You are on page 1of 47

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

-Huy Cận-
BÀI 1. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
Huy Cận (1919-2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê: tỉnh Hà Tĩnh.
Là nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940).
Là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945:
+ Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn
ngập cái sầu nhân thế.
+ Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu
thiên nhiên, con người và cuộc sống.
1996, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật.
Tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (1940); Vũ trụ ca (1942); Trời mỗi ngày lại sáng
(1958); Đất nở hoa (1960); Bài thơ cuộc đời (1963); Hai bàn tay em (1967)…
2.Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc
thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới.
Niềm
vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở
thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất
xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường…Huy
Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của
ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động
và niềm vui trước cuộc sống mới.
– Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời
mỗi ngày lại sáng” (1958).
b. Bố cục: 3 phần
Bài thơ có 7 khổ, được kết cấu theo sự vận động của thời gian và hành trình của một
chuyến ra khơi đánh cá:
Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống.
Bốn khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp.
Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển. c.
Cảm hứng chủ đạo:
Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm
hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự
thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh
trong bài. Về kết cấu, thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ (từ lúc hoàng
hôn đến lúc bình minh) cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá (từ lúc ra
khơi đến khi trở về). Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời,
biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.
d. Chủ đề tư tưởng: Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân
vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển
khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải
phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước: Tập làm chủ, tập làm
người xây dựng. Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!
B. CÁC KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống (Khúc hát ra khơi)
– Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then,đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
- Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai
câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền
để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh - bức tranh lao động
khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.
* Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá
ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
+ Nếu chỉ căn cứ vào thực tế sẽ thấy câu thơ có vẻ vô lí, bởi trên vịnh Hạ Long- ở hướng
Đông, không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có thấy mặt trời mọc được
thôi. Vậy thì ở đây, khi viết “Mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ đã lấy điểm nhìn từ trên
con thuyền đang ra khơi, giữa biển khơi nhìn về hướng Tây nơi bờ bãi. Lúc đó, xung
quanh con thuyền chỉ là mênh mông sóng nước, mặt trời chỉ còn cách lặn xuống biển.
Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt. Nó như hòn lửa – một
quả cầu lửa– đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả bao la như nồng
ấm hẳn lên. -> Phép tu từ so sánh: mặt trời được ví với hòn lửa đem đến cho bức bức
tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp chứ không hiu hắt, ảm đạm như
trong thơ cổ.
+ Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa” -> người đọc cảm nhận thiên
nhiên, vũ trụ, biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây
như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang
buông xuống là cánh cửa. -> Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi
với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Có
thể nói, hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ
Huy Cận.
* Thiên nhiên vũ trụ là cái phông, cái nền cho con người xuất hiện:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
+ Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những
người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm.
+ Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng
nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt
động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư
dân vùng biển.
+ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương.
Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật
khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả…
– Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra
khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp
Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên
biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc
đời, làm chủ biển trời quê hương.
Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa
hoành tráng, vừa thơ mộng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
+ Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ mang tầm
vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa mây cao với
biển bằng, giữa mây trời và sóng nước.
+ Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời
trong tư thế làm chủ. Hình ảnh con người đã hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên
nhiên vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm – ra tận khơi xa dò bụng
biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng.
 Đoàn thuyền đánh cá băng băng lướt sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao động
trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc
với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới.
– Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối
với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
- Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu
sắc “đen hồng”,”vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh
sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá
là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen
hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng
biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển
cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong
thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng
đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ – những người
ngư dân này – cá là bạn, là
“em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm
mĩ cho thi ca.
+ Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh.Nhìn bầy cá bơi lội, nhà
thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ long”
- Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng
sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại
viết “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào
mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp
tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ
trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận
được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của
những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh
lãng mạn trên.
– Bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên những hình
ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm
vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
+ “Gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá, nhưng cái độc đáo ở đây là vầng
trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người.
+ Người dân chài hát bài ca gọi cá, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có, nhân hậu.
– Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới, bắt
cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
- Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo
lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe
cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình minh làm
ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận
hành của vũ trụ.
3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển. (Khúc
hát trở về).
Đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ.
Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có
một từ (từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối. Cấu trúc
lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê
hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư
dân.
Phép tu từ nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”cho thấy tư thế chủ động
chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân. Đúng như lời bình của chính tác giả: “Bài
thơ là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng”.
Nếu khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì ở khổ cuối lại là mặt trời
đội biển – là ngày mới bắt đầu – ngày mới với thành quả lao động bội thu và niềm tin yêu
phấn chấn.
Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương
lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt đầu – thành
quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…
4. Tổng kết
a.Nội dung: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể
hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của
nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
b.Nghệ thuật:
- Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng
phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.
BÀI 2. CÁC DẠNG ĐỀ ĐỌC
Đề số 1 HIỂU
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
1.Nêu các phương thức biểu đạt trong đoạn thơ trên?
2.Biển nước ta ở phía đông, ta chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển, tại sao Huy Cận lại
viết “mặt trời xuống biển”? Cách viết đó tưởng như vô lí, nhưng lại có lí ở chỗ nào?
3.Chỉ ra và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ trong 2 câu thơ ở đầu đoạn trên
bằng 1 đoạn văn từ 8 đến 10 câu. Trong đoạn văn có sử dụng thành phần phụ chú và một
câu bị động.
* Gợi ý giải
1. Các phương thức biểu đạt: miêu tả, tự sự
2.Cách viết đó tưởng như vô lí nhưng lại có lí ở điểm nhìn của tác giả đang ở trên thuyền
ngoài khơi xa hoặc trên một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía Tây sẽ thấy cảnh
mặt trời lặn xuống biển.
3.Đoạn văn cần đảm bảo các ý sau:
-So sánh “mặt trời…hòn lửa” làm nổi bật vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ của cảnh biển lúc hoàng
hôn.
-Ẩn dụ “sóng…cửa” tạo nên liên tưởng thật đẹp, vũ trụ như 1 ngôi nhà lớn với màn đêm
buông xuống, là tấm cửa khổng lồ có những lượn sóng là then cửa.
-Nhân hóa “sóng…cửa” làm cho cảnh thiên nhiên thật sinh động. Cảnh biển lúc hoàng
hôn vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Đề số 2
Cho câu thơ sau:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng”
1.Chép chính xác ba câu thơ tiếp theo. Dựa vào trình tự ra khơi của đoàn thuyền thì khổ
thơ vừa chép mang nội dung gì?
2.Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong câu thơ “Thuyền ta lái gió với
buồm trăng”? Các biện pháp nghệ thuật đó đã góp phần khắc họa vẻ đẹp nào của những
người ngư dân?
3.Viết đoạn văn cảm nhận về khổ thơ vừa chép?
* Gợi ý giải
1. Chép chính xác ba câu thơ tiếp để thành khổ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
- Nêu nội dung: Đoạn thơ đã khắc họa hình ảnh đoàn thuyền đánh cá giữa biển đêm hùng
tráng và thơ mộng.
2. Câu thơ “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”:
-Biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, nói quá qua từ “lái”.
-Tác dụng: Góp phần khắc hoạ vẻ đẹp người ngư dân về:
+ Tư thế: Lớn lao, kì vĩ ngang tầm thiên nhiên, vũ trụ.
+ Tâm hồn: phóng khoáng, lãng mạn.
3. Tham khảo:
Đoạn thơ phần giữa của tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” nổi bật với vẻ đẹp tráng lệ
của biển khơi và vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của đoàn thuyền, của con người trong lao
động. Tất cả được viết lên bằng trí tưởng tượng mãnh liệt, bằng niềm hứng khởi bay
bổng và bút pháp tạo hình đầy sáng tạo. Đầu tiên là hình ảnh đoàn thuyền lướt nhanh
giữa trời cao biển rộng có cái lân lân, sảng khoái lạ thường: Thuyền ta lái gió với buồm
trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển trời
bao la, đã trở thành con thuyền kì vĩ, lớn lao mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm lái,
có trăng làm buồm, lướt giữa mây cao và biển bằng, giữa mây trời và sóng nước với tất
cả sức mạnh chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh này thể hiện rất rõ sự
thay đổi trong cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận trước và sau cách mạng. Chủ nhân con
thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế, tầm
vóc làm chủ cuộc đời.
Con người đã chủ động, mạnh mẽ hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ
trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm: ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm
luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng. Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao
động biến công việc nặng nhọc trên biển thành một cuộc chiến đấu đầy hăm hở, với khí
thế đua tranh. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái nghỉ ngơi, thư
giãn “mặt trời xuống biển”,”sóng đã cài then”,”đêm sập cửa” thì ở đây, con người đã
đánh thức thiên nhiên, khiến thiên nhiên dường như bừng tỉnh, như cùng hòa vào niềm
vui trong lao động. Có thể nói, lòng tin yêu thiên nhiên, con người và cảm hứng lãng
mạn bay bổng đã giúp nhà thơ xây dựng được một hình ảnh thơ tuyệt đẹp, vừa hoành
tráng, lại vừa thơ mộng.
Đề số 3
Cho câu thơ sau:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.”
1.Chép tiếp các câu thơ để được hai khổ thơ đầu tiên của bài ‘Đoàn thuyền đánh cá” của
Huy Cận
2.Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
3.Em hiểu như thế nào về hình ảnh thơ: Sóng đã cài then đêm sập cửa?
4.Bài thơ có bao nhiêu từ “hát”? Có thể coi bài thơ là một khúc ca, vậy đó là khúc ca gì?
5.Viết đoạn văn từ 10 đến 15 câu nêu cảm nhận về hai khổ thơ vừa chép?
* Gợi ý giải
1. Chép tiếp thơ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,


Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
2. Nhan đề bài thơ ngắn gọn, hàm chứa được hai thông báo quan trọng nhất:
-Hình ảnh đoàn thuyền hiện lên trên biển với công việc cụ thể: đánh cá gợi nên một
không khí lao động tập thể, háo hức niềm vui, chứ không lẻ loi đơn chiếc.
-Nhan đề sử dụng phép hoán dụ: Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá là biểu tượng hình ảnh
người dân lao động hăng say với công việc đánh cá trên biển.
 Nhan đề thể hiện sự hăng say, niềm vui trong lao động và vẻ đẹp của người dân chài.
3. Hình ảnh “sóng cài then, đêm sập cửa” là một sự sáng tạo của nhà thơ gợi cho ta nhiều
liên tưởng thú vị thông qua hai biện pháp ẩn dụ và nhân hóa. Vũ trụ giờ đây như một
ngôi nhà khổng lồ, những lượn sóng là chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống
là cánh cửa. Những từ (xuống, cài, sập) cùng hai từ (lửa, cửa) nối liền nhau tạo cảm giác
về sự vận động của thời gian lúc này nhanh hơn, gấp gáp hơn. Không gian, vũ trụ như đi
vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn.
4.Trong bài thơ có bốn từ “hát”. Có thể coi cả bài thơ là một khúc ca, đó là khúc tráng ca
của người dân lao động với tinh thần làm chủ, niềm vui phơi phới và hành trình của câu
hát cũng là hành trình ra khơi đánh cá rồi trở về  Khúc ca lao động đầy sức sống.
5.Tham khảo:
“Đoàn thuyền đánh cá” là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn,
tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới
và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của
hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như
những bức tranh sơn mài của bài thơ. Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một
khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp: Mặt trời xuống biển như ngọn lửa./ Sóng đã cài then
đêm sập cửa. Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được
ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống
mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then
cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao
động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu: Đoàn
thuyền đánh cá lại ra khơi,/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Khi vị chủ nhân thứ nhất
của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài
của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân
chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống
của thiên nhiên như ngưng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó.
Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển
đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng
buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khỏe khoắn
của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu
hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn
trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức
tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên
tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện
khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài. Không chỉ hát khi ra khơi mà những con
người lao động luôn cất tiếng hát hòa cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong
ước, là niềm tin thu hoạch: Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,/ Cá thu biển Đông như
đoàn thoi. Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn
và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng
từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là
sự liên tưởng độc đáo, là kết quả của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm
xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của
người ngư dân, biển thật giàu có: Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng./ Đến dệt lưới ta,
đoàn cá ơi! Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ
mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên
những khúc ca hoành tráng của người lao động.

Đề số 4
Cho câu thơ sau:
“Ta hát bài ca gọi cá vào”
1.Chép tiếp chính xác 7 câu tiếp để hoàn chỉnh đoạn thơ
2.Chỉ ra và nêu ý nghĩa của việc sử dụng các từ ngữ thuộc trường từ vựng màu sắc ở
trong đoạn thơ?
3.Viết đoạn văn khoảng 13 đến 17 câu để làm rõ: “Đoàn thuyền đánh cá không chỉ là một
bức tranh sơn mài lộng lẫy vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là một bài ca ca ngợi vẻ đẹp
của con người lao động”. Trong đoạn văn có sử dụng một câu phủ định và 1 thành phần
biệt lập tình thái.
* Gợi ý giải
1.Chép tiếp đoạn thơ:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,


Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
2.Trường từ vựng màu sắc trong đoạn thơ gồm: vàng, bạc, hồng.
- Đó không chỉ là màu sắc của những con cá mà còn là lời ca ngợi giàu có của biển khơi,
là niềm vui của người lao động. Màu sắc “hồng” không chỉ tả thực về ánh sáng của ngày
mới mà còn là cuộc đời mới của người lao động.
3. Tham khảo đoạn văn sau:
Huy Cận là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Trước
Cách mạng tháng Tám, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn ngợp của con
người khi nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ bao la rộng lớn. Nhưng dưới sự chiếu
rọi của ánh sáng Cách mạng, đất nước hồi sinh, hồn thơ Huy Cận như sống lại và có
nhiều chuyển biến. Thơ ông không còn u sầu, ảo não nữa. Giờ đây, hồn thơ Huy Cận chỉ
luôn chứa niềm vui, niềm tin yêu vào cuộc sống, vào những con người mới. Năm 1958,
sau một chuyến đi khảo sát thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được sống và
chứng kiến không khí lao động hăng say, khẩn trương sôi nổi của nhân dân trong những
ngày xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhà thơ vô cùng mừng vui, xúc động. Từ
đó ông sáng tác nên bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" như một bản hùng ca ca ngợi cuộc
sống mới, thiên nhiên đất nước con người bao la rộng lớn, nên thơ tươi đẹp. Bài thơ có
hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về
thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống
nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài.
Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời, biển, trăng, sao, sóng,
gió; cũng là không gian của cảnh lao động: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa
mây cao với biển bằng,/ Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Và cứ thế, những chuyến ra khơi
với “buồm trăng” vẫn luôn đều đặn mỗi ngày theo nhịp quay của thời gian: Đoàn thuyền
đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Thậm chí đến cuối bài, dường
như khúc ca về thiên nhiên đã hết nhưng khúc ca lao động vẫn còn được người dân làng
chài hát hăng say không ngừng nghỉ: “Câu hát căng buồm với gió khơi,/ Đoàn thuyền
chạy đua cùng mặt trời./ Mặt trời đội biển nhô màu mới,/ Mắt cá huy hoàng muôn dặm
phơi.”. Như vậy, chúng ta thấy thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người
ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của
biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được
giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.
* Chú giải
-Câu phủ định: Thơ ông không còn u sầu, ảo não nữa.
-Thành phần biệt lập tình thái: Thậm chí đến cuối bài, dường như khúc ca về thiên nhiên
đã hết nhưng khúc ca lao động vẫn còn được người dân làng chài hát hăng say không
ngừng nghỉ
BÀI 3. CÁC DẠNG ĐỀ VIẾT TẬP LÀM
VĂN
I.VẺ ĐẸP VÀ SỨC MẠNH CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRƯỚC THIÊN NHIÊN -
VŨ TRỤ TRONG BÀI THƠ “ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ” CỦA HUY CẬN.
1. Mở bài:
-Nêu những nét chính về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
-Bài thơ đã khắc họa được vẻ đẹp và sức mạnh của người lao động trước thiên nhiên- vũ
trụ kỳ vĩ.
2. Thân bài
a. Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ: đẹp, rộng lớn, lộng lẫy.
-Cảm hứng vũ trụ đã mang đến cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên hoành tráng.
-Cảnh hoàng hôn trên biển và cảnh bình minh được đặt ở vị trí mở đầu, kết thúc bài thơ
vẽ ra không gian rộng lớn mà thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ.
-Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi: không phải là con thuyền mà là đoàn thuyền tấp nập.
 Con thuyền không nhỏ bé mà kì vĩ, hoà nhập với thiên nhiên, vũ trụ.
-Vẻ đẹp rực rỡ của các loại cá, sự giàu có của biển cả. Trí tưởng tượng của nhà thơ đã
chắp cánh cho hiện thực, làm giàu thêm, đẹp thêm vẻ đẹp của biển khơi.
b. Người lao động giữa thiên nhiên cao đẹp.
-Con người không nhỏ bé trước thiên nhiên mà ngược lại, đầy sức mạnh và hoà hợp với
thiên nhiên.
-Con người ra khơi với niềm vui trong câu hát.
-Con người ra khơi với ước mơ trong công việc.
-Con người cảm nhận được vẻ đẹp của biển, biết ơn biển
-Người lao động vất vả nhưng tìm thấy niềm vui, phấn khởi trước thắng lợi.

3. Kết bài:
-Hình ảnh người lao động được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn cho thấy niềm vui phơi
phới của họ trong cuộc sống mới.
-Thiên nhiên và con người phóng khoáng, lớn lao. Tình yêu cuộc sống mới của nhà thơ
được gửi gắm trong những hình ảnh thơ lãng mạn đó.
II. SUY NGHĨ CỦA EM VỀ BÀI THƠ "ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ" CỦA HUY
CẬN.
1. Mở bài:
-Giới thiệu tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
-Cảm nhận chung về nội dung và nghệ thuật chính của bài thơ.

2.Thân bài:
a. Cảnh ra khơi:
-Khung cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ vừa hùng vĩ đầy sức sống. “Mặt trời
xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
-Cảnh người lao động ra khơi: Mang vẻ đẹp lãng mạn, thể hiện tinh thần hào hứng và
khẩn trương trong lao động.
"Câu hát căng buồm cùng gió khơi"
b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:
- Cảm nhận về biển: Giàu có và lãng mạn (đoạn thơ tả các loài cá, cảnh thuyền đi trên
biển với cảm xúc bay bổng của con người “Lướt giữa mây cao với biển bằng”
- Công việc lao động vất vả nhưng lãng mạn và thi vị bởi tình cảm yêu đời yêu biển của
ngư dân. Họ coi đó như một cuộc đua tài "Dàn đan thế trận lưới vây giăng"
c. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:
-Hình ảnh thơ lặp lại tạo nên một lối vòng khép kín với dư âm của lời hát lạc quan của sự
chiến thắng.
-Hình ảnh nhân hóa, nói quá: "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời ". Gợi vẻ đẹp hùng
tráng về nhịp điệu lao động khẩn trương và không khí chiến thắng sau đêm lao động miệt
mài của các chàng trai ngư dân.
-Cảnh bình minh trên biển được miêu tả thật rực rỡ, con người là trung tâm bức tranh với
tư thế ngang tầm vũ trụ và hình ảnh no ấm của sản phẩm đánh bắt được từ lòng biển:
"Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi"

3. Kết bài:
Khẳng định đây là bài ca lao động yêu đời phơi phới của người ngư dân sau những ngày
giành được tự do với ý thức quyết tâm xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp.
III. CẢM NHẬN BÀI THƠ "ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ" CỦA HUY CẬN

1. Mở bài
Viết về đề tài lao động, bài thơ “Bài ca vỡ đất" của Hoàng Trung Thông và bài "Đoàn
thuyền đánh cá" của Huy Cận,... được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết “Đoàn
thuyền đánh cá” vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động
sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao
động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên biển quê hương. Cảm hứng
trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hoàng hôn - đêm trăng – và bình minh. Cảnh
bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng đang mở ra phía
trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa.

2.Thân bài
a. Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá.
Cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực “hòn
lửa” từ từ lặn xuống biển.
Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt
mùng. Những con sóng, như những chiếc “then cài” của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng
vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (hòn lửa, cài then) đã tạo nên
những vần thơ đẹp, cho người đọc nhiều ấn tượng:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa".
Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đoàn thuyền ra khơi:
“Đoàn thuyền đánh cá lại rơi khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh
mới của cuộc đời đổi thay. Chữ “lại” trong ý thơ "lại ra khơi" là sự khẳng định nhịp điệu
lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nề nếp trong hòa bình. Khúc hát lên đường vang
động. Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no gió “căng” lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm
căng
là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say
và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển.
Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân
chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:
“Hát rằng cá bạc, biển Đông lặng, / Cá thu biển Đông như đoàn thoi / Đêm ngày dệt
biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cả ơi !“
Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng
êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu
của ngư dân từng trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào,
ngân dài và vang xa: “Cá bạc", “đoàn thoi”, "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới” là
những hình ảnh so sánh sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ
đẹp thơ ca viết về lao động.
b. Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá một đêm trăng trên vịnh Hạ Long.
Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời sông nước trăng sao, trong đó con người hiện lên
trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời. Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của
đất nước ta. Hạ Long một đêm trăng mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp
lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.
Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển. Đến ngư
trường “dò bụng biển”, ngư dân khẩn trương lao vào công
việc “dàn đan thế trận lưới vây giăng". Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy
thủ là một “chiến sĩ”. Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của
họ. Chữ “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp
sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốn:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lưới giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Những câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý, cá
ngon nổi tiếng như tục ngữ đã nói: “Chim, thu, nhụ, đé”. Vận dụng sáng tạo cách nói của
dân gian, ở phần trên, nhà thơ đã viết: “Cá thu biển Đông như đoàn thoi”, ở đây lại miêu
tả: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé”. Con cá song là một nét vẽ tài hoa. Vẩy cá đen, hồng,
lấp lánh trên biển nước chan hòa ánh trăng “vàng chóe”. Cái đuôi cá quẫy được so sánh
với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức
tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên vũ hội:
"Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”.
Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rào, mắt nhìn về xa. Câu thơ
huyền ảo lung linh: “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”, như đưa người đọc đi vào cõi
mộng. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết nên những vần thơ tuyệt bút như
vậy. Sung sướng nhìn đàn cá “dệt lướï”, những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt
ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hòa cùng sóng
biển. Vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh vàng tan ra theo làn sóng, vỗ vào
mạn thuyền. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Biển hào phóng cho nhân dân nhiều
tôm cá, muối và hải sản... Biển “như lòng mẹ” đã nuôi sống nhân dân ta từ bao đời nay.
So sánh biển với lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê hương.
Giọng thơ ấm áp, chứa chan nghĩa tình:
"Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".
Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời sao đã
thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc kéo
lưới “xoăn tay”. “Kéo xoăn tay” là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng, khỏe
và đẹp. Cơ man nào là cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lắng. “Chim
cá nặng”
là một hình án ẩn dụ gợi tả được mùa cá. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu bạc của vẩy cá,
màu vàng của đuôi cá "lóe rạng đông”. Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc
của nhà thơ thật điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới áng rạng đông đều
được miêu tả tuyệt đẹp:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”,
c. Khổ thơ cuối nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông.
Lần thứ ba, ngư dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát - tiếng hát thắng lợi hân hoan.
Con thuyền và mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống
khẩn trương:
“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,
Mặt trời đội biển nhô màu mới”.
Cảnh rạng đông với hình ảnh "mặt trời đội biển...” nhô lên, tỏa ánh sáng chan hòa, một
“màu mới” bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bến, như cướp lấy thời
gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong việc
tả "Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh
phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc
đời.

3. Kết bài
“Đoàn thuyền đánh cá" là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Nếu
như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn “vạn cổ sầu” vào vũ trụ và lòng người thì
những bài thơ của ông từ năm 1945 trở đi, đặc biệt là bài "Đoàn thuyền đánh cá” mang
âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ
cuộc đời. Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long,
ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng,
dồi dào hải sản. Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động
thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng
quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức
sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng
gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và
hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm con cá.
Cùng với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã cho ta bài học về đức
tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động.
VI. PHÂN TÍCH ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
1. Mở bài:
-Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Sau CM thơ Huy Cận tràn đầy
niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới.
-Thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét
đẹp riêng.
-Một trong những bài thơ được nhiều người yêu thích nhất là bài “Đoàn thuyền đánh cá”
được viết năm 1958 tại vùng biển Quảng Ninh. Với bút pháp lãng mạn kết hợp hiện thực
và nhiều hình ảnh kì vĩ, tráng lệ, bài thơ đã ca ngợi thiên nhiên vũ trụ và con người lao
động trong cuộc sống mới ở miền Bắc thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2.Thân bài
1. Cảnh ra khơi và tâm trạng náo nức của con người.
a. Cảnh hoàng hôn trên biển.
 Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và ấn tượng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa
 Nghệ thuật so sánh nhân hóa cho thấy cảnh biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ.
Mặt trời được ví như một hòn lử khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên
tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ,
những lượn sóng là then cửa. Chi tiết Mặt trời xuống biển có thể gây ra sự thắc mắc
của người đọc vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở bờ
biển nước ta, trừ vùng Tây Nam thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ
không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Thực ra hình ảnh mặt trời xuống biển là
được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn,
nhìn về phía tây, qua một khoảng biển thì vẫn có thể thấy như là mặt trời xuống biển.
Với sự quan sát tinh tế nhà thơ đã miêu tả rất thực chuyển đổi thời khắc giữa ngày và
đêm.
b. Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm với gió khơi”
Đoàn thuyền chứ không phải chỉ con thuyền ra khơi đã tạo ra sự tấp nập trên biển. Chữ
“Lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã đi vào ổn định, vừa thể
hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự làm việc của con người.
Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết 3 sự vật và hiện tượng:
Câu hát, cánh buồm và gió khơi. Người đánh cá căng buồm và cất câu hát lên nhà thơ có
cảm
giác như chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn
chấn của người lao động trở thành sức mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để
con thuyền lướt sóng ra khơi.
Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện thực :
Đó là niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài. Họ ra khơi trong tâm
trạng đầy hứng khởi vì học tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu biển và say mê với
công việc
chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc.
Câu hát của người lao động còn mang theo niềm mong mỏi tha thiết vừa hiện thực vừa
lãng mạn
“Hát rằng : cá bạc biển đông lặng
………………………………..
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ liên tưởng đến biển như một tấm lụa lớn mà đoàn cá là
“đoàn thoi” đang vun vút qua lại. Người dân chài hát khúc hát ca ngợi sự giàu có của
biển cả, họ hát bài ca gọi cá vào lưới và mong muốn công việc đánh cá thu được nhiều
kết quả tốt đẹp.
2.2. Cảnh đánh cá trên biển giữa khung cảnh biển trời ban đêm.
– Nếu hai khổ đầu miêu tả đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh rất đẹp và con
người rất yêu lao động, yêu thiên nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn thuyền đánh
cá trên biển bao la hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ biển trời, sóng nước, trăng sao có
nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởng tượng dựa trên những yếu tố hiện thực của đời
sống trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời.
a. Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng, trên mặt biển đó có
con thuyền đang băng băng lướt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
– Câu thơ vừa thực vừa ảo, hình ảnh “Thuyền” được đặt trong mối quan hệ hài hòa với
những hình ảnh thiên nhiên( lái gió, buồm trăng,mây cao, biển bằng) diễn tả cảnh con
thuyền tung hoành giữa trời biển mênh mông và đang làm chủ biển khơi, có gió làm
người cầm lái, trăng làm cánh buồm. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao
la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên
nhiên, vũ trụ. Thơ Huy Cận trước CM thường thiên về thiên nhiên kì vĩ, là một thứ
không gian bao la, rộng lớn đối lập với sự nhỏ bé đơn côi của con người.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Sau CM, hình ảnh thơ của Huy Cận có sự đổi mới.Thiên nhiên như một người bạn đồng
hành, nâng cao, làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trong sự hài hòa đẹp đẽ
với khung cảnh thiên nhiên. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào hùng.
Người lao động tuy không được miêu tả trực tiếp nhưng ta thấy họ được làm chủ biển
khơi, lao động hăng say dũng cảm muốn chinh phục biển khơi nhưng cũng rất hòa hợp
với thiên nhiên.Hình ảnh đoàn thuyền và sự hiện diện của con người không chỉ hòa hợp
mà còn nổi bật ở vị trí trung tâm của vũ trụ.
– Phải có tâm hồn lạc quan, gắn bó máu thịt với con người với cuộc sống mới thì nhà thơ
Huy Cận mới có thể cất lên những vần thơ rất đẹp như vậy bằng chính tâm hồn lãng mạn
của mình.
b. Biển giàu đẹp nên thơ và có nhiều tài nguyên
Cá nhụ cá chim cùng cá đé.
………………………………
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
– Có bao nhà thơ viết về biển, nhưng có lẽ chưa ai có bức tranh biển đẹp như trong bài
thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Không gian trong lòng biển luôn biến ảo sinh động, nhà thơ
hình dung nước biển như những sợi tơ xanh mềm buông rũ. Những con cá thu như con
thoi bạc qua lại đi về trong vùng tơ xanh ấy. Rồi nhà thơ lại thấy nước biển sóng sánh
vàng như màu trăng. Đàn cá đủ loại bơi lội trong nước trăng vàng. Nhà thơ liệt kê “cá
nhụ, cá chim cùng cá đé”, chỉ miêu tả hai chi tiết làm cho bức tranh như sống hẳn dậy,
có linh hồn: “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” và “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”.
Con cá song thân dày và dài trên vảy có chấm tròn màu đen và hồng như hình ảnh của
một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng trong đêm. Hình dung ra cả đàn cá song như một
đám hội rước đuốc tưng bừng lấp lánh trên mặt biển, đó là cảnh tượng lộng lẫy và kỳ thú
(Nhà thơ Chế lan Viên cũng đã viết “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”) . Tuy nhiên,
hình ảnh “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” là hình ảnh đẹp nhất. Cái đuôi cá quẫy
nước, làm tung lên những giọt nước lóe sáng màu trắng giống như người họa sĩ vẩy ngọn
bút tài hoa để lại một vùng bụi
trăng lóe sáng trên mặt nước bằng phẳng. Rồi mặt biển như trở lại yên bình, có thể nhìn
thấy những bóng sao trong đáy nước.
– “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp, tiếng thở của đêm chính là
nhịp thở của thủy triều và tiếng rì rào của sóng. Những đốm sao lung linh trên mặt nước
nâng lên hạ xuống một cách hùng vĩ. Nhà thơ Bế Kiến Quốc đã cho rằng:” Nhờ câu thơ
này, toàn bộ không khí biển khơi lung linh dào dạt sống động và kỳ ảo hẳn lên”
c. Biển không những giàu đẹp mà còn rất ân nghĩa, thủy chung, bao la như lòng mẹ
Người dân chài đã hát bài ca gọi cá vào.
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gõ”. Trong đêm
trăng sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn
thuyền. Đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ, thiên nhiên và con người cùng hòa hợp
trong lao động.
Con người chinh phục thiên nhiên nhưng cũng đầy lòng biết ơn với thiên nhiên “Biển
cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hăng say, khẩn trương, sôi nổi.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
– Chỉ có một chi tiết tả trực tiếp người ngư dân” Kéo xoăn tay” gợi lên vẻ rắn rỏi, khỏe
mạnh với những bắp tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng.Từ
phía chân trời bắt đầu hừng sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy đuôi
dưới
ánh sáng của rạng đông và lóe lên màu hồng như bức tranh sơn mài lung linh, huyền ảo
được nhà thơ sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực.
Câu thơ “ Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động
của con người với sự vận hành của vũ trụ.
=> Với cách dùng nhiều vần trắc, âm hưởng khỏe khoắn, nhịp thơ hối hả, ngôn ngữ thơ
giàu chất tạo hình, tạo nên khúc tráng ca lao động hào hùng giữa biển trời bao la.
2.3.Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên.
a. Cảnh đoàn thuyền trở về
- Câu đầu tác giả lặp lại ở khổ thơ 1: “Câu hát căng buồm với gió khơi”
+ Có từ “với” là khác, có lẽ tác giả tránh sự lặp lại ở câu thơ trước => làm cho khổ thơ
cuối giống như điệp khúc của một bài hát, tạo cảm giác tuần hoàn về thời gian, về công
việc lao động; nhấn mạnh khí thế tâm trạng của những người dân. Đoàn thuyền ra đi hào
hứng sôi
nổi, nay trở về cũng với tinh thần ấy rất khẩn trương. Câu hát đưa thuyền đi nay câu hát
lại đưa thuyền về.
+ Bằng biện pháp khoa trương và hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt
trời” cho thấy con người và vũ trụ chạy đua trong cuộc vận hành vô tận, con người đã
mang tầm vóc lớn lao của thiên nhiên vũ trụ trong cuộc chạy đua này và con người đã
chiến thắng.Có thể nói Huy Cận đã lấy tình yêu của mình đối với cuộc sống mới của
nhân dân khám phá ra vẻ đẹp hùng vĩ. Thay vào không gian vũ trụ buồn hiu hắt của thơ
ông trước cách mạng tháng Tám.
b. Bình minh trên biển
– Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn, kết thúc bài thơ là cảnh bình minh” Mặt trời đội
biển nhô màu mới”. Ánh mặt trời sáng rực, từ từ nhô lên ở phía chân trời xa cảm giác
như mặt trời đội biển. Câu thơ với ẩn dụ táo bạo cho thấy sự tuần hoàn của thời gian, của
vũ trụ.
-Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” gợi nhiều liên tưởng như những mặt trời
nhỏ bé đang tỏa rạng niềm vui trước thành quả lao động mà con người đã giành được sau
một đêm lao động trên biển. => đó là cảnh tượng đẹp huy hoàng giữa bầu trời và mặt
biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao động.
3. Kết luận
Bài thơ tạo được âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại vừa phơi phới, bay bổng. Góp
phần tạo nên âm hưởng ấy là các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần. Lời thơ dõng dạc, điệu
thơ như khúc hát say mê, hào hứng, phơi phới (4 lần điệp từ “hát”). Cách gieo vần trong
bài thơ biến hóa, linh hoạt, các vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền xen với vần cách. Các
vần trắc tạo sức dội, sức mạnh, các vần bằng tạo sự vang xa, bay bổng, tạo nên những
vần thơ khoáng đạt, kì vĩ, phơi phới niềm vui. Bài thơ là những bức tranh đẹp, rộng lớn
kế tiếp nhau về hình ảnh thiên nhiên và đoàn thuyền đánh cá. Thiên nhiên như một
người bạn thân thiết, đồng hành cùng cuộc sống của con người. Hình ảnh người lao động
trong bài thơ được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn, thể hiện niềm tin, niềm vui trước
cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay, thể hiện rõ nét sự thay đổi của
hồn thơ Huy Cận sau Cách Mạng. Lãng mạn hơn, công việc lao động nặng nhọc của
người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.

You might also like