You are on page 1of 109

Chương 1: Tự nhận thức - 1

Chương 1
TỰ NHẬN THỨC

MỤC TIÊU HỌC TẬP


Sau khi hoàn thành khoá học, người học có khả năng:
• Xác định những điểm nhạy cảm của bản thân; nhận biết giá trị cá nhân và sự
trưởng thành về đạo lý của bản thân và mọi người khác;
• Thấu hiểu giá trị văn hoá và ứng dụng vào giải thích, phân tích, đánh giá sự khác
biệt giữa các quốc gia.
• Đánh giá phong cách học của bản thân và mọi người khác;
• Nhận diện định hướng sự thay đổi của bản thân và mọi người khác;
• Nhận diện định hướng giao tiếp giữa các cá nhân của bản thân và mọi người
khác.

1.1. HỌC TẬP KỸ NĂNG


1.1.1. Tầm quan trọng của sự tự nhận thức
Khả năng quản trị cuộc sống cá nhân
Việc tự nhận thức (self-awareness) phải luôn là tâm điểm của khả năng tự quản trị
chính mình, hay còn gọi là khả năng quản trị cuộc sống cá nhân. Khả năng tự quản trị
chính mình phụ thuộc đầu tiên và lớn nhất vào khả năng tự nhận thức, bởi các kỹ năng tự
quản trị khác có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và liên kết lại với nhau thì mới có thể hình
thành nên khả năng tự nhận thức chính mình, như được trình bày ở Hình 1.1. Chẳng hạn
phát triển việc tự kiểm soát mình (self-control), tức chọn lọc ra những mục tiêu và những
điều ưu tiên giúp các cá nhân tạo ra định hướng cho cuộc sống của chính bản thân mình.
Quản lý thời gian và sự căng thẳng (stress) một cách hiệu quả sẽ tạo một khả năng cho các
cá nhân có được một sự phù hợp và thích nghi với môi trường xung quanh.
2 - Chương 1: Tự nhận thức

Triệu Quản lý stress


chứng

Quản lý thời gian

Xác định mục tiêu và các ưu tiên


(self-control)

Tự nhận thức
Vấn đề

Hình 1.1. Phân cấp kỹ năng quản trị cuộc sống cá nhân
(Nguồn: A Hierachchy of Personal Life-Management Skill, Whetten D.A., &
Cameron, K.A., 2004)
Trí
tuệ cảm xúc
Sự hiểu biết về chính bản thân chúng ta là cơ sở để thấu hiểu mọi người khác, giải
thích được sự khác biệt, đa dạng hành vi của chúng ta và mọi người khác trong quá trình
sống và tương tác với mọi người khác. Nhiều cuộc nghiên cứu đã tiến hành để đưa ra những
khái niệm về trí tuệ cảm xúc - một khả năng để có thể tự quản lý chính mình và tự quản lý
trong những mối quan hệ với những người khác - được xác định như là một trong những
yếu tố quan trọng đóng góp cho sự thành công của các nhà quản trị và các nhà lãnh đạo. Tự
nhận thức được xác định như là một nhân tố cốt yếu của trí tuệ cảm xúc, và nó được xem
là một yếu tố mạnh hơn, quyết định hơn đến những thành công trong cuộc sống so với chỉ
số thông minh IQ (intelligence quotient). Chẳng hạn một nghiên cứu, đã nỗ lực tìm kiếm
sự khác biệt giữa những người có thành tích nổi trội và những nhà quản trị trung bình trong
40 công ty, đã chứng minh rằng những khả năng về những trí tuệ cảm xúc, bao gồm khả
năng tự nhận thức, quan trọng gấp hai lần chỉ số IQ trong việc đưa ra những sự đóng góp
để tạo ra những sự hiểu biết rộng, từ đó có thể tạo ra những sở trường và những sự tinh
thông cho chính họ. Trong một cuộc nghiên cứu của công ty tư vấn đa quốc gia đã tiến hành
như sau: những thành viên có thành tích cao được đem so sánh với những thành viên có
thành tích bình thường. Những thành viên có thành tích cao - là những người có được một
Chương 1: Tự nhận thức - 3

chỉ số về trí tuệ cảm xúc và điểm số đạt được của sự tự nhận thức là rất cao - đóng góp vào
lợi nhuận của công ty gấp 2 lần và được thăng tiến gấp 4 lần so với những thành viên có
thành tích bình thường, là những người chỉ đạt được một số điểm khá thấp về khía cạnh
này (Whetten và Cameron, 2004).

1.1.2. Thấu hiểu bản thân và chấp nhận sự khác biệt


Tự nhận thức như là điều thầm kín
Carl Rogers (1961) đã phát biểu rằng sự tự nhận thức và sự tự thừa nhận (self-
acceptance) được xem là những điều kiện tiên quyết đối với việc phát triển thể chất tâm lí,
phát triển cá nhân và khả năng biết và chấp nhận những người khác. Rogers cũng đã đồng
ý rằng nhu cầu cơ bản của con người là lòng tự trọng (self-regard), điều mà họ tìm thấy là
có sức tác động mạnh đến bản thân của họ hơn là những nhu cầu sinh lý của bản thân.
Brouwer (1964) cũng đã nhận định rằng: “Việc tự xem xét lại chính mình (self-
examination) là một bước chuẩn bị cơ bản cho cái bên trong, một điều kiện để có thể gieo
“hạt giống” của việc tự hiểu biết chính mình (self-understanding) và “bông hoa” về những
hành vi thay đổi sẽ dần được nở ra”.
Chúng ta không thể cải thiện chính mình hoặc phát triển những khả năng mới trừ
khi và cho đến khi chúng ta biết mức độ về những khả năng hiện thời mà mình đang nắm
giữ. Những bằng chứng dựa vào kinh nghiệm đã chứng tỏ cho ta thấy được rằng những cá
nhân mà càng nhận thức rõ về chính bản thân mình bao nhiêu thì họ càng cảm thấy khoẻ
hơn, thực hiện công việc tốt hơn trong vai trò quản trị, vai trò lãnh đạo và hiệu quả hơn
trong công việc.
Tuy nhiên, tự hiểu biết về mình (self-knowledge) có thể sẽ ngăn chặn những sự cải
thiện của bản thân thay vì tạo ra những sự cải thiện như ta thường nghĩ. Lý do của điều này
là do chúng ta thường tránh nhìn nhận những sự phát triển của mình và những sự hiểu biết
mới về chính bản thân mình. Chúng ta kháng cự lại việc mình có được nhiều thông tin hơn
về chính mình, nhằm bảo vệ lòng tự trọng và những sự mặc cảm của chính bản thân mình.
Nếu chúng ta có được những thông tin mới về chính bản thân mình thì mình sẽ trở nên xấu
đi, những thông tin đó sẽ chống lại ta, tạo ra cho ta một cảm giác thấp kém, vì đó là những
thông tin về những điều xấu, những điểm yếu, những điều kinh khủng và xấu xa. Vì vậy
chúng ta tránh né đối diện với chính mình. Như Maslow (1962) đã phát biểu rằng: “Chúng
ta có khuynh hướng e ngại một số thông tin về chính chúng ta vì nó sẽ là nguyên nhân khiến
chúng ta trở nên xem thường chính chúng ta hoặc làm chúng ta cảm thấy thua kém, yếu đi,
4 - Chương 1: Tự nhận thức

ngại ngùng hơn, ghê tởm chính mình. Chúng ta bảo vệ chính chúng ta và những hình ảnh
của chính chúng ta bằng cách thể hiện những sự ngăn chặn cùng với những biểu hiện khác,
bằng cách nào đó mà chúng ta sử dụng để trốn tránh những cái có nguy cơ làm hại ta và
gây nguy hiểm cho chính chúng ta.”
Như vậy, chúng ta tránh sự phát triển cá nhân, vì chúng ta lo sợ những điều được
làm sáng tỏ ra từ chính chúng ta, có nghĩa chúng ta che dấu những đặc điểm của mình. Nếu
đây là một cách tốt hơn, hiểu biết về bản thân mình sẽ làm cho trường hợp hiện tại của
chúng ta bị mất cân bằng và bị hạ thấp xuống. Rất khó để chấp nhận những điều đó. Tuy
nhiên hãy nghĩ lại rằng việc kháng cự và không chấp nhận hiểu biết về mình nó sẽ làm cho
tình trạng chúng ta xấu thêm. Freud (1956) cũng đã khẳng định rằng “chúng ta nên chân
thật với chính mình, là cách tốt nhất để chấp nhận những điều của chính chúng ta, bởi vì
chỉ có lòng chân thật của chính mình mới có thể đạt được và tìm được nhiều hơn những
thông tin về mình và mới có thể cải thiện được chính mình”.
Vì vậy, tìm kiếm những hiểu biết về chính mình được xem là một điều thầm kín. Đó
là điều kiện tiên quyết để phát triển và cải thiện, những điều này cũng có thể ngăn chặn
những sự phát triển và những cải thiện của chính chúng ta. Nó sẽ gây nên một tình trạng trì
trệ hơn vì chúng ta không muốn biết nhiều hơn về chính mình.
Điểm nhạy cảm
Một câu nói nào đó liên quan đến những khái niệm có tính dễ bị tác động, những
điểm dễ bị tác động đó được xem là những “điểm nhạy cảm” (sensitive line), cũng có thể
được xem là những mặc cảm của bản thân. Khái niệm này có hàm ý đề cập đến một điểm,
mà ở đó những cá nhân thường sẽ đưa ra một sự phòng thủ hoặc một sự cảnh giác đối với
những thông tin mà ta chạm đến những điểm đó, thường đó là những thông tin về chính
bản thân họ, những khái niệm mà mâu thuẫn với chính “những quan niệm của chính bản
thân họ” (self-concept), hoặc cũng có thể đó là những điều mà ta yêu cầu họ thay đổi những
hành vi của họ.
Mặt khác, nếu càng đưa ra những thông tin có tính trái ngược, hoặc đưa ra những
điều hàm ý có tính nghiêm trọng hơn đối với những quan niệm của chính mình thì nó sẽ
càng dễ thăm dò những điểm nhạy cảm của bản thân, và bạn sẽ cảm thấy rất là cần thiết để
nhận ra rằng cần phải dựa vào chính bản thân của mình, chứ không dựa vào bất cứ nguồn
nào hết. Nếu như có một đồng nghiệp nói bạn rằng bạn chẳng có một tư cách, trình độ gì
của một nhà quản trị cả, điều này có thể đã đụng đến “điểm nhạy” của bạn nếu bạn nghĩ là
bạn có thể làm tốt công việc của một nhà quản trị. Điều này sẽ được xem là một sự thật nếu
như người đồng nghiệp này là một người có ảnh hưởng mạnh đối với bạn. Những câu trả
Chương 1: Tự nhận thức - 5

lời của bạn sẽ có thể phụ thuộc vào chính bản thân bạn, tức bạn sẽ phản xạ lại bằng những
thông tin có tính bảo vệ hình ảnh của chính mình.
Các cá nhân sẽ trở nên có ý thức tâm lý hơn và phản ứng cứng rắn hơn, khi đụng
phải những thông tin có tính đe doạ đến những quan niệm của chính mình. Họ có khuynh
hướng làm tăng cường thêm những sự cố gắng của mình để bảo vệ cái mà họ xem là thoải
mái và thân thiết với mình. Khi những sự khác nhau trong những sự tự nhận thức bị đụng
chạm, tính chất hợp lí của thông tin hoặc những nguồn của nó bị phủ nhận thì những loại
kỹ xảo phòng thủ sẽ được sử dụng để bảo vệ cho những khái niệm của chính mình được
vững chắc. Như vậy, khi đụng đến những điểm nhạy này sẽ tạo ra một sự không linh hoạt
và bản năng tự bảo vệ sẽ trổi dậy trong mỗi người chúng ta.
Đối với những tính cách phòng thủ này, chúng ta có thể đưa ra một câu hỏi: Phải
làm thế nào để có thể gia tăng hiệu quả của việc tự hiểu mình (self-knowledge) và những
sự thay đổi nhận thức cá nhân nào cần phải tiến hành để đạt được điều đó. Ở đây có ít nhất
hai câu trả lời.
Một là những thông tin tự hiểu biết về mình phải là những thông tin có thể xác minh
được, có thể đoán trước được và có thể kiểm soát được và chính vì thế nó rất ít đụng chạm
đến những điểm nhạy hơn so với những thông tin mà không có những đặc điểm trên. Nếu
một cá nhân có thể kiểm soát tính hiệu lực của những thông tin trái ngược nhau, những
thông tin là không như mong đợi hoặc ngoài vùng kiểm soát của bản thân mình thì mình sẽ
nhận được những thông tin phản hồi để mà nghe mà chấp nhận.
Câu trả lời thứ hai, đối với vấn đề này đó là việc vượt qua những sự trở ngại, để tự
xem xét lại những thông tin không thật, trong vai trò của người khác. Và hầu như, chúng ta
cũng không thể phát triển những kỹ năng này, trong việc tự nhận thức, trừ khi chúng ta
mạnh dạn đối mặt với nó và vạch trần những điều của chính chúng ta trước những người
khác. Trừ khi chúng ta sẵn sàng thừa nhận những điều đó trước những người khác, để từ
đó có thể thoải mái hơn trong việc thảo luận với những chuyên gia hoặc những người bên
cạnh về những điều mà bản thân mình còn mơ hồ hoặc không biết, có như vậy thì chúng ta
mới có thể phát triển bản thân được. Việc tự bộc bạch (self-disclosure) bản thân mình được
xem là chìa khoá để cải thiện việc tự nhận thức (self-awareness).
Điều cần thiết đầu tiên là bạn cần cởi mở đối với những người khác khi bạn gặp phải
những khái niệm có tính mơ hồ. Bạn hãy nghĩ rằng nếu bạn đứng trước gương và thấy rõ
mình hơn trong đó nhưng bạn sẽ chẳng nhận thấy được gì cả, nhưng nếu bạn bày tỏ với
những người khác thì bạn sẽ nhận được nhiều điều bổ ích hơn thế. Đó là bởi vì cơ bản
6 - Chương 1: Tự nhận thức

chúng ta là một con người trong xã hội, một thành viên trong tổ chức, chứ không phải lẻ
loi, cô độc một mình.
Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh được điều đó. Sinh viên là những người
thường bộc bạch những tâm sự, những điều mà họ còn nghi vấn với nhau, để trao dổi với
nhau. Những cá nhân có đức tính tự bộc bạch (self-disclosure) là những người có khuynh
hướng, hướng đến những điều tốt nhất và sẽ nhận được những sự chấp nhận từ những người
khác.
Tuy nhiên cũng đừng bao giờ sử dụng những thông tin mà bạn được chia sẻ hay
nhận được để phán quyết hay làm tổn thương, xúc phạm đến những người khác. Chính sự
thật lòng của chính bạn sẽ làm cho bạn có được mối quan hệ gắn bó, thân thiết với những
người mà bạn có thể chia sẻ với họ, có như vậy việc thổ lộ với nhau sẽ dễ dàng hơn, đây là
điều kiện tiên quyết để có thể tự hiểu biết về chính bản thân mình.
Hiểu rõ và chấp nhận sự khác biệt giữa các cá nhân
Một lý do khác, đề cao vai trò quan trọng của sự tự nhận thức đó là giúp bạn phát
triển khả năng chẩn đoán sự khác nhau về giá trị ở những người khác, những người mà bạn
có quan hệ tác động qua lại với nhau. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng: tính
hiệu quả của một nhà quản trị là có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với khả năng của nhân
viên mình, trong việc nhận ra và chấp nhận sự khác nhau giữa những người khác nhau, nắm
rõ được những nguyên tắc cơ bản của những sự khác nhau này sẽ đảm bảo cho những nhà
quản trị có thể đạt được những thành công cho riêng mình.
Trong điều kiện ngày nay, sự đa dạng của lực lượng lao động trở thành một thách
thức đối với các nhà quản trị. Sự đa dạng xuất hiện khi lực lượng lao động trở nên thừa thải,
số lượng thành viên trong một tổ chức trở nên nhiều hơn và đa dạng hơn. Vì vậy, muốn
hiệu quả làm việc của nhóm được nâng cao thì cần phải nắm rõ và chấp nhận những sự
khác nhau đó. Sự khác nhau cơ bản nhất giữa các thành viên, đó là giới tính, tuổi tác, văn
hoá và dân tộc.
Vì thế trong chương này, chúng ta sẽ đề cập đến hai chủ đề chính sau: (1) để giúp
đỡ bạn có một cách hiểu về bản thân mình tốt hơn khi đứng trên phương diện là sự nhìn
nhận của một cá nhân, để có thể trang bị cho bạn những cách quản trị cho bản thân mình
một cách tốt hơn; (2) để giúp bạn có thể dự đoán, đánh giá và sử dụng những sự khác nhau
của các thành viên khác.
Việc tự hiểu biết về mình sẽ giúp bạn có cơ hội để xem xét lại những giả định mà
bạn cho là đúng, những điểm mặc cảm, những điểm nhạy, những điểm mạnh cũng như
những điểm yếu của bạn,…Những thông tin như vậy nó sẽ rất hữu dụng cho tất cả chúng
Chương 1: Tự nhận thức - 7

ta, bởi vì không phải chúng ta có thể hoặc nên thay đổi những khía cạnh của chính chúng
ta, những cách xác định cơ bản đã được hình thành theo cách nhìn nhận của chính chúng
ta, mà bởi vì nó giúp chúng ta có thể đưa ra những cách tác động đến những người khác
một cách có hiệu quả và sâu sắc hơn. Nó cũng giúp chúng ta có thể hoàn thiện khả năng
nhận diện vấn đề của chúng ta, từ đó đóng góp vào việc xây dựng những giá trị về vai trò
nghề nghiệp trong tương lai của chúng ta và những điểm mạnh đặc biệt của chúng ta so với
những người khác. Và lịch sử cũng đã chứng minh được rằng những anh hùng, những danh
nhân là những người đã có những sự khác biệt đó và họ đã biết cách sử dụng những điểm
mạnh đó để có thể làm nên những điều phi thường, họ thành công vì được cho là uy tín,
thông minh và cá tính. Việc tự hiểu biết về mình sẽ cho phép chúng ta nhận ra những điểm
đặc biệt và những điểm mạnh trong chúng ta, để từ đó ta có thể lợi dụng nó cùng với những
năng lực vốn có của chúng ta.
Phán đoán được những điểm khác nhau cơ bản ở những người khác nhau được xem
là một phần quan trọng để trở thành một nhà quản trị hiệu quả. Sự nhận thức, khuynh hướng
đồng cảm, những viễn cảnh khác nhau, nhu cầu và những “độ lệch” của những người khác
nhau là khác nhau, đây được xem là một phần quan trọng để có thể nắm bắt được những
cảm xúc và tính chân thật giữa các cá nhân với nhau. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều có
khuynh hướng tác động lẫn nhau, để từ đó nhận ra những người giống mình về mặt tâm lí,
rồi chọn những người đó cùng làm việc nhóm với mình, còn những người dường như có
những sự khác nhau về một vài điểm nào đó thì ta loại trừ họ ra.
Mặc dầu chúng ta khuyến khích những sự giống nhau, những sự hợp nhau để chúng
ta có thể tác động, giao tiếp với nhau một cách dễ dàng hơn, đặc biệt là làm việc nhóm, tuy
nhiên để có thể tạo ra những sự sáng tạo, giải quyết được những vấn đề phức tạp thì buộc
chúng ta phải chấp nhận sự khác nhau đó, chấp nhận sự thay đổi những ứng xử của chính
chúng ta để đi đến sự thống nhất.
Ngoài ra, đây cũng là chìa khoá giúp chúng ta có thể thu thập được những ý kiến và
những ý tưởng khác nhau từ những người khác nhau nhờ việc chia sẻ cho nhau những lời
cam kết, những ý kiến khác nhau (differences), chứ không phải là một sự phân biệt
(distinction). Chúng ta quan sát những sự khác nhau; chúng ta tạo ra những sự phân biệt.
Những sự khác nhau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ được những nguồn nguy cơ của những sự
hiểu lầm giữa mọi người và nó sẽ cung cấp cho chúng ta những đầu mối, những cách để
chúng ta có thể làm việc với nhau một cách hiệu quả hơn. Sự phân biệt tạo ra một rào cản
trong xã hội giữa mọi người với nhau, bên cạnh đó nó cũng sẽ tạo ra những khó khăn cho
chúng ta. Khi một vài người không để ý đến những ý kiến của những đồng nghiệp trong
nội bộ với lý do là người đó là một người không thuộc “thế hệ của chúng ta” hoặc “đó chỉ
8 - Chương 1: Tự nhận thức

là người làm Maketing mà thôi” hoặc “chỉ là một người đàn bà” hoặc “không có trình độ
đại học”,… Như vậy là chúng ta đã tạo ra một sự phân biệt, điều này là tiềm năng để gây
ra những tổn thương cho người khác và đây cũng chính là nguyên nhân gây nên những bất
lợi cho tổ chức.
Việc tạo ra một sự phân biệt sẽ phá hỏng niềm tin giữa mọi người với nhau, thậm
chí sự phân biệt đó sẽ làm cho chúng ta trở nên xa họ hơn. Nếu bạn là người đưa ra một sự
phân biệt và xem thường những người khác trong nhóm, đồng nghĩa với việc chúng ta đã
gieo một hạt “không có niềm tin” vào trong suy nghĩ của mọi người và họ sẽ nghĩ rằng sự
phân biệt của bạn là nhằm hạ thấp họ. Nhận thấy được những sự khác nhau, sự đa dạng nó
sẽ mang lại cho chúng ta một giá trị không giống như đưa ra một sự phân biệt. Một cái có
nghĩa là giúp đỡ và một cái có nghĩa là làm tổn thương. Khi những người khác cảm thấy
những thông tin tự bộc lộ của chính mình lại bị đem ra nói với những người khác - Điều
này làm cho họ bị đặt trong khía cạnh không thuận lợi của những sự phân biệt - Họ sẽ trở
nên miễn cưỡng để tham gia vào bất cứ một vài quá trình tự khám phá chính mình (self-
discovery), cụ thể đó là sẽ không dễ dàng gì để yêu cầu họ chia sẻ thông tin về những đặc
điểm trong con người của họ, tức họ sẽ không thích nói chuyện với bạn.
Sự tự nhận thức và hiểu biết những điều khác nhau có thể không xuất hiện nếu như
ta không có khả năng để tự bộc lộ mình, không có một sự chia sẻ, và một niềm tin trong
những cuộc trao đổi. Sự tự hiểu mình đòi hỏi một sự nhìn nhận và đề cao những sự khác
nhau đó, không nên tạo ra những sự phân biệt giữa mọi người với nhau, nó sẽ chỉ có hại mà
thôi.

1.1.3. Các yếu tố cốt lõi của tự nhận thức


Có nhiều thước đo có ý nghĩa để một người nào đó có thể chọn nhằm khảo sát một
cách tỉ mỉ việc tự nhận thức. Nhiều khía cạnh của việc dựa trên nhận thức được đo lường
một cách rõ ràng, các tác giả đã xác định được danh sách các mô tả dấu hiệu của “sự thông
minh” (intelligence), như số lượng những dạng biểu đồ nhiễm sắc thể của con người là ngày
một tăng lên, cùng với hàng trăm sự khác nhau về sinh lý học được xem là những điều cốt
yếu để hình thành nên những sự khác nhau về hành vi, về giới tính, tuổi tác, văn hoá, dân
tộc và kinh nghiệm.
Chúng ta sẽ tập trung thảo luận về 4 yếu tố cốt lõi của tự nhận thức như được giới
thiệu bởi Whetten và Cameron (2004), đây được xem là chìa khoá để có thể phát triển
những sự thành công của nhà quản trị, đó là: giá trị cá nhân (values), phong cách học
(learning style), thái độ đối với sự thay đổi (orientation toward change) và định hướng mối
Chương 1: Tự nhận thức - 9

quan hệ giữa các cá nhân (interpersonal orientation). Những khía cạnh được nêu ở trên
được trình bày dựa trên sự hữu hạn của một số các yếu tố cơ bản nhất, và chúng được phát
hiện dựa trên những cuộc nghiên cứu thực tế về các khía cạnh đã tạo nên những thành tích
của những nhà quản trị như: sự thành công trong hoạt động quản trị, sự thành đạt trong
cuộc sống, làm việc nhóm hiệu quả, thành thạo trong việc đưa ra những quyết định, khả
năng phát triển, sự sáng tạo, khả năng giao tiếp tốt,…
Giá trị của mỗi cá nhân lĩnh hội và nắm giữ, hình thành nên đặc điểm cốt yếu mỗi
cá nhân đó là những giá trị cá nhân (personal values) và những giá trị văn hoá (cultural
values). Những giá trị cá nhân (personal values), bao gồm những mong muốn, mục đích
chính yếu, và theo mỗi cá nhân suốt cuộc đời (gọi là giá trị mục đích) và những tư chất,
phẩm chất, cách thức hành động, kiểu hành vi mà cá nhân tôn quý (gọi là giá trị phương
tiện) là một trong những khía cạnh nhận thức được xem là cốt yếu nhất trong việc đưa ra
những khả năng ứng xử năng động về mặt hành vi, và nó cũng là phần quan trọng nhất
trong việc hình thành nhân cách của mỗi chúng ta. Tuy nhiên, những quan điểm, những
khuynh hướng và những hành vi khác nhau không hoàn toàn phụ thuộc vào những giá trị
cá nhân, mà còn bị chi phối bởi nền văn hoá mà cá nhân được tiếp thu và thừa nhận nó, đó
là giá trị văn hoá (cultural values). Giá trị văn hoá còn gọi là sự khác biệt văn hoá giữa các
quốc gia, bởi những con người sinh ra và lớn lên trong mỗi quốc gia, hay cùng một khu
vực, vùng miền thì có những quan điểm khá tương đồng nhau về những điều đúng, lẽ phải,
cách ứng xử với con người và tự nhiên, và những đặc trưng này tạo nên sự khác biệt giữa
các quốc gia.
Yếu tố cốt lõi thứ hai đó là phong cách học (learning style). Bạn cần phải hoàn thành
những công cụ đánh giá trong phần này để có thể đánh giá một cách chính xác hơn về
Phong cách học mà bạn đang sở hữu, cũng như một tiến trình nhằm gia tăng hiệu quả việc
học của bạn, giúp bạn tiếp thu kiến thức được dễ dàng hơn cũng như lưu giữ lâu hơn.
Yếu tố cốt lõi thứ ba là khuynh hướng đối với sự thay đổi (orientation toward
change). Phần này chúng ta sẽ tập trung vào những phương pháp mà nhiều người đã sử
dụng để đối mặt với những thay đổi của môi trường. Trong tương lai, tất cả chúng ta sẽ phải
đối mặt với sự gia tăng có tính rời rạc, những sự thay đổi nhanh chóng trong một mớ những
điều kiện hỗn độn (Peter, 1987). Nó rất quan trọng để bạn có được một sự nhận thức về
những định hướng rõ ràng nhằm thích nghi hơn với những điều kiện đó. Có hai loại thước
đo quan trọng đó là “nơi kiểm soát” (locus of control) và “khả năng chịu đựng sự mơ hồ”
(ambiguity).
10 - Chương 1: Tự nhận thức

Yếu tố cốt lõi thứ tư là khuynh hướng giao tiếp giữa các cá nhân với nhau, được định
nghĩa như là những mẫu hành vi giao tiếp được xem là phù hợp nhất, chúng được nêu ra để
giúp chúng ta có thể có nhận thức đúng đắn về những hành vi của chúng ta đối với những
người khác
Trên đây là bốn khía cạnh chính của quá trình tự nhận thức, chúng đóng vai trò cốt
lõi trong việc hình thành các khái niệm của chính bản thân chúng ta.
Nhiều khía cạnh khác của việc tự nhận thức sẽ được xem xét trong Chương này như
cảm xúc (emotion), thái độ (attitude), tính khí (Temperament), cá tính (personality) và
những sự quan tâm (interest). Nhưng về cơ bản thì tất cả những khía cạnh này có một mối
quan hệ mật thiết với 4 khía cạnh chính mà ta đã đề cập ở trên đây. Chúng ta đánh giá cái
gì, làm thế nào chúng ta có thể cảm nhận được mọi thứ, chúng ta đối xử ra sao với những
người khác, chúng ta mong muốn đạt được điều gì và điều gì là thu hút ta trước những sự
ảnh hưởng mạnh mẻ xuất phát từ những giá trị, những Phong cách học, những Khuynh
hướng thay đổi và những Khuynh hướng giao tiếp giữa các cá nhân với nhau của chính
chúng ta. Tuy nhiên cũng không nên xem nhẹ những điều này vì nhờ nó mà quá trình tự
nhận thức của chúng ta được hoàn thiện hơn.

Giá trị
Chuẩn mực, ưu
tiên và sự trưởng
thành giá trị

Thái độ đối với Phong cách học


sự thay đổi Xác định việc thu
Xác định khả năng thập và đánh giá
thích nghi và sự thông tin
chịu trách nhiệm

Nhu cầu giao tiếp


giữa các cá nhân
Xác định những sở
thích và các mô hình
tương tác

Hình 1.2. Bốn yếu tố cốt lõi của tự nhận thức


Chương 1: Tự nhận thức - 11

Giá trị
Giá trị là một đặc điểm vững chắc và lâu dài nhất của mỗi cá nhân. Nó được xem
như là nền tảng chính để hình thành nên những quan điểm và những sở thích riêng của mỗi
cá nhân. Giá trị là nền tảng của những quyết định cốt yếu, những định hướng sống và sự
cảm nhận của mỗi cá nhân. Nhờ nó mà trong bản thân mỗi chúng ta có thể xác định, điều
nào là “đúng”, những điều mà đối với chúng ta là những “đạo lí” và những quan niệm của
bản thân chúng ta được hình thành đối với thế giới xung quanh. Phần lớn những quan niệm
trong bản thân chúng ta được hình thành trong suốt quá trình sống của mỗi chúng ta, là
những sản phẩm của những giá trị cơ bản (basic value) trong chính chúng ta
Tuy nhiên, điều đáng lo về giá trị là chúng được xem như là một sự hiển nhiên, làm
cho chúng ta thường không ý thức về chúng. Những giá trị thường được cố định và duy trì
trong một thời gian dài đến nỗi rất khó để phát hiện sự hiện diện của nó. Mọi người không
nhận thức được rằng họ đang nắm giữ một số giá trị được xem là quan trọng hơn của những
người khác. Sự vô ý thức này sẽ đưa chúng ta đến những hành động hoặc hành vi mà đôi
khi nó lại trái ngược đối với bản chất về những giá trị, thậm chí nó còn đối lập, phủ nhận
những giá trị đó. Cho đến khi mọi người đối mặt với sự mâu thuẩn hoặc thậm chí là một sự
đe doạ đối với những giá trị cơ bản của họ, thì họ hiếm khi đưa ra những biểu hiện ăn khớp
với những giá trị của họ hoặc đưa ra một sự sàn lọc chúng.
Những giá trị của mỗi chúng ta, thường bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, và có một số
cách được sử dụng để đo lường và miêu tả giá trị. Trong chương này, sẽ chỉ tập trung vào
một số cách chính mà thôi, những cách đã được sử dụng một cách rộng rãi trong những
cuộc nghiên cứu và trong công tác quản trị. Đầu tiên, sẽ bàn về những khuynh hướng giá
trị chung, có tính tổng quát, được xếp vào chung một nhóm lớn với những đặc điểm giống
nhau như quốc gia, dân tộc, ngành, hoặc tổ chức. Nhiều cuộc nghiên cứu đã được tiến hành
những nhóm giá trị này, ví dụ nghiên cứu sự khác nhau về giá trị xuất hiện giữa các nền
văn hoá. Điểm chính của cuộc nghiên cứu này là nhằm xác định những sự khác nhau giữa
các quốc gia, nó xuất phát từ nhu cầu của những nhà quản trị khi phải đối mặt với nhu cầu
để quản trị công việc kinh doanh của mình khi nó đã vượt ra khỏi biên giới của một quốc
gia. Trong cuộc sống của chúng ta, có thể chúng ta sẽ phải gia tăng sự tương tác với những
cá nhân không giống với mình trong cùng một đất nuớc và chúng ta sẽ tiếp cận với những
khuynh hướng giá trị của họ, điều này sẽ giúp chúng ta có thể đưa ra những sự tương tác
dễ dàng và hiệu quả hơn với những người khác nhau. Những sự khám phá về những giá trị
khác nhau của những nền văn hoá quốc gia khác nhau và những giá trị khác nhau này sẽ
tác động mạnh mẽ đến giá trị của mỗi người, từ đó sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc
12 - Chương 1: Tự nhận thức

phán đoán những giá trị cố hữu trong mỗi chúng ta. Ít nhất, thì một vài giá trị của chúng ta
là bị ảnh hưởng một cách đáng kể bởi quốc gia và nền văn hoá.
Giá trị văn hóa
Nhà nghiên cứu Trompenaars (1998) đã xác định ra 7 thước đo giá trị, được hình
thành trên cơ sở những sự khác nhau có ý nghĩa tồn tại giữa các nền văn hoá của các quốc
gia. Cuộc nghiên cứu của ông được tiến hành trên 30000 nhà quản trị thuộc khoảng 55 quốc
gia khác nhau, và ông đã phát hiện ra rằng mỗi nền văn hoá của mỗi quốc gia sẽ nhấn mạnh
và tập trung vào một số giá trị nổi bật nào đó so với những nền văn hoá khác, và không có
một nền văn hoá quốc gia nào là chỉ nhấn mạnh đến một loại thước đo giá trị nào đó và loại
trừ những thước đo giá trị khác.
Năm thước đo đầu tiên của mô hình này bàn đến cá nhân quan hệ với người khác
như thế nào.
Thứ nhất: Tính phổ quát – Tính đặc trưng. Ở một vài quốc gia chẳng hạn như:
Mỹ, NaUy, Thụy Điển, Thụy Sĩ,… thường nhấn mạnh đến một loại giá trị đó là “tính phổ
quát”, và hành vi của những con người nơi đây là bị chi phối bởi những nguyên tắc và tiêu
chuẩn của sự hiểu biết chẳng hạn như không nói dối, không gian lận, không vượt đèn đỏ,…
Những nguyên tắc chung của xã hội đóng vai trò chi phối hành vi của mỗi người. Còn đối
với những quốc gia khác như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, Singapore,… sẽ đi theo
một loại giá trị, gọi là văn hoá đặc trưng, ở đó nguyên tắc và tiểu chuẩn để ra quyết định
theo tình huống thực tế mà trong đó mối quan hệ cá nhân chi phối hành vi (Ví dụ, xem
nguời khác là một người bạn hoặc là một thành viên trong gia đình hoặc có một mối quan
hệ ruột rà gì chăng với mình).
Để minh hoạ sự khác nhau này, chúng ta hãy cùng xem xét những câu trả lời của
tình huống sau: Người bạn thân của bạn đang lái một chiếc ô tô chở theo bạn trong thành
phố. Tuy nhiên, người bạn này đã đi với tốc độ 60 km/h và tông vào một người đi bộ, trong
khi đoạn đường chỉ cho phép chạy với tốc độ 40 km/giờ. Và xung quanh đó không có một
ai chứng kiến cảnh này, ngoài bạn ra thì không còn nhân chứng nào nữa và luật sư của anh
ta nói rằng nếu bạn đứng ra làm chứng rằng anh ấy chỉ đi với tốc độ 25 dặm/h thì anh ấy sẽ
thoát tội. Bạn sẽ đồng ý nói dối dùm cho anh ấy chứ? Đa số mọi người thuộc nền văn hoá
hiểu biết thì trả lời rằng họ sẽ từ chối, còn đối với những người trong nền văn hoá tôn thờ
thì ngược lại. Cụ thể là 97% người Thụy Sĩ và 93% người Bắc Mỹ (như Canada và Mỹ) trả
lời là sẽ từ chối để chứng thực cho anh ta, trong khi đó chỉ có 32% người Venezuela và
37% người Hàn Quốc sẽ từ chối (Whetten, D.A., & Cameron, K.S., 2004).
Chương 1: Tự nhận thức - 13

Thứ hai: Chủ nghĩa cá nhân – Chủ nghĩa tập thể. Giá trị của “chủ nghĩa cá nhân”
nhấn mạnh đến chính bản thân mình, nhấn mạnh đến sự độc lập và đề cao tính duy nhất.
Nó đối lập với chủ nghĩa tập thể - nhấn mạnh đến nhóm, sự kết hợp giữa các đơn vị và sự
cùng tham gia của các cá nhân khác. Giá trị của chủ nghĩa cá nhân thường hướng đến việc
đề cao sự đóng góp của riêng một cá nhân, nhưng ngược lại đối với văn hoá của chủ nghĩa
tập thể thì nó lại nghiêng về việc đề cập đến sự đóng góp của một tập thể.
Nói chung, thì trách nhiệm rõ ràng của cá nhân ở văn hoá Phương Tây thì nó trội
hơn so với văn hoá Phương Đông. Để thấy rõ hơn chúng ta sẽ tiến hành xem xét câu trả lời
trong tình huống sau: Loại công việc nào được xem là phổ biến nhất được tìm thấy trong tổ
chức của bạn trong số những loại sau: tất cả mọi người cùng làm việc với nhau và bạn sẽ
không nhận được bất cứ một sự tín nhiệm cá nhân nào cả, hay là mọi người được phép để
làm việc riêng lẻ và bạn sẽ nhận được một sự tín nhiệm đối với cá nhân bạn? Các nước
Đông Âu (Ví dụ: Nga, Cộng Hoà Sec, Hungary, Ba Lan ) có một tỷ lệ là trên 80% người,
ở Mỹ là 72% người đồng ý rằng sự tín nhiệm cá nhân là được thừa nhận, ngược lại, đối với
những nước Châu Á (Ví dụ như: Nhật, Ấn Độ, NêPan) thì trung bình có dưới 45% người
(Whetten, D.A., & Cameron, K.S., 2004).
Thứ ba: Biểu lộ cảm xúc nơi công cộng – Trung lập. Thước đo giá trị thứ ba nhằm
đề cập đến sự biểu lộ cảm xúc nơi công cộng. Nó xác định một khuynh hướng biểu lộ cảm
xúc tự nhiên đối lập với khuynh hướng không rõ ràng, trung lập. Những giá trị của nền văn
hoá biểu lộ cảm xúc rõ ràng nhấn mạnh đến việc thể hiện những cảm xúc một cách cởi mở
và gắn những sự biểu lộ cảm xúc như cười to, giận dữ, và phản ứng mạnh mẽ… Những giá
trị được quy định bởi nền văn hoá trung lập, thể hiện những cảm xúc không rõ ràng, Họ
thường đưa ra những cách tiếp cận có lý trí và có tính chịu đựng trong những nghịch cảnh
khi tiến hành giải quyết vấn đề. Mục tiêu định hướng hành vi của họ hơn là để tình cảm dẫn
dắt, định hướng mục tiêu ngự trị trong các mối quan hệ của họ với người khác.
Nếu bạn trở nên cảm thấy khó chịu trong công việc hoặc trong lớp học - hoặc đang
bị làm cho tức giận - Thì bạn có thể sẽ biểu lộ những cảm xúc của bạn ở những nơi công
cộng chứ? Những nhà quản trị ở Nhật, Êthiôpia và HongKong thì trả lời với trung bình lần
lượt là 64%, 74%, 81% người, là trả lời từ chối việc biểu hiện cảm xúc ra những nơi công
cộng. Mặt khác, 15% các nhà quản trị ở Kuwait, 18% các nhà quản trị ở Ai Cập và 19%
các nhà quản trị ở Tây Ban Nha sẽ từ chối và Mỹ là chỉ 43% người là từ chối. (Whetten,
D.A., & Cameron, K.S., 2004).
Thứ tư: Sự tách biệt – Sự hoà nhập. Sự tách biệt đối lập với sự hoà nhập, nhằm
mô tả sự khác biệt giữa các nền văn hoá. Một bên là nhằm nói về sự tách biệt giữa những
14 - Chương 1: Tự nhận thức

vai trò khác nhau trong cuộc sống để duy trì sự cách biệt và sự tự quyết cho bản thân mình,
với một bên là sự hoà nhập và hợp nhất các vai trò lại với nhau. Văn hoá nhấn mạnh đến
sự tách biệt, tách rời nhau rõ ràng trong mối quan hệ công việc với mối quan hệ gia đình,
ngược lại văn hoá hòa nhập, hợp nhất, lẫn lộn nhau, đặc biệt là sự đan xen lẫn lộn giữa mối
quan hệ gia đình với mối quan hệ công việc. Người mà có giá trị của sự tách biệt sẽ rất là
khó để trao đổi, để biết nhau hơn bởi vì đối với họ luôn có một ranh giới rõ ràng giữa đời
sống cá nhân và đời sống công việc. Người mà sống trong nền văn hoá hoà nhập thì dường
như là quá sốt sắng và quá hời hợt, thường không kỹ luỡng trong công việc, bởi vì dường
như là họ chia sẻ những thông tin cá nhân một cách tự do và vô tội vạ. Văn hoá hoà nhập
sẽ làm cho tỷ lệ lợi nhuận trong công việc giữa các nhân viên đạt được là thấp hơn, nhưng
ngược lại thì lòng trung thành, trung nghĩa, gắn bó dài lâu giữa họ thì lại có một mức độ
cao hơn, lý do được đưa ra ở đây, đó là do tình cảm của mối quan hệ cá nhân và mối quan
hệ công việc là luôn bện vào nhau.
Để minh họa rõ nét hơn, bạn hãy xem xét một tình huống sau: Sếp của bạn yêu cầu
bạn đến nhà của bà ấy để giúp bà ấy sơn sửa lại ngôi nhà. Bạn không muốn đến để làm
công việc này vì bạn rất ghét sơn. Bạn có từ chối hay không? Hơn 90% người ở Hà Lan và
Thụy Điển trả lời là họ từ chối, nhưng ngược lại thì chỉ 32% người ở Trung Quốc, 46%
người ở Nigêria là từ chối, và ở Mỹ là 82% người từ chối (Whetten, D.A., & Cameron,
K.S., 2004).
Thứ năm: Khuynh hướng vươn cao – khuynh hướng đổ lỗi. Thước đo giá trị thứ
năm về sự khác nhau giữa các nền văn hoá, đó là sự nhấn mạnh đến khuynh hướng vươn
cao để đạt được và khuynh hướng đổ lỗi, viện cớ. Nền văn hoá của một số quốc gia thì mọi
người có khuynh hướng muốn vươn lên để đạt được những địa vị cấp bậc cao, dựa vào sự
vận động của chính bản thân, sự hoàn thành nhiệm vụ của chính mình, nhưng ngược lại ở
một số nền văn hoá khác thì người ta thường chú trọng nhiều đến thân thế và địa vị uy thế,
thì người ta có xu hướng né tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho những đặc điểm như tuổi tác, giới
tính, dòng dõi quý tộc hoặc gia đình quyền quý. “Bạn biết ai?” (văn hoá đổ lỗi, né tránh
trách nhiệm, nhờ vả) đối lập với “Bạn có thể làm gì?” (Văn hoá vươn lên bằng khả năng
bản thân).
Qua hai điều đã nêu như trên thì chúng ta cũng đã hình dung được sự khác nhau giữa
hai nền văn hoá. Để rõ hơn ta đi sâu vào tình huống sau: Điều quan trọng là hành động theo
cách bạn cho là thích hợp với lòng tin của chính mình, thậm chí bạn không hoàn thành
nhiệm vụ đi chăng nữa. Chỉ 10% các nhà quản trị ở Uruguay, 12% từ Achentina, 13% từ
Tây Ban Nha là không đồng ý với với tình huống này, ngược lại 77% người NaUy và 75%
các nhà quản trị Mỹ là đồng ý (Whetten, D.A., & Cameron, K.S., 2004).
Chương 1: Tự nhận thức - 15

Hai thước đo cuối cùng xác định mối quan hệ con người với thời gian và tự nhiên,
đó là mối quan hệ với thời gian và khả năng chi phối sự vận hành của tự nhiên.
Thứ sáu: Hiện tại - tương lai. Thước đo giá trị thứ sáu liên quan đến cách làm thế
nào mà mọi người thể hiện/hiểu và quản trị thời gian. Nó phân biệt sự nhấn mạnh đến những
hoàn cảnh trong quá khứ, hiện tại hoặc trong tương lai ở các nền văn hoá khác nhau. Chẳng
hạn, ở một vài nền văn hoá, thì người ta thường chú trọng đến giá trị quá khứ và truyền
thống hơn là tương lai; ở những nền văn hóa khác chú trọng đến giá trị tương lai hơn là quá
khứ. Bạn đã từng có những vấn đề gì trong quá khứ, trong khi đó ở một vài nền văn hoá
khác thì người ta lại thường đặt câu hỏi bạn có thể làm được gì, đi đến đâu trong tương lai.
Đồng thời cũng tồn tại một tầm nhận thức trong ngắn hạn và trong dài hạn. Ví dụ một vài
người là thường có khuynh hướng chính đến những sự nhận thức trong một thời gian ngắn,
tức họ luôn nghĩ trong một giới hạn của phút và giờ, trong khi đó những người khác thì lại
có nhận thức về những khoản thời gian dài, xa hơn tức họ luôn nghĩ về một khoảng thời
gian mà được tính bằng tháng hoặc năm.
Thứ bảy: Khả năng chi phối tự nhiên – Sự phát triển và chấm dứt theo lẽ thông
thông thường của tự nhiên. Một số người thì cho rằng những cá nhân trong việc kiểm soát
số phận của mình thì chịu sự kiểm soát của những lực lượng siêu nhiên nào đó ở bên ngoài
(chấp nhận cho tự nhiên phát triển và chấm dứt theo lẽ thông thường). Trong khi nhiều
người khác thì nhấn mạnh đến quản trị chính bản thân mình và điều khiển, kiểm soát chính
mình (khả năng chi phói tự nhiên).
Hai trường hợp sau đây được đưa ra minh hoạ nhằm làm rõ sự khác nhau giữa hai
quan điểm này: (1) Những điều xảy ra đối với tôi phụ thuộc vào những điều tôi đã và đang
làm, (2) Thỉnh thoảng tôi cảm nhận rằng tôi không có đủ sức kiểm soát đối với những điều
xảy ra trong cuộc đời của tôi. Và đây là kết quả: hơn 80% các nhà quản trị ở Uruguay, Na-
Uy, Ixrael và Mỹ đồng ý với quan điểm thứ nhất, nhưng ngược lại chỉ dưới 40% các nhà
quản trị ở Venezuela, Trung Quốc và Nê Pan thì cùng đồng ý với quan điểm thứ nhất này
(Whetten, D.A., & Cameron, K.S., 2004).
Xuyên suốt cuốn sách này, những sự khác biệt của những nền văn hoá khác nhau
luôn được lặp lại để các bạn có thể nắm rõ hơn về những sự khác nhau này. Chúng tôi
khuyến khích bạn vận dụng những điểm khác biệt này để gia tăng sự nhận thức của bạn về
những sự khác nhau về nền văn hoá của mỗi cá nhân xung quanh các bạn. Bởi vì hầu như
mỗi nhà quản trị của chúng ta sẽ phải đối mặt với những cơ hội để tương tác với các cá
nhân quản trị khác đến từ những nền văn hoá khác nhau, nhất thiết cần phải có sự nhận thức
về những giá trị khác nhau này và chỉ có nắm vững sự khác biệt của những nền văn hoá,
16 - Chương 1: Tự nhận thức

thì chúng ta mới có thể chẩn đoán và quản trị những sự khác nhau đó. Điều này được xem
như là một điều kiện tiên quyết, quan trọng cho sự thành công trong thời đại mới, thế kỷ
mới, thế kỷ 21. Đối với những người, xuất phát từ một nền văn hoá giống nhau, thường có
một sự rập khuôn về giá trị nhận thức, hoặc có một xu hướng, khuynh hướng khá giống
nhau. Và đây là những điều mà chúng ta có thể suy ra và nhận thấy một cách gián tiếp đối
với những cá nhân này, tuy nhiên nó có thể sẽ dẫn đến một sự nguy hiểm hoặc cũng có thể
là một sự sai lệch. Không ai trong chúng ta có thể phân loại hoặc sắp xếp một cách chính
xác, rõ rệt về những sự khác nhau này dựa trên một dữ liệu tổng quát về tất cả các quốc gia.
Những thước đo được trình bày trên đây, được xem là rõ ràng nhất và rất hữu dụng cho
việc hoàn thiện độ nhạy và hỗ trợ cho các bạn rất nhiều trong việc chẩn đoán hơn là việc
các bạn phải tiến hành đánh giá, sắp xếp từng người vào chung một loại hay nhóm nào đó.
Cũng như các quốc gia, các tổ chức cũng có riêng cho mình một hệ thống giá trị đặc
thù, được gọi là giá trị của tổ chức (Organizational Value). Một cuộc nghiên cứu đã chỉ ra
rằng các nhân viên trong cùng một tổ chức thường có một sự đồng dạng về các giá trị mà
tổ chức đó sở hữu, giá trị của một tổ chức là cái mà do chính tổ chức đó tạo ra và những
người trong tổ chức đó cảm thấy hài lòng về chúng. Tuy nhiên, các giá trị mà mỗi cá nhân
sở hữu có thể là mâu thuẫn với những giá trị của tổ chức đó, và đó cũng chính là nguồn gốc
gây ra sự thất vọng và động lực làm việc của mỗi thành viên, từ đó các cuộc xung đột có
thể diễn ra và có thể dẫn đến sự giảm năng suất làm việc ở những thành viên đó. Nhận thức
về những ưu thế và giá trị mà bạn đang sở hữu, về những giá trị của tổ chức, và những giá
trị của chính đất nước của bạn, là một công việc được xem là rất quan trọng nếu bạn muốn
đạt được một sự tương thích giữa công việc và một nghề nghiệp lâu dài của bạn. Nhưng
cuốn sách này không tập trung vào bàn luận vấn đề giá trị của tổ chức.
Giá trị cá nhân
Rokeach (1973) khẳng định rằng con người có một số lượng không lớn các giá trị
và tất cả các cá nhân đều có những giá trị như nhau, nhưng ở những mức độ khác nhau,
chẳng hạn mọi người đều có giá trị hòa bình nhưng một số người thì cho nó có giá trị ưu
tiên cao hơn những người khác. Có hai loại giá trị cá nhân, đó là giá trị phương tiện và
giá trị mục đích.
Giá trị phương tiện mô tả những tiêu chuẩn mong muốn về tư chất đạo đức hoặc
phương pháp để đạt được mục đích. Hai loại của giá trị phương tiện liên quan đến đạo đức
và khả năng thực hiện công việc. Những giá trị phi đạo đức (chẳng hạn hành vi sai trái) gây
ra cảm giác tội lỗi, trong khi những giá trị thiếu khả năng thực hiện công việc (chẳng hạn
hành vi bất tài, sự thiếu hiểu biết) gây ra cảm giác xấu hỗ.
Chương 1: Tự nhận thức - 17

Giá trị mục đích mô tả mục đích hoặc mục tiêu mong muốn cuối cùng của cá nhân.
Theo Rokech thì số giá trị mục đích có ít hơn số giá trị phương tiện, cho nên toàn bộ cá
nhân trong tất cả các xã hội đều có thể nhận biết được. Giá trị mục đích có thể là chú trọng
vào cá nhân hoặc xã hội (chẳng hạn sự bình yên của bản thân hoặc là một thế giới hòa bình).
Rokeach đã tìm thấy một sự gia tăng về quyền ưu tiên của một xu hướng giá trị cá nhân cao
làm gia tăng sự ưu tiên về giá trị cá nhân và giảm ưu tiên của giá trị xã hội. Ngược lại, một
sự gia tăng về quyền ưu tiên của xu hướng xã hội cao làm gia tăng sự ưu tiên của những
giá trị xã hội và làm giảm những giá trị cá nhân. Những cá nhân mà gia tăng sự ưu tiên của
họ về một thế giới hòa bình cũng sẽ gia tăng sự ưu tiên của họ về sự công bằng trong khi
đó sẽ làm giảm sự ưu tiên của họ về niềm vui thích của mình hoặc lòng tự trọng. Con người
có xu hướng khác nhau trong đánh giá, họ tự nhận thức chống lại khuynh hướng của người
khác về những giá trị của mình. Biểu 1.1 đưa ra 18 giá trị mục đích, những giá trị quan
trọng nhất trong xã hội Hoa Kỳ.

Biểu 1.1. Giá trị cá nhân

Giá trị mục đích Giá trị phương tiện

1. Một cuộc sống tiện nghi 1. Tham vọng

2. Một cuộc sống thú vị 2. Cao thượng

3. Một ý thức về sự hoàn thành nhiệm vụ 3. Khả năng

4. Một thế giới hòa bình 4. Đấu tranh

5. Một thế giới xinh đẹp 5. Sạch sẽ

6. Công bằng 6. Can đảm

7. Một gia đình an toàn 7. Khoan dung

8. Tự do 8. Giúp đỡ

9. Hạnh phúc 9. Trung thực

10. Cân đối bên trong 10. Giàu trí tưởng tượng

11. Một tình yêu thật sự 11. Độc lập


18 - Chương 1: Tự nhận thức

12. An ninh quốc gia 12. Trí tuệ

13. Ước mơ 13. Lô gíc, hợp lý

14. Sự cứu tế 14. Đằm thắm

15. Tự trọng 15. Biết vâng lời

16. Sự thừa nhận của xã hội 16. Lịch sự

17. Tình bạn chân thành 17. Trách nhiệm

18. Sự thông thái 18. Tự kiểm soát

Trong một nghiên cứu 1460 nhà quản trị Hoa Kỳ, Schmidt và Posner đã xác định
những loại giá trị quan trọng nhất ở nơi làm việc. Sử dụng những giá trị phương tiện mà
Rokeach đã đưa ra trong Biểu 1.1, để nhận diện những giá trị mong muốn nhất của các nhà
quản trị ở nơi làm việc là trách nhiệm và trung thực/chân thành được xác định là quan trọng
nhất (hơn 85% nhà quản trị đã lựa chọn chúng), sau đó 65% là năng lực và 55% là giàu trí
tưởng tượng, logic là 49%. Ý thức chấp hành nhiệm vụ, sạch sẽ, lịch sự, và lòng khoan dung
là ít quan trọng - chỉ chiếm 10% (Whetten, D.A., & Cameron, K.S. (2004).
Tại Miền Trung và Tây Nguyên (MT-TN), Nguyễn Quốc Tuấn (2017) đã xác định
danh mục 10 giá trị cá nhân quan trọng nhất, như được nêu ở Biểu 1.2, được sắp xếp theo
mức độ quan trọng tại mỗi vùng miền (Bắt trung bộ (BTN), Duyên hải Nam trung bộ
(DHNTB), Tây nguyên (TN)).

Biểu 1.2. Giá trị cá nhân tại Miền Trung – Tây Nguyên

TT Bắt trung bộ Duyên hải Nam trung bộ Tây nguyên

1 Gia đình an toàn Gia đình an toàn Gia đình an toàn

2 Hạnh phúc Hạnh phúc Hạnh phúc

3 Trách nhiệm Trách nhiệm Tự do

4 Thế giới hòa bình Thế giới hòa bình Trách nhiệm

5 An ninh quốc gia Tự do Tình bạn chân thành


Chương 1: Tự nhận thức - 19

6 Trung thực An ninh quốc gia Tự trọng

7 Công bằng Ý thức hoàn thành nhiệm vụ An ninh quốc gia

8 Tự do Tình bạn chân thành Trung thực

Ý thức hoàn thành


9 Giúp đỡ Tự kiểm soát nhiệm vụ

10 Tự kiểm soát Trung thực Tự kiểm soát

Trong nhóm 10 giá trị cá nhân quan trọng nhất mỗi vùng miền, có 7 giá trị là chung
cho tất cả các vùng miền của Miền Trung – Tây nguyên đó là đó là “gia đình an toàn”,
“hạnh phúc”, “trách nhiệm”, “tự do”, “an ninh quốc gia”, “trung thực” và “tự kiểm soát”.
Có những giá trị cá nhân thuộc cấu trúc giá trị tại một hay vài khu vực và cả MT-TN nhưng
lại không thuộc cấu trúc giá trị cá nhân của một khu vực nào đó thuộc MT-TN. Chẳng hạn,
“Thế giới hoà bình” thuộc cấu trúc giá trị cá nhân ở hai khu vực BTB, DHNTB, nhưng lại
không thuộc cấu trúc giá trị cá nhân (trong nhóm 10 giá trị quan trọng nhất) của khu vực
TN.
Các nhóm khác nhau có xu hướng nắm giữ những giá trị khác nhau. Chẳng hạn,
trong một nghiên cứu khác, những sinh viên và các giáo sư ở các trường kinh doanh có xu
hướng cao về tham vọng, năng lực, trách nhiệm và tự do hơn so với những nhóm khác. Họ
có xu hướng ít coi trọng việc quan tâm và giúp đỡ người khác, khiếu thẩm mỹ và những
giá trị văn hóa, và khôi phục sự không công bằng xã hội. Trong một nghiên cứu khác đã so
sánh những nhà quản trị thành công cao, bình thường và thất bại, những nhà quản trị thành
công cao có điểm số cao về giá trị kinh tế (như là cuộc sống tiện nghi) và quyền lực (như
là sự thừa nhận của xã hội) so với những nhà quản trị kém thành công.
Một so sánh chung trong công chúng, về căn bản những nhà quản trị đã sắp xếp giá
trị hơn về ý thức hoàn thành nhiệm vụ, lòng tự trọng, một cuộc sống tiện nghi, và độc lập.
Giá trị phương tiện mà những nhà quản trị nắm giữ cao nhất trong bản thân họ là tham
vọng. Giá trị mục đích cuối cùng cao nhất mà họ sở hữu là ý thức hoàn thành nhiệm vụ.
Những giá trị cá nhân (giá trị cá nhân chứ không phải là giá trị xã hội) đối với các nhà quản
trị định hướng sự thành đạt là trội hơn hẳn. Nói chung trong công chúng, một nghiên cứu
đã xác định rằng sự chân thành – một sự phối hợp nhấn mạnh khả năng về lòng khoan dung,
giàu trí tưởng tượng, tự do và tự điều khiển mình đối lập với sự nhấn mạnh về sự chấp nhận,
20 - Chương 1: Tự nhận thức

sự vâng lời, và sự tuân thủ là giá trị ngự trị trong số đông chúng ta. Không có sự khác nhau
về giới tính đã được xác định trong nghiên cứu của Rokeach.
Trình bày những giá trị này có thể giải thích tại sao những sinh viên kinh doanh và
thậm chí tự thân các nhà quản trị đã phê phán bản thân mình trở nên quá tập trung vào bản
thân và không kiên trì về sự thành đạt cá nhân và sự tiến bộ. Một sự cân bằng về những giá
trị cá nhân và giá trị xã hội, cũng như sự công bằng và giúp đỡ có thể là những đặc điểm
thích hợp hơn cho nhà quản trị trong tương lai.
Những giá trị định hướng cá nhân và thành tích không có nghĩa đảm bảo trở thành
những nhà quản trị thành công. Tuy nhiên, rõ ràng rằng những giá trị gây ảnh hưởng đến
hành vi cá nhân, cũng như khả năng tương hợp về những giá trị phương tiện và mục đích
được nghiên cứu khẳng định là có mối quan hệ mật thiết với hiệu quả làm việc nhóm. Một
số tác giả đã tranh cãi rằng, hành vi được thể hiện bởi cá nhân là sản phẩm về mức độ
trưởng thành về những giá trị của họ. Các cá nhân khác nhau về mức độ phát triển giá trị
của họ, vì thế các cá nhân nắm giữ những giá trị phương tiện khác nhau ở những giai đoạn
phát triển khác nhau. Con người tiến bộ từ mức độ trưởng thành này đến mức độ trưởng
thành khác, vì thế thứ tự ưu tiên các giá trị cũng sẽ thay đổi. Những cá nhân tiến bộ về mức
độ trưởng thành hơn về sự phát triển giá trị sở hữu những giá trị phương tiện chất lượng
cao hơn những cá nhân ở mức độ trưởng thành thấp. Lý thuyết trưởng thành về những giá
trị (values maurity) hoặc phát triển đạo đức, phẩm hạnh được các nhà nghiên cứu chấp
nhận và một nghiên cứu đã xác định có quan hệ mật thiết với sự tự nhận thức và hiệu quả
quản trị. Vì vậy, chúng ta nên bàn bạc một vài chi tiết về vấn đề trưởng thành giá trị.
Trưởng thành về giá trị
Mô hình của Kohlberg được biết đến và được vận dụng phổ biến trong các nghiên
cứu trưởng thành về giá trị. Nó tập trung vào các loại lý do được sử dụng để đưa ra kết
luận về một vấn đề mà có ý nghĩa giá trị hoặc đạo đức. Mô hình gồm ba cấp độ chủ yếu,
trong mỗi cấp độ có hai giai đoạn. Biểu 1.3 tóm tắt những đặc điểm của mỗi giai đoạn. Các
giai đoạn là một dãy liên tục, tức là một cá nhân không thể tiến đến giai đoạn ba mà không
qua giai đoạn hai, và mỗi giai đoạn giới thiệu một mức độ cao hơn của sự trưởng thành.
Kohlberg sử dụng các thuật ngữ Tập trung vào bản thân (Preconventional), Thừa nhận
(Conventional), và Nguyên tắc hoá (Postconventional). Ở mỗi cấp độ, sự phát triển của sự
trưởng thành thể hiện khả năng đưa ra các quyết định có tính chất đạo lý của cấp độ đó, do
đó gọi là giá trị đạo lý.

Biểu 1.3. Phân loại các giai đoạn phát triển của sự trưởng thành về giá trị
Chương 1: Tự nhận thức - 21

Cấp độ trưởng thành giá trị Giai đoạn phát triển giá trị

A. Cấp độ tập trung vào bản thân 1. Sự trừng phạt và tuân thủ
Giá trị đạo lý tập trung vào những Điều đúng được xác định bởi tránh được sự
nhân tố bên ngoài và hậu quả, trừng phạt hoặc không phá bỏ những quy tắc
không liên quan đến con người và quyền lực.
các mối quan hệ. 2. Mục tiêu phương tiện cá nhân và sự trao đổi
Điều đúng thỏa mãn ngay lập tức những lợi ích
của bản thân, và điều công bằng và không thiên
vị đối với người khác

B. Cấp độ thừa nhận 3. Những kỳ vọng và mối quan hệ qua lại giữa
Giá trị đạo lý tập trung vào trách các cá nhân, và sự tuân theo.
nhiệm, bổn phận, duy trì một sự Điều đúng được tập trung vào cảm nhận của
liên kết xã hội và đảm bảo các cam người khác và duy trì sự trung thực bằng những
kết kỳ vọng và những cam kết. Xử sự nhất quán là
hợp lý.
4. Hệ thống xã hội và gìn giữ lương tâm
Điều đúng là thực hiện trách nhiệm đối với xã
hội và ủng hộ quy tắc thứ bậc xã hội

C. Giá trị được nguyên tắc hóa 5. Sự hợp lý ưu tiên và cam kết xã hội hoặc tính
Giá trị đạo lý hàm chứa trong cam thiết thực
kết lựa chọn một cách tự do về các Điều đúng ủng hộ sự hợp lẽ phải, những giá trị,
tiêu chuẩn, quyền lợi và nghĩa vụ. và cam kết với người khác trong xã hội, hành vi
đạo đức là sự lựa chọn một cách tự do.
6. Những nguyên tắc đạo đức chung
Điều đúng được dẫn dắt bởi những nguyên tắc
đạo đức chung và bên trong. Để bảo đảm thực
thi theo những nguyên tắc này, con người lờ đi
pháp luật, không để ý đến nó.

Cấp độ đầu tiên của sự trưởng thành là cấp độ tập trung vào bản thân (self-centered
level), gồm hai giai đoạn đầu tiên về phát triển giá trị (giai đoạn 1 và 2). Những lý lẽ về đạo
22 - Chương 1: Tự nhận thức

đức và những giá trị phương tiện được dựa trên cơ sở của những nhu cầu hoặc mong muốn
cá nhân và dựa trên hậu quả của một hành động. Đôi khi được xem là hợp lý hoặc tốt nếu
nó giúp cá nhân đạt được phần thưởng hoặc tránh sự trừng phạt và nếu hậu quả là không
ảnh hưởng xấu đến người khác. Theo mức độ tập trung vào bản thân, ăn cắp 50.000.000
đồng là xấu hơn ăn cắp 50.000 đồng vì hậu quả là ảnh hưởng khác nhau đến người khác.
Cấp độ hai là cấp độ thừa nhận, gồm giai đoạn 3 và 4. Sự hợp đạo lý đựa trên cơ sở
tuân theo và tán thành những thông lệ và những kỳ vọng của xã hội. Cấp độ này đôi khi
được xem như là cấp độ của pháp luật và mệnh lệnh bởi vì nhắm vào những thông lệ của
pháp luật hoặc các chuẩn mực. Sự hợp lý và không hợp lý được đánh giá dựa trên cơ sở lựa
chọn những hành vi phù hợp hay không phù hợp theo các quy tắc pháp luật và đạo lý xã
hội. Lòng tự trọng của con người dựa trên cơ sở tuân lệnh là một phần thưởng được đánh
giá cao. Ở cấp độ này ăn cắp 50 triệu và ăn cắp 50 ngàn là sai trái như nhau, bởi vì cả hai
đều vi phạm pháp luật. Hầu hết, những người trưởng thành tại Mỹ hành động ở mức độ này
của sự trưởng thành về các giá trị.
Cấp độ ba, là cấp độ giá trị được nguyên tắc hóa (principbled level). Gồm có hai
giai đoạn cuối của sự trưởng thành và giới thiệu mức độ trưởng thành nhất về sự hợp đạo
lý và những sự thuần thục nhất về giá trị phương tiện (giai đoạn 5 và 6). Điều hợp lý và sai
trái được đánh giá dựa trên cơ sở những nguyên tắc thuộc về bản chất bên trong của cá
nhân. Những ý kiến được đưa ra dựa trên cơ sở tập hợp các nguyên tắc hoặc những giá trị
cốt lõi mà được phát triển từ sự trải nghiệm của cá nhân. Trong giai đoạn cao nhất của sự
trưởng thành, tập hợp các nguyên tắc này là bao hàm tính toàn diện (nó kiểm soát tất cả các
sự kiện có thể xảy ra), nhất quán (không bao giờ vi phạm nguyên tắc), và phổ biến (ảnh
hưởng đến tất cả mọi người, nó không thay đổi theo tình huống hoặc hoàn cảnh). Vì thế, ăn
cắp 50 triệu hay 50 ngàn đồng đều được xem là sai trái, nhưng cơ bản không phải là vi
phạm pháp luật hay các quy tắc mà nó vi phạm tập hợp những nguyên tắc bên trong của
bản thân về bao hàm toàn diện, kiên định và phổ biến.
Những cá nhân tập trung vào bản thân (cấp độ 1) coi quy tắc và luật pháp như những
thứ ở bên ngoài bản thân họ, nhưng họ tuân theo bởi vì, làm như thế họ có thể đạt được
phần thưởng hoặc tránh sự trừng phạt. Những cá nhân phát triển cấp độ 2 tuân theo xem
luật pháp và các quy tắc như ở bên ngoài họ, nhưng họ tuân thủ bởi vì họ được học và chấp
nhận những quy tắc và pháp luật này, và họ tìm thấy một lòng tự trọng đối với người khác.
Những cá nhân cấp độ 3 dựa theo nguyên tắc hóa xem xét quy tắc và pháp luật, và phát
triển một bộ những nguyên tắc cho bản thân mình mà họ tin là hợp đạo lý. Nếu có một sự
lựa chọn giữa tuân thủ pháp luật hay tuân thủ nguyên tắc bản thân, họ chọn nguyên tắc.
Chương 1: Tự nhận thức - 23

Những nguyên tắc thuộc về bản chất bên trong thay thế những quy tắc và pháp luật đối với
những cá nhân dựa trên nguyên tắc hóa.
Để hiểu mức độ khác biệt về sự trưởng thành giá trị, hãy xem xét câu chuyện dưới
đây, do Kohlberg (1969) đưa ra:
Ở Châu Âu một phụ nữ sắp chết vì căn bệnh ung thư. Có một loại thuốc mà bác sĩ
nghĩ có thể cứu được bà ta, được tạo ra từ radium mà một dược sĩ trong cùng thành phố
vừa phát hiện ra. Loại thuốc được làm ra khá đắt đỏ, người dược sĩ đã tăng giá lên gấp 10
lần so với chi phí thuốc được tạo ra. Ông đã chi ra 200 USD cho lượng radium và tính giá
2000 USD cho mỗi lần phóng xạ một lượng thuốc nhỏ. Heinz, người chồng của bệnh nhân,
đến tất cả mọi người mà anh ta quen biết để mượn tiền, nhưng anh ta cũng chỉ mượn được
1000 USD. Ông ta nói với người dược sĩ rằng vợ của ông đang sắp chết và cầu xin dược sĩ
bán với một mức giá thấp hơn, hoặc cho phép trả sau. Nhưng người dược sĩ nói: “Không,
tôi đã phát hiện được loại thuốc và tôi đang kiếm tiền từ nó”. Vì thế, Heinz cảm thấy tuyệt
vọng và bắt đầu suy nghĩ về việc đột nhập cửa hàng để ăn cắp thuốc cho vợ của mình.
Bây giờ hãy trả lời những câu hỏi sau:

Yes No Câu hỏi

___ ___ 1. Heinz đột nhập vào cửa hàng có là sai trái không?

___ ___ 2. Người dược sĩ có làm đúng không khi tính giá thuốc?

___ ___ 3. Heinz có nghĩa vụ phải ăn cắp thuốc cho vợ của mình không?

___ ___ 4. Nếu Heinz và vợ mình không yêu thương nhau, Heinz có ăn cắp thuốc cho
cô ấy không?

___ ___ 5. Giả sử người bạn tốt nhất của Heinz đang sắp chết vì căn bệnh ung thư,
Heinz có ăn cắp thuốc cho người bạn này không?

___ ___ 6. Giả sử người sắp chết không là người thân của Heinz, Heinz có ăn cắp
thuốc cho họ không?

___ ___ 7. Giả sử Heinz đọc được trên báo về một người phụ nữ sắp chết vì căn bệnh
ung thư, anh ta có đi ăn cắp thuốc cho cô ấy không?

___ ___ 8. Bạn có ăn cắp thuốc để cứu mạng sống của chính mình không?
24 - Chương 1: Tự nhận thức

___ ___ 9. Giả sử Heinz bị bắt và mang ra tòa xét xử, anh ta có bị bỏ tù không?

Đối với những cá nhân mức độ tập trung vào bản thân về sự trưởng thành, ăn cắp
thuốc là có lý do chính đáng bởi vì vợ của anh Heinz có những giá trị phương tiện: cô ta có
thể có một tình yêu thương, một hậu phương vững chắc cho các con, và vân vân. Nhưng
với một người lạ, không có những giá trị phương tiện giống Heinz, vì thế hành vi ăn cắp
thuốc được xem là sai trái đối với người lạ.
Đối với những cá nhân ở giai đoạn tuân theo, sự xem xét của họ dựa trên sự thân
thiện của các mối quan hệ và trên luật pháp và quyền hành. Heinz có một sự bắt buộc để ăn
cắp thuốc cho các thành viên cho gia đình, theo lý do chính đáng này, nhưng là không hợp
lý đối với những thành viên ở ngoài gia đình.
Đối với những cá nhân dựa trên nguyên tắc hóa, những ý kiến của họ dựa trên cơ sở
một tập hợp các quy tắc về tính toàn diện, phổ biến, và nhất quán. Bất luận câu trả lời của
họ thế nào, lý do của họ đều dựa trên cơ sở của những nguyên tắc ở bên trong bản thân họ,
không áp đặt những tiêu chuẩn bên ngoài hoặc những kỳ vọng. (Họ cảm thấy một sự bắt
buộc phải ăn cắp thuốc cho một ai đó bởi vì họ đánh giá cuộc sống của con người cao hơn
tài sản).
Nghiên cứu một cách kỹ lưỡng mô hình của Kohlberg về sự phát triển của giá trị thì
chúng ta sẽ thấy được những điều thú vị, và phát triển của giá trị có liên quan mật thiết đến
những hành vi của hoạt động quản trị. Một thí nghiệm khác của Milgram (1963) đã trực
tiếp gia tăng các cú sốc điện ngày càng mãnh liệt đối với một số người thử nghiệm, và họ
phải chứng kiến những cảnh tang tóc thảm khốc. Và những người được đưa ra thử nghiệm
đó là đang ở cấp độ dựa trên những nguyên tắc của bản thân (cấp độ cuối, ở giai đoạn 5 và
6), thì có 75% ý kiến là từ chối việc phải chứng kiến những cú sốc lớn đó (ví dụ như: gây
ra một nỗi đau đớn đối với những người khác), trong khi chỉ có 12.5% từ chối là những
người đang ở cấp độ 2. Ở cấp độ càng cao của quá trình phát triển giá trị thì ta thấy nổi bật
lên một điều, đó là sự gắn kết của các hành vi con người mang tính nhân đạo đối với những
người khác là càng chặt chẽ.
Để trưởng thành hơn trong quá trình phát triển giá trị, đòi hỏi các cá nhân cần phải
phát triển một tập hợp các nguyên tắc hoàn toàn thuộc về bản chất bên trong của mình, mà
chúng có thể chi phối những hành vi của mình. Sự phát triển những nguyên tắc này được
nâng cao thì sự trưởng thành về giá trị cũng được tăng lên.
Để giúp chúng ta xác định rõ mình đang sở hữu một mức độ nào trong số ba mức độ
trên của sự thành thục về giá trị, một công cụ được phát triển bởi James Rest (1973) ở cuộc
Chương 1: Tự nhận thức - 25

nghiên cứu của Đại Học Minnesota Moral được thể hiện rõ ở phần “Đánh giá”, ở các tình
huống xác định vấn đề (Tù nhân vượt ngục, Tờ báo mới, Tiến thoái lưỡng nan của ông bác
sĩ). Nó được sử dụng một cách rộng rãi trong các cuộc nghiên cứu bởi vì nó là rất dễ dàng
để có thể tiến hành hơn là phương pháp đánh giá sự thành thục của Kohlberg. Kohlberg
(1976) cũng đã cho rằng: “Cách tiếp cận của Rest đã cung cấp cho chúng ta một sự đánh
giá một cách cụ thể và rõ ràng để mọi người có thể áp dụng nhằm xem xét về mức độ trưởng
thành về giá trị của mỗi cá nhân”. Hơn nữa, nó có thể cung cấp thông tin về việc xếp một
người nào đó là đang đứng ở một cấp độ nào của sự trưởng thành về giá trị, nó còn xác định
được thứ tự giai đoạn mà mỗi cá nhân đang sở hữu một cách chính xác nhất. Tuy nhiên, nó
cũng thừa nhận rằng sẽ có kết quả là cùng một cá nhân có thể được sắp xếp ở hơn một cấp
độ về sự trưởng thành của giá trị (tức giống với sự sở hữu cá nhân về các giá trị phương
tiện), nhưng điều đó sẽ được khắc phục bằng cách chúng ta chỉ xét ở một cấp độ được xem
là trội hơn hẳn các cấp độ khác. Bằng việc xác định một cách đầy đủ về giá trị phương tiện
này của mình, bạn sẽ xác định được cấp độ trội nhất về sự trưởng thành giá trị của mình.
Nghiên cứu mô hình về sự phát triển giá trị của Kohlberg đã khám phá ra rằng sự
phát triển các giá trị có mối quan hệ với các hành vi. Vì thế, để trở nên trưởng thành hơn
trong sự phát triển các giá trị, đòi hỏi các cá nhân phát triển một tập hợp các giá trị hoàn
toàn thuộc về bản chất bên trong, nhờ thế có thể kiểm soát những hành vi của mình. Bằng
cách hoàn thiện những phương tiện này bạn sẽ nhận diện được mức độ ngự trị ở bản thân
về sự trưởng thành của các giá trị. Để xác định cấp độ trưởng thành của bạn, phụ thuộc vào
kết quả hướng dẫn ở phần phụ lục trắc nghiệm. Bài tập trong phần thực hành quản trị giúp
bạn phát triển và xác định những nguyên tắc ở giai đoạn 5 và 6 về mức độ của sự phát triển
giá trị.
Ra quyết định đạo đức và giá trị
Lợi ích của việc tự hiểu mình, tự nhận thức là rất quan trọng để giúp bạn có thể
trưởng thành hơn trong việc nâng cao khả năng đưa ra các quyết định có tính đạo đức cao
dựa trên những giá trị của chính mình.
Hầu hết các nhà quản trị đều bị một sức ép nặng nề trong việc dàn xếp một sự thoả
hiệp giữa các tiêu chuẩn của cá nhân với mục tiêu của công ty, bởi rất là khó để có được cả
hai. Hãy xem những tình huống thực tế sau đây về những điều xảy ra và cố gắng suy nghĩ
kỹ về nó. Bạn sẽ trả lời như thế nào? Tại sao?
Dale Monson, một nhà quản trị cấp cao của Tập đoàn Viễn thông vệ tinh, đang đi
đến văn phòng của Al Lake, một trụ sở kiểm tra chất lượng. Dale mang theo một bộ
26 - Chương 1: Tự nhận thức

phận thiết bị dùng để lắp ráp vào tàu của khách hàng ở West Coat. Dale trao nó cho
Al cái thiết bị này và nói rằng:
“Nhìn này, cái bộ phận thiết bị này là một bộ phận điện tử hoàn hảo, nhưng rất là
tiếc là nó lại tồn tại một lỗ đục tròn nhỏ bên trong nó. Tôi đã chứng kiến cảnh các
kỹ sư đã xem xét nó và nói rằng những biểu hiện bên ngoài của nó có thể là không
ảnh hưởng đến hình dạng, giá trị và chức năng của nó. Nhà Marketing thì lại nói
với khách hàng là họ không có gì để lo ngại cả bởi vì họ vừa mới hoàn thiện xong
những cái rắc rối bên trong nó. Chúng ta thì lại không thể sửa lại cái khuyết điểm
đó, vì nó sẽ phải mất đến 75000USD để có thể làm lại những cái mới. Chúng ta mới
chỉ sản xuất ra 23 cái và tất cả đã hoàn thành. Nó sẽ được lắp hết vào những con
tàu của những khách hàng vào cuối tuần”.
Al trả lời: “Vậy thì ngài muốn gì ở tôi?. Ngừng ngay bây giờ, thì chúng ta mới có
thể hướng đến tương lai và tiếp tực phát triển được”.
Dale nói “Kể từ khi anh là một người cần cho việc chứng thực chất lượng sản phẩm
là có thể chấp nhận được, tôi nghĩ nó sẽ tốt hơn để nhận được một sự chân thật bây
giờ hơn là đợi đến phút cuối khi đã hoàn thành việc lắp ráp vào con tàu ” (Whetten
& Cameron, 2004).
Qua trường hợp minh họa trên tồn tại một sự mâu thuẫn về giá trị mà các nhà quản
trị buộc phải đối mặt nhiều lần. Đó là một sự mâu thuẫn giữa một bên là cực đại hoá lợi
nhuận cho tổ chức (ví dụ: doanh thu, chi phí, lợi nhuận,…), với một bên là sự tuân thủ các
nguyên tắc của xã hội, của tổ chức (ví dụ: trách nhiệm đối với người lao động, công nhân,
nhà cung cấp, khách hàng…). Biện pháp tốt nhất để tiến hành thực hiện được cả hai mục
đích đó là cần đi đến một sự thoả hiệp có tính đạo đức giữa hai điều này: mục tiêu kinh tế
đối lập với mục tiêu xã hội. Để đưa ra những quyết định loại này một cách có hiệu quả,
không phải chỉ đơn thuần là chúng ta chọn một trong hai, giữa đúng và sai, giữa tốt và xấu.
Những cá nhân có thể đưa ra những loại quyết định quản trị loại này hiệu quả, là bởi vì họ
là những người có được một ý thức trong sạch, rõ ràng đối với những giá trị của mình và
họ là những người có thể phát triển một nguyên tắc đạo đức đúng đắn và thành thục. Họ có
một sự phát biểu rõ ràng và dễ hiểu về bản chất của chính mình, họ sở hữu những giá trị
như: sự hiểu biết, sự nhận thức, sự lĩnh hội, và có một sự kiên định về những nguyên tắc
mà chúng ta có thể tìm thấy nó thể hiện rõ ở trong những quyết định của họ. Hiếm khi gặp
trường hợp mà lúc nào nhà quản trị cũng đưa ra những quyết định mà luôn nghiêng về mục
tiêu kinh tế, và cũng chẳng có trường hợp nào mà lúc nào nhà quản trị cũng nhất nhất là
chọn mục tiêu xã hội. Một sự thoả hiệp giữa hai mục tiêu là không thể tránh được.
Chương 1: Tự nhận thức - 27

Không phải là một vấn đề đơn giản để một cá nhân có thể thể hiện được một sự hiểu
biết, sự nhận thức, sự lĩnh hội, và có một sự kiên định về những nguyên tắc, những điều
được xem là có thể cung cấp cho chúng ta một sự hướng dẫn để đưa ra những quyết định
hiệu quả. Theo kết quả của cuộc nghiên cứu của Kohlberg, thì hầu hết chúng ta thường
không đi theo một cấu trúc rõ ràng, không để ý đến những nguyên tắc phát triển trong việc
ra quyết định. Thứ nhất, đó là do chúng ta không được cung cấp một mô thức hay những ví
dụ điển hình về những nguyên tắc ra quyết định đó. Chúng tôi sẽ cung cấp cho các bạn một
số tiêu chuẩn để các bạn có thể kiểm tra và thiết lập lại những nguyên tắc bên trong của các
bạn, những nguyên tắc dành cho việc đưa ra những sự lựa chọn có tính đạo đức và thuộc
những những giá trị luân thường đạo lý. Những tiêu chuẩn sau đây là không phải là một sự
lĩnh hội và cũng không phải là tuyệt đối chính xác và cũng càng không phải chúng là tồn
tại độc lập với những cái khác. Chúng đơn giản chỉ là một sự tham khảo lại, hệ thống lại
những nguyên tắc bên trong, cái bạn đang sở hữu, chúng bao gồm những trạng thái của cá
nhân bạn.
Những nguyên tắc kiểm tra (Whetten & Cameron, 2016):
1. Kiểm tra tình huống phải đối diện: Bạn có cảm thấy bối rối nếu quyết định của
bạn trở thành một dòng tiêu đề trên tờ báo địa phương không? Bạn có cảm thấy
thoải mái để mô tả những hoạt động hay những quyết định của mình đối với
khách hàng hoặc một cổ đông hay không?
2. Kiểm tra những nguyên tắc vàng: Bạn có cảm thấy rằng, sẵn sàng sẽ ứng xử như
thế trong những hoàn cảnh tương tự?
3. Kiểm tra chân giá trị và sự được phép: Những chân giá trị và sự được phép của
những người khác có được gìn giữ bởi những quyết định này không?
4. Kiểm tra cách đối xử công bằng: Những điều hợp đạo lý, sự hạnh phúc, những
điều tốt hơn của một số ít người và những người ở địa vị thấp hơn dựa trên sự
xem xét đầy đủ không? Những quyết định về lợi ích là vì đặc quyền của một tầng
lớp mà không dựa trên sự xứng đáng không?
5. Kiểm tra những lợi ích cá nhân: Thuận lợi cho lợi ích cá nhân có che mờ sự suy
xét của bản thân bạn không? Bạn có đưa ra một quyết định tương tự nếu phần
thưởng không có lợi cho mình theo bất kỳ cách nào không?
6. Kiểm tra sự thích hợp: Quyết định hay hành động này có phù hợp với những
nguyên tắc cá nhân của bản thân mình không? Nó có vi phạm trạng thái tinh thần
của bất kỳ chính sách nào của tổ chức hay pháp luật không?
28 - Chương 1: Tự nhận thức

7. Kiểm tra các thủ tục pháp lý: Các thủ tục thường được dùng để đưa ra các quyết
định này đúng với quy định để kiểm soát kỹ các điều bị ảnh hưởng.
8. Đánh giá chi phí và lợi nhuận: Lợi ích có thể là nguyên nhân đem lại những tổn
hại, không thể chấp nhận được đối với người khác không? Quyết định như thế
nào là lợi ích? Có thể những tác động gây hại giảm nhẹ?
9. Kiểm tra giấc ngủ buổi tối: Dù có ai biết hay không về hành động của bạn, có
ảnh hưởng đến một giấc ngủ tuyệt vời vào buổi tối của bạn không?
Phong cách học (Learning style)
Đôi khi chúng ta thường đưa ra sự trình bày với một sự nhấn mạnh quá mức đến số
lượng của thông tin, nhưng nếu chúng ta nhìn nhận lại thì thực ra chỉ có một số điểm là
đáng để chú ý và chúng ta chỉ cần tốn một khoảng thời gian nhỏ cho việc xem xét nó. Bây
giờ bạn có một số thông tin để đăng nhập vào trong đầu bạn, có liên quan đến những chức
năng trong cơ thể bạn hoặc có liên quan đến những đặc trưng ở chỗ bạn đang ngồi trong
căn phòng của bạn hoặc những từ trên trang giấy này hoặc những ý tưởng, những kỷ niệm
hiện lên trong tâm trí của bạn khi bạn đọc về sự nhận thức, những lòng tin có ảnh huởng
lâu dài và sự thu thập lại những sự kiện gần đây. Không phải tất cả những thông tin này đều
được nhận ra một cách rõ ràng, mặt khác tâm trí của bạn thỉnh thoảng sẽ trở nên quá tải đối
với thông tin và bạn sẽ trở nên điên cuồng, mệt mỏi với sự quá tải đó. Vì vậy, tất cả ai trong
chúng ta đều mong muốn sẽ bỏ qua một số loại thông tin không cần thiết và dành tâm trí
cho một số loại thông tin khác cần thiết hơn. Những chiến lược trở thành những thói quen
ăn sâu vào những hành vi của chúng ta, đó cũng chính là mục tiêu mà phần phong cách học
sẽ hướng đến.
Phong cách học nhằm ám chỉ đến những định hướng của mỗi nguời chúng ta trong
việc lĩnh hội, làm sáng tỏ và đáp lại những thông tin một cách chắc chắn. Phong cách học
về cơ bản dựa trên hai loại thước đo chính sau: (1) Cách mà bạn thu thập thông tin, (2) Cách
mà bạn đánh giá và sử dụng những thông tin cần thiết. Một sự đa dạng về những giá trị
phương tiện tồn tại để đo lường những khía cạnh khác nhau của nhận thức và phong cách
học, nhưng cái mà chúng ta tập trung làm sáng tỏ ở đây đó là những thước đo cơ bản nhất
của phong cách học. Bây giờ chúng ta sẽ tiếp cận những công cụ đánh giá được sử dụng
rộng rãi nhất để có thể xác định rõ được phong cách học của mình. Những công cụ đánh
giá này đã được sử dụng trong hơn 500 cuộc nghiên cứu về hành vi trong hoạt động quản
trị và tinh thần lãnh đạo. Và qua đó, nó cũng đã được chứng minh như là một công cụ dự
báo thông minh khi nghiên cứu về phong cách học và những loại tiến trình thông tin.
Chương 1: Tự nhận thức - 29

Một trong những lý do chính của việc tập trung nghiên cứu đối với phong cách học,
đó là để chúng ta có thể có được một sự thành công hơn, và mỗi người cần phải có một sự
kiên định trong việc học. Rõ ràng rằng sự hiểu biết và có nhiều kiến thức được coi là quan
trọng nhất để duy trì những lợi thế cạnh tranh. Bởi vì, sau khoảng 3 năm thì một nửa kiến
thức của bạn sẽ trở nên bị lỗi thời, đồng thời số lượng kiến thức mới có thể sẽ tăng lên gần
gấp đôi so với số lượng kiến thức sẵn có của một người bình thường, do đó việc học được
coi như là một điều kiện tiên quyết để có thể có được một cuộc sống hữu ích. Nếu mọi
người ngừng học, họ sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời và mất những kỹ năng cá biệt. Việc
không ngừng học được xem như là một chìa khoá thành công trong cuộc sống, thêm vào
đó, nó sẽ giúp chúng ta thành công hơn trong những hoạt động quản trị.
Bạn cần hoàn thành trắc nghiệm “những công cụ về phong cách học” (Learning Style
Instrument - LSI) ở phần “Đánh giá” trong chương này. Và để có thể thấy rõ được những
điều ẩn chứa đằng sau những điểm số mà bạn đã đạt được, chúng tôi nghĩ bạn sẽ rất muốn
biết một vài điều bên trong của lý thuyết về phong cách học và vòng tròn của việc học.
Thuyết này được phát triển bởi David Kolb (1999) cùng với một số đồng nghiệp của ông
ta tại Viện Case Western Reserve. Nó cũng thừa nhận rằng khi những cá nhân phải đối mặt
với những thông tin, thì họ thường có khuynh hướng chỉ tập trung và cố học vào những
điều mà họ cảm thấy là rõ ràng hơn là việc để ý đến những cái khác. Thêm vào đó, các cá
nhân cũng thường có khuynh hướng tiếp nhận những thông tin bằng nhiều cách khác khi
mà họ cố gắng để hiểu và làm sáng tỏ nó. Hình 1.3 minh họa hai khía cạnh chính của phong
cách học: đó là khía cạnh về việc thu thập thông tin, cái mà chỉ ra sự phân biệt những kinh
nghiệm cụ thể (concrete experience: CE) từ những lý thuyết, khái niệm trừu tượng (abstract
conceptualization: AC); và khía cạnh về việc phản hồi những thông tin, cái mà phân biệt
sự quan sát có suy nghĩ (reflective observation: RO) với những hành động thực tiễn (active
experimentation: AE).

Kinh nghiệm cụ thể (CE)


Hành động thực tiễn (AE)

Quan sát có suy nghĩ


Thu thập Thông tin

(RO)

Đánh giá và ứng dụng


30 - Chương 1: Tự nhận thức

Trừu tượng, khái quát (AC)

Hình 1.3. Mô hình phong cách học


Đầu tiên chúng ta hãy xem xét khía cạnh thu thập thông tin. Nhiều người có khuynh
hướng thiên về việc nắm bắt thông tin trực tiếp thông qua những kinh nghiệm thực tế mà
họ gặp phải (CE). Họ học từ những điều mà họ gặp phải, mà điều đó là xác thực, rõ ràng,
hữu hình, hiển nhiên. Đối với họ, chất lượng của nguồn thông tin được thể hiện ở những
điểm mà họ có thể thấy được và có thể cảm nhận được rõ ràng, vì thế họ có xu hướng đắm
mình trong những hoàn cảnh để học tập chúng. Chúng ta sẽ mô tả những cá nhân mà có
khuynh hướng nghiêng về việc học dựa vào những kinh nghiệm cụ thể. Họ học tốt nhất
thông qua kinh nghiệm và tình trạng tâm trí bị thu hút vào đó.
Một số người có khuynh hướng nắm bắt những thông tin tốt nhất khi những thông
tin đó có các đặc tính như sự trừu tượng, hình tượng hay những giả thiết. Họ cho rằng việc
học của họ có hiệu quả nhất khi họ có cơ hội đọc được những ý tưởng, những lý thuyết, rồi
sau đó có cơ hội để suy nghĩ và phân tích về chúng một cách có hệ thống, có logic. Họ thích
tiếp thu những thông tin mà họ xem là đã được kiểm tra sự hợp lý của nó một cách cẩn
thận. Chúng ta sẽ khảo sát những đặc trưng của những cá nhân thuộc khuynh hướng này,
khuynh hướng thiên về những lý thuyết và khái niệm trừu tượng (AC). Đối với những người
có khuynh hướng học từ những kinh nghiệm thực tế trong cuộc sống thì chủ yếu họ sẽ tác
động, va chạm đến những người khác để từ đó có thể thu thập được thông tin, nhưng ngược
lại đối với những người học dựa trên những khái niệm lý thuyết trừu tượng, thì họ có được
những thông tin là từ những cuốn sách.
Chúng ta sẽ nghiên cứu thước đo thứ hai của mô hình phong cách học, đó là đánh
giá và ứng dụng thông tin. Đánh giá và ứng dựng thông tin thể hiện đặc điểm cá hướng
đến việc diễn giải, đánh giá và đáp lại đối với những thông tin thu thập được. Những khác
biệt trong hai loại khía cạnh này được thể hiện rõ nét thông qua những cách thức để giải
quyết những vấn đề đặc biệt. Ví dụ sau khi thông tin được phát ra, thì có một số người
nghiêng về việc đặt nó trong những hoàn cảnh khác, để ngẫm nghĩ lại về nó và để thăm dò
những nghĩa khác nhau mà có thể trình bày về nó. Họ là những người nghiêng về quan sát
và xem xét kỹ lưỡng thông tin hay nói cách khác là để cam kết đối với sự quan sát có suy
nghĩ (RO). Việc đưa ra những sự phán xét hấp tấp là điều tối kỵ đối với những người đi
theo khuynh hướng này, một sự cân nhắc kỹ lưỡng và có suy nghĩ đối với những thông tin
nhận được là những đặc trưng tiêu biểu cho những cá nhân này.
Chương 1: Tự nhận thức - 31

Mặt khác, một số người thì lại có khuynh hướng đưa ra những hành động một cách
nhanh chóng trước những thông tin mà họ nhận được. Họ đáp lại những thông tin đó bằng
những hành động như là trở thành những người tiên phong thực hiện, thử nghiệm những
thông tin mới hoặc phản ứng lại vấn đề hay tình huống có liên quan liền sau đó. Họ thử
nghiệm lại để khám phá ra những ẩn ý và những điều có ích, có liên quan đến thông tin.
Bằng những việc tác động lên nó, họ có thể khám phá ra nhiều giả thuyết về nó. Và chúng
ta sẽ mô tả về đặc điểm của những người có khuynh hướng thiên về những hành động thực
tiễn (AE).
Mỗi định hướng hay khuynh hướng đại diện cho một sự lựa chọn cụ thể. Ví dụ, hầu
như không thể để làm cùng một lúc hai công việc: lái một chiếc xe hơi (kinh nghiệm cụ
thể) trong khi lại muốn phân tích những đặc điểm của một chiếc môtô và lực mômen quay
của chiếc mô tô đó (những lý thuyết, khái niệm trừu tượng-AC). Và theo như kết quả của
một cuộc nghiên cứu về những thước đo có liên quan đến sự nhận thức thì người ta đã
không tìm ra được một mối quan hệ nào đối với những loại vấn đề mà họ gặp phải đối với
từng loại người. Tuy nhiên, họ cũng đã nhận ra được rằng hầu hết những cá nhân thường
sử dụng loại phong cách học xuất phát từ sự nhìn nhận của họ về tính hữu dụng của mỗi
loại để tiếp cận vấn đề. Họ thích và thậm chí tìm kiếm những mẫu quyết định đối với những
loại tình huống, loại vấn đề được xem là thích hợp với phong cách học của họ (ví dụ như,
đối với những cá nhân có mức điểm cao về các mặt AC và AE thì họ thường thích những
vấn đề được giải quyết một cách trình tự theo từng bước). Trong một cuộc nghiên cứu khác
thì người ta cho ra một kết quả như sau: các nhà quản trị là những người thường đạt những
điểm số cao ở RO và AC (phần phía dưới bên phải của Hình 1.3) hơn là AE và CE (phần
phía trên bên trái Hình 1.3) thì lại muốn bổ sung thêm việc dựa vào những hệ thống cơ sở
máy tính và những thủ tục hợp lý trước khi đưa ra những quyết định. Ở những cuộc nghiên
cứu khác, các nhà quản trị lại tiến hành định nghĩa những vấn đề khác nhau phụ thuộc vào
những phong cách học của họ (Ví dụ như một vài suy nghĩ đối với một vấn đề là đòi hỏi
cần phải phản ứng lại bằng những hành động, trong khi một số người khác thì lại nghĩ rằng
vấn đề đó đòi hỏi cần phải có một sự phân tích thấu đáo). Ở những cuộc nghiên cứu khác
thì người ta tìm ra được sự khác nhau giữa các phong cách học, để từ đó mỗi loại phong
cách học sẽ quy định những quy trình ra quyết định khác nhau trong hoạt động quản trị.
Hình 1.4 là giản đồ điểm số phong cách học, cung cấp cho chúng ta một tập hồ sơ
điểm số trên đó và đó chính là những điểm số mà bạn có thể đạt được từ LSI (công cụ đánh
giá phong cách học).
Trong hình này, hãy tìm mức điểm trên cột dọc trục CE tương xứng với điểm số của
bạn. Làm tương tự cho điểm số về RO, AC và AE. Bằng việc đặt những điểm số trên mỗi
32 - Chương 1: Tự nhận thức

trục của giản đồ trên Hình 1.4 và nối những điểm này lại với nhau, bạn sẽ có được một hình
“có dạng hình cánh diều". Thông qua hình này sẽ làm cho các bạn thấy được phong cách
học của mình. Kết quả sẽ được so sánh với hành vi của khoảng 1500 nhà quản lý và những
sinh viên tốt nghiệp ở những trường kinh tế quản trị. Nếu điểm số của bạn ở trục CE là trên
31, tức bạn đã đạt cao hơn 80% của những nhà quản trị và những sinh viên tốt nghiệp. Nếu
điểm số của bạn dưới 19 ở thước đo CE, tức là bạn chỉ đạt dưới 20% của những nhà quản
trị và sinh viên tốt nghiệp.
Bây giờ hãy sử dụng số điểm bạn đạt được để biểu diễn lên Hình 4, bạn sẽ nhận thấy
được tính cách của bạn và kể cả khuynh hướng về phong cách học của bạn. Và bạn sẽ thấy
có 4 góc cung phần tư của vòng tròn trong Hình 1.4 được tạo ra, và vùng phần tư nào lớn
nhất sẽ thể hiện phong cách học nổi trội nhất của bạn, chúng ta sẽ xét vùng phần tư nổi trội
đó. Trong một cuộc nghiên cứu với thời gian lên đến 30 năm đã xác định được 4 nhóm loại
chính của những người học, đó là: Sự phân kỳ, Sự đồng hoá, Sự hội tụ, và Sự hỗ trợ của
phong cách học.
Phân kỳ (diverging): Phong cách học phân kỳ được thể hiện ở những cá nhân có
điểm số ở thước đo về mặt kinh nghiệm thực tế (CE) và sự quan sát có suy nghĩ (RO).
Những người có phong cách học này là những người có khả năng rất tốt trong việc đưa ra
nhiều khía cạnh, quan điểm, cách nhìn khác nhau khi gặp một tình huống trong thực tế.
Phong cách học này mang tên là sự phân kỳ bởi vì những cá nhân này thực hiện rất tốt trong
những tình huống đòi hỏi những ý tưởng tổng quát và sự sáng tạo trong việc đưa ra những
khả năng lựa chọn cách giải quyết. Đó là những nhóm người có những đặc trưng tiêu biểu
như: óc sáng tạo, có tài phát minh trong các hoạt động cần sự giải quyết đối với những vấn
đề được đặt trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những người này thường thích tiếp nhận
nhiều thông tin và thường xuyên phải đối mặt với sự động não (Brainstorming). Họ thích
suy nghĩ và họ quan tâm đến nhiều thứ và mở rộng tầm hiểu biết về nó. Trong một cuộc
nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người trong nhóm này thường có óc tưởng tượng và có
cảm xúc rất mạnh, vì vậy họ thiên về nghệ thuật và thích làm việc với nhóm. Làm việc
nhóm sẽ giúp họ có thể nghe được những ý kiến khác nhau và lạ. Trong các trường đại học,
những người phân kỳ này thường có định hướng chính vào những ngành nghệ thuật, lịch
sử, khoa học chính trị, ngoại ngữ và tâm lý học. Họ thích chọn những ngành nghề về các
dịch vụ xã hội (Ví dụ như: Tư vấn tâm lý, Y tá, Cảnh sát,…) và về nghệ thuật, truyền thông
(Ví dụ như: Diễn viên sân khấu, Nhà văn, Nhà báo,…) và họ cũng thích những công việc
mà làm họ có thể tương tác thưòng xuyên với mọi người. Làm việc nhóm sẽ giúp họ có thể
nghe được những ý kiến khác nhau và lạ. Trong các trường đại học, những người phân kỳ
này thường có định hướng chính vào những ngành nghệ thuật, lịch sử, khoa học chính trị,
Chương 1: Tự nhận thức - 33

ngoại ngữ và tâm lý học. Họ thích chọn những ngành nghề về các dịch vụ xã hội (Ví dụ
như: Tư vấn tâm lý, Y tá, Cảnh sát,…) và về nghệ thuật, truyền thông (Ví dụ như: Diễn
viên sân khấu, Nhà văn, Nhà báo,…) và họ cũng thích những công việc mà làm họ có thể
tương tác thưòng xuyên với mọi người.
Đồng hoá (assimilating): Những người thuộc phong cách học đồng hoá là những
người đạt được số điểm ưu thế đối với thước đo về sự quan sát có suy nghĩ (RO) và sự nhận
thức trừu tượng (AC). Những người có phong cách học này thường là những người có khả
năng rất tốt trong việc xử lý những thông tin có một phạm vi khá rộng, lộn xộn thành những
ý nhỏ ngắn gọn, súc tích, có tính logic cao. Họ hiếm khi có khuynh hướng để đạt được
những thông tin bởi việc tiếp xúc từ những người khác và ngược lại họ rất hứng thú khi
được suy nghĩ những ý tưởng mơ hồ và mang đậm chất lý thuyết. Họ là những người có
những đặc tính nổi trội như: có những lý luận súc tích, quy nạp và có khả năng thiết lập và
sắp xếp những tài liệu vào trong một bố cục phù hợp. Đối với họ, rất là quan trọng để có
được một lý thuyết với một sự logic hoàn hảo hơn là những giá trị thực tế, thiết thực.
Một cuộc nghiên cứu đã chứng minh được rằng những người đồng hoá là những
người có khuynh hướng đến những nghề nghiệp có sự tiếp cận thông tin và mang tính khoa
học, và họ thích để nghiên cứu giảng dạy, thích đọc sách, và thích phân tích trong hoạt động
của họ. Ở các trường đại học, những người đồng nhất là những người nghiêng về các lĩnh
vực như kinh tế, toán học, xã hội học, ngành hoá học. Họ có khuynh hướng để chọn những
ngành nghề có sự tiếp cận những thông tin khoa học và trong những lĩnh vực nghiên cứu
(Ví dụ như: Nghiên cứu giáo dục, luật, thuyết thần học) và họ thích những công việc mà
thiên về thu thập được thông tin.

KINH NGHIỆM THỰC TẾ (CE)


34 - Chương 1: Tự nhận thức

31
Phân kỳ 100%

QUAN SÁT CÓ SUY NGHĨ (RO)


HÁNH ĐỘNG THỰC TĨEN (AE)

Hỗ trợ 27 80%

24 60%
40%
20%
19

42 38 34 29 24 28 31 35
22

Hội tụ Đồng
29 hoá

3
1

36

KHÁI QUÁT, TRỪU TƯỢNG (AC)

Hình 1.4. Giản đồ điểm số phong cách học

Hội tụ (converging): Đối với những người có phong cách học hội tụ là những người
có một sự nổi trội về điểm số đối với những thước đo của cung phần tư về sự nhận thức
trừu tượng (AC) và những hoạt động thực tiễn (AE). Những người có phong cách học này
thường có khả năng rất tốt trong việc tìm ra cách áp dụng những ý tưởng và những lý thuyết
suông thành những bài tập thực hành có ích. Họ được xem là những người chuyên về giải
quyết những vấn đề và làm ra những quyết định, họ quan tâm đến những công việc kỹ thuật
và những công việc liên quan đến việc xử lý vấn đề hơn là những công việc đòi hỏi tính xã
hội cao hoặc có tính tương tác với những cá nhân khác. Họ là những người nổi trội trong
việc đưa ra những cách tiếp cận thực tế có tính chính xác cao của những ý tưởng và những
lý thuyết suông. Kết quả của một cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng những người có phong
cách học này thường là những người rất thành công và có những định hướng nghề nghiệp
của bản thân về những ngành kỹ thuật và kỹ sư. Đối với những dạng tình huống của việc
học, thì họ lại rất thích hợp đối với những bài tập về mô phỏng, thích nghiên cứu trong
phòng thí nghiệm và cách tiếp cận vấn đề bằng những bài thực hành. Ở những trường đại
Chương 1: Tự nhận thức - 35

học, những người này thường có khuynh hướng chính đối với những ngành khoa học cơ
bản, kỹ sư, và máy tính. Họ có khuynh hướng để chọn những ngành nghề thuộc những lĩnh
vực kỹ thuật (ví dụ như kỹ sư, nhà khoa học máy tính, nhà bào chế thuốc), thuộc những
lĩnh vực kinh tế và trong những môi trường khoa học, và họ thích những công việc nhấn
mạnh đến những cách giải quyết vấn đề mang tính kỹ thuật cao.
Hỗ trợ (accommodating): Những người có phong cách học hỗ trợ là những người
đạt được những điểm số cao đối với những thước đo về hoạt động thực tiễn (AE) và kinh
nghiệm thực tế (CE). Những người sở hữu phong cách học này là những người có khả năng
rất tốt trong việc phát huy những kinh nghiệm thực hành của họ. Họ thích tiến hành thực
hiện những kế hoạch mang tính sáng tạo và thách thức đối với họ, và những kế hoạch đó
đòi hỏi có một sự vận dụng những kinh nghiệm mà họ có được để mà thành công. Họ là
những người thiên về sự cảm nhận và sự phán đoán, hơn là dựa vào những sự phân tích hợp
lý và họ rất thích cộng tác làm việc với những người khác để tiến hành giải quyết vấn đề
hơn là phải đưa ra những lời bình luận về vấn đề đó một cách có hệ thống. Họ phù hợp với
những hoạt động đòi hỏi sự mạo hiểm và sự chính xác, ví dụ như khởi sự kinh doanh. Một
cuộc nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người thuộc nhóm này thường có khuynh
hướng nghề nghiệp ở những lĩnh vực như Marketing, quản trị doanh nghiệp và những công
việc liên quan đến sự chỉ đạo. Ở những tình huống được đặt ra trong phần phong cách học
thì họ rất thích để được thảo luận với những người khác để hoàn thành bài đánh giá của
mình, để đạt được những mục tiêu mà mình đã đặt ra, để có thể đúc kết cho riêng mình một
sự đa dạng về những cách tiếp cận trước một vấn đề cụ thể nào đó. Ở những trường đại học
thì những người này thường có khuynh hướng chọn những lĩnh vực về kinh doanh và quản
trị. Họ thường chọn những ngành nghề liên quan đến kinh doanh và họ đam mê với những
công việc mà đòi hỏi một sự lãnh đạo hoặc những hoạt động liên quan đến sự điều hành.
Trên đây là một sự mô tả chi tiết về những đặc điểm tiêu biểu, cũng như những
khuynh hướng chung của những nhóm người có phong cách học khác nhau. Và qua đó cũng
chứng tỏ một điều rằng phong cách học của bạn được xem là một trong những yếu tố có
liên quan đến tương lai của bạn. Như vậy qua đó chúng ta cũng đã hiểu được phần nào về
sự khác nhau về khuynh hướng của những sinh viên đang theo học ở những ngành khác
nhau của những trường đại học khác nhau, những loại công việc khác nhau và sự lựa chọn
công việc khác nhau, và số phận của bạn cũng được xác định thông qua những điểm số mà
bạn đạt được trong phần đánh giá về phong cách học. Những lời nhận xét về phong cách
học của bạn ở Phần hướng dẫn có thể sẽ giúp bạn xác định cho riêng mình một phong cách
học mới, loại phong cách học mà có thể mang lại cho bạn một hiệu quả cao nhất, nó cũng
sẽ chỉ cho bạn những hoạt động liên quan đến việc học mà bạn thích. Nó cũng có thể giúp
36 - Chương 1: Tự nhận thức

bạn xác định những kiểu người mà bạn sẽ muốn để làm việc với họ nhằm xây dựng được
một nhóm làm việc hiệu quả cao.
Những yếu tố quan trọng khác ở mô hình phong cách học của Kolb sẽ giải thích cách,
làm thế nào mà chúng ta có thể sử dụng được mỗi thước đo trong quá trình cải thiện việc
học của mình. Bốn loại chính của phong cách học được thể hiện một cách rõ ràng ở vòng
tròn trong hình 1.5. Một cuộc nghiên cứu cũng đã chứng minh được rằng nếu các bạn biết
áp dụng một cách trình tự theo các bước được trình bày trong Hình 1.5 thì hiệu quả của
việc học của các bạn sẽ được cải thiện một cách rõ rệt, kiến thức sẽ được các bạn tiếp thu
dễ dàng hơn và nó sẽ được lưu giữ lại trong một khoảng thời gian lâu hơn, và các kỹ năng
của bạn cũng ngày càng được nâng cao hơn. Và chi tiết các bước thực hiện như đã trình
bày trong Hình 1.5.
BƯỚC 1: KINH NGHIỆM THỰC TẾ (CE)
BƯỚC 4: HÁNH ĐỘNG THỰC TĨEN

BƯỚC2: QUAN SÁT CÓ SUY NGHĨ (RO)


(AE)

BƯỚC 3: KHÁI QUÁT, TRỪU TƯỢNG (AC)


Hình 1.5. Vòng tròn của việc học

Khi một người có được một kinh nghiệm nào đó (Bước 1, CE), việc học sẽ hiệu quả
hơn khi có sự quan sát có suy nghĩ được bổ sung thêm vào đó (Bước 2, RO). Việc thu thập
một số thông tin và làm sáng tỏ những ý nghĩa của nó được xem là một bước quan trọng
trong việc học từ kinh nghiệm. Bước này được xem là bước được hình thành từ lý thuyết
về thông tin, điều này có nghĩa là chúng ta cần tạo ra một sự tương tự nào đó để kết nối
giữa nó với những kinh nghiệm khác, từ đó chúng ta có thể rút lại để đưa ra một sự kết luận
về những sự liên quan và tính hữu dụng của những kinh nghiệm đó (Bước 3, AC). Một sự
Chương 1: Tự nhận thức - 37

khái quát thành những kinh nghiệm đặc biệt cho phép bạn có thể áp dụng đối với mọi tình
huống hơn là chỉ đưa ra cách giải quyết chỉ dành cho một trường hợp riêng cụ thể nào đó
mà thôi. Cuối cùng, hãy kiểm tra lại một lần nữa những điều kết luận mà bạn đã rút ra được,
khái quát những lý thuyết dài dòng đó và hãy hệ thống lại một cách rõ ràng chính xác những
điều đó, như vậy thì nó sẽ giúp bạn có thể sử dụng những điều đó dễ dàng hơn và thành
công hơn (Bước 4, AE).
Khi chúng ta tiến hành việc học ở những tình huống mới, nói một cách khác, điều
đó sẽ dẫn đến những những kinh nghiệm thực tế khác (Bước 1), và vòng tròn nó sẽ lại được
bắt đầu lại. Một người có thể vận hành vòng tròn việc học ở bất kỳ những điểm nào, dĩ
nhiên không phải chỉ bắt đầu từ bước CE. Tuy nhiên các bạn cũng nên luôn nhớ rằng điểm
đó phải là một trong bốn bước chính của quá trình học, có như vậy thì mới đảm bảo việc
học của bạn đạt hiệu quả cao.

Biểu 1.4. Các bước trong vòng tròn của việc học
Bước 1: Kinh nghiệm thực tế (CE): Học nhờ vào những kinh nghiệm
+Học từ những kinh nghiệm đặc biệt
+Quan hệ với mọi người
+Nhạy cảm trong việc cảm nhận và tiếp xúc với những người khác
Bước 2: Sự quan sát có suy nghĩ (RO): Học nhờ vào sự suy nghĩ
+Quan sát thật cẩn thận trước khi đưa ra những sự phán xét
+Xem xét vấn đề từ những khía cạnh và hoàn cảnh khác nhau
+Hãy cố gắng suy nghĩ về ý nghĩa của mọi thứ
Bước 3: Nhận thức trừu tượng: Học nhờ vào sự suy nghĩ
+Phân tích những ý tưởng một cách hợp lý
+Tìm ra được những lý thuyết mới và tạo ra những sự liên kết đối với những lý
thuyết đó
BướcNhiều trường
4: Kinh nghiệmhọchành
phổ thông đã cường
động (AE) _ Họcđiệu
nhờhoá
vàovàsựchú
thựctrọng
hànhquá mức đến bước RO
và AC của quá trình học (Learning Process) trong các hoạt động của việc học tại các lớp
+Hãy cố gắng đưa ra tất cả những khả năng có thể khi gặp một vấn đề nào đó
học của họ. Còn ở các trường đại học và cao đẳng cũng đã thừa nhận một xu hướng rằng
những +Hãy đề cập
sinh viên củađến những
họ đã nguy cơ
đạt những có thể
điểm đe dọa
số cao chúngbài
ở những ta đánh giá về phong cách học
(Ví dụ +Tác động
như bài đếntramọi
kiểm người SAT
về ACT, xunghoặc
quanh và những
GMAT). Hơnvấn đề việc
nữa, bằngtập
những
trunghành
vào động
một khoá
học hoàn toàn chỉ dựa vào phương pháp giải quyết tình huống (case study) hoặc là những
bài tập mang tính chỉ dựa trên kinh nghiệm (Experiential Exercises) để dạy cho sinh viên
38 - Chương 1: Tự nhận thức

về những kỹ năng quản trị hiệu quả và phong cách lãnh đạo thì nó thường kém tác dụng
hơn những khoá học được áp dụng một cách bài bản những hoạt động của việc học dựa trên
mô hình 4 bước của Kolb như đã trình bày ở trên. Hầu hết những chương trình giảng dạy
về kỹ năng quản trị cần đảm bảo đúng 4 bước chính của quá trình học, tức trong chương
trình đó cần bao gồm: những hoạt động liên quan đến việc học và liên quan đến những kinh
nghiệm của sinh viên (CE và AE) cũng như việc thảo luận nhóm, đọc hiểu cùng với những
cuộc thi (RO và AC).

Thái độ đối với sự thay đổi (Attitudes toward changce)


Để lợi dụng một cách triệt để những điểm mạnh trong phong cách học của bạn, bạn
cũng nên có một sự nhận thức về những định hướng có xu hướng thay đổi. Trong một môi
trường luôn thay đổi theo những chiều hướng khác nhau như hỗn loạn hơn, mang tính ngắn
hạn, phức tạp hơn thì có thể làm cho các nhà quản trị điều hành trở nên bị lúng túng hơn,
bị động hơn và quá tải về thông tin, trong khi đó khả năng của bạn trong việc thu thập và
xử lý thông tin chỉ ở một chừng mực nào đó mà thôi, vả lại khả năng đó lại bị thúc ép bởi
sự thay đổi của một số quan điểm thay đổi. Đây cũng chính là lý do mà bạn cần có một sự
nhận thức về những sự thay đổi này.
Hầu hết không có một ai phản đối sự gia tăng những thay đổi xảy ra trong tương lai,
nó không chỉ làm thay đổi trình tự của những bước đi mà cả ở những mục tiêu và phạm vi.
Thách thức đối với các sinh viên và các nhà quản trị ở những năm đầu thế kỷ 21 đó là rất
khó khăn để đưa ra những dự đoán về những thay đổi trên thế giới mà chỉ dựa vào những
kinh nghiệm quá khứ. Theo nhà kinh tế học Peter Ducker, cứ khoảng từ 200 đến 300 năm
thì những điều kiện này sẽ bị thay đổi đi, và sự thay đổi này có tính thường xuyên hơn. Và
như chúng ta đã thấy những mốc sự kiện thay đổi lớn trong lịch sử thế giới của chúng ta đó
là sự ra đời của Thời kỳ Phục Hưng và sự bắt đầu của cuộc đại Cách mạng công nghiệp.
Thế giới thay đổi một cách đột ngột và không thể dễ dàng dự đoán trước được những điều
gì. Những “khuôn mẫu” ở quá khứ không thể sử dụng để dự đoán những những khuynh
hướng biến đổi của thế giới tương lai. Những sự thay đổi ngoài sức tưởng tượng của chúng
ta xuất hiện một cách thường xuyên. Tương tự như vậy, bằng cấp của các trường dạy về
kinh tế, quản trị, thương mại,…sẽ phải đối mặt với những sự thay đổi về môi trường, về
những điều kiện, từ đó dẫn đến nguy cơ của sự đánh mất giá trị của những bằng cấp đó,
điều này đồng nghĩa với việc những người đã có kinh nghiệm về dự đoán trước đây trở nên
lỗi thời.
Chương 1: Tự nhận thức - 39

Một nửa số lượng kiến thức trong mỗi chúng ta có thể bị thay đổi với một tốc độ
không thể tin nổi. Thậm chí những kiến thức chuyên môn được chúng ta tiếp thu trong cả
một quá trình có thể sẽ thay đổi chỉ trong vòng một năm mà thôi. Hãy đánh giá mức độ hiện
đại của cái máy tính mà bạn đang sử dụng, bất kể thời gian bạn mua nó là gần đây hay trước
đây. Chúng ta sẽ thấy điều này rõ hơn khi chúng ta so sánh nó với những điều kiện cách
đây 10 năm, ví dụ như, đối với một người sử dụng máy tính sẽ trở nên lỗi thời nếu họ không
biết rằng sự “khắc axit trong các phân tử” của những năm trước đây thì nay đã được thay
thế bằng một thuyết mới đó là “sự khắc axit trong chất silicon”. Nhờ sự phát hiện ra thuyết
này mà hiện nay người ta có thể sản xuất ra một loại chíp máy tính có kích thước rất nhỏ,
có thể bằng cái đầu của một cây bút chì để cắm sâu vào trong cơ thể của con người, để từ
đó có thể điều khiển tốc độ máu lưu thông và nhịp đập của con tim,…hoặc có thể đặt loại
chip đó vào trong cái mắt kiếng và nó sẽ hiện lên trước mắt ta tên của mỗi người mà ta gặp
trên đường phố.
Những người hiện nay đang đọc những Tạp chí như: Wall Street Journal, The New
York Times hoặc Hearald Tribune là những người có thể thu thập và tiếp cận tất cả các
thông tin và kiến thức hiện đại trong vòng chỉ khoảng một ngày, trong khi đó, ở thế kỷ thứ
18 thì một người nào đó muốn thu thập và trình bày tất cả những thông tin, kiến thức thì
phải mất cả một đời người để tìm hiểu và ghi chép lại. Đây được xem là những tờ tạp chí
trình bày một cách đầy đủ và cập nhật nhất tất cả những thông tin và kiến thức hiện đại cập
nhập nhất hiện nay. Phần lớn mọi người dân trên thế giới sẽ không biết về nhau, không biết
gì về thế giới nếu không có máy tính, máy điều khiển từ xa, những kênh tivi không có sự
giới hạn, và hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu. Nhờ vào cuộc đại cách mạng thông tin đã
làm cho mọi sự phát triển trên thế giới trở nên nhanh chóng và làm cho mọi người phải đối
mặt với một sự thay đổi không thể tin nổi. Tuy nhiên, đáng lo ngại thay khi hiện nay, một
bộ phận lớn dân cư ở một số vùng trên thế giới chỉ có thể mơ ước đến việc tiếp cận những
thông tin kiến thức kỹ thuật hiện đại và thậm chí ngay tại nước Mỹ, một phần lớn bộ phận
người dân Mỹ lại không thể tiếp cận được với chiếc máy tính. Thêm vào đó, chúng ta phải
đối mặt với những nguy cơ về sự tồn tại và duy trì nạn phân biệt chủng tộc cả ở Mỹ và ở
tất cả những nước trên thế giới.
Trong một tổ chức kinh doanh, không có nhà quản trị nào đang sống ở thế kỷ 21 lại
tự khoác lác về tính ổn định, tính bền vững và sự duy trì về địa vị của tổ chức mình trên thị
trường cả. Thậm chí, ngay cả bây giờ, sự ổn định của một tổ chức được giải thích như là
một sự trì trệ hơn là một sự vững chắc, và đối với những tổ chức phi lợi nhuận thì nó được
xem đó chính là một sự ngoan cố. Và với điều kiện hiện nay thì đòi hỏi mỗi tổ chức phải
tạo cho mình những sự khác biệt, có như vậy thì mới thành công.
40 - Chương 1: Tự nhận thức

Tất cả những điều như đã nêu trên nhằm nói lên một điều rằng những yếu tố bên
trong môi trường của thế kỷ 21 được đặc trưng bởi một sự hỗn loạn, một sự biến đổi chóng
mặt, một quyết định mang tính mau lẹ để nắm bắt thời cơ, và một thời đại hỗn loạn. Không
một ai có đủ thời gian để đọc và phân tích từng trường hợp và từng tình huống. Kinh doanh
trực tuyến (E-Business) sẽ dần thế chỗ vai trò của những trò chơi trực tuyến. Và trong thời
đại công nghệ bây giờ, thì nó cũng sẽ tạo điều kiện cho tất cả các đối thủ từ nhỏ đến lớn ở
hầu hết tất cả các ngành nghề, lĩnh vực có thể xuất hiện trên mạng Internet trong suốt 24
giờ. Không ai có thể dự báo được chính xác sự khốc liệt của sự cạnh tranh giữa các tổ chức
với nhau. Khách hàng của tổ chức không còn bị giới hạn về mặt địa lý nữa và những tiêu
chuẩn để thỏa mãn họ cũng ngày càng được thay đổi theo huớng hoàn thiện hơn. Áp lực về
việc tranh giành thị trường và sự cạnh tranh khốc liệt một lần nữa đã làm cho người ta
không còn chú ý đến những lợi thế cạnh tranh truyền thống, cái mà chúng ta đã được dạy ở
những trường dạy về quản trị kinh doanh. Đưa ra những quyết định mau lẹ, hầu như nó
không còn thời gian để khai thác hết những lợi ích của những thông tin thích hợp kết hợp
với một sự phân tích cẩn thận, đang trở nên là một tiêu chuẩn cần thiết để tồn tại.
Và khi đã bị chi phối bởi những nhịp độ của sự thay đổi hỗn loạn thì sự nhận thức
về những sự thay đổi của mỗi chúng ta được xem như là một điều kiện tiên quyết cho sự
thành công của chúng ta trong cuộc sống. Hai thước đo về khuynh hướng thay đổi là khả
năng chịu đựng sự mơ hồ và nơi tiến hành sự kiểm soát.
Khả năng chịu đựng sự mơ hồ (tolerance of ambiguity)
Thước đo quan trọng đầu tiên đó chính là khả năng chịu đựng sự mơ hồ, nó chỉ ra
mức độ giới hạn để những cá nhân bị đe dọa ảnh hưởng hoặc có một sự khó khăn khi phải
đối mặt với những tình huống có tính mơ hồ. Tính mơ hồ ở đây được định nghĩa như là một
sự thay đổi xuất hiện một cách liên tục hoặc có tính không thể dự đoán được, những thông
tin có tính mơ hồ tức là những thông tin có những đặc điểm như không tương xứng, không
đầy đủ và không rõ ràng hoặc tồn tại một sự phức tạp, rắc rối xung quanh những thông tin
đó. Nó tạo ra một môi trường giàu các tác nhân kích thích và sự quá tải thông tin. Khi gặp
những trường hợp đó, người ta bất chấp ý nghĩ sẽ giải quyết thông tin dựa trên sự hiểu biết
và kinh nghiệm, từ đó những năng khiếu của họ cũng bị quên lãng đi trong việc đưa ra cách
giải quyết đối với một số trường hợp và tình huống.
Và đối với mỗi người thì nó tồn tại một phạm vi chịu đựng khác nhau, một phạm vi
ngăn cách giữa những sự suy nghĩ cẩn thận với một sự phán xét một cách vô thức. Đó cũng
chính là một phạm vi để họ có thể đương đầu với với những tình huống có tính mơ hồ,
không đầy đủ, không theo một cấu trúc nào cả và có tính linh hoạt (tính hai mặt). Những cá
nhân có khả năng chịu đựng một sự mơ hồ cao cũng chính là những người có khuynh hướng
Chương 1: Tự nhận thức - 41

nhận thức phức tạp. Họ là những người có khuynh hướng nhận ra được nhiều điểm mấu
chốt của thông tin để từ đó họ có thể khai thác được nhiều thông tin hơn, tìm ra được nhiều
đầu mối hơn, cũng như có được một đầu óc minh mẫn hơn những người có ít khả năng
nhận thức phức tạp. Trong một cuộc nghiên cứu gần đây người ta đã chứng minh được rằng
những người có khả năng nhận thức phức tạp là những người có được một sự lưu truyền và
xử lý thông tin trong đầu óc họ một cách sâu sắc và nhanh nhạy hơn những người khác, từ
đó hiệu quả công việc của họ được nâng cao hơn, họ đưa ra những hành vi hợp lý hơn và
mềm dẻo hơn khi đối mặt với những điều kiện có tính mơ hồ và quá tải so với những người
khác. Hầu hết, các nhà quản trị đạt được điểm số cao về khả năng chịu đựng sự mơ hồ là
những người đạt được những thành công trong hoạt động quản trị của mình, họ có khả năng
sàng lọc những thông tin trong những môi trường phức tạp, họ cũng có thể là những người
có khả năng nhận ra những nét đặc trưng của những nghề nghiệp của họ để từ đó họ có thể
hướng đến những nhiệm vụ có tính linh hoạt hơn. Bên cạnh đó là những người đạt được
hiệu quả cao cũng như những sự thành công khi đối mặt với những sự thay đổi trong tổ
chức, sự căng thẳng cũng như những cuộc xung đột trong công việc. Trong một môi trường
có quá nhiều thông tin, khả năng chịu đựng và sự nhận thức phức tạp là càng thích hợp hơn
với những trường hợp có những đặc điểm khá trái ngược nhau.
Trong phần đánh giá kỹ năng, hoàn thành mục đánh giá mức độ khả năng chịu đựng
sự mơ hồ sẽ đánh giá phạm vi mức độ về khả năng chịu đựng của các bạn. Mục này đưa ra
những loại tình huống phức tạp khác nhau để các bạn đưa ra những sự chọn lựa của mình.
Và những điều ẩn chứa đằng sau những điểm số của mục đánh giá này được thể hiện ở đáp
án trắc nghiệm, nó bao gồm có 3 khoản điểm khác nhau được phân ra để đánh giá. Khoản
điểm thứ nhất có tên gọi là sự mới mẻ (novelty), đây là mức độ nhằm thể hiện rằng bạn là
người có khả năng chịu đựng, có khả năng tiếp nhận và có mức độ nhận thức trước những
cái mới, những thông tin không bình thường và những tình huống xa lạ là cao, sự tư duy
logic của bạn là cao. Khoản điểm thứ hai có tên gọi là sự phức tạp (complexity), với mức
độ này làm cho các bạn thấy rõ được phạm vi chịu đựng của bạn là khá cao khi đối mặt với
những vấn đề và thông tin rời rạc, phức tạp, đặc biệt. Khoản điểm thứ ba có tên gọi là sự
không giải quyết được (insolubility), đây là mức độ thấp nhất trong ba mức độ, qua đó nó
nhằm chỉ ra sự khó khăn trong việc giải quyết vấn đề mơ hồ bởi vì có nhiều giải pháp được
đưa ra để chọn lựa là có tính không hợp lý, những thông tin được đưa ra để giải thích là
không rõ ràng hoặc có khi những phần trong cùng một vấn đề là rời rạc và chưa có một sự
gắn kết giữa chúng. Những người có khả năng chịu đựng càng cao thì họ chính là những
người có khả năng thành công nhiều hơn ở hoạt động quản trị của mình trong một môi
42 - Chương 1: Tự nhận thức

trường mà thông tin thì quá tải và có tính mơ hồ. Họ là những người ít bị chi phối bởi những
tình huống và trường hợp mơ hồ.
Mức độ về sự nhận thức phức tạp và khả năng chịu đựng sự mơ hồ hoàn toàn không
có mối liên hệ gì với sự hiểu biết thông minh của bạn cả, điều có nghĩa là điểm số của bạn
đạt được ở phần đánh giá về khả năng chịu đựng sự mơ hồ là không nói lên được gì về chỉ
số thông minh của bạn cả. Mọi người đều có thể luyện tập để nâng cao khả năng chịu đựng
sự mơ hồ và nâng cao tính mềm dẻo của chính mình trong quá trình tiếp nhận và xử lý
thông tin. Bước đầu tiên đó là bạn cần xác định xem bạn đang ở mức độ nào trong phần
đánh giá kỹ năng. Tiếp theo, các bạn cần hoàn thành phần đánh giá về kỹ năng phân tích
và kỹ năng thực hành trong chương này, chúng được trình bày song song với những bài
thảo luận chúng ta, và cuối cùng chúng tôi sẽ cung cấp cho các bạn những cách để rèn luyện
khả năng chịu đựng sự mơ hồ và mức độ nhận thức phức tạp của mình. Nó cũng rất là thú
vị và cần thiết để lưu ý đến sự tương quan tồn tại giữa khả năng chịu đựng sự mơ hồ và
thước đo thứ 2 của những khuynh hướng thay đổi sẽ được thảo luận tiếp theo, đó là nơi
kiểm soát.
Nơi kiểm soát (Locus of control)
Thước đo thứ hai trong những khuynh hướng thay đổi đó là nơi tiến hành sự kiểm
soát (Locus of control). Nơi kiểm soát là một trong những chủ đề được xem là quan trọng
và đáng quan tâm nhất trong phần những khuynh hướng thay đổi. Qua chủ đề này sẽ chỉ ra
cho chúng ta thấy rõ những quan điểm của mọi người trong việc phát triển cách đánh giá
về phạm vi, mức độ kiểm soát và làm chủ số phận ở mỗi người chúng ta. Khi một cá nhân
nhận được những thông tin kết quả về sự thành công hay thất bại của những hoạt động mà
họ thực hiện hoặc khi mà một vài thứ bị thay đổi trong môi trường xung quanh họ, và tùy
theo quan điểm mỗi người sẽ đưa ra những lời giải thích khác nhau cho những kết quả và
những sự thay đổi đó. Phần lớn họ sẽ đưa ra những lời biện hộ cho những kết quả đó để
bênh vực cho mình, bên cạnh sự thừa nhận còn có cả những lời phủ nhận đối với những kết
quả đó, họ cố gắng để thay đổi chúng. Nếu những cá nhân có khuynh hướng đưa ra những
lời giải thích về những kết quả họ đạt được hôm nay là phụ thuộc vào những hành động
ngày hôm qua, thì gọi đó là những người có khuynh hướng kiểm soát bên trong (“Chính tôi
là nguyên nhân quyết định đến sự thành công hay thất bại của mọi sự thay đổi”). Còn nếu
những cá nhân đưa ra những lời giải thích hàm ý sự phụ thuộc vào những thế lực bên ngoài,
thì được gọi là những người có khuynh hướng kiểm soát bên ngoài (“Thành công hay thất
bại còn phải tùy thuộc vào ý trời”). Bên cạnh đó, người ta cũng đang dần hình thành cho
mình một “sự trông chờ có tính chung chung” trong nhận thức của mình về những thế lực
Chương 1: Tự nhận thức - 43

có thể ủng hộ, khuyến khích và bênh vực họ. Họ trở nên chờ đợi vào sự kiểm soát bên ngoài
và ngay cả bên trong khi môi trường thay đổi.
Trên 1000 cuộc nghiên cứu điều tra về sự nhận thức mức độ kiểm soát đã được tiến
hành (Whetten & Cameron, 2004). Ở một cuộc nghiên cứu về sự thành công của các nhà
quản trị ở Bắc Mỹ thì người ta thấy rằng phần lớn họ là những người có xu hướng nhận
thức về sự kiểm soát bên trong, nhưng ngược lại đối với những nhà quản trị ở các nước
Trung Đông và ở Châu Á thì họ lại có xu hướng ngược lại, tức họ tin sự thành công của họ
có sự can thiệp bởi các thế lực bên ngoài. Ở Nhật, cũng không ngoài quy luật đó, phần lớn
các nhà quản trị thiên về sự kiểm soát bởi các thế lực bên ngoài, tuy nhiên bên cạnh đó nó
còn kết hợp với tình trạng căng thẳng và bạo lực gia tăng giữa các thanh thiếu niên ở nước
này, điều này cũng có thể là do họ ít nhấn mạnh đến nhận thức về việc tự kiểm soát. Đối
với văn hoá Mỹ, càng nhận thức mạnh mẽ về sự kiểm soát bên trong thường đi đôi với
những sự thành công của họ. Những người có xu hướng nhận thức về sự kiểm soát bên
trong thường là những người có những đặc điểm như: (1) nhạy cảm với sự thay đổi của
môi trường bên ngoài để từ đó họ có thể chắt lọc được những thông tin hữu ích cho công
việc của họ; (2) tiến hành nhiều hành động thiết thực để cải thiện môi truờng theo hướng
có lợi cho họ hơn; (3) nỗ lực hết mình để đạt được mục tiêu đã đặt ra; (4) sẵn sàng tiếp thu
những cái mới để ngày càng hoàn thiện những kỹ năng của bản thân; (5) biết đặt ra nhiều
câu hỏi thông minh xung quanh vấn đề và (6) nhớ được nhiều thông tin hơn những người
có sự nhận thức về sự kiểm soát bên ngoài.
Kết quả điều tra ở một số cuộc nghiên cứu về các hoạt động của nhà quản trị cũng
đã chỉ ra rằng những cá nhân có khuynh hướng nhận thức sự kiểm soát bên trong thường là
những người ít bị chi phối bởi những yếu tố bên ngoài của môi trường, họ cảm thấy thoải
mái đối với công việc hiện tại của mình, họ ít bị căng thẳng bởi công việc và là những con
người năng động ở mọi vị trí công việc hơn so với những người có khuynh hướng nhận
thức sự kiểm soát bên ngoài. Ở kết quả của một cuộc nghiên cứu khác về tinh thần lãnh đạo
và thành tích trong hoạt động quản trị thì các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng
những người có xu huớng nhận thức kiểm soát bên trong thường là những người thích hợp
với vai trò là người lãnh đạo, họ là những người đạt được nhiều thành công và hiệu quả hơn
trong công việc so với những người có khuynh hướng nhận thức về sự kiểm soát bên ngoài.
Những người có xu huớng nhận thức kiểm soát bên trong thường là những người thực hiện
tốt hơn những người khác trong những tình huống gây ra căng thẳng, ngay cả trong những
hoạt động quản trị, ngoài ra họ thường là những người rất lanh lợi và đạt được sự thành
công cao hơn trong công tác quản trị so với những người có nhận thức sự kiểm soát bên
ngoài. Sự khác nhau giữa hai nhóm khuynh hướng này cũng thể hiện ở uy tín và quyền lực
44 - Chương 1: Tự nhận thức

trong lúc thực hiện công việc. Những nhà lãnh đạo có khuynh hướng nhận thức bên ngoài
thường có khuynh hướng điều hành dựa vào quyền lực và những lời đe dọa, ngược lại
những nhà lãnh đạo có khuynh hướng nhận thức bên trong thường dựa nhiều hơn vào sự
tin tưởng và sự thành thạo chuyên môn, đối với họ đó chính là nguồn gốc để tạo ra quyền
lực của nhà quản trị. Và một kết luận cuối cùng, đó là những người có khuynh hướng nhận
thức bên trong thường là những người thích hợp hơn với công việc của một nhà lãnh đạo.
Trên đây là các kết quả được rút ra từ nhiều cuộc nghiên cứu tiêu biểu của một số tác giả
mà chúng tôi muốn trình bày cho các bạn.
Một cuộc nghiên cứu về khuynh huớng nhận thức sự kiểm soát đã được điều tra đối
với các nhà quản trị cấp cao đã chứng minh được rằng hầu hết các công ty đều sử dụng sự
lãnh đạo với khuynh hướng nhận thức bên trong trong hoạt động kinh doanh của mình, và
các công ty lãnh đạo theo khuynh hướng này thường thành công hơn đối với những công
ty lãnh đạo theo khuynh hướng khác về những sự đổi mới, trong những dự án mạo hiểm,
những vị trí dẫn dầu thị trường, những kế hoạch chiến lược dài hạn, sự nắm bắt nhanh chóng
những sự thay đổi của môi trường xung quanh và là những hãng đi đầu trong việc sở hữu
những kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đối với văn hoá Mỹ, thì người ta quan niệm rằng: những
người đi theo khuynh hướng nhận thức bên ngoài thường là những người hay gặp trở ngại,
trắc trở trong cuộc sống.
Một cuộc nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng khuynh hướng nhận thức bên trong là hoàn
toàn không phải là một “loại thuốc diệu kỳ” có thể chữa được tất cả các “bệnh” trong hoạt
động quản trị. Và nó cũng chẳng phải là một điều tượng trưng hoàn toàn cho tính tính cực,
tính hiệu quả. Và các cá nhân với khuynh hướng nhận thức kiểm soát bên ngoài thường
thích hợp cho những nhà quản trị trong giai đoạn đầu trước khi họ trở thành những nhà
quản trị thực sự (vì đây là giai đoạn đòi hỏi sự tiếp thu những nhiệm vụ của một nhà quản
trị thực sự). Những người có khuynh hướng nhận thức bên ngoài là những người có khả
năng tiếp thu và học hỏi tốt hơn những người khác, họ có khả năng tiếp nhận một cách
chính xác những thông tin phản hồi về những sự thành công và thất bại của chính mình.
Những người có khuynh hướng nhận thức bên trong thường là những người rất khó khăn
để đi đến những quyết định nhanh chóng đối với những vấn đề có thể gây ra những hậu quả
nghiêm trọng đến những người khác.
Nhận thức về nơi kiểm soát (bên trong hoặc bên ngoài) sẽ giúp chúng ta có thể nhận
biết được những mặt mạnh và mặt yếu ở mỗi chúng ta, cụ thể hơn, khuynh hướng nhận
thức sự kiểm soát nếu ta đặt đúng chỗ ở từng tình huống cụ thể sẽ giúp đỡ chúng ta rất
nhiều trong công việc, và các bạn cũng hãy nhớ một điều rằng khuynh huớng kiểm soát bên
ngoài không phải là một khuynh hướng xấu, và nó cũng không thể là nguyên nhân để ngăn
Chương 1: Tự nhận thức - 45

cản các bạn trở thành một nhà lãnh đạo ở những vị trí cao trong tổ chức của mình. Bởi vậy,
chẳng có vấn đề gì phải lo lắng cả về điểm số bạn đã đạt được trong bài đánh giá về khuynh
hướng kiểm soát bên trong - bên ngoài của bạn. Bạn hoàn toàn có thể trở thành một nhà
quản trị thành đạt, có thể lựa chọn cho riêng mình khuynh huớng kiểm soát bên trong hay
bên ngoài. Chúng ta sẽ thành công khi chúng ta biết làm chủ và kiểm soát được mọi thứ dù
ở trong hoàn cảnh nào thuộc bất cứ nền văn hoá nào đi nữa.
Phần đánh giá nơi kiểm soát (bên trong hoặc bên ngoài) của mục đánh giá kỹ năng
sẽ giúp các bạn có được một mức điểm số cụ thể, từ đó chúng ta sẽ nhận ra được một phạm
vi kiểm soát bên trong - bên ngoài của chính bản thân mình. Những thông tin giải thích về
điểm số và một vài sự so sánh sẽ được trình bày trong phần giải đáp trắc nghiệm.
Tóm lại, sự kết hợp giữa hai điểm chính của những quan điểm có khuynh hướng
thay đổi là: Khả năng chịu đựng sự mơ hồ (Tolerance of ambiguity) và nhận thức về sự
kiểm soát (Locus of control) sẽ tạo ra những sự thành công trong việc của những nhà quản
trị nếu họ có một cái nhìn nhận đúng về nó. Biết rõ được điểm số mà bạn đạt được ở phần
đánh giá của hai mục này sẽ giúp bạn biết cách để phát huy những điểm mạnh của chính
mình để tạo ra những sự thành công tiềm năng bên trong của các bạn. Trong khi đó, kết quả
ở một số cuộc nghiên cứu quan trong khác lại chỉ ra rằng sự kết hợp giữa những hành vi
quản trị cụ thể cùng với sự nhận thức về khuynh hướng kiểm soát và khả năng chịu đựng
sự mơ hồ sẽ không đảm bảo cho sự thành công của những nhà quản trị, cũng như đảm bảo
cho họ có thể giải quyết tốt được những vấn đề mà các nhà quản trị gặp phải. Hiểu rõ được
những điểm số bạn đạt được, bạn có thể chọn lựa những cách giải quyết những vấn đề,
những tình huống mà bạn cảm thấy thoải mái, đạt được kết quả thực hiện cao, sẽ hiểu được
những quan điểm, cách nhìn nhận của bạn đối những tình huống khác nhau. Việc tự nhận
thức là điều kiện tiên quyết để bạn có thể tự cải thiện và làm mới nhận thức của bản thân
mình.

Định hướng giao tiếp giữa các cá nhân (Interpersonal orientation)


Khía cạnh thứ tư của tự nhận thức đó là định hướng quan hệ giữa các cá nhân với
nhau. Đối với khía cạnh này, có sự khác biệt so với ba khía cạnh trước đó là định hướng
giao tiếp giữa các cá nhân có mối quan hệ trực tiếp đến những khuynh huớng hành vi và
đến những mối quan hệ với những người khác, tuy nhiên định hướng giao tiếp giữa các cá
nhân lại không có mối liên hệ gì đến những khuynh hướng và những thuộc tính tâm lý của
mỗi người. Bởi vì công việc của một nhà quản trị được xem là điển hình tiêu biểu cho
những mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, những định hướng quan hệ giữa các cá nhân
46 - Chương 1: Tự nhận thức

với nhau, hoặc là những định hướng về hành vi cư xử đối với những người xung quanh, và
đây cũng chính là những thuộc tính điển hình quan trọng của tự nhận thức. Những nhà quản
lý là những người bắt buộc phải giao tiếp, tiếp xúc với những người khác, và tính cách của
họ mà không tích cực hướng đến những hành động ứng xử với những người khác thì thật
dễ gây sự thất bại trong hoạt động của mình. Hiệu quả và những loại của hoạt động giao
tiếp có thể biến đổi trong một phạm vi khá lớn, không thể lường trước được. Do đó, thật rất
quan trọng cho bạn để nắm rõ những xu hướng giao tiếp và những khuynh hướng để cực
đại hoá đến mức có thể sự thành công trong giao tiếp.
Định hướng giao tiếp giữa các cá nhân không phản ánh những mẫu hành vi có thực
trên thực tế được trình bày ở những tình huống giữa cá nhân. Đúng hơn, nó cũng chỉ ra
những khuynh hướng cơ bản để đưa ra những hành vi cụ thể trong những tình huống cụ
thể, bất chấp sự tác động của những người nào hoặc hoàn cảnh nào. Nói chung, sự định
hướng giao tiếp giữa các cá nhân với nhau được kích thích xuất hiện xuất phát từ nhu cầu
cơ bản của của mỗi cá nhân để tạo mối quan hệ với những người khác.
Một thuyết khá nổi tiếng đã được nghiên cứu bởi Schutz (1958), một giả định cơ bản
trong mô hình của ông đó là “mọi người luôn cần nhau” và tất cả các cá nhân đều cố gắng
tìm kiếm cho mình những mối quan hệ tương thích với những cá nhân khác trong những
hoạt động giao tiếp xã hội. Và khi họ tạo dựng được những mối quan hệ đó và cố gắng phấn
đấu giữ vững sự tương thích đó, từ đó, 3 nhu cầu giao tiếp giữa các cá nhân cần được thoả
mãn nếu như mỗi cá nhân đều cố gắng thực hiện nó một cách hiệu quả và tránh những mối
quan hệ không tương thích.
Đầu tiên đó là nhu cầu cho sự kết hợp. Mọi người đều rất cần duy trì một mối quan
hệ với người khác, để tương tác những hoạt động của chính mình với hoạt động của những
người khác. Ở một mức độ nào đó, tất các cá nhân đều muốn mình trở thành một thành viên
trong một nhóm nào đó, nhưng đồng thời họ lại muốn xa rời, muốn được độc lập. Họ cần
một sự bảo đảm rằng những người khác không lãng quên họ, trong khi đó họ cũng lại muốn
để mình được độc lập. Ở đây, có một sự tồn tại gắn kết ngẫu nhiên giữa hai khuynh hướng:
đó là sự hướng ngoại và sự hướng nội. Giữa các cá nhân có một sự khác nhau về những
điểm mạnh về nhu cầu quan hệ của họ đó là: (1) Nhu cầu gắn kết với người khác (2) Nhu
cầu được người khác gắn kết với mình.
Nhu cầu thứ hai, đó là nhu cầu cho sự kiểm soát. Đây là nhu cầu để duy trì một sự
cân đối thoả đáng về quyền lực và uy thế trong các mối quan hệ. Tất cả các cá nhân rất cần
để nắm giữ được một mức độ kiểm soát nào đó, một sự chỉ huy, một sự điều khiển những
ngưòi khác trong khi đó họ cũng mong muốn mình được độc lập. Đồng thời, mọi người lại
có nhu cầu để bị kiểm soát, bị chỉ huy, bị điều khiển bởi những người khác, nhưng đồng
Chương 1: Tự nhận thức - 47

thời họ lại muốn để duy trì sự tự do và độc lập làm theo ý mình. Về cơ bản thì đây là một
sự kết hợp giữa sự phụ thuộc và sự độc lập. Do đó, sự khác nhau giữa các cá nhân xuất
hiện, nhu cầu muốn để người khác kiểm soát hoặc muốn kiểm soát người khác.
Nhu cầu thứ ba đó là nhu cầu về sự thân thiện. Hoặc nhu cầu về sự thiết lập một
mối quan hệ thân thiết với những nguời khác. Nhu cầu này bao gồm những thuộc tính như:
sự nhiệt tình, sự quen thân, và có một sự đồng thuận từng phần nhỏ về hành vi của nhau.
Tất cả các cá nhân đều mong muốn để xây dựng một mối quan hệ thân thiết với người khác,
nhưng đồng thời họ lại rất muốn để tránh trở nên tận tâm quá mức hay chặt chẽ quá mức.
Tất cả mọi người đều muốn có một người nào đó cùng sẻ chia tâm sự với mình, luôn thể
hiện sự nhiệt tình, ủng hộ với mình và có một sự ảnh hưởng nhất định đến mình, nhưng
đồng thời họ lại cũng cần duy trì một khoảng cách nhất định nào đó. Đây là một sự kết hợp
giữa nhu cầu sáp nhập cao với nhu cầu độc lập cao. Do đó mọi người thường có nhu cầu
khác nhau: đó là muốn thể hiện khuynh hướng thân thiện với những người khác và muốn
được những người khác thân thiện với mình.
Như vậy, mỗi loại nhu cầu nêu trên đều được thể hiện ở hai mặt, một mặt được thể
hiện nhu cầu và một mặt được thể hiện việc nhận được những hành vi tác động lại từ những
người khác. Qua 3 loại thước đo về nhu cầu sẽ xác định khuynh huớng giao tiếp của mỗi
cá nhân. Và mỗi cá nhân sẽ tạo cho mình một sự khác biệt về mức độ nhu cầu giao tiếp với
những ngưòi khác, trong việc đưa ra hoặc nhận được những hành vi khi tương tác với những
người khác được diễn ra.
Trong phần đánh giá kỹ năng, chúng tôi cũng đã cung cấp cho các bạn mô hình của
Schutz để đánh giá mức độ về nhu cầu kết hợp, nhu cầu kiểm soát và nhu cầu thân thiện.
Khi hoàn thành mục đánh giá này hãy sử dụng bảng điểm và những lời chỉ dẫn tại phần giải
đáp trắc nghiệm, nhớ là phải tính tổng điểm số của bạn cho từng mục về nhu cầu giao tiếp
giữa các cá nhân. Và bài thảo luận về những định huớng giao tiếp giữa các cá nhân với
nhau trong phần này sẽ rất bổ ích cho bạn nếu như bạn đã hoàn thành được bảng điều tra
FIRO-B (Fundamental Interpersonal Relations Orientation – Behavior) trong phần đánh giá
kỹ năng.
Sau đây là một số cách cần sử dụng để phân tích và làm sáng tỏ về điểm số mà bạn
đạt được. Bạn có thể so sánh những điểm số về sự thể hiện (Expressed) với điểm số về sự
mong muốn (Wanted) để xác định cho bạn một phạm vi cụ thể, và nằm trong vòng phạm
vi đó bạn có thể chủ động đưa ra những hành vi mà mình mong muốn. Những người có
được một mức điểm số cao về sự thể hiện và một mức điểm số khá thấp về sự mong muốn
thì được gọi là những người có khả năng kiểm soát, thể hiện bởi vì họ có thể đưa ra những
48 - Chương 1: Tự nhận thức

hành động nhưng lại không sẵn sàng chấp nhận việc được phản hồi lại. Và ngược lại những
người có một số điểm khá cao về sự mong muốn và có một điểm số khá thấp về sự thể hiện
thì họ được gọi là những người bị động bởi vì những cá nhân này là những người rất mong
muốn để nhận được những lời phản hồi nhưng lại không sẵn sàng để chủ động khởi xướng
hay lôi kéo những người khác tham gia vào một cuộc giao tiếp.
Nhờ việc so sánh những điểm số của từng nhu cầu, bạn có thể xác định nhu cầu nào
trong giao tiếp là cần thiết nhất cho bạn. Điểm số cao nhất có thể là dấu hiệu cảnh báo cho
việc ít hài lòng nhất của bạn.
Ngoài ra còn có cách khác để làm sáng tỏ điểm số của bạn, đó là các bạn hãy lấy số
điểm mà bạn có được để so sánh với những mức điểm được trình bày trong biểu 1.4. Chúng
ta sẽ thấy các khoảng điểm trong mỗi ô (Ví dụ như là 4-7) nhằm chỉ ra một khoảng phạm
vi điểm trung bình. Ít nhất 50% trong chúng ta nằm trong phạm vi này. Còn những con số
nằm ở hàng dưới những khoảng điểm này (Ví dụ như là 5.4) chính là những mức điểm
trung bình của mỗi khoảng phạm vi này. Ví dụ như điểm số bạn đạt được là 6 thuộc ô nhu
cầu về kiểm soát được thể hiện (Expressed control cell), tức ở nhu cầu này, bạn đã đạt được
một số điểm cao hơn 75% những người khác. Nhưng nếu số điểm bạn đạt được chỉ là 2 ở
ô nhu cầu về sự ảnh hưởng được thể hiện (Expressed affection cell), tức bạn chỉ đạt được
một số điểm thấp hơn 75% những người khác.

Biểu 1.5. Đỉểm số trung bình FIRO-B

Định hướng giao tiếp Kết hợp Kiểm soát Thân thiện Tổng điểm số

Thể hiện với người khác 4–7 2–5 3–6 9 – 18


(Expressed) 5.4 3.9 4.1 13.4

Mong muốn từ người khác 5–8 3–6 3–6 11 – 20


(Wanted) 6.5 4.6 4.6 15.9

Tổng điểm số 9 – 15 5 – 11 6 – 12 20 – 38
11.9 8.5 8.9 29.3

Và mức điểm nằm ở hàng dưới tính từ phải qua (được tính bằng cách lấy tổng số
điểm ở Mục thể hiện (Expressed) và Mục đòi hỏi (Wanted)) được gọi là những chỉ số nhu
cầu giao tiếp. Những mức điểm này nhằm mô tả tất cả các mức độ nhu cầu tương tác. Và
mức điểm cao nhất đó là 54. Những người đạt số điểm cao là những người có những nhu
Chương 1: Tự nhận thức - 49

cầu rất mạnh mẽ trong việc tương tác với những người khác. Họ là những người có những
đặc trưng như thích giao du, thân thiện, cởi mở và thích kết bạn với những người khác.
Ngược lại, những người đạt mức điểm thấp là những người có tính nhút nhát và kín đáo.
Và kết quả của một số cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng những sinh viên kinh tế là
những người có một sự khác biệt to lớn ở chỉ số giao tiếp xã hội, chỉ số này ở mức cao hay
thấp còn tuỳ thuộc vào những ngành nghề lĩnh vực chính mà họ đang theo đuổi. Sinh viên
ngành Kế toán và ngành Phân tích Hệ thống có chỉ số trung bình lần lượt là 22.3 và 22.6
(thấp hơn mức trung bình). Sinh viên ngành Marketing và ngành Quản trị nguồn nhân lực
có chỉ số trung bình lần lượt là 31.0 và 31.9 (Cao hơn mức trung bình). Trong khi đó, sinh
viên ngành Tài chính, Quản trị kinh doanh và ngành kỹ thuật là những người có chỉ số ở
mức trung bình. Tồn tại sự khác nhau này là do có sự khác nhau về những khuynh hướng
tương tác với những người khác và yêu cầu đặc tính riêng biệt ở mỗi ngành nghề là khác
nhau, những yếu tố này phần nào sẽ quyết định sự thành công trong những ngành nghề mà
họ theo đuổi.
Lợi ích của những điểm số này là phục vụ cho việc phân tích tính tương hợp
(interpersonal compatibility) giữa các cá nhân với nhau - Sự tương xứng giữa điểm của một
cá nhân nào đó với những điểm số của những người khác. Và có thể có những cá nhân
thuộc dạng xung khắc (interpersonal incompatibility) với những ngưòi khác, người ta có
thể chia sự xung khắc đó ra làm ba dạng khác nhau cơ bản. Để giải thích 3 dạng xung khắc
khác nhau, hai giả thuyết được sử dụng trong Biểu 1.5. Sau đây, chúng ta sẽ nói rõ hơn về
3 dạng xung khắc mà chúng ta thường hay gặp nhất.

Biểu 1.6. Ví dụ 2 trường hợp điểm số FIRO-B

Quản trị viên

Kết hợp Kiểm soát Thân thiện Tổng điểm số

Thể hiện với người 9 9 1 19


khác (E)

Mong muốn từ người 8 4 3 15


khác (W)

Tổng điểm số 17 13 4 34

Nhân viên
50 - Chương 1: Tự nhận thức

Thể hiện với người 3 8 6 17


khác (E)

Mong muốn từ người 2 2 8 12


khác (W)

Tổng điểm số 5 10 14 29

Dạng thứ nhất được gọi là xung khắc “có qua có lại” (reciprocal incompatibility).
Nó nhằm nói đến một sự kết hợp giữa một người có hành vi nghiên về sự thể hiện, với một
người khác thường có hành vi nghiên về sự mong muốn. Ví dụ, nếu một người đang có nhu
cầu cao để thể hiện sự kết hợp của mình đối với người khác nhưng lại gặp phải người có
nhu cầu kết hợp thấp ở cả hai xu hướng, như thế được gọi là sự xung khắc “có qua có lại”.
Công thức để đo lường và lượng hoá mức độ xung khắc này có dạng như sau:
| ME - SW | + |SE - MW |, với:
ü ME (Manager Expressed) và MW (Manager Wanted) lần lượt là số điểm về sự
thể hiện và số điểm về sự mong muốn của nhà quản trị;
ü SE (Subordinate Expressed) và SW (Subordinate Wanted) lần lượt là số điểm về
sự thể hiện và số điểm về sự mong muốn của nhân viên cấp dưới.
Như vậy, nhờ có dấu trị tuyệt đối nên khi thế số vào công thức trên thì nó sẽ cho ra
một giá trị tuyệt đối. Ở từng vùng của sự xung khắc “có qua có lại”, tồn tại giữa những nhà
quản trị và những nhân viên cấp dưới được thể hiện cụ thể trong Biểu 1.6. Tra Biểu 1.6 và
thế vào công thức trên ta có được:
|9 - 2 | + |3 - 8| = 12
Nếu mức điểm đạt được là cao hơn 6 có nghĩa rằng nơi đó đang có sự hiện diện một
sự xung khắc càng mạnh. Trong trường hợp này, các nhà quản trị đang có một nhu cầu
mạnh mẽ về mong muốn kết hợp với những người khác và kể cả mong muốn được người
khác kết hợp với mình, nhưng nhân viên cấp dưới lại là những người có nhu cầu thấp ở cả
hai thuộc tính của sự kết hợp. Như vậy, ở đây đang tiềm ẩn một sự mâu thuẫn giữa các cá
nhân đang dâng trào trong khu vực này, đặc biệt hơn nếu những hành vi kết hợp (ví dụ như:
làm việc nhóm), được đòi hỏi trong mối quan hệ giữa các thành viên.
Loại xung khắc thứ hai đó là xung khắc đứng đầu (originator incompatibility). Nó
nhằm ám chỉ đến một sự kết hợp giữa những cá nhân có số điểm cao về sự thể hiện. Sự
xung khắc về người đứng đầu xuất hiện khi cả hai người đều muốn là những người khởi
Chương 1: Tự nhận thức - 51

xướng trong một khu vực nào đó và kể cả trường hợp cả hai ngưòi đều không muốn là
người khởi xướng ban đầu. Công thức để đo lường mức độ xung khắc về sự đứng đầu được
thể hiện như sau:
(ME - MW ) + (SE - SW )
Trong công thức trên, do sử dụng dấu ngoặc đơn nên kết quả của công thức thức này
có thể là một số âm. Dữ liệu được lấy từ Biểu 1.6 sẽ làm cho sự xung khắc về người đứng
đầu được minh họa rõ hơn. Cả nhà quản trị và nhân viên cấp dưới đều muốn sự kiểm soát
thuộc về phía mình, nhưng lại không có ai có nhu cầu cao về việc bị người khác kiểm soát.
Mức điểm về sự xung khắc này được tính như sau:
(9 - 4 ) + (8 - 2) = +11
Những trường hợp đạt mức điểm cao hơn +6 thì đó là những trường hợp mà có sự
xung khắc về sự cạnh tranh ngưòi đứng đầu. Nếu kết quả cho ra là một mức điểm thấp hơn
-6 thì nơi đó đang tồn tại một sự hờ hững đối với sự xung khắc về người đứng đầu. Sự xung
khắc có tính mờ nhạt xuất hiện khi không có cá nhân nào muốn trở thành đứng đầu trong
khu vực đó hoặc cũng không có cá nhân nào là muốn kiểm soát hay đứng ra gánh vác nhiệm
vụ, cả hai bên đều mong muốn bên kia sẽ đứng ra lãnh đạo cho mình.
Loại thứ ba đó là đó là sự xung khắc hoán đổi (interchange incompatibility). Loại
xung khắc này nhằm chỉ ra trường hợp mà cả hai bên đều nhấn mạnh đến những nhu cầu
thân thiện cùng giống nhau hoặc cùng khác nhau về một mức độ nào đó. Sự xung khắc về
sự đổi chỗ tồn tại nếu một người nào đó nhấn mạnh đến nhu cầu kiểm soát cao trong khi
những người khác lại nhấn mạnh đến những nhu cầu thân thiện cao. Khi vấn đề giữa các cá
nhân diễn ra thì một bên sẽ rất thích xác định vấn đề như là một sự kiểm tra, một sự điều
khiển, hoặc một sự ảnh hưởng, trong khi bên kia thì lại rất thích để xác định vấn đề như là
một sự thân thiết, sự san sẻ hoặc một sự yêu mến. Sự khó khăn trong cách nhận dạng và
giải quyết vấn đề xuất hiện khi mà hai bên có sự nhìn nhận và đánh giá khác nhau đối với
cùng một vấn đề hoặc tình huống giống nhau. Công thức để đo lường sự xung khắc về sự
hoán đổi được thể hiện như sau:
|(ME + MW) - (SE + SW )|
Và như chúng ta thấy, công thức trên có sử dụng dấu trị tuyệt đối nên kết quả cuối
cùng sẽ cho ra một giá trị tuyệt đối. Dữ liệu về sự thân thiện được thể hiện ở Biểu 1.6, một
sự xung khắc có thể tồn tại trong khu vực đó. Sự thân thiện là một nhu cầu thường xuất
hiện đối với những nhân viên cấp dưới nhưng ngược lại đối với những nhà quản lý thì sự
ảnh hưởng chỉ là một nhu cầu thấp. Thay giá trị vào công thức ta có được kết quả như sau:
52 - Chương 1: Tự nhận thức

|(1 + 3) - (6 + 8)| = 10
Nếu điểm số đạt được là lớn hơn 6, điều này có nghĩa rằng có một sự xung khắc rất
lớn trong khu vực này. Nhu cầu của các nhân viên cấp dưới về sự thân thiện bị lờ đi và
thậm chí còn bị loại bỏ trong mối quan hệ giữa họ với các nhà quản trị.
Sử dụng 3 công thức đo lường mức độ xung khắc này cho phép chúng ta lượng hoá
được tổng điểm số xung khắc. Vì thế chúng ta có thể có được một điểm số chung về sự
xung khắc bằng cách chúng ta tính tổng điểm số ở 3 loại nhu cầu. Kết quả sau khi lấy tổng
3 loại nhu cầu sẽ được thể hiện trong Biểu 1.6 (Biểu 1.6 chỉ mang tính minh họa cho một
trường hợp cụ thể, mỗi trường hợp sẽ có những kết quả khác nhau).

Biểu 1.7. Điểm số xung khắc giữa 2 cá nhân quản trị viên và nhân viên

Dạng xung khắc Kết hợp Kiểm soát Thân thiện

Có qua có lại 12 11 10

Đứng đầu 2 11 -4

Hoán đổi 12 3 10

Tổng xung khắc (điểm tuyệt đối) 75

Dựa vào điểm số về sự xung khắc sẽ chỉ ra nguy cơ sẽ gặp những khó khăn để tương
tác với nhau trong mối quan hệ giữa nhà quản trị với các nhân viên cấp dưới của mình.
Nguy cơ tiềm tàng đối với mỗi tổ chức đó là sự không gặp gỡ giữa nhu cầu của một số
người nào đó với những người còn lại trong cùng một tổ chức (Sự xung khắc “có qua có
lại”) hoặc ai cũng muốn có sự kiểm soát người khác nhưng lại không có ai muốn bị người
khác kiểm soát nguời khác cả (Sự xung khắc “người đứng đầu”) hoặc tồn tại sự khác nhau
một cách rõ nét về cách tư duy ở mỗi người (Xung khắc “hoán đổi”) có thể diễn ra ở hai
loại nhu cầu là: sự thân thiện và sự kiểm soát, và vì sự không tương thích này có thể dẫn
đến một cuộc xung đột trong mối quan hệ giữa họ.
Một cuộc nghiên cứu cũng đã khẳng định tính đúng đắn của những lời dự đoán này.
Điểm số về sự xung khắc trong tổ chức là thấp khi quan điểm và thái độ của các nhân viên
cấp dưới và các nhà quản trị là giống nhau. Quan điểm và thái độ của người giáo viên sẽ
tác động một cách hiệu quả đối với những sinh viên khi mà giữa họ đạt được điểm số về sự
tương thích cao. Sinh viên sẽ đạt được những thành tích cao trong lớp khi có một sự tương
thích cao với giáo viên dạy họ, và kể cả trong việc kết bạn cũng vậy, chúng ta thường có
Chương 1: Tự nhận thức - 53

khuynh hướng chọn những người bạn mà có sự tương thích về quan điểm và thái độ với
chúng ta. Thậm chí người ta cũng đã chứng minh được rằng sự thành công của các bác sĩ
trong việc điều trị bệnh chịu ảnh hưởng bởi mức độ xung khắc.
Và ở đây người ta cũng đã chứng minh được rằng những nhóm làm việc bao gồm
những thành viên có sự tương thích với nhau thì họ sẽ làm việc hiệu quả và đạt được nhiều
thành công hơn những nhóm làm việc mà chỉ gồm toàn là những thành viên không tương
thích với nhau. Theo đó người ta cũng đã tìm thấy được những đặc điểm điển hình của một
nhóm làm việc tương thích với nhau, đó là:
• Giữa các thành viên tồn tại một sự lôi cuốn, hấp dẫn để cùng làm việc với nhau
• Một xu hướng chung được thiết lập một cách rõ ràng giữa các thành viên
• Tồn tại một sự cộng tác giữa các thành viên để hoàn thành nhiệm vụ chung
• Đưa ra cách giải quyết vấn đề nhanh chóng
• Ít khi gặp phải sai lầm trong cách giải quyết vấn đề
• Giữa các thành viên luôn có sự thống nhất với nhau
Biết được khuynh hướng giao tiếp giữa các cá nhân có thể là một yếu tố quan trọng
để tạo nên sự thành công trong hoạt động quản trị. Nó không chỉ có tác dụng cải thiện mối
quan hệ giữa những nhà quản trị với những người khác mà nó còn có thể giúp bạn phán
đoán và nhận ra những nhu cầu không tương thích với những thành viên cấp dưới để từ đó
có được những sự điều chỉnh phù hợp. Ngoài ra nó cũng sẽ giúp bạn đánh giá lựa chọn
những hành vi thích hợp khi bạn cố gắng giải quyết những sự xung đột diễn ra giữa các cá
nhân trong tổ chức. Có một số vấn đề có thể được giải quyết một cách đơn giản nhờ vào
những hành động kết hợp, bởi vì nó cho phép những người khác thể hiện một phần nhỏ sự
kiểm soát của mình trong đó, hoặc cũng có thể là nhờ vào việc xác định lại cách nhìn nhận
vấn đề, xem đó như là sự thể hiện một sự ảnh hưởng hơn là xem nó là biểu hiện của một sự
kiểm soát.

1.1.4. Hướng dẫn hành vi


Hướng dẫn hành vi là nội dung như là kết luận những điều đã được học hỏi từ học
tập kỹ năng, cũng như là một thành phần không thể thiếu của học tập kỹ năng đó là kết luận
của học tập kỹ năng chính là hướng dẫn để bạn rèn luyện và phát triển những kỹ năng cần
thiết thông qua việc áp dụng các mẫu hành vi được hướng dẫn. Trong mỗi chương học,
đúng hơn là mỗi chủ đề phát triển kỹ năng, phần “Học tập kỹ năng” sẽ kết thúc bằng “Hướng
54 - Chương 1: Tự nhận thức

dẫn hành vi”, gồm danh sách các hoạt động cần thực hiện hoặc hành vi cần biểu hiện, giúp
người học thiết kế và thực hiện các hoạt động thực hành và ứng dụng kỹ năng. Đối với kỹ
năng tự nhận thức, bạn cần thực hiện hướng dẫn sau:
1. Phân tích, khám phá, từ đó xác định những điểm nhạy của bản thân.
2. Sử dụng 7 thước đo giá trị văn hoá để bàn luận về sự khác biệt giữa định hướng
giá trị văn hoá của bạn với các cá nhân từ nền văn hoá khác, nhóm lứa tuổi hay
sắc tộc.
3. Xác định những nguyên tắc chủ yếu làm căn cứ hành vi của bạn. Xác định các
giá trị mục đích và giá trị phương tiện qaun trọng tác động đến các quyết định
của bạn.
4. Phát triển phong cách học, khả năng chịu đựng sự mơ hồ, nơi kiểm soát bằng
cách phát triển khả năng tiếp cận thông tin và quản lý nó trong các hoạt động
khác nhau của bạn.
5. Phát triển trí tuệ cảm xúc của bạn bằng cách quan sát và đánh giá những phản
hồi cảm xúc của nình và thực hành những chẩn đoán cảm xúc người khác. Tính
điểm số xung khắc của bạn với những người bạn thường tương tác và xác định
lĩnh vực có nhiều khả năng xung khắc.
6. Phát triển sự tự đánh giá về các mặt tích cực và những đặc trưng chủ yếu làm nên
điểm mạnh của bản thân, ghi nhận và phấn đấu cho thành công của mình.
7. Hãy trở nên trung thực và cởi mở hơn với những người thân quen, gần gũi với
bạn. Hãy kiểm chứng lại những vấn đề của bạn, mà bản thân còn thấy mơ hồ.
8. Ghi chép nhật ký và đảm bảo thường xuyên việc tự đánh giá bản thân. Đảm bảo
sự cân đối giữa các hoạt động cuộc sống với thời gian cho sự đổi mới bản thân.
1.2. PHÂN TÍCH KỸ NĂNG
Phân tích kỹ năng là hoạt động mà người học được đề nghị đưa ra phương án giải
quyết, hoặc ra quyết định hoặc biểu hiện hành vi (gọi chung là những hành vi) đối với các
tình huống mẫu, và thông qua đó giúp người học xác định những hành vi nào là thích hợp
và những hành vi nào không thích hợp. Phân tích kỹ năng, vì vậy, có thể được xem là sự
kiểm nghiệm dành cho người học để xác định những hành vi thích hợp và cũng như không
thích hợp trong các lĩnh vực kỹ năng quản trị.

Các tình huống tiến thoái lưỡng nan


Chương 1: Tự nhận thức - 55

Cá nhân khác nhau ra quyết định không như nhau trong các tình huống như nhau.
Lý do việc đưa ra các đánh giá và quyết định khác nhau là do sự khác biệt tự nhận thức của
mỗi cá nhân. Có những tình huống mà con người rất phân vân khó xử để lựa chọn quyết
định, gọi là tình huống tiến thoái lưỡng nan.
Chuyên gia AI
Bình là một chuyên gia trong lĩnh vực AI và đang có một công việc phù hợp với năng
lực với anh tại một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao ở Đà
Nẵng. Một công ty nước ngoài vừa mới thâm nhập thị trường công nghệ cao tại Đà Nẵng
đã phát hiện tài năng của Bình và chào mời làm việc ở một vị trí tương xứng với mức lương
gấp 2 lần tiền lương hiện tại của anh ấy. Công ty nhà nước đang tìm cách để cản trở anh ta
thay đổi công việc, và họ cho rằng kiến thức và kỹ năng của anh Bình về những quy trình
công nghệ mới và ứng dụng AI nhất định sẽ đưa đến cho đối thủ những lợi thế cạnh tranh
không công bằng. Một khi anh Bình đã thu nhận, tích luỹ được những kiến thức, phát triển
kỹ năng đó thông qua sự huấn luyện và những cơ hội đặc biệt trong thời gian anh ta tại vị,
công ty lập luận rằng thật là không đúng đạo lý nếu anh Bình chấp nhận đề xuất của đối
thủ. Nhưng với lời đề nghị hấp dẫn từ đối thủ, anh Bình không thể không suy nghĩ. Anh
cần phải làm gì?
1) Chấp nhận đề xuất
2) Từ chối đề xuất

Nhân viên kế toán


Minh Anh là một nhân viên kế toán và vừa mới đề bạt kế toán trưởng ở công ty Hưng
Phát. Giám đốc của cô là anh Tuấn Đạt và là một người đồng hương từ một vùng quê nghèo
của cô. Từ khi học đại học kinh tế, Minh Anh cũng đã quen biết Tuấn Đạt và nhận được sự
giúp đỡ của ông ta. Tình cờ trong thời gian học năm hai ở trường đại học, trong chương
trình các nhà doanh nghiệp tài trợ cho sinh viên nghèo hiếu học, họ nhận ra là người đồng
hương cũ. Từ đó anh Tuấn Đạt thường xuyên tài trợ và cũng trợ giúp cho Minh Anh giải
quyết nhiều rắc rối trong cuộc sống. Trong một lần về quê nhân dịp Tết Nguyên đán, họ
mới hay thêm một tin mới, bất ngờ và thú vị, Tuấn Đạt là người anh họ rất gần với Minh
Anh.
Ngay khi ra trường, Minh Anh được anh Tuấn Đạt nhận vào làm việc tại công ty của
ông. Sau một năm làm việc chăm chỉ và ngoài ra kể như cũng đã có sự ưu ái, anh Tuấn Đạt
đề bạt Minh Anh làm kế toán trưởng, thay cho người kế toán trưởng vừa được chuyển sang
phụ trách một bộ phận khác. Tuy nhiên sau một thời gian ngắn làm việc, Minh Anh phát
56 - Chương 1: Tự nhận thức

hiện giám đốc Đạt đã có nhiều sai phạm trong các hợp đồng kinh tế với nhà nước. Trong
đó có một hợp đồng do ông Đạt ký đã gian lận khai khống chi phí thiết bị tăng thêm là 10
tỷ đồng.
Minh Anh rất bối rối trước tình thế trên. Cuối cùng Minh Anh cũng đã đi đến quyết
định trao đổi với anh Tuấn Đạt và gợi ý về việc nên dám chấp nhận sai sót trên với chính
quyền và các bên liên quan. Tuy nhiên anh Tuấn Đạt đã tìm cách lẫn tránh việc trao đổi
thẳng thắn với cô. Vấn đề đặt ra lúc này là Minh Anh sẽ nên làm gì?
Hãy cho biết quyết định của bạn nếu trường hợp bạn là Minh Anh (Nếu làm việc
nhóm thì đó là quyết định theo ý kiến thống nhất của nhóm)
1. Chấp nhận im lặng làm lơ sự sai trái của anh Đạt
2. Báo cơ quan Công an để giải quyết vấn đề theo sự thật.

Cuộc tranh luận không hồi kết


Tình huống thảo luận
Cùng với sự xuất hiện của mạng xã hội, có những tình huống thực tiễn trở thành các
chủ đề tranh luận mà bên này bảo vệ quan điểm của mình đều luôn cố bảo vệ với những lập
luận họ cho là rất hợp lý, trong khi bên kia cũng cứ quyết giữ quan điểm mà cũng đưa ra
những lập luận cũng thật hợp lý. Sau đây là tình huống dẫn đến việc có những quan điểm
được tranh luận không hồi kết.

Chàng trai Việt đi xe máy vòng quanh thế giới:


Học được muôn ngàn bài học ý nghĩa
Trích 1 đoạn bài viết về phượt thủ Trần Đặng Đăng Khoa
(Nguồn: https://tuoitre.vn/chang-trai-viet-di-xe-may-vong-quanh-the-gioi-hoc-duoc-
muon-ngan-bai-hoc-y-nghia-20200618082918222.htm)
---***---
Trong ngày đầu tiên về nước 17-6, Trần Đặng Đăng Khoa (sinh năm 1987) đã dành
cho Tuổi Trẻ cuộc trò chuyện ở ngay khu cách ly tại Hưng Yên. Những câu chuyện lý thú lần
đầu tiên được Khoa tiết lộ.
Chương 1: Tự nhận thức - 57

Đã đi đến hết những nơi cần đến


* Chào Khoa! Vừa trở về đất nước sau 1.111 ngày chu du khắp thế giới và gần 3 tháng
nằm yên một chỗ ở Mozambique không biết lúc nào có thể đi tiếp hay về nhà vì COVID-
19, Khoa cảm thấy thế nào?
- Như các bạn theo dõi trang Facebook của tôi đã biết, ngày 1-6-2017 tôi khởi hành từ cửa
khẩu Mộc Bài nên tôi từng đặt ra kế hoạch là muốn trở về Việt Nam bằng đường bộ, về đúng
cửa khẩu Mộc Bài như lúc xuất phát. Lộ trình dự định là sẽ từ châu Phi về Ấn Độ - Myanmar
- Thái Lan - Campuchia - cửa khẩu Mộc Bài.
Nhưng xui rủi COVID-19 đến, các biên giới châu Phi đóng cửa nên đành gửi xe máy theo
đường biển từ Mozambique về Việt Nam, còn người thì nằm lại đó, đợi chuyến bay về nước.
Giờ này tuần trước tôi còn nằm ở Mozambique nghĩ không biết chừng nào mới có thể về nhà,
có lẽ là vài tháng nữa, chỉ hi vọng về kịp trước Tết Nguyên đán. Tôi đã xa nhà ba cái tết rồi.
Không ngờ 2 ngày sau thì Đại sứ quán Việt Nam ở Mozambique thông báo tới công dân Việt
Nam đang mắc kẹt ở đây rằng sẽ có chuyến bay hồi hương. Trưa 15-6, tôi cùng mọi người lên
máy bay từ Nam Phi về Việt Nam vào sáng 16-6.
Về lại quê nhà sau 1.111 ngày xa cách nhưng lại không thể ào vào vòng tay bạn bè, người
thân mà phải đi ngay về khu cách ly và chào mọi người qua... Facebook. Tuy có tiếc vì chưa
gặp được ba mẹ sớm hơn nhưng tôi không phàn nàn, bởi dịch bệnh khiến cả nước mình đồng
sức đồng lòng để có được kết quả tốt đẹp mà đi tới đâu cũng được bạn bè thế giới khen Việt
Nam chống dịch tốt. Khoa đã xa người thân, bạn bè 1.111 ngày thì thêm 14 ngày cũng không
khác nhau là mấy.
* Bạn có tiếc khi chuyến đi phải dừng lại dở dang ở chặng cuối cùng?
- Không thể về nước qua cửa khẩu Mộc Bài và phải thay đổi kế hoạch một chút xíu vì dịch
bệnh nhưng tôi cũng không tiếc nhiều bởi tôi đã đi đến hết những nơi cần đến, đã có một
chuyến đi khó quên trong đời, được ngắm nhìn biết bao cảnh và người trên thế giới, học được
muôn ngàn bài học ý nghĩa mà nếu không đi thì không bao giờ học được.
Về tới nơi cách ly tại Trung đoàn 126 (Hưng Yên), tôi và mọi người lại được tiếp đón rất chu
đáo, cơm rất ngon. Không ngờ bữa cơm Việt Nam đầu tiên sau hơn 1.000 ngày xa đất nước
lại là bữa cơm ở trong khu cách ly, và không ngờ nữa là nó lại ngon đến thế.
* Bạn dự định thế nào khi kết thúc thời gian cách ly?
58 - Chương 1: Tự nhận thức

- Tôi dự định ở Hà Nội một vài ngày giải quyết một số công chuyện rồi bay về Sài Gòn để về
nhà ở Tiền Giang gặp gia đình.
Thế giới về căn bản là nhiều người tốt
* Hẳn là Khoa đã có một trải nghiệm dịch bệnh COVID-19 thật đặc biệt khi bị kẹt lại ở
châu Phi một mình?
- Tôi nghe tin về COVID-19 lần đầu tiên vào ngày 29 tết, khi đang ở Madagascar. Chuyến đi
và những ngày chứng kiến sự chống chọi với dịch bệnh COVID-19 ở châu Phi cho tôi thấy rõ
hơn về sự vô thường của cuộc đời.
Trên đường đi, tôi đã chứng kiến những đám tang và cả đám cưới. Vòng tròn sinh lão bệnh tử
không ai tránh được, nên vui được ngày nào thì vui ngày đó, yêu thương nhau, giúp nhau được
điều gì thì cố giúp, vì đâu biết cuộc đời lên xuống mấy hồi.
Rồi trên đường đi tôi cũng nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của mọi người, đồng thời tôi đã
giúp đỡ nhiều người khác. Lòng tốt và sự tử tế có ở khắp mọi nơi và chúng mang lại niềm vui
cho con người. Tôi nhận ra rằng nhiều khi mình đừng e ngại nhận sự giúp đỡ của người khác
mà cứ vui vẻ nhận lấy khi cần, và sau đó mình giúp lại người khác như một cách để nhận lấy
niềm vui cho mình, cho mọi người.
Ngay trong thời gian đi thì gia đình tôi có một người thân mất, đó là một câu chuyện rất buồn.
Những lần hư xe trên đường hay việc chưa thể hoàn tất hành trình như dự định mà phải bỏ dở
ở gần cuối đích của chuyến đi này cũng là một chuyện buồn. Rồi một số chuyện tình cảm trên
đường không được suôn sẻ lắm; cũng có những lúc tâm trạng, nỗi cô đơn choán lấy mình;
những chuyện lặt vặt như rớt đồ, bị quỵt tiền, bị cướp... Nhưng tất cả những chuyện buồn này
tôi cố gắng kiểm soát để không ảnh hưởng nhiều tới chuyến đi của mình.
* Bị giật đồ, quỵt tiền... trên đường, nhưng Khoa vẫn tin rằng thế giới phần nhiều là người
tốt như bạn từng chia sẻ với độc giả Tuổi Trẻ?
- Nơi nào cũng có người tốt kẻ xấu, ngay ở trong một thôn làng cũng vậy. Nhưng tôi tin cơ
bản con người là tốt, luôn sẵn sàng giang tay giúp đỡ người khác. Mình muốn nhận được sự
giúp đỡ của người khác thì bản thân mình cũng phải luôn sẵn sàng giúp đỡ. Mình gieo hạt nào
sẽ nhận quả đó. Mình thân thiện, dễ thương thì đi đâu cũng nhận được sự hỗ trợ của mọi người.
Chương 1: Tự nhận thức - 59

Trong hành trình của tôi, ngoài vài chuyện không vui với người xấu thì người tốt rất nhiều,
luôn xuất hiện giúp đỡ tôi. Sau chuyến đi này, tôi luôn tin thế giới về căn bản là nhiều người
tốt.
Việt Nam là nơi đẹp nhất
* Khoa từng chia sẻ với độc giả Tuổi Trẻ rằng bạn cũng từng có những định kiến về con
người ở một số nước trên thế giới, chuyến đi đã giúp Khoa xóa bỏ định kiến?
- Tôi nói vậy thôi chứ thực tình trước giờ mình không có định kiến với bất cứ nước nào hết.
Ấn Độ không sạch, đối xử tệ với phụ nữ và trẻ em gái, chuyện đó ai cũng biết. Tôi cũng từng
nghĩ vậy, nhưng khi đến đó thì mình hiểu câu chuyện ở tầng sâu hơn những thứ bề nổi ai cũng
thấy. Và tôi muốn nhìn nhận những khác biệt giữa các nền văn hóa ấy là sự đa dạng văn hóa
cần được tôn trọng chứ không phải để phán xét. Những cái đó mình phải đi, phải đến thì mới
thấy.
Trong các chuyến đi, tôi không chỉ muốn ngắm nhìn tháp Eiffel, tháp nghiêng Pisa, tượng Nữ
thần tự do, cảnh núi non hùng vĩ... mà tôi muốn quan sát nhiều hơn về con người, văn hóa,
các mối quan hệ xã hội ở những nơi mình đến. Tôi không thích những chuyến du lịch bay tới
bay về, nó sẽ không cho mình nhiều cảm xúc, không cho mình có thể thấy được sự chuyển
biến của xã hội, không biết địa chính trị của thế giới thế nào... Hành trình bằng xe máy đi khắp
thế giới cho tôi những trải nghiệm vô giá đó.

* Quan sát thế giới nhiều hơn và trực diện, bạn có nhìn Việt Nam khác xưa không?
- Tôi có lẽ là người lạc quan và dễ thích nghi, nên ngay cả trước chuyến đi tôi cũng nhìn những
điều mọi người hay than phiền ở Việt Nam một cách cởi mở và tích cực.
Mozambique là một nước rất nghèo nhưng đường phố cực hiếm tiếng còi xe. Họ nghèo như
vậy nhưng họ làm được điều đó, còn Việt Nam thì không. Ra đường là tiếng còi xe inh tai
nhức óc. Nhưng tôi cũng tự nhủ rằng ở Việt Nam cuộc sống đô thị bon chen hơn, giao thông
thường xuyên tắc nghẽn nên làm con người bực bội hơn mà bóp còi loạn xạ cũng là điều có
thể hiểu. Nghĩ vậy và cùng nhắc nhau mỗi người cố gắng một chút thì sẽ thay đổi. Cái gì cũng
luôn có hai mặt, kể cả trong cái xấu vẫn có mặt tốt.
Ví như gánh hàng rong, vỉa hè lộn xộn có thể khiến nhiều người lo lắng vệ sinh thực phẩm
không tốt, đường phố "nhếch nhác". Nhưng nó có cái hay là ở Việt Nam mua bán rất dễ. Còn
60 - Chương 1: Tự nhận thức

ở Mỹ, đường phố ngăn nắp tinh tươm nhưng không có chuyện bạn đi vài bước ra đường là có
thể gặp la liệt hàng quán mời gọi.
Cho nên quan trọng là mình suy nghĩ tích cực để cùng nhau thay đổi những cái chưa tốt. Chứ
không phải cứ sống ở thiên đường mới hạnh phúc. Thiên đường mà không phù hợp với mình
thì cũng chưa chắc vui.

* Vậy đi khắp thế giới rồi, bạn thấy nơi đẹp nhất là nơi nào?
- Bây giờ thì ở Việt Nam với tôi là nơi đẹp nhất. Ở Việt Nam, tôi có thể có được việc làm tốt,
những cơ hội mới, làm được nhiều việc mình muốn, góp sức tạo ra sự thay đổi. Quan trọng
hơn nữa là tôi có gia đình, bạn bè.

Giữ chiếc xe làm kỷ niệm


* Những chuyến đi mang lại cho Khoa rất nhiều điều, kiến thức, thậm chí là sự nổi tiếng,
và kéo theo đó là tiền bạc nữa. Vậy bạn có khuyến khích các bạn trẻ cũng đi và trải nghiệm
như mình?
- Tôi không khuyến khích ai làm theo mình cả, mà khuyến khích mọi người làm những gì theo
sở thích và sở trường của mình. Nếu bạn nào thích những chuyến đi thì cứ đi, nhưng nếu
không thích thì mình không khuyến khích. Tôi cũng giữ quan điểm này trong giáo dục con
cái sau này, khuyến khích các con làm những điều mình thích chứ không phải là làm theo
người khác.

* Dự định tương lai của bạn là gì?


- Tôi sẽ tập trung vào làm việc. Một số công ty của bạn bè, một số nhãn hàng muốn hợp tác
với tôi. Sắp tới, tôi sẽ phải làm rất nhiều việc, giống như những công việc mình làm ba năm
nay để giúp mình trang trải cho chuyến đi và lo cho gia đình.
Tôi có kế hoạch sẽ xuất bản cuốn sách về chuyến đi của mình trong năm nay, toàn bộ tiền thu
được sẽ gây quỹ thiện nguyện cho trẻ em. Ngoài ra là một số chương trình như làm đại sứ cho
đêm nhạc từ thiện gây quỹ cho Tổ chức Operation Smile, chăm sóc một số trại trẻ mồ côi của
bạn mình, tiếp tục các chương trình từ thiện mà tôi đã làm cùng bạn bè suốt 7 năm qua.
Chương 1: Tự nhận thức - 61

* Bạn sẽ bán đấu giá chiếc xe gây quỹ từ thiện nào đó chứ?
- Chắc là không. Tôi muốn giữ nó làm kỷ niệm.

* Để đi nhiều như vậy, bạn có phải đánh đổi gì không?


- Thời gian, sức khỏe, những mối quan hệ bạn bè, gia đình, quan hệ xã hội... Bạn hãy hình
dung 3 năm bạn không gặp người thân, bạn bè, những cái tết xa nhà một mình, những sinh
nhật một mình...
---***---
Câu chuyện về phượt thủ Trần Đặng Đăng Khoa như được trích trên đây và trên rất
nhiều tờ báo được các bạn đọc, nhất là giới trẻ rất quan tâm chú ý. Rất nhiều lời khen ngợi,
và thể hiện tự hào Việt Nam vì có những chàng trai Việt tài năng, dũng cảm, đã làm được
những điều thật tuyệt vời của cuộc sống, của tuổi trẻ.
Bên cạnh đó, có những câu chuyện được chia sẻ khác về việc có những bạn trẻ chấp
nhận từ bỏ cơ hội việc làm lý tưởng, thu nhập cao đang có để trải nghiệm cuộc sống bởi
cho rằng cần nên có những hành động mạnh mẽ hơn để trải nghiệm, để học hỏi, để thoả
đam mê cá nhân khi còn trẻ để không hối tiếc vì đã bỏ lỡ tuổi thanh xuân vì những toan
tính của cuộc sống “cơm - áo - gạo - tiền”.
Trong khi đó, thực tế có không ít những bài viết về những câu chuyện về sự thất bại
của những chàng thanh niên, cô gái dám dấn thân, trải nghiệm vì niềm đam mê của mình;
cũng có những câu chuyện về sự hối tiếc của các bạn trẻ vì các quyết định sai lầm đã quá
vội hưởng thụ cuộc sống mà cở sở cho sự vững chắc lâu dài chưa có, rơi vào tình cảnh suy
sụp vì đã ngộ nhận, vì đã “xây lâu đài trên cát”.
Từ đó có những quan điểm trái ngược nhau khác nhau về tình huống của phượt thủ
Trần Đặng Đăng Khoa hay của những bạn trẻ dám dấn thân, xông pha, theo đó có hai quan
điểm trái ngược nhau khá rõ ràng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng cuộc sống bằng cách chấp nhận rủi ro, chấp nhận thử
thách để trải nghiệm, để vượt qua bản thân Con người ta có nhiều mục đích và những đam
mê trong cuộc sống, nhưng điều quan trọng nhất là chọn cách sống theo đam mê của mình
thì thật sự mới là cuốc sống có ý nghĩa, cuộc sống đích thực. Để đạt được những mục đích
của mình, sống theo đam mê và đạt được thành công của cuộc sống phải biết chấp nhận
62 - Chương 1: Tự nhận thức

rủi ro, chấp nhận “vượt qua khỏi vòng an toàn” bởi cuộc sống cứ lo sợ, cố thủ “trong luỹ
tre làng” thì sao thấy cả thế giới tươi đẹp và đi xa, bay xa trên chặng đường dài của cuộc
sống thú vị, có ý nghĩa, cuộc sống đích thực.
Quan điểm thứ hai gần như ngược lại, cho rằng chúng ta có những mục đích và
những đam mê trong cuộc sống, nhưng chúng ta cũng trở nên thực tế. Khi lựa chọn một
quyết định, một cách sống thì cần phân tích, đánh giá, cân nhắc nhiều khía cạnh ảnh hưởng,
không chỉ vì mục đích, vì đam mê mà không chú trọng phân tích khả năng, hoàn cảnh, tính
thực tế, nhất là không nên đặt mình vào tình huống gọi như là “xây lâu đài trên cát”, nhảy
vọt khi không có củng cố bằng những bước đi đầu tiên, thậm chí rơi vào thì huống không
còn “đi trên đôi chân của mình” thì thiếu nền tảng vững chắc, mông lung, mất phương
hướng, “liều mạng” chứ không phải là chấp nhận rủi ro. Vậy nên không chỉ nên sống bằng
“trái tim” mà phải bằng cả “trái tim và khối óc” để đạt được những thành tựu có ý nghĩa,
có giá trị và tạo nên cuộc sống thành công.
Câu hỏi thảo luận
1/ Bạn ủng hộ quan điểm nào hơn trong 2 quan điểm trên. Hãy đưa ra những phân
tích, lý giải, dẫn chứng để bảo vệ cho quan điểm của bạn.
2/ Tại sao có những tranh luận không hồi kết khi có một nhóm người ủng hộ quan
điểm này và lại có nhóm người còn lại ủng hộ quan điểm kia, khi mỗi người trong các nhóm
đều có thể đưa ra những phân tích, lý giải, dẫn chứng để bảo vệ cho quan điểm của bạn và
hơn thế nữa hình thành nên niềm tin của họ trong khi họ cũng biết rằng, ở phía bên kia có
những con người đang cũng rất tin tưởng quan điểm ngược lại.
3/ Hãy liên hệ sự ảnh hưởng của đặc điểm “phong cách học”, “thái độ đối với sự
thay đổi” và có thể đặc điểm khác thuộc các yếu tố cốt yếu của tự nhận thức đến các quan
điểm đã nêu.

1.3. THỰC HÀNH KỸ NĂNG


“Thực hành kỹ năng” là thực hiện các hoạt động trong đó ngữ cảnh được hình thành
để thể hiện các hành vi được hướng dẫn tại chủ đề “Học tập kỹ năng”. Thực hành kỹ năng
giúp hình thành các mẫu hành vi hiệu quả, các nguyên tắc trong các lĩnh vực kỹ năng, thu
nhận những phản hồi và tư vấn cho phát triển kỹ năng.
Soi mình qua gương
Chương 1: Tự nhận thức - 63

Bài thực hành "Soi mình qua gương" được phát triển để mô tả tiến trình con người
sử dụng để phát triển sự tự nhận thức. Những người khác và thực tại khách quan như là một
tấm gương cho mỗi chúng ta. Nó phản ánh những hoạt động và hành vi của chúng ta. Ngược
lại, chúng ta rèn luyện những quan niệm của chính bản thân chúng ta như là kết quả của sự
quan sát và sự hiểu biết về tấm gương này. Cách tốt nhất để rèn luyện thực sự những quan
niệm của chính mình là chia sẻ những suy nghĩ, thái độ, cảm nghĩ, những hoạt động và các
kế hoạch của mình với người khác. Bài tập thực hành này giúp bạn làm điều đó bằng cách
để nghị bạn phân tích phong cách và những khuynh hướng của chính bạn và sau đó chia sẻ
và bàn bạc với người khác. Bài tập chia sẻ này sẽ cung cấp một sự thấu hiểu bên trong mà
bạn không nhận thức được trước đó.
Như vậy, “Soi mình qua gương” là một quá trình nỗ lực khám phá bản thân bằng
cách bộc bạch, chia sẻ quan điểm của mình với người khác, đánh giá họ nhìn nhận mình
như thế nào và ngoài ra thực hiện các trắc nghiệm tự đánh giá bản thân, phân tích tình
huống, thảo luận,...Có nghĩa là bạn sẽ thực hiện các nhiệm vụ của bài thực hành này bằng
các cách thức sau:
BƯỚC 1: Khám phá và đối diện bản thân
- Bộc bạch, chia sẻ quan điểm của mình.
- Thăm dò người khác đánh giá gì về mình theo các khía cạnh khác nhau của kỹ
năng và các yếu tố cốt lõi tự nhận thức
- Nhìn nhận điểm nhạy, thừa nhận hạn chế
- Tranh luận với bạn và người thân về các vấn đề ra quyết định trong các tình
huống khó xử, tiến thoái lưỡng nan
- Đọc các tài liệu viết về văn hoá của các vùng miền và các dân tộc. Liên hệ đặc
điểm bản thân trên các khía cạnh văn hóa đó.
- Xây dựng triết lý giá trị, triết lý cuộc sống và bàn luận với các bạn học về nó.
- Đánh giá kỹ năng và đặc điểm cá nhân
BƯỚC 2: Nhận diện sự khác biệt
Chia sẻ những nhận định và kết quả các điểm số trắc nghiệm và các đặc điểm cá
nhân được nhận diện với một nhóm bạn 4-5 người. Cụ thể lần lượt thực hiện việc chia sẻ
và trả lời theo các câu hỏi sau:
1. Khi thực hiện những công cụ đánh giá. tôi đã ngạc nhiên bởi vì …
64 - Chương 1: Tự nhận thức

2. Những đặc điểm có ưu thế trội của tôi bị thu hút bởi những công cụ là…
3. Một số thế mạnh lớn nhất của tôi là …
4. Một số điểm yếu của tôi là …
5. Theo kinh nghiệm, tôi cảm thấy hầu hết thành công là …
6. Theo kinh nghiệm tôi cảm thấy khả năng yếu nhất là …
7. Ba ưu tiên cao nhất của tôi trong cuộc sống là …
8. Cách mà tôi khác biệt với hầu hết mọi người là …
9. Tôi sống tốt nhất với người mà người này …
10. Những người khác trong nhóm đã chia sẻ điều gì, đây là một ấn tượng mà tôi đã
học được được về mỗi người:…
Lần lượt mỗi người lần lượt thực hiện chia sẻ như trên.
BƯỚC 3: Đúc kết
Hãy tự đánh giá về những trải nghiệm của việc “Soi mình qua gương”, đánh giá về
sự tiến bộ của bản thân về việc bạn đã trở nên bộc bạch, cởi mở hơn; về việc thấu hiểu bản
thân; về khả năng thấu hiểu và chấp nhận sự khác biệt.
Khám phá đặc điểm quản trị
Bài thực hành “Khám phá đặc điểm quản trị” đề nghị người học tìm hiểu một số nhà
quản trị thành công về nhiều khía cạnh: Khái quát tiểu sử và các thành công của họ, họ đã
học tập và phấn đấu như thế nào? Họ đã trải nghiệm những tình huống nào và sau đó thảo
luận theo các nội dung hướng dẫn sau.
1. Nhận diện các đặc điểm cốt yếu của cá nhân nhà quản trị (giá trị, phong cách học,
thái độ đối với sự thay đổi, xu hướng thiết lập mối quan hệ).
2. Đánh giá những đặc điểm khác biệt gì trong những yếu tố cốt yếu trên đem lại sự
thành công cho nhà quản trị.
Người tham gia thực hành có thể thực hiện bài khám phá thông qua việc thu thập
thông tin qua các nguồn tư liệu có thể khai thác được hoặc kết hợp thông qua phỏng vấn cá
nhân đối với người muốn tìm hiểu.
Dưới đây là các bài viết (từ bài “20 câu nói của tỷ phú Elon Musk” đến bài “người
hùng của nước Mỹ”) được trích từ nguồn Internet đối với bài thực hành khám phá đặc điểm
quản với đối tượng thực hành là doanh nhân tỷ phú Elon Musk.
Chương 1: Tự nhận thức - 65

Tỷ phú công nghệ Elon Musk

Elon Musk là tỷ phú đa tài, thành công, con người với nhiều ý tưởng kỳ dị và là con
người truyền cảm hứng cho đam mê công nghệ và khởi nghiệp.
Thông tin về Elon Musk có thể tìm kiếm từ các nguồn mà bạn có thể thu thập được
để thực hiện bài thực hành “Khám phá đặc điểm quản trị”. Dưới đây là 2 bài viết, một trong
những nguồn mà bạn có thể tìm hiểu.
Hãy khám phá và trả lời theo hai nội dung hướng dẫn của bài thực hành.

2O Câu nói của tỷ phú Elon Musk

Nguồn: https://quantrimang.com/20-cau-noi-cua-ty-phu-elon-musk-danh-cho-
nhung-ai-dam-uoc-mo-142512

Người đàn ông “Đa tài” có lẽ là hai từ phù hợp nhất để miêu tả về con người Elon
Musk. Trở thành triệu phú ở tuổi 27 và đến năm 45 tuổi thì trở thành một Tỷ phú bậc nhất
nắm giữ nhiều cương vị quan trọng, từ nhà sáng lập, CEO và Giám đốc kỹ thuật của Tập
đoàn hàng không vũ trụ SpaceX; đồng sáng lập, CEO và kỹ sư sản phẩm của Tesla Motors;
đồng sáng lập của Zip2, cũng như nhà đồng sáng lập của PayPal... Với bấy nhiêu những
thành công đó thì Elon Musk chính là một hình mẫu lý tưởng để chúng ta phấn đấu.

Ở tuổi 45, nhiều người khi có được thành công thì thường dành nhiều thời gian để
nghỉ ngơi, nhưng với Elon Musk lại hoàn toàn ngược lại, dù đã có được nhiều thành công,
nhưng không dừng lại ở những thành công đó Elon Musk vẫn tiếp tục nỗ lực không ngừng
để đổi mới và vươn tới những đỉnh cao mới trong sự nghiệp.

Dưới đây là 20 câu nói để đời của Elon Musk nhằm truyển cảm hứng tới những ai
dám ước mơ, hãy đọc và cảm nhận để có được thành công như Elon Musk nhé:

1. Trước hết hãy tạo dựng những điều khả thi, và rồi những gì có thể xảy ra sẽ xảy
ra.
66 - Chương 1: Tự nhận thức

2. Nhận được những ý kiến góp ý rất quan trọng. Điều này giúp bạn có thể ngay lập
tức suy nghĩ lại về những việc đã làm và làm cách nào để cải thiện công việc đó.

3. Nếu bạn thức dậy vào mỗi sáng và nghĩ rằng ngày mai sẽ là một ngày tươi sáng
hơn, thì ngày hôm đó sẽ là một ngày tốt lành với bạn.

4. Thành lập một công ty cũng giống như nướng một cái bánh. Bạn phải có tất cả
nguyên liệu theo đúng tỷ lệ chính xác.

5. Mọi người sẽ làm việc tốt hơn nếu xác định được mục tiêu và động cơ của công
việc. Khi đó, họ sẽ có động lực tới nơi làm việc và cảm thấy hứng thú hơn trong
công việc.

6. Sai lầm lớn nhất của tôi có lẽ là quá cân đo đong đếm tài năng của từng người
thay vì tính cách của họ. Tôi nghĩ rằng, mỗi người cần phải có tấm lòng nhân hậu và
đó mới là điều quan trọng.

7. Nếu bạn là một CEO, bạn sẽ phải làm nhiều công việc mà bạn không hề muốn
nhúng tay vào. Thế nhưng nếu bạn không làm những việc đó thì công ty sẽ không
thể thành công. Không có công việc gì là quá thấp kém cả.

8. Thay vì làm những công việc đặc biệt một cách khác người, hãy hoàn thành chúng
một cách hiệu quả nhất có thể.

9. Điều quan trọng là chúng ta phải học cách hài lòng với những đồng nghiệp xung
quanh, nếu không cuộc sống và công việc của bạn sẽ không được như mong muốn.

10. Tôi nghĩ rằng một người bình thường có thể tự biến mình trở nên phi thường.

11. Làm việc điên cuồng. Hãy tận dụng 100 giờ để làm việc mỗi tuần.
Nếu những người khác dành 40 giờ để làm việc, trong khi con số này của bạn là 100
giờ, thì ngay cả khi làm cùng một công việc, bạn sẽ sớm đạt được kết quả vòng 4
tháng thay vì 1 năm như họ.

12. Một số người không muốn thay đổi, thế nhưng bạn cần phải đón nhận sự thay
đổi nếu các phương án thay thế là một thảm họa.
Chương 1: Tự nhận thức - 67

13. Sự kiên trì là rất quan trọng. Bạn không nên bỏ cuộc trừ khi bạn buộc phải từ bỏ
nó.

14. Con người thường có thành kiến đặc biệt đối với những người dám mạo hiểm.
Mọi người đều cố gắng làm những công việc càng an toàn càng tốt.

15. Hãy để ý tới những lời nhận xét tiêu cực và sẵn lòng đón nhận chúng, đặc biệt
từ những người bạn. Rất ít người muốn nghe góp ý nhưng những lời nhận xét thực
sự rất có ích đối với họ.

16. Điều gì khiến con người tư duy phản biện? Tôi nghĩ rằng tư duy của bản thân đã
buộc chúng ta phải quyết định.

17. Con người nên theo đuổi những thứ mà họ đam mê. Đó mới chính là niềm hạnh
phúc đích thực của họ.

18. Nhân tài là vô cùng quan trọng. Giống như khi chơi thể thao, đội nào sở hữu
thành viên xuất sắc hơn thường là đội thắng cuộc, thế nhưng sức mạnh của toàn đội
sẽ được nhân lên gấp bội khi tất cả các thành viên cùng đồng tâm hiệp lực và thi đấu
dựa trên cùng một chiến thuật.

19. Tôi nghĩ rằng chúng ta có nhiệm vụ phải duy trì ý chí của con người để đảm bảo
rằng nó sẽ không bị mai một trong tương lai.

20. Dám thất bại. Nếu chưa bao giờ trải qua thất bại, bạn vẫn chưa thực sự đổi mới.

Elon Musk - người hùng nhiều tai tiếng

Nguồn: https://vnexpress.net/elon-musk-nguoi-hung-nhieu-tai-tieng-4105602.html

Elon Musk có nhiều người ghét và hoài nghi, nhưng ít nhất, NASA hoàn toàn tin
tưởng ông, giao cho SpaceX – công ty tư nhân đầu tiên – đưa người vào không gian.
68 - Chương 1: Tự nhận thức

Sáng 27/5, tại Florida, mọi việc đã diễn ra như dự kiến: Hai phi hành gia người
Mỹ, Bob Behnken và Doug Hurley lái chiếc xe điện Tesla tới bệ phóng vũ trụ, rồi trèo
vào mũi tên lửa Falcon 9 do SpaceX của Elon Musk chế tạo. Họ mặc bộ đồ phi hành gia
với màn hình cảm ứng siêu mỏng phía trước, trái ngược hoàn toàn với những bộ đồ đầy
nút bấm, núm vặn như thời Chiến tranh Lạnh.

Tên lửa sẽ khai hoả chiều nay, lúc 16h33 (giờ Hà Nội) và dự kiến cập bến Trạm
vũ trụ quốc tế sau 19 giờ bay. Đây là lần đầu một công ty tư nhân phóng tên lửa đưa người
vào không gian. Sự kiện cũng đánh dấu lần đầu Mỹ đưa phi hành gia vào vũ trụ từ đất Mỹ
bằng tàu con thoi Mỹ (Crew Dragon) và tên lửa phóng Mỹ (Falcon 9) của tỷ phú công
nghệ Elon Musk.

Ashlee Vance, người viết tiểu sử của Elon Musk, đã dành nhiều năm để tìm hiểu
hoạt động của vị tỷ phú công nghệ gốc Nam Phi và cách ông ảnh hưởng đến mọi người.

Một tài năng


Trong một cuộc phỏng vấn, Elon Musk đôi khi lúng túng đến mức hớ hênh khiến
cổ phiếu công ty rớt giá trong vài tuần hoặc thậm chí vài tháng. Bù lại, những tương tác
trên Twitter của ông có khi lại mang hiệu quả đáng kinh ngạc. Nhưng không ít lần, ông
chủ Tesla chỉ giữ im lặng xung quanh vài bê bối hoặc những thông tin về đời tư.

Tất cả khắc họa nên chân dung một Elon Musk đầy tai tiếng nhưng với tài năng
không thể phủ nhận. Việc phóng tên lửa Falcon 9 lên vũ trụ ngày 27/5 là một ví dụ. Musk
đã bán mọi thứ mình có và thử phóng tên lửa rất nhiều lần cho đến khi thành công.

Việc NASA tin tưởng, cho phép phi hành gia lên một tên lửa được sản xuất hoàn
toàn bởi một công ty tư nhân, đã chứng tỏ SpaceX là công ty đáng tin cậy, tiềm năng.
Trong một thập kỷ qua, SpaceX đã phóng khoảng 100 tên lửa, đưa nhiều người từ vũ trụ
trở về Trái đất an toàn và thâu tóm luôn ngành công nghiệp vũ trụ được định giá gần 40
tỷ USD. Đây không phải điều đơn giản. Rất nhiều người tài giỏi đã cùng nỗ lực nhiều
năm để đạt được thành quả này. Trong đó, Elon Musk là người lèo lái con thuyền vinh
Chương 1: Tự nhận thức - 69

quang, đầy biến động với những ý tưởng táo bạo, điên rồ khiến SpaceX trở lên khác biệt
từ những ngày đầu tiên.

Ngay cả những người ghét Musk nhất cũng thấy tự hào về những gì SpaceX đang
thể hiện. Thời điểm kinh tế nước Mỹ đang ảm đạm, Elon Musk nổi lên như một dấu
hiệu cho thấy những điều tuyệt nhất vẫn có thể xảy ra.

Vị "giáo chủ" trên Twitter


Giống tổng thống Trump, Musk dùng Twitter để kết nối với mọi người. Các bài
viết trên mạng xã hội của ông đặc biệt và gây nhiều sự chú ý cho cộng đồng. Ví dụ, Musk
thề sẽ bán tất cả tài sản của mình, hay đặt tên cho con trai là X Æ A-12, hoặc thậm chí
phàn nàn về việc Tesla được định giá quá cao... Gần đây nhất, một trong những chủ đề
gây tranh cãi của tỷ phú công nghệ liên quan đến virus corona.

Trước khi dịch bệnh bùng phát, ông nói "hoảng loạn vì Covid-19 là ngốc nghếch".
Musk tiếp tục dự đoán đến cuối tháng 4 Mỹ sẽ không có ca nhiễm mới nào. Nhưng thực
tế đã chứng minh hầu hết quan điểm của CEO Tesla về Covid-19 là sai, kể cả việc Musk
khuyên mọi người dùng thuốc chống sốt rét để phòng nCoV. Khi chính quyền liên bang
thi hành lệnh cách ly để hạn chế Covid-19 lây lan, Musk lại một lần nữa gây tranh cãi khi
gọi chính sách cách ly tại nhà là phát xít và đòi "mở cửa lại nước Mỹ" ngay lập tức. Đến
11/5, Musk tuyên bố mở cửa nhà máy Tesla bất chấp lệnh cấm. "Tôi sẽ xếp hàng với mọi
người. Nếu có ai bị bắt tôi sẽ yêu cầu chỉ giam giữ mình tôi", Musk viết trên Twitter và
tuyên bố sẽ chuyển nhà máy khỏi California để tìm một tiểu bang "hiếu khách hơn".
Không lâu sau, Musk đã đạt được mục đích, chính quyền đồng ý nhượng bộ cho phép nhà
máy của ông được mở cửa trở lại.

Musk như một giáo chủ trên Twitter. Các tín đồ trung thành của ông tin rằng Musk
không bao giờ sai và có thể ăn mừng bất cứ điều gì ngay cả khi nó mâu thuẫn với các phát
ngôn trong quá khứ. Ngược lại, cũng có nhiều người ghét những thứ Musk làm. Họ cho
rằng ông là kẻ lừa đảo, nói dối và làm mọi thứ để kiếm tiền.
70 - Chương 1: Tự nhận thức

Những chặng đường chông gai


Để thật sự hiểu về con người của Elon Musk, hãy tìm về Pretoria, Nam Phi, quê
nhà của Musk. Ông sinh năm 1971, trong một gia đình trung lưu nhưng tuổi thơ không
mấy êm đềm. Cha mẹ ly hôn và ông thường xuyên bị bắt nạt ở trường học. Khi lớn lên,
Musk cũng không có mối quan hệ tốt với cha mình.

Năm 17 tuổi, Elon Musk quyết định rời nhà đến Canada và Mỹ để theo đuổi con
đường học hành. "Khi tôi nói sẽ rời đi, cha tôi nói rằng tôi sẽ thất bại và sẽ lại quay về
sau ba tháng nữa", Musk kể. Trong một lần bộc bạch, Musk từng nói: Hành tranh của ông
khi đến Mỹ chỉ là một vali đầy sách và 2.000 USD. Những dữ kiện này đã bác bỏ tin đồn
rằng Musk khởi nghiệp bằng tài sản của người cha.

Vị tỷ phú tự thân từng đi làm thêm, xin học bổng và nhờ đến các khoản vay sinh
viên để trang trải việc học. Kết thúc đại học, Musk nợ khoảng 100.000 USD. "Tôi lập
công ty đầu tiên với 2.500 USD, một chiếc máy tính, một chiếc ôtô giá 1.400 USD và số
nợ từ thời sinh viên. Sẽ thật tuyệt nếu ai đó chi trả học phí giúp tôi, nhưng bố tôi không
đủ khả năng và ông cũng không muốn làm như vậy", Musk nói.

Năm 1995, Elon Musk khởi nghiệp cùng anh trai, thành lập công ty phần mềm
Zip2. Sau 4 năm, họ bán công ty với giá 307 triệu USD, Musk bỏ túi 28 triệu đô. Với số
tiền kiếm được, Musk tiếp tục đầu tư và trở thành đồng sáng lập PayPal.

Những ngày đầu tháng 9/2011, Musk ngồi cạnh hồ bơi tại Hard Rock Hotel &
Casino ở Las Vegas để ăn mừng. Cổ phần của ông tại PayPal sẽ sớm cán ngưỡng 160
triệu USD. Trong bữa tiệc với đám đông cuồng nhiệt ấy, người ta lại thấy Musk cặm cụi
đọc những tài liệu hướng dẫn liên quan đến việc sử dụng các loại tên lửa cũ của Liên Xô.
Những xấp tài liệu trông như bị mốc và có vẻ được mua trên eBay. "Kevin Hartz, một
trong những nhân viên của PayPal đã nói với tôi về cuốn sách. Tôi đã tìm đọc nó và bắt
đầu suy nghĩ về việc du hành vũ trụ, thay đổi thế giới", Musk nhớ lại.
Chương 1: Tự nhận thức - 71

Musk đã ngồi ở đó, bên bể bơi với đống sách cũ và ngấu nghiến đọc, một hình ảnh
thân quen nhưng khác xa những gì người ta thường hình dung về ông qua những đoạn
Tweet. Musk khi này trông gần gũi, cô đơn và đúng bản chất vụng về của một gã mọt
sách đến từ Nam Phi. Ông như đang phiêu du trong một bản nhạc Funk, cố gắng tìm kiếm
những ý nghĩa mới của cuộc đời.

Với số vốn ít ỏi và vị trí khiêm tốn, ít ai có thể tưởng tượng rằng Musk muốn thành
lập một công ty tên lửa, một lĩnh vực đặc thù vốn thuộc về các dự án quốc gia. Chính phủ
phải tốn hàng tỷ USD để nghiên cứu với đội ngũ hàng nghìn kỹ sư đầu ngành trong nhiều
năm. Trước Musk, vài người giàu có, đam mê vũ trụ, đã cố gắng chế tạo tên lửa và đã bỏ
cuộc sau khi đốt cháy vận may của mình. Bài học được mọi người rút ra là người ta không
thể làm tên lửa bằng một ý thích chợt đến. Hơn nữa, bạn cũng không thể đặt một nhà kính
nhỏ trên sao Hoả để mọi người ngắm nhìn nó từ trái đất qua Internet. Nhưng Musk đã làm
vậy. Đó là ý tưởng của ông khi rót tiền vào SpaceX.

Năm 2008, các tín hiệu không khả quan lắm so với ước mơ của Musk. Ba tên lửa
đầu tiên của SpaceX đã bị nổ tung hoặc không đi vào quỹ đạo. Trong khi đó, Tesla đang
đứng bên bờ phá sản. Musk đã phải xé đôi số tiền mình kiếm được ở SpaceX để giữ cho
cả hai công ty cùng tồn tại. Cùng lúc này, hôn nhân của Musk cũng đi đến hồi kết, ông ra
toà ly dị người vợ có với mình năm người con trai. Với nhiều người, điều Musk cần làm
bây giờ là thuyết phục các nhà đầu tư của Tesla và tìm kiếm cơ hội với NASA để SpaceX
có thể tồn tại. Tuy nhiên, cách ông chọn để thoát ra khỏi mớ hỗn độn cá nhân là hẹn hò
với một nữ diễn viên trẻ tài năng và xinh đẹp, Talulah Riley. Từ đây tên tuổi của Musk
bắt đầu nổi lên, ông cũng tái cơ cấu lại hai công ty và thuyết phục các cổ đông một lần
nữa rót vốn vào canh bạc do ông cầm trịch.

Kể từ đó, Musk lèo lái con thuyền SpaceX, tìm ra cách tái sử dụng tên lửa. Tesla
cũng mở rộng nhà máy sản xuất xe hơi điện nổi tiếng khắp thế giới. Musk còn lập thêm
một công ty nghiên cứu về AI, đào đường hầm cao tốc và tham vọng phủ Internet toàn
cầu bằng vệ tinh... Nhiều người cho rằng những ý tưởng của Musk là điên rồ, nhưng rõ
ràng Musk đang làm được những điều không tưởng.
72 - Chương 1: Tự nhận thức

Người hùng của nước Mỹ


Trong bối cảnh nước Mỹ không có gì mới mẻ, Elon Musk lại xuất hiện. Ngay cả
khi nước Mỹ đang chia rẽ vì Covid-19, Musk lại thẳng thắn lên tiếng chống lại các lệnh
cấm vận của chính phủ liên bang. Đúng như tính cách của mình, Musk nói sẽ không bao
giờ chờ người khác tìm ra cách vực dậy nền kinh tế, chính ông và công ty của mình sẽ
làm điều đó. Nhân viên của SpaceX làm việc toàn thời gian trong thời gian dịch bệnh diễn
ra. "Chúng tôi không có người bị bệnh nặng hoặc tử vong dù làm việc ở nhiều tiểu bang.
Ngay cả ở nhà máy Trung Quốc, nhân viên của Tesla cũng không bị ảnh hưởng", Musk
nói.

Trong chủ nghĩa chống lại đại dịch của Musk, SpaceX được xây dựng để đưa con
người thoát khỏi trái đất với những dịch bệnh chết người. Musk ôm tham vọng biến sao
Hoả thành thuộc địa mới của loài người. Đây chắc chắn là điều nhiều người mơ ước. Hoặc
đơn giản, nó như một kế hoạch dự phòng trong những trường hợp tồi tệ nhất, như Trái đất
bị tấn công, thiên tai hoặc một dịch bệnh nào đấy...

Đến lúc đấy, Musk không chỉ là người hùng của nước Mỹ mà còn có thể giải cứu
cả loài người. Điều này nghe có vẻ điên rồ, nhưng dù sao, mọi người đều đang chứng kiến
những thay đổi không tưởng. Các kỹ sư của SpaceX đang bận rộn xây dựng một con tàu
không gian khổng lồ tên Starship để đưa con người đến những hành tinh ngoài trái đất
như mặt trăng, sao Hoả...

Trong vài thập kỷ trước, những nhiệm vụ như vậy nghe có vẻ buồn cười, nhưng
bây giờ, nó đã trở nên rất thật. Đặc biệt khi bạn nhìn lại những thành tựu đáng kinh ngạc
mà Musk đã đạt được cùng với SpaceX và Tesla. Bất kỳ ai cũng có thể xem những phát
ngôn của Elon Musk là trò hề, nhưng khi tên lửa của SpaceX được phóng lên thành công,
đó sẽ là khoảnh khắc của lịch sử.

NASA đã chấp nhận rủi ro một cách thông minh, cam đảm khi hợp tác với một
công ty tư nhân trong khi vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn. Có thể họ đã trải qua hàng
Chương 1: Tự nhận thức - 73

chục nghìn cuộc họp. Hàng vạn bài kiểm tra, thử nghiệm loại này loại kia đã diễn ra.
Nhưng nếu mọi việc suôn sẻ, Musk, NASA và cả SpaceX sẽ mở ra một cuộc cách mạng
mới trong ngành công nghiệp chế tạo tàu vũ trụ và khám phá không gian.

Từ giờ đến lúc đó, Musk vẫn tiếp tục thực hiện những điều ông đã nói, như bán
toàn bộ tài sản. "Tôi chỉ muốn ở cùng bạn bè và thu mình trong các nhà máy. Tôi thích
thế hơn, cảm giác sẽ bớt cô đơn". Khi được hỏi nếu bán hết tài sản, sáu cậu con trai của
mình sẽ ở đâu, Musk nói: "Có lẽ tôi sẽ thuê một nơi nào đó nhỏ nhỏ, nhưng thực sự tôi
chưa rõ nó sẽ ở đâu".

Trong khi cả thế giới đang hướng về bệ phóng ở Florida, Musk sẽ ngồi lại với Bob
Behnken, Doug Hurley và đội kỹ thuật của SpaceX, NASA, để thực hiện các đánh giá kỹ
thuật cuối cùng. Nếu thời tiết hợp tác, công nghệ vận hành như lập trình, hai phi hành gia
sẽ thoát khỏi đại dịch một cách an toàn để hướng đến các vì sao.

"Nếu không thành công, tôi nghĩ đây cũng sẽ là một khoảnh khắc đáng kinh ngạc
với nhân loại và với cả bản thân tôi", Elon Musk nói về sự kiện ngày 27/5. Dù thế nào, đó
cũng vẫn là sự kiện mà mọi người ăn mừng.

Khương Nha (theo Bloomberg)

Kế hoạch học tập và Tự thuật


Mục đích của bài thực hành này là giúp bạn phát biểu về những mục tiêu chủ yếu
của bạn và những khát vọng của bạn cũng như xác định một kế hoạch để tạo điều kiện thuận
lợi cho sự thành công của bạn. Bởi vì việc học hỏi không ngừng là rất quan trọng cho sự
thành công của bạn, chúng tôi giúp bạn xác định một vài tham vọng cụ thể và phát triển các
tiến trình để giúp bạn đạt được những năng lực này.
Bài thực hành phải được hoàn thành thông qua bốn bước:
Bước 1 (Những khát vọng). Hãy viết về một câu chuyện mà nó có thể đã xuất hiện
trên các tờ báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ, An ninh Thế giới,… đã được đăng tải trong 10 năm
qua. Câu chuyện mà bạn có thể cảm thấy chia sẻ được với những thành tựu nổi tiểng hoặc
vận rủi may và có giá trị mới nhất với bạn. Điều bạn muốn đạt được là gì và điều đó sẽ thực
74 - Chương 1: Tự nhận thức

hiện những ước mơ của bạn? Những kết quả, thành tựu nào làm cho bạn ngây ngất hạnh
phúc? Những điều gì mà bạn muốn hiểu biết chúng?
Bước 2 (Những đặc điểm). Xem lại điểm số của bạn trong phần đánh giá trước, là
đánh giá kỹ năng khi bạn bắt đầu tham gia chương trình học tập kỹ năng. Sử dụng hình sau,
nhận định phạm vi mà bạn được thỏa mãn với điểm số của mình về việc sử dụng những
công cụ khác nhau. Trục tung xếp loại từ rất thỏa mãn đến rất không thỏa mãn. Trục ngang
nhận diện năm công cụ bạn đã hoàn thành trong chương này. Đối với mỗi loại công cụ,
mức độ thỏa mãn của bạn sẽ được biểu hiện bằng một điểm trên hình đã nêu. Bằng cách
nhập các điểm số này cùng nhau, bạn sẽ tạo ra được một hồ sơ về mức độ thỏa mãn sự tự
nhận thức. Điều này sẽ giúp bạn xác định một cách rõ ràng những khía cạnh mà bạn muốn
cải thiện.

1= Sự trưởng thành giá trị


Rất thỏa mãn 2= Phong cách học
3= Nơi kiểm soát
4= Mức độ chịu đựng sự mơ
Bình thường hồ
5 = FORO-B
Không thỏa
mãn
1 2 3 4 5

Hình 1.6. Nhận diện những đặc điểm bản thân


Dựa trên biểu đồ đó, xác định những năng lực đặc biệt của bạn, những điểm mạnh,
và những điều mà chỉ có bạn mới có. Những giá trị, phong cách và thái độ nào sẽ giúp bạn
đạt được những khát vọng mà bạn đã xác định ở bước 1.
Bước 3 (Phản hồi). Hãy phỏng vấn một thành viên trong gia đình bạn hoặc một
người nào đó mà người này biết bạn rất kỹ. Yêu cầu người này mô tả những điều họ thấy
như những điểm mạnh hoặc năng lực của bạn. Người này đã thấy điều gì ở bạn trong tương
lai? Nên đưa ra những câu hỏi sau đây trong cuộc phỏng vấn:
1. Ai bạn biết mà bạn ngưỡng mộ một sự định hướng vĩ đại do những thành công
của họ trong cuộc sống?
2. Ai mà bạn biết đã thất bại trong việc đạt được những tiềm năng của họ? Điều gì
bạn cho là quan trọng nhất gây ra sự thất bại của họ?
Chương 1: Tự nhận thức - 75

3. Bạn nhận thấy những năng lực đặc biệt và đáng kể mà bạn sở hữu là gì?
4. Bạn nghĩ những khía cạnh nào (lĩnh vực) nào tôi nên tập trung vào để cải thiện
mình và nỗ lực phát triển?
5. Bạn thấy tôi đang làm gì trong 10 năm qua?
Bước 4 (Hoạch định và Hành động). Bây giờ xác định những hành động mà bạn
sẽ cam kết nếu bạn muốn đạt được những khát vọng của bạn. Với sự thấu hiểu mà bạn đã
đạt được ở bước 2 và 3, hãy xác định những điều bạn phải làm để giúp bạn đạt được điều
mà bạn kỳ vọng hoàn thành. Hãy xem xét những hoạt động sau:
1. Những chiều hướng nào bạn sẽ nắm bắt?
2. Bạn sẽ biết người khác điều gì?
3. Những hoạt động cân bằng cuộc sống hoặc lớp ngoại khóa nào bạn cam kết thực
hiện?
4. Bạn sẽ đọc cái gì?
5. Những hoạt động tinh thần nào có ý nghĩa nhất?

1.4. ỨNG DỤNG KỸ NĂNG


1.4.1. Giới thiệu hoạt động ứng dụng kỹ năng
“Ứng dụng kỹ năng” là cách tiếp cận hệ thống và có kế hoạch trong phát triển kỹ
năng quản trị. Theo cách tiếp cận này, người học xác định mục tiêu phát triển kỹ năng, thiết
lập kế hoạch phát triển kỹ kỹ năng, thực hiện kế hoạch, đánh giá sự tiến bộ và giải pháp
cho việc tiếp tục cải thiện kỹ năng. Cụ thể ứng dụng kỹ năng thực hiện thông qua ba giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Lập kế hoạch phát triển kỹ năng
Giai đoạn 2: Thực hiện kế hoạch phát triển kỹ năng
Giai đoạn 3: Đánh giá và giải pháp cho việc tiếp tục cải thiện kỹ năng.
Ở giai đoạn thứ nhất, “Kế hoạch phát triển kỹ năng” bắt đầu bằng việc (1) xác định
mục tiêu phát triển kỹ năng, trên cơ sở đó (2) lập kế hoạch bối cảnh thực hiện kỹ năng và
(3) xác định phương pháp đánh giá kỹ năng.
Ở giai đoạn thứ hai, “Thực hiện kế hoạch phát triển kỹ năng” được triển khai thông
qua việc người học thúc đẩy cơ hội và tham gia vào các bối cảnh kết hoạch, theo đó người
76 - Chương 1: Tự nhận thức

học có cơ hội trải nghiệm, thể hiện các hành vi hiệu quả và đáp ứng các nhiệm vụ phát triển
kỹ năng trong giai đoạn “Thực hiện kế hoạch phát triển kỹ năng”. Thực tế, với những bối
cảnh thay đổi của thực tiễn công việc và cuộc sống, người thực hiện kế hoạch có thể tận
dụng cơ hội của bối cảnh thực tế để thể hiện hành vi và thực hiện các nhiệm vụ đã xác định.
Ở giai đoạn thứ ba, vào cuối thời gian của kế hoạch phát triển kỹ năng, người học
thực hiện việc “Đánh giá và giải pháp cho việc tiếp tục cải thiện kỹ năng”. Ở bước này,
người học tự đánh giá mức độ hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kỹ năng, thực tế và khả
năng biểu hiện hành vi hiệu quả, mức độ cải thiện kỹ năng. Bên cạnh đó, hãy xác định
những mong muốn phát triển kỹ năng chưa được đáp ứng và xác định các cách cải thiện kỹ
năng trong thời gian đến.

1.4.2. Lập kế hoạch phát triển kỹ năng


Xác định mục tiêu phát triển kỹ năng
Mục tiêu phát triển kỹ năng là kết quả đạt được, hành vi thể hiện hoặc thực hiện các
nhiệm vụ trong việc thay đổi bản thân theo chiều hướng tích cực của kỹ năng. Người học
cần xác định mục tiêu phát triển kỹ năng trên cơ sở cân nhắc:
- Nhận thức được từ việc đánh giá mức độ hay đặc điểm trong lĩnh vực kỹ năng
- Nhận thức được từ học tập kỹ năng và các hướng dẫn hành vi được đề nghị
- Định hướng trong phát triển nghề nghiệp và mong muốn cá nhân.
Đối với kỹ năng tự nhận thức, việc đánh giá mức độ hay đặc điểm cá nhân ở đây
là việc thực hiện và ghi nhận phản hồi từ tra cứu các bài trắc nghiệm kỹ năng, hay có thể
tham khảo sự đánh giá từ người khác, hay có thể thực hiện tự đánh giá về các đặc điểm cốt
yếu của tự nhận thức, như là về các giá trị cá nhân ưu tiên, về xu hướng của nền văn hoá
bản thân chịu chi phối, về đặc điểm phong cách học, về thái độ đối với sự thay đổi,… Về
việc nhận thức học tập kỹ năng và các hướng dẫn hành vi được đề nghị đó là việc lĩnh hội
các nội dung được chuyển tải về sự khác biệt giữa các cá nhân, về các yếu tố cốt yếu của
tự nhận thức và các hướng dẫn hành vi như về việc cần trở nên bộc bộc hơn, cởi mở chia
sẻ quan điểm với mọi người khác, xác định 5 giá trị mục đích và 5 giá trị phương tiên ưu
tiên nhất,… Về định hướng nghề nghiệp và mong muốn có thể như về nhận định nghề
nghiệp tương lai trở thành doanh nhân mà theo đó, phong cách học “thích nghi” là đặc trưng
thì cần có định hướng cho phong cách học này, trong khi phát huy ưu thế có thể phong cách
học khác mà bản thân sở hữu, hay như nghề nghiệp quản trị nguồn nhân lực mong muốn
Chương 1: Tự nhận thức - 77

trong bối cảnh toàn cầu hoá yêu cầu cần trở nên nhạy cảm, hiểu biết và cởi mở đến sự khác
biệt văn hoá, cảm nhận và thích nghi bối cảnh đa văn hoá.

Lập kế hoạch bối cảnh ứng dụng kỹ năng


Bối cảnh ứng dụng kỹ năng là hoàn cảnh công việc và cuộc sống được dự kiến rằng
thực tế có thể xảy ra hoặc cần được tác động cho khả năng xảy ra, hoặc cũng có thể một kế
hoạch bối cảnh được người học chủ động thiết lập.
Hãy lập kế hoạch bối bằng cách đặt ra các tình huống ứng dụng kỹ năng. Hãy lên kế
hoạch để hành động trong thực tiễn và mô tả tình huống đó. Một tình huống cần làm rõ, trả
lời 4 câu hỏi:
- Làm gì?: Trả lời câu hỏi nội dung và tính chất sự kiện, sự việc dự kiến xảy ra mà
ở đó có cơ hội cho bạn thể hiện các hành vi hiệu quả của kỹ năng hay yếu tố kỹ
năng mong muốn có sự thay đổi tích cực.
- Ở đâu?: Trả lời câu hỏi địa điểm phát sinh hay dự kiến phát sinh.
- Với ai?: Trả lời câu hỏi chú ý quan tâm đến việc tương tác với những ai.
- Khi nào?: Trả lời câu hỏi thời gian hay những cơ hội nào diễn ra bối cảnh.
Đối với kỹ năng tự nhận thức, cách phát biểu một trong các tình huống ứng dụng
kỹ năng có thể như sau:
Tôi muốn có sự tiến bộ về kỹ năng chấp nhận sự khác biệt. Tôi được học tập và
hướng dẫn về việc cần thấu hiểu và chấp nhận sự khác biệt. Thực tế trong học kỳ vừa qua
tôi thấy hứng thú và quan tâm đến bạn học cùng lớp Thanh An. Thanh An thật sự đam mê
ngành quản trị nguồn nhân lực và mỗi khi cùng học nhóm với An là dịp được học được vài
điều bổ ích về chuyên ngành. Những bài học về lý thuyết nhận thức, về đánh giá năng lực
ứng viên, về các phương pháp phát triển năng lực tư duy thật lý thú và bổ ích cho nghề
nghiệp của tôi. Thật đáng tiếc là mỗi khi chúng tôi có dịp gặp nhau, không chỉ là dịp tôi
được học hỏi và tiến bộ nhưng nhiều lúc đó là những lúc làm tôi cảm nhận sự xa cách vì
cứ khi chúng tôi có quan điểm trái ngược nhau thì thế nào cũng dẫn đến sự tranh cải và
hầu như lúc nào tôi cũng “chiến” đến cùng, mặc dù có lúc tôi thấy có gì đó sai sai.
Tôi sẽ đăng ký làm việc nhóm cùng bạn Thanh An trong học phần “Quản trị nguồn
nhân lực” trong học kỳ đến và cứ mỗi khi có cơ hội tôi sẽ thể hiện quan điểm của mình,
lắng nghe ý kiến và bình tĩnh xác nhận quan điểm của bạn, giữ cho buổi trao đổi diễn ra
thật suôn sẻ. Bên cạnh đó tôi có thể tận dụng các cơ hội trong kỳ sắp đến đó là trong chương
78 - Chương 1: Tự nhận thức

trình tiếp đón nhóm học giả quốc tế tham dự Hội thảo khoa học “----“ diễn ra tại Trường
đại học Kinh tế, ĐHĐN vào tháng --- của học kỳ này.
Trong quá trình diễn ra các bối cảnh có cơ hội áp dụng, tôi chú ý thực hiện với bạn
học Thanh An, cũng có thể kết hợp với khách mời giao lưu nhân sự kiện tham gia của đoàn
học giả quốc tế. Trong các buổi làm việc nhóm đối với bối cảnh học tập nhóm với Thanh
An. Trong buổi giao lưu về lĩnh vực về vấn đề đa văn hoá tại Chương trình gặp mặt giao
lưu ----- với đoàn học giả quốc tế.
Một cách phát biểu bối cảnh kế hoạch khác có thể như sau:
Tôi muốn gia tăng nhận thức về sự khác biệt trong nhu cầu thiết lập mối quan hệ
với mọi người khác. Thông qua việc học tập về các yếu tố cốt yếu của tự nhận thức, tôi biết
rằng mỗi cá nhân có đặc điểm khác nhau về nhu cầu thiết lập mối quan hệ với mọi người
khác, đó là nhu cầu “kết hợp”, “thân thiện”, “kiểm soát” với hai xu hướng là “thể hiện”
với người khác và “mong muốn” từ người khác. Từ sự khác biệt này dẫn đến sự tương đồng
và khác biệt giữa các cá nhân, hình thành các “xung khắc” giữa mọi người với nhau. Tôi
nhận thức rằng do sự thiếu nhạy cảm về sự khác biệt này và chưa biết áp dụng lý luận đã
nêu và thực tiễn nên thật sự tôi đã gặp nhiều sự rắc rối với mọi người khác trong thời gian
qua, nhất là với các bạn ở cùng chung ký túc xá trong năm học vừa qua. Tôi cần dự kiến
các bối cảnh để xác định sự khác biệt về các đặc điểm của nhu cầu thiết lập mối quan hệ
với mọi người khác và tìm kiếm cách thức ứng xử phù hợp với mỗi người khác.
Địa điểm cho bối cảnh dự kiến cho kế hoạch phát triển kỹ năng như là tại ký túc xá
sinh viên, cùng với bạn học cùng phòng, cùng ký túc xá và trong thời gian sống chung
phòng với các bạn sinh viên.

Phương pháp đánh giá kỹ năng


Một “kế hoạch phát triển kỹ năng” được lập ở giai đoạn 1 sẽ được “thực hiện” ở giai
đoạn 2 và cuối cùng là “đánh giá và đề xuất giải pháp” ở giai đoạn 3. Để có cơ sở cho các
giai đoạn 2 và 3 tiếp theo, trong giai đoạn 1 cần có phát thảo những nội dung, phương pháp
đánh giá. Đó là hãy đưa ra các dấu hiệu về hành vi, về kết quả hay bất cứ sự thay đổi tiến
bộ trong phát triển kỹ năng và cách thức thu thập thông tin, cách thức xác định sự tiến bộ.
Đối với “kỹ năng tự nhận thức” nội dung này có thể đề cập đến việc bạn sẽ biết
được phong cách học của bản thân và có những thành công trong việc ứng dụng phong cách
học này vào thực tiễn như kết quả học tập tốt hơn, thời gian giải quyết các vấn đề và giải
pháp đưa ra hiệu quả hơn, hay đã trở nên cởi mở và chấp nhận sự khác biệt như với bạn
Chương 1: Tự nhận thức - 79

Thanh An thì không còn tình trạng cứ như rằng sau mỗi lần họp và “xung đột” thì mối quan
hệ trở nên tồi tệ hơn, việc hợp tác sau đó trở nên khó khăn hơn, kết quả bài tập nhóm không
như mong đợi thì dự kiến sẽ khác đi, đó là sau mối lần họp thì trở nên vui vẻ, thân thiện,
gắn bó hơn, kết quả phối hợp và bài tập nhóm đã khả quan hơn. Hay như nhờ việc thấu hiểu
đặc điểm nhu cầu thiết lập mối quan hệ với mọi người khác, bạn đã không còn rơi vào tình
huống khốn khổ vì những xung khắc do đã cái nhìn vấn đề tích cực và có sự chủ động điều
chỉnh trong thực tiễn theo tình huống xung khắc.

1.4.3. Thực hiện kế hoạch phát triển kỹ năng


Trên cơ sở kế hoạch bối cảnh đã được lập, hãy chủ động thúc đẩy và tạo điều kiện
để bối cảnh trở thành hiện thực. Thực tiễn cuộc sống có thể thay đổi không như dự kiến của
bối cảnh, do đó người học cần có sự linh hoạt, sự chủ động để có thể thực hiện kế hoạch
phát triển kỹ năng. Người học cũng có thể tham gia các hoạt động chưa được xác định trong
kế hoạch phác thảo nếu như đó là cơ hội để trải nghiệm phát triển kỹ năng.

1.4.3. Đánh giá và giải pháp cho việc tiếp tục cải thiện kỹ năng
Ở giai đoạn đánh giá và giải pháp cho việc tiếp tục cải thiện kỹ năng, người học bắt
đầu bằng việc kiểm nghiệm thông tin về sự tiến bộ đã đạt được trong lĩnh vực kỹ năng, và
tiếp theo là giải pháp cho việc tiếp tục cải thiện kỹ năng trong thời gian đến, bằng việc trả
lời các câu hỏi:
1/ Sau khi đã thực hiện các hoạt động trên, kết quả đạt được là gì?; điều gì đã xảy
ra?; bạn đã thành công như thế nào? điều gì ảnh hưởng lên người khác?; và những câu hỏi
tương tự nhằm xác định mức độ đạt được sự cải thiện kỹ năng.
2/ Tôi phải tiếp tục cải thiện như thế nào?; có những biến thể nào trong thời gian sắp
đến; tôi sẽ làm gì khác trong tình huống tương tự trong tương lai.
Trong quá trình trả lời hai câu hỏi trên, có thể chia sẻ và tham vấn với những người
bạn, những chuyên gia phát triển kỹ năng để được định hướng cho việc tiếp tục cải thiện
kỹ năng trong thời gian đến.

1.5. ĐÁNH GIÁ KỸ NĂNG


80 - Chương 1: Tự nhận thức

Đánh giá kỹ năng giúp người học xác định đặc điểm và mức kỹ năng của bản thân
trong các lĩnh vực kỹ năng của tự nhận thức, về giá trị cá nhân, giá trị văn hoá, sự trưởng
thành giá trị, phong cách học, xu hướng thiết lập mối quan hệ với người khác và các yếu tố
cốt yếu khác của mỗi cá nhân. Kết quả đánh giá giúp cá nhân nhìn nhận, thấu hiểu bản thân
từ đó gia tăng sự thấu hiểu mọi người khác, phát triển trí thông minh cảm xúc và thiết lập
cách thức tương tác với mọi người khác một cách phù hợp nhất.

Trắc nghiệm kỹ năng tự nhận thức


BƯỚC 1: Trước khi bạn đọc chương này, hãy thực hiện các yêu cầu sau bằng cách
viết các số mô tả giá trị trong thang điểm vào bên trái ở biểu ở dưới đây, hay gọi là tiền
đánh giá. Trả lời cần nên là điều thích hợp nhất hiện nay đối với bạn, chứ không là điều bạn
muốn như thế. Hãy trung thực. Công cụ này phát triển nhằm giúp bạn khám phá mình là ai
và nó được sử dụng để bạn học hỏi cải thiện nhu cầu cụ thể nào đó. Khi bạn hòan thành
trắc nghiệm này, hãy sử dụng phần Tra cứu trắc nghiệm ở mục Phụ lục để xác định điểm
số và tình trạng tương ứng của mình.
BƯỚC 2: Sau khi bạn đã đọc và thực hành chương học này, hãy trở lại thực hành
bài trắc nghiệm, tức hậu đánh giá. Sau khi hòan thành xong trắc nghiệm, hãy sử dụng phần
Tra cứu trắc nghiệm ở mục Phụ lục để xem mức tiến bộ của mình. Nếu điểm số vẫn còn
thấp ở một lĩnh vực kỹ năng nào đó, hãy sử dụng tài liệu hướng dẫn hành vi để hướng dẫn
cho bạn thực hành tiếp.
Thang điểm đánh giá
1 – Rất không đồng ý 4 – Hơi đồng ý
2 – Không đồng ý 5 – Đồng ý
3 – Hơi không đồng ý 6 – Hòan toàn đồng ý

_____ 1. Tôi tìm kiếm thông tin về ưu và nhược điểm của mình từ người khác như
là cơ sở cho việc tự phát triển.

_____ 2. Khi tôi nhận các thông tin phản hồi về mình từ những người khác, tôi
không giận giữ hay tự vệ.
Chương 1: Tự nhận thức - 81

_____ 3. Để tiến bộ, tôi sẵn sàng cởi mở, bộc bạch với mọi người để chia sẻ niềm
tin và quan điểm.

_____ 4. Tôi tự tin về phong cách của mình trong việc thu thập thông tin và ra quyết
định

_____ 5. Tôi tự tin ở nhu cầu của mình khi thiết lập mối quan hệ với mọi người
khác.

_____ 6. Tôi có cảm nhận tốt về tham vọng của mình và những tình huống bất định

_____ 7. Tôi có một hệ thống tiêu chuẩn và nguyên tắc cá nhân tốt để hướng dẫn
hành vi của mình.

_____ 8. Tôi cảm nhận rõ ràng về những gì diễn ra với tôi là tốt hay xấu.

_____ 9. Tôi hiếm khi cảm thấy giận giữ, chán nản mà không rõ nguyên do.

_____ 10. Tôi nhạy cảm với những lĩnh vực trong đó dễ xảy ra xung đột hay hiểu lầm
khi tương tác với người khác.

_____ 11. Tôi có mối liên hệ gần gũi với ít nhất là một người để có thể chia sẻ thông
tin và cảm nhận cá nhân

Tra cứu
Hãy xác định tổng điểm trắc nghiệm theo mỗi lĩnh vực kỹ năng và tổng điểm số kỹ
năng theo biểu tra cứu sau.
Biểu 1.8. Bảng tra cứu kỹ năng tự nhận thức

LĨNH VỰC KỸ NĂNG CÂU TỔNG ĐIỂM

Sự cởi mở, thân tình với mọi người xung quanh 1,2,3,9,11

Nhận thức giá trị, kiểu nhận thức, xu hướng thay đổi và 4,5,6,7,8,10
định hướng cá nhân

Tổng điểm các lĩnh vực kỹ năng 1-11


82 - Chương 1: Tự nhận thức

So sánh kết quả (điểm số) của bài trắc nghiệm với các mức điểm như được liệt kê
dưới đây để biết mức độ phát triển kỹ năng tưh nhận thức của bản thân.
Điểm số Mức kỹ năng (thuộc nhóm phát triển kỹ năng)
>=55 Nhóm ¼ thứ nhất 52-54 Nhóm ¼ thứ nhì
48-51 Nhóm ¼ thứ ba <=47 Nhóm ¼ cuối cùng

Trắc nghiệm xác định vấn đề


Trắc nghiệm này nhận định quan điểm của bạn về những vấn đề xã hội. Bạn sẽ trả
lời những câu hỏi mà không cần thảo luận với mọi người xung quanh. Bạn sẽ được giới
thiệu 3 tình huống, gồm 12 vấn đề (câu hỏi). Nhiệm vụ của bạn sau khi đọc các tình huống
này là xác định mức độ quan trọng trong việc ra quyết định đối với mỗi vấn đề. Sau khi xác
định, hãy chọn 4 vấn đề quan trọng nhất và sắp xếp chúng từ 1 đến 4 và điền vào vị trí trống
như đã dẫn.
Một số vấn đề sẽ được xếp thuộc loại quan trọng, nhưng bạn nên tự hỏi quyết định
có dựa trên vấn đề đó không.
Sử dụng thang điểm sau cho trả lời của bạn.

Thang điểm đánh giá

1. Rất quan trọng Vấn đề này gây khác biệt rõ ràng trong việc ra quyết định về
một vấn đề

2. Quan trọng Vấn đề này đôi khi trở thành yếu tố gây ảnh hưởng chính trong
việc ra quyết định

3. Có quan trọng Vấn đề này đôi khi được bạn quan tâm đến nhưng không ảnh
hưởng lớn đến việc ra quyết định

4. Ít quan trọng Vấn đề này không đóng vai trò quan trọng đáng kể trong việc ra
quyết định

5. Không quan Vấn đề này hòan tòan không có ý nghĩa gì trong việc ra quyết
trọng định

Tình huống Tù nhân vượt ngục


Chương 1: Tự nhận thức - 83

Có một người đàn ông bị kết án tù 10 năm. Nhưng sau 1 năm ở tù, anh ta đã vượt
được ngục và đã chuyển về ở một vùng quê và lấy tên là Thompson. Sau 8 năm làm việc
chăm chỉ, anh ta tích lũy được một số tiền lớn và đã khởi sự kinh doanh. Anh ta đã quan hệ
tốt với khách hàng, trả lương hậu cho nhân viên và sử dụng phần lớn lợi nhuận vào hoạt
động từ thiện.
Bỗng một ngày, ông Jones, người hàng xóm cũ nhận ra anh ta chính là người tù nhân
vượt ngục vào 8 năm trước và đang là đối tượng truy tìm của công an. Ông Jones có nên
báo cho công an về Thompson không? Hãy cho biết quan điểm của mình:
_____ Cần nên báo
_____ Không thể quyết định
_____ Không nên báo
Vấn đề quan trọng

_____ 1. Thompson có phải đã có đủ thời gian để chứng minh mình là người tốt
chưa?

_____ 2. Mỗi khi có ai đó thoát được sự trừng phạt, điều đó có làm tăng tội phạm
không?

_____ 3. Có tốt hơn không nếu không cần có nhà tù và sự trừng phạt của hệ thống
luật pháp chính thức?

_____ 4. Thompson phải có trách nhiệm với xã hội không?

_____ 5. Có phải xã hội trở nên thất bại nếu như Thompson được xem như là
người tốt?

_____ 6. Có ích lợi không khi tách nhà tù khỏi xã hội, đặc biệt đối với những
người độ lượng?

_____ 7. Có phải nhẫn tâm nếu như ai đó đưa Thompson trở lại nhà tù?

_____ 8. Người giữ tù có hoàn thành bổn phận của họ không nếu để cho ông
Thompson vượt được ngục?

_____ 9. Ông Jones có phải là bạn tốt của ông Thompson không?
84 - Chương 1: Tự nhận thức

_____ 10. Có phải hành động khai báo tù phạm được đánh giá là thực hiện trách
nhiệm công dân, bất luận tình huống nào?

_____ 11. Dịch vụ công có đáp ứng nhu cầu của cá nhân chưa?

_____ 12. Nhà tù có đem lại điều gì tốt cho Thompson và bảo vệ mọi người không?

Liệt kê 4 vấn đề quan trọng nhất


Quan trọng hàng đầu _____________________
Quan trọng thứ hai _____________________
Quan trọng thứ ba _____________________
Quan trọng thứ tư _____________________

Tình huống Bệnh nhân hiểm nguy


Có một bệnh nhân bị bệnh ung thư và chỉ còn sống 6 tháng nữa. Cô ta rất thất vọng
và đang có ý định sử dụng một liều lớn morphin để kết liễu cuộc sống của mình. Cô đã rất
khổ sở vì nỗi đau của mình và những lúc điềm tĩnh lại, cô yêu cầu bác sĩ cung cấp cho một
số morphine để tự kết liễu cuộc sống. Cô nói rằng cô không chịu đựng nỗi và sẵn sàng chết
trong thời gian gần nhất bằng bất cứ cách nào. Người bác sĩ nên làm gì?
_____ Cấp cho cô ta liều thuốc để cô ta sẽ chết.
_____ Không thể quyết định.
_____ Không nên cấp thuốc cho cô ta.
Vấn đề quan trọng

_____ 1. Gia đình của cô gái có đồng tình với việc cấp morphine cho cô ta?

_____ 2. Người bác sĩ có phải buộc sử dụng cùng quy tắc đối với mọi người?

_____ 3. Có tốt hơn nếu con người phải chịu sự khống chế cuộc sống và thậm chí
cái chết bởi cộng đồng?

_____ 4. Người bác sĩ có nên làm chết cô gái bằng liều mạnh như là một tai nạn?
Chương 1: Tự nhận thức - 85

_____ 5. Chính quyền bang có quyền quyết định đến tính mệnh của một người nếu
họ không muốn sống?

_____ 6. Việc ưu tiên chết có trở ngại gì ở khía cạnh xã hội đối với giá trị cá nhân?

_____ 7. Người bác sĩ nên cảm thông với tình huống cô gái hay nhìn nhận dưới gọc
độ xã hội?

_____ 8. Việc giúp đỡ kết thúc cuộc sống của mọi người là việc nên làm?

_____ 9. Có phảo chỉ có Chúa mới có quyền quyết định mạng sống?

_____ 10. Người bác sĩ có nên có một tập hợp các giá trị hành vi riêng cho mình
không?

_____ 11. Xã hội có thể ban phát cho một người có quyền quyết định cuộc sống của
mình?

_____ 12. Xã hội có nên cho phép được chết hay phải yêu cầu bảo vệ mạng sống đến
cùng nếu con người muốn sống?

Liệt kê 4 vấn đề quan trọng:


Quan trọng nhất ______________________
Quan trọng nhì ______________________
Quan trọng ba ______________________
Quan trọng bốn ______________________

Tình huống Báo mới


Rami, một thành viên kỳ cựu của một trường trung học, muốn xuất bản tờ báo cho
sinh viên để họ bày tỏ quan điểm của mình. Ông ta muốn dùng công luận đả kích hệ thống
độc đoán và một số luật lệ của nhà trường như trừng phạt những sinh viên tóc dài.
Khi Rami đã hỏi xin phép hiệu trưởng để được xuất bản báo. Vị hiệu trưởng bảo
rằng có thể được xuất bản với điều kiện tất cả các bài báo đều được đưa cho hiệu
trưởng xem xét trước. Rami đồng ý và đã gửi một số bài để xem xét. Hiệu trưởng đã xem
xét tất cả các bài này và Rami đã xuất bản 2 vấn đề vào 2 tuần sau đó.
86 - Chương 1: Tự nhận thức

Hiệu trưởng đã không kỳ vọng rằng tờ báo của Rami sẽ gây được chú ý nhiều. Ngược
lại, các học sinh đã rất hứng thú với bài báo và họ bắt đầu chống lại các quy định của nhà
trường. Nhưng phụ huynh học sinh đã gọi điện cho hiệu trưởng và cho rằng bài báo không
thiện chí và cần đình chỉ xuất bản. Ông hiệu trưởng quan ngại rằng nếu ông yêu cầu Rami
đình chỉ xuất bản báo, các tờ báo khác sẽ tập trung công kích cách thức điều hành của nhà
trường. Ông hiệu trưởng nên làm gì?
_____ Dừng xuất bản báo
_____ Không thể quyết định
_____ Không đóng cửa tờ báo

Vấn đề quan trọng

_____ 1. Hiệu trưởng cần có trách nhiệm hơn với các học sinh hay phụ huynh của
họ?

_____ 2. Hiệu trưởng có thể công bố rằng bài báo vẫn được tiếp tục xuất trong thời
gian dài hay hứa xem xét cải thiện bài báo?

_____ 3. Các học sinh có tiếp tục chống đối hay thậm chí càng nhiều hơn nếu đóng
cửa tờ báo?

_____ 4. Nếu ích lợi của nhà trường xâm hại, hiệu trưởng có quyền ra lệnh đối với
học sinh không?

_____ 5. Hiệu trưởng có quyền trả lời “không” đối với tình huống này?

_____ 6. Nếu dừng tờ báo mới, hiệu trưởng có ngăn cản được việc thảo luận tòan
diện vấn đề này không?

_____ 7. Hiệu trưởng có sẵn sàng đánh mất niềm tin ở Rami không?

_____ 8. Rami thực sự trung thành với nhà trường và yêu đất nước không?

_____ 9. Việc đóng cửa tờ báo có đụng chạm gì vấn đề lẽ phải không?

_____ 10. Rami có phải vi phạm quyền của mọi người trong việc đăng tải các quan
điểm của mình không?
Chương 1: Tự nhận thức - 87

_____ 11. Hiệu trưởng có chịu ảnh hưởng của các phụ huynh phản đối tờ báo trong
khi ông mới là người am hiểu nhiều nhất điều gì xả ra với nhà trường?

_____ 12. Có phải Rami sử dụng tờ báo để khơi dậy sự bất bình, thù hận?

Liệt kê bốn vấn đề quan trọng


Quan trọng nhất ______________________
Quan trọng nhì ______________________
Quan trọng ba ______________________
Quan trọng bốn ______________________
Tra cứu
Đối với mỗi tình huống, trong số 4 vấn đề (câu) quan trọng đã nêu, thảo luận với
một nhóm bạn học và liên hệ sự chắc chắn, tin cậy của mỗi vấn đề, từ đó lựa chọn cho mình
1 câu quan trọng nhất, đặc trưng cho mức độ trưởng thành về giá trị của bạn. Tra cứu theo
Biểu dưới đây để xác định sự trưởng thành về giá trị hay một sự cảnh báo (thái độ cực đoan,
thái độ chống đối lại sự độc đoán) cho bản thân.
Biểu 1.8. Bảng tra cứu sự trưởng thành giá trị

Tù nhân vượt ngục Bệnh nhân hiểm nguy Báo mới

CÂU GIAI CÂU GIAI CÂU GIAI CÂU GIAI CÂU GIAI CÂU GIAI
ĐỌAN ĐỌAN ĐỌAN ĐỌAN ĐỌAN ĐỌAN

1. 3 7. 3 1. 3 7. 3 1. 4 7. 3

2. 4 8. 4 2. 4 8. 6 2. 4 8. 3

3. Thái độ 9. 3 3. Thái độ 9. 4 3. 2 9. 5
chống lại chống
sự độc đối sự
đoán độc đoán

4. 4 10. 4 4. 2 10. 5 4. 4 10. 5

5. 6 11. 5 5. 5 11. 4 5. Thái 11. 4


độ
cực
đoan
88 - Chương 1: Tự nhận thức

6. Thái độ 12. 5 6. Thái độ 12. 5 6. 5 12. 3


cực cực
đoan đoan

Trắc nghiệm Phong cách học


Bài trắc nghiệm dưới đây sẽ giúp bạn nếu bạn nghĩ về các tình huống học tập của
mình. Đó có thể là các tình huống ở nhà, ở nơi làm việc, ở trường hoặc ở nơi nào đó. Hãy
dành vài phút để suy nghĩ về những tình huống này và trả lời các câu hỏi sau: Bạn học ở
đâu? Những gì là quan trọng mà bạn đã học được trong năm qua? Bạn đã có tiếp cận như
thế nào đối với cơ hội học tập mới?.
Trong trắc nghiệm dưới đây, bạn sẽ được hỏi để hòan thành 12 câu mô tả việc học.
Mỗi câu có 4 chọn lựa. Để trả lời những câu hỏi, hãy xem xét một vài tình huống được đề
nghị. Sau đó sắp xếp các trả lời theo mức độ bạn cho rằng đó là cách thức mà bạn đã học.
Viết 4 vào dòng chọn trả lời mô tả bạn đã học tốt nhất như thế nào và 1 có nghĩa ít thích
hợp nhất với cách mà bạn đã học. Hãy sắp xếp tất cả các trả lời cho mỗi câu hỏi.
VÍ DỤ: Khi tôi học:
a. __2__ Tôi thấy hạnh phúc
b. __4__ Tôi cẩn thận
c. __1__ Tôi nhanh nhẹn
d. __3__ Tôi hợp lý
Sau đây là nội dung câu hỏi trắc nghiệm.
1. Khi tôi học:

a. ______ Tôi thích giải quyết với cảm nhận của mình

b. ______ Tôi thích nghĩ về các ý tưởng

c. ______ Tôi thích làm những gì đó

d. ______ Tôi thích lắng nghe

2. Tôi học tốt khi:

a. ______ Tôi lắng nghe và xem xét cẩn thận


Chương 1: Tự nhận thức - 89

b. ______ Tôi dựa vào việc tư duy logic

c. ______ Tôi chân thật với cảm nhận của mình

d. ______ Tôi làm việc chăm chỉ để công việc được thực hiện tốt

3. Khi tôi đang học:

a. _____ Tôi muốn biết những nguyên nhân với những gì xảy ra

b. _____ Tôi thấy có trách nhiệm về những gì xảy ra

c. _____ Tôi bình tĩnh và lưu trữ

d. _____ Tôi có cảm giác mạnh mẽ

4. Tôi học bằng:

a. _____ Cảm nhận

b. _____ Thực hành

c. _____ Quan sát

d. _____ Suy nghĩ

5. Khi tôi học:

a. _____ Tôi thu nhận kinh nghiệm mới

b. _____ Tôi xem xét mọi khía cạnh của vấn đề

c. _____ Tôi thích phân tích, phân chia vấn đề theo những thành tố

d. _____ Tôi thích suy nghĩ những điều xa hơn

6. Khi tôi đang học:

a. _____ Tôi là người có khả năng quan


sát

b. _____ Tôi là người năng động

c. _____ Tôi có khả năng nhạy cảm


90 - Chương 1: Tự nhận thức

d. _____ Tôi là người tư duy lô gíc

7. Tôi học tốt từ

a. _____ Quan sát

b. _____ Mối quan hệ cá nhân

c. _____ Lý thuyết

d. _____ Cơ hội thực hành

8. Khi tôi học

a. _____ Tôi thích nhìn thấy hiệu quả từ công việc


của tôi

b. _____ Tôi thích ý tưởng và lý thuyết

c. _____ Tôi chờ thời gian để thực hành

d. _____ Tôi cảm thấy cá tính ảnh hưởng đến mọi


thứ

9. Tôi học tốt khi:

a. _____ Tôi tin vào quan sát

b. _____ Tôi tin vào sự cảm nhận

c. _____ Tôi có thể nghĩ những điều


khác

d. _____ Tôi tin vào các ý tưởng của


mình

10. Khi tôi đang học

a. _____ Tôi là người cẩn thận

b. _____ Tôi là người dễ chấp nhận

c. _____ Tôi là người có trách nhiệm

d. _____ Tôi là người hiệu quả


Chương 1: Tự nhận thức - 91

11. Khi tôi học

a. _____ Tôi tập trung

b. _____ Tôi thích quan sát

c. _____ Tôi đánh giá mọi thứ

d. _____ Tôi trở nên năng động

12. Tôi học tốt khi

a. _____ Tôi phân tích ý tưởng

b. _____ Tôi mở rộng ý tưởng

c. _____ Tôi cẩn thận

d. _____ Tôi thực hành

Tra cứu
Tính điểm số theo khóa ở biểu sau:
Biểu 1.10. Tra cứu phong cách học

KIỂU PHONG CÂU TỔNG


CÁCH CỘNG
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Kinh nghiệm thực a c d a a c b d b b a b


tế

Suy luận d a c c b a a c a a b c

Khái quát, trừu b b a d c d c b d d c a


tượng

Hành đông thực c d b b d b d a c c d d


tiễn

Xác định điểm số theo sơ đồ nhưu hình dưới đây. Điểm số phong cách học các nhân
xác định như một hình cánh diều và hình lớn nhất là phong cách học đặc trưng của mỗi cá
92 - Chương 1: Tự nhận thức

nhân. Ví dụ người có điểm số như mô tả ở hình dưới đây có xu hướng điểm số cao về kinh
nghiệm thực tế và quan sát có suy nghĩ, là người có phong cách học phân kỳ.

31 Phân
100%
kỳ

QUAN SÁT CÓ SUY NGHĨ (RO)


HÁNH ĐỘNG THỰC TĨEN (AE)

Hỗ trợ 27 80%

24 60%
40%
20%
19

42 38 34 29 24 28 31 35
22

Hội tụ Đồng
29 hoá

31

36

KHÁI QUÁT, TRỪU TƯỢNG (AC)

Hình 1.6. Tra cứu phong cách học

Trắc nghiệm Nơi kiểm soát


Sau đây là những câu hỏi trắc nghiệm được trả lời dựa trên ý kiến của bạn về một số
chủ. Mỗi chủ đề gồm có hai khả năng a và b để bạn chọn lựa. Hãy lựa chọn khả năng mà
bạn đồng ý với nó. Nếu bạn nghĩ rằng cả hai khả năng đều đúng như nhau, hãy cố gắng để
chọn một khả năng phù hợp nhất. Còn nếu bạn nghĩ rằng cả hai khả năng trên đều không
được đúng cho lắm, thì hãy cố gắng đánh dấu chọn đối với khả năng nào mà bạn cho là chí
ít nó cũng đúng một phần nhỏ nào đó. Trong quá trình tiến hành trắc nghiệm, hãy nghĩ rằng
đây đơn giản chỉ là một cuộc đánh giá đối với những ý kiến của bạn, vì thế nó sẽ không có
câu trả lời nào là sai hoặc không đúng cả. Khi bạn đã hoàn thành bảng đánh giá này, hãy
tiến hành tra số điểm mà mình đạt được ở phần Tra cứu trắc nghiệm của Phụ lục này nói về
cách làm thế nào để tra được kết quả đã được sắp xếp trong một bảng kê cụ thể và dữ liệu
so sánh.
Chương 1: Tự nhận thức - 93

Những câu hỏi được đặt ra ở đây là khá đơn giản, nhưng không dễ gì để có thể xác
định được, dựa trên cơ sở thang kiểm tra tỷ lệ (Control Scale) được phát triển bởi Julian
Rotter. Nhưng sự so sánh dữ liệu được trình bày ở phần Tra cứu trắc nghiệm của Phụ này
được rút ra từ những cuộc nghiên cứu của Rotter có được. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng hai
cách trình bày được đưa ra ở dưới đây được đánh giá là đúng như nhau, có độ dài như nhau,
và nghĩ cũng khá giống nhau. Chú ý nhé!
1. a. Những nhà lãnh đạo là được sinh ra (be born), không phải được tạo ra (be made)
b. Những nhà lãnh đạo là được tạo ra (be made), không phải được sinh ra (be
born)
2. a. Người ta thường thành công bởi vì họ ở đúng nơi và đúng lúc
b. Những thành công là hầu như lệ thuộc vào những công việc khó (hard work)
và khả năng giải quyết.
3. a. Khi những thứ xảy ra không như tôi mong đợi trong cuộc sống của tôi, nó
thường là do tôi đã phạm nhiều lỗi.
b. Những điều bất hạnh xuất hiện trong cuộc sống của tôi, nhưng tôi thường không
để ý đến những gì tôi đã làm.
4. a. Nơi đó có xảy ra chiến tranh hay không thì nó phụ thuộc vào những hành động
của những nhà lãnh đạo thế giới.
b. Nó sẽ là chắc chắn rằng thế giới sẽ tiếp tục phải niếm trải những cuộc chiến.
5. a. Những đứa trẻ tốt là kết quả của những người cha người mẹ tốt.
b. Một vài đứa trẻ trở nên không tốt bất kể những hành vi của cha mẹ chúng là
như thế nào.
6. a. Sự thành công trong tương lai của tôi phụ thuộc chính vào những tình huống
mà tôi không thể kiểm soát.
b. Tôi là người làm chủ số phận của chính mình.
7. a. Lịch sử đã làm cho người ta thấy rằng một nhà lãnh đạo lỗi lạc vì hoàn cảnh đã
làm họ nổi tiếng và thành công.
b. Một nhà lãnh đạo hiệu quả là người là có thể tạo ra những quyết định hoặc có
thể làm ra những hành động, để từ đó có thể đưa đến những sự đóng góp quan
trọng.
94 - Chương 1: Tự nhận thức

8. a. Tránh việc đối xử thô bạo đối với trẻ em sẽ đảm bảo rằng chúng sẽ lớn lên với
tính vô trách nhiệm.
b. Đánh vào mông của những đứa trẻ là không bao giờ được xem là phù hợp.
9. a. Tôi thường cảm thấy ít bị ảnh hưởng bởi những phương hướng trong cuộc sống
đã tạo ra.
b. Nó là vô lý để tin rằng số phận và sự may mắn đóng một phần chủ yếu đối với
những điều mà cuộc sống tạo ra.
10. a. Một vài khách hàng sẽ không bao giờ được thoả mãn đầy đủ bất kể bạn làm
gì đi chăng nữa.
b. Bạn có thể làm thoã mãn khách hàng nhờ vào việc trao cho họ những cái mà
họ muốn khi họ muốn nó.
11. a. Chúng ta sẽ đạt được thứ hạng cao ở trường nếu chúng ta làm việc thật chăm
chỉ.
b. Một vài người lại cho rằng mình sẽ không vượt trội hơn người khác ở trường
bất kể họ đã cố gắng chăm chỉ như thế nào đi chăng nữa.
12. a. Một cuộc hôn nhân là tốt đẹp khi cả hai bên không ngừng vun đắp quan hệ
tình cảm cho nhau.
b. Một số cuộc hôn nhân trở nên đỗ vỡ chỉ vì hai bên xung khắc nhau.
13. a. Tôi nhận ra rằng tôi có thể cải thiện những kỹ năng quản trị cơ bản của tôi
thông qua việc học hỏi và không ngừng luyện tập.
b. Nó được xem là lãng phí thời gian khi muốn cố gắng cải thiện những kỹ năng
quản trị của mình ở những lớp học.
14. a. Nhiều khoá học về kỹ năng quản trị nên được giảng dạy tại những trường kinh
doanh.
b. Những khoá học về kỹ năng quản trị được giảng dạy tại những trường kinh
doanh là mang tính kém quan trọng.
15. a. Khi tôi nghĩ lại về những điều tốt đẹp đã mang đến cho tôi, và tôi tin rằng
phần lớn những điều đó diễn ra là do tôi đã làm những điều đúng đắn
b. Những điều xấu xảy ra trong cuộc sống của chúng ta phần lớn là những kết
quả của những trường hợp nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta.
Chương 1: Tự nhận thức - 95

16. a. Những kỳ kiểm tra mà tôi đã làm ở trường thường không có liên quan đến
những tài liệu mà tôi đã học, vì vậy dù học một cách chăm chỉ thì nó cũng
không giúp được gì cả.
b. Khi tôi chuẩn bị tốt cho những kỳ kiểm tra ở trên trường, thường thì tôi làm
bài rất tốt.
17. a. Tôi thường bị ảnh hưởng bởi những điều được lý giải từ những hình chiêm
tinh tôi nhìn thấy.
b. bất kể những ngôi sao được sắp xếp theo một hình dạng nào đi nữa thì tôi vẫn
cố gắng để nắm và kiểm soát vận mệnh của mình.
18. a. Chính phủ là quá to lớn và mang tính quan liêu, do đó nó rất là khó khăn cho
một vài người để có những sự tác động , phản ứng đối với những gì xảy ra.
b. Một cá nhân có thể có được những sự tác động thực sự trong lĩnh vực chính
trị nếu họ sẵn sàng trình bày một cách thẳng thắn về ý kiến và những ước muốn
của chính họ.
19. a. Một số nguời cố gắng để hoàn thành trách nhiệm thực hiện công việc của
mình.
b. Một số người lại tìm cách trốn tránh thực hiện những nhiệm vụ của mình khi
họ có cơ hội để làm.
20. a. Hầu hết những người nổi tiếng là những người có những đặc điểm khác biệt,
một sự uy tín vốn có để có thể lôi cuốn những người khác.
b. Một người trở nên nổi tiếng bởi vì cách ứng xử của họ.
21. a. Trong cuộc sống của tôi thường xuất hiện những điều mà tôi không thể kiểm
soát được.
b. Lúc nào tôi cũng cảm thấy cần phải chịu trách nghiệm đối với những kết quả
mà mình làm ra.
22. a. Những nhà quản trị có xu hướng cải thiện những khả năng cá nhân của mình
sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn so với những người không chú trọng đến
việc cải thiện những khả năng của mình.
b. Sự thành công của nhà quản trị không phải chỉ dựa vào chính khả năng của
bản thân họ.
96 - Chương 1: Tự nhận thức

23. a. Đội chiến thắng trong những giải đấu vô địch là những đội đã gặp nhiều may
mắn nhất.
b. Đội chiến thắng trong những giải đấu vô địch là những đội có được những
cầu thủ xuất sắc và có được một sự chuẩn bị tốt nhất.
24. a. Làm việc nhóm trong kinh doanh là một trong những điều tiên quyết nhất để
có thể thành công.
b. Chỉ cần sự cố gắng của một cá nhân mình thôi cũng đủ để có thể dẫn đến
những thành công.
25. a. Có một vài người công nhân là luời biếng và bạn chẳng có cách nào để có thể
thúc đẩy họ làm việc chăm chỉ hơn.
b. Nếu bạn thừa nhận mình là một người có những kỹ năng quản trị tốt, vậy bạn
có thể đưa ra những cách để tạo động lực thúc đẩy nhân viên cố gắng làm việc
chứ nhỉ.
26. a. Chúng ta sẽ có thể cải thiện tình hình kinh tế của đất nuớc thông qua những
hành động có trách nhiệm của chúng ta.
b. Tình hình kinh tế của một nuớc là nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chúng
ta.
27. a. Tôi có thể thuyết phục mọi người khi tôi biết là tôi đúng.
b. Tôi có thể thuyết phục mọi người, thậm chi ngay cả khi tôi cũng không chắc
là tôi đúng.
28. a. Tôi thường hướng đến việc thiết kế một bản kế hoạch trước và từng bước đạt
được mục tiêu mà tôi đã đề ra.
b. Tôi hiếm khi lập kế hoạch bởi vì có nhiều thứ nó không thể xảy ra theo những
điều mà ta mong muốn được.
29 a. Chỉ có một vài điều là có ý nghĩa mà thôi.
b. Chúng ta có thể thay đổi một số điều trong cuộc sống của chúng ta như: làm
việc chăm chỉ (hard work), lòng kiên trì (persistence) và khả năng (ability).
Tra cứu
Tính điểm số bằng cách tính số lượng các mục mà bạn đã chọn theo danh mục khoá
tra cứu như trình bày ở Biểu dưới đây và tham khảo dữ liệu so sánh. Điểm số cao là dấu
hiệu của nơi kiểm soát bên trong.
Chương 1: Tự nhận thức - 97

Biểu 1.12. Bảng tra cứu nơi kiểm soát

2a 5b 9a 12b 16a 20a 23a 28b

3a 6a 10a 13a 17a 21a 25a 29a

4a 7a 11a 15b 18a 22b 26b

Dữ liệu so sánh
Các nhà quản trị doanh nghiệp: TB = 8,29; ĐLC = 3,75
Sĩ quan cao cấp: TB = 8,29; ĐLC = 3,86

Trắc nghiệm Mức chịu đựng sự mơ hồ


Tiến hành trả lời theo những câu hỏi được trình bày dưới đây, hãy đánh giá đối với
từng trường hợp về mức độ đồng ý và không đồng ý đối với chúng. Ghi con số mức độ
được chọn vào phía bên trái những câu hỏi đó, là con số mà bạn nghĩ nó là phù hợp nhất
cho mỗi trường hợp đánh giá của mình. Khi hoàn thành xong hãy mở phần Tra cứu trắc
nghiệm ở mục Phụ lục để giải mã những điều về bạn.
Mức độ chọn lựa được định nghĩa như sau:
1. Rất không đồng ý
2. Không đồng ý
3. Hơi không đồng ý
4. Chưa chắc
5. Hơi đồng ý
6. Đồng ý
7. Hoàn toàn đồng ý

____ 1. Một chuyên gia không thể đưa ra được một định nghĩa, có lẻ họ cũng không
biết gì vấn đề đó.
98 - Chương 1: Tự nhận thức

____ 2. Tôi thích sống ở nước ngoài trong một thời gian.

____ 3. Không có điều gì là không thể giải quyết được.

____ 4. Một người có thể đưa ra một thời khoá biểu và thực hiện đúng những điều đã
sắp xếp trong đó thì có lẻ họ là những người đã bỏ lỡ nhiều niềm vui trong cuộc
sống.

____ 5. Một công việc tốt là một công việc phải trả lời một cách rõ ràng 2 câu hỏi sau:
công việc đó làm gì? và cách thực hiện công việc đó như thế nào?

____ 6. Nó sẽ vui hơn khi ta tiến hành để giải quyết những vấn đề phức tạp hơn là chỉ
giải quyết những vấn đề đơn giản không thôi.

____ 7. Rốt cuộc thì ta thấy rằng giải quyết một vấn đề nhỏ, đơn giản là tốt hơn giải
quyết một vấn đề lớn, phức tạp.

____ 8. Thường thì những người sối nổi và thú vị nhất là những người không ngại
những sự khác biệt và mới mẻ.

____ 9. Những gì chúng ta đã từng trải qua là luôn luôn thích hơn những gì mà chúng
ta chưa hề biết tới, những điều xa lạ.

____ 10. Một người thường hay nhấn mạnh đến những câu trả lời đơn giản “Có”
(“Yes”) hoặc “Không” (“No”) là những người không biết những điều phức tạp
thực sự là như thế nào.

____ 11. Một người sống một cuộc sống bình thường- với một số những điều ngạc
nhiên cùng với những điều không mong đợi xảy ra- là những người dễ chịu.

____ 12. Nhiều trong số những quyết định quan trọng nhất của chúng ta là chỉ dựa trên
những thông tin có tính không đầy đủ và ít.

____ 13.Tôi thích những buổi lễ hội nơi mà tôi có thể biết được nhiều người nhất hơn
là nơi mà mọi người hoàn toàn xa lạ lẫn nhau

____ 14. Một người thầy hay một nguời giám sát thường không nắm rõ việc bổ nhiệm
hoặc phân cho ai một cơ hội để thể hiện tính sáng tạo và tính độc đáo.
Chương 1: Tự nhận thức - 99

____ 15. Chúng ta càng tranh thủ để đạt được tất cả những giá trị và ý tưởng giống nhau
là càng tốt.

____ 16. Một người thầy giỏi là người làm cho chúng ta phải kinh ngạc

Tra cứu
Sự mơ hồ xuất hiện từ ba nguồn chính: sự mới lạ, sự phức tạp và sự nhập nhằng.
Điểm số cao là dấu hiệu khả năng kém chịu đựng sự mơ hồ. Để tính điểm, cần điều chỉnh
7 thành 1, 6 thành 2, 5 thành 3. Sau khi điều chỉnh xong, tổng điểm toàn bộ 16 câu là tổng
số điểm của bạn. Toàn bộ các câu phân thành 3 nhóm thang phụ của thang đo mức chịu
đựng của sự mơ hồ: sự mới lạ (N - Novelty), sự phúc tạp (C - Completxity) và sự nhập
nhằng (I - Insolubiliti).
Biểu 1.12. Bảng tra cứu điểm các thang phụ của mức chịu đựng sự mơ hồ

CÂU THANG CÂU THANG CÂU THANG MỤC THANG


PHỤ PHỤ PHỤ PHỤ

1 I 5 C 9 N 13 N

2 N 6 C 10 C 14 C

3 I 7 C 11 N 15 C

4 C 8 C 12 I 16 C

Điểm số của thang đo mức chịu đựng sự mơ hồ được tính bằng tổng các điểm của
các thang phụ theo bảng tra cứu ở biểu trên, theo đó điểm số các thang phụ là:
N(2,9,11,13) = _____
C(4,5,6,7,8,10,14,15,16) =_____
I(1,3,12) = ____
Tổng số điểm =____
Dữ liệu so sánh
Điểm số của sự mơ hồ (tổng số điểm của bài trắc nghiệm) có thể được đánh giá bằng
cách so sánh với mức trung bình 44 đến 48.
100 - Chương 1: Tự nhận thức

Trắc nghiệm Định hướng giao tiếp giữa các cá nhân (FIRO-B)
Đối với từng trường hợp dưới đây, hãy quyết định chọn ra câu trả lời tốt nhất. Con
số được chọn hãy ghi vào bên trái ở từng trường hợp. Khi bạn hoàn thành nó, hãy so sánh
những câu trả lời của bạn với phần hướng dẫn ở phần Tra cứu trắc nghiệm ở mục Phụ lục.
Có thể chọn một trong số những câu trả lời sau:
1. Luôn luôn (Usually)
2. Thường xuyên (Often)
3. Thỉnh thoảng (Sometimes)
4. Đôi khi (Occasionally)
5. Hiếm khi (Rarely)
6. Không bao giờ (Never)

1. Tôi cố gắng cùng với mọi người.


2. Tôi để người khác quyết định những điều cần làm.
3. Tôi tham gia vào những tổ chức xã hội (Social Groups).
4. Tôi cố gắng tạo dựng được mối quan hệ thân thiết với mọi người.
5. Tôi có khuynh hướng tham gia vào những tổ chức xã hội khi tôi có cơ hội.
6. Tôi để những người khác tác động mạnh đến những hành động của tôi.
7. Tôi cố gắng tham gia vào những hoạt động xã hội một cách không chính thức.
8. Tôi cố gắng có được những mối quan hệ thân thiết với mọi người.
9. Tôi cố gắng mời những người khác cùng tham gia vào những kế hoạch của tôi.
10. Tôi để những người khác kiểm soát những hoạt động của tôi.
11. Tôi cố gắng để có được mọi người xung quanh tôi.
12. Tôi cố gắng tạo dựng mối quan hệ thân thiết với mọi người.
13. Khi mọi người đang thảo luận với nhau, tôi có khuynh hướng tham gia vào với
họ.
14. Tôi rất dễ bị dẫn dắt bởi những người khác.
15. Tôi cố gắng tránh để bị cô đơn.
Chương 1: Tự nhận thức - 101

16. Tôi cố gắng để tham gia vào nhữung hoạt động của nhóm.

Đối với những trường hợp tiếp theo, hãy chọn ra những câu trả lời đúng nhất
1. Nhiều người nhất (Most People)
2. Nhiều người (Many People)
3. Một vài người (Some People)
4. Một ít người (A few People)
5. Một hoặc hai người (One or two People)
6. Không ai cả (Nobody)
17. Tôi cố gắng làm bạn đối với tất cả mọi người
18. Tôi để những người khác quyết định những điều nên làm.
19. Mối quan hệ giữa tôi và mọi người là khá nhạt nhẽo và luôn có khoảng cách.
20. Tôi để những người khác chịu trách nhiệm đối với công việc của chúng tôi.
21. Tôi cố gắng để có được mối quan hệ thân thiết với mọi người.
22. Tôi để những người khác tác động mạnh đến những hành động của tôi.
23. Tôi cố gắng để thân thiết với mọi người.
24. Tôi để những người khác kiểm soát những hoạt động của tôi.
25. Tôi lạnh nhạt và giữ khoảng cách với mọi người xung quanh.
26. Tôi là rất dễ bị dẫn dắt bởi những người khác.
27. Tôi cố gắng tạo dựng mối quan hệ thân thiết và tốt đẹp với mọi người.
28. Tôi thích những người khác mời tôi tham gia vào những cuộc thảo luận của họ.
29. Tôi thích mọi người có những hành động thân thiện với tôi.
30. Tôi cố gắng để có thể tác động mạnh đến những hoạt động của người khác.
31. Tôi thích những người khác mời tôi cùng tham gia vào những hoạt động của
họ.
32. Tôi thích mọi người có những hành động thân thiện hướng đến tôi.
102 - Chương 1: Tự nhận thức

33. Tôi cố gắng đứng ra gánh vác công việc khi làm việc với những người khác.
34. Tôi thích mọi người, trong đó có tôi tham gia vào cùng làm việc chung.
35. Tôi thích mọi người có những hành động lạnh nhạt và giữ khoảng cách đối với
tôi
36. Tôi cố gắng để những người khác làm những việc mà tôi muốn.
37. Tôi thích những người khác yêu cầu tôi tham gia vào những cuộc thảo luận của
họ.
38. Tôi thích những người khác có những hành động thân thiện với tôi.
39. Tôi thích những người khác mời tôi cùng tham gia vào những hoạt động của họ.
40. Tôi thích những người khác giữ khoảng cách với tôi.

Đối với những trường hợp tiếp theo hãy chọn một trong những câu trả lời sau:
1. Luôn luôn (Usually)
2. Thường xuyên (Often)
3. Thỉnh thoảng (Sometimes)
4. Đôi khi (Occasionally)
5. Hiếm khi (Rarely)
6. Không bao giờ (Never)
41. Tôi cố gắng để là người có tác động lớn trong nhóm.
42. Tôi thích những người khác mời tôi cùng tham gia.
43. Tôi thích những người khác có những hành động thân thiện hướng đến tôi.
44. Tôi cố gắng để mọi người khác làm những việc mà tôi muốn.
45. Tôi thích những người khác mời tôi cùng tham gia vào những hoạt động của họ.
46. Tôi thích mọi người có những hành động lạnh nhạt và giữ khoảng cách đối với
tôi.
47. Tôi cố gắng để có thể tác động mạnh đến những hoạt động của mọi người.
48. Tôi thích mọi người lôi kéo tôi tham gia vào cùng làm việc chung.
49. Tôi thích mọi người có những hành động thân thiện với tôi.
Chương 1: Tự nhận thức - 103

50. Tôi cố gắng đứng ra gánh vác công việc khi làm việc những người khác.
51. Tôi thích mọi người mời tôi cùng tham gia vào những hoạt động của họ.
52. Tôi thích những người khác có những hành động giữ khoảng cách với tôi.
53. Tôi cố gắng để những người khác có thể làm việc theo những cách mà tôi muốn
họ làm.
54. Tôi cố gắng đứng ra chịu trách nhiệm công việc khi làm việc với những người
khác.
Tra cứu
Điểm xác định điểm số định hướng giai tiếp của bạn, hãy xem xét biểu dưới đây.
Lưu ý rằng có 6 cột, mỗi cột chứa thông tin câu hỏi và khoá. Mỗi cột thể hiện khía cạnh
quan hệ như biểu đồ. Khoá để chỉ câu trả lời của bảng câu hỏi. Nếu bạn trả lời bởi 1 trong
các phương án liệt kê ở mỗi câu, khoanh tròn số của câu trong Biểu sau.
Biểu 1.13. Bảng xác định các đặc điểm định hướng giao tiếp

LIÊN KẾT VỚI MUỐN ĐƯỢC KIỂM SOÁT MUỐN ĐƯỢC THÂN THIỆN ĐƯỢC THÂN
MỌI NGƯỜI MỌI NGƯỜI MỌI NGƯỜI KIỂM SOÁT VỚI MỌI THIÊN BỞI
(E) LIÊN KẾT(W) NGƯỜI MỌI NGƯỜI

MỤC KHOÁ MỤC KHOÁ MỤC KHOÁ MỤC KHOÁ MỤC KHOÁ MỤC KHOÁ

1 1-2-3 28 1-2 30 1-2-3 2 1-2-3-4 4 1-2 29 1-2

3 1-2-3-4 31 1-2 33 1-2-3 6 1-2-3-4 8 1-2 32 1-2

5 1-2-3-4 34 1-2 36 1-2 10 1-2-3 12 1 35 5-6

7 1-2-3 37 1 41 1-2-3-4 14 1-2-3 17 1-2 38 1-2

9 1-2-3 39 1 44 1-2-3 18 1-2-3 19 4-5-6 40 5-6

11 1-2 42 1-2 47 1-2-3 20 1-2-3 21 1-2 43 1

13 1-2 45 1-2 50 1-2 22 1-2-3-4 23 1-2 46 5-6

15 1 48 1-2 53 1-2 24 1-2-3 25 4-5-6 49 1-2

16 1 51 1-2 54 1-2 26 1-2-3 27 1-2 52 5-6

Tổng: ______ Tổng: ______ Tổng: ______ Tổng: _____ Tổng: _____ Tổng: _____
104 - Chương 1: Tự nhận thức

Sau khi bạn đã khoanh tròn toàn bộ các số, hãy tính tổng số các ô khoanh tròn (trong
mỗi cột), và điền kết quả vào trong ô tương ứng:
Biểu 1.14. Điểm số trắc nghiệm các loại nhu cầu của định hướng giao tiếp

Liên kết Kiểm soát Thân thiện Tổng cộng

Thể hiện với người khác (E)

Mong muốn từ người khác (W)

Tổng cộng

Các số này cho biết mức độ mạnh của nhu cầu. Điểm tối đa = 9, tối thiểu = 0. Các
giá trị trung bình sử dụng để so sánh:
TỔNG E: 13.4
TỔNG W: 15.9
TỔNG LIÊN KẾT: 11.9
TỔNG KIỂM SOÁT: 8.5
TỔNG THÂN THIỆN: 8.9
Chương 1: Tự nhận thức - 105

KẾT LUẬN

Trong những hoạt động đời sống cũng như công việc, hầu hết tất cả mọi người đều
phải đối mặt với những cá nhân có sự khác nhau với chúng ta về tính cách, sự nhìn nhận về
giá trị và có những định hướng…Lực lượng lao động ngày càng đông hơn về số lượng và
gồm nhiều thành phần khác nhau, thay đổi một cách không lường. Tham gia các khoá đào
tạo về sự nhận thức là một hướng đi đúng, và bài thảo luận được thực hiện trong chương
này được xem như là một công cụ giá trị trong việc giúp mọi người nâng cao hơn nữa sự
cảm thông, thấu hiểu và thích nghi với tính đa dạng, mà họ là những người phải đối mặt
với nó trong công việc cũng như trong trường học. Tự nhận thức được xem là một chìa
khoá để hình thành những trí tuệ cảm xúc và sở hữu một chỉ số EQ cao được xem là điều
kiện tiên quyết để đưa đến những sự thành công trong hoạt động quản trị. Mối quan hệ giữa
4 lĩnh vực cốt yếu của việc tự nhận thức và những đầu ra của hoạt động quản trị được tóm
tắt trong Hình 1.7.
Mặc dù nó là rất cần thiết để học những kỹ năng giao tiếp và sự tương tác giữa các
thành viên trong nhóm. Sự thành công trong việc phát triển những kỹ năng trong những
lĩnh vực cốt yếu sẽ chỉ xuất hiện đối với những cá nhân làm việc trong những tổ chức lấy
sự nhận thức làm nền tảng cho những hoạt động của tổ chức đó. Sau đây là sự minh hoạ
khá thú vị về những hành vi có tính trái ngược nhau: Chúng ta có thể biết những người khác
thông qua sự hiểu biết về chính chúng ta rồi áp đặt lên họ, nhưng chúng ta lại chỉ có thể
biết về chính mình thông qua việc hiểu biết những người khác.
Nhờ có được những thông tin về những ngưòi khác, thông qua những sự biểu hiện
bên ngoài mà chúng ta thấy ở họ, chúng ta tích lũy chúng và hình thành nên những kinh
nghiệm trong khi tương tác với họ, và như thế chúng ta có thể có được khả năng quản lý và
khả năng giao tiếp một cách thành công, hiệu quả với họ. Nếu chúng ta không có sự nhận
thức, thì chắc chắn chúng ta sẽ không thể có được những nền tảng cơ bản để thấu hiểu về
những người khác.
106 - Chương 1: Tự nhận thức

Ưu tiên và sự
trưởng thành
giá trị
Tự thấu hiểu & tự
quản trị

Thái độ đối
với sự thay Phong cách Trí tuệ cảm xúc
đổi học

Thấu hiểu sự khác


nhau giữa các cá
Định hướng
nhân
giao tiếp các
cá nhân

Hình 1.7. Các yếu tố cốt yếu của tự nhận thức & ứng dụng quản trị
Để phát triển kỹ năng tự nhận thức, giáo trình này giới thiệu mô hình phát triển kỹ
năng (Whetten & Cameron, 2004), áp dụng không chỉ đối với kỹ năng tự nhận thức mà đối
với tất cả các kỹ năng quản trị được giới thiệu trong giáo trình này. Theo mô hình này, quá
trình phát triển kỹ năng quản trị thông qua các bước đánh giá (đánh giá kỹ năng), các hoạt
động học tập (học tập kỹ năng, phân tích kỹ năng, thực hành kỹ năng và áp dụng vào cuộc
sống thật (ứng dụng kỹ năng), như được thể hiện ở Biểu 1.6. dưới đây.
Biểu 1.15. Mô hình phát triển kỹ năng quản trị

Thành tố Phương pháp Mục đích

1. Đánh giá kỹ năng - Trắc nghiệm


- Đóng vai
- Thảo luận

2. Học tập kỹ năng - Lý thuyết Giúp người học xác định đặc
- Hướng dẫn hành vi điểm và mức kỹ năng của bản
thân trong các lĩnh vực kỹ năng.
Chương 1: Tự nhận thức - 107

3. Phân tích kỹ năng - Các tình huống Giúp người học xác định những
hành vi nào là thích hợp và những
hành vi nào không thích hợp

4. Thực hành kỹ - Bài tập Giúp hình thành các nguyên tắc phù
năng hợp với phong cách cá nhân, nhận
- Mô phỏng
những phản hồi và tư vấn cho phát
- Đóng vai triển kỹ năng.

5. Ứng dụng kỹ năng - Trải nghiệm thực tiễn Giúp người học áp dụng việc sắp
xếp các kỹ năng trong cuộc sống
thực tế, trong những bối cảnh
ngoài lớp học.

Mô hình phát triển kỹ năng gồm 5 thành tố này là cách tiếp cận tổng quát trong phát
triển kỹ năng quản trị. Đối với mỗi kỹ năng cụ thể, cần xác định mục tiêu, nội dung, phương
pháp tương thích với kỹ năng cần phát triển.
108 - Chương 1: Tự nhận thức

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Brouvew, P.J. (1964). The power to see ourvelves. Havard Business Review, 42, 156-
165.
2. Freud, E. (1956). Collected papers (vols. 3 and 4). London: Hogarth.
3. Kohlberg, L. (1969). The cognitive developmnet approach to socialization. In Goslin,
D.A. (Ed.), Hanhbook of socialization theory and research. Chicago: Rand McNally.
4. Kohlberg, L. (1976). Moral stages and moralization, the cognitive-developmental
approach. In Lickona, T. (Ed), Moral development and behavior. New York: Holt,
Rinehart & Winston.
5. Kolb, A., & Kolb, D.A. (1999). Bibliography of research on expetiential learning
theory and the learning style inventory. Cleveland, Ohio: Weatherhead School of
Management, Case Western Reserve University.
6. Maslow, A.H. (1962). Toward a psychology of being. Princeton, NJ: D. Von Nostrand
Company.
7. Milgram, S. (1963). Behavioral study of obedience. Journal of Abnomal and Social
Psychology, 67, 371-378.
8. Nguyễn Quốc Tuấn (2017). Cấu trúc giá trị cá nhân tại Miền Trung – Tây Nguyên. Tạp
chí Khoa học Kinh tế số 5(02), Trường Đại học Kinh tế, ĐHĐN, trg. 65-72.
9. Peters, T (1987). Thriving on Chaos. New York: Knopl.
10. Rest, J.R. (1973). Revised manual for the defining issues test: An objectives test of
moral judment development. Minneapolis,MN:Minnesota Moral Research Projects.
11. Rogers, C.R. (1961). On becoming a person. Boston: Houghton Mifin Co.
12. Rokeach, M. (1973). The nature of human values. New York: Free Press.
13. Schutz, W.C. (1958). FIRO: A three dimensional theory of interpersonal behavior. New
York: Holt, Rinehart & Winston.
14. Trompenaars, F., & Hampden-Turner, C. (1998). Riding the waves of culture. New
York: McGraw Hill.
15. Whetten, D.A., & Cameron, K.S. (2004). Development management skills, Fith Edition,
Pearson, Prentice Hall.
Chương 1: Tự nhận thức - 109

16. Whetten, D.A., & Cameron, K.S. (2016). Development management skills, Ninth
Edition, Pearson Education.

You might also like