You are on page 1of 8

The PEA Organization

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ


- Huy Cận -

I. TÁC GIẢ

1. Cuộc đời
- Huy Cận (1919 - 2005), tên thật là Cù Huy Cận, xã Ân Phú, huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Sinh ra
trong gia đình có truyền thống văn chương.
- Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại
Việt nam thế kỉ XX. Ông sớm nổi tiếng trong Phong trào Thơ Mới với tập
thơ “Lửa Thiêng”.
- Sau Cách mạng Tháng 8, Huy Cận giữ nhiều trọng trách trong Đảng và
chính quyền cách mạng, tiếp tục bền bỉ sáng tác.

2. Sự nghiệp, phong cách sáng tác


- Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang một phong cách đặc biệt và có một
điểm chung là hàm súc, triết lý, mang dấu ấn thơ Đường và chịu nhiều
ảnh hưởng của văn học Pháp.
- Phong cách sáng tác của nhà thơ Huy Cận có sự chuyển biến rõ rệt qua
hai giai đoạn:
+ Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945: thơ Huy Cận mang một
nỗi buồn da diết, thiên nhiên thì bao la, hiu quạnh (điển hình là tập thơ
"Lửa thiêng"). Cảm hứng chính trong thơ ông là nỗi buồn cô liêu, nỗi sầu
nhân thế. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình nhưng xét đến cùng,
chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước.
+ Giai đoạn sau tháng 8 năm 1945: thơ Huy Cận đã lột xác hoàn toàn, trở
nên mới mẻ và tràn đầy sức sống. Có thể thấy rằng các sáng tác của Huy
Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại. Huy Cận chủ yếu là hô
hào, ngợi ca cuộc sống mới, con người mới. Một số tập thơ tiêu biểu: Trời
mỗi ngày lại sáng, Chiến trường gần đến chiến trường xa, Đất nở hoa,
Bài thơ cuộc đời, Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi), Họp mặt thiếu niên anh
hùng, Những người mẹ, những người vợ, Ngày hằng sống ngày hằng thơ,
Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo, những năm sáu mươi.

Thùy VK29, Tường Vy VK31


The PEA Organization

- Ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, tặng
Huân chương Sao Vàng, được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế
giới,...

II. TÁC PHẨM

1. Hoàn cảnh ra đời


- Bài thơ được viết vào năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống pháp kết
thúc, miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Huy Cận có chuyến đi
thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn
thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về
thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống.
- Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được sáng tác trong thời gian ấy và in
trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).

2. Bố cục: 3 phần
- Phần 1 (hai khổ đầu): Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn
buông xuống.
- Phần 2 (bốn khổ tiếp): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một
đêm trăng rất đẹp.
- Phần 3 (khổ cuối): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã
rạng ngời trên biển.

3. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề gợi lên hình ảnh trung tâm trong bài thơ là đoàn thuyền đánh cá.
“Đoàn thuyền” - không chỉ một con thuyền mà là rất nhiều con thuyền
cùng nhau ra khơi, để làm công việc lao động quen thuộc với cuộc sống
của họ “đánh cá”. Qua hình ảnh này, nhà thơ muốn ca ngợi sự đoàn kết
của nhân dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời ca
ngợi vẻ đẹp trù phú của thiên nhiên Việt Nam, cũng như bộc lộ tình yêu
sâu đậm với quê hương, đất nước.

4. Giá trị nội dung


- Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân
miền biển, khắc họa không khí hứng khởi, tươi vui của nhân dân miền
Bắc trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Thùy VK29, Tường Vy VK31


The PEA Organization

- Bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên
đất nước giàu đẹp, niềm tin vào Cách mạng, vào tương lai tươi sáng.

5. Giá trị nghệ thuật


- Xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú.
- Âm hưởng thơ khỏe khoắn, hào hùng với giọng ngợi ca, tự hào.
- Sử dụng các biện pháp nghệ thuật độc đáo như ẩn dụ, so sánh, nhân
hóa…, ngôn ngữ tinh luyện, cô đọng, hàm súc.

6. Phân tích chi tiết

6.1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa,


Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,


Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
a. Khổ 1
- Nếu như đoàn thuyền của Tế Hanh ra khơi trong sắc hồng bao la của bình
minh:
“ Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”
thì đoàn thuyền của Huy Cận lại ra khơi khi hoàng hôn buông xuống lúc
mà cả bầu trời sáng dần nhường bóng tối cho cả vũ trụ.
- Trong hai câu thơ đầu, nhà thơ sử dụng phép so sánh độc đáo: “mặt trời
xuống biển” như “hòn lửa” -> khắc họa màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn
đầy của mặt trời.
➔ Đoàn thuyền đánh cá được chấp bút bằng cả hứng lãng mạn tràn đầy tạo
nên những hình ảnh thơ tráng lệ. Với phép so sánh, mặt nước biển rực lên
với muôn vàn tia sáng lung linh, cảnh hoàng hôn trở nên tráng lệ hơn bao
giờ hết.
+ Hình ảnh vũ trụ trong bài thơ được gợi lên như ngôi nhà lớn với màn đêm
là cánh cửa còn sóng biển là then cài. -> Vũ trụ đang bước vào trạng thái

Thùy VK29, Tường Vy VK31


The PEA Organization

nghỉ ngơi gợi sự bình yên, con người ra khơi, đi vào biển sâu mà như
chính đang trở về ngôi nhà của mình.
- Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
+ Hình ảnh người ngư dân gắn liền với tập thể - “Đoàn thuyền”.
+ Từ “lại” cho thấy đó là một công việc thường xuyên, quen thuộc, là nhịp
sống hằng ngày của những con người nơi đây.
- Phép ẩn dụ “câu hát căng buồm” -> câu hát cũng như có sức mạnh góp
gió căng buồm đẩy con thuyền ra khơi, thể hiện sự khỏe khoắn, mạnh mẽ
của người ngư dân. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới
đi lên của công cuộc dựng xây đất nước
⇒ Con người với khí thế phơi phới và niềm vui đang đi vào hành trình
chinh phục biển khơi. Nhà thơ như đang vẽ lên một bức tranh sơn mài kỳ vĩ
khắc họa hình ảnh đoàn thuyền hoà vào trong màn đêm đang buông xuống của
biển khơi, đầy đẹp đẽ, hiên ngang.

b. Khổ 2
- Khúc tráng ca đoàn thuyền đánh cá không chỉ được cất lên ở khoảnh khắc
nhổ neo giăng buồm mà còn ngân vang suốt dọc hành trình dài ra biển
khơi vô tận. Đó là tiếng hát hân hoan say sưa ca ngợi sự giàu đẹp của
biển khơi.
- “Cá bạc, cá thu”: những loài cá ngon, quý hiếm, gợi sự giàu có phong phú
của biển.
- Biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa “Cá thu biển đông như đoàn thoi/
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” miêu tả từng đàn cá lao trên mặt
biển như đoàn thoi, mang ánh sáng lấp lánh dệt muôn luồng sáng trên tấm
thảm biển. Câu thơ giàu tính tạo hình, gợi sự chuyển động trong không
gian.
- “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”: vừa là lời kêu gọi, vừa là niềm mong ước
đánh được nhiều cá, xen lẫn vào đó sự lạc quan tươi vui và tự hào về biển
của những người dân chài. -> Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc
nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh
phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
➔ Câu hát thể hiện mong ước bội thu và sự tự hào về sự giàu có của biển
cả.
=> Hai khổ thơ đầu khắc họa hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi với niềm
say mê, lạc quan, đầy hy vọng.

6.2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp.

Thùy VK29, Tường Vy VK31


The PEA Organization

Thuyền ta lái gió với buồm trăng


Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,


Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,


Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng


Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
a. Khổ 3: Người dân ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao
- Biện pháp nghệ thuật phóng đại “Lướt giữa mây cao với biển bằng” kết
hợp với nghệ thuật ẩn dụ “lái gió buồm trăng”-> đoàn thuyền đánh cá
sánh ngang tầm vũ trụ, hòa mình vào không gian mênh mông của biển
khơi, thiên nhiên hòa hợp, cùng con người lao động, qua đó gợi lên tâm
thế tự tin, kiêu hãnh, làm chủ biển khơi của người ngư dân. Vì thế con
thuyền không còn nhỏ bé đơn côi như trong thơ của Nguyễn Khuyến:
“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền con bé tẻo teo”
- Nhà thơ nâng niu, tôn trọng gọi là “thuyền ta”, con thuyền của ta của
miền Bắc yêu thương mang theo những khát vọng, hoài bão lớn lao đi ra
với biển đêm. Thuyền đi xé sóng ra khơi, mang theo những niềm tin và
khát vọng hoài bão tràn ngập không gian đánh thức biển đêm.
- Cảnh đánh cá trong đêm dược nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm
hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào công
việc, vào con người. Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển
bằng phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực.
Nhà thơ khắc họa chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh,

Thùy VK29, Tường Vy VK31


The PEA Organization

cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa
lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để đem đến thành quả cuối cùng là
những con thuyền đầy ắp cá.
=> Sự kết hợp giữa hiện thực (đoàn thuyền) với chất lãng mạn (thuyền lái gió,
trăng treo trên cánh buồm) tạo nên những vần thơ đẹp và sâu sắc, gợi nhiều
liên tưởng cho người đọc.
b. Khổ 4: Cảnh biển đẹp trong đêm
- Nhà thơ đã liệt kê những loài cá quý của biển: cá nhụ, cá chim, cá đé ->
sự phong phú và quý giá của biển.
- "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng": Hình ảnh so sánh “đuôi cá” với “ngọn
đuốc” là một hình ảnh so sánh thú vị, giàu liên tưởng. Nó làm tăng lên vẻ
đẹp lung linh, huyền ảo của biển khơi về đêm.
- Biển không chỉ đẹp mà còn rực sáng với hình ảnh đàn cá. Nhà thơ Xuân
Diệu cũng từng nhận xét rằng: “ Đoàn thuyền của Huy Cận đẹp như một
bức tranh sơn mài”, bức tranh sơn mài ấy có lẽ là hình ảnh đàn cá. Với
phép liệt kê, so sánh và các tính từ chỉ màu sắc “vàng chóe”, “đen hồng”
bức tranh sơn mài biển đêm được tô điểm bởi những màu sắc tương phản,
huyền ảo, lung linh và đẹp một cách kì lạ.
- Hình ảnh “Cái đuôi em quẫy” kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc làm cho
lời thơ thêm sinh động. Nhà thơ gọi cá bằng một cách gọi rất dịu dàng
-“em” ẩn chứa sự yêu mến với cá và biển cả quê hương.
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”: Đây là một liên tưởng hết sức độc đáo.
Với phép nhân hóa "đêm thở", nhà thơ đã biến đêm trở thành một sinh thể
có hồn mà hơi thở là sao lùa nước Hạ Long.
⇒ Thiên nhiên trên biển đêm thực sự rực rỡ, lấp lánh sắc màu. Qua đó ta thấy
được tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu biển cả, quê hương của những người lao
động.

c. Khổ 5: Tinh thần lao động hăng say và lòng biết ơn biển.
- “Ta hát bài ca gọi cá vào”: công việc đánh cá tưởng chừng nặng nhọc
nhưng qua đôi mắt của nhà thơ, đó trở thành những bài ca vui tươi. -> Bút
pháp lãng mạn giúp cho công việc đánh cá đêm trở nên thơ mộng, đẹp đẽ.
- "Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào" ->.Khi cá nặng
lưới đầy thì cũng là lúc mà những người ngư dân nói lời cảm tạ đến mẹ
biển. Biển đối với ngư dân như người mẹ bao dung, hiền hậu, nuôi sống
những đứa con từ bao đời nay.

Thùy VK29, Tường Vy VK31


The PEA Organization

- Nghệ thuật so sánh đặc sắc đã gợi hình ảnh của biển cả như bóng hình
người mẹ. Không có gì thiêng liêng, ấm áp hơn tình mẹ, không có gì sắc
sắc hơn nghĩa mẹ. Mẹ biển muôn đời nay cho ta cá, tôm cho ta một cuộc
đời no đủ. Nhà thơ Tế Hanh cũng đã từng viết rằng:
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon, thân bạc trắng”
d. Khổ 6: Cảnh thu hoạch cá.
- "Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng": người dân thu hoạch cá vào lúc trời đã
gần sáng. Có thể thấy thời gian trong bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ:
Từ lúc hoàng hôn buông xuống, trời biển vào đêm đến lúc mặt trời đội
biển nhô lên, một ngày mới bắt đầu. Thời gian có sự vận động từ bóng tối
ra ánh sáng, khắc họa niềm tin vào tương lai của những con người đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”: Những cánh tay săn chắc, cuồn cuộn, tư
thế hiên ngang, làn da nhuộm nắng gió, nhuộm cả vị mặn mòi của biển cả
thể hiện sức mạnh của người ngư dân. "Chùm cá nặng" cho thấy một đêm
lao động thành công với những thành quả đáng quý. -> Bút pháp lãng
mạn được sử dụng làm nổi bật vẻ thơ mộng khi đã kết thúc công việc
đánh cá đêm.
- "Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng": Huy Cận đã vẽ ra một bức tranh
nhiều màu sắc, sống động khắc họa thành quả lao động của người ngư
dân. Màu bạc của vảy cá, màu vàng chóe của đuôi, màu hồng của nắng,
tất cả gợi nên sự sống động vui tươi, niềm say mê và tự hào trước thành
quả lao động, qua đó ẩn dụ niềm tin vào tương lai, vào công cuộc xây
dựng đất nước.

6.3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên
biển
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- “Câu hát căng buồm với gió khơi”: câu hát của người dân chài lại một lần
nữa được cất lên, thể kiện khí thế oai hùng của những người lao động.
- “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”: Đoàn thuyền lướt sóng trở về như
đua cùng thời gian để nhanh chóng trở về bến cảng. Hình ảnh đoàn
thuyền, con người giờ đây sánh ngang với mặt trời, vũ trụ.

Thùy VK29, Tường Vy VK31


The PEA Organization

- “Mặt trời đội biển nhô màu mới”: niềm hy vọng, ngợi ca cuộc sống mới
tươi đẹp, được làm chủ cuộc sống của mình.
- "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi": đôi mắt của từng con cá dưới làn
nước biển hay của những con cá trên thuyền của ngư dân phản chiếu ánh
mặt trời, tạo nên hàng ngàn đốm sáng nhỏ tạo nên một cảnh tượng kì vĩ,
tráng lệ.
- Bài thơ khép lại bằng một trong những bức tranh sơn mài lộng lẫy nhất,
hoành tráng nhất: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Thuyền trở về, cá
nặng khoang đầy, là thành quả của chuyến đánh bắt xa bờ. Mắt cá sáng
trong phản quang với mặt trời tạo nên sự cộng hưởng của ánh sáng trải
dài trên muôn dặm biển. Ánh sáng này là thành quả của lao động, của đôi
bàn tay, khối óc của con người. Vì thế mà người ta vẫn thường nói “Lao
động là vinh quang”
⇒ Vẻ đẹp của con người, thiên nhiên hòa hợp nhuần nhuyễn thành vẻ đẹp
thực sự tráng lệ.

III. TỔNG KẾT


- Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống
tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn
thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Bài thơ đã dựng được không khí lao
động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp, của miền Bắc trong thời gian
đầu bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Bài thơ có giá trị nghệ thuật độc đáo: hình ảnh thơ đẹp, xây dựng bằng
sự liên tưởng phong phú, âm hưởng mạnh mẽ, bút pháp lãng mạn xen
hiện thực.

-END-

Thùy VK29, Tường Vy VK31

You might also like