Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia” (Chế Lan Viên) Vâng! Hiện thực cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để các nhà thơ như những con ong miệt mài, cần mẫn dâng mật ngọt cho đời. Hiện thực công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn, nhà thơ thoả sức sáng tác. Huy Cận đã đến với Hòn Gai, đã bước ra khỏi bốn góc của trang giấy trắng để đến với bốn bể mênh mông của cuộc đời, để hoà hồn mình cùng hồn dân tộc, hoà mực của ngòi bút mình vào mồ hôi của người lao động. Cùng viết về hiện thực đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nếu như Nguyễn Thành Long viết “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Tuân viết tuỳ bút “Cô Tô” thì Huy Cận viết “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ viết về những người lao động với một phong cách riêng, ghi lại những dấu ấn rất riêng. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được viết năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh của tác giả. Bài thơ được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”. Có lẽ chính bởi tình yêu thiên nhiên, yêu vẻ đẹp của con người lao động mới là nguồn cảm hứng cho nhà thơ sáng tác thi phẩm. “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” Vẻ đẹp của thiên nhiên luôn được in dấu trong thơ của các nhà thơ tài hoa, đặc biệt là cảnh hoàng hôn. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã vẽ ra cảnh hoàng hôn trên biển thật huy hoàng, tráng lệ, tràn đầy sức sống: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa” Câu thơ đầu tiên tác giả đã sử dụng phép nhân hoá, phép so sánh độc đáo. Tác giả đã miêu tả thực sự thời khắc chuyển đổi giữa ngày cà đêm khiến không gian biển cả mở ra thật đẹp. Phép so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” giúp người đọc hình dung ra mặt trời đỏ rực đang từ từ lặn xuống biển. Đồng thời cũng gợi bước đi của thời gian. Ở câu thơ thứ hai nhà thơ sử dụng phép nhân hoá và ẩn dụ giúp mỗi người đọc liên tưởng vũ trụ như một mái nhà lớn, màn đêm là cánh cửa khổng lồ và những cơn sóng là then cài cửa. Thông thường biển cả vào thơ văn nó thường mang một vẻ đẹp bao la, kì bí và thậm chí là sự cuồng nộ, con người thường cảm thấy nhỏ bé trước thiên nhiên thế nhưng biển trong thơ Huy Cận lại thân thiết, gần gũi với con người. Nhà thơ đã nhìn thiên nhiên bằng một góc nhìn hội hoạ. Hơn nữa Huy Cận cũng thực sự là nghệ sĩ của ngôn từ khi ông sử dụng từ ngữ vô cùng hiệu quả. Các động từ “cài”, “sập” là động từ mạnh diễn tả hành động nhanh, thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, huy hoàng đã đi vào thời khắc giữa ngày và đêm. Cảnh hoàng hôn trong thơ Huy Cận tráng lệ, tràn đầy sức sống, nó khác với cảnh hoàng hôn trong thơ xưa: “Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn” (Bà Huyện Thanh Quan) Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa con người với thiên nhiên. Nếu như hai câu thơ đầu miêu tả thiên nhiên vào trạng thái nghỉ ngơi thì hai câu thơ sau lại miêu tả hành trình lao động trên biển của con người lao động: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồn cùng gió khơi” Ở đây là “đoàn thuyền” hùng dũng, đông đảo gợi không khí làm ăn tập thể. Nó không phải là con thuyền cô lẻ, buộc chặt mối tình trong thơ Đỗ Phủ, cửa bể chiều hôm trong Truyện Kiều, càng không phải con thuyền xuôi mái ảo não trong thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám. Ở đây là đoàn thuyền hùng dũng khí thế “dàn đan thế trận lưới vây giăng” trên biển cả. Ánh sáng mới của thời đại đã đem lại cho đoàn thuyền khí thế mới, sức sống mới của muôn người Việt Nam trên con đường xã hội chủ nghĩa. Phó từ “lại” diễn tả hoạt động thường xuyên, lặp đi lặp lại đã trở thành nếp sống đều đặn mỗi ngày là một niềm vui. Câu thơ khiến ta hình dung được cả đoàn thuyền chứ không phải là một con thuyền đơn độc ra khơi. Khí thế đó của đoàn thuyền được gợi qua hình ảnh “câu hát căng buồm” cùng gió khơi. Câu thơ là sự kết hợp cái cụ thể và cái trìu tượng. Sử dụng nhân hoá kết hợp độc cái ảo và cái thực biến câu hát như một sinh thể mang linh hồn người lao động. Câu hát thể hiện niềm vui, sự lạc quan, tinh thần hứng khởi, khí thế phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền là sức mạnh của người lao động trên biển. Câu thơ kết thúc bằng những thanh bằng diễn tả vẻ đẹp tâm hồn người lao động. Người lao động cất tiếng hát say mê, yêu thích công việc lao động, người ta sẽ cống hiến hết mình. Trong chiến tranh tiếng hát át tiếng bom, trong lao động người Việt Nam cũng cất cao tiếng hát. Khổ thơ có giai điệu khoẻ khoắn, sôi nổi, các bút pháp lãng mạn, các biện pháp tu từ tác giả đã vẽ lên khung cảnh biển cả lúc hoàng hôn rất đẹp, rất nên thơ, kì vĩ, tráng lệ. Trên nền cảnh ấy là hình ảnh người lao động phấn khởi say mê và lạc quan, phơi phới. Khổ thơ tiếp theo làm rõ nội dung câu hát của người dân chài qua đó ta thấy tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả và niềm tin về một mùa cá bội thu: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” Khổ thơ là khúc hát lãng mạn được cất lên từ niềm tin, từ tình yêu lao động của người dân chài đã thổi căng cánh buồm bay vút lên muôn trùng khơi. Thủ pháp cường điệu đã đem đến hình ảnh tuyệt đẹp đầy sức sống. Tiếng hát khoẻ khoắn, mạnh mẽ vang động cả biển cả. Tiếng hát đem lại nguồn cổ vũ vô tận cho bàn tay khối óc con người. Tiếng hát xua đi khó nhọc, đem lại sự hứng thú, tiếng hát của niềm vui và hi vọng. Hiện thực cuộc sống mới là chất mai say tạo niềm vui cho con người lao động. Họ nhận thấy vai trò của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Tập làm chủ, tập làm người xây dựng Dám vươn mình cai quản cả thiên nhiên”(Tố Hữu) Người ngư dân không còn thân phận “con sâu cái biển” trong xã hội phong kiến nữa mà giờ đây là thời kì chính quyền về tay nhân dân: “Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta”(Nguyễn Đình Thi) Khổ thơ ngợi ca sự giàu có của biển cả hình ảnh ẩn dụ “cá bạc”, qua phép so sánh “cá thu biển Đông như đoàn thoi”. Đặc biệt là phép liệt kê, tất cả gợi lên sự giàu có của biển cả Nhà thơ đã sử dụng phép liên tưởng: mặt biển như một tấm lưới khổng lồ mà những đoàn cá bơi đi bơi lại như “ngày đêm dệt biển”. Cụm từ “muôn luồng sáng” làm cho khổ thơ bừng sáng rực rỡ phấn chấn. Đây là thứ ánh sáng mới, ánh sáng diệu kì, tiếp tục thắp sáng biển đêm cho dù hoàng hôn buông xuống. Khổ thơ khép lại bằng bằng câu thơ cầu khiến “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”. Câu thơ sử dụng từ “ơi” thật thân quen. Đoàn cá chỉ muôn loài chứ không phải chỉ một loài hãy về đây tụ hội, có ích cho đời, như tiếng gọi người bạn, người thân. “Ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là tác giả. Tác giả hóa thân vào người dân chài để cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống của con người lao động. Cái “ta” chung đã mang vóc dáng của con người tập thể, của thời đại chứ không phải cái tôi đơn lẻ của thơ mới: “Tôi chỉ là con nai bị chiều đánh lưới Chẳng biết đi đâu đứng sầu bóng tối” Hai khổ thơ đầu đã miêu tả cảnh ra khơi huy hoàng, tráng lệ với khí thế mạnh mẽ đầy hứn khởi và niềm tin về một mùa cá bội thu, người chân chài như dduowvj tiếp thêm niềm yêu, niềm tin, niềm vui sướng. Bài thơ là hình ảnh của một chuyến ra khơi, sau cảnh hoàng hôn là cảnh đêm trăng trên biển. Khổ thơ thứ ba tập trung miêu tả hình ảnh đoàn thuyền ra khơi thật mạnh mẽ: “thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” Biện pháp phóng đại, nghệ thuật ẩn dụ làm nổi bật tầm vóc của con thuyền. Con thuyền ở đây không hề nhỏ bé mà trở nên to lớn, kì bí sánh ngang tầm với vũ trụ tựa như không có một trở ngại nào. Con thuyền vô tri trở nên sống động, có tâm hồn, có khí thế mạnh mẽ sôi nổi, khẩn trương như chuẩn bị bước vào một trận đánh. Con thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm gợi sự nhịp nhàng hoà quyện của con thuyền với biển khơi. Nó khác với cánh buồm no gió chất chứa linh hồn làng chài trong thơ Tế Hanh: ”Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng” Con thuyền với gió, với trăng không còn đường biên phân định nữa. Nếu Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ của thời gian thì Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ của không gian. Huy Cận thay thế không gian sầu vạn cổ thành không gian của một niềm vui lộng gió biển khơi. Con thuyền lao động trong thơ Huy Cận hiện lên đẹp đẽ, mạnh mẽ, nó khác với con thuyền trong thơ Nguyễn Trãi: “Biển lùa gió Bấc thổi băng băng Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng” Nó cũng khác với con thuyền trong thơ Nguyễn Công Trứ: “Gió trăng chứa một thuyền đầy Cửa kho vô tận biết ngày nào vơi?” Con người không chỉ hoà nhập với thiên nhiên mà còn ở vị trí trung tâm của vũ trụ. Đó là những con người khoẻ khoắn, đoàn kết chinh phục biển khơi. “Dò bụng biển” là một công việc độc đáo như vào thế trận, làm chủ thiên nhiên, gợi sự khéo léo, tài tình như người nghệ sĩ kiên cường, dũng cảm như người chiến sĩ của người dân chài. Con người lao động không chỉ trở thành chiến sĩ trên mặt trận lao động mà tâm hồn họ phóng khoáng, dũng cảm. Họ khao khát chinh phục biển khơi vĩ đại khổng lồ. Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền được nâng lên, không còn cảm giác nhỏ bé khi con người đứng cùng trời rộng sông dài như trong thơ Huy Cận trước Cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca của niềm vui, đầy sự nhịp nhàng cùng thiên nhiên. Qua khổ thơ tác giả ca ngợi những con người lao động dũng cảm, hăng say nghề nghiệp và có niềm lạc quan phơi phới. Phải chăng đó chính là tác giả đang ca ngợi những con người lao động bình dị, những con người làm chủ biển khơi của Tổ quốc. Nếu Nguyễn Tuân lên Tây Bắc để tìm ra “chất vàng mười” của con người lao động qua hình ảnh người lái đò thì Huy Cận cũng tìm được vẻ đẹp “chất vàng mười” ấy qua hình ảnh người ngư dân đang ngày đêm bên biển kia. Người xưa nói “thi trung hữu hoạ” nghĩa là trong thơ có những bức tranh. Quả nhiên khổ thơ thứ tư của bài thơ là một bức tranh thiên nhiên kì thú: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” Ở câu thơ đầu tiên tác giả đã sử dung phép liệt kê một cách triệt để để miêu tả sự giàu có, trù phúc của biển cả quê hương. Cá không chỉ nhiều mà toàn đặc sản quí hiếm. Lời thơ là lời liệt kê nhưng đậm chất tự hào, một niềm tự hào về biển cả đẹp như gấm, như hoa, biển giàu có với muôn loài cá quí. Ở hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ sử dụng phép nhân hoá, ẩn dụ kết hợp với những tính từ chỉ màu sắc “lấp lánh”, “đen hồng”, “vàng choé” cho thấy biển cả không chỉ giàu mà còn rất đẹp. Hình ảnh “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” là hình ảnh rất đẹp tạo nên từ năng lực quan sát và tài liên tưởng của nhà thơ. Câu thơ tạo nên hai cách hiểu: biển cả như một đêm hội rực rỡ, như đèn hoa mà các đàn cá bơi lội náo nức kì lạ trong đêm hội ấy. Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh. Quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Phải chăng vẻ đẹp của loài cá này hơn một lần làm say đắm trái tim của Chế Lan Viên: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về” Tuy nhiên hình ảnh nhân hoá “cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” là hình ảnh đẹp nhất khổ thơ. Ánh trăng in xuống mặt nước, con cá quẫy đuôi mà như quẫy cả ánh trăng tan ra, lấp lánh, vàng choé. Đọc câu thơ của Huy Cận chúng ta liên tưởng đến vâng thơ rất đẹp của người xưa: “Lòng ai lóng lánh bóng trăng hoe” Hay: “Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan” Với cách sử dụng những tính từ chỉ mày sắc: vàng choé, lấp lánh, đen hồng,… Tác giả đã tạo ra nghệ thuật phối màu thật tài tình khiến biển đêm như một bức tranh sơn mài đẹp đẽ, rực rỡ. Bầy cá lộng lẫy như những nàng tiên đang vũ hội. Khép lại khổ thơ là một câu thơ có cách ngắt nhịp 2/5 “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”, cách ngặt nhịp đột ngột. Dấu hai chấm xuất hiện đánh dấu một sự cắt nghĩa, một sự lí giải. Phép nhân hoá qua từ “đêm thở” khiến biển đêm hiện lên như một sinh thể sống động. Tiếng thở của biển đêm chính là tiếng rì rầm, phập phồng muôn đời của sự sống. Câu thơ còn độc đáo ở chỗ tác giả đã tạo ra hình ảnh đảo ngược ánh trăng in xuống biển đêm nhưng không phải sao bị đẩy vào mạn thuyền mà ánh sao lùa vào làn nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Như vậy bằng bút pháp lãng mạn, sự liên tưởng độc đáo, Huy Cận đã khắc hoạ thật ấn tượng vẻ đẹp và sự giàu có của biển cả, đặc biệt là sự hoà hợp giữa von người và thiên nhiên. Khổ thơ thứ sáu là bức họa khỏe khoắn về hình ảnh người dân chài được miêu tả bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn: “Sao mà kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” Một trong những thi pháp của thơ ca hiện đại là hướng về ánh sáng, hướng về niềm vui: không gian, thời gian, nghệ thuật có sự thay đổi. Nếu cảnh ra khơi là hoàng hôn, là đêm tàn thì nay là hình ảnh bình minh đang lên, trời chuyển dần về sáng. Không gian rực rỡ ửng hồng, đẹp như không gian trong thơ Tế Hanh: “Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng” Trong bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ấy nổi bật lên hình ảnh người ngư dân, những con người đang hối hả, chạy đua với thời gian, với thiên nhiên để làm việc và cống hiến. Chữ “kịp” trong câu thơ “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng” kết hợp nhịp thơ 2/2/3 thể hiện sự khẩn trương, hối hả của người ngư dân lúc kéo lưới với sự hồi hộp mong đợi. Cảnh kéo lưới lên được nhà thơ miêu tả chân thực nhưng cũng rất lãng mạn “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” cho thấy người lao động dồn tất cả sức mạnh, cơ bắp vào đôi tay cuồn cuộn để kéo về những mẻ cá nặng trĩu. Cụm từ “trùm cá nặng” là một hình ảnh ẩn dụ nhấn mạnh thành quả rực rỡ đồng thời ẩn chứa niềm vui sướng, tự hào của người dân chài trước thành uqar ấy. Hai chữ xoăn tay gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh của những người dân chìa. Pjair chăng vẻ đẹp của người lao động là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ: “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xă xăm” Nhà thơ không chỉ tự hào trước thành quả của những người lao động, của những người ngư dân mà còn miêu tả cụ thể niềm vui của họ. “Vẩy bạc lóe rạng động” là màu sắc của thân cá khiến không gian như bừng sáng, gợi sự liên tưởng về sự giàu có của biển cả. Vẩy bạc đuôi vàng là sự liên tưởng thú vị gợi lên sắc vàng, sắc bạc trong kho báu vô tận mà biển trời tặng cho con người. Công việc lao động tràn đầy niềm vui, câu thơ sử dụng cách ngắt nhịp 2/2/3 cùng với ba động từ: xếp, lên ,đón như nhịp công việc lao động diễn ra tuần tự, khẩn trương để trở về. Với bút pháp lãng mạn, cách sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, sử dụng rừ ngữ chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp người đọc cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn bức tranh thiên nhiên hung vĩ, giàu có của thiên nhiên đòng thời khắc họa hình ảnh người lao động lớn lao, phi thường. Lời thơ cho ta thấy Huy Cận có một tình yêu say đắm với thiên nhiên, vỡi không gian rộng lớn, với đất nước, niềm tin vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao. Còn đâu một Huy Cận với hồn thơ ảo não mà đó là một hồn thơ dạt dào đầy niềm tin yêu vào cuộc đời. Đó cũng là kết quả của quá trình nhận thức, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng “Mặt trời chân lí chói qua tim” (Tố Hữu). Huy Cận đã hiến dâng đời mình cudng ngọn bút cho cách mạng, cho non song đất nước,cho thiên nhiên quê hương và cho những gì đáng trân quí nhất. Bìa thơ được viết theo kết cấu đầu cuối tương ứng, dường như có sự lặp lại giữa khổ thơ đầu và khổ cuối. Khổ thơ cuối diễn tả cảnh đoàn thuyền thắng lợi trở veeftrong bình minh rực rỡ, tráng lệ, trong niềm hân hoan: “Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua với mặt trời, Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” Dường như khổ thơ đầu và cuối có sự lặp lại hoàn toàn chỉ khác cách dùng từ “cùng” và “với” trong câu thơ đầu tiên: “Câu hát căng buồm với gió khơi” “cùng”-“với” thể hiện sự gắn kết giữa câu hát và gió khơi. Nhưng từ “cùng” thể hiện thanh bằng gợi lên sự hài hòa giữa ngọn gió và câu hát. Tái hiện một chuyến ra khơi thuận lợi và bình yên. Còn từ “với” là thanh trắc tạo nên sự khoẻ khoắn, niềm vui phơi phới khi người dân chài trở về với mẻ lưới bội thu. Câu hát theo suốt hành trình của người dân chài. Câu hát mở đầu khi họ trở về, ra khơi. Cấu trúc lặp đi lặp lại một điệp khúc ngân nga nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp cho quê hương. Có lẽ câu hát lúc ra khơi chứa chấp bao niềm vui, sự lạc quan, tin tưởng thì câu hát lúc trở về lại thể hiện niềm vui sướng trước thành quả lao động sau một đêm vất vả. Đoàn thuyền ra đi trong tiếng hát, làm việc trong tiếng hát và trở về cũng trong tiếng hát vút cao. Chung cảm xúc này, nhà thơ Vĩnh Mai cũng viết: “Thuyền đi thuyền chở ánh trăng Thuyền về chở cá, chở thêm giọng hò” Không chỉ có hình ảnh câu hát được lặp lại trong khổ cuối mà ta còn thấy hình ảnh mặt trời cũng xuất hiện. Nếu khổ thơ đầu mặt trời của hoàng hôn thì đây là mặt trời của bình minh. Bình minh báo hiệu một ngày mới, một sự sống sinh sôi nảy nở, là sự khởi đầu của niềm vui, niềm hạnh phúc mà người dân chài có được sau một chuyến hành trình vất vả, cực nhọc. Miêu tả mặt trời nhà thơ sử dụng phép nhân hoá “Mặt trời đội biển nhô màu mới” gợi lên cái kì vĩ, tráng lệ của thiên nhiên đồng thời gợi bước đi của thời gian, báo hiệu một ngày mới, báo hiệu sự sống sinh sôi nảy nở, sự khởi đầu tốt đẹp. Hình ảnh mặt trời đang dần nhô lên mang dấu ấn sử thi, nó như bản anh hùng ca, ca ngợi những người lao động. Cảnh biển còn đẹp hơn khi đoàn thuyền trở về với những khoang thuyền đầy ắp cá. Hình ảnh hoán dụ “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Mắt cá đã trở thành những mặt trời tí hon, sáng rực cả một vùng trời. Phải chăng Huy Cận đã đem đến cho người đọc hình ảnh mặt trời khác không phải mặt trời của thiên nhiên mà là mặt trời của muôn ngàn mắt cá lấp lánh trong bình minh. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa cá. Phải chăng đó cũng là hình ảnh ẩn dụ cho một tương lai tươi sáng đang lấp lánh ở phía trước. Như vậy, bằng sự kết hợp của bút pháp tả thực và lãng mạn, bằng cách sử dụng những biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hoá, khổ thơ đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như vẻ đẹp của con người. Bài thơ giúp ta nhận ra Huy Cận có tình yêu say đắm với thiên nhiên, với đất nước. Tình cảm đó của Huy Cận thật đáng trân trọng biết bao. Ai đó đã từng nói rằng nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, chỉ có trái tim mới làm nên thi sĩ. Nếu Huy Cận không được chứng kiến không khí lao động của miền Bắc những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chắc gì chúng ta đã có “Đoàn thuyền đánh cá”- một bài thơ in dấu trong trái tim biết bao thế hệ bạn đọc. Hiện thực đó cũng là cảm hứng cho nhiều thi sĩ: “Đi ta đi khai phá rừng hoang Hỏi núi non cao đâu sắt, đâu vàng Hỏi biển khơi xa đây luồng cá chạy Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy Hỏi đây thác chảy cho dòng điện xoay chiều” Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua, nhưng những bài thơ viết về đề tài chủ nghĩa xã hội vẫn khắc sâu trong tâm trí chúng ta hình tượng những con người lao động mới- những con người “ngực dám đón những phong ba dữ dội”( Tố Hữu) những con người đã góp phần làm nên vẻ đẹp cho quê hương, cho đất nước. “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một bài thơ như thế! Thi phẩm không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của tác giả mà qua đó còn ngợi ca vẻ đẹp hào hùng, dũng cảm của những con người lao động mới đang “ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước”.