mẹ đối với cuộc đời của mỗi con người.
Trong đoạn đầu, khi phân tích bài thơ Con cò của
Chế Lan Viên, ta thấy tác giả đã sử dụng những hình ảnh
quen thuộc trong ca dao để gợi tả không gian và khung
cảnh quen thuộc. Nhà thơ đã đánh thức cánh cò yên
ngủ, gọi cò cùng những ước mơ tuổi thơ về với những lời
ru ấm áp ngọt ngào. Để rồi qua lời ru của mẹ trên trang
thơ, con cò dần đến với tuổi thơ diệu kì của đứa trẻ.
Giọng thơ man mác đã thể hiện được nhịp điệu nhẹ
nhàng và thong thả của cuộc sống thời xưa vừa tái hiện
hình ảnh con người, nhất là người phụ nữ vất vả nhọc
nhằn để kiếm sống nuôi con.
Hình tượng trung tâm trong bài thơ là cánh cò
nhưng cảm hứng chủ đạo lại là tình mẹ. Xuyên suốt bài
thơ chính là sợi dây tình cảm ngọt ngào. Đó là sợi dây đỏ
về tình mẹ sâu rộng bao la, bất tận và bất tử.
“Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay”
Với điệu ru quen thuộc, hình ảnh những cánh cò bay
lả bay la đã nhẹ nhàng đi vào những giấc mơ của con,
mang theo những yên bình và hạnh phúc. Người mẹ đã
gửi tất cả tình yêu thương con vào trong lời ru để à ơi vỗ
về, nâng niu và chăm sóc cho giấc ngủ ngọt ngào của
con. Cử chỉ “bế trên tay” “sẵn tay nâng” thể hiện sự âu
yếm và chăm chút cho con từng li, từng tí một. Con lớn
lên bằng dòng sữa ngọt ngào của mẹ, bằng cả lời hát ru
thiết tha sâu lắng. “Con còn bế trên tay” nghĩa là con
còn nhỏ và chưa nhận thức được về ý nghĩa của những lời
ru ấy. Con cũng chưa biết về con cò như nào, là biểu
tượng cho cái gì, hình ảnh con cò đến với con một cách
vô thức. Khi phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên,
ta thấy con cò hiện lên với bao đức tính cao quý:
“Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ”
Trong khi con cảm nhận được tình yêu thương của
mẹ, của những ấm êm trong vòng tay ngọt ngào ấy thì
những cánh cò ngoài kia đang phải lặn lội kiếm ăn, cũng
như chính cuộc đời gian truân vất vả của mẹ để nuôi con
khôn lớn… Thân cò nhỏ bé phải kiếm ăn một mình giữa
giông bão cuộc đời hẳn sẽ phải vượt qua biết bao khó
khăn mưa bão. Mẹ thương cho những cành cò, lại càng
thương con nhiều hơn biết mấy, con còn nhỏ và bé bỏng
quá. Sự chở che, bao bọc của mẹ cho con cùng với những
gì tốt đẹp nhất, mẹ đều dành cho con. Thấp thoáng
trong những lời thơ bình dị ấy, là hình ảnh của một người
mẹ đang chơi cùng con, đang ru con bằng dòng sữa mát
lành, đang ôm ấp vỗ về con qua những lời à ơi dịu ngọt.
“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng.
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò, con vạc.
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát.
Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”.
khi phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, ta thấy
cánh cò, cánh vạc, cành mềm đều là những chất liệu từ
ca dao, dân ca. Đó là những hình ảnh quen thuộc và gần
gũi biết bao, nó gợi lên tình yêu vô bờ mà cũng đầy bình
dị của người mẹ. Còn còn bé bỏng và trong sáng biết
bao. Vì thế, những hoạn nạn khó khăn của cuộc đời ngoài
kia hãy để mẹ ôm trọn, con hãy cứ ngủ ngoan mà chẳng
cần phân vân vì đã có mẹ ở bên. Điệp từ “mẹ hát” ở đầu
đoạn thơ và cuối đoạn thơ cho thấy mẹ hát ru con rất
nhiều bài, ru con qua biết bao tháng năm. Vậy lời hát ru
của mẹ là gì? Vì sao trong lời ru của mẹ lại có hình ảnh
con cò?. Hình tượng về con cò thường xuất hiện trong ca
dao dân ca và trở thành hình ảnh gần gũi thân thuộc với
con người Việt Nam từ thủa nhỏ. Con cò trong ca dao gợi
nỗi buồn thương về những gì lận đận, trong sạch, nghèo
khó nhưng cao cả. Mẹ mang theo cả điệu hồn dân tộc
vào những lời hát ru.
Trong lời ru của mẹ có hình ảnh con cò bay lả bay la,
gợi lên nhịp sống thong thả bình yên, có con cò cửa Phủ,
con cò Đồng Đăng từ nơi này đến nơi khác trên mảnh
đất thân thương này. Đồng thời hình ảnh con cò còn gợi
lên thân phận người phụ nữ, những người mẹ lận đận,
nghèo khó, cơ cực và bất hạnh. Như vậy, cò là hình ảnh
bé bỏng côi cút trong ca dao. “Cò ơi chớ sợ”! Con là con
của mẹ. Và mẹ sẽ sẵn sàng nâng niu tất cả, tình mẹ nhân
từ được mở rộng. Từ tình yêu con đến yêu thương những
gì nhỏ bé đáng thương, đáng được che chở.
Trong những lời ru ấy của mẹ còn có hơi xuân, nghĩa
là thấm đượm cả sự sống, và hạnh phúc tuổi trẻ thấm cả
cuộc đời của mẹ. Tất cả mẹ gửi vào những lời ru cuộc
đời, những lời hát mộc mạc bình dị, nhẹ nhàng mà êm ái
sâu lắng. Cứ như thế, tình yêu thương bao la và nhân ái
của mẹ cùng với lời ru đã in sâu vô thức vào kí ức tuổi
thơ con “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn” (Nguyễn
Duy). Đó là lời ru khởi đầu để ru cao vào cuộc sống,
nâng đỡ con suốt mỗi chặng đường. Tấm lòng mẹ dạt dào
vô hạn, mẹ luôn khát khao cho con một cuộc sống bình
yên, hạnh phúc, mong con khôn lớn lên người. Phân tích
bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, người đọc còn phát
hiện ra biết bao hình ảnh dung dị gần gũi.
“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên
Con khôn lớn, con theo cò đi học
Cánh cò trắng bay theo gót đôi chân…”
Trong những lời ru yêu thương ấy, không chỉ nhằm
mang đến những giấc mơ ngọt lành cho con mà mẹ còn
gửi gắm biết bao mong ước. Đó là khát khao con khôn lớn
trưởng thành, con đến trường và đi học như bao đứa trẻ
khác. Bên cạnh đó, mẹ còn ước mong tâm hồn con ngời
sáng, được chắp cánh bay cao bay xa như cánh cò để
trở thành người có ích:
“Lớn lên, lớn lên, lớn lên
Con làm gì?
Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn”
Tình mẹ cùng những lời hát ru ngọt ngào đã nâng đỡ
con khôn lớn và trưởng thành. Hình ảnh con cò đã đi vào
tiềm thức của tuổi thơ để trở nên gần gũi, và sẽ theo
con trên mọi chặng đường đời gian khó. Hình ảnh con cò
được xây dựng bằng sự liên tưởng đa dạng và phong phú
của nhà thơ như được bay ra từ ca dao để sống trong
tâm hồn con. Đó cũng là biểu tượng của lòng mẹ, sự nâng
đỡ dìu dắt dịu dàng của mẹ. Phân tích bài thơ Con cò
của Chế Lan Viên, ta không khỏi xúc động về hình ảnh
người mẹ – như biểu tượng con cò tảo tần chịu khó cũng
như yêu thương con sâu đậm.
“Ngủ yên! ngủ yên! ngủ yên
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở trong nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi”.
Cánh cò phải chăng chính là vòng tay âu yếm của mẹ,
là tình yêu thương dạt dào của mẹ đã chung hơi ấm,
truyền hơi ấm cho con. Là con, đứa con bé bỏng của mẹ,
là con cò côi cút trong ca dao. Tất cả được mẹ chở che
và chăm sóc. Những năm tháng tuổi thơ, cò đứng bên
con, đứng quanh nôi rồi vào trong tổ, vỗ về giấc ngủ cho
con. Đến khi con khôn lớn và cắp sách đến trường thì
“con theo cò đi học”. Khi con trưởng thành thì “cánh cò
trắng lại bay hoài không nghỉ/ trước hiên nhà và trong
hơi mát câu văn”.
Tại sao con cò lại làm thi sĩ? Bởi thi sĩ là người sáng
tạo ra cái đẹp, cũng như khơi dậy và bồi đắp những tình
cảm đẹp của con người. Và hơn thế nữa là lời ru của mẹ,
từ cái ngọt ngào sâu lắng của ca dao đã đi vào tâm hồn
con lúc nào không hay. để những cảm xúc dạt dào cứ
tuôn chảy mãi trong con.
“Con làm thi sĩ” cánh cò trắng đi vào những câu thơ
của con dịu ngọt, mát lành và đằm thắm. Mẹ mong tâm
hồn con trong sáng, ấm áp biết làm đẹp cho đời. Phân
tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, người đọc còn
phát hiện ra những ước mơ nhỏ nhoi đầy ấm áp của mẹ.
Đến khổ thơ thứ ba, nhịp thơ bỗng trở nên dồn dập
hơn như sự trào dâng của tình mẫu tử thiêng liêng:
“Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống biển
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”.
Đến đây, mẹ như đã hóa thân thành cánh cò tuổi
thơ để đi vào những giấc mơ của con. Dù cuộc sống này
có sao đi nữa, có khó khăn gian khổ đến đâu, dù con có
đi đến chân trời góc bể thì mẹ cũng sẽ tìm đến bên con,
bảo vệ và chở che cho con. Đoạn thơ như một lời đúc kết
quy luật của tình cảm. Đó chính là những xúc cảm trong
tấm lòng của người mẹ.
Điệp từ “dù ở” cùng với từ chỉ không gian gần xa,
thành ngữ “lên rừng xuống biển” đã thể hiện cuộc sống
mưu sinh lận đận vất vả. Những câu thơ còn thể hiện
không gian cách trở với sự đổi thay của cuộc sống con
người. Nhưng dù thế nào đi nữa thì “cò sẽ tìm con” và
“cò mãi yêu con” – Đó là hình ảnh về cò của hiện tại và
cò ở tương lai.
Cuộc đời dẫu là thế, thời gian dẫu có biến đổi
không ngừng, nhưng với mẹ con mãi còn bé bỏng. Hôm
nay con vẫn nằm trong vòng tay ấm áp của mẹ, rồi mai
con lớn sẽ bay đến những chân trời ước mơ của riêng
con, nhưng dù thế nào con vẫn là con của mẹ và cho đến
hơi thở cuối cùng, mẹ vẫn luôn bên con…
Mạch thơ chuyển sang hai câu thơ tám chữ, thể hiện
một triết lý sâu sắc “Con dù lớn thì mãi là con của mẹ”.
Con dù có lớn khôn trưởng thành đi chăng nữa, con mãi
là đứa con bé bỏng của mẹ, vẫn luôn cần mẹ chở che. Đó
cũng là bản năng của người làm mẹ. Trong thâm tâm của
mẹ, con cái bao giờ cũng còn nhỏ dại, cùng cần yêu
thương và chở che. Từ sự thấu hiểu tấm lòng của người
mẹ, nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát hóa thành một
quy luật của tình cảm có ý nghĩa bền vững và sâu sắc.
Trở lại với âm hưởng của lời ru, khi phân tích bài
thơ Con cò của Chế Lan Viên trong đoạn thơ cuối, ta
thấy tác giả lại một lần nữa khẳng định ý nghĩa của
những lời hát ru ngọt ngào. Những lời ru ấy cũng là khúc
hát yêu thương, là tình cảm vô bờ mẹ đã dành cho con.
Sự hóa thân của người mẹ vào cánh cò mang nhiều ý
nghĩa sâu xa, kết tụ những gian khổ, nhọc nhằn với những
hy sinh thầm lặng của mẹ để nuôi dưỡng tâm hồn con
trưởng thành.
Câu thơ cuối như một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ
qua nôi như dáng mẹ đang nghiêng xuống chở che, đang
thì thầm nói với con những lời tha thiết của lòng mẹ. Tác
giả đã đúc kết hình tượng con cò mang ý nghĩa về mẹ, về
cuộc đời của con. Dường như trong tất cả tình yêu
thương trên thế gian này đều đã được quy tự bên nôi, à
ơi nuôi dưỡng tâm hồn bé bỏng của con.
Khi phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, ta
thấy tác giả đã sử dụng thể thơ tự do, với những câu dài
ngắn khác nhau, nhiều chỗ lặp lại sử dụng điệp từ hoàn
toàn gợi lên những âm hưởng quen thuộc của những lời
hát ru. Sâu xa hơn trong những vần thơ ấy lại là sự suy
ngẫm, là chất triết lý của cuộc đời. Qua lời ru của mẹ,
tất cả ánh sáng, tình yêu, không gian và màu sắc trên
thế giới này đều dành cho trẻ thơ.
Tình mẫu tử là tình cảm mang đầy chất thơ với rất nhiều
tác phẩm xúc động về đề tài này, điển hình là bài thơ
Con cò. Đóng góp của nhà thơ Chế Lan Viên đã mang
nhiều cách tân với giọng điệu suy ngẫm và chất triết lý.
Những ý thơ trong bài cứ như lướt trên cái nền uyển
chuyển của ca dao vậy. Hình tượng con cò chính là biểu
tượng của cách nghĩ, cách nhìn của thời đại, lắng lại về
những chiêm nghiệm về những gì là bản chất tốt đẹp của
cuộc đời.
Giữa dòng đời đầy bộn bề ngày hôm nay, trẻ em
đã không còn được nghe những lời hát ru ngọt ngào nữa.
Thay vào đó là những âm thanh tất bật của đời thường,
khiến mỗi đứa trẻ lớn lên dường như thiếu một thứ gì đó,
một thứ nhẹ nhàng nhưng đôi chút mơ hồ mà không gì có
thể bù đắp được. Con cò là một trong những kiệt tác
của hồn thơ Chế Lan Viên.Bằng con đường của sự suy
tưởng, với sự vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong ca
dao, giọng thơ điệu tâm tình thủ thủ, nhịp điệu êm ái và
dịu dàng đã mang lại âm hưởng của những lời hát ru ngọt
ngào.
Bài thơ con cò đã ngợi ca tình mẹ và thấm
đượm chất nhân văn cao cả. 51 câu thơ tự do đã đan
xen và kết chuỗi thành lời ru ngân nga, ngọt ngào, biểu
hiện tình thương và ước mơ của người mẹ hiền đối với
con thơ. “Kì quan tuyệt phẩm nhất của tạo hóa là trái
tim người mẹ” Ai đó đã từng nói như vậy về tình mẫu tử
thiêng liêng. Qua bài thơ này, mỗi chúng ta thêm yêu và
trân trọng biết bao về người mẹ hiền yêu dấu của mình!
Nói với Con Y Phương
"Quê hương là cầu trẻ nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa câu rụng trắng ngoài hè"
Ai cũng có cho riêng mình một quê hương đề nhớ
về khi đi xa, để tự hào mỗi khi nhắc tới. Viết về mảnh
đất chôn rau cắt rốn ấy, ai cũng dành cho quê hương
những yêu thương và cảm xúc chân thành nhất. Em đã
từng đọc rất nhiều bài thơ viết về quê hương nhưng hồn
thơ khiến em xúc động nhất là nhà thơ Y Phương với thi
phẩm "Nói với con", bài thơ là sự đan xen hài hòa giữa
tình cảm cha con và tình yêu quê hương đất nước..
Với lời thơ giản dị, hình ảnh đời thương, thể thơ tự
do giúp tác giả dễ dàng bộc lộ cảm xúc, Y Phương đã gửi
gắm tình cảm thiết tha, những lời tâm tình sâu sắc về nơi
cội nguồn quê hương, nơi đã nuôi dưỡng bao tâm hồn,
chắp cánh bao khát khao bay cao, bay xa.
" Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
Quê hương là nơi có gia đình, có mái nhà ấm áp những
yêu thương che chở. Dưới bàn tay nâng niu, bên những lời
thủ thỉ ngọt ngào của ba mẹ, mỗi người từ đó mà lớn lên
Cha mẹ- những người sinh thành, nuôi dưỡng, luôn bảo
ban ta, dạy cho ta từng câu nói, tập từng bước đi, đó có
lẽ là điều đẹp đẽ và đáng trân trọng nhất mà tuổi thơ
may mắn có được. Những bước chân đầu đời, những tiếng
bập bẹ của con, không chỉ với riêng con mà với ba mẹ
đều rất thiêng liêng, nó đánh dấu cho sự lớn lên và phát
triển của con. Tác giả sử dụng điệp từ "bước tới" kết hợp
với các danh từ "mẹ" ,"cha" và biện pháp liệt kê "chân
trái", chân phải", cách sử dụng ngôn từ có ý đồ ấy đã gợi
lên một hình ảnh rất đẹp, em bé đang chập chững bước
về phía vòng tay mẹ cha trong niềm vui khó tả, cả mẹ
cha đều chờ đợi con bước tới đích, nắm lấy con, nở núi
cười khích lệ và tự hào trong mỗi bước con đi. Đằng sau
"tiếng nói", "nụ cười" ấy là niềm hạnh phúc lớn lao, dẫu
sau con bước tiếp những chặng đường mới mà còn lựa
chọn, cha mẹ vẫn luôn dõi theo ủng hộ và vui với những
thành công của con. Chỉ với 4 câu thơ thôi mà tác giả đã
thể hiện được tấm lòng lớn lao của mỗi bậc làm cha, làm
mẹ trong cuộc đời.
"Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Nếu gia đình là nơi mẹ cha thì quê hương cho ta những
"người đồng mình" đầy bình dị mà yêu thương. Những con
người chung quê hương ấy luôn yêu thương nhau, họ cần
mẫn lao động, họ hăng say làm việc. Đôi bàn tay tài hoa
của "người đồng mình" không chỉ góp phần lao động tạo
ra của cải mà còn góp phần gây dựng quê hương.
Không chỉ tài hoa, "người đồng mình" còn là những con
người yêu cuộc sống, họ luôn tự tạo niềm vui trong cuộc
đời, trong công việc lao động của mình. Trong những câu
hát nơi mỗi vách nhà chứa chan cả niềm tin yêu, sự lạc
quan và cả những tâm hồn dạt dào yêu cuộc sống.
"Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng"
Rừng mang cho đời hương hoa, con đường mang cả
những tấm lòng của người dân quê hồn hậu. Thiên nhiên
trù phú, lòng người rộng mênh mang, còn điều gì tuyệt
vời hơn như thế? Viết về những người lao động quê
hương, Tế Hanh từng tự hào trước những người dân chài
dũng mãnh, vượt sóng vượt gió ra khơi:
" Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ"
Nhà thơ Huy Cận cũng từng xúc động trước cảnh
những trải trang quê hương ra khơi đánh cá trong sự lạc
quan, giữa gian khó họ vẫn hát vang lời ca gọi cá:
" Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"
Đến với Y Phương, cũng không nằm ngoài cảm xúc tự
hào, yêu quý những phẩm chất của con người quê hương,
nhà thơ đã cất lên lời tha thiết:
"Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc"
"Người đồng mình" có ý chí và nghị lực phi thường,
những " nỗi buồn", "chí lớn" được đo bằng độ "cao" của
núi; " xa" của sông để cho thấy được bản lĩnh lớn của con
người. Cuộc sống ngày ngày không tránh khỏi những lo
toan, những ghềnh thác cheo leo nhưng "người đồng
mình" vẫn không bao giờ nản chí, họ vẫn một lòng gắn bó
với quê hương, hướng đến sự sống chốn hoang sơ, nghèo
đói. Họ sống "như sông", "như suối", tấm lòng bao la ấy đã
giúp "người đồng mình" vượt qua tất thảy những ghềnh
thác cheo leo.
Và đâu chỉ yêu quê hương, gắn bó với quê hương,
người đồng mình còn ý thức được trách nhiệm với quê
hương mình.
" Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục"
Cả quê hương và con người nơi đây đều luôn luôn gìn
giữ những giá trị bền lâu và tốt đẹp của quê hương. Dựng
xây quê hương ngày càng phát triển, phồn thịnh hơn. Sau
tất cả những lời tâm tình ấy của cha, điều mà cha gửi
gắm nơi con, mong con yêu hiểu được đó là con hãy thật
bản lĩnh để đương đầu với khó khăn, hãy là " người hùng"
của chính cuộc đời mình.
" Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con"
Lời khuyên của cha sao mà thiết tha đến thế, trong từng
lời cha vẫn luôn hy vọng rằng con trên đường đời đừng
bao giờ nhỏ bé, hãy khẳng định mình, làm chủ cuộc đời
mình như chính phẩm chất của những" người đồng mình".
“Nói với con” là một bài thơ hay của Y Phương. Với
cách dẫn dắt tự nhiên giọng điệu thiết tha trìu mến rõ
qua từng từ ngữ, hình ảnh, bài thơ thể hiện tình cha yêu
con, muốn con nên người nên chỉ dạy con biết yêu quê
hương và tự hào về truyền thống tốt đẹp của người đồng
mình. Hãy luôn nghĩ về tình cảm mà cha mẹ dành cho
mình để sống xứng đáng hơn với sự yêu thương bao bọc
ấy:
“Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối cong
Con ơi giữ trọn hiếu trung
Sớm hôm chăm chỉ kẻo uổng công mẹ thầy”.
Bến Quê Nguyễn Minh Châu
“Cây đa, bến nước, mái đình
Nghìn năm sâu đậm nghĩa tình quê hương”
Câu ca dao gợi tình cảm quê hương, gợi nhớ những
bến quê quen thuộc, nơi có những xóm chài với dăm ba
mảnh thuyền giăng lưới, nơi có cái xóm lẻ với những rặng
tre xanh, vài cây sung chín rụng. Và cái bến quê ấy đã
đi vào sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn
Bến quê. Qua tác phẩm, tác giả không chỉ tả thực cái
bến quê nào đó mà còn muốn gửi gắm những suy nghĩ,
trải nghiệm sâu sắc của mình trước cuộc đời, thức tỉnh
mọi người về những vẻ đẹp và giá trị cao quý của những
điều bình dị gần gũi quanh ta.
Truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu chứa
đựng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn
về con người và cuộc đời, thức tỉnh mọi người sự trân
trọng vẻ đẹp và giá trị của những điều bình dị, gần gũi
của gia đình, quê hương. Triết lí trong Bến quê sâu sắc,
mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết của một con
người sắp giá từ cuộc sống. Cốt truyện được xây dựng
trên một tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Nhân vật
chính là anh Nhĩ, người đã từng đi khắp nơi trên thế giới,
nhưng cuối đời lại bị cột chặt vào giường bởi một căn
bệnh hiểm nghèo. Nhưng cũng chính vào thời điểm ấy,
Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê
quen thuộc một vẻ đẹp mộc mạc mà vô cùng quyến rũ.
Cũng như mãi cho đến lúc nằm liệt giường, nhận sự săn
sóc từng miếng ăn, ngụm nước của vợ con, Nhĩ mới cảm
nhận được nỗi vất vả, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh
thầm lặng của người vợ hiền.
Nhĩ là một con người từng trải và có địa vị, đi rộng
biết nhiều: "Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó
xỉnh nào trên trái đất": "anh đã từng in gót chân khắp
mọi chân trời xu mới 2 năm trước đây, anh còn đi công
tác sang một nước bên Mĩ La-tinh. Có thể nói, bao cảnh
đẹp những nơi phồn hoa đô hội gần xa, những miếng ngon
nơi đất khách quê người, anh đều được thưởng thức,
được hưởng thụ. Nhưng những cảnh đẹp gần gũi, những
con người tình nghĩa thân thuộc, thân yêu nơi quê hương
cho đến những tháng ngày ốm đau nằm trên giường bệnh
khi sắp từ giã cõi đời, anh mới cảm thấy một cách sâu
sắc, cảm động.
Hoa bằng lăng quê kiểng có gì là đẹp? Lúc mới nở
"màu sắc đã nhợt nhạt". Vòm trời và con sông Hồng, bờ
bãi, bến đò… có gì xa lạ đối với nhiều người trong chúng
ta, nhất là đối với Nhĩ, khi nhà anh ở gần dòng sông ấy.
Sớm nay, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn
vừa nghĩ: Anh cảm thấy hoa bằng lăng trong tiết lập thu
đẹp hơn, "đậm sắc hơn". Sông Hồng "màu đỏ nhạt, mặt
sông như rộng thêm ra". Bãi bồi phù sa lâu đời ở bên kia
sông Hồng dưới những tia nắng sớm đầu thu đang phô ra
một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những
màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu
mỡ". Và bầu trời, vòm trời quê nhà "như cao hơn".
Cũng trong những ngày này, khi nằm liệt giường,
nhận sự chăm sóc đến từng miếng ăn, ngụm nước của
người vợ, Nhĩ mới cảm thấy hết nỗi vất vả của vợ, sự tần
tảo, tình vêu và đức hi sinh thầm lặng của vợ mình. Cũng
như nhiều nhân vật phụ nữ khác của Nguyễn Minh Châu,
Liên - người vợ của Nhĩ - là hiện thân của vẻ đẹp tâm
hồn, lòng vị tha và đức hi sinh thầm lặng, khiêm nhường.
Những cử chỉ dịu dàng chăm sóc tỉ mỉ, ân cần, những lời
động viên và sự thấu hiểu tâm trạng của chồng, rồi tấm
áo vá và những bước chân đi rất nhẹ trên bậc cầu thang
gỗ đã mòn lõm - bấy nhiêu chi tiết ấy đã đủ nói lên nhân
vật Liên, dù chỉ hiện ra chốc lát ở phần đầu của truyện,
cũng để lại cho người đọc về một hình tượng đẹp, giản dị
mà sâu xa.
Sau bao năm tháng bôn tẩu, mà cuộc đời dành cho
những chuyến đi khắp chân trời, đến lúc này, ở những
ngày cuối đời mình, Nhĩ mới thấy và hiểu được nơi bến
đậu bình yên, điểm tựa cho cuộc đời anh chính là gia
đình, là người vợ suốt đời láo tần, thầm lặng. Nhĩ nói với
Liên bằng cả lòng biết ơn xen lẫn niềm ân hận: Suốt đời
anh chỉ làm em khổ tâm... mà em vẫn nín thinh. Và Liên
đã trả lời: có hề sao đâu... miễn là anh sống, luôn luôn
có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này...
Những cảm nhận, những suy nghĩ của Nhĩ về Liên thật
sâu sắc, đầy ân tình ân nghĩa. Từ một cô gái chân quê
"mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ" rồi thành "một người đàn
bù thị thành". Thế nhưng "tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên
vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời
xưa". Nhĩ đã trải qua những ngày tháng "bôn tẩu, tìm
kiếm", nếm trải bao ngọt bùi, cay đắng, Nhĩ "đã tìm thấy
được nơi nương tựa là gia đình", là vợ con mình. Với Nhĩ,
gia đình là bến đậu, bến tình thương, bến hạnh phúc.
Cảnh những đứa trẻ (Huệ, Vân, Tam, Hùng) xinh tươi,
ngoan ngoãn, nghe Nhĩ gọi, chúng ríu rít chạy lên, xúm
vào, nương nhẹ giúp anh xê dịch từ mép tấm nệm ra mép
tấm phản, lấy gối đặt sau lưng Nhĩ, làm cho anh như trẻ
lại "toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú
được chăm sóc và chơi với". Hạnh phúc ở đâu, hạnh phúc
đâu phải cái gì cao siêu, mà rất bình dị, rất nhi nhỏ, có
khi chỉ là một ánh mắt, một nụ cười trẻ thơ, một hàn tay
nhỏ bé "chua lòm mùi nước dưa",… Hình ảnh ông cụ giáo
Khuyến sáng nào đi qua cũng tạt vào thăm Nhĩ là một
hình ảnh ân tình ân nghĩa nuôi dưỡng tâm hồn. Một câu
hỏi thăm về sức khỏe, một lời an ủi, động viên ân cần:
"Hôm nay ông’ Nhĩ có vẻ khoẻ ra nhỉ?". Còn gì cao quý
hơn, ấm áp hơn, tình nghĩa hơn? Được sống trong tinh yêu
thương của đồng loại mới thật hạnh phúc. Và đó là sắc
màu ý vị trong cuộc đời mỗi chúng ta, là "Bến quê" của
tâm hồn mỗi chúng ta.
Đứa con trai của Nhĩ sa vào một đám chơi phá cờ
thế trên lề đường là chi tiết giống như điều mà Nhĩ gọi là
sự chùng chình, vòng vèo mà trên đường đời, người ta
khó lòng tránh khỏi.. Hành động và cử chỉ của Nhĩ ở cuối
truyện cũng mang ý nghĩa biểu tượng. Bằng việc đặt
nhân vật vào tình huống có tính nghịch lí, truyện Bến quê
phát hiện một điều có tính quy luật: trong cuộc đời, con
người thường khó tránh khỏi những diều vòng vèo, chùng
chình, đồng thời thức tỉnh về những giá trị và vẻ đẹp
đích thực của đời sống ở những điều quen thuộc, bình
thường mà bền vững muôn đời.
Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ,
chúng ta cảm nhận dược ý nghĩa triết lí về cuộc đời con
người mà nhà văn dặt ra trong tác phẩm: Hãy cố gắng
tìm hiểu và cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà quý giá
ẩn chứa trong những gì quen thuộc, gần gũi nhất của gia
đình và quê hương. Truyện được kể theo cái nhìn và tâm
trạng của nhân vật Nhĩ, trong một cảnh ngộ đặc biệt.
Giọng trầm tư, suy ngẫm của một người từng trải, cùng
với giọng xúc động, đượm buồn, có cả sự ân hận và xót
xa của một người nhìn vào hiện tại và quá khứ của mình ở
cái thời điểm biết mình sắp phải từ giã cuộc đời. Những
đoạn tả hàng cây bằng lăng, con sông, bờ bãi bên kia
sông là những đoạn vãn rất hay. Tác giả đã miêu tả
những sắc thái khác nhau của vẻ đẹp thiên nhiên bằng
tính từ chỉ màu sắc và những đường nét tạo hình rất gợi
cảm.
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung
và Bến quê nói riêng, chúng ta đều có chung một cảm
nhận: hay và sâu sắc. Nhà văn đã len lỏi vào lâu đài nội
tâm của con người để khai thác và thể hiện. Tính nhân
văn và triết lí rất cao. Nếu không có những trải- nghiệm
thực tế, nếu không có những tìm tòi công phu chắc hẳn
Nguyễn Minh Châu khó có được những thành công như
hôm nay. Bến quê đưa ta về một không gian đầy kỉ niệm
và cảm xúc mà khó ai quên được:
“Qua sông nhớ mãi con đò
Chiều quê nặng hạt, cánh cò nhẹ tênh
Mây xanh dăm vệt bồng bềnh
Cánh diều ai thả chông chênh cuối làng"
Những ngôi sao xa xôi
Lê Minh Khuê
Có một thời để nhớ, có một thời đẹp hơn mọi lời
ca, một thời đẹp hơn mọi lời ca, một thời mà cả nước lên
đường phơi phới bước chân trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ vĩ đại:
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ trường Sơn Tây”
Trường Sơn ơi, rầm rập bước quân hành. Ở đó có sự
xuất hiện của những cô giao liên, những cô gái thanh niên
xung quanh trên tuyến đầu lửa đạn. Sự kiêu hùng, dũng
cảm của những cô gái đã đi vào thi ca một cách tự nhiên
và để lại đầy ấn tượng trong lòng người đọc. Một trong
số đó là tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh
Khuê. Với sự duyên dáng, tài năng của cây bút trẻ, tác
phẩm đã phản ánh chân thực sự khốc liệt của chiến
tranh đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn như những vì sao
lung linh ngời sáng của những cô gái thanh niên xung
phong.
Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Những tác phẩm đầu
tay của bà ra mắt vào những năm 70, nội dung viết về
cuộc sống chiến đấu sôi nổi, hào hùng của thanh niên
xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Một
số truyện ngắn đã gây được sự chú ý và tình cảm yêu
mến của bạn đọc.
Truyện Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực
tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc
sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn
nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong.
Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm
chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ vừa qua. Cốt truyện đơn giản, mạch
truyện phát triển theo diễn biến tâm trạng của người
kể, kết hợp đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Có thể tóm
tắt như sau:
Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh sát
mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường
Sơn. Tổ trưởng là chị Thao và tổ viên là hai cô gái trẻ
tên Phương Định và Nho. Nhiệm vụ của họ là quan sát
máy bay địch ném bom, ước chừng khối lượng đất đá
dùng để san lấp hố bom, đánh dấu vị trí các trái bom
chưa nổ và phá bom nổ chậm. Công việc hết sức nguy
hiểm vì máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Họ
phải đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom, mà
công việc này thì lại diễn ra thường xuyên. Các cô gái ở
trong một cái hang dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị.
Cuộc sống dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng họ vẫn có
những niềm vui hồn nhiên, những giây phút thanh thản,
mơ mộng. Đặc biệt là ba chị em rất gắn bó, yêu thương
nhau trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Ớ
phần cuối, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm
trạng của các nhân vật, chủ yếu là của Phương Định
trong một lần phá bom. Nho bị thương đã được đồng đội
lo lắng và săn sóc. Cơn mưa đá ở cao điểm khiến cho
Phương Định hồi tưởng về tuổi học trò ở Hà Nội : Chao ôi,
có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thật xa…
Để cho nhân vật chính là Phương Định đứng ra kể
chuyện, điều đó phù hợp với nội dung truyện và tạo
thuận lợi để tác giả vừa miêu tả, vừa thể hiện đời sống
tâm hồn của nhân vật. Truyện viết về chiến tranh nên có
những chi tiết, hình ảnh về bom đạn, chiến đấu, hi sinh…
nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện
lên vẻ đẹp tâm hồn của con người.
Ba cô gái sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa
một vùng trọng điểm bắn phá của máy bay Mĩ trên tuyến
đường Trường Sơn. Công việc của họ rất nguy hiểm vì
giữa ban ngày, họ phải phơi mình dưới tầm đánh phá của
máy bay địch. Nguy hiểm khôn lường nhưng các cô tự hào
về công việc của mình và cái tên gọi mà đơn vị đặt cho
là: tổ trinh sát mặt đường. Gắn với cái tên gợi sự khát
khao làm nên những sự tích anh hùng ấy là công việc
chẳng nhẹ nhàng, đơn giản chút nào.
Phương Định hồn nhiên kể: "Chúng tôi bị bom vùi luôn.
Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp
lánh. Cười thi hàm răng lóa lên trên khuôn mặt nhem
nhuốc. Những lúc đấy chúng tôi gọi nhau là “những con
quỷ mắt đen"."
Sau mỗi trận bom, các cô phải lao ngay ra trọng
điểm, đo đạc và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch
đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối
thuốc nổ đặt vào cạnh từng trái bom để phá. Đó là một
công việc mạo hiểm với cái chết, thần kinh luôn căng
thẳng, đòi hỏi sự dũng cảm và hết sức bình tĩnh. Nhưng
với ba cô gái thì những công việc khủng khiếp ấy đã trở
thành bình thường: "Có ở đâu như thế này không: đất bốc
k
khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần.
Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu,
chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều
quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa.
Nhưng nhất định sẽ nổ… Rồi khi xong việc, quay lại nhìn
cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang."
Đối lập với cảnh tàn khốc do bom đạn giặc gây ra là
sự bình tĩnh đến lạ lùng của các cô gái. Cảnh các cô
sống trong hang sao mà lạc quan, thơ mộng đên thế:
"Bên ngoài nóng trên 30 độ, chui vào hang là sà ngay
đến một thế giới khác. Cái mát lạnh làm toàn thân run
lên đột ngột - Rồi ngửa cổ uống nước trong ca hay trong
bi đông. Nước suối pha đường. Xong thì nằm dài trên nền
ẩm lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc tử cái đài bán dẫn
nhỏ mà lức nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể
nghĩ lung tung… hình như ta sắp mở chiến dịch lớn."
Cả ba cô đều là con gái Hà Nội. Tuy cá tính và hoàn
cảnh riêng mỗi người mỗi khác nhưng họ đều có phẩm
chất chung vô cùng tốt đẹp của thanh niên xung phong
tiền tuyến. Đó là tinh thần dũng cảm tuyệt vời, không sợ
gian khổ, hi sinh, quyết tâm khắc phục khó khăn để hoàn
thành tốt nhiệm vụ và tình cảm đồng đội gắn bó, yêu
thương. Ở họ còn có những nét chung của các cô gái trẻ
là dễ xúc động, nhiều khát vọng và hay mơ mộng, dễ vui
mà cũng dễ buồn. Trong bom đạn, cận kề cái chết mà họ
vẫn thích làm đẹp cho cuộc sống của mình: Nho thích
thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát, Phương Định
thích ngắm mình trong gương, thích ngồi bó gối thả hồn
theo dòng hồi tưởng và cất tiếng hát.
Phương Định vốn là một nữ sinh Thủ đô. Tính cách
Phương Định vừa vô tư, tinh nghịch, vừa dịu dàng, lãng
mạn. Cô hay hồi tưởng những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô
tư giữa gia đình và thành phố thân yêu. Vào chiến
trường, những kỉ niệm êm dẹp ấy luôn sống dậy trong
tâm trí cô. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát
tâm hồn cô trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của
chiến tranh.
Giống như các cô gái mới lớn khác, Phương Định khá
nhạy cảm về bản thân và cũng rất quan tâm đến hình
thức của mình. Cô tự đánh giá: Tôi là con gái Hà Nội, Nói
một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc
dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiều hãnh như đài
hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có
cái nhìn sao mà xa xăm. Xa đến đâu mặc kệ, nhưng tôi
thích ngắm mắt tồi trong gương. Nó dài dài màu nâu, hay
nheo lại như chổi nắng."
Cô biết mình được nhiều người để ý, nhất là các anh
lính lái xe. Điều đó làm cho cô thấy vui và tự hào, nhưng
cô chưa dành riêng tình cảm cho một ai. Tuy vậy, cô
không hay biểu lộ tình cảm và thường tỏ ra kín đáo giữa
đám đông, nhìn qua sẽ tưởng như là kiêu kì.
Phương Định yêu mến hai bạn gái trong tổ trinh sát
mặt đường và đồng đội trong đơn vị. Đặc biệt, cô dành
tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả chiến sĩ mà cô gặp
trên đường vào mặt trận: "Không hiểu sao các anh pháo
thủ và lái xe lại hay hỏi thăm tôi. Hỏi thăm hoặc viết
những bức thư dài gửi đường dây làm như ở cách xa nhau
hàng nghìn cây số, mặc dù có thể chào nhau hằng ngày.
Tôi không săn sóc, vồn vã. Khi bọn con gái xúm nhau lại
đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, tôi thường
đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi
khác, môi mím chặt. Nhưng chẳng qua tôi điệu thế thôi.
Thực tình trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất,
thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người
mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ."
Là một nhà văn đồng thời cũng là thanh niên xung
phong nên Lê Minh Khuê am hiểu và miêu tả khá tinh tế
tâm lí của những cô gái trong nhóm trinh sát mặt đường
mà tiêu biểu là nhân vật Phương Định. Tâm trạng của
Định lúc phá bom nổ chậm được tác giả miêu tả rất
thực: "…máy bay rít, bom nổ. Nổ trên cao điểm, cách
hang này khoảng 300 mét. Đất dưới chân chúng tôi rung.
Mấy cái khăn mặt mắc ở dây cũng rung. Tất cả cứ như
lên cơn sốt. Khói lên và cửa hang bị che lấp. Không thấy
mây và bầu trời đâu nữa. Quả bom nằm lạnh lùng trên
một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Đầu này có vẽ
hai vòng tròn màu vàng…Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới
quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai
bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một
tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi
rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm.
Nhanh lên một tí ! vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng
lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặc là mặt
trời nung nóng."
Cảnh mưa bom bão đạn của giặc Mĩ diễn ra hằng giờ,
hằng ngày, hết ngày này sang ngày khác và sức chịu
đựng của các cô gái thật tuyệt vời: "Quen rồi. Một ngày
chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít : ba lần. Tôi
có nghĩ tới cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không
cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không ?
Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ? Tôi
nghĩ thế, nghĩ thêm: đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào
cánh tay thì khá phiền. Và mồ hôi thấm vào môi tôi, mằn
mặn, cát lạo xạo trong miệng. Nhưng quả bom nổ. Một
thứ tiếng kì quái đến váng óc. Ngực tôi nhói, mắt cay
mãi mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng
nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong
những bụi cây. Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình
trên đầu."
Mặc dù đã thành thạo trong công việc nguy hiểm,
thậm chí một ngày có thể phải phá tới năm quả bom,
nhưng mỗi lần phá bom nổ chậm vẫn là một thử thách
thần kinh cao độ đối với Phương Định. Từ khung cảnh và
không khí chứa đầy sự căng thẳng đến cảm giác là các
anh cao xạ ở trên kia đang dõi theo từng động tác, cử
chỉ của mình, để rồi tinh thần dũng cảm ở cô như được
kích thích bởi lòng tự trọng đáng khâm phục: "Tôi đến
gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo
mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy
không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng
mà bước tới."
Ở bên quả bom, đối mặt với cái chết cảm giác của cô
như nhạy cảm hơn, sắc bén hơn: "Thỉnh thoảng lưỡi xẻng
chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người,
cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao
mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! vỏ quả bom nóng.
Một dấu hiệu chẳng lành. Tiếp đó là cảm giác căng
thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom, đồng nghĩa với
công việc đã hoàn thành."
Vào chiến trường đã ba năm, đã quá quen với những thử
thách và nguy hiểm, giáp mặt hằng ngày với cái chết,
nhưng Phương Định và đồng đội của cô không mất đi sự
hồn nhiên, trong sáng và những mơ ước vẻ tương lai.
Trong những phút giây yên tĩnh ngắn ngủi, cô thường
tự tạo ra những niềm vui nho nhỏ: Tôi sẽ hát. Thường cứ
thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi
bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi
bò ra mà cười một mình… Tôi thích nhiều bài. Những bài
hành khúc bộ đội hay trên những ngả đường mặt trận.
Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích Ca-
chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ
màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh…”. Đó là dân
ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm… Những
lúc như thế nỗi nhớ Hà Nội lại ùa về, tràn ngập tâm hồn
cô gái, khiến cô bâng khuâng, nuôi tiếc khi cơn mưa rừng
chợt đến, chợt đi: "Nhưng tạnh mất rồi. Tạnh rất nhanh
như khi mưa đến. Sao chóng thế! Tôi bỗng thẫn thờ, tiếc
không nói nổi. Rõ ràng tôi không tiếc những viên đá. Mưa
xong thì tạnh thôi. Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như
mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời
thành phố. Phải, có thể những cái đổ… Hoặc là cây,
hoặc là cái vòm tròn của nhà hát, hoặc bà bán kem đẩy
chiếc xe chở đầy thùng kem, trẻ con háo hức bâu xung
quanh. Con đường nhựa ban đêm, sau cơn mưa mùa hạ
rộng ra, dài ra, lấp loáng ánh đèn trồng như một con
sông nước đen. Những ngọn điện trên quảng trường lung
linh như những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích nói về
những xử sở thẩn tiên. Hoa trong công viên. Những quả
bóng sút vô tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố.
Tiếng rao của bà bán xôi sáng có cái mủng đội trên
đầu…Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái
đó ở thiệt xa… Rồi bỗng chốc, sau một cơn mưa đá,
chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí tôi…"
Tổ trưởng tổ trinh sát mặt đường là chị Thao, một con
người từng trải và chín chắn. Những dự tính về tương lai
của chị có vẻ thiết thực hơn nhưng những khát khao và
rung động của tuổi trẻ vẫn nồng nàn trong tim chị. Chỉ
vài nét phác họa tương phản, tác giả đã vẽ nên chân
dung của chị: Tiếng máy bay trinh sát rè rè. Phản lực
gầm gào lao theo sau… Chị Thao móc bánh bích quy
trong túi, thong thả nhai. Những khi biết rằng cái sắp tới
sẽ không êm ả thì chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực.
Nhưng thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mát lại, mặt tái
mét. Áo lót của chị cái nào căng thêu chữ màu, Chị lại
hay tỉa lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm. Nhưng
trong công việc ai cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo.
Nhân vật thứ ba trong nhóm là Nho, một cô gái nhỏ
nhắn, trông mát mẻ như một que kem trắng, tưởng như
mềm yếu nhưng thực ra rất can đảm, kiên cường. Ngày
ngày, Nho cùng đồng đội phá bom nổ chậm. Có lần, Nho
bị bom vùi và mảnh bom găm vào cánh tay, máu túa ra
rất nhiều, da xanh xao, quần áo đầy bụi. Được đồng đội
cứu kịp thời, Nho cắn răng chịu đau, không khóc. Cả ba
cô gái đều không khóc bởi họ cho rằng: Nước mắt đứa
nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau là bị xem
như bằng chứng của một sự tự nhục mạ.
Cách nhìn nhận và thể hiện con người thiên về cái tốt
đẹp, trong sáng, cao thượng là nét chủ đạo và thống
nhất trong văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tương
tự như vậy nhưng truyện của Lê Minh Khuê không rơi vào
tình trạng minh họa giản đơn vì tác giả đã phát hiện và
miêu tả chân thật đời sống nội tâm với những nét tâm lí
đa dạng, phong phú của từng nhân vật.
Tác giả tỏ ra rất sắc sảo trong việc thể hiện khung
cảnh và không khí sôi sục ở một trọng điểm trên tuyến
đường Trường Sơn bằng một vài nét điển hình. Thành
công hơn cả là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Bằng
cách để cho người đứng ra kể chuyện là cô thanh niên
xung phong Phương Định, tác giả đã phản ánh một cách
tự nhiên và tinh tế tâm trạng của những cô gái ở chiến
trường, luôn đối mặt với cái chết mà vẫn sống hồn nhiên,
lạc quan và không kém phần lãng mạn. Chiến tranh làm
cho họ dày dạn và cứng cỏi hơn, nhưng vẫn không thể
làm mất đi nét hồn nhiên, trong sáng của tuổi trẻ.
Bằng chính những trải nghiệm về cuộc sống nơi
chiến trường cùng sự am hiểu về thế giới tinh thần của
thế hệ trẻ yêu nước đã dâng hiến cả tuổi xuân cho sự
nghiệp giải phóng đất nước, nhà văn Lê Minh Khuê trong
truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" đã dựng lên bức
chân dung giản dị nhưng cũng thật đẹp, thật xúc động
về những cô gái thanh niên xung phong làm việc trên
tuyến đường Trường Sơn xưa, đó là những cô gái trẻ yêu
nước, yêu đời, là những người anh hùng trong chiến đấu
và cũng là những thiếu nữ trẻ trung, hồn nhiên lãng mạn
trong cuộc sống đời thường. Phương Định, Thao, Nho -
những nữ thanh niên xung phong anh hùng ấy là đại diện
tiêu biểu nhất cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng
chiến chống Mĩ.
Sang Thu Hửu Thỉnh

Có lẽ, trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì


mùa thu thường gợi cảm hứng cho thi ca, nhạc họa nhiều
nhất. Ta có thể bắt gặp chùm thơ Thu của Nguyễn
Khuyến, "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư hay "Đây mùa thu
tới" của Xuân Diệu... và cũng viết về đề tài mùa thu, nhà
thơ Hữu Thỉnh với thi phẩm "Sang thu" đã có những cảm
nhận về phút giây giao mùa chuyển từ cuối hạ sang đầu
thu thật mới mẻ, tinh tế, nhẹ nhàng. Bài thơ được sáng
tác năm 1977, in trong tập "Từ chiến hào đến thành phố",
rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ nhỏ nhẹ,
thiết tha, sâu lắng của Hữu Thỉnh.
Bài thơ mở đầu bằng những cảm nhận, những rung
động mập mờ, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp
chuyển đổi của thời khắc thiên nhiên lúc chuyển giao
mùa. Mùa thu trong cảm nhận của Hữu Thỉnh không phải
là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác”
mà là “hương ổi” thân quen nơi vườn mẹ được “gió se”
đánh thức, một mùi hương đặc trưng của mùa thu làng
quê Bắc Bộ Việt Nam. Tất cả hòa quyện lại với nhau gợi
dậy những cảm xúc của tác giả. Mùa thu dần xuất hiện
qua sự quan sát bằng các giác quan tình thế của nhà
thơ.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se.”
Câu thơ cho ta cảm nhận được hương vị ấm nồng
của chớm thu của một trên miền quê nhỏ. Một chút tín
hiệu đầu để tác giả nhận ra “hương ổi” chính là tín hiệu
báo đầu của mùa thu, là sự hoán đổi giữa hai mùa. Mùi
hương quê nhà mộc mạc, bình dị, bất chợt “phả” trong
gió, thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất ngờ chợt
đến để nhà thơ “bỗng nhận ra” thu đã đến rồi – một sự
chờ đợi sẵn từ lâu đến hoàn toàn tự nhiên. Câu thơ
không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc cảm
nhận vẻ đẹp mùa thu bằng tất cả các giác quan: liên
tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị ngọt, giòn,
chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Một nét bút
chấm phá đơn giản nhưng đầy nét gợi hình, gợi tả một
cách giản dị, mộc mạc nhưng vẫn làm nên nét riêng hoàn
toàn đặc sắc trong của mùa thu của trong thơ Hữu
Thỉnh. Hương ổi trong gió đầu mùa se lạnh chính là sứ giả
của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ai vô
tình sẽ không thể nhận ra được. Có thể nói, Hữu Thỉnh đã
có một phát hiện về khúc giao mùa thật tinh tế và đặc
biệt, phát hiện của ông đã tạo nên một hồn thơ xứ sở
đầy nét đặc trưng, thi vị.
Bên cạnh hương ổi nhàn nhạt nhẹ nhàng khúc giao
mùa, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, sương
nhẹ nhàng, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường
thôn:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Dưới ngòi bút tuyệt vời và tài cảm nhận đặc biệt
của Hữu Thỉnh, sương dường như hóa thành một người lữ
hành trên đường đã được nhân hoá qua hai chữ “chùng
chình” không muốn bước, nói lên rất thơ bước đi chầm
chậm lúc, dường như còn bỡ ngỡ trước khoảnh khắc giao
mùa sang thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng
nhận ra” thu về trong sự đột ngột và bất ngờ thì sau khi
cảm nhận được hơi lạnh của sương thu, gió thu, người thi
sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên tiếng lòng tự hỏi: “Hình như thu
đã về”? Tâm hồn của Hữu Thỉnh hoàn toàn có thể nắm
bắt những chuyển biến nhẹ nhàng, mong manh của tạo
vật trong phút giao mùa. Bằng chính tài quan sát của
mình, Hữu Thỉnh đã khắc hoạ thành công những bước đi
nhỏ bé nhẹ nhàng, mong manh nhỏ nhẹ của mùa thu. Thu
đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ nhưng khiến ta cảm nhận
được tâm hồn nhạy cảm của một hồn thơ mang nặng tình
yêu với thiên nhiên và cuộc sống.
Sau phút giao mùa nhẹ nhàng, những dấu hiệu bắt
đầu mùa thu đã trở nên rõ ràng hơn, nhanh hơn. Tác giả
cảm nhận mùa thu bằng cả tâm hồn của mình
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Từ “hương ổi”, “gió se”, “sương”, thiên nhiên trong
giây phút giao mùa đã được cụ thể bằng những hình ảnh
rõ ràng: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, mây “vắt nửa
mình sang thu”. Cảm xúc của tác giả lan tỏa trong không
gian rộng hơn, nhiều cung bậc cảm xúc hơn. Từ không
gian nhỏ bé như con ngõ nhỏ đã lan tỏa ra tới bầu trời,
một không gian bao la rộng lớn không gì có thể đo đếm
được. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả đã tạo dựng
nên linh hồn cho cảnh vật. Dòng sông êm đềm, nhẹ nhàng
trôi sau những cơn mưa mùa hạ như trút nước. Giờ đây,
nó lại “dềnh dàng”, chậm chạp, khoan thai chảy trong
không gian bức tranh tuyệt đẹp của mùa thu. Sông giống
như tâm trạng của con người, dường như đang sống
“chậm” lại, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời. Trái
ngược với “dềnh dàng” của dòng sông, những cánh chim
di trú lại bắt đầu ‘vội vã” đầy lo lắng trước khoảnh khắc
giao mùa. Với nghệ thuật tương phản đặc sắc, Hữu Thỉnh
đã gợi lên bức tranh thu đầy sinh động: nhẹ nhàng, lãng
mạn nhưng không kém phần hối hả, vội vã. Thông qua bức
tranh ấy, ông muốn gợi lên sự chuyển mình của đất nước
ta. Một đất nước vừa trải qua mưa bom lửa đạn, giành
được độc lập và đang bắt đầu xây dựng đất nước trong
không khí vui tươi, rộn ràng.
Với động từ “vắt”, bầu trời lúc giao mùa bỗng trong
cảm nhận của thi sĩ trở nên đặc biệt hơn:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Đám mây bé nhỏ dường như trải dài hơn, trôi lững lờ
trong bầu trời xanh ngắt, cao rộng. Dường như nó vẫn
còn vương vấn ánh nắng ấm áp của mùa hạ nên chỉ “vắt
nửa mình sang thu”. Nó đã tạo nên một lằn ranh giới
mỏng manh, hư ảo. Có lẽ, thực tế sẽ không thể nào có
áng mây bé nhỏ nào như thế. Đó chỉ là sự liên tưởng đầy
thú vị của thi sĩ. Tất cả góp phần tạo nên một thời khắc
giao mùa đầy chất thơ, tinh tế và nhạy cảm, độc đáo
nhưng bâng khuâng trong không gian êm dịu của mùa thu.
Dòng sông, đám mây, cánh chim đều được nhân hoá rõ
nét khiến cho bức tranh thu hữu tình của Hữu Thỉnh trở
nên thi vị hơn. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm hồn
nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết và trí tưởng tượng
bay bổng độc đáo của nhà thơ.
Hai khổ thơ đầu là những tín hiệu và hình ảnh lúc
chớm thu. Khổ thơ cuối chính là lúc tác giả chiêm niệm
về cuộc sống con người, chiêm niệm về cuộc đời.
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
“Nắng – mưa” hai hiện tượng thiên nhiên hay đến
rồi đi bất chợt của mùa hạ. Giờ đây chỉ còn “bao nhiêu
nắng” và đã “vơi dần cơn mưa” – một dấu hiệu chuyển
mình nhẹ nhàng sang thu. Nắng vẫn còn đó nhưng đã nhẹ
nhàng hơn, không còn gay gắt mà mang sự dịu nhẹ của
mùa thu. Mưa ít đi, với dần và nhẹ nhàng hơn, không còn
dồn dập và mạnh mẽ như khi vào hạ. Hai chữ “bao nhiêu”
thường chỉ sự đong đếm, thế nhưng nắng sao có thể
đong? Mưa đã “vơi” nhưng có ai biết là đã ít đi như thế
nào? Cách nói đầy mơ hồ nhưng lại thể hiện rõ sự hoà
nhịp đầy sâu lắng của tác giả với thiên nhiên. Chỉ có thể
hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên bằng
tâm hồn tinh tế và đồng điệu mới có thể nhận ra được
điều đó.
Với cách sử dụng ẩn dụ đầy nghệ thuật, hai câu
thơ cuối đã xây dựng nên hình ảnh “sấm” và “hàng cây”
thật đặc sắc.
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Cuối hạ - đầu thu. “Sấm” lúc này không còn kêu
vang rộn rã như khi vào hạ mà đã bắt đầu giảm dần mức
độ xuất hiện của mình qua sự quan sát của tác giả.
Giọng thơ bắt đầu trầm lắng, hình ảnh “hàng cây đứng
tuổi” đứng lặng im suy ngẫm, chiêm nghiệm cuộc đời để
lại bao suy nghĩ trong lòng người đọc. Hàng cây ấy như
đang suy nghĩ về cuộc đời, về những chuyển biến của
thời đại. Có phải chăng, mùa thu của Hữu Thỉnh không
còn là mùa thu nhẹ nhàng, êm dịu. Đây còn là mùa thu
của đời người, mùa thu của sự khép lại những tháng ngày
sôi nổi của tuổi trẻ. Từ đó mở ra một mùa thu mới, mùa
thu yên tĩnh, trầm lắng trước biến động của đất nước và
cuộc đời con người.
Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá
vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc... Và ta ngỡ như
chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu.
Nhưng đến với "Sang thu" của Hữu Thỉnh, người đọc chợt
nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông,
một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế
cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt
Nam và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của
"Sang thu". Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh
thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. Có một cái gì thật êm,
dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng
thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến
những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu
thơ của Hữu Thỉnh.

You might also like