You are on page 1of 72

Chương 1: Tự nhận thức - 1

Chương 1
TỰ NHẬN THỨC

MỤC ĐÍCH
Sau khi hoàn thành khoá học, người học có khả năng:
• Xác định những điểm nhạy cảm của bản thân;
• Nhận biết giá trị cá nhân và sự trưởng thành về đạo lý của bản thân và mọi người
khác;
• Đánh giá phong cách học của bản thân và mọi người khác;
• Nhận diện định hướng sự thay đổi của bản thân và mọi người khác;
• Nhận diện định hướng giao tiếp giữa các cá nhân của bản thân và mọi người khác.

HỌC TẬP KỸ NĂNG


1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ TỰ NHẬN THỨC
Hơn 300 năm nay, những hiểu biết về chính bản thân chúng ta được xem như là một điều
rất thầm kín về những hành vi của con người chúng ta. Trong số các chuyên gia, ông Alfred Lord
Tennyson đã nói: “Lòng tự trọng, sự tự hiểu biết về mình, và tự điều khiển mình, là ba chìa khóa
chính, nếu đạt được sẽ mang lại cho bạn một sức mạnh tối cao”. Qua đó ta có thể thấy được tầm
quan trọng của việc tự nhận thức.
Gần đây, nhiều cuộc nghiên cứu đã tiến hành để đưa ra những khái niệm về trí tuệ cảm
xúc - một khả năng để có thể tự quản lý chính mình và tự quản lý trong những mối quan hệ với
những người khác - được xác định như là một trong những yếu tố quan trọng đóng góp cho sự
thành công của các nhà quản trị và các nhà lãnh đạo. Cụ thể, sự tự nhận thức (self-awareness)
được xác định như là một nhân tố cốt yếu của trí tuệ cảm xúc, và nó được xem là một yếu tố
mạnh hơn, quyết định hơn đến những thành công trong cuộc sống so với chỉ số thông minh IQ
(intelligence quotient). Chẳng hạn một nghiên cứu, đã nỗ lực tìm kiếm sự khác biệt giữa những
người có thành tích nổi trội và những nhà quản trị trung bình trong 40 công ty, đã chứng minh
rằng những khả năng về những trí tuệ cảm xúc, bao gồm khả năng tự nhận thức, quan trọng gấp
hai lần chỉ số IQ trong việc đưa ra những sự đóng góp để tạo ra những sự hiểu biết rộng, từ đó có
thể tạo ra những sở trường và những sự tinh thông cho chính họ. Trong một cuộc nghiên cứu của
công ty tư vấn đa quốc gia đã tiến hành như sau: những thành viên có thành tích cao được đem so
sánh với những thành viên có thành tích bình thường. Những thành viên có thành tích cao - là
2 – Chương 1: Tự nhận thức

những người có được một chỉ số về trí tuệ cảm xúc và điểm số đạt được của sự tự nhận thức là rất
cao - đóng góp vào lợi nhuận của công ty gấp 2 lần và được thăng tiến gấp 4 lần so với những
thành viên có thành tích bình thường, là những người chỉ đạt được một số điểm khá thấp về khía
cạnh này.
Messinger đã nhắn nhủ với chúng ta rằng: “Chúng ta sẽ quản lý những người khác nhưng
điều đầu tiên mà chúng ta phải thực hiện đó là quản lý chính mình”. Việc tự nhận thức phải luôn
là tâm điểm của khả năng quản trị chính mình, nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Khả năng tự quản trị
chính mình phụ thuộc đầu tiên và lớn nhất vào khả năng tự nhận thức, bởi các kỹ năng tự quản trị
khác có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và liên kết lại với nhau thì mới có thể hình thành nên khả
năng tự nhận thức chính mình, như được trình bày ở Hình 1.1. Chẳng hạn phát triển việc tự kiểm
soát mình (self-control), tức chọn lọc ra những mục tiêu và những điều ưu tiên giúp các cá nhân
tạo ra định hướng cho cuộc sống của chính bản thân mình. Quản lý thời gian và sự căng thẳng
(quản trị stress) một cách hiệu quả sẽ tạo một khả năng cho các cá nhân có được một sự phù hợp
và thích nghi với môi trường xung quanh.

Triệu Quản lý stress


chứng

Quản lý thời gian

Xác định mục tiêu và các ưu tiên


(self-control)

Tự nhận thức
Vấn đề

Hình 1.1: Phân cấp kỹ năng tự quản trị

1.2. ĐIỀU THẦM KÍN CỦA TỰ NHẬN THỨC


1.2.1. Tự nhận thức như là điều thầm kín
Carl Rogers (1961) đã phát biểu rằng sự tự nhận thức và sự tự thừa nhận (self-acceptance)
được xem là những điều kiện tiên quyết đối với việc phát triển thể chất tâm lí, phát triển cá nhân
và khả năng biết và chấp nhận những người khác. Rogers cũng đã đồng ý rằng nhu cầu cơ bản
Chương 1: Tự nhận thức - 3

của con người là lòng tự trọng (Self-Regard), điều mà họ tìm thấy là có sức tác động mạnh đến
bản thân của họ hơn là những nhu cầu sinh lý của bản thân.
Brouwer (1964) cũng đã nhận định rằng: “Việc tự xem xét lại chính mình (self-
examination) là một bước chuẩn bị cơ bản cho cái bên trong, một điều kiện để có thể gieo “hạt
giống” của việc tự hiểu biết chính mình (self-understanding) và “bông hoa” về “những hành vi
thay đổi sẽ dần được nở ra”.
Chúng ta không thể cải thiện chính mình hoặc phát triển những khả năng mới trừ khi và
cho đến khi chúng ta biết mức độ về những khả năng hiện thời mà mình đang nắm giữ. Những
bằng chứng dựa vào kinh nghiệm đã chứng tỏ cho ta thấy được rằng: “những cá nhân mà càng
nhận thức rõ về chính bản thân mình bao nhiêu thì họ càng cảm thấy khoẻ hơn, thực hiện công
việc tốt hơn trong vai trò quản trị, vai trò lãnh đạo và hiệu quả hơn trong công việc”
Tuy nhiên, tự hiểu biết về mình (self-knowledge) có thể sẽ ngăn chặn những sự cải thiện
của bản thân thay vì tạo ra những sự cải thiện như ta thường nghĩ. Lý do của điều này là do chúng
ta thường tránh nhìn nhận những sự phát triển của mình và những sự hiểu biết mới về chính bản
thân mình. Chúng ta kháng cự lại việc mình có được nhiều thông tin hơn về chính mình, nhằm
bảo vệ lòng tự trọng và những sự mặc cảm của chính bản thân mình. Nếu chúng ta có được
những thông tin mới về chính bản thân mình thì mình sẽ trở nên xấu đi, những thông tin đó sẽ
chống lại ta, tạo ra cho ta một cảm giác thấp kém, vì đó là những thông tin về những điều xấu,
những điểm yếu, những điều kinh khủng và xấu xa. Vì vậy chúng ta tránh né đối diện với chính
mình. Như Maslow đã phát biểu rằng: “Chúng ta có khuynh hướng e ngại một số thông tin về
chính chúng ta vì nó sẽ là nguyên nhân khiến chúng ta trở nên xem thường chính chúng ta hoặc
làm chúng ta cảm thấy thua kém, yếu đi, ngại ngùng hơn, ghê tởm chính mình. Chúng ta bảo vệ
chính chúng ta và những hình ảnh của chính chúng ta bằng cách thể hiện những sự ngăn chặn
cùng với những biểu hiện khác, bằng cách nào đó mà chúng ta sử dụng để trốn tránh những cái
có nguy cơ làm hại ta và gây nguy hiểm cho chính chúng ta.”
Như vậy, chúng ta tránh sự phát triển cá nhân, vì chúng ta lo sợ những điều được làm
sáng tỏ ra từ chính chúng ta, có nghĩa chúng ta che dấu những đặc điểm của mình. Nếu đây là
một cách tốt hơn, hiểu biết về bản thân mình sẽ làm cho trường hợp hiện tại của chúng ta bị mất
cân bằng và bị hạ thấp xuống. Rất khó để chấp nhận những điều đó. Tuy nhiên hãy nghĩ lại rằng
việc kháng cự và không chấp nhận hiểu biết về mình nó sẽ làm cho tình trạng chúng ta xấu thêm.
Freud cũng đã khẳng định rằng “chúng ta nên chân thật với chính mình, là cách tốt nhất để chấp
nhận những điều của chính chúng ta, bởi vì chỉ có lòng chân thật của chính mình mới có thể đạt
được và tìm được nhiều hơn những thông tin về mình và mới có thể cải thiện được chính mình”.
Vì vậy, tìm kiếm những hiểu biết về chính mình được xem là một điều thầm kín. Đó là
điều kiện tiên quyết để phát triển và cải thiện, những điều này cũng có thể ngăn chặn những sự
phát triển và những cải thiện của chính chúng ta. Nó sẽ gây nên một tình trạng trì trệ hơn vì
chúng ta không muốn biết nhiều hơn về chính mình.
4 – Chương 1: Tự nhận thức

1.2.2. Điểm nhạy cảm


Một câu nói nào đó liên quan đến những khái niệm có tính dễ bị tác động, những điểm dễ
bị tác động đó được xem là những “điểm nhạy cảm” (sensitive line), cũng có thể được xem là
những mặc cảm của bản thân. Khái niệm này có hàm ý đề cập đến một điểm, mà ở đó những cá
nhân thường sẽ đưa ra một sự phòng thủ hoặc một sự cảnh giác đối với những thông tin mà ta
chạm đến những điểm đó, thường đó là những thông tin về chính bản thân họ, những khái niệm
mà mâu thuẫn với chính “những quan niệm của chính bản thân họ” (self-concept), hoặc cũng có
thể đó là những điều mà ta yêu cầu họ thay đổi những hành vi của họ.
Mặt khác, nếu càng đưa ra những thông tin có tính trái ngược, hoặc đưa ra những điều
hàm ý có tính nghiêm trọng hơn đối với những quan niệm của chính mình (self-concept), thì nó
sẽ càng dễ thăm dò những điểm nhạy cảm của bản thân, và bạn sẽ cảm thấy rất là cần thiết để
nhận ra rằng cần phải dựa vào chính bản thân của mình, chứ không dựa vào bất cứ nguồn nào hết.
Ví dụ, có một đồng nghiệp nói bạn rằng bạn chẳng có một tư cách, trình độ gì của một nhà quản
trị cả, điều này có thể đã đụng đến “điểm nhạy” của bạn nếu bạn nghĩ là bạn có thể làm tốt công
việc của một nhà quản trị. Điều này sẽ được xem là một sự thật nếu như người đồng nghiệp này
là một người có ảnh hưởng mạnh đối với bạn. Những câu trả lời của bạn sẽ có thể phụ thuộc vào
chính bản thân bạn, tức bạn sẽ phản xạ lại bằng những thông tin có tính bảo vệ bạn, bảo vệ hình
ảnh của chính bạn.
Các cá nhân sẽ trở nên có ý thức tâm lí hơn và phản ứng cứng rắn hơn, khi đụng phải
những thông tin có tính đe doạ đến những quan niệm của chính mình. Họ có khuynh hướng làm
tăng cường thêm những sự cố gắng của mình để bảo vệ cái mà họ xem là thoải mái và thân thiết
với mình. Khi những sự khác nhau trong những sự tự nhận thức bị đụng chạm, tính chất hợp lí
của thông tin hoặc những nguồn của nó bị phủ nhận thì những loại kỹ xảo phòng thủ sẽ được sử
dụng để bảo vệ cho những khái niệm của chính mình được vững chắc. Như vậy, khi đụng đến
những điểm nhạy này sẽ tạo ra một sự không linh hoạt và bản năng tự bảo vệ sẽ trổi dậy trong
mỗi người chúng ta.
Đối với những tính cách phòng thủ này, chúng ta có thể đưa ra một câu hỏi: Phải làm thế
nào để có thể gia tăng hiệu quả của việc tự hiểu mình (self-knowledge) và những sự thay đổi
nhận thức cá nhân nào cần phải tiến hành để đạt được điều đó. Ở đây có ít nhất hai câu trả lời.
Một là những thông tin tự hiểu biết về mình (self-knowledge) phải là những thông tin có
thể xác minh được, có thể đoán trước được và có thể kiểm soát được và chính vì thế nó rất ít
đụng chạm đến những điểm nhạy hơn so với những thông tin mà không có những đặc điểm trên.
Nếu một cá nhân có thể kiểm soát tính hiệu lực của những thông tin trái ngược nhau, những
thông tin là không như mong đợi hoặc ngoài vùng kiểm soát của bản thân mình thì mình sẽ nhận
được những thông tin phản hồi để mà nghe mà chấp nhận.
Một câu trả lời thứ hai, đối với vấn đề này đó là việc vượt qua những sự trở ngại, để tự
xem xét lại những thông tin không thật, trong vai trò của người khác. Và hầu như, chúng ta cũng
Chương 1: Tự nhận thức - 5

không thể phát triển những kỹ năng này, trong việc tự nhận thức, trừ khi chúng ta mạnh dạn đối
mặt với nó và vạch trần những điều của chính chúng ta trước những người khác. Trừ khi chúng ta
sẵn sàng thừa nhận những điều đó trước những người khác, để từ đó có thể thoải mái hơn trong
việc thảo luận với những chuyên gia hoặc những người bên cạnh về những điều mà bản thân
mình còn mơ hồ hoặc không biết, có như vậy thì chúng ta mới có thể phát triển bản thân được.
Việc tự bộc bạch (self-disclosure) bản thân mình được xem là chìa khoá để cải thiện việc tự nhận
thức (self-awareness).
Điều cần thiết đầu tiên là bạn cần cởi mở đối với những người khác khi bạn gặp phải
những khái niệm có tính mơ hồ. Bạn hãy nghĩ rằng nếu bạn đứng trước gương và thấy rõ mình
hơn trong đó nhưng bạn sẽ chẳng nhận thấy được gì cả, nhưng nếu bạn bày tỏ với những người
khác thì bạn sẽ nhận được nhiều điều bổ ích hơn thế. Đó là bởi vì cơ bản chúng ta là một con
người trong xã hội, một thành viên trong tổ chức, chứ không phải lẻ loi, cô độc một mình.
Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh được điều đó. Sinh viên là những người thường
bộc bạch những tâm sự, những điều mà họ còn nghi vấn với nhau, để trao dổi với nhau. Những cá
nhân có đức tính tự bộc bạch (self-disclosure) là những người có khuynh hướng, hướng đến
những điều tốt nhất và sẽ nhận được những sự chấp nhận từ những người khác.
Tuy nhiên cũng đừng bao giờ sử dụng những thông tin mà bạn được chia sẻ hay nhận
được để phán quyết hay làm tổn thương, xúc phạm đến những người khác. Chính sự thật lòng của
chính bạn sẽ làm cho bạn có được mối quan hệ gắn bó, thân thiết với những người mà bạn có thể
chia sẻ với họ, có như vậy việc thổ lộ với nhau sẽ dễ dàng hơn, đây là điều kiện tiên quyết để có
thể tự hiểu biết về chính bản thân mình.
1.3. HIỂU RÕ VÀ CHẤP NHẬN SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC CÁ NHÂN
Một lý do khác, đề cao vai trò quan trọng của sự tự nhận thức đó là giúp bạn phát triển
khả năng chẩn đoán sự khác nhau về giá trị ở những người khác, những người mà bạn có quan hệ
tác động qua lại với nhau. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng: tính hiệu quả của một
nhà quản trị là có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với khả năng của nhân viên mình, trong việc nhận
ra và chấp nhận sự khác nhau giữa những người khác nhau, nắm rõ được những nguyên tắc cơ
bản của những sự khác nhau này sẽ đảm bảo cho những nhà quản trị có thể đạt được những thành
công cho riêng mình.
Trong điều kiện ngày nay, sự đa dạng của lực lượng lao động trở thành một thách thức
đối với các nhà quản trị. Sự đa dạng xuất hiện khi lực lượng lao động trở nên thừa thải, số lượng
thành viên trong một tổ chức trở nên nhiều hơn và đa dạng hơn. Vì vậy, muốn hiệu quả làm việc
của nhóm được nâng cao thì cần phải nắm rõ và chấp nhận những sự khác nhau đó. Sự khác nhau
cơ bản nhất giữa các thành viên, đó là giới tính, tuổi tác, văn hoá và dân tộc.
Vì thế trong chương này, chúng ta sẽ đề cập đến hai chủ đề chính sau: (1) để giúp đỡ bạn
có một cách hiểu về bản thân mình tốt hơn khi đứng trên phương diện là sự nhìn nhận của một cá
6 – Chương 1: Tự nhận thức

nhân, để có thể trang bị cho bạn những cách quản trị cho bản thân mình một cách tốt hơn; (2) để
giúp bạn có thể dự đoán, đánh giá và sử dụng những sự khác nhau của các thành viên khác.
Việc tự hiểu biết về mình sẽ giúp bạn có cơ hội để xem xét lại những giả định mà bạn cho
là đúng, những điểm mặc cảm, những điểm nhạy, những điểm mạnh cũng như những điểm yếu
của bạn,…Những thông tin như vậy nó sẽ rất hữu dụng cho tất cả chúng ta, bởi vì không phải
chúng ta có thể hoặc nên thay đổi những khía cạnh của chính chúng ta, những cách xác định cơ
bản đã được hình thành theo cách nhìn nhận của chính chúng ta, mà bởi vì nó giúp chúng ta có
thể đưa ra những cách tác động đến những người khác một cách có hiệu quả và sâu sắc hơn. Nó
cũng giúp chúng ta có thể hoàn thiện khả năng nhận diện vấn đề của chúng ta, từ đó đóng góp
vào việc xây dựng những giá trị về vai trò nghề nghiệp trong tương lai của chúng ta và những
điểm mạnh đặc biệt của chúng ta so với những người khác. Và lịch sử cũng đã chứng minh được
rằng những anh hùng, những danh nhân là những người đã có những sự khác biệt đó và họ đã
biết cách sử dụng những điểm mạnh đó để có thể làm nên những điều phi thường, họ thành công
vì được cho là uy tín, thông minh và cá tính. Việc tự hiểu biết về mình sẽ cho phép chúng ta nhận
ra những điểm đặc biệt và những điểm mạnh trong chúng ta, để từ đó ta có thể lợi dụng nó cùng
với những năng lực vốn có của chúng ta.
Phán đoán được những điểm khác nhau cơ bản ở những người khác nhau được xem là
một phần quan trọng để trở thành một nhà quản trị hiệu quả. Sự nhận thức, khuynh hướng đồng
cảm, những viễn cảnh khác nhau, nhu cầu và những “độ lệch” của những người khác nhau là
khác nhau, đây được xem là một phần quan trọng để có thể nắm bắt được những cảm xúc và tính
chân thật giữa các cá nhân với nhau. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều có khuynh hướng tác
động lẫn nhau, để từ đó nhận ra những người giống mình về mặt tâm lí, rồi chọn những người đó
cùng làm việc nhóm với mình, còn những người dường như có những sự khác nhau về một vài
điểm nào đó thì ta loại trừ họ ra.
Mặc dầu chúng ta khuyến khích những sự giống nhau, những sự hợp nhau để chúng ta có
thể tác động, giao tiếp với nhau một cách dễ dàng hơn, đặc biệt là làm việc nhóm, tuy nhiên để có
thể tạo ra những sự sáng tạo, giải quyết được những vấn đề phức tạp thì buộc chúng ta phải chấp
nhận sự khác nhau đó, chấp nhận sự thay đổi những ứng xử của chính chúng ta để đi đến sự
thống nhất.
Ngoài ra, đây cũng là chìa khoá giúp chúng ta có thể thu thập được những ý kiến và
những ý tưởng khác nhau từ những người khác nhau nhờ việc chia sẻ cho nhau những lời cam
kết, những ý kiến khác nhau (differences), chứ không phải là một sự phân biệt (distinction).
Chúng ta quan sát những sự khác nhau; chúng ta tạo ra những sự phân biệt. Những sự khác nhau
sẽ giúp chúng ta hiểu rõ được những nguồn nguy cơ của những sự hiểu lầm giữa mọi người và nó
sẽ cung cấp cho chúng ta những đầu mối, những cách để chúng ta có thể làm việc với nhau một
cách hiệu quả hơn. Sự phân biệt tạo ra một rào cản trong xã hội giữa mọi người với nhau, bên
cạnh đó nó cũng sẽ tạo ra những khó khăn cho chúng ta. Khi một vài người không để ý đến
Chương 1: Tự nhận thức - 7

những ý kiến của những đồng nghiệp trong nội bộ với lý do là người đó là một người không
thuộc “thế hệ của chúng ta” hoặc “đó chỉ là người làm Maketing mà thôi” hoặc “chỉ là một người
đàn bà” hoặc “không có trình độ đại học”,… Như vậy là chúng ta đã tạo ra một sự phân biệt, điều
này là tiềm năng để gây ra những tổn thương cho người khác và đây cũng chính là nguyên nhân
gây nên những bất lợi cho tổ chức.
Việc tạo ra một sự phân biệt sẽ phá hỏng niềm tin giữa mọi người với nhau, thậm chí sự
phân biệt đó sẽ làm cho chúng ta trở nên xa họ hơn. Nếu bạn là người đưa ra một sự phân biệt và
xem thường những người khác trong nhóm, đồng nghĩa với việc chúng ta đã gieo một hạt “không
có niềm tin” vào trong suy nghĩ của mọi người và họ sẽ nghĩ rằng sự phân biệt của bạn là nhằm
hạ thấp họ. Nhận thấy được những sự khác nhau, sự đa dạng nó sẽ mang lại cho chúng ta một giá
trị không giống như đưa ra một sự phân biệt. Một cái có nghĩa là giúp đỡ và một cái có nghĩa là
làm tổn thương. Khi những người khác cảm thấy những thông tin tự bộc lộ của chính mình lại bị
đem ra nói với những người khác - Điều này làm cho họ bị đặt trong khía cạnh không thuận lợi
của những sự phân biệt - Họ sẽ trở nên miễn cưỡng để tham gia vào bất cứ một vài quá trình tự
khám phá chính mình (self-discovery), cụ thể đó là sẽ không dễ dàng gì để yêu cầu họ chia sẻ
thông tin về những đặc điểm trong con người của họ, tức họ sẽ không thích nói chuyện với bạn.
Sự tự nhận thức và hiểu biết những điều khác nhau có thể không xuất hiện nếu như ta
không có khả năng để tự bộc lộ mình, không có một sự chia sẻ, và một niềm tin trong những cuộc
trao đổi. Sự tự hiểu mình đòi hỏi một sự nhìn nhận và đề cao những sự khác nhau đó, không nên
tạo ra những sự phân biệt giữa mọi người với nhau, nó sẽ chỉ có hại mà thôi.
1.4. CÁC YẾU TỐ CỐT LÕI CỦA TỰ NHẬN THỨC
Có nhiều thước đo có ý nghĩa để một người nào đó có thể chọn nhằm khảo sát một cách tỉ
mỉ việc tự nhận thức. Nhiều khía cạnh của việc dựa trên nhận thức được đo lường một cách rõ
ràng, các tác giả đã xác định được hơn một tá “Sự hiểu biết mới” (intelligence), số lượng những
dạng biểu đồ nhiễm sắc thể của con người là ngày một tăng lên, cùng với hàng trăm sự khác nhau
về sinh lý học được xem là những điều cốt yếu để hình thành nên những sự khác nhau về hành vi,
về giới tính, tuổi tác, văn hoá, dân tộc và kinh nghiệm. Và chúng ta sẽ tập trung thảo luận về 4
vùng then chốt nhất của việc tự nhận thức, đây được xem là chìa khoá để có thể phát triển những
sự thành công của nhà quản trị, đó là: Giá trị cá nhân (Personal Values), Phong cách học
(Learning Style), Định hướng đối với sự thay đổi (Orientation Toward Change) và Định hướng
mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau (Interpersonal Orientation). Những khía cạnh được nêu ở
trên được trình bày dựa trên sự hữu hạn của một số các yếu tố cơ bản nhất, và chúng được phát
hiện dựa trên những cuộc nghiên cứu thực tế về các khía cạnh đã tạo nên những thành tích của
những nhà quản trị như: sự thành công trong hoạt động quản trị, sự thành đạt trong cuộc sống,
làm việc nhóm hiệu quả, thành thạo trong việc đưa ra những quyết định, khả năng phát triển, sự
sáng tạo, khả năng giao tiếp tốt,…
8 – Chương 1: Tự nhận thức

Những giá trị cá nhân (Personal Values) được chúng ta đề cập đến đầu tiên, bởi vì đây là
một trong những khía cạnh nhận thức được xem là “Cốt yếu nhất trong việc đưa ra những khả
năng ứng xử năng động về mặt hành vi, và nó cũng là phần quan trọng nhất trong việc hình
thành nhân cách của mỗi chúng ta”. Tuy nhiên, những quan điểm, những khuynh hướng và
những hành vi khác nhau không hoàn toàn phụ thuộc vào những giá trị bên trong của mỗi cá
nhân. Hai loại chính của giá trị cá nhân được đưa ra xem xét đó là: giá trị mục tiêu cuối cùng và
giá trị phương tiện.
Khía cạnh thứ hai là phong cách học (Learning Style). Bạn cần phải hoàn thành những
công cụ đánh giá trong phần này để có thể đánh giá một cách chính xác hơn về Phong cách học
mà bạn đang sở hữu, cũng như một tiến trình nhằm gia tăng hiệu quả việc học của bạn, giúp bạn
tiếp thu kiến thức được dễ dàng hơn cũng như lưu giữ lâu hơn.
Khía cạnh thứ ba là khuynh hướng đối với sự thay đổi (Orientation Toward Change).
Phần này chúng ta sẽ tập trung vào những phương pháp mà nhiều người đã sử dụng để đối mặt
với những thay đổi của môi trường. Trong tương lai, tất cả chúng ta sẽ phải đối mặt với sự gia
tăng có tính rời rạc, những sự thay đổi nhanh chóng trong một mớ những điều kiện hỗn độn
(Peter, 1987). Nó rất quan trọng để bạn có được một sự nhận thức về những định hướng rõ ràng
nhằm thích nghi hơn với những điều kiện đó. Có hai loại thước đo quan trọng đó là - Nơi tiến
hành sự kiểm soát (Locus of Control) và Khả năng chịu đựng sự mơ hồ (Ambiguity) của bạn.
Khía cạnh cuối cùng trình bày về Khuynh hướng giao tiếp giữa các cá nhân với nhau,
được định nghĩaH như là những mẫu hành vi giao tiếp được xem là phù hợp nhất, chúng được
nêu ra để giúp chúng ta có thể có nhận thức đúng đắn về những hành vi của chúng ta đối với
những người khác
Trên đây là bốn khía cạnh chính của quá trình tự nhận thức, chúng đóng vai trò cốt lõi
trong việc hình thành các khái niệm của chính bản thân chúng ta.
Nhiều khía cạnh khác của việc tự nhận thức sẽ được xem xét trong Chương này như cảm
xúc (emotions), thái độ (attitudes), tính khí (Temperament), cá tính (personality) và những sự
quan tâm (interest). Nhưng về cơ bản thì tất cả những khía cạnh này có một mối quan hệ mật
thiết với 4 khía cạnh chính mà ta đã đề cập ở trên đây. Chúng ta đánh giá cái gì, làm thế nào
chúng ta có thể cảm nhận được mọi thứ, chúng ta đối xử ra sao với những người khác, chúng ta
mong muốn đạt được điều gì và điều gì là thu hút ta trước những sự ảnh hưởng mạnh mẻ xuất
phát từ những giá trị, những Phong cách học, những Khuynh hướng thay đổi và những Khuynh
hướng giao tiếp giữa các cá nhân với nhau của chính chúng ta. Tuy nhiên cũng không nên xem
nhẹ những điều này vì nhờ nó mà quá trình tự nhận thức của chúng ta được hoàn thiện hơn.
Chương 1: Tự nhận thức - 9

Giá trị
Chuẩn mực, ưu
tiên và sự trưởng
thành giá trị

Thái độ đối với Phong cách học


sự thay đổi Xác định việc thu
Xác định khả năng thập và đánh giá
thích nghi và sự thông tin
chịu trách nhiệm

Nhu cầu giao tiếp


giữa các cá nhân
Xác định những sở
thích và các mô hình
tương tác

Hình 1.2: Bốn yếu tố cốt lõi của sự tự nhận thức


1.4.1. Giá trị
Giá trị là một đặc điểm vững chắc và lâu dài nhất của mỗi cá nhân. Nó được xem như là
nền tảng chính để hình thành nên những quan điểm và những sở thích riêng của mỗi cá nhân. Giá
trị là nền tảng của những quyết định cốt yếu, những định hướng sống và sự cảm nhận của mỗi cá
nhân. Nhờ nó mà trong bản thân mỗi chúng ta có thể xác định, điều nào là “đúng”, những điều
mà đối với chúng ta là những “đạo lí” và những quan niệm của bản thân chúng ta được hình
thành đối với thế giới xung quanh. Phần lớn những quan niệm trong bản thân chúng ta được hình
thành trong suốt quá trình sống của mỗi chúng ta, là những sản phẩm của những giá trị cơ bản
(basic value) trong chính chúng ta
Tuy nhiên, điều đáng lo về giá trị là chúng được xem như là một sự hiển nhiên, làm cho
chúng ta thường không ý thức về chúng. Những giá trị thường được cố định và duy trì trong một
thời gian dài đến nỗi rất khó để phát hiện sự hiện diện của nó. Mọi người không nhận thức được
rằng họ đang nắm giữ một số giá trị được xem là quan trọng hơn của những người khác. Sự vô ý
thức này sẽ đưa chúng ta đến những hành động hoặc hành vi mà đôi khi nó lại trái ngược đối với
bản chất về những giá trị, thậm chí nó còn đối lập, phủ nhận những giá trị đó. Cho đến khi mọi
người đối mặt với sự mâu thuẩn hoặc thậm chí là một sự đe doạ đối với những giá trị cơ bản của
họ, thì họ hiếm khi đưa ra những biểu hiện ăn khớp với những giá trị của họ hoặc đưa ra một sự
sàn lọc chúng.
10 – Chương 1: Tự nhận thức

Những giá trị của mỗi chúng ta, thường bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, và có một số cách
được sử dụng để đo lường và miêu tả giá trị. Trong chương này, sẽ chỉ tập trung vào một số cách
chính mà thôi, những cách đã được sử dụng một cách rộng rãi trong những cuộc nghiên cứu và
trong công tác quản trị. Đầu tiên, sẽ bàn về những khuynh hướng giá trị chung, có tính tổng quát,
được xếp vào chung một nhóm lớn với những đặc điểm giống nhau như quốc gia, dân tộc, ngành,
hoặc tổ chức. Nhiều cuộc nghiên cứu đã được tiến hành những nhóm giá trị này, ví dụ nghiên cứu
sự khác nhau về giá trị xuất hiện giữa các nền văn hoá. Điểm chính của cuộc nghiên cứu này là
nhằm xác định những sự khác nhau giữa các quốc gia, nó xuất phát từ nhu cầu của những nhà
quản trị khi phải đối mặt với nhu cầu để quản trị công việc kinh doanh của mình khi nó đã vượt
ra khỏi biên giới của một quốc gia. Trong cuộc sống của chúng ta, có thể chúng ta sẽ phải gia
tăng sự tương tác với những cá nhân không giống với mình trong cùng một đất nuớc và chúng ta
sẽ tiếp cận với những khuynh hướng giá trị của họ, điều này sẽ giúp chúng ta có thể đưa ra những
sự tương tác dễ dàng và hiệu quả hơn với những người khác nhau. Những sự khám phá về những
giá trị khác nhau của những nền văn hoá quốc gia khác nhau và những giá trị khác nhau này sẽ
tác động mạnh mẽ đến giá trị của mỗi người, từ đó sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc phán
đoán những giá trị cố hữu trong mỗi chúng ta. Ít nhất, thì một vài giá trị của chúng ta là bị ảnh
hưởng một cách đáng kể bởi quốc gia và nền văn hoá.
Giá trị văn hóa
Nhà nghiên cứu Trompenaars (1996,1998) đã xác định ra 7 thước đo giá trị, được hình
thành trên cơ sở những sự khác nhau có ý nghĩa tồn tại giữa các nền văn hoá của các quốc gia.
Cuộc nghiên cứu của ông được tiến hành trên 30000 nhà quản trị thuộc khoảng 55 quốc gia khác
nhau, và ông đã phát hiện ra rằng mỗi nền văn hoá của mỗi quốc gia sẽ nhấn mạnh và tập trung
vào một số giá trị nổi bật nào đó so với những nền văn hoá khác, và không có một nền văn hoá
quốc gia nào là chỉ nhấn mạnh đến một loại thước đo giá trị nào đó và loại trừ những thước đo
giá trị khác.
Năm thước đo đầu tiên của mô hình này bàn đến cá nhân quan hệ với người khác như thế
nào.
Thứ nhất: Tính phổ quát – Theo tình cảnh
Ở một vài quốc gia chẳng hạn như: Mỹ, NaUy, Thụy Điển, Thụy Sĩ,… thường nhấn mạnh
đến một loại giá trị đó là “tính phổ quát”, và hành vi của những con người nơi đây là bị chi phối
bởi những nguyên tắc và tiêu chuẩn của sự hiểu biết chẳng hạn như không nói dối, không gian
lận, không vượt đèn đỏ,… Những nguyên tắc chung của xã hội đóng vai trò chi phối hành vi của
mỗi người. Còn đối với những quốc gia khác như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia,
Singapore,… sẽ đi theo một loại giá trị của “tình cảnh” thực tế mà trong đó mối quan hệ cá nhân
chi phối hành vi (Ví dụ, xem nguời khác là một người bạn hoặc là một thành viên trong gia đình
hoặc có một mối quan hệ ruột rà gì chăng với mình).
Chương 1: Tự nhận thức - 11

Để minh hoạ sự khác nhau này, chúng ta hãy cùng xem xét những câu trả lời của tình
huống sau: Người bạn thân của bạn đang lái một chiếc ô tô chở theo bạn trong thành phố. Tuy
nhiên, người bạn này đã đi với tốc độ 60 km/h và tông vào một người đi bộ, trong khi đoạn
đường chỉ cho phép chạy với tốc độ 40 km/giờ. Và xung quanh đó không có một ai chứng kiến
cảnh này, ngoài bạn ra thì không còn nhân chứng nào nữa và luật sư của anh ta nói rằng nếu bạn
đứng ra làm chứng rằng anh ấy chỉ đi với tốc độ 25 dặm/h thì anh ấy sẽ thoát tội. Bạn sẽ đồng ý
nói dối dùm cho anh ấy chứ? Đa số mọi người thuộc nền văn hoá hiểu biết thì trả lời rằng họ sẽ
từ chối, còn đối với những người trong nền văn hoá tôn thờ thì ngược lại. Cụ thể là 97% người
Thụy Sĩ và 93% người Bắc Mỹ (như Canada và Mỹ) trả lời là sẽ từ chối để chứng thực cho anh
ta, trong khi đó chỉ có 32% người Venezuela và 37% người Hàn Quốc sẽ từ chối.
Thứ hai: Chủ nghĩa cá nhân – Chủ nghĩa tập thể
Giá trị của “chủ nghĩa cá nhân” nhấn mạnh đến chính bản thân mình, nhấn mạnh đến sự
độc lập và đề cao tính duy nhất. Nó đối lập với chủ nghĩa tập thể - nhấn mạnh đến nhóm, sự kết
hợp giữa các đơn vị và sự cùng tham gia của các cá nhân khác. Giá trị của chủ nghĩa cá nhân
thường hướng đến việc đề cao sự đóng góp của riêng một cá nhân, nhưng ngược lại đối với văn
hoá của chủ nghĩa tập thể thì nó lại nghiêng về việc đề cập đến sự đóng góp của một tập thể.
Nói chung, thì trách nhiệm rõ ràng của cá nhân ở văn hoá Phương Tây thì nó trội hơn so
với văn hoá Phương Đông. Để thấy rõ hơn chúng ta sẽ tiến hành xem xét câu trả lời trong tình
huống sau: Loại công việc nào được xem là phổ biến nhất được tìm thấy trong tổ chức của bạn
trong số những loại sau: tất cả mọi người cùng làm việc với nhau và bạn sẽ không nhận được bất
cứ một sự tín nhiệm cá nhân nào cả, hay là mọi người được phép để làm việc riêng lẻ và bạn sẽ
nhận được một sự tín nhiệm đối với cá nhân bạn? Các nước Đông Âu (Ví dụ: Nga, Cộng Hoà
Sec, Hungary, Ba Lan ) có một tỷ lệ là trên 80% người, ở Mỹ là 72% người đồng ý rằng sự tín
nhiệm cá nhân là được thừa nhận, ngược lại, đối với những nước Châu Á (Ví dụ như: Nhật, Ấn
Độ, NêPan) thì trung bình có dưới 45% người.
Thứ ba: Biểu lộ cảm xúc nơi công cộng – Trung lập
Thước đo giá trị thứ ba nhằm đề cập đến sự biểu lộ cảm xúc nơi công cộng. Nó xác định
một khuynh hướng biểu lộ cảm xúc tự nhiên đối lập với khuynh hướng không rõ ràng, trung lập.
Những giá trị của nền văn hoá biểu lộ cảm xúc rõ ràng nhấn mạnh đến việc thể hiện những cảm
xúc một cách cởi mở và gắn những sự biểu lộ cảm xúc như cười to, giận dữ, và phản ứng mạnh
mẽ… Những giá trị được quy định bởi nền văn hoá trung lập, thể hiện những cảm xúc không rõ
ràng, Họ thường đưa ra những cách tiếp cận có lý trí và có tính chịu đựng trong những nghịch
cảnh khi tiến hành giải quyết vấn đề. Mục tiêu định hướng hành vi của họ hơn là để tình cảm dẫn
dắt, định hướng mục tiêu ngự trị trong các mối quan hệ của họ với người khác.
Nếu bạn trở nên cảm thấy khó chịu trong công việc hoặc trong lớp học - hoặc đang bị làm
cho tức giận - Thì bạn có thể sẽ biểu lộ những cảm xúc của bạn ở những nơi công cộng chứ?
Những nhà quản trị ở Nhật, Êthiôpia và HongKong thì trả lời với trung bình lần lượt là 64%,
12 – Chương 1: Tự nhận thức

74%, 81% người, là trả lời từ chối việc biểu hiện cảm xúc ra những nơi công cộng. Mặt khác,
15% các nhà quản trị ở Kuwait, 18% các nhà quản trị ở Ai Cập và 19% các nhà quản trị ở Tây
Ban Nha sẽ từ chối và Mỹ là chỉ 43% người là từ chối.
Thứ tư: Sự tách biệt – Sự hoà nhập
Sự tách biệt đối lập với sự hoà nhập, nhằm mô tả sự khác biệt giữa các nền văn hoá. Một
bên là nhằm nói về sự tách biệt giữa những vai trò khác nhau trong cuộc sống để duy trì sự cách
biệt và sự tự quyết cho bản thân mình, với một bên là sự hoà nhập và hợp nhất các vai trò lại với
nhau. Văn hoá nhấn mạnh đến sự tách biệt, tách rời nhau rõ ràng trong mối quan hệ công việc với
mối quan hệ gia đình, ngược lại văn hoá hòa nhập, hợp nhất, lẫn lộn nhau, đặc biệt là sự đan xen
lẫn lộn giữa mối quan hệ gia đình với mối quan hệ công việc. Người mà có giá trị của sự tách biệt
sẽ rất là khó để trao đổi, để biết nhau hơn bởi vì đối với họ luôn có một ranh giới rõ ràng giữa đời
sống cá nhân và đời sống công việc. Người mà sống trong nền văn hoá hoà nhập thì dường như là
quá sốt sắng và quá hời hợt, thường không kỹ luỡng trong công việc, bởi vì dường như là họ chia
sẻ những thông tin cá nhân một cách tự do và vô tội vạ. Văn hoá hoà nhập sẽ làm cho tỷ lệ lợi
nhuận trong công việc giữa các nhân viên đạt được là thấp hơn, nhưng ngược lại thì lòng trung
thành, trung nghĩa, gắn bó dài lâu giữa họ thì lại có một mức độ cao hơn, lý do được đưa ra ở
đây, đó là do tình cảm của mối quan hệ cá nhân và mối quan hệ công việc là luôn bện vào nhau.
Để minh họa rõ nét hơn, bạn hãy xem xét một tình huống sau: Sếp của bạn yêu cầu bạn
đến nhà của bà ấy để giúp bà ấy sơn sửa lại ngôi nhà. Bạn không muốn đến để làm công việc này
vì bạn rất ghét sơn. Bạn có từ chối hay không? Hơn 90% người ở Hà Lan và Thụy Điển trả lời là
họ từ chối, nhưng ngược lại thì chỉ 32% người ở Trung Quốc, 46% người ở Nigêria là từ chối, và
ở Mỹ là 82% người từ chối.
Thứ năm: Khuynh hướng vươn cao – khuynh hướng đổ lỗi
Thước đo giá trị thứ năm về sự khác nhau giữa các nền văn hoá, đó là sự nhấn mạnh đến
khuynh hướng vươn cao để đạt được và khuynh hướng đổ lỗi, viện cớ. Nền văn hoá của một số
quốc gia thì mọi người có khuynh hướng muốn vươn lên để đạt được những địa vị cấp bậc cao,
dựa vào sự vận động của chính bản thân, sự hoàn thành nhiệm vụ của chính mình, nhưng ngược
lại ở một số nền văn hoá khác thì người ta thường chú trọng nhiều đến thân thế và địa vị uy thế,
thì người ta có xu hướng né tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho những đặc điểm như tuổi tác, giới tính,
dòng dõi quý tộc hoặc gia đình quyền quý. “Bạn biết ai?” (văn hoá đổ lỗi, né tránh trách nhiệm,
nhờ vả) đối lập với “Bạn có thể làm gì?” (Văn hoá vươn lên bằng khả năng bản thân).
Qua hai điều đã nêu như trên thì chúng ta cũng đã hình dung được sự khác nhau giữa hai
nền văn hoá. Để rõ hơn ta đi sâu vào tình huống sau: Điều quan trọng là hành động theo cách bạn
cho là thích hợp với lòng tin của chính mình, thậm chí bạn không hoàn thành nhiệm vụ đi chăng
nữa. Chỉ 10% các nhà quản trị ở Uruguay, 12% từ Achentina, 13% từ Tây Ban Nha là không
đồng ý với với tình huống này, ngược lại 77% người NaUy và 75% các nhà quản trị Mỹ là đồng
ý.
Chương 1: Tự nhận thức - 13

Thứ sáu: Hiện tại - tương lai


Thước đo giá trị thứ sáu liên quan đến cách làm thế nào mà mọi người thể hiện/hiểu và
quản trị thời gian. Nó phân biệt sự nhấn mạnh đến những hoàn cảnh trong quá khứ, hiện tại hoặc
trong tương lai ở các nền văn hoá khác nhau. Chẳng hạn, ở một vài nền văn hoá, thì người ta
thường chú trọng đến giá trị quá khứ và truyền thống hơn là tương lai; ở những nền văn hóa khác
chú trọng đến giá trị tương lai hơn là quá khứ. Bạn đã từng có những vấn đề gì trong quá khứ,
trong khi đó ở một vài nền văn hoá khác thì người ta lại thường đặt câu hỏi bạn có thể làm được
gì, đi đến đâu trong tương lai. Đồng thời cũng tồn tại một tầm nhận thức trong ngắn hạn và trong
dài hạn. Ví dụ một vài người là thường có khuynh hướng chính đến những sự nhận thức trong
một thời gian ngắn, tức họ luôn nghĩ trong một giới hạn của phút và giờ, trong khi đó những
người khác thì lại có nhận thức về những khoản thời gian dài, xa hơn tức họ luôn nghĩ về một
khoảng thời gian mà được tính bằng tháng hoặc năm.
Thứ bảy: Kiểm soát bên trong và bên ngoài
Một số người thì cho rằng những cá nhân trong việc kiểm soát số phận của mình thì chịu
sự kiểm soát của những lực lượng siêu nhiên nào đó ở bên ngoài (kiểm soát bên ngoài). Trong
khi nhiều người khác thì nhấn mạnh đến quản trị chính bản thân mình và điều khiển, kiểm soát
chính mình (kiểm soát bên trong).
Hai trường hợp sau đây được đưa ra minh hoạ nhằm làm rõ sự khác nhau giữa hai quan
điểm này: (1) Những điều xảy ra đối với tôi phụ thuộc vào những điều tôi đã và đang làm, (2)
Thỉnh thoảng tôi cảm nhận rằng tôi không có đủ sức kiểm soát đối với những điều xảy ra trong
cuộc đời của tôi. Và đây là kết quả: hơn 80% các nhà quản trị ở Uruguay, Na-Uy, Ixrael và Mỹ
đồng ý với quan điểm thứ nhất, nhưng ngược lại chỉ dưới 40% các nhà quản trị ở Venezuela,
Trung Quốc và Nê Pan thì cùng đồng ý với quan điểm thứ nhất này.
Xuyên suốt cuốn sách này, những sự khác biệt của những nền văn hoá khác nhau luôn được
lặp lại để các bạn có thể nắm rõ hơn về những sự khác nhau này. Chúng tôi khuyến khích bạn vận
dụng những điểm khác biệt này để gia tăng sự nhận thức của bạn về những sự khác nhau về nền
văn hoá của mỗi cá nhân xung quanh các bạn. Bởi vì hầu như mỗi nhà quản trị của chúng ta sẽ
phải đối mặt với những cơ hội để tương tác với các cá nhân quản trị khác đến từ những nền văn
hoá khác nhau, nhất thiết cần phải có sự nhận thức về những giá trị khác nhau này và chỉ có nắm
vững sự khác biệt của những nền văn hoá, thì chúng ta mới có thể chẩn đoán và quản trị những sự
khác nhau đó. Điều này được xem như là một điều kiện tiên quyết, quan trọng cho sự thành công
trong thời đại mới, thế kỷ mới, thế kỷ 21. Đối với những người, xuất phát từ một nền văn hoá
giống nhau, thường có một sự rập khuôn về giá trị nhận thức, hoặc có một xu hướng, khuynh
hướng khá giống nhau. Và đây là những điều mà chúng ta có thể suy ra và nhận thấy một cách
gián tiếp đối với những cá nhân này, tuy nhiên nó có thể sẽ dẫn đến một sự nguy hiểm hoặc cũng
có thể là một sự sai lệch. Không ai trong chúng ta có thể phân loại hoặc sắp xếp một cách chính
xác, rõ rệt về những sự khác nhau này dựa trên một dữ liệu tổng quát về tất cả các quốc gia.
14 – Chương 1: Tự nhận thức

Những thước đo được trình bày trên đây, được xem là rõ ràng nhất và rất hữu dụng cho việc hoàn
thiện độ nhạy và hỗ trợ cho các bạn rất nhiều trong việc chẩn đoán hơn là việc các bạn phải tiến
hành đánh giá, sắp xếp từng người vào chung một loại hay nhóm nào đó.
Cũng như các quốc gia, các tổ chức cũng có riêng cho mình một hệ thống giá trị đặc thù,
được gọi là giá trị của tổ chức (Organizational Value). Một cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng các
nhân viên trong cùng một tổ chức thường có một sự đồng dạng về các giá trị mà tổ chức đó sở
hữu, giá trị của một tổ chức là cái mà do chính tổ chức đó tạo ra và những người trong tổ chức đó
cảm thấy hài lòng về chúng. Tuy nhiên, các giá trị mà mỗi cá nhân sở hữu có thể là mâu thuẫn
với những giá trị của tổ chức đó, và đó cũng chính là nguồn gốc gây ra sự thất vọng và động lực
làm việc của mỗi thành viên, từ đó các cuộc xung đột có thể diễn ra và có thể dẫn đến sự giảm
năng suất làm việc ở những thành viên đó. Nhận thức về những ưu thế và giá trị mà bạn đang sở
hữu, về những giá trị của tổ chức, và những giá trị của chính đất nước của bạn, là một công việc
được xem là rất quan trọng nếu bạn muốn đạt được một sự tương thích giữa công việc và một
nghề nghiệp lâu dài của bạn. Nhưng cuốn sách này không tập trung vào bàn luận vấn đề giá trị
của tổ chức.
Giá trị cá nhân
Rokech (1973) khẳng định rằng con người có một số lượng không lớn các giá trị và tất cả
các cá nhân đều có những giá trị như nhau, nhưng ở những mức độ khác nhau, chẳng hạn mọi
người đều có giá trị hòa bình nhưng một số người thì cho nó có giá trị ưu tiên cao hơn những
người khác. Nói chung theo Rokech có hai loại giá trị và mỗi loại đều có tính độc lập ưu tiên
riêng của mình (hai tập hợp giá trị này không liên quan nhau). Một loại là giá trị phương tiện và
một loại là giá trị mục tiêu cuối cùng hoặc là định hướng mục tiêu.
Giá trị phương tiện mô tả những tiêu chuẩn mong muốn về tư chất đạo đức hoặc phương
pháp để đạt được mục đích. Hai loại của giá trị phương tiện liên quan đến đạo đức và khả năng
thực hiện công việc. Những giá trị phi đạo lý (chẳng hạn hành vi sai trái) gây ra cảm giác tội lỗi,
trong khi những giá trị thiếu khả năng thực hiện công việc (chẳng hạn hành vi bất tài, sự thiếu
hiểu biết) gây ra cảm giác xấu hỗ.
Giá trị mục đích mô tả mục đích hoặc mục tiêu mong muốn cuối cùng của cá nhân. Theo
Rokech thì số giá trị mục đích có ít hơn số giá trị phương tiện, cho nên toàn bộ cá nhân trong tất
cả các xã hội đều có thể nhận biết được. Giá trị mục đích có thể là chú trọng vào cá nhân hoặc xã
hội (chẳng hạn sự bình yên của bản thân hoặc là một thế giới hòa bình). Rokech đã tìm thấy một
sự gia tăng về quyền ưu tiên của một xu hướng giá trị cá nhân cao làm gia tăng sự ưu tiên về giá
trị cá nhân và giảm ưu tiên của giá trị xã hội. Ngược lại, một sự gia tăng về quyền ưu tiên của xu
hướng xã hội cao làm gia tăng sự ưu tiên của những giá trị xã hội và làm giảm những giá trị cá
nhân. Những cá nhân mà gia tăng sự ưu tiên của họ về một thế giới hòa bình cũng sẽ gia tăng sự
ưu tiên của họ về sự công bằng trong khi đó sẽ làm giảm sự ưu tiên của họ về niềm vui thích của
mình hoặc lòng tự trọng. Con người có xu hướng khác nhau trong đánh giá, họ tự nhận thức
Chương 1: Tự nhận thức - 15

chống lại khuynh hướng của người khác về những giá trị của mình. Biểu 1.1 đưa ra 18 giá trị mục
đích - “những giá trị quan trọng nhất trong xã hội Hoa Kỳ”.
Biểu 1.1: Những giá trị mục đích và phương tiện
NHỮNG GIÁ TRỊ MỤC ĐÍCH NHỮNG GIÁ TRỊ PHƯƠNG TIỆN
1. Một cuộc sống tiện nghi (thịnh vượng) 1. Tham vọng (làm việc chăm chỉ, khao
khát)
2. Một cuộc sống thú vị (hành động, hào 2. Cao thượng (có tư tưởng rộng rãi,
hứng) khoáng đạt)
3. Một ý thức về sự hoàn thành nhiệm vụ (sự 3. Khả năng (năng lực, hiệu quả)
đóng góp lâu dài)
4. Một thế giới hòa bình (không chiến tranh 4. Đấu tranh
và xung đột)
5. Một thế giới xinh đẹp (sự xinh đẹp của 5. Sạch sẽ (gọn gàng, ngăn nắp)
thiên nhiên và nghệ thuật)
6. Công bằng (tình huynh đệ, cơ hội công 6. Can đảm (đứng lên vì lòng tin của mình)
bằng cho tất cả mọi người)
7. Một gia đình an toàn (tình yêu đối với 7. Khoan dung (sẵn sàng tha thứ cho người
người khác) khác)
8. Tự do (độc lập, tự do lựa chọn) 8. Giúp đỡ (làm việc vì hạnh phúc của
người khác)
9. Hạnh phúc 9. Trung thực (chân thành, thật thà)
10. Cân đối bên trong (thoát khỏi những xung 10. Giàu trí tưởng tượng (táo bạo, sáng tạo)
đột bên trong)
11. Một tình yêu thật sự (cả về tinh thần và thể 11. Độc lập (tự tin và có đủ khả năng)
xác)
12. An ninh quốc gia (bảo vệ không bị tấn 12. Trí tuệ (thông minh, biết suy nghĩ)
công)
13. Ước mơ (một cuộc sống thú vị và ung 13. Lô gíc, hợp lý (kiên định, có lý trí)
dung)
14. Sự cứu tế (làm việc thiện, cứu giúp) 14. Đằm thắm (sự trìu mến, tế nhị)
15. Tự trọng (tự hào) 15. Biết vâng lời (ý thức chấp hành nhiệm
vụ, kính trọng)
16. Sự thừa nhận của xã hội (sự kính trọng, sự 16. Lịch sự (nhã nhặn, lịch thiệp)
khâm phục)
17. Tình bạn chân thành (tình bạn thân thiết) 17. Trách nhiệm (đáng tin cậy, có thể tin
được)

18. Sự thông thái (một sự hiểu biết đầy đủ về 18. Tự kiểm soát (kiềm chế được, tự chịu kỷ
cuộc sống) luật)
Trong một nghiên cứu 567 nhà quản trị ở 12 quốc gia, những nhà quản trị có lòng tự hào
cao nhất về những giá trị phương tiện như khoáng đạt (có tư tưởng rộng rãi), năng lực, và can
đảm, nhưng ý nghĩa là khác nhau ở các quốc gia khác nhau.
16 – Chương 1: Tự nhận thức

Trong một nghiên cứu 1460 nhà quản trị Hoa Kỳ, Schmidt và Posner đã xác định những
loại giá trị quan trọng nhất ở nơi làm việc. Sử dụng những giá trị phương tiện mà Rokeach đã đưa
ra trong biểu 1.1, để nhận diện những giá trị mong muốn nhất của các nhà quản trị ở nơi làm việc
là trách nhiệm và trung thực/chân thành được xác định là quan trọng nhất (hơn 85% nhà quản trị
đã lựa chọn chúng), sau đó 65% là năng lực và 55% là giàu trí tưởng tượng, logic là 49%. Ý thức
chấp hành nhiệm vụ, sạch sẽ, lịch sự, và lòng khoan dung là ít quan trọng - chỉ chiếm 10%.
Các nhóm khác nhau có xu hướng nắm giữ những giá trị khác nhau. Chẳng hạn, trong một
nghiên cứu khác, những sinh viên và các giáo sư ở các trường kinh doanh có xu hướng cao về
tham vọng, năng lực, trách nhiệm và tự do hơn so với những nhóm khác. Họ có xu hướng ít coi
trọng việc quan tâm và giúp đỡ người khác, khiếu thẩm mỹ và những giá trị văn hóa, và khôi
phục sự không công bằng xã hội. Trong một nghiên cứu khác đã so sánh những nhà quản trị
thành công cao, bình thường và thất bại, những nhà quản trị thành công cao có điểm số cao về giá
trị kinh tế (như là cuộc sống tiện nghi) và quyền lực (như là sự thừa nhận của xã hội) so với
những nhà quản trị kém thành công.
Một so sánh chung trong công chúng, về căn bản những nhà quản trị đã sắp xếp giá trị
hơn về ý thức hoàn thành nhiệm vụ, lòng tự trọng, một cuộc sống tiện nghi, và độc lập. Giá trị
phương tiện mà những nhà quản trị nắm giữ cao nhất trong bản thân họ là tham vọng. Giá trị mục
đích cuối cùng cao nhất mà họ sở hữu là ý thức hoàn thành nhiệm vụ. Những giá trị cá nhân (giá
trị cá nhân chứ không phải là giá trị xã hội) đối với các nhà quản trị định hướng sự thành đạt là
trội hơn hẳn. Nói chung trong công chúng, một nghiên cứu đã xác định rằng sự chân thành – một
sự phối hợp nhấn mạnh khả năng về lòng khoan dung, giàu trí tưởng tượng, tự do và tự điều
khiển mình đối lập với sự nhấn mạnh về sự chấp nhận, sự vâng lời, và sự tuân thủ là giá trị ngự
trị trong số đông chúng ta. Không có sự khác nhau về giới tính đã được xác định trong nghiên
cứu của Rokech (1995).
Trình bày những giá trị này có thể giải thích tại sao những sinh viên kinh doanh và thậm
chí tự thân các nhà quản trị đã phê phán bản thân mình trở nên quá tập trung vào bản thân và
không kiên trì về sự thành đạt cá nhân và sự tiến bộ. Một sự cân bằng về những giá trị cá nhân và
giá trị xã hội, cũng như sự công bằng và giúp đỡ có thể là những đặc điểm thích hợp hơn cho nhà
quản trị trong tương lai.
Những giá trị định hướng cá nhân và thành tích không có nghĩa đảm bảo trở thành những
nhà quản trị thành công. Tuy nhiên, rõ ràng rằng những giá trị gây ảnh hưởng đến hành vi cá
nhân, cũng như khả năng tương hợp về những giá trị phương tiện và mục đích được nghiên cứu
khẳng định là có mối quan hệ mật thiết với hiệu quả làm việc nhóm. Một số tác giả đã tranh cãi
rằng, hành vi được thể hiện bởi cá nhân là sản phẩm về mức độ trưởng thành về những giá trị của
họ. Các cá nhân khác nhau về mức độ phát triển giá trị của họ, vì thế các cá nhân nắm giữ những
giá trị phương tiện khác nhau ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Con người tiến bộ từ mức
độ trưởng thành này đến mức độ trưởng thành khác, vì thế thứ tự ưu tiên các giá trị cũng sẽ thay
Chương 1: Tự nhận thức - 17

đổi. Những cá nhân tiến bộ về mức độ trưởng thành hơn về sự phát triển giá trị sở hữu những giá
trị phương tiện chất lượng cao hơn những cá nhân ở mức độ trưởng thành thấp. Lý thuyết trưởng
thành về những giá trị (values maurity) hoặc phát triển đạo đức, phẩm hạnh được các nhà nghiên
cứu chấp nhận và một nghiên cứu đã xác định có quan hệ mật thiết với sự tự nhận thức và hiệu
quả quản trị. Vì vậy, chúng ta nên bàn bạc một vài chi tiết về vấn đề trưởng thành giá trị.
Trưởng thành về giá trị
Mô hình của Kohlberg được biết đến và được vận dụng phổ biến trong các nghiên cứu
trưởng thành về giá trị. Nó tập trung vào các loại lý do được sử dụng để đưa ra kết luận về một
vấn đề mà có ý nghĩa giá trị hoặc đạo đức. Mô hình gồm ba cấp độ chủ yếu, trong mỗi cấp độ có
hai giai đoạn. Biểu 1.2 tóm tắt những đặc điểm của mỗi giai đoạn. Các giai đoạn là một dãy liên
tục, tức là một cá nhân không thể tiến đến giai đoạn ba mà không qua giai đoạn hai, và mỗi giai
đoạn giới thiệu một mức độ cao hơn của sự trưởng thành. Kohlberg sử dụng các thuật ngữ Tập
trung vào bản thân (Preconventional), Tuân thủ (Conventional), và Nguyên tắc hoá
(Postconventional).

Biểu 1.2: Phân loại các giai đoạn phát triển của đạo đức

Các cấp độ căn bản về vấn đề đạo đức Giai đoạn phát triển

A. Cấp độ tập trung vào bản thân 1. Sự trừng phạt và tuân thủ
Giá trị đạo đức tập trung vào những Điều đúng được xác định bởi tránh được sự trừng
nhân tố bên ngoài và hậu quả, không phạt hoặc không phá bỏ những quy tắc quyền lực.
liên quan đến con người và các mối 2. Mục tiêu phương tiện cá nhân và sự trao đổi
quan hệ.
Điều đúng thỏa mãn ngay lập tức những lợi ích của
bản thân, và điều gì là công bằng và không thiên vị
đối với người khác

B. Cấp độ thừa nhận 3. Những kỳ vọng trưởng thành cá nhân, các mối
Giá trị đạo đức tập trung vào trách quan hệ và sự tuân theo
nhiệm, bổn phận, duy trì một sự liên Điều đúng được tập trung vào cảm nhận của người
kết xã hội và đảm bảo các cam kết khác và duy trì sự trung thực bằng những kỳ vọng
và những cam kết. Những quy tắc xử sự đúng mực
là hợp lý.
4. Hệ thống xã hội và gìn giữ lương tâm
Điều đúng là thực hiện trách nhiệm xã hội và ủng
hộ quy tắc thứ bậc xã hội
18 – Chương 1: Tự nhận thức

C. Giá trị được nguyên tắc hóa 5. Sự hợp lý ưu tiên và cam kết xã hội hoặc tính
Các giá trị đạo đức hàm chứa trong thiết thực
cam kết lựa chọn một cách tự do về Điều đúng ủng hộ sự hợp lẽ phải, những giá trị, và
các tiêu chuẩn, quyền lợi và nghĩa vụ. cam kết với người khác trong xã hội, hành vi đạo
đức là sự lựa chọn một cách tự do.
6. Những nguyên tắc đạo đức chung
Điều đúng được dẫn dắt bởi những nguyên tắc đạo
đức chung và bên trong. Để bảo đảm thực thi theo
những nguyên tắc này, con người lờ đi pháp luật,
không để ý đến nó.

Cấp độ đầu tiên của sự trưởng thành là cấp độ tập trung vào bản thân (self-centered
level), gồm hai giai đoạn đầu tiên về phát triển giá trị. Những lý lẽ về đạo đức và những giá trị
phương tiện được dựa trên cơ sở của những nhu cầu hoặc mong muốn cá nhân và dựa trên hậu
quả của một hành động. Đôi khi được xem là hợp lý hoặc tốt nếu nó giúp cá nhân đạt được phần
thưởng hoặc tránh sự trừng phạt và nếu hậu quả là không ảnh hưởng xấu đến người khác. Theo
mức độ tập trung vào bản thân, ăn cắp 50.000.000 đồng là xấu hơn ăn cắp 50.000 đồng vì hậu
quả là ảnh hưởng khác nhau đến người khác.
Cấp độ hai là cấp độ tuân thủ, gồm giai đoạn 3 và 4. Sự hợp đạo lý đựa trên cơ sở tuân
theo và tán thành những thông lệ và những kỳ vọng của xã hội. Cấp độ này đôi khi được xem như
là cấp độ của pháp luật và mệnh lệnh bởi vì nhắm vào những thông lệ của pháp luật hoặc các
chuẩn mực. Sự hợp lý và không hợp lý được đánh giá dựa trên cơ sở lựa chọn những hành vi phù
hợp hay không phù hợp theo các quy tắc pháp luật và đạo lý xã hội. Lòng tự trọng của con người
dựa trên cơ sở tuân lệnh là một phần thưởng được đánh giá cao. Ở cấp độ này ăn cắp 50 triệu và
ăn cắp 50 ngàn là sai trái như nhau, bởi vì cả hai đều vi phạm pháp luật. Hầu hết, những người
trưởng thành tại Mỹ hành động ở mức độ này của sự trưởng thành về các giá trị.
Cấp độ ba, là cấp độ được nguyên tắc hóa (principbled level). Gồm có hai giai đoạn cuối
của sự trưởng thành và giới thiệu mức độ trưởng thành nhất về sự hợp đạo lý và những sự thuần
thục nhất về giá trị phương tiện. Điều hợp lý và sai trái được đánh giá dựa trên cơ sở những
nguyên tắc thuộc về bản chất bên trong của cá nhân. Những ý kiến được đưa ra dựa trên cơ sở tập
hợp các nguyên tắc hoặc những giá trị cốt lõi mà được phát triển từ sự trải nghiệm của cá nhân.
Trong giai đoạn cao nhất của sự trưởng thành, tập hợp các nguyên tắc này là bao hàm tính toàn
diện (nó kiểm soát tất cả các sự kiện có thể xảy ra), kiên định (không bao giờ vi phạm), và phổ
biến/ảnh hưởng đến tất cả mọi người (nó không thay đổi theo tình huống hoặc hoàn cảnh). Vì thế,
ăn cắp 50 triệu hay 50 ngàn đồng đều được xem là sai trái, nhưng cơ bản không phải là vi phạm
pháp luật hay các quy tắc mà nó vi phạm tập hợp những nguyên tắc bên trong của bản thân về
Chương 1: Tự nhận thức - 19

bao hàm toàn diện, kiên định và phổ biến. Theo Kohlberg, một vài cá nhân thì mức độ cao nhất
của sự trưởng thành trên cơ sở kiên định (nhất quán).
Những cá nhân tập trung vào bản thân (cấp độ 1) coi quy tắc và luật pháp như những thứ
ở bên ngoài bản thân họ, nhưng họ tuân theo bởi vì, làm như thế họ có thể đạt được phần thưởng
hoặc tránh sự trừng phạt. Những cá nhân tuân theo xem luật pháp và các quy tắc như ở bên ngoài
họ, nhưng họ tuân thủ bởi vì họ được học và chấp nhận những quy tắc và pháp luật này, và họ tìm
thấy một lòng tự trọng đối với người khác. Những cá nhân dựa theo nguyên tắc hóa xem xét quy
tắc và pháp luật, và phát triển một bộ những nguyên tắc cho bản thân mình mà họ tin là hợp đạo
lý. Nếu có một sự lựa chọn giữa tuân thủ pháp luật hay tuân thủ nguyên tắc bản thân, họ chọn
nguyên tắc. Những nguyên tắc thuộc về bản chất bên trong thay thế những quy tắc và pháp luật
đối với những cá nhân dựa trên nguyên tắc hóa.
Để hiểu mức độ khác biệt về sự trưởng thành giá trị, hãy xem xét câu chuyện dưới đây, do
Kohlberg đưa ra (1969):
Ở Châu Âu một phụ nữ sắp chết vì căn bệnh ung thư. Có một loại thuốc mà bác sĩ nghĩ có
thể cứu được bà ta, được tạo ra từ radium mà một dược sĩ trong cùng thành phố vừa phát hiện
ra. Loại thuốc được làm ra khá đắt đỏ, người dược sĩ đã tăng giá lên gấp 10 lần so với chi phí
thuốc được tạo ra. Ông chi phí 200 USD cho lượng radium và tính giá 2000 USD cho mỗi lần
phóng xạ một lượng thuốc nhỏ. Heinz, người chồng của bệnh nhân, đến tất cả mọi người mà anh
ta quen biết để mượn tiền, nhưng anh ta cũng chỉ mượn được 1000 USD. Ông ta nói với người
dược sĩ rằng vợ của ông đang sắp chết và cầu xin dược sĩ bán với một mức giá thấp hơn, hoặc
cho phép trả sau. Nhưng người dược sĩ nói: “Không, tôi đã phát hiện được loại thuốc và tôi đang
kiếm tiền từ nó”. Vì thế, Heinz cảm thấy tuyệt vọng và bắt đầu suy nghĩ về việc đột nhập cửa
hàng để ăn cắp thuốc cho vợ của mình.
Bây giờ hãy trả lời những câu hỏi sau:
Yes No Câu hỏi
___ ___ 1. Heinz đột nhập vào cửa hàng có là sai trái không?
___ ___ 2. Người dược sĩ có làm đúng không khi tính giá thuốc?
___ ___ 3. Heinz có bị bắt buộc khi ăn cắp thuốc cho vợ của mình không?
___ ___ 4. Nếu Heinz và vợ mình không yêu thương nhau, Heinz có ăn cắp thuốc cho cô ấy
không?
___ ___ 5. Giả sử người bạn tốt nhất của Heinz đang sắp chết vì căn bệnh ung thư, Heinz có
ăn cắp thuốc cho người bạn này không?
___ ___ 6. Giả sử người sắp chết không là người thân của Heinz, Heinz có ăn cắp thuốc
không?
20 – Chương 1: Tự nhận thức

___ ___ 7. Giả sử Heinz đọc được trên báo về một người phụ nữ sắp chết vì căn bệnh ung
thư, anh ta có đi ăn cắp thuốc cho cô ấy không?
___ ___ 8. Bạn có ăn cắp thuốc để cứu cuộc sống của chính mình không?
___ ___ 9. Giả sử Heinz bị bắt và mang ra tòa xét xử, anh ta có bị bỏ tù không?
Đối với những cá nhân mức độ tập trung vào bản thân về sự trưởng thành, ăn cắp thuốc là
có lý do chính đáng bởi vì vợ của anh Heinz có những giá trị phương tiện: cô ta có thể có một
tình yêu thương, một hậu phương vững chắc cho các con, và vân vân. Nhưng với một người lạ,
không có những giá trị phương tiện giống Heinz, vì thế hành vi ăn cắp thuốc được xem là sai trái
đối với người lạ. Những cá nhân ở giai đoạn tuân theo, sự xem xét của họ dựa trên sự thân thiện
của các mối quan hệ và trên luật pháp và quyền hành. Heinz có một sự bắt buộc để ăn cắp thuốc
cho các thành viên cho gia đình, theo lý do chính đáng này, nhưng là không hợp lý đối với những
thành viên ở ngoài gia đình. Một nguyên tắc của chính phủ là chọn hoặc không chọn một hành
động là chống đối lại pháp luật (hoặc những kỳ vọng của xã hội).
Đối với những cá nhân dựa trên nguyên tắc hóa (Principbled level), những ý kiến của họ
dựa trên cơ sở một tập hợp các quy tắc về tính toàn diện, phổ biến, và nhất quán. Bất luận câu trả
lời của họ thế nào, lý do của họ đều dựa trên cơ sở của những nguyên tắc ở bên trong bản thân
họ, không áp đặt những tiêu chuẩn bên ngoài hoặc những kỳ vọng. (Họ cảm thấy một sự bắt buộc
phải ăn cắp thuốc cho một ai đó bởi vì họ đánh giá cuộc sống của con người cao hơn tài sản).
Nghiên cứu một cách kỹ lưỡng mô hình của Kohlberg về sự phát triển của giá trị thì
chúng ta sẽ thấy được những điều thú vị, và phát triển của giá trị có liên quan mật thiết đến
những hành vi của hoạt động quản trị. Một thí nghiệm khác của Milgram đã trực tiếp gia tăng các
cú sốc điện ngày càng mãnh liệt đối với một số người thử nghiệm, và họ phải chứng kiến những
cảnh tang tóc thảm khốc. Và những người được đưa ra thử nghiệm đó là đang ở cấp độ dựa trên
những nguyên tắc của bản thân (cấp độ cuối, ở giai đoạn 5 và 6), thì có 75% ý kiến là từ chối việc
phải chứng kiến những cú sốc lớn đó (ví dụ như: gây ra một nỗi đau đớn đối với những người
khác), trong khi chỉ có 12.5% từ chối là những người đang ở cấp độ 2. Ở cấp độ càng cao của quá
trình phát triển giá trị thì ta thấy nổi bật lên một điều, đó là sự gắn kết của các hành vi con người
mang tính nhân đạo đối với những người khác là càng chặt chẽ.
Carol Gilligan (1988) đã chỉ trích mô hình Kohlberg hàm chứa một thành kiến giới tính.
Trong những cuộc nghiên cứu của bà về tình trạng khó xử về đạo đức của phụ nữ, Gilligan đã
nhận định rằng những người phụ nữ thường có khuynh hướng hướng đến một sự thận trọng đối
với những giá trị, những mối quan hệ thân thiết và một sự tận tâm cao hơn so với nam giới. Mô
hình Kohlberg có khuynh hướng nhấn mạnh tới một phẩm chất công bằng và coi đó như là một
giá trị hợp đạo đức nhất. Đây là một mô hình được xem là thích hợp hơn đối với tâm lý của nam
giới hơn là nữ giới, một nhà nghiên cứu đã phàn nàn về mô hình đó như vậy. Bên cạnh đó vẫn có
nhiều tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu xung quanh mô hình này.
Chương 1: Tự nhận thức - 21

Để trưởng thành hơn trong quá trình phát triển giá trị, đòi hỏi các cá nhân cần phải phát
triển một tập hợp các nguyên tắc hoàn toàn thuộc về bản chất bên trong của mình, mà chúng có
thể chi phối những hành vi của mình. Sự phát triển những nguyên tắc này được nâng cao thì sự
trưởng thành về giá trị cũng được tăng lên giống như những vấn đề cơ bản của giá trị là không dễ
chịu, bị tranh cãi và bị cho qua. Như Likona đã nhận xét: “Đơn giản sự gia tăng về giao tiếp
tương hỗ xuất hiện giữa con người là đặc trưng để gia tăng sự phát triển đạo đức”
Để giúp các bạn xác định rõ các bạn đang sở hữu một mức độ nào trong số ba mức độ trên
của sự thành thục về giá trị, một công cụ được phát triển bởi James Rest ở cuộc nghiên cứu của
Đại Học Minnesota Moral được thể hiện rõ ở “Phần Đánh Giá”. Nó được sử dụng một cách rộng
rãi trong các cuộc nghiên cứu bởi vì nó là rất dễ dàng để có thể tiến hành hơn là phương pháp
đánh giá sự thành thục của Kohlberg. Kohlberg (1976) cũng đã cho rằng: “Cách tiếp cận của Rest
đã cung cấp cho chúng ta một sự đánh giá một cách cụ thể và rõ ràng để mọi người có thể áp
dụng nhằm xem xét về mức độ trưởng thành về giá trị của mỗi cá nhân”. Hơn nữa, nó có thể cung
cấp thông tin về việc xếp một người nào đó là đang đứng ở một cấp độ nào của sự trưởng thành
về giá trị, nó còn xác định được thứ tự giai đoạn mà mỗi cá nhân đang sở hữu một cách chính xác
nhất. Tuy nhiên, nó cũng thừa nhận rằng sẽ có kết quả là cùng một cá nhân có thể được sắp xếp ở
hơn một cấp độ về sự trưởng thành của giá trị (tức giống với sự sở hữu cá nhân về các giá trị
phương tiện), nhưng điều đó sẽ được khắc phục bằng cách chúng ta chỉ xét ở một cấp độ được
xem là trội hơn hẳn các cấp độ khác. Bằng việc xác định một cách đầy đủ về giá trị phương tiện
này của mình, bạn sẽ xác định được cấp độ trội nhất về sự trưởng thành giá trị của mình.
Nghiên cứu mô hình về sự phát triển giá trị của Kohlberg đã khám phá ra rằng sự phát
triển các giá trị có mối quan hệ với các hành vi quản trị. Vì thế, để trở nên trưởng thành hơn trong
sự phát triển các giá trị, đòi hỏi các cá nhân phát triển một tập hợp các giá trị hoàn toàn thuộc về
bản chất bên trong, nhờ thế có thể khống chế những hành vi của mình. Bằng cách hoàn thiện
những phương tiện này bạn sẽ nhận diện được mức độ ngự trị ở bản thân về sự trưởng thành của
các giá trị. Để xác định cấp độ trưởng thành của bạn, phụ thuộc vào kết quả hướng dẫn ở phần
phụ lục trắc nghiệm. Bài tập trong phần thực hành quản trị giúp bạn phát triển và xác định những
nguyên tắc ở giai đoạn 5 và 6 về mức độ của sự phát triển giá trị.
Ra quyết định đạo đức và giá trị
Lợi ích của việc tự hiểu mình, tự nhận thức là rất quan trọng để giúp bạn có thể trưởng
thành hơn trong việc nâng cao khả năng đưa ra các quyết định có tính đạo đức cao dựa trên
những giá trị của chính mình.
Hầu hết các nhà quản trị đều bị một sức ép nặng nề trong việc dàn xếp một sự thoả hiệp
giữa các tiêu chuẩn của cá nhân với mục tiêu của công ty, bởi rất là khó để có được cả hai. Hãy
xem những tình huống thực tế sau đây về những điều xảy ra và cố gắng suy nghĩ kỹ về nó. Bạn sẽ
trả lời như thế nào? Tại Sao?
22 – Chương 1: Tự nhận thức

Dale Monson, một nhà quản trị cấp cao của Tập đoàn Viễn Thông vệ tinh, đang đi đến
văn phòng của Al Lake, một trụ sở kiểm tra chất lượng. Dale mang theo một bộ phận thiết bị
dùng để lắp ráp vào tàu của khách hàng ở West Coat. Dale trao nó cho Al cái thiết bị này và nói
rằng:
“Nhìn này, cái bộ phận thiết bị này là một bộ phận điện tử hoàn hảo, nhưng rất là tiếc là
nó lại tồn tại một lỗ đục tròn nhỏ bên trong nó. Tôi đã chứng kiến cảnh các kỹ sư đã xem
xét nó và nói rằng những biểu hiện bên ngoài của nó có thể là không ảnh hưởng đến hình
dạng, giá trị và chức năng của nó. Nhà Marketing thì lại nói với khách hàng là họ không
có gì để lo ngại cả bởi vì họ vừa mới hoàn thiện xong những cái lộn xộn bên trong nó.
Chúng ta thì lại không thể sửa lại cái khuyết điểm đó, vì nó sẽ phải mất đến 75000USD để
có thể làm lại những cái mới. Chúng ta mới chỉ sản xuất ra 23 cái và tất cả đã hoàn
thành. Nó sẽ được lắp hết vào những con tàu của những khách hàng vào cuối tuần”. Al
trả lời: “Vậy thì ngài muốn gì ở tôi?”. “Ngừng ngay bây giờ, thì chúng ta mới có thể
hướng đến tương lai và tiếp tực phát triển được”, Dale nói “Kể từ khi anh là một người
cần cho việc chứng thực chất lượng sản phẩm là có thể chấp nhận được, tôi nghĩ nó sẽ tốt
hơn để nhận được một sự chân thật bây giờ hơn là đợi đến phút cuối khi đã hoàn thành
việc lắp ráp vào con tàu ”
Vậy thì theo các bạn thì sao, nếu là bạn thì bạn có đồng ý để gắn thiết bị đó lên tàu
không? Hãy thảo luận với nhóm của bạn. Và sau đó tổng hợp lại những lý do trên một tờ giấy.
Qua trường hợp minh họa trên tồn tại một sự mâu thuẫn về giá trị mà các nhà quản trị
buộc phải đối mặt nhiều lần. Đó là một sự mâu thuẫn giữa một bên là cực đại hoá lợi nhuận cho
tổ chức (ví dụ: doanh thu, chi phí, lợi nhuận,…), với một bên là sự tuân thủ các nguyên tắc của xã
hội, của tổ chức (ví dụ: trách nhiệm đối với người lao động, công nhân, nhà cung cấp, khách
hàng…). Biện pháp tốt nhất để tiến hành thực hiện được cả hai mục đích đó là cần đi đến một sự
thoả hiệp có tính đạo đức giữa hai điều này: mục tiêu kinh tế đối lập với mục tiêu xã hội. Để đưa
ra những quyết định loại này một cách có hiệu quả, không phải chỉ đơn thuần là chúng ta chọn
một trong hai, giữa đúng và sai, giữa tốt và xấu. Những cá nhân có thể đưa ra những loại quyết
định quản trị loại này hiệu quả, là bởi vì họ là những người có được một ý thức trong sạch, rõ
ràng đối với những giá trị của mình và họ là những người có thể phát triển một nguyên tắc đạo
đức đúng đắn và thành thục. Họ có một sự phát biểu rõ ràng và dễ hiểu về bản chất của chính
mình, họ sở hữu những giá trị như: sự hiểu biết, sự nhận thức, sự lĩnh hội, và có một sự kiên định
về những nguyên tắc mà chúng ta có thể tìm thấy nó thể hiện rõ ở trong những quyết định của họ.
Hiếm khi gặp trường hợp mà lúc nào nhà quản trị cũng đưa ra những quyết định mà luôn nghiêng
về mục tiêu kinh tế, và cũng chẳng có trường hợp nào mà lúc nào nhà quản trị cũng nhất nhất là
chọn mục tiêu xã hội. Một sự thoả hiệp giữa hai mục tiêu là không thể tránh được.
Không phải là một vấn đề đơn giản để một cá nhân có thể thể hiện được một sự hiểu biết,
sự nhận thức, sự lĩnh hội, và có một sự kiên định về những nguyên tắc, những điều được xem là
Chương 1: Tự nhận thức - 23

có thể cung cấp cho chúng ta một sự hướng dẫn để đưa ra những quyết định hiệu quả. Theo kết
quả của cuộc nghiên cứu của Kohlberg, thì hầu hết chúng ta thường không đi theo một cấu trúc rõ
ràng, không để ý dến những nguyên tắc phát triển trong việc ra quyết định. Thứ nhất, đó là do
chúng ta không được cung cấp một mô thức hay những ví dụ điển hình về những nguyên tắc ra
quyết định đó. Chúng tôi sẽ cung cấp cho các bạn một số tiêu chuẩn để các bạn có thể kiểm tra và
thiết lập lại những nguyên tắc bên trong của các bạn, những nguyên tắc dành cho việc đưa ra
những sự lựa chọn có tính đạo đức và thuộc những những giá trị luân thường đạo lý. Những tiêu
chuẩn sau đây là không phải là một sự lĩnh hội và cũng không phải là tuyệt đối chính xác và cũng
càng không phải chúng là tồn tại độc lập với những cái khác. Chúng đơn giản chỉ là một sự tham
khảo lại, hệ thống lại những nguyên tắc bên trong, cái bạn đang sở hữu, chúng bao gồm những
trạng thái của cá nhân bạn.
1. Kiểm tra tình huống phải đối diện: Bạn có cảm thấy bối rối nếu quyết định của bạn trở
thành một dòng tiêu đề trên tờ báo địa phương không? Bạn có cảm thấy thoải mái để
mô tả những hoạt động hay những quyết định của mình đối với khách hàng hoặc một
cổ đông hay không?
2. Kiểm tra những nguyên tắc vàng: Bạn có cảm thấy rằng, sẵn sàng sẽ ứng xử như thế
trong những hoàn cảnh tương tự?
3. Kiểm tra chân giá trị và sự được phép: Những chân giá trị và sự được phép của những
người khác có được gìn giữ bởi những quyết định này không?
4. Kiểm tra cách đối xử công bằng: Những điều hợp đạo lý, sự hạnh phúc, những điều
tốt hơn của một số ít người và những người ở địa vị thấp hơn dựa trên sự xem xét đầy
đủ không? Những quyết định về lợi ích là vì đặc quyền của một tầng lớp mà không
dựa trên sự xứng đáng không?
5. Kiểm tra những lợi ích cá nhân: Thuận lợi cho lợi ích cá nhân có che mờ sự suy xét
của bản thân bạn không? Bạn có đưa ra một quyết định tương tự nếu phần thưởng
không có lợi cho mình theo bất kỳ cách nào không?
6. Kiểm tra sự thích hợp: Quyết định hay hành động này có phù hợp với những nguyên
tắc cá nhân của bản thân mình không? Nó có vi phạm trạng thái tinh thần của bất kỳ
chính sách nào của tổ chức hay pháp luật không?
7. Kiểm tra các thủ tục pháp lý: Các thủ tục thường được dùng để đưa ra các quyết định
này đúng với quy định để kiểm soát kỹ các điều bị ảnh hưởng.
8. Đánh giá chi phí và lợi nhuận: Lợi ích có thể là nguyên nhân đem lại những tổn hại,
không thể chấp nhận được đối với người khác không? Quyết định như thế nào là lợi
ích? Có thể những tác động gây hại giảm nhẹ?
9. Kiểm tra giấc ngủ buổi tối: Dù có ai biết hay không về hành động của bạn, có ảnh
hưởng đến một giấc ngủ tuyệt vời vào buổi tối của bạn không?
24 – Chương 1: Tự nhận thức

Trong phần cách tiếp cận kỹ năng trong chương này, bạn có thể xem xét những sự lựa
chọn việc hệ thống lại những sự hiểu biết, sự nhận thức, sự lĩnh hội, và có một sự kiên định về
những nguyên tắc. Bạn cũng nên có một sự nhận thức, tuy nhiên những nguyên tắc cá nhân sẽ
cũng bị ảnh hưởng bởi những khuynh hướng của bạn cho việc đạt được và phản hồi lại những
thông tin mà bạn nhận được. Khuynh hướng này gọi là phong cách học.
1.4.2. Phong cách học (Learning style)
Đôi khi chúng ta thường đưa ra sự trình bày với một sự nhấn mạnh quá mức đến số lượng
của thông tin, nhưng nếu chúng ta nhìn nhận lại thì thực ra chỉ có một số điểm là đáng để chú ý
và chúng ta chỉ cần tốn một khoảng thời gian nhỏ cho việc xem xét nó. Bây giờ bạn có một số
thông tin để đăng nhập vào trong đầu bạn, có liên quan đến những chức năng trong cơ thể bạn
hoặc có liên quan đến những đặc trưng ở chỗ bạn đang ngồi trong căn phòng của bạn hoặc những
từ trên trang giấy này hoặc những ý tưởng, những kỷ niệm hiện lên trong tâm trí của bạn khi bạn
đọc về sự nhận thức, những lòng tin có ảnh huởng lâu dài và sự thu thập lại những sự kiện gần
đây. Không phải tất cả những thông tin này đều được nhận ra một cách rõ ràng, mặt khác tâm trí
của bạn thỉnh thoảng sẽ trở nên quá tải đối với thông tin và bạn sẽ trở nên điên cuồng, mệt mỏi
với sự quá tải đó. Vì vậy, tất cả ai trong chúng ta đều mong muốn sẽ bỏ qua một số loại thông tin
không cần thiết và dành tâm trí cho một số loại thông tin khác cần thiết hơn. Những chiến lược
trở thành những thói quen ăn sâu vào những hành vi của chúng ta, đó cũng chính là mục tiêu mà
phần phong cách học sẽ hướng đến.
Phong cách học nhằm ám chỉ đến những định hướng của mỗi nguời chúng ta trong việc
lĩnh hội, làm sáng tỏ và đáp lại những thông tin một cách chắc chắn. Phong cách học về cơ bản
dựa trên hai loại thước đo chính sau: (1) Cách mà bạn thu thập thông tin, (2) Cách mà bạn đánh
giá và sử dụng những thông tin cần thiết. Một sự đa dạng về những giá trị phương tiện tồn tại để
đo lường những khía cạnh khác nhau của nhận thức và phong cách học, nhưng cái mà chúng ta
tập trung làm sáng tỏ ở đây đó là những thước đo cơ bản nhất của phong cách học. Bây giờ chúng
ta sẽ tiếp cận những công cụ đánh giá được sử dụng rộng rãi nhất để có thể xác định rõ được
phong cách học của mình. Những công cụ đánh giá này đã được sử dụng trong hơn 500 cuộc
nghiên cứu về hành vi trong hoạt động quản trị và tinh thần lãnh đạo. Và qua đó, nó cũng đã
được chứng minh như là một công cụ dự báo thông minh khi nghiên cứu về phong cách học và
những loại tiến trình thông tin.
Một trong những lý do chính của việc tập trung nghiên cứu đối với phong cách học, đó là
để chúng ta có thể có được một sự thành công hơn, và mỗi người cần phải có một sự kiên định
trong việc học. Rõ ràng rằng sự hiểu biết và có nhiều kiến thức được coi là quan trọng nhất để
duy trì những lợi thế cạnh tranh. Bởi vì, sau khoảng 3 năm thì một nửa kiến thức của bạn sẽ trở
nên bị lỗi thời, đồng thời số lượng kiến thức mới có thể sẽ tăng lên gần gấp đôi so với số lượng
kiến thức sẵn có của một người bình thường, do đó việc học được coi như là một điều kiện tiên
quyết để có thể có được một cuộc sống hữu ích. Nếu mọi người ngừng học, họ sẽ nhanh chóng
Chương 1: Tự nhận thức - 25

trở nên lỗi thời và mất những kỹ năng cá biệt. Việc không ngừng học được xem như là một chìa
khoá thành công trong cuộc sống, thêm vào đó, nó sẽ giúp chúng ta thành công hơn trong những
hoạt động quản trị.
Bạn cần hoàn thành trắc nghiệm “những công cụ về phong cách học” (Learning Style
Instrument - LSI) ở mục đánh giá trong chương này. Và để có thể thấy rõ được những điều ẩn
chứa đằng sau những điểm số mà bạn đã đạt được, chúng tôi nghĩ bạn sẽ rất muốn biết một vài
điều bên trong của lý thuyết về phong cách học và vòng tròn của việc học. Thuyết này được phát
triển và chắt lọc bởi David Kolb cùng với một số đồng nghiệp của ông ta tại Viện Case Western
Reserve. Nó cũng thừa nhận rằng khi những cá nhân phải đối mặt với những thông tin, thì họ
thường có khuynh hướng chỉ tập trung và cố học vào những điều mà họ cảm thấy là rõ ràng hơn
là việc để ý đến những cái khác. Thêm vào đó, các cá nhân cũng thường có khuynh hướng tiếp
nhận những thông tin bằng nhiều cách khác khi mà họ cố gắng để hiểu và làm sáng tỏ nó. Hình
1.3 minh họa hai khía cạnh chính của phong cách học: đó là khía cạnh về việc thu thập thông tin,
cái mà chỉ ra sự phân biệt những kinh nghiệm cụ thể (concrete experience: CE) từ những lý
thuyết, khái niệm trừu tượng (abstract conceptualization: AC); và khía cạnh về việc phản hồi
những thông tin, cái mà phân biệt sự quan sát có suy nghĩ (reflective observation: RO) với những
hành động thực tiễn (active experimentation: AE).

Hình 1.3: Mô hình phong cách học

Kinh nghiệm cụ thể (CE)


Hành động thực tiễn (AE)

Quan sát có suy nghĩ (RO)


Thu thập Thông tin

Đánh giá thông tin

Trừu tượng, khái quát (AC)

Đầu tiên chúng ta hãy xem xét khía cạnh thu thập thông tin. Nhiều người có khuynh
hướng thiên về việc nắm bắt thông tin trực tiếp thông qua những kinh nghiệm thực tế mà họ gặp
phải (CE). Họ học từ những điều mà họ gặp phải, mà điều đó là xác thực, rõ ràng, hữu hình, hiển
nhiên. Đối với họ, chất lượng của nguồn thông tin được thể hiện ở những điểm mà họ có thể thấy
được và có thể cảm nhận được rõ ràng, vì thế họ có xu hướng đắm mình trong những hoàn cảnh
để học tập chúng. Chúng ta sẽ mô tả những cá nhân mà có khuynh hướng nghiêng về việc học
dựa vào những kinh nghiệm cụ thể. Họ học tốt nhất thông qua kinh nghiệm và tình trạng tâm trí
bị thu hút vào đó.
26 – Chương 1: Tự nhận thức

Một số người có khuynh hướng nắm bắt những thông tin tốt nhất khi những thông tin đó
có các đặc tính như sự trừu tượng, hình tượng hay những giả thiết. Họ cho rằng việc học của họ
có hiệu quả nhất khi họ có cơ hội đọc được những ý tưởng, những lý thuyết, rồi sau đó có cơ hội
để suy nghĩ và phân tích về chúng một cách có hệ thống, có logic. Họ thích tiếp thu những thông
tin mà họ xem là đã được kiểm tra sự hợp lý của nó một cách cẩn thận. Chúng ta sẽ khảo sát
những đặc trưng của những cá nhân thuộc khuynh hướng này, khuynh hướng thiên về những lý
thuyết và khái niệm trừu tượng (AC). Đối với những người có khuynh hướng học từ những kinh
nghiệm thực tế trong cuộc sống thì chủ yếu họ sẽ tác động, va chạm đến những người khác để từ
đó có thể thu thập được thông tin, nhưng ngược lại đối với những người học dựa trên những khái
niệm lý thuyết trừu tượng, thì họ có được những thông tin là từ những cuốn sách.
Chúng ta sẽ nghiên cứu thước đo thứ hai của mô hình phong cách học. Đây là thước đo
nhằm hướng đến những chiến lược trong việc diễn giải, đánh giá và đáp lại đối với những thông
tin thu thập được. Những khác biệt trong hai loại khía cạnh này được thể hiện rõ nét thông qua
những cách thức để giải quyết những vấn đề đặc biệt. Ví dụ sau khi thông tin được phát ra, thì có
một số người nghiêng về việc đặt nó trong những hoàn cảnh khác, để ngẫm nghĩ lại về nó và để
thăm dò những nghĩa khác nhau mà có thể trình bày về nó. Họ là những người nghiêng về quan
sát và xem xét kỹ lưỡng thông tin hay nói cách khác là để cam kết đối với sự quan sát có suy nghĩ
(RO). Việc đưa ra những sự phán xét hấp tấp là điều tối kỵ đối với những người đi theo khuynh
hướng này, một sự cân nhắc kỹ lưỡng và có suy nghĩ đối với những thông tin nhận được là những
đặc trưng tiêu biểu cho những cá nhân này.
Mặt khác, một số người thì lại có khuynh hướng đưa ra những hành động một cách nhanh
chóng trước những thông tin mà họ nhận được. Họ đáp lại những thông tin đó bằng những hành
động như là trở thành những người tiên phong thực hiện, thử nghiệm những thông tin mới hoặc
phản ứng lại vấn đề hay tình huống có liên quan liền sau đó. Họ thử nghiệm lại để khám phá ra
những ẩn ý và những điều có ích, có liên quan đến thông tin. Bằng những việc tác động lên nó,
họ có thể khám phá ra nhiều giả thuyết về nó. Và chúng ta sẽ mô tả về đặc điểm của những người
có khuynh hướng thiên về những hành động thực tiễn (AE).
Mỗi định hướng hay khuynh hướng đại diện cho một sự lựa chọn cụ thể. Ví dụ, hầu như
không thể để làm cùng một lúc hai công việc: lái một chiếc xe hơi (kinh nghiệm cụ thể) trong khi
lại muốn phân tích những đặc điểm của một chiếc môtô và lực mômen quay của chiếc mô tô đó
(những lý thuyết, khái niệm trừu tượng-AC). Và theo như kết quả của một cuộc nghiên cứu về
những thước đo có liên quan đến sự nhận thức thì người ta đã không tìm ra được một mối quan
hệ nào đối với những loại vấn đề mà họ gặp phải đối với từng loại người. Tuy nhiên, họ cũng đã
nhận ra được rằng hầu hết những cá nhân thường sử dụng loại phong cách học xuất phát từ sự
nhìn nhận của họ về tính hữu dụng của mỗi loại để tiếp cận vấn đề. Họ thích và thậm chí tìm
kiếm những mẫu quyết định đối với những loại tình huống, loại vấn đề được xem là thích hợp với
phong cách học của họ (ví dụ như, đối với những cá nhân có mức điểm cao về các mặt AC và AE
thì họ thường thích những vấn đề được giải quyết một cách trình tự theo từng bước). Trong một
Chương 1: Tự nhận thức - 27

cuộc nghiên cứu khác thì người ta cho ra một kết quả như sau: các nhà quản trị là những người
thường đạt những điểm số cao ở RO và AC (phần phía dưới bên phải của Hình 1.3) hơn là AE và
CE (phần phía trên bên trái Hình 1.3) thì lại muốn bổ sung thêm việc dựa vào những hệ thống cơ
sở máy tính và những thủ tục hợp lý trước khi đưa ra những quyết định. Ở những cuộc nghiên
cứu khác, các nhà quản trị lại tiến hành định nghĩa những vấn đề khác nhau phụ thuộc vào những
phong cách học của họ (Ví dụ như một vài suy nghĩ đối với một vấn đề là đòi hỏi cần phải phản
ứng lại bằng những hành động, trong khi một số người khác thì lại nghĩ rằng vấn đề đó đòi hỏi
cần phải có một sự phân tích thấu đáo). Ở những cuộc nghiên cứu khác thì người ta tìm ra được
sự khác nhau giữa các phong cách học, để từ đó mỗi loại phong cách học sẽ quy định những quy
trình ra quyết định khác nhau trong hoạt động quản trị.
Hình 1.4 là giản đồ điểm số phong cách học, cung cấp cho chúng ta một tập hồ sơ điểm số
trên đó và đó chính là những điểm số mà bạn có thể đạt được từ LSI (công cụ đánh giá phong
cách học).
Trong hình này, hãy tìm mức điểm trên cột dọc trục CE tương xứng với điểm số của bạn.
Làm tương tự cho điểm số về RO, AC và AE. Bằng việc đặt những điểm số trên mỗi trục của
giản đồ trên Hình 1.4 và nối những điểm này lại với nhau, bạn sẽ có được một hình “có dạng hình
cánh diều". Thông qua hình này sẽ làm cho các bạn thấy được phong cách học của mình. Kết quả
sẽ được so sánh với hành vi của khoảng 1500 nhà quản lý và những sinh viên tốt nghiệp ở những
trường kinh tế quản trị. Nếu điểm số của bạn ở trục CE là trên 31, tức bạn đã đạt cao hơn 80%
của những nhà quản trị và những sinh viên tốt nghiệp. Nếu điểm số của bạn dưới 19 ở thước đo
CE, tức là bạn chỉ đạt dưới 20% của những nhà quản trị và sinh viên tốt nghiệp.
Bây giờ hãy sử dụng số điểm bạn đạt được để biểu diễn lên Hình 4, bạn sẽ nhận thấy được
tính cách của bạn và kể cả khuynh hướng về phong cách học của bạn. Và bạn sẽ thấy có 4 góc
cung phần tư của vòng tròn trong Hình 1.4 được tạo ra, và vùng phần tư nào lớn nhất sẽ thể hiện
phong cách học nổi trội nhất của bạn, chúng ta sẽ xét vùng phần tư nổi trội đó. Trong một cuộc
nghiên cứu với thời gian lên đến 30 năm đã xác định được 4 nhóm loại chính của những người
học, đó là: Sự phân kỳ, Sự đồng hoá, Sự hội tụ, và Sự hỗ trợ của phong cách học.
Sự phân kỳ (diverging): Phong cách học phân kỳ được thể hiện ở những cá nhân có
điểm số ở thước đo về mặt kinh nghiệm thực tế (CE) và sự quan sát có suy nghĩ (RO). Những
người có phong cách học này là những người có khả năng rất tốt trong việc đưa ra nhiều khía
cạnh, quan điểm, cách nhìn khác nhau khi gặp một tình huống trong thực tế. Phong cách học này
mang tên là sự phân kỳ bởi vì những cá nhân này thực hiện rất tốt trong những tình huống đòi hỏi
những ý tưởng tổng quát và sự sáng tạo trong việc đưa ra những khả năng lựa chọn cách giải
quyết. Đó là những nhóm người có những đặc trưng tiêu biểu như: óc sáng tạo, có tài phát minh
trong các hoạt động cần sự giải quyết đối với những vấn đề được đặt trong nhiều hoàn cảnh khác
nhau. Những người này thường thích tiếp nhận nhiều thông tin và thường xuyên phải đối mặt với
sự động não (Brainstorming). Họ thích suy nghĩ và họ quan tâm đến nhiều thứ và mở rộng tầm
28 – Chương 1: Tự nhận thức

hiểu biết về nó. Trong một cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người trong nhóm này thường
có óc tưởng tượng và có cảm xúc rất mạnh, vì vậy họ thiên về nghệ thuật và thích làm việc với
nhóm. Làm việc nhóm sẽ giúp họ có thể nghe được những ý kiến khác nhau và lạ. Trong các
trường đại học, những người phân kỳ này thường có định hướng chính vào những ngành nghệ
thuật, lịch sử, khoa học chính trị, ngoại ngữ và tâm lý học. Họ thích chọn những ngành nghề về
các dịch vụ xã hội (Ví dụ như: Tư vấn tâm lý, Y tá, Cảnh sát,…) và về nghệ thuật, truyền thông
(Ví dụ như: Diễn viên sân khấu, Nhà văn, Nhà báo,…) và họ cũng thích những công việc mà làm
họ có thể tương tác thưòng xuyên với mọi người. Làm việc nhóm sẽ giúp họ có thể nghe được
những ý kiến khác nhau và lạ. Trong các trường đại học, những người phân kỳ này thường có
định hướng chính vào những ngành nghệ thuật, lịch sử, khoa học chính trị, ngoại ngữ và tâm lý
học. Họ thích chọn những ngành nghề về các dịch vụ xã hội (Ví dụ như: Tư vấn tâm lý, Y tá,
Cảnh sát,…) và về nghệ thuật, truyền thông (Ví dụ như: Diễn viên sân khấu, Nhà văn, Nhà
báo,…) và họ cũng thích những công việc mà làm họ có thể tương tác thưòng xuyên với mọi
người.

KINH NGHIỆM THỰC TẾ (CE)

31
Phân 100%

QUAN SÁT CÓ SUY NGHĨ (RO)


kỳ
HÁNH ĐỘNG THỰC TĨEN (AE)

Hỗ trợ 27 80%

24 60%
40%
20%
19

42 38 34 29 24 28 31 35
22

Hội tụ Đồng
29 hoá

3
1

36

KHÁI QUÁT, TRỪU TƯỢNG (AC)

Hình 1.4: Giản đồ điểm số phong cách học


Chương 1: Tự nhận thức - 29

Sự đồng hoá (assimilating): Những người thuộc phong cách học đồng hoá là những
người đạt được số điểm ưu thế đối với thước đo về sự quan sát có suy nghĩ (RO) và sự nhận thức
trừu tượng (AC). Những người có phong cách học này thường là những người có khả năng rất tốt
trong việc xử lý những thông tin có một phạm vi khá rộng, lộn xộn thành những ý nhỏ ngắn gọn,
súc tích, có tính logic cao. Họ hiếm khi có khuynh hướng để đạt được những thông tin bởi việc
tiếp xúc từ những người khác và ngược lại họ rất hứng thú khi được suy nghĩ những ý tưởng mơ
hồ và mang đậm chất lý thuyết. Họ là những người có những đặc tính nổi trội như: có những lý
luận súc tích, quy nạp và có khả năng thiết lập và sắp xếp những tài liệu vào trong một bố cục
phù hợp. Đối với họ, rất là quan trọng để có được một lý thuyết với một sự logic hoàn hảo hơn là
những giá trị thực tế, thiết thực. Một cuộc nghiên cứu đã chứng minh được rằng những người
đồng hoá là những người có khuynh hướng đến những nghề nghiệp có sự tiếp cận thông tin và
mang tính khoa học, và họ thích để nghiên cứu giảng dạy, thích đọc sách, và thích phân tích trong
hoạt động của họ. Ở các trường đại học, những người đồng nhất là những người nghiêng về các
lĩnh vực như kinh tế, toán học, xã hội học, ngành hoá học. Họ có khuynh hướng để chọn những
ngành nghề có sự tiếp cận những thông tin khoa học và trong những lĩnh vực nghiên cứu (Ví dụ
như: Nghiên cứu giáo dục, luật, thuyết thần học) và họ thích những công việc mà thiên về thu
thập được thông tin.
Sự hội tụ (converging): Đối với những người có phong cách học hội tụ là những người
có một sự nổi trội về điểm số đối với những thước đo của cung phần tư về sự nhận thức trừu
tượng (AC) và những hoạt động thực tiễn (AE). Những người có phong cách học này thường có
khả năng rất tốt trong việc tìm ra cách áp dụng những ý tưởng và những lý thuyết suông thành
những bài tập thực hành có ích. Họ được xem là những người chuyên về giải quyết những vấn đề
và làm ra những quyết định, họ quan tâm đến những công việc kỹ thuật và những công việc liên
quan đến việc xử lý vấn đề hơn là những công việc đòi hỏi tính xã hội cao hoặc có tính tương tác
với những cá nhân khác. Họ là những người nổi trội trong việc đưa ra những cách tiếp cận thực tế
có tính chính xác cao của những ý tưởng và những lý thuyết suông. Kết quả của một cuộc nghiên
cứu đã cho thấy rằng những người có phong cách học này thường là những người rất thành công
và có những định hướng nghề nghiệp của bản thân về những ngành kỹ thuật và kỹ sư. Đối với
những dạng tình huống của việc học, thì họ lại rất thích hợp đối với những bài tập về mô phỏng,
thích nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và cách tiếp cận vấn đề bằng những bài thực hành. Ở
những trường đại học, những người này thường có khuynh hướng chính đối với những ngành
khoa học cơ bản, kỹ sư, và máy tính. Họ có khuynh hướng để chọn những ngành nghề thuộc
những lĩnh vực kỹ thuật (ví dụ như kỹ sư, nhà khoa học máy tính, nhà bào chế thuốc), thuộc
những lĩnh vực kinh tế và trong những môi trường khoa học, và họ thích những công việc nhấn
mạnh đến những cách giải quyết vấn đề mang tính kỹ thuật cao.
Sự hỗ trợ (accommodating): Những người có phong cách học hỗ trợ là những người đạt
được những điểm số cao đối với những thước đo về hoạt động thực tiễn (AE) và kinh nghiệm
thực tế (CE). Những người sở hữu phong cách học này là những người có khả năng rất tốt trong
30 – Chương 1: Tự nhận thức

việc phát huy những kinh nghiệm thực hành của họ. Họ thích tiến hành thực hiện những kế hoạch
mang tính sáng tạo và thách thức đối với họ, và những kế hoạch đó đòi hỏi có một sự vận dụng
những kinh nghiệm mà họ có được để mà thành công. Họ là những người thiên về sự cảm nhận
và sự phán đoán, hơn là dựa vào những sự phân tích hợp lý và họ rất thích cộng tác làm việc với
những người khác để tiến hành giải quyết vấn đề hơn là phải đưa ra những lời bình luận về vấn
đề đó một cách có hệ thống. Họ phù hợp với những hoạt động đòi hỏi sự mạo hiểm và sự chính
xác, ví dụ như khởi sự kinh doanh. Một cuộc nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người thuộc
nhóm này thường có khuynh hướng nghề nghiệp ở những lĩnh vực như Marketing, quản trị doanh
nghiệp và những công việc liên quan đến sự chỉ đạo. Ở những tình huống được đặt ra trong phần
phong cách học thì họ rất thích để được thảo luận với những người khác để hoàn thành bài đánh
giá của mình, để đạt được những mục tiêu mà mình đã đặt ra, để có thể đúc kết cho riêng mình
một sự đa dạng về những cách tiếp cận trước một vấn đề cụ thể nào đó. Ở những trường đại học
thì những người này thường có khuynh hướng chọn những lĩnh vực về kinh doanh và quản trị.
Họ thường chọn những ngành nghề liên quan đến kinh doanh (Ví dụ như: quản trị kinh doanh, tài
chính, marketing,…) và họ đam mê với những công việc mà đòi hỏi một sự lãnh đạo hoặc những
hoạt động liên quan đến sự điều hành (ví dụ như: ra quyết định, điều phối dự án,…)
Trên đây là một sự mô tả chi tiết về những đặc điểm tiêu biểu, cũng như những khuynh
hướng chung của những nhóm người có phong cách học khác nhau. Và qua đó cũng chứng tỏ
một điều rằng phong cách học của bạn được xem là một trong những yếu tố có liên quan đến
tương lai của bạn. Như vậy qua đó chúng ta cũng đã hiểu được phần nào về sự khác nhau về
khuynh hướng của những sinh viên đang theo học ở những ngành khác nhau của những trường
đại học khác nhau, những loại công việc khác nhau và sự lựa chọn công việc khác nhau, và số
phận của bạn cũng được xác định thông qua những điểm số mà bạn đạt được trong phần đánh giá
về phong cách học. Những lời nhận xét về phong cách học của bạn ở Phần hướng dẫn có thể sẽ
giúp bạn xác định cho riêng mình một phong cách học mới, loại phong cách học mà có thể mang
lại cho bạn một hiệu quả cao nhất, nó cũng sẽ chỉ cho bạn những hoạt động liên quan đến việc
học mà bạn thích. Nó cũng có thể giúp bạn xác định những kiểu người mà bạn sẽ muốn để làm
việc với họ nhằm xây dựng được một nhóm làm việc hiệu quả cao.
Những yếu tố quan trọng khác ở mô hình phong cách học của Kolb sẽ giải thích cách, làm
thế nào mà chúng ta có thể sử dụng được mỗi thước đo trong quá trình cải thiện việc học của
mình. Bốn loại chính của phong cách học được thể hiện một cách rõ ràng ở vòng tròn trong hình
1.5 (Hình 1.5 mô tả cách làm thế nào để thành công hơn trong việc học). Một cuộc nghiên cứu
cũng đã chứng minh được rằng nếu các bạn biết áp dụng một cách trình tự theo các bước được
trình bày trong Hình 1.5 thì hiệu quả của việc học của các bạn sẽ được cải thiện một cách rõ rệt,
kiến thức sẽ được các bạn tiếp thu dễ dàng hơn và nó sẽ được lưu giữ lại trong một khoảng thời
gian lâu hơn, và các kỹ năng của bạn cũng ngày càng được nâng cao hơn. Và chi tiết các bước
thực hiện như đã trình bày trong Hình 1.5.
Chương 1: Tự nhận thức - 31

BƯỚC 4: HÁNH ĐỘNG THỰC TĨEN BƯỚC 1: KINH NGHIỆM THỰC TẾ (CE)

BƯỚC2: QUAN SÁT CÓ SUY NGHĨ (RO)


(AE)

BƯỚC 3: KHÁI QUÁT, TRỪU TƯỢNG (AC)


Hình 1.5: Vòng tròn của việc học

Khi một người có được một kinh nghiệm nào đó (Bước 1, CE), việc học sẽ hiệu quả hơn
khi có sự quan sát có suy nghĩ được bổ sung thêm vào đó (Bước 2, RO). Việc thu thập một số
thông tin và làm sáng tỏ những ý nghĩa của nó được xem là một bước quan trọng trong việc học
từ kinh nghiệm. Bước này được xem là bước được hình thành từ lý thuyết về thông tin, điều này
có nghĩa là chúng ta cần tạo ra một sự tương tự nào đó để kết nối giữa nó với những kinh nghiệm
khác, từ đó chúng ta có thể rút lại để đưa ra một sự kết luận về những sự liên quan và tính hữu
dụng của những kinh nghiệm đó (Bước 3, AC). Một sự khái quát thành những kinh nghiệm đặc
biệt cho phép bạn có thể áp dụng đối với mọi tình huống hơn là chỉ đưa ra cách giải quyết chỉ
dành cho một trường hợp riêng cụ thể nào đó mà thôi. Cuối cùng, hãy kiểm tra lại một lần nữa
những điều kết luận mà bạn đã rút ra được, khái quát những lý thuyết dài dòng đó và hãy hệ
thống lại một cách rõ ràng chính xác những điều đó, như vậy thì nó sẽ giúp bạn có thể sử dụng
những điều đó dễ dàng hơn và thành công hơn (Bước 4, AE).
Khi chúng ta tiến hành việc học ở những tình huống mới, nói một cách khác, điều đó sẽ
dẫn đến những những kinh nghiệm thực tế khác (Bước 1), và vòng tròn nó sẽ lại được bắt đầu lại.
Một người có thể vận hành vòng tròn việc học ở bất kỳ những điểm nào, dĩ nhiên không phải chỉ
bắt đầu từ bước CE. Tuy nhiên các bạn cũng nên luôn nhớ rằng điểm đó phải là một trong bốn
bước chính của quá trình học, có như vậy thì mới đảm bảo việc học của bạn đạt hiệu quả cao.
32 – Chương 1: Tự nhận thức

Biểu 1.3: Các bước trong vòng tròn của việc học
Bước 1: Kinh nghiệm thực tế (CE): Học nhờ vào những kinh nghiệm
+Học từ những kinh nghiệm đặc biệt
+Quan hệ với mọi người
+Nhạy cảm trong việc cảm nhận và tiếp xúc với những người khác
Bước 2: Sự quan sát có suy nghĩ (RO): Học nhờ vào sự suy nghĩ
+Quan sát thật cẩn thận trước khi đưa ra những sự phán xét
+Xem xét vấn đề từ những khía cạnh và hoàn cảnh khác nhau
+Hãy cố gắng suy nghĩ về ý nghĩa của mọi thứ
Bước 3: Nhận thức trừu tượng: Học nhờ vào sự suy nghĩ
+Phân tích những ý tưởng một cách hợp lý
+Tìm ra được những lý thuyết mới và tạo ra những sự liên kết đối với những lý thuyết
đó
Bước 4: Kinh nghiệm hành động (AE) _ Học nhờ vào sự thực hành
+Hãy cố gắng đưa ra tất cả những khả năng có thể khi gặp một vấn đề nào đó
+Hãy đề cập đến những nguy cơ có thể đe dọa chúng ta
+Tác động đến mọi người xung quanh và những vấn đề bằng những hành động

Nhiều trường học phổ thông đã cường điệu hoá và chú trọng quá mức đến bước RO và
AC của quá trình học (Learning Process) trong các hoạt động của việc học tại các lớp học của họ.
Còn ở các trường đại học và cao đẳng cũng đã thừa nhận một xu hướng rằng những sinh viên của
họ đã đạt những điểm số cao ở những bài đánh giá về phong cách học (Ví dụ như bài kiểm tra về
ACT, SAT hoặc GMAT). Hơn nữa, việc tập trung vào một khoá học hoàn toàn chỉ dựa vào
phương pháp giải quyết tình huống (case study) hoặc là những bài tập mang tính chỉ dựa trên
kinh nghiệm (Experiential Exercises) để dạy cho sinh viên về những kỹ năng quản trị hiệu quả và
phong cách lãnh đạo thì nó thường kém tác dụng hơn những khoá học được áp dụng một cách bài
bản những hoạt động của việc học dựa trên mô hình 4 bước của Kolb như đã trình bày ở trên.
Hầu hết những chương trình giảng dạy về kỹ năng quản trị cần đảm bảo đúng 4 bước chính của
quá trình học, tức trong chương trình đó cần bao gồm: những hoạt động liên quan đến việc học và
liên quan đến những kinh nghiệm của sinh viên (CE và AE) cũng như việc thảo luận nhóm, đọc
hiểu cùng với những cuộc thi (RO và AC).
1.4.3. Thái độ đối với sự thay đổi (Attitudes toward changce)
Để lợi dụng một cách triệt để những điểm mạnh trong phong cách học của bạn, bạn cũng
nên có một sự nhận thức về những định hướng có xu hướng thay đổi. Trong một môi trường luôn
Chương 1: Tự nhận thức - 33

thay đổi theo những chiều hướng khác nhau như hỗn loạn hơn, mang tính ngắn hạn, phức tạp hơn
thì có thể làm cho các nhà quản trị điều hành trở nên bị lúng túng hơn, bị động hơn và quá tải về
thông tin, trong khi đó khả năng của bạn trong việc thu thập và xử lý thông tin chỉ ở một chừng
mực nào đó mà thôi, vả lại khả năng đó lại bị thúc ép bởi sự thay đổi của một số quan điểm thay
đổi. Đây cũng chính là lý do mà bạn cần có một sự nhận thức về những sự thay đổi này.
Hầu hết không có một ai phản đối sự gia tăng những thay đổi xảy ra trong tương lai, nó
không chỉ làm thay đổi trình tự của những bước đi mà cả ở những mục tiêu và phạm vi. Thách
thức đối với các sinh viên và các nhà quản trị ở những năm đầu thế kỷ 21 đó là rất khó khăn để
đưa ra những dự đoán về những thay đổi trên thế giới mà chỉ dựa vào những kinh nghiệm quá
khứ. Theo nhà kinh tế học Peter Ducker (Cha đẻ của những quan điểm quản trị hiện đại), cứ
khoảng từ 200 đến 300 năm thì những điều kiện này sẽ bị thay đổi đi, và sự thay đổi này có tính
thường xuyên hơn. Và như chúng ta đã thấy những mốc sự kiện thay đổi lớn trong lịch sử thế giới
của chúng ta đó là sự ra đời của Thời kỳ Phục Hưng và sự bắt đầu của cuộc đại Cách mạng công
nghiệp. Thế giới thay đổi một cách đột ngột và không thể dễ dàng dự đoán trước được những
điều gì. Những “khuôn mẫu” ở quá khứ không thể sử dụng để dự đoán những những khuynh
hướng biến đổi của thế giới tương lai. Những sự thay đổi ngoài sức tưởng tượng của chúng ta
xuất hiện một cách thường xuyên. Tương tự như vậy, bằng cấp của các trường dạy về kinh tế,
quản trị, thương mại,…sẽ phải đối mặt với những sự thay đổi về môi trường, về những điều kiện,
từ đó dẫn đến nguy cơ của sự đánh mất giá trị của những bằng cấp đó, điều này đồng nghĩa với
việc những người đã có kinh nghiệm về dự đoán trước đây trở nên lỗi thời.
Một nửa số lượng kiến thức trong mỗi chúng ta có thể bị thay đổi với một tốc độ không
thể tin nổi. Thậm chí những kiến thức chuyên môn được chúng ta tiếp thu trong cả một quá trình
có thể sẽ thay đổi chỉ trong vòng một năm mà thôi. (Hãy đánh giá mức độ hiện đại của cái máy
tính mà bạn đang sử dụng, bất kể thời gian bạn mua nó là gần đây hay trước đây). Chúng ta sẽ
thấy điều này rõ hơn khi chúng ta so sánh nó với những điều kiện cách đây 10 năm, ví dụ như,
đối với một người sử dụng máy tính sẽ trở nên lỗi thời nếu họ không biết rằng sự “khắc axit trong
các phân tử” của những năm trước đây thì nay đã được thay thế bằng một thuyết mới đó là “sự
khắc axit trong chất silicon”. Nhờ sự phát hiện ra thuyết này mà hiện nay người ta có thể sản xuất
ra một loại chíp máy tính có kích thước rất nhỏ, có thể bằng cái đầu của một cây bút chì để cắm
sâu vào trong cơ thể của con người, để từ đó có thể điều khiển tốc độ máu lưu thông và nhịp đập
của con tim,…hoặc có thể đặt loại chip đó vào trong cái mắt kiếng và nó sẽ hiện lên trước mắt ta
tên của mỗi người mà ta gặp trên đường phố.
Những người hiện nay đang đọc những Tạp chí như: Wall Street Journal, The New York
Times hoặc Hearald Tribune là những người có thể thu thập và tiếp cận tất cả các thông tin và
kiến thức hiện đại trong vòng chỉ khoảng một ngày, trong khi đó, ở thế kỷ thứ 18 thì một người
nào đó muốn thu thập và trình bày tất cả những thông tin, kiến thức thì phải mất cả một đời người
để tìm hiểu và ghi chép lại. Đây được xem là những tờ tạp chí trình bày một cách đầy đủ và cập
nhật nhất tất cả những thông tin và kiến thức hiện đại cập nhập nhất hiện nay. Phần lớn mọi
34 – Chương 1: Tự nhận thức

người dân trên thế giới sẽ không biết về nhau, không biết gì về thế giới nếu không có máy tính,
máy điều khiển từ xa, những kênh tivi không có sự giới hạn, và hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu.
Nhờ vào cuộc đại cách mạng thông tin đã làm cho mọi sự phát triển trên thế giới trở nên nhanh
chóng và làm cho mọi người phải đối mặt với một sự thay đổi không thể tin nổi. Tuy nhiên, đáng
lo ngại thay khi hiện nay, một bộ phận lớn dân cư ở một số vùng trên thế giới chỉ có thể mơ ước
đến việc tiếp cận những thông tin kiến thức kỹ thuật hiện đại và thậm chí ngay tại nước Mỹ, một
phần lớn bộ phận người dân Mỹ lại không thể tiếp cận được với chiếc máy tính. Thêm vào đó,
chúng ta phải đối mặt với những nguy cơ về sự tồn tại và duy trì nạn phân biệt chủng tộc cả ở Mỹ
và ở tất cả những nước trên thế giới.
Trong một tổ chức kinh doanh, không có nhà quản trị nào đang sống ở thế kỷ 21 lại tự
khoác lác về tính ổn định, tính bền vững và sự duy trì về địa vị của tổ chức mình trên thị trường
cả. Thậm chí, ngay cả bây giờ, sự ổn định của một tổ chức được giải thích như là một sự trì trệ
hơn là một sự vững chắc, và đối với những tổ chức phi lợi nhuận thì nó được xem đó chính là
một sự ngoan cố. Và với điều kiện hiện nay thì đòi hỏi mỗi tổ chức phải tạo cho mình những sự
khác biệt, có như vậy thì mới thành công.
Tất cả những điều như đã nêu trên nhằm nói lên một điều rằng những yếu tố bên trong
môi trường của thế kỷ 21 được đặc trưng bởi một sự hỗn loạn, một sự biến đổi chóng mặt, một
quyết định mang tính mau lẹ để nắm bắt thời cơ, và một thời đại hỗn loạn. Không một ai có đủ
thời gian để đọc và phân tích từng trường hợp và từng tình huống. Kinh doanh trực tuyến (E-
Business) sẽ dần thế chỗ vai trò của những trò chơi trực tuyến. Và trong thời đại công nghệ bây
giờ, thì nó cũng sẽ tạo điều kiện cho tất cả các đối thủ từ nhỏ đến lớn ở hầu hết tất cả các ngành
nghề, lĩnh vực có thể xuất hiện trên mạng Internet trong suốt 24 giờ. Không ai có thể dự báo được
chính xác sự khốc liệt của sự cạnh tranh giữa các tổ chức với nhau. Khách hàng của tổ chức
không còn bị giới hạn về mặt địa lý nữa và những tiêu chuẩn để thỏa mãn họ cũng ngày càng
được thay đổi theo huớng hoàn thiện hơn. Áp lực về việc tranh giành thị trường và sự cạnh tranh
khốc liệt một lần nữa đã làm cho người ta không còn chú ý đến những lợi thế cạnh tranh truyền
thống, cái mà chúng ta đã được dạy ở những trường dạy về quản trị kinh doanh. Đưa ra những
quyết định mau lẹ, hầu như nó không còn thời gian để khai thác hết những lợi ích của những
thông tin thích hợp kết hợp với một sự phân tích cẩn thận, đang trở nên là một tiêu chuẩn cần
thiết để tồn tại.
Và khi đã bị chi phối bởi những nhịp độ của sự thay đổi hỗn loạn thì sự nhận thức về
những sự thay đổi của mỗi chúng ta được xem như là một điều kiện tiên quyết cho sự thành công
của chúng ta trong cuộc sống. Hai thước đo về khuynh hướng thay đổi là khả năng chịu đựng sự
mơ hồ và nơi tiến hành sự kiểm soát.
Khả năng chịu đựng sự mơ hồ (tolerance of ambiguity)
Thước đo quan trọng đầu tiên đó chính là khả năng chịu đựng sự mơ hồ, nó chỉ ra mức độ
giới hạn để những cá nhân bị đe dọa ảnh hưởng hoặc có một sự khó khăn khi phải đối mặt với
Chương 1: Tự nhận thức - 35

những tình huống có tính mơ hồ. Tính mơ hồ ở đây được định nghĩa như là một sự thay đổi xuất
hiện một cách liên tục hoặc có tính không thể dự đoán được, những thông tin có tính mơ hồ tức là
những thông tin có những đặc điểm như không tương xứng, không đầy đủ và không rõ ràng hoặc
tồn tại một sự phức tạp, rắc rối xung quanh những thông tin đó. Nó tạo ra một môi trường giàu
các tác nhân kích thích và sự quá tải thông tin. Khi gặp những trường hợp đó, người ta bất chấp ý
nghĩ sẽ giải quyết thông tin dựa trên sự hiểu biết và kinh nghiệm, từ đó những năng khiếu của họ
cũng bị quên lãng đi trong việc đưa ra cách giải quyết đối với một số trường hợp và tình huống.
Và đối với mỗi người thì nó tồn tại một phạm vi chịu đựng khác nhau, một phạm vi ngăn
cách giữa những sự suy nghĩ cẩn thận với một sự phán xét một cách vô thức. Đó cũng chính là
một phạm vi để họ có thể đương đầu với với những tình huống có tính mơ hồ, không đầy đủ,
không theo một cấu trúc nào cả và có tính linh hoạt (tính hai mặt). Những cá nhân có khả năng
chịu đựng một sự mơ hồ cao cũng chính là những người có khuynh hướng nhận thức phức tạp.
Họ là những người có khuynh hướng nhận ra được nhiều điểm mấu chốt của thông tin để từ đó
họ có thể khai thác được nhiều thông tin hơn, tìm ra được nhiều đầu mối hơn, cũng như có được
một đầu óc minh mẫn hơn những người có ít khả năng nhận thức phức tạp. Trong một cuộc
nghiên cứu gần đây người ta đã chứng minh được rằng những người có khả năng nhận thức phức
tạp là những người có được một sự lưu truyền và xử lý thông tin trong đầu óc họ một cách sâu
sắc và nhanh nhạy hơn những người khác, từ đó hiệu quả công việc của họ được nâng cao hơn,
họ đưa ra những hành vi hợp lý hơn và mềm dẻo hơn khi đối mặt với những điều kiện có tính mơ
hồ và quá tải so với những người khác. Hầu hết, các nhà quản trị đạt được điểm số cao về khả
năng chịu đựng sự mơ hồ là những người đạt được những thành công trong hoạt động quản trị
của mình, họ có khả năng sàng lọc những thông tin trong những môi trường phức tạp, họ cũng có
thể là những người có khả năng nhận ra những nét đặc trưng của những nghề nghiệp của họ để từ
đó họ có thể hướng đến những nhiệm vụ có tính linh hoạt hơn. Bên cạnh đó là những người đạt
được hiệu quả cao cũng như những sự thành công khi đối mặt với những sự thay đổi trong tổ
chức, sự căng thẳng cũng như những cuộc xung đột trong công việc. Trong một môi trường có
quá nhiều thông tin, khả năng chịu đựng và sự nhận thức phức tạp là càng thích hợp hơn với
những trường hợp có những đặc điểm khá trái ngược nhau.
Trong phần đánh giá kỹ năng, hoàn thành mục đánh giá mức độ khả năng chịu đựng sự
mơ hồ sẽ đánh giá phạm vi mức độ về khả năng chịu đựng của các bạn. Mục này đưa ra những
loại tình huống phức tạp khác nhau để các bạn đưa ra những sự chọn lựa của mình. Và những
điều ẩn chứa đằng sau những điểm số của mục đánh giá này được thể hiện ở đáp án trắc nghiệm,
nó bao gồm có 3 khoản điểm khác nhau được phân ra để đánh giá. Khoản điểm thứ nhất có tên
gọi là Sự mới mẻ (Novelty), đây là mức độ nhằm thể hiện rằng bạn là người có khả năng chịu
đựng, có khả năng tiếp nhận và có mức độ nhận thức trước những cái mới, những thông tin
không bình thường và những tình huống xa lạ là cao, sự tư duy logic của bạn là cao. Khoản điểm
thứ hai có tên gọi là Sự phức tạp (Complex), với mức độ này làm cho các bạn thấy rõ được phạm
vi chịu đựng của bạn là khá cao khi đối mặt với những vấn đề và thông tin rời rạc, phức tạp, đặc
36 – Chương 1: Tự nhận thức

biệt. Khoản điểm thứ ba có tên gọi là Sự không giải quyết được (Insolubility), đây là mức độ thấp
nhất trong ba mức độ, qua đó nó nhằm chỉ ra sự khó khăn trong việc giải quyết vấn đề mơ hồ bởi
vì có nhiều giải pháp được đưa ra để chọn lựa là có tính không hợp lý, những thông tin được đưa
ra để giải thích là không rõ ràng hoặc có khi những phần trong cùng một vấn đề là rời rạc và chưa
có một sự gắn kết giữa chúng. Những người có khả năng chịu đựng càng cao thì họ chính là
những người có khả năng thành công nhiều hơn ở hoạt động quản trị của mình trong một môi
trường mà thông tin thì quá tải và có tính mơ hồ. Họ là những người ít bị chi phối bởi những tình
huống và trường hợp mơ hồ.
Mức độ về sự nhận thức phức tạp và khả năng chịu đựng sự mơ hồ hoàn toàn không có
mối liên hệ gì với sự hiểu biết thông minh của bạn cả, điều có nghĩa là điểm số của bạn đạt được
ở phần đánh giá về khả năng chịu đựng sự mơ hồ là không nói lên được gì về chỉ số thông minh
của bạn cả. Mọi người đều có thể luyện tập để nâng cao khả năng chịu đựng sự mơ hồ và nâng
cao tính mềm dẻo của chính mình trong quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin. Bước đầu tiên đó
là bạn cần xác định xem bạn đang ở mức độ nào trong phần đánh giá kỹ năng. Tiếp theo, các bạn
cần hoàn thành phần đánh giá về kỹ năng phân tích và kỹ năng thực hành trong chương này,
chúng được trình bày song song với những bài thảo luận chúng ta, và cuối cùng chúng tôi sẽ cung
cấp cho các bạn những cách để rèn luyện khả năng chịu đựng sự mơ hồ và mức độ nhận thức
phức tạp của mình. Nó cũng rất là thú vị và cần thiết để lưu ý đến sự tương quan tồn tại giữa khả
năng chịu đựng sự mơ hồ và thước đo thứ 2 của những khuynh hướng thay đổi sẽ được thảo luận
tiếp theo, đó là nơi kiểm soát.
Nơi kiểm soát (Locus of control)
Thước đo thứ hai trong những khuynh hướng thay đổi đó là nơi tiến hành sự kiểm soát
(Locus of Control). Nơi kiểm soát là một trong những chủ đề được xem là quan trọng và đáng
quan tâm nhất trong phần những khuynh hướng thay đổi. Qua chủ đề này sẽ chỉ ra cho chúng ta
thấy rõ những quan điểm của mọi người trong việc phát triển cách đánh giá về phạm vi, mức độ
kiểm soát và làm chủ số phận ở mỗi người chúng ta. Khi một cá nhân nhận được những thông tin
kết quả về sự thành công hay thất bại của những hoạt động mà họ thực hiện hoặc khi mà một vài
thứ bị thay đổi trong môi trường xung quanh họ, và tùy theo quan điểm mỗi người sẽ đưa ra
những lời giải thích khác nhau cho những kết quả và những sự thay đổi đó. Phần lớn họ sẽ đưa ra
những lời biện hộ cho những kết quả đó để bênh vực cho mình, bên cạnh sự thừa nhận còn có cả
những lời phủ nhận đối với những kết quả đó, họ cố gắng để thay đổi chúng. Nếu những cá nhân
có khuynh hướng đưa ra những lời giải thích về những kết quả họ đạt được hôm nay là phụ thuộc
vào những hành động ngày hôm qua, thì gọi đó là những người có khuynh hướng kiểm soát bên
trong (“Chính tôi là nguyên nhân quyết định đến sự thành công hay thất bại của mọi sự thay
đổi”). Còn nếu những cá nhân đưa ra những lời giải thích hàm ý sự phụ thuộc vào những thế lực
bên ngoài, thì được gọi là những người có khuynh hướng kiểm soát bên ngoài (“Thành công hay
thất bại còn phải tùy thuộc vào ý trời”). Bên cạnh đó, người ta cũng đang dần hình thành cho
mình một “sự trông chờ có tính chung chung” trong nhận thức của mình về những thế lực có thể
Chương 1: Tự nhận thức - 37

ủng hộ, khuyến khích và bênh vực họ. Họ trở nên chờ đợi vào sự kiểm soát bên ngoài và ngay cả
bên trong khi môi trường thay đổi.
Trên 1000 cuộc nghiên cứu điều tra về sự nhận thức mức độ kiểm soát đã được tiến hành.
Ở một cuộc nghiên cứu về sự thành công của các nhà quản trị ở Bắc Mỹ thì người ta thấy rằng
phần lớn họ là những người có xu hướng nhận thức về sự kiểm soát bên trong, nhưng ngược lại
đối với những nhà quản trị ở các nước Trung Đông và ở Châu Á thì họ lại có xu hướng ngược lại,
tức họ tin sự thành công của họ có sự can thiệp bởi các thế lực bên ngoài. Ở Nhật, cũng không
ngoài quy luật đó, phần lớn các nhà quản trị thiên về sự kiểm soát bởi các thế lực bên ngoài, tuy
nhiên bên cạnh đó nó còn kết hợp với tình trạng căng thẳng và bạo lực gia tăng giữa các thanh
thiếu niên ở nước này, điều này cũng có thể là do họ ít nhấn mạnh đến nhận thức về việc tự kiểm
soát. Đối với văn hoá Mỹ, càng nhận thức mạnh mẽ về sự kiểm soát bên trong thường đi đôi với
những sự thành công của họ. Những người có xu hướng nhận thức về sự kiểm soát bên trong
thường là những người có những đặc điểm như: (1) nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường
bên ngoài để từ đó họ có thể chắt lọc được những thông tin hữu ích cho công việc của họ; (2) tiến
hành nhiều hành động thiết thực để cải thiện môi truờng theo hướng có lợi cho họ hơn; (3) nỗ lực
hết mình để đạt được mục tiêu đã đặt ra; (4) sẵn sàng tiếp thu những cái mới để ngày càng hoàn
thiện những kỹ năng của bản thân; (5) biết đặt ra nhiều câu hỏi thông minh xung quanh vấn đề và
(6) nhớ được nhiều thông tin hơn những người có sự nhận thức về sự kiểm soát bên ngoài.
Kết quả điều tra ở một số cuộc nghiên cứu về các hoạt động của nhà quản trị cũng đã chỉ
ra rằng những cá nhân có khuynh hướng nhận thức sự kiểm soát bên trong thường là những
người ít bị chi phối bởi những yếu tố bên ngoài của môi trường, họ cảm thấy thoải mái đối với
công việc hiện tại của mình, họ ít bị căng thẳng bởi công việc và là những con người năng động ở
mọi vị trí công việc hơn so với những người có khuynh hướng nhận thức sự kiểm soát bên ngoài.
Ở kết quả của một cuộc nghiên cứu khác về tinh thần lãnh đạo và thành tích trong hoạt động quản
trị thì các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng những người có xu huớng nhận thức kiểm
soát bên trong thường là những người thích hợp với vai trò là người lãnh đạo, họ là những người
đạt được nhiều thành công và hiệu quả hơn trong công việc so với những người có khuynh hướng
nhận thức về sự kiểm soát bên ngoài. Những người có xu huớng nhận thức kiểm soát bên trong
thường là những người thực hiện tốt hơn những người khác trong những tình huống gây ra căng
thẳng (Stressful Situation), ngay cả trong những hoạt động quản trị, ngoài ra họ thường là những
người rất lanh lợi và đạt được sự thành công cao hơn trong công tác quản trị so với những người
có nhận thức sự kiểm soát bên ngoài. Sự khác nhau giữa hai nhóm khuynh hướng này cũng thể
hiện ở uy tín và quyền lực trong lúc thực hiện công việc. Những nhà lãnh đạo có khuynh hướng
nhận thức bên ngoài thường có khuynh hướng điều hành dựa vào quyền lực và những lời đe dọa,
ngược lại những nhà lãnh đạo có khuynh hướng nhận thức bên trong thường dựa nhiều hơn vào
sự tin tưởng và sự thành thạo chuyên môn, đối với họ đó chính là nguồn gốc để tạo ra quyền lực
của nhà quản trị. Và một kết luận cuối cùng, đó là những người có khuynh hướng nhận thức bên
trong thường là những người thích hợp hơn với công việc của một nhà lãnh đạo. Trên đây là các
38 – Chương 1: Tự nhận thức

kết quả được rút ra từ nhiều cuộc nghiên cứu tiêu biểu của một số tác giả mà chúng tôi muốn
trình bày cho các bạn.
Một cuộc nghiên cứu về khuynh huớng nhận thức sự kiểm soát đã được điều tra đối với
các nhà quản trị cấp cao đã chứng minh được rằng hầu hết các công ty đều sử dụng sự lãnh đạo
với khuynh hướng nhận thức bên trong trong hoạt động kinh doanh của mình, và các công ty lãnh
đạo theo khuynh hướng này thường thành công hơn đối với những công ty lãnh đạo theo khuynh
hướng khác về những sự đổi mới, trong những dự án mạo hiểm, những vị trí dẫn dầu thị trường,
những kế hoạch chiến lược dài hạn, sự nắm bắt nhanh chóng những sự thay đổi của môi trường
xung quanh và là những hãng đi đầu trong việc sở hữu những kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đối
với văn hoá Mỹ, thì người ta quan niệm rằng: những người đi theo khuynh hướng nhận thức bên
ngoài thường là những người hay gặp trở ngại, trắc trở trong cuộc sống.
Một cuộc nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng khuynh hướng nhận thức bên trong là hoàn toàn
không phải là một “loại thuốc diệu kỳ” có thể chữa được tất cả các “bệnh” trong hoạt động quản
trị. Và nó cũng chẳng phải là một điều tượng trưng hoàn toàn cho tính tính cực, tính hiệu quả. Và
các cá nhân với khuynh hướng nhận thức kiểm soát bên ngoài thường thích hợp cho những nhà
quản trị trong giai đoạn đầu trước khi họ trở thành những nhà quản trị thực sự (vì đây là giai đoạn
đòi hỏi sự tiếp thu những nhiệm vụ của một nhà quản trị thực sự). Những người có khuynh hướng
nhận thức bên ngoài là những người có khả năng tiếp thu và học hỏi tốt hơn những người khác,
họ có khả năng tiếp nhận một cách chính xác những thông tin phản hồi về những sự thành công
và thất bại của chính mình. Những người có khuynh hướng nhận thức bên trong thường là những
người rất khó khăn để đi đến những quyết định nhanh chóng đối với những vấn đề có thể gây ra
những hậu quả nghiêm trọng đến những người khác.
Nhận thức về nơi kiểm soát (bên trong hoặc bên ngoài) sẽ giúp chúng ta có thể nhận biết
được những mặt mạnh và mặt yếu ở mỗi chúng ta, cụ thể hơn, khuynh hướng nhận thức sự kiểm
soát nếu ta đặt đúng chỗ ở từng tình huống cụ thể sẽ giúp đỡ chúng ta rất nhiều trong công việc,
và các bạn cũng hãy nhớ một điều rằng khuynh huớng kiểm soát bên ngoài không phải là một
khuynh hướng xấu, và nó cũng không thể là nguyên nhân để ngăn cản các bạn trở thành một nhà
lãnh đạo ở những vị trí cao trong tổ chức của mình. Bởi vậy, chẳng có vấn đề gì phải lo lắng cả
về điểm số bạn đã đạt được trong bài đánh giá về khuynh hướng kiểm soát bên trong - bên ngoài
của bạn. Bạn hoàn toàn có thể trở thành một nhà quản trị thành đạt, có thể lựa chọn cho riêng
mình khuynh huớng kiểm soát bên trong hay bên ngoài. Chúng ta sẽ thành công khi chúng ta biết
làm chủ và kiểm soát được mọi thứ dù ở trong hoàn cảnh nào thuộc bất cứ nền văn hoá nào đi
nữa.
Phần đánh giá nơi kiểm soát (bên trong hoặc bên ngoài) của mục đánh giá kỹ năng sẽ
giúp các bạn có được một mức điểm số cụ thể, từ đó chúng ta sẽ nhận ra được một phạm vi kiểm
soát bên trong - bên ngoài của chính bản thân mình. Những thông tin giải thích về điểm số và một
vài sự so sánh sẽ được trình bày trong phần giải đáp trắc nghiệm.
Chương 1: Tự nhận thức - 39

Tóm lại, sự kết hợp giữa hai điểm chính của những quan điểm có khuynh hướng thay đổi
là: Khả năng chịu đựng sự mơ hồ (Tolerance Of Ambiguity) và nhận thức về sự kiểm soát (Locus
of Control) sẽ tạo ra những sự thành công trong việc của những nhà quản trị nếu họ có một cái
nhìn nhận đúng về nó. Biết rõ được điểm số mà bạn đạt được ở phần đánh giá của hai mục này sẽ
giúp bạn biết cách để phát huy những điểm mạnh của chính mình để tạo ra những sự thành công
tiềm năng bên trong của các bạn. Trong khi đó, kết quả ở một số cuộc nghiên cứu quan trong
khác lại chỉ ra rằng sự kết hợp giữa những hành vi quản trị cụ thể cùng với sự nhận thức về
khuynh hướng kiểm soát và khả năng chịu đựng sự mơ hồ sẽ không đảm bảo cho sự thành công
của những nhà quản trị, cũng như đảm bảo cho họ có thể giải quyết tốt được những vấn đề mà
các nhà quản trị gặp phải. Hiểu rõ được những điểm số bạn đạt được, bạn có thể chọn lựa những
cách giải quyết những vấn đề, những tình huống mà bạn cảm thấy thoải mái, đạt được kết quả
thực hiện cao, sẽ hiểu được những quan điểm, cách nhìn nhận của bạn đối những tình huống khác
nhau. Việc tự nhận thức là điều kiện tiên quyết để bạn có thể tự cải thiện và làm mới nhận thức
của bản thân mình.
1.4.4. Định hướng giao tiếp giữa các cá nhân (Interpersonal orientation)
Khía cạnh thứ tư của việc tự nhận thức đó là những định hướng quan hệ giữa các cá nhân
với nhau. Đối với khía cạnh này, có sự khác biệt so với ba khía cạnh trước đó là định hướng giao
tiếp giữa các cá nhân có mối quan hệ trực tiếp đến những khuynh huớng hành vi và đến những
mối quan hệ với những người khác, tuy nhiên định hướng giao tiếp giữa các cá nhân lại không có
mối liên hệ gì đến những khuynh hướng và những thuộc tính tâm lý của mỗi người. Bởi vì công
việc của một nhà quản trị được xem là điển hình tiêu biểu cho những mối quan hệ giữa các cá
nhân với nhau, những định hướng quan hệ giữa các cá nhân với nhau, hoặc là những định hướng
về hành vi cư xử đối với những người xung quanh, và đây cũng chính là những thuộc tính điển
hình quan trọng của tự nhận thức. Những nhà quản lý là những người bắt buộc phải giao tiếp, tiếp
xúc với những người khác, và tính cách của họ mà không tích cực hướng đến những hành động
ứng xử với những người khác thì thật dễ gây sự thất bại trong hoạt động của mình. Hiệu quả và
những loại của hoạt động giao tiếp có thể biến đổi trong một phạm vi khá lớn, không thể lường
trước được. Do đó, thật rất quan trọng cho bạn để nắm rõ những xu hướng giao tiếp và những
khuynh hướng để cực đại hoá đến mức có thể sự thành công trong giao tiếp.
Sự định hướng giao tiếp giữa các cá nhân không phản ánh những mẫu hành vi có thực
trên thực tế được trình bày ở những tình huống giữa cá nhân. Đúng hơn, nó cũng chỉ ra những
khuynh hướng cơ bản để đưa ra những hành vi cụ thể trong những tình huống cụ thể, bất chấp sự
tác động của những người nào hoặc hoàn cảnh nào. Nói chung, sự định hướng giao tiếp giữa các
cá nhân với nhau được kích thích xuất hiện xuất phát từ nhu cầu cơ bản của của mỗi cá nhân để
tạo mối quan hệ với những người khác.
Một thuyết khá nổi tiếng đã được nghiên cứu bởi Schutz, một giả định cơ bản trong mô
hình của ông đó là “mọi người luôn cần nhau” (People need people) và tất cả các cá nhân đều cố
40 – Chương 1: Tự nhận thức

gắng tìm kiếm cho mình những mối quan hệ tương thích với những cá nhân khác trong những
hoạt động giao tiếp xã hội. Và khi họ tạo dựng được những mối quan hệ đó và cố gắng phấn đấu
giữ vững sự tương thích đó, từ đó, 3 nhu cầu giao tiếp giữa các cá nhân cần được thoả mãn nếu
như mỗi cá nhân đều cố gắng thực hiện nó một cách hiệu quả và tránh những mối quan hệ không
tương thích.
Đầu tiên đó là nhu cầu cho sự kết hợp. Mọi người đều rất cần duy trì một mối quan hệ
với ngưòi khác, để tương tác những hoạt động của chính mình với hoạt động của những người
khác. Ở một mức độ nào đó, tất các cá nhân đều muốn mình trở thành một thành viên trong một
nhóm nào đó, nhưng đồng thời họ lại muốn xa rời, muốn được độc lập. Họ cần một sự bảo đảm
rằng những người khác không lãng quên họ, trong khi đó họ cũng lại muốn để mình được độc
lập. Ở đây, có một sự tồn tại gắn kết ngẫu nhiên giữa hai khuynh hướng: đó là sự hướng ngoại và
sự hướng nội. Giữa các cá nhân có một sự khác nhau về những điểm mạnh về nhu cầu quan hệ
của họ đó là: (1) Nhu cầu gắn kết với người khác (2) Nhu cầu được người khác gắn kết với mình.
Nhu cầu thứ hai, đó là nhu cầu cho sự kiểm soát: Đây là nhu cầu để duy trì một sự cân
đối thoả đáng về quyền lực và uy thế trong các mối quan hệ. Tất cả các cá nhân rất cần để nắm
giữ được một mức độ kiểm soát nào đó, một sự chỉ huy, một sự điều khiển những ngưòi khác
trong khi đó họ cũng mong muốn mình được độc lập (không bị ai kiểm soát). Tất cả mọi người
đều có nhu cầu để bị kiểm soát, bị chỉ huy, bị điều khiển bởi những người khác, nhưng đồng thời
họ lại muốn để duy trì một sự độc lập làm theo ý mình. Về cơ bản thì đây là một sự kết hợp giữa
sự phụ thuộc và sự độc lập. Do đó, sự khác nhau giữa các cá nhân xuất hiện, nhu cầu muốn để
người khác kiểm soát hoặc muốn kiểm soát người khác.
Nhu cầu thứ ba đó là nhu cầu về sự thân thiện: Hoặc nhu cầu về sự thiết lập một mối
quan hệ thân thiết với những nguời khác. Nhu cầu này bao gồm những thuộc tính như: sự nhiệt
tình, sự quen thân, và có một sự đồng thuận từng phần nhỏ về hành vi của nhau. Tất cả các cá
nhân đều mong muốn để xây dựng một mối quan hệ thân thiết với người khác, nhưng đồng thời
họ lại rất muốn để tránh trở nên tận tâm quá mức hay chặt chẽ quá mức. Tất cả mọi người đều
muốn có một người nào đó cùng sẻ chia tâm sự với mình, luôn thể hiện sự nhiệt tình, ủng hộ với
mình và có một sự ảnh hưởng nhất định đến mình, nhưng đồng thời họ lại cũng cần duy trì một
khoảng cách nhất định nào đó. Đây là một sự kết hợp giữa nhu cầu sáp nhập cao với nhu cầu độc
lập cao. Do đó mọi người thường có nhu cầu khác nhau: đó là muốn thể hiện khuynh hướng thân
thiện với những người khác và muốn được những người khác thân thiện với mình.
Như vậy, mỗi loại nhu cầu nêu trên đều được thể hiện ở hai mặt, một mặt được thiết kế để
thể hiện nhu cầu và một mặt được thiết kế để thể hiện việc nhận được những hành vi tác động lại
từ những người khác. Qua 3 loại thước đo về nhu cầu sẽ xác định khuynh huớng giao tiếp của
mỗi cá nhân. Và mỗi cá nhân sẽ tạo cho mình một sự khác biệt về mức độ nhu cầu giao tiếp với
những ngưòi khác, trong việc đưa ra hoặc nhận được những hành vi khi tương tác với những
người khác được diễn ra.
Chương 1: Tự nhận thức - 41

Trong phần đánh giá kỹ năng, chúng tôi cũng đã cung cấp cho các bạn mô hình của
Schutz để đánh giá mức độ về nhu cầu kết hợp, nhu cầu kiểm soát và nhu cầu thân thiện. Khi
hoàn thành mục đánh giá này hãy sử dụng bảng điểm và những lời chỉ dẫn tại phần giải đáp trắc
nghiệm, nhớ là phải tính tổng điểm số của bạn cho từng mục về nhu cầu giao tiếp giữa các cá
nhân. Và bài thảo luận về những định huớng giao tiếp giữa các cá nhân với nhau trong phần này
sẽ rất bổ ích cho bạn nếu như bạn đã hoàn thành được bảng điều tra FIRO-B (Fundamental
Interpersonal Relations Orientation – Behavior) trong phần đánh giá kỹ năng.
Sau đây là một số cách cần sử dụng để phân tích và làm sáng tỏ về điểm số mà bạn đạt
được. Bạn có thể so sánh những điểm số về sự thể hiện (Expressed) với điểm số về sự mong
muốn (Wanted) để xác định cho bạn một phạm vi cụ thể, và nằm trong vòng phạm vi đó bạn có
thể chủ động đưa ra những hành vi mà mình mong muốn. Những người có được một mức điểm
số cao về sự thể hiện và một mức điểm số khá thấp về sự mong muốn thì được gọi là những
người có khả năng kiểm soát, thể hiện bởi vì họ có thể đưa ra những hành động nhưng lại không
sẵn sàng chấp nhận việc được phản hồi lại. Và ngược lại những người có một số điểm khá cao về
sự mong muốn và có một điểm số khá thấp về sự thể hiện thì họ được gọi là những người bị động
bởi vì những cá nhân này là những người rất mong muốn để nhận được những lời phản hồi nhưng
lại không sẵn sàng để chủ động khởi xướng hay lôi kéo những người khác tham gia vào một cuộc
giao tiếp.
Nhờ việc so sánh những điểm số của từng nhu cầu, bạn có thể xác định nhu cầu nào trong
giao tiếp là cần thiết nhất cho bạn. Trong các điểm số bạn đạt được ở 3 loại nhu cầu thì nhu cầu
mà có điểm số cao nhất chính là loại nhu cầu thích hợp và đặc trưng nhất của chính bạn.
Ngoài ra còn có một số cách khác để làm sáng tỏ điểm số của bạn, đó là các bạn hãy lấy
số điểm mà bạn có được để so sánh với những mức điểm được trình bày trong biểu 1.4. Chúng ta
sẽ thấy các khoảng điểm trong mỗi ô (Ví dụ như là 4-7) nhằm chỉ ra một khoảng phạm vi điểm
trung bình. Ít nhất 50% trong chúng ta nằm trong phạm vi này. Còn những con số nằm ở hàng
dưới những khoảng điểm này (Ví dụ như là 5.4) chính là những mức điểm trung bình của mỗi
khoảng phạm vi này. Giả dụ như điểm số bạn đạt được là 6 thuộc ô nhu cầu về sự kiểm soát được
thể hiện (Expressed control cell), tức ở nhu cầu này, bạn đã đạt được một số điểm cao hơn 75%
những người khác. Nhưng nếu số điểm bạn đạt được chỉ là 2 ở ô nhu cầu về sự ảnh hưởng được
thể hiện (Expressed affection cell), tức bạn chỉ đạt được một số điểm thấp hơn 75% những người
khác.

Biểu 1.4: Đỉểm số trung bình FIRO-B

Kết hợp Kiểm soát Ảnh hưởng Tổng điểm số

Thể hiện với người 4–7 2–5 5–6 9 – 18


khác (expressed) 5.4 3.9 4.1 13.4
42 – Chương 1: Tự nhận thức

Mong muốn từ 5–8 3–6 3–6 11 – 20


người khác 6.5 4.6 4.6 15.9
(wanted)

Tổng điểm số 9 – 15 5 – 11 6 – 12 20 – 38
11.9 8.5 8.9 29.3

Và mức điểm nằm ở hàng dưới tính từ phải qua (được tính bằng cách lấy tổng số điểm ở
Mục thể hiện (Expressed) và Mục đòi hỏi (Wanted)) được gọi là những chỉ số nhu cầu giao tiếp.
Những mức điểm này nhằm mô tả tất cả các mức độ nhu cầu tương tác. Và mức điểm cao nhất đó
là 54. Những người đạt số điểm cao là những người có những nhu cầu rất mạnh mẽ trong việc
tương tác với những người khác. Họ là những người có những đặc trưng như thích giao du, thân
thiện, cởi mở và thích kết bạn với những người khác. Ngược lại, những người đạt mức điểm thấp
là những người có tính nhút nhát và kín đáo.
Và kết quả của một số cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng những sinh viên kinh tế là những
người có một sự khác biệt to lớn ở chỉ số giao tiếp xã hội, chỉ số này ở mức cao hay thấp còn tuỳ
thuộc vào những ngành nghề lĩnh vực chính mà họ đang theo đuổi. Sinh viên ngành Kế toán và
ngành Phân tích Hệ thống có chỉ số trung bình lần lượt là 22.3 và 22.6 (thấp hơn mức trung bình).
Sinh viên ngành Marketing và ngành Quản trị nguồn nhân lực có chỉ số trung bình lần lượt là
31.0 và 31.9 (Cao hơn mức trung bình). Trong khi đó, sinh viên ngành Tài chính, Quản trị kinh
doanh và ngành kỹ thuật là những người có chỉ số ở mức trung bình. Tồn tại sự khác nhau này là
do có sự khác nhau về những khuynh hướng tương tác với những người khác và yêu cầu đặc tính
riêng biệt ở mỗi ngành nghề là khác nhau, những yếu tố này phần nào sẽ quyết định sự thành
công trong những ngành nghề mà họ theo đuổi.
Lợi ích của những điểm số này là phục vụ cho việc phân tích tính tương hợp giữa các cá
nhân với nhau - Sự tương xứng giữa điểm của một cá nhân nào đó với những điểm số của những
người khác. Và có thể có những cá nhân thuộc dạng xung khắc với những ngưòi khác, người ta
có thể chia sự xung khắc đó ra làm ba dạng khác nhau cơ bản. Để giải thích 3 dạng xung khắc
khác nhau, hai giả thuyết được sử dụng trong biểu 1.5. Sau đây, chúng ta sẽ nói rõ hơn về 3 dạng
xung khắc mà chúng ta thường hay gặp nhất.

Biểu 1.5: Ví dụ 2 trường hợp điểm số FIRO-B

Quản trị viên

Kết hợp Kiểm soát Ảnh hưởng Tổng điểm số

Thể hiện với người khác 9 9 1 19


Chương 1: Tự nhận thức - 43

(E)

Mong muốn từ người 8 4 3 15


khác (W)

Tổng điểm số 17 13 4 34

Nhân viên

Thể hiện với người khác 3 8 6 17


(E)

Mong muốn từ người 2 2 8 12


khác (W)

Tổng điểm số 5 10 14 29

Dạng thứ nhất được gọi là xung khắc “Có qua có lại” (reciprocal). Nó nhằm nói đến một
sự kết hợp giữa một người có hành vi nghiêng về sự thể hiện, với một người khác thường có hành
vi nghiêng về sự mong muốn. Ví dụ, nếu một người đang có nhu cầu cao để thể hiện sự kiểm soát
của mình đối với người khác nhưng lại gặp phải những người không muốn chịu một sự kiểm soát
từ người khác, như thế được gọi là sự xung khắc “Có qua có lại”. Công thức để đo lường và
lượng hoá mức độ xung khắc này có dạng như sau:
| ME - SW | + |SE - MW |, với:
ü ME (Manager Expressed) và MW (Manager Wanted) lần lượt là số điểm về sự thể
hiện và số điểm về sự mong muốn của nhà quản trị;
ü SE (Subordinate Expressed) và SW (Subordinate Wanted) lần lượt là số điểm về sự thể
hiện và số điểm về sự mong muốn của nhân viên cấp dưới.
Như vậy, nhờ có dấu trị tuyệt đối nên khi thế số vào công thức trên thì nó sẽ cho ra một
giá trị tuyệt đối (không có số âm). Dữ liệu cho mỗi vùng được trình bày rõ ràng ở biểu 1.6, ở từng
vùng của sự xung khắc có qua có lại, tồn tại giữa những nhà quản trị và những nhân viên cấp
dưới được thể hiện cụ thể trong biểu 1.6. Tra biểu 1.6 và thế vào công thức trên ta có được:
|9 - 2 | + |3 - 8| = 12
Nếu mức điểm đạt được là cao hơn 6 có nghĩa rằng nơi đó đang có sự hiện diện một sự
xung khắc càng mạnh. Trong trường hợp này, các nhà quản trị đang có một nhu cầu mạnh mẽ về
mong muốn kết hợp với những người khác và kể cả mong muốn được người khác kết hợp với
mình, nhưng nhân viên cấp dưới lại là những người có nhu cầu thấp ở cả hai thuộc tính của sự kết
hợp. Như vậy, ở đây đang tiềm ẩn một sự mâu thuẫn giữa các cá nhân đang dâng trào trong khu
44 – Chương 1: Tự nhận thức

vực này, đặc biệt hơn nếu những hành vi kết hợp (ví dụ như: làm việc nhóm), được đòi hỏi trong
mối quan hệ giữa các thành viên
Loại xung khắc thứ hai đó là sự đứng đầu (originator). Nó nhằm ám chỉ đến một sự kết
hợp giữa những cá nhân có số điểm cao về sự thể hiện. Sự xung khắc về người đứng đầu xuất
hiện khi cả hai người đều muốn là những người khởi xướng trong một khu vực nào đó và kể cả
trường hợp cả hai ngưòi đều không muốn là người khởi xướng ban đầu. Công thức để đo lường
mức độ xung khắc về sự đứng đầu được thể hiện như sau:
(ME - MW ) + (SE - SW )
Trong công thức trên, do sử dụng dấu ngoặc đơn nên kết quả của công thức thức này có
thể là một số âm. Dữ liệu được lấy từ biểu 1.6 sẽ làm cho sự xung khắc về người đứng đầu được
minh họa rõ hơn. Cả nhà quản trị và nhân viên cấp dưới đều muốn sự kiểm soát thuộc về phía
mình, nhưng lại không có ai có nhu cầu cao về việc bị người khác kiểm soát. Mức điểm về sự
xung khắc này được tính như sau:
(9 - 4 ) + (8 - 2) = +11
Những trường hợp đạt mức điểm cao hơn +6 thì đó là những trường hợp mà có sự xung
khắc về sự cạnh tranh ngưòi đứng đầu. Nếu kết quả cho ra là một mức điểm thấp hơn -6 thì nơi
đó đang tồn tại một sự hờ hững đối với sự xung khắc về người đứng đầu. Sự xung khắc có tính
mờ nhạt xuất hiện khi không có cá nhân nào muốn trở thành đứng đầu trong khu vực đó hoặc
cũng không có cá nhân nào là muốn kiểm soát hay đứng ra gánh vác nhiệm vụ, cả hai bên đều
mong muốn bên kia sẽ đứng ra lãnh đạo cho mình.
Loại thứ ba đó là đó là sự xung khắc hoán đổi (interchange). Loại xung khắc này nhằm
chỉ ra trường hợp mà cả hai bên đều nhấn mạnh đến những nhu cầu thân thiện cùng giống nhau
hoặc cùng khác nhau về một mức độ nào đó. Sự xung khắc về sự đổi chỗ tồn tại nếu một người
nào đó nhấn mạnh đến nhu cầu kiểm soát cao trong khi những người khác lại nhấn mạnh đến
những nhu cầu thân thiện cao. Khi vấn đề giữa các cá nhân diễn ra thì một bên sẽ rất thích xác
định vấn đề như là một sự kiểm tra, một sự điều khiển, hoặc một sự ảnh hưởng, trong khi bên kia
thì lại rất thích để xác định vấn đề như là một sự thân thiết, sự san sẻ hoặc một sự yêu mến. Sự
khó khăn trong cách nhận dạng và giải quyết vấn đề xuất hiện khi mà hai bên có sự nhìn nhận và
đánh giá khác nhau đối với cùng một vấn đề hoặc tình huống giống nhau. Công thức để đo lường
sự xung khắc về sự hoán đổi được thể hiện như sau:
|(ME + MW) - (SE + SW )|
Và như chúng ta thấy, công thức trên có sử dụng dấu trị tuyệt đối nên kết quả cuối cùng
sẽ cho ra một giá trị tuyệt đối (không âm). Dữ liệu về sự thân thiện được thể hiện ở bảng 1.6, một
sự xung khắc có thể tồn tại trong khu vực đó. Sự thân thiện là một nhu cầu thường xuất hiện đối
với những nhân viên cấp dưới nhưng ngược lại đối với những nhà quản lý thì sự ảnh hưởng chỉ là
Chương 1: Tự nhận thức - 45

một nhu cầu thấp (Những trường hợp ngược lại thì thường tồn tại ở sự bao quát). Thay giá trị
vào công thức ta có được kết quả như sau:
|(1 + 3) - (6 + 8)| = 10
Nếu điểm số đạt được là lớn hơn 6, điều này có nghĩa rằng có một sự xung khắc rất lớn
trong khu vực này. Nhu cầu của các nhân viên cấp dưới về sự thân thiện bị lờ đi và thậm chí còn
bị loại bỏ trong mối quan hệ giữa họ với các nhà quản trị.
Sử dụng 3 công thức đo lường mức độ xung khắc này cho phép chúng ta lượng hoá được
mức độ của những sự xung đột. Vì thế chúng ta có thể có được một điểm số chung về sự xung
đột bằng cách chúng ta tính tổng điểm số ở 3 loại nhu cầu. Kết quả sau khi lấy tổng 3 loại nhu
cầu sẽ được thể hiện trong biểu 1.6 (Biểu 1.6 chỉ mang tính minh họa cho một trường hợp cụ thể,
mỗi trường hợp sẽ có những kết quả khác nhau).

Biểu 1.6: Điểm số xung khắc giữa 2 cá nhân quản trị viên và nhân viên

Dạng xung khắc Kết hợp Kiểm soát Ảnh hưởng

Có qua có lại 12 11 10

Đứng đầu 2 11 -4

Hoán đổi 12 3 10

Tổng xung khắc (điểm tuyệt 75


đối)

Dựa vào điểm số về sự xung khắc sẽ chỉ ra nguy cơ sẽ gặp những khó khăn để tương tác
với nhau trong mối quan hệ giữa nhà quản trị với các nhân viên cấp dưới của mình. Nguy cơ tiềm
tàng đối với mỗi tổ chức đó là sự không gặp gỡ giữa nhu cầu của một số người nào đó với những
người còn lại trong cùng một tổ chức (Sự xung khắc “có qua có lại”) hoặc ai cũng muốn có sự
kiểm soát người khác nhưng lại không có ai muốn bị người khác kiểm soát nguời khác cả (Sự
xung khắc “người đứng đầu”) hoặc tồn tại sự khác nhau một cách rõ nét về cách tư duy ở mỗi
người (Xung khắc “hoán đổi” có thể diễn ra ở hai loại nhu cầu là: sự thân thiện và sự kiểm soát),
và vì sự không tương thích này có thể dẫn đến một cuộc xung đột trong mối quan hệ giữa họ.
Một cuộc nghiên cứu cũng đã khẳng định tính đúng đắn của những lời dự đoán này. Điểm
số về sự xung khắc trong tổ chức là thấp khi quan điểm và thái độ của các nhân viên cấp dưới và
các nhà quản trị là giống nhau. Quan điểm và thái độ của người giáo viên sẽ tác động một cách
hiệu quả đối với những sinh viên khi mà giữa họ đạt được điểm số về sự tương thích cao. Sinh
viên sẽ đạt được những thành tích cao trong lớp khi có một sự tương thích cao với giáo viên dạy
họ, và kể cả trong việc kết bạn cũng vậy, chúng ta thường có khuynh hướng chọn những người
46 – Chương 1: Tự nhận thức

bạn mà có sự tương thích về quan điểm và thái độ với chúng ta. Thậm chí người ta cũng đã
chứng minh được rằng sự thành công của các bác sĩ trong việc điều trị bệnh chịu ảnh hưởng bởi
mức độ xung khắc.
Và ở đây người ta cũng đã chứng minh được rằng những nhóm làm việc bao gồm những
thành viên có sự tương thích với nhau thì họ sẽ làm việc hiệu quả và đạt được nhiều thành công
hơn những nhóm làm việc mà chỉ gồm toàn là những thành viên không tương thích với nhau.
Theo đó người ta cũng đã tìm thấy được những đặc điểm điển hình của một nhóm làm việc tương
thích với nhau, đó là:
• Giữa các thành viên tồn tại một sự lôi cuốn, hấp dẫn để cùng làm việc với nhau
• Một xu hướng chung được thiết lập một cách rõ ràng giữa các thành viên
• Tồn tại một sự cộng tác giữa các thành viên để hoàn thành nhiệm vụ chung
• Đưa ra cách giải quyết vấn đề nhanh chóng
• Ít khi gặp phải sai lầm trong cách giải quyết vấn đề
• Giữa các thành viên luôn có sự thống nhất với nhau
Biết được khuynh hướng giao tiếp giữa các cá nhân có thể là một yếu tố quan trọng để tạo
nên sự thành công trong hoạt động quản trị. Nó không chỉ có tác dụng cải thiện mối quan hệ giữa
những nhà quản trị với những người khác mà nó còn có thể giúp bạn phán đoán và nhận ra những
nhu cầu không tương thích với những thành viên cấp dưới để từ đó có được những sự điều chỉnh
phù hợp. Ngoài ra nó cũng sẽ giúp bạn đánh giá lựa chọn những hành vi thích hợp khi bạn cố
gắng giải quyết những sự xung đột diễn ra giữa các cá nhân trong tổ chức. Có một số vấn đề có
thể được giải quyết một cách đơn giản nhờ vào những hành động kết hợp (inclusion activities),
bởi vì nó cho phép những người khác thể hiện một phần nhỏ sự kiểm soát của mình trong đó,
hoặc cũng có thể là nhờ vào việc xác định lại cách nhìn nhận vấn đề, xem đó như là sự thể hiện
một sự ảnh hưởng (affection) hơn là xem nó là biểu hiện của một sự kiểm soát (control).

PHÂN TÍCH KỸ NĂNG


Các tình huống khó xử
Đối với mỗi trường hợp trong 2 kịch bản ở bên dưới, hãy đưa ra lựa chọn của bạn nếu bạn là
người trong cuộc.
1. Chuyên gia AI
Bình là một chuyên gia trong lĩnh vực AI và đang có một công việc phù hợp với năng lực
với anh tại một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao ở Đà Nẵng. Một
công ty nước ngoài vừa mới thâm nhập thị trường công nghệ cao tại Đà Nẵng đã phát hiện tài
năng của Bình và chào mời làm việc ở một vị trí tương xứng với mức lương gấp 2 lần tiền lương
hiện tại của anh ấy. Công ty nhà nước đang tìm cách để cản trở anh ta thay đổi công việc, và họ
cho rằng kiến thức và kỹ năng của anh Bình về những quy trình công nghệ mới và ứng dụng AI
Chương 1: Tự nhận thức - 47

nhất định sẽ đưa đến cho đối thủ những lợi thế cạnh tranh không công bằng. Một khi anh Bình đã
thu nhận, tích luỹ được những kiến thức, phát triển kỹ năng đó thông qua sự huấn luyện và những
cơ hội đặc biệt trong thời gian anh ta tại vị, công ty lập luận rằng thật là không đúng đạo lý nếu
anh Bình chấp nhận đề xuất của đối thủ.
Nhưng với lời đề nghị hấp dẫn từ đối thủ, anh Bình không thể không suy nghĩ. Anh cần
phải làm gì?
-------------------------- chấp nhận đề xuất
-------------------------- từ chối đề xuất

2. Nhân viên kế toán


Minh Anh là một nhân viên kế toán và vừa mới đề bạt kế toán trưởng ở công ty Hưng Phát.
Giám đốc của cô là anh Tuấn Đạt và là một người đồng hương từ một vùng quê nghèo của cô. Từ
khi học đại học kinh tế, Minh Anh cũng đã quen biết Tuấn Đạt và nhận được sự giúp đỡ của ông
ta. Tình cờ trong thời gian học năm hai ở trường đại học, trong chương trình các nhà doanh
nghiệp tài trợ cho sinh viên nghèo hiếu học, họ nhận ra là người đồng hương cũ. Từ đó anh Tuấn
Đạt thường xuyên tài trợ và cũng trợ giúp cho Minh Anh giải quyết nhiều rắc rối trong cuộc sống.
Trong một lần về quê nhân dịp Tết Nguyên đán, họ mới hay thêm một tin mới, bất ngờ và thú vị,
Tuấn Đạt là người anh họ rất gần với Minh Anh.
Ngay khi ra trường, Minh Anh được anh Tuấn Đạt nhận vào làm việc tại công ty của ông.
Sau một năm làm việc chăm chỉ và ngoài ra kể như cũng đã có sự ưu ái, anh Tuấn Đạt đề bạt
Minh Anh làm kế toán trưởng, thay cho người kế toán trưởng vừa được chuyển sang phụ trách
một bộ phận khác. Tuy nhiên sau một thời gian ngắn làm việc, Minh Anh phát hiện giám đốc Đạt
đã có nhiều sai phạm trong các hợp đồng kinh tế với nhà nước. Trong đó có một hợp đồng do ông
Đạt ký đã gian lận khai khống chi phí thiết bị tăng thêm là 10 tỷ đồng.
Minh Anh rất bối rối trước tình thế trên. Cuối cùng Minh Anh cũng đã đi đến quyết định
trao đổi với anh Tuấn Đạt và gợi ý về việc nên dám chấp nhận sai sót trên với chính quyền và các
bên liên quan. Tuy nhiên anh Tuấn Đạt đã tìm cách lẫn tránh việc trao đổi thẳng thắn với cô. Vấn
đề đặt ra lúc này là Minh Anh sẽ nên làm gì?
Hãy cho biết quyết định của bạn nếu trường hợp bạn là Minh Anh (Nếu làm việc nhóm thì
đó là quyết định theo ý kiến thống nhất của nhóm)
1. Chấp nhận im lặng làm lơ sự sai trái của anh Đạt
2. Báo cơ quan công an để giải quyết vấn đề theo sự thật.
Vấn đề thảo luận
Hình thành một nhóm thảo luận nhỏ để thảo luận về các kịch bản trên những nội dung được
lưu tâm sau đây:
1. Tại sao bạn đã đưa ra sự lựa chọn của bạn trong mỗi trường hợp?
2. Những nguyên lý hoặc cơ sở đánh giá để bạn quyết định sử dụng trong mỗi trường hợp?
48 – Chương 1: Tự nhận thức

3. Thông tin bổ sung nào bạn cần để đưa ra những sự lựa chọn của bạn?
4. Những hoàn cảnh nào có thể xuất hiện để làm bạn thay đổi ý định của bạn về quyết định?

THỰC HÀNH KỸ NĂNG


1. Soi mình qua gương
Bài thực hành "soi mình qua gương" được phát triển để mô tả tiến trình con người sử
dụng để phát triển sự tự nhận thức. Những người khác và thực tại khách quan như là một tấm
gương cho mỗi chúng ta. Nó phản ánh những hoạt động và hành vi của chúng ta. Ngược lại,
chúng ta rèn luyện những quan niệm của chính bản thân chúng ta như là kết quả của sự quan sát
và sự hiểu biết về tấm gương này. Cách tốt nhất để rèn luyện thực sự những quan niệm của chính
mình là chia sẻ những suy nghĩ, thái độ, cảm nghĩ, những hoạt động và các kế hoạch của mình
với người khác. Bài tập thực hành này giúp bạn làm điều đó bằng cách để nghị bạn phân tích
phong cách và những khuynh hướng của chính bạn và sau đó chia sẻ và bàn bạc với người khác.
Bài tập chia sẻ này sẽ cung cấp một sự thấu hiểu bên trong mà bạn không nhận thức được trước
đó.
Như vậy, soi mình qua gương là một quá trình nỗ lực khám phá bản thân bằng cách bộc
bạch, chia sẻ quan điểm của mình với người khác, đánh giá họ nhìn nhận mình như thế nào và
ngoài ra thực hiện các trắc nghiệm tự đánh giá bản thân, phân tích tình huống, thảo luận,...Có
nghĩa là bạn sẽ thực hiện các nhiệm vụ của bài thực hành này bằng các cách thức sau:
BƯỚC 1: Khám phá và đối diện bản thân
- Bộc bạch, chia sẻ quan điểm của mình.
- Thăm dò người khác đánh giá gì về mình theo các khía cạnh khác nhau của kỹ năng
và các yếu tố cốt lõi tự nhận thức
- Nhìn nhận điểm nhạy, thừa nhận hạn chế
- Tranh luận với bạn và người thân về các vấn đề ra quyết định trong các tình huống
khó xử, tiến thoái lưỡng nan
- Đọc các tài liệu viết về văn hoá của các vùng miền và các dân tộc. Liên hệ đặc điểm
bản thân trên các khía cạnh văn hóa đó.
- Xây dựng triết lý giá trị, triết lý cuộc sống và bàn luận với các bạn học về nó.
- Trắc nghiệm kỹ năng và đặc điểm cá nhân (TN từ WA 1 đến WA7).
BƯỚC 2: Nhận diện sự khác biệt
Chia sẻ kết quả các điểm số trắc nghiệm và các đặc điểm cá nhân được nhận diện với một
nhóm bạn 4-5 người. Cụ thể lần lượt thực hiện việc chia sẻ và trả lời theo các câu hỏi sau:
1. Khi thực hiện những công cụ đánh giá (thực hiện các trắc nghiệm, đối diện bản thân,
chia sẻ quan điểm và ghi nhận đánh giá từ người khác,../như đã nêu trên). Tôi đã ngạc
nhiên bởi vì …
2. Những đặc điểm có ưu thế trội của tôi bị thu hút bởi những công cụ là…
3. Một số thế mạnh lớn nhất của tôi là …
4. Một số điểm yếu của tôi là …
5. Theo kinh nghiệm, tôi cảm thấy hầu hết thành công là …
Chương 1: Tự nhận thức - 49

6. Theo kinh nghiệm tôi cảm thấy khả năng yếu nhất là …
7. Ba ưu tiên cao nhất của tôi trong cuộc sống là …
8. Cách mà tôi khác biệt với hầu hết mọi người là …
9. Tôi sống tốt nhất với người mà người này …
10. Những người khác trong nhóm đã chia sẻ điều gì, đây là một ấn tượng mà tôi đã học
được được về mỗi người:…
Lần lượt mỗi người lần lượt thực hiện chia sẻ điểm số trắc nghiệm và đặc điểm cá nhân và
đánh giá như trên.
BƯỚC 3: Đúc kết
- Trả lời việc có tương đồng hay khác biệt nào đang tồn tại?. Có sự khác nhau về giới tính
hoặc chủng tộc có hệ thống không?,..
- Nhận diện và khớp nối những khía cạnh tự nhận thức của mình và để nhận được sự phản
ứng từ những người khác.

2. Nhận diện các đặc điểm quản trị


Hãy tìm hiểu một số nhà quản trị thành công về nhiều khía cạnh: khái quát tiểu sử và các
thành công của họ, họ đã học tập và phấn đấu như thế nào? Họ đã trả nghiệm những tình huống
nào và sau đó thảo luận theo các nội dung hướng dẫn sau.
Vấn đề thảo luận
1. Bạn dự đoán như thế nào về phong cách học và xu hướng về mối quan hệ với các cá
nhân của các nhân vật trong các tình huống được nêu.
2. Nếu bạn muốn thu nhận một nhà quản trị cho tổ chức của bạn, những câu hỏi nào bạn
sẽ sử dụng để nhận biết về các đặc điểm cá nhân của họ:
- Phong cách học
- Đặc điểm giá trị
- Thái độ đối với sự thay đổi
- Nhu cầu trong quan hệ với các cá nhân.
3. Nếu các cá nhân trong các tình huống được nêu là thành viên nhóm của bạn. Những
điểm mạnh và điểm yếu nào cho nhóm? Đặc điểm nào bạn cần bổ sung cho nhóm?

3. Nhận diện những khía cạnh của văn hóa


Mục đích của bài tập này là giúp bạn phát biểu về những mục tiêu cốt lõi của bạn và
những khát vọng của bạn cũng như xác định một kế hoạch để tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành
công của bạn. Bởi vì việc học hỏi không ngừng là rất quan trọng cho sự thành công của bạn,
chúng tôi giúp bạn xác định một vài tham vọng cụ thể và phát triển các tiến trình để giúp bạn đạt
được những năng lực này.
Bài tập này phải được hoàn thành thông qua bốn bước:
Bước 1 (Những khát vọng). Hãy viết về một câu chuyện mà có thể đã xuất hiện trên các
tờ báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ, An ninh Thế giới,… đã được đăng tải trong 10 năm qua. Câu
chuyện mà bạn có thể cảm thấy chia sẻ được với những thành tựu nổi tiểng hoặc vận rủi may và
50 – Chương 1: Tự nhận thức

có giá trị mới nhất với bạn. Điều bạn muốn đạt được là gì và điều đó sẽ thực hiện những ước mơ
của bạn? Những kết quả, thành tựu nào làm cho bạn ngây ngất hạnh phúc? Những di sản nào bạn
muốn hiểu biết chúng?
Bước 2 (Những đặc điểm). Xem lại điểm số của bạn trong phần tiền đánh giá. Sử dụng
hình sau, nhận định xu hướng mà bạn được thỏa mãn với điểm số của mình về việc sử dụng
những công cụ khác nhau. Trục tung xếp loại từ rất thỏa mãn đến rất không thỏa mãn. Trục
ngang nhận diện năm công cụ bạn đã hoàn thành trong chương này. Đối với mỗi loại công cụ,
mức độ thỏa mãn của bạn ở một biểu đồ mà bạn đã kết quả của bạn như thế nào. Bằng cách nhập
các điểm số này cùng nhau, bạn sẽ tạo ra được một hồ sơ thỏa mãn sự tự nhận thức. Điều này sẽ
giúp bạn xác định một cách rõ ràng những khía cạnh mà bạn muốn cải thiện.

1= Trắc nghiệm tự nhận


Rất thỏa mãn thức
2= Đặc điểm phong cách
Bình thường học
3= Nơi kiểm soát
Không thỏa 4= Mức độ chịu đựng sự mơ
mãn hồ

1 2 3 4

Dựa trên biểu đồ đó, xác định những năng lực đặc biệt của bạn, những điểm mạnh, và
những điều mà chỉ có bạn mới có. Những giá trị, phong cách và thái độ nào sẽ giúp bạn đạt được
những khát vọng (tham vọng mạnh mẽ) mà bạn đã xác định ở bước 1.
Bước 3 (Phản hồi). Hãy phỏng vấn một thành viên trong gia đình bạn hoặc một người
nào đó mà người này biết bạn rất kỹ. Yêu cầu người này mô tả những điều họ thấy như những
điểm mạnh hoặc năng lực của bạn. Người này đã thấy điều gì ở bạn trong tương lai? Nên đưa ra
những câu hỏi sau đây trong cuộc phỏng vấn:
1. Ai bạn biết mà bạn ngưỡng mộ một sự định hướng vĩ đại do những thành công của họ
trong cuộc sống?
2. Ai mà bạn biết đã thất bại trong việc đạt được những tiềm năng của họ? Điều gì bạn
cho là quan trọng nhất gây ra sự thất bại của họ?
3. Bạn nhận thấy những năng lực đặc biệt và đáng kể mà bạn sở hữu là gì?
4. Bạn nghĩ những khía cạnh nào (lĩnh vực) nào tôi nên tập trung vào để cải thiện mình
và nỗ lực phát triển?
5. Bạn thấy tôi đang làm gì trong 10 năm qua?
Bước 4 (Hoạch định và Hành động). Bây giờ xác định những hành động mà bạn sẽ cam
kết nếu bạn muốn đạt được những khát vọng của bạn. Với sự thấu hiểu mà bạn đã đạt được ở
bước 2 và 3, hãy xác định những điều bạn phải làm để giúp bạn đạt được điều mà bạn kỳ vọng
hoàn thành. Hãy xem xét những hoạt động sau:
1. Những chiều hướng nào bạn sẽ nắm bắt?
2. Bạn sẽ biết người khác điều gì?
Chương 1: Tự nhận thức - 51

3. Những hoạt động cân bằng cuộc sống hoặc lớp ngoại khóa nào bạn cam kết thực hiện?
4. Bạn sẽ đọc cái gì?
5. Những hoạt động tinh thần nào có ý nghĩa nhất?

ỨNG DỤNG KỸ NĂNG


1. Xác định nhiệm vụ
1. Ghi chép vào sổ cá nhân những nội dung đã hiểu biết, những ghi nhận, khám phá về bản
thân và một số thông tin phản hồi. Hai tuần mỗi lần làm việc trên.
2. Viết những nhận thức, điều hợp lẽ phải và các nguyên tắc hướng dẫn hành vi và ra quyết
định trong mọi trường hợp.
3. Sau khi hoàn thành các công cụ đánh giá (trắc nghiệm) và thảo luận với mọi người khác
và trả lời các câu hỏi sau: 1) Tôi là ai?, 2) Những điểm mạnh và yếu của bản thân?, 3) Tôi
muốn đạt được điều gì trong cuộc sống, 4) Tôi nên từ bỏ cái gì?
4. Dành 1 buổi với bạn thân và người nhà để thảo luận về những giá trị của bạn, phong cách
học, thái độ đối với sự thay đổi và xu hướng quan hệ với các cá nhân khác.
2. Kế hoạch ứng dụng và đánh giá
Mục tiêu của bài tập này là giúp bạn áp dụng việc sắp xếp các kỹ năng trong cuộc sống
thực tế, trong những bối cảnh ngoài lớp học. Bây giờ bạn trở nên quen thuộc với những hướng
dẫn hành vi hình thành nền tảng của những kỹ năng hiệu quả, bạn sẽ cải thiện cơ bản bằng cách
cố gắng áp dụng những hướng dẫn này trong bối cảnh mỗi ngày. Không giống hoạt động của lớp
học, trong đó phản hồi là ngay lập tức và những người khác có thể hỗ trợ bạn với những đánh giá
của họ, các hoạt động thuộc ứng dụng kỹ năng là điều mà bạn phải hoàn thành và đánh giá chính
mình. Có hai phần của hoạt động này. Phần 1 giúp chuẩn bị bạn ứng dụng kỹ năng. Phần 2 giúp
bạn đánh giá và cải thiện kinh nghiệm của mình. Phải đảm bảo là viết ra những câu trả lời cho
mỗi ý. Không được rút ngắn giai đoạn bằng cách bỏ qua vài bước.
Phần 1: Hoạch định
1. Viết vài khía cạnh của kỹ năng quan trọng đối với bạn. Đó có thể là những điểm yếu,
những lĩnh vực mà bạn mong muốn cải thiện hay gây ra cho bạn những rắc rối trong cuộc
sống. Hãy xác định những khía cạnh cụ thể của kỹ năng mà bạn muốn ứng dụng.
2. Hãy đặt ra tình huống ứng dụng kỹ năng. Hãy lên kế hoạch để hành động trong thực tiễn
và mô tả tình huống đó. Một tình huống cần làm rõ:
a. Địa điểm ở đâu?
b. Với ai?
c. Khi nào?
3. Xác định những hành vi cụ thể để cải thiện kỹ năng mà bạn thực hiện nó trong thực tiễn ở
tình huống nêu trên. Triển khai việc thực hiện.
4. Những dấu hiệu nào nhận diện việc cải thiện kỹ năng? Làm thế nào để biết bạn sẽ thực
hiện hiệu quả.? Dấu hiệu nào nhận diện điều này?
Phần 2: Đánh giá
52 – Chương 1: Tự nhận thức

5. Sau khi đã thực hiện các hoạt động trên, đánh giá kết quả đạt được. Điều gì đã xảy ra?
Bạn đã thành công như thế nào? Điều gì ảnh hưởng lên người khác?
6. Bạn tiếp tục cải thiện như thế nào? Có những biến thể nào trong thời gian sắp đến. Bạn sẽ
làm gì khác trong tình huống tương tự trong tương lai.
7. Hãy xem xét lại tổng thể kinh nghiệm về thực hành và ứng dụng kỹ năng và bạn đã học
hỏi được điều gì? Điều gì đáng ngạc nhiên? Trong những tình huống nào mà kinh nghiệm
của bạn sẽ trở nên hữu ích?

TÓM TẮT
Ngày nay, các tập đoàn lớn của Mỹ đã khám phá ra sức mạnh to lớn trong việc phát triển
kỹ năng tự nhận thức của các nhà quản trị trong tổ chức. Mỗi năm, hàng triệu nhà điều hành hoàn
tất việc thiết kế những công cụ để nâng cao những kỹ năng tự nhận thức trong tổ chức của mình,
những tập đoàn tiêu biểu áp dụng những công cụ này như Apple, AT&T, CitiCorp, Exxon,
General Electric, Honey Well, 3M và kể cả quân đội Mỹ. Sự khác nhau về nhận thức ở mỗi người
được thấy rõ ở những giá trị ưu tiên của mỗi người và ở những biểu hiện về sự thành thục giá trị,
về phong cách học, về những định hướng có thể thay đổi và về khuynh hướng giao tiếp của họ
với những người khác, nắm rõ được những sự khác nhau này sẽ giúp cho nhiều công ty có thể
giải quyết một cách tốt hơn những vấn đề trong tổ chức mình như: xung đột giữa các cá nhân với
nhau, sự không hiệu quả trong việc truyền đạt thông tin, sự đánh mất lòng tin lẫn nhau và thậm
chí là những sự hiểu lầm lẫn nhau. Sau khi yêu cầu 100 nhà quản trị hàng đầu trên thế giới trải
qua một cuộc kiểm tra và khoá đào tạo về kỹ năng nhận thức, thì giám đốc kiêm chủ tịch của
công ty Bảo mật mạng máy tính thuộc tập đoàn Hiltton Hotels & Budget Rent-a-Car đã phát biểu
rằng:
“Thực sự là chúng tôi đã gặp phải một số vấn đề liên quan đến sự nhận thức. Tôi nhận ra
rằng tôi đã gặp một sự quá tải trong việc nhận được những thông tin từ những người
khác và nhờ khoá đào tạo này đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc thấu hiểu những
người khác và từ đó nó cũng đã tạo cho chúng tôi một sự thuận lợi trong việc làm ra
những quyết định hiệu quả. Và từ đó, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ không thể vượt qua
những cuộc khủng hoảng của tổ chức nếu như chúng tôi không trải qua khoá học về sự
nhận thức này”
Những khóa học về nhận thức như thế này không chỉ giúp các nhà quản trị có thể “đánh
thức” những khả năng về sự nhìn nhận và thấu hiểu của họ đối với mọi người xung quanh, mà nó
còn giúp họ rất nhiều trong việc hiểu rõ được nguồn gốc của những sự khác nhau ở những người
khác nhau. Trong những hoạt động đời sống cũng như công việc, hầu hết tất cả mọi người đều
phải đối mặt với những cá nhân có sự khác nhau với chúng ta về tính cách, sự nhìn nhận về giá trị
và có những định hướng…Lực lượng lao động ngày càng đông hơn về số lượng và gồm nhiều
thành phần khác nhau, thay đổi một cách không lường. Tham gia các khoá đào tạo về sự nhận
thức là một hướng đi đúng, và bài thảo luận được thực hiện trong chương này được xem như là
Chương 1: Tự nhận thức - 53

một công cụ giá trị trong việc giúp mọi người nâng cao hơn nữa sự cảm thông, thấu hiểu và thích
nghi với tính đa dạng, mà họ là những người phải đối mặt với nó trong công việc cũng như trong
trường học. Tự nhận thức được xem là một chìa khoá để hình thành những trí tuệ cảm xúc
(Emotional intellience), và sở hữu một chỉ số EQ cao được xem là điều kiện tiên quyết để đưa
đến những sự thành công trong hoạt động quản trị. Mối quan hệ giữa 4 lĩnh vực cốt yếu của việc
tự nhận thức và những đầu ra của hoạt động quản trị được tóm tắt trong Hình 1.6.
Mặc dù nó là rất cần thiết để học những kỹ năng giao tiếp và sự tương tác giữa các thành
viên trong nhóm. Sự thành công trong việc phát triển những kỹ năng trong những lĩnh vực cốt
yếu sẽ chỉ xuất hiện đối với những cá nhân làm việc trong những tổ chức lấy sự nhận thức làm
nền tảng cho những hoạt động của tổ chức đó. Sau đây là sự minh hoạ khá thú vị về những hành
vi có tính trái ngược nhau: Chúng ta có thể biết những người khác thông qua sự hiểu biết về
chính chúng ta rồi áp đặt lên họ, nhưng chúng ta lại chỉ có thể biết về chính mình thông qua việc
hiểu biết những người khác.

Hình 1.6: Các yếu tố cốt yếu của tự nhận thức & ứng dụng quản trị

Ưu tiên và sự
trưởng thành
giá trị
Tự thấu hiểu & tự
quản trị

Thái độ đối Phong cách Trí tuệ cảm xúc


với sự thay đổi học

Thấu hiểu sự khác


Xu hướng nhau giữa các cá
quan hệ giữa nhân
các cá nhân

Nhờ có được những thông tin về những ngưòi khác, thông qua những sự biểu hiện bên
ngoài mà chúng ta thấy ở họ, chúng ta tích lũy chúng và hình thành nên những kinh nghiệm trong
khi tương tác với họ, và như thế chúng ta có thể có được khả năng quản lý và khả năng giao tiếp
một cách thành công, hiệu quả với họ. Nếu chúng ta không có sự nhận thức, thì chắc chắn chúng
ta sẽ không thể có được những nền tảng cơ bản để thấu hiểu về những người khác. Việc tự thừa
nhận sẽ dẫn đến việc thừa nhận và thấu hiểu những người khác. Như Hairris (1981) đã nói rằng:
“Tất cả mọi thứ đều có một điểm bắt đầu, kế cả đó là những hành động tạo sự khó chịu
trong những buổi tiếp xúc ban đầu, vì ở trong tiềm thức mỗi chúng ta đều có tồn tại một
54 – Chương 1: Tự nhận thức

sự ngăn cách nào đó. Và những điều chúng ta biết về chính chúng ta bao giờ nó cũng đến
từ bên ngoài và nó được kiểm nghiệm lại thông qua những loại kinh nghiệm mà chúng ta
có được, và những điều mà chúng ta biết về những người khác bao giờ nó cũng chỉ đến từ
việc suy luận kết hợp với sự cảm nhận chủ quan của chính chúng ta”.

HƯỚNG DẪN HÀNH VI


1. Xác định những điểm nhạy của mình.
2. Sử dụng 7 thước đo giá trị văn hoá để bàn luận về sự khác biệt giữa các nền văn hoá, lứa tuổi
hay sắc tộc.
3. Xác định những nguyên tắc chủ yếu làm căn cứ hành vi của bạn. Xác định các giá trị mục
đích và giá trị phương tiện chủ yếu của mình.
4. Phát triển phong cách học, khả năng chịu đựng sự mơ hồ, nơi kiểm soát bằng cách phát triển
khả năng tiếp cận thông tin và quản lý nó trong các hoạt động khác nhau của bạn. Tìm cách
thức phát triển bản thân.
5. Tính điểm số xung khắc của bạn với những người bạn thường tương tác và xác định lĩnh vực
có nhiều khả năng xung khắc.
6. Hãy trở nên trung thực và cởi mở hơn với những người thân quen, gần gũi với bạn. Hãy kiểm
chứng lại những vấn đề của bạn, mà bản thân còn thấy mơ hồ.

TRẮC NGHIỆM KỸ NĂNG


1. Trắc nghiệm kỹ năng tự nhận thức
BƯỚC 1: Trước khi bạn đọc chương này, hãy thực hiện các yêu cầu sau bằng cách viết
các số mô tả giá trị trong thang điểm vào bên trái ở biểu ở dưới đây, hay gọi là tiền đánh giá. Trả
lời cần nên là điều thích hợp nhất hiện nay đối với bạn, chứ không là điều bạn muốn như thế. Hãy
trung thực. Công cụ này phát triển nhằm giúp bạn khám phá mình là ai và nó được sử dụng để
bạn học hỏi cải thiện nhu cầu cụ thể nào đó. Khi bạn hòan thành trắc nghiệm này, hãy sử dụng
phần Tra cứu trắc nghiệm ở mục Phụ lục để xác định điểm số và tình trạng tương ứng của mình.
BƯỚC 2: Sau khi bạn đã đọc và thực hành chương học này, hãy trở lại thực hành bài trắc
nghiệm, tức hậu đánh giá. Sau khi hòan thành xong trắc nghiệm, hãy sử dụng phần Tra cứu trắc
nghiệm ở mục Phụ lục để xem mức tiến bộ của mình. Nếu điểm số vẫn còn thấp ở một lĩnh vực
kỹ năng nào đó, hãy sử dụng tài liệu hướng dẫn hành vi để hướng dẫn cho bạn thực hành tiếp.
Thang điểm đánh giá:
1 – Rất không đồng ý 4 – Hơi đồng ý
2 – Không đồng ý 5 – Đồng ý
3 – Hơi không đồng ý 6 – Hòan toàn đồng ý
Chương 1: Tự nhận thức - 55

_____ 1. Tôi tìm kiếm thông tin về ưu và nhược điểm của mình từ người khác như là cơ sở
cho việc tự phát triển.
_____ 2. Khi tôi nhận các thông tin phản hồi về mình từ những người khác, tôi không giận
giữ hay tự vệ.
_____ 3. Để tiến bộ, tôi sẵn sàng cởi mở, bộc bạch với mọi người để chia sẻ niềm tin và
quan điểm.
_____ 4. Tôi tự tin về phong cách của mình trong việc thu thập thông tin và ra quyết định
_____ 5. Tôi tự tin ở nhu cầu của mình khi thiết lập mối quan hệ với mọi người khác.
_____ 6. Tôi có cảm nhận tốt về tham vọng của mình và với những tình huống bất định
_____ 7. Tôi có một hệ thống tiêu chuẩn và nguyên tắc cá nhân tốt để hướng dẫn hành vi
của mình.
_____ 8. Tôi cảm nhận rõ ràng về những gì diễn ra với tôi là tốt hay xấu.
_____ 9. Tôi hiếm khi cảm thấy giận giữ, chán nản mà không rõ nguyên do.
_____ 10. Tôi nhạy cảm với những lĩnh vực trong đó dễ xảy ra xung đột hay hiểu lầm khi
tương tác với người khác.
_____ 11. Tôi có mối liên hệ gần gũi với ít nhất là một người để có thể chia sẻ thông tin và
cảm nhận cá nhân.
56 – Chương 1: Tự nhận thức

2. Trắc nghiệm tính cách


Trong phần này, mỗi câu đưa ra hai lựa chọn. Nhiều câu bạn có thể thấy cả hai lựa chọn
đều phù hợp, tuy nhiên hãy cố gắng lựa chọn câu trả lời phù hợp hơn cho mình. Xem bảng tính
điểm ở mục phụ lục để tính điểm số theo các nhóm câu hỏi.

1. Ở các bữa tiệc bạn thường 13. Thường thì bạn là người
a) Nói chuyện với nhiều người, kể cả người lạ a) Đúng giờ, chuẩn mực
b) Nói chuyện với số ít người thân quen b) Thong thả
2. Bạn thấy mình là người thuộc loại nào nhiều 14. Trường hợp nào bạn cảm thấy nóng ruột,
hơn? bồn chồn hơn?
a) Thực tế a) Khi mọi việc chưa hoàn thành
b) Mơ mộng b) Khi mọi việc đã hoàn thành
3. Bạn quan tâm đến điều gì nhiều hơn? 15. Với những người bạn của mình, bạn thường
a) Dữ liệu, thực tế a) Biết điều gì đang xảy ra đối với họ
b) Các câu chuyện b) Biết những điều đó cuối cùng
4. Bạn thường đối xử như thế nào nhiều hơn? 16. Bạn thường quan tâm đến
a) Công bằng a) Những chi tiết cụ thể
b) Đối xử tốt, theo tình cảm b) Các ý tưởng và khái niệm
5. Bạn thường 17. Bạn thích những tác giả
a) Vô tư, không thiên vị a) Nói thẳng điều định nói
b) Cảm thông b) Dùng nhiều câu chuyện để minh hoạ cho điều họ định nói
6. Bạn thích làm việc theo kiểu nào nhiều hơn? 18. Về bản chất bạn thường
a) Theo đúng thời hạn a) Vô tư, không thiên vị
b) Theo hứng b) Hay thương người
7. Bạn sẽ lựa chọn 19. Khi đáng giá, bạn thường
a) Rất cẩn thận a) Không để tình cảm cá nhân ảnh hưởng
b) Phần nào theo cảm nhận b) Đa cảm, hay động lòng
8. Tại các bữa tiệc, bạn thường 20. Bạn thường
a) Ở lại muộn, cảm thấy ngày càng khoẻ a) Sắp đặt công việc
khoắn cao hứng hơn b) Khuyến khích các phương án khác nhau
b) Ra về sớn và cảm thấy mệt mỏi dần 21. Bạn thường muốn
9. Bạn là người a) Các buổi hẹn có sắp đặt trước
a) Nhạy cảm b) Để mọi việc tự do, thoải mái
b) Suy nghĩ cẩn trọng 22. Khi gọi điện thoại bạn thường
10. Bạn thích a) Cứ gọi bình thường
a) Dữ kiện, sự kiện thực tế b) Chuẩn bị trước những điều sẽ nói
b) Các ý tưởng khác 23. Sự kiện thực tế
11. Về bản chất bạn thường a) Tự nói lên mọi điều
a) Công bằng với mọi người b) Thường cần có lời giải thích
b) Tốt với mọi người 24. Bạn thích làm việc với
12. Lần đầu tiên tiếp xúc bạn thường a) Những thông tin thực tế
a) Im lặng và cảm thấy xấu hổ b) Những ý tưởng trừu tượng
b) Nói nhiều và tỏ ra thân thiện
Chương 1: Tự nhận thức - 57

25. Bạn là người 38. Bạn bị cuốn hút vào việc gì nhiều hơn?
a) Trầm tĩnh, lạnh lùng a) Xem xét và hiểu các sự kiện
b) Sôi nổi, sốt sắng b) Phát triển ý tưởng mới
26. Bạn thường là người 39. Điều gì làm bạn thoã mãn hơn
a) Thực tế, vô tư hơn là thương xót, thông cảm a) Thảo luận mọi khía cạnh của một vấn đề
b) Thương xót, thông cảm hơn là vô tư, thực tế b) Tiến tới thoả thuận về một vấn đề
27. Bạn cảm thấy thoải mái hơn khi 40. Điều gì thúc đẩy bạn nhiều hơn
a) Lập thời gian biểu rõ ràng a) Trí óc của bạn
b) Cứ để mọi việc tự nhiên b) Trái tim của bạn
28. Bạn cảm thấy thoải mái hơn với 41. Bạn thấy thoải mái hơn với những công
a) Bản thoả thuận viết ra giấy việc
b) Thoả thuận bằng lời và những cái bắt tay a) Theo hợp đồng
29. Ở nơi làm việc bạn thường b) Theo phong thái thoải mái tự nhiên
a) Là người bắt đầu các câu chuyện 42. Bạn thích công việc được
b) Ngồi chờ người khác đến với mình a) Chuẩn xác và ngăn nắp
30. Những nguyên tắc truyền thống b) Mở cho nhiều giải thích khác nhau
a) Thường đáng tin cậy 43. Bạn thích
b) Thường làm ta sai phương hướng a) Nhiều bạn bè với những cuộc trao đổi
31. Trẻ em thường không ngắn
a) Hoạt động có ích hết khả năng của chúng b) Một bạn mới với cuộc nói chuyện dài
b) Mơ mộng như đáng có 44. Bạn bị cuốn hút bởi
32. Bạn có thường a) Nhiều thông tin
a) Suy nghĩ, luận giải chặt chẽ b) Những giả thuyết tuyệt vời
b) Dễ xúc động 45. Bạn quan tâm nhiều hơn tới
33. Bạn có thường a) Sản xuất
a) Chắc chắn chặt chẽ hơn là mềm mỏng, dễ b) Nghiên cứu
dãi 46. Bạn cảm thấy thoải mái hơn khi bạn
b) Mềm mỏng, dễ dãi hơn là chắc chắn, chặt a) Khách quan
chẽ b) Tính tới tình cảm cá nhân
34. Bạn có sắp xếp mọi thứ 47. Bạn tự đánh giá mình là người
a) Trật tự, ngăn nắp a) Rõ ràng và chắc chắn
b) Để chúng thoải mái, tự do b) Sẵn sàng hy sinh
35. Bạn thấy điều gì có giá trị hơn 48. Bạn cảm thấy thoải mái hơn với
a) Điều chắc chắn đã xác định a) Lời phát ngôn cuối cùng
b) Điều chưa chắc chăn, còn thay đổi b) Những ý kiến kiến nghị, thảo luận
36. Những mối quan hệ giao tiếp mới với người 49. Bạn cảm thấy thoải mái hơn
khác a) Sau một quyết định
a) Khuyến khích và thúc đẩy bạn b) Trước một quyết định
b) Làm bạn cảm thấy bạn cần tìm một chỗ khác 50. Bạn có
để nghỉ ngơi và suy nghĩ a) Nói được nhiều chuyện, dễ dàng với
37. Bạn thường xuyên là người người lạ
a) Gắn với thực tế b) Thấy chẳng có gì nhiều để nói với người
b) Gắn với ý tưởng trừu tượng lạ
58 – Chương 1: Tự nhận thức

51. Bạn có thường quan tâm tới 64. Bạn là người


a) Dữ liệu, sự kiện của một tình huống cụ thể a) Dễ tiếp xúc, làm quen
b) Các tình huống chung b) Kín đáo
52. Bạn có cảm thấy mình là người 65. Bạn thấy vui sướng với
a) Chân chất hơn là khéo léo a) Những kinh nghiệm được người khác trao
b) Khéo léo hơn là chân chất đổi
53. Bạn thực sự là người của b) Những ý tưởng kỳ lạ
a) Những luận giải rõ ràng 66. Khi viết, bạn thích
b) Cảm nhận tình cảm mạnh mẽ a) Sự rõ ràng, trong sáng
54. Bạn có thiên hướng hơn về b) Những ý tưởng thông minh
a) Suy luận vô tư, công minh 67. Bạn thường
b) Cảm thông a) Không định kiến
55. Điều hoàn hảo nói chung là b) Thương người
a) Đảm bảo rằng mọi việc đều được sắp xếp 68. Bạn thực sự là người
quy củ a) Công minh hơn là nhân hậu
b) Cứ để mọi việc xảy ra tự nhiên b) Nhân hậu hơn là công minh
56. Có phải cách làm việc của bạn là 69. Bạn là người
a) Mọi việc đều được giải quyết đúng hạn a) Hay đưa ra những đánh giá bất ngờ
b) Trì hoãn giải quyết công việc b) Trì hoãn việc đánh giá
57. Khi chuông điện thoại reo, bạn có 70. Bạn có xu hướng
a) Trả lời điện thoại trước a) Cẩn trọng, chín chắn hơn là tự do
b) Hy vọng ai đó sẽ trả lời b) Tự do hơn là cẩn trọng, chín chắn
58. Điều gì có giá trị hơn? Nếu có
a) Cảm nhận tốt về hiện thực
b) Trí tưởng tưởng phong phú
59. Bạn có thiên hướng về
a) Sự kiện, dữ liệu
b) Suy luận
60. Khi đánh giá bạn thường
a) Trung lập
b) Độ lượng, khoan dung
61. Bạn có thấy mình thiên về bên nào hơn
a) Suy nghĩ rõ ràng, cẩn trọng
b) Có ý chí mạnh mẽ
62. Bạn có
a) Lập thời gian biểu cho các công việc
b) Việc gì đến thì làm
63. Bạn là người có thiên hướng nào nhiều hơn
a) Làm việc theo nề nếp hàng ngày
b) tự do
Chương 1: Tự nhận thức - 59

3. Trắc nghiệm xác định vấn đề


Trắc nghiệm này nhận định quan điểm của bạn về những vấn đề xã hội. Bạn sẽ trả lời
những câu hỏi mà không cần thảo luận với mọi người xung quanh. Bạn sẽ được giới thiệu 3 tình
huống, gồm 12 vấn đề (câu hỏi). Nhiệm vụ của bạn sau khi đọc các tình huống này là xác định
mức độ quan trọng trong việc ra quyết định đối với mỗi vấn đề. Sau khi xác định, hãy chọn 4 vấn
đề quan trọng nhất và sắp xếp chúng từ 1 đến 4 và điền vào vị trí trống như đã dẫn.
Một số vấn đề sẽ được xếp thuộc loại quan trọng, nhưng bạn nên tự hỏi quyết định có dựa
trên vấn đề đó không.
Sử dụng thang điểm sau cho trả lời của bạn.
Thang điểm đánh giá
1. Rất quan trọng Vấn đề này gây khác biệt rõ ràng trong việc ra quyết định về một
vấn đề
2. Quan trọng Vấn đề này đôi khi trở thành yếu tố gây ảnh hưởng chính trong việc
ra quyết định
3. Có quan trọng Vấn đề này đôi khi được bạn quan tâm đến nhưng không ảnh hưởng
lớn đến việc ra quyết định
4. Ít quan trọng Vấn đề này không đóng vai trò quan trọng đáng kể trong việc ra
quyết định
5. Không quan trọng Vấn đề này hòan tòan không có ý nghĩa gì trong việc ra quyết định

Tình huống Tù nhân vượt ngục


Có một người đàn ông bị kết án tù 10 năm. Nhưng sau 1 năm ở tù, anh ta đã vượt được
ngục và đã chuyển về ở một vùng quê và lấy tên là Thompson. Sau 8 năm làm việc chăm chỉ, anh
ta tích lũy được một số tiền lớn và đã khởi sự kinh doanh. Anh ta đã quan hệ tốt với khách hàng,
trả lương hậu cho nhân viên và sử dụng phần lớn lợi nhuận vào hoạt động từ thiện.
Bỗng một ngày, ông Jones, người hàng xóm cũ nhận ra anh ta chính là người tù nhân vượt
ngục vào 8 năm trước và đang là đối tượng truy tìm của công an. Ông Jones có nên báo cho công
an về Thompson không? Hãy cho biết quan điểm của mình:
_____ Cần nên báo
_____ Không thể quyết định
_____ Không nên báo
Vấn đề quan trọng
_____ 1. Thompson có phải đã có đủ thời gian để chứng minh mình là người tốt chưa?
_____ 2. Mỗi khi có ai đó thoát được sự trừng phạt, điều đó có làm tăng tội phạm không?
_____ 3. Có tốt hơn không nếu không cần có nhà tù và sự trừng phạt của hệ thống luật
pháp chính thức?
_____ 4. Thompson phải có trách nhiệm với xã hội không?
_____ 5. Có phải xã hội trở nên thất bại nếu như Thompson được xem như là người tốt?
_____ 6. Có ích lợi không khi tách nhà tù khỏi xã hội, đặc biệt đối với những người độ
lượng?
_____ 7. Có phải nhẫn tâm nếu như ai đó đưa Thompson trở lại nhà tù?
_____ 8. Người giữ tù có hoàn thành bổn phận của họ không nếu để cho ông Thompson
vượt được ngục?
60 – Chương 1: Tự nhận thức

_____ 9. Ông Jones có phải là bạn tốt của ông Thompson không?
_____ 10. Có phải hành động khai báo tù phạm được đánh giá là thực hiện trách nhiệm
công dân, bất luận tình huống nào?
_____ 11. Dịch vụ công có đáp ứng nhu cầu của cá nhân chưa?
_____ 12. Nhà tù có đem lại điều gì tốt cho Thompson và bảo vệ mọi người không?
Liệt kê 4 vấn đề quan trọng nhất
Quan trọng hàng đầu _____________________
Quan trọng thứ hai _____________________
Quan trọng thứ ba _____________________
Quan trọng thứ tư _____________________

Tình huống Bệnh nhân hiểm nguy


Có một bệnh nhân bị bệnh ung thư và chỉ còn sống 6 tháng nữa. Cô ta rất thất vọng và
đang có ý định sử dụng một liều lớn morphin để kết liễu cuộc sống của mình. Cô đã rất khổ sở vì
nỗi đau của mình và những lúc điềm tĩnh lại, cô yêu cầu bác sĩ cung cấp cho một số morphine để
tự kết liễu cuộc sống. Cô nói rằng cô không chịu đựng nỗi và sẵn sàng chết trong thời gian gần
nhất bằng bất cứ cách nào. Người bác sĩ nên làm gì?
_____ Cấp cho cô ta liều thuốc để cô ta sẽ chết.
_____ Không thể quyết định.
_____ Không nên cấp thuốc cho cô ta.
Vấn đề quan trọng
_____ 1. Gia đình của cô gái có đồng tình với việc cấp morphine cho cô ta?
_____ 2. Người bác sĩ có phải buộc sử dụng cùng quy tắc đối với mọi người?
_____ 3. Có tốt hơn nếu con người phải chịu sự khống chế cuộc sống và thậm chí cái chết bởi
cộng đồng?
_____ 4. Người bác sĩ có nên làm chết cô gái bằng liều mạnh như là một tai nạn?
_____ 5. Chính quyền bang có quyền quyết định đến tính mệnh của một người nếu họ không
muốn sống?
_____ 6. Việc ưu tiên chết có trở ngại gì ở khía cạnh xã hội đối với giá trị cá nhân?
_____ 7. Người bác sĩ nên cảm thông với tình huống cô gái hay nhìn nhận dưới gọc độ xã hội?
_____ 8. Việc giúp đỡ kết thúc cuộc sống của mọi người là việc nên làm?
_____ 9. Có phảo chỉ có Chúa mới có quyền quyết định mạng sống?
_____ 10. Người bác sĩ có nên có một tập hợp các giá trị hành vi riêng cho mình không?
_____ 11. Xã hội có thể ban phát cho một người có quyền quyết định cuộc sống của mình?
_____ 12. Xã hội có nên cho phép được chết hay phải yêu cầu bảo vệ mạng sống đến cùng nếu con
người muốn sống?
Liệt kê 4 vấn đề quan trọng:
Quan trọng nhất ______________________
Quan trọng nhì ______________________
Quan trọng ba ______________________
Quan trọng bốn ______________________
Chương 1: Tự nhận thức - 61

Tình huống Báo mới


Rami, một thành viên kỳ cựu của một trường trung học, muốn xuất bản tờ báo cho sinh
viên để họ bày tỏ quan điểm của mình. Ông ta muốn dùng công luận đả kích hệ thống độc đoán
và một số luật lệ của nhà trường như trừng phạt những sinh viên tóc dài.
Khi Rami đã hỏi xin phép hiệu trưởng để được xuất bản báo. Vị hiệu trưởng bảo rằng có
thể được xuất bản với điều kiện tất cả các bài báo đều được đưa cho hiệu
trưởng xem xét trước. Rami đồng ý và đã gửi một số bài để xem xét. Hiệu trưởng đã xem xét tất
cả các bài này và Rami đã xuất bản 2 vấn đề vào 2 tuần sau đó.
Hiệu trưởng đã không kỳ vọng rằng tờ báo của Rami sẽ gây được chú ý nhiều. Ngược lại,
các học sinh đã rất hứng thú với bài báo và họ bắt đầu chống lại các quy định của nhà trường.
Nhưng phụ huynh học sinh đã gọi điện cho hiệu trưởng và cho rằng bài báo không thiện chí và
cần đình chỉ xuất bản. Ông hiệu trưởng quan ngại rằng nếu ông yêu cầu Rami đình chỉ xuất bản
báo, các tờ báo khác sẽ tập trung công kích cách thức điều hành của nhà trường. Ông hiệu trưởng
nên làm gì?
_____ Dừng xuất bản báo
_____ Không thể quyết định
_____ Không đóng cửa tờ báo
Vấn đề quan trọng
_____ 1. Hiệu trưởng cần có trách nhiệm hơn với các học sinh hay phụ huynh của họ?
_____ 2. Hiệu trưởng có thể công bố rằng bài báo vẫn được tiếp tục xuất trong thời gian dài hay
hứa xem xét cải thiện bài báo?
_____ 3. Các học sinh có tiếp tục chống đối hay thậm chí càng nhiều hơn nếu đóng cửa tờ báo?
_____ 4. Nếu ích lợi của nhà trường xâm hại, hiệu trưởng có quyền ra lệnh đối với học sinh
không?
_____ 5. Hiệu trưởng có quyền trả lời “không” đối với tình huống này?
_____ 6. Nếu dừng tờ báo mới, hiệu trưởng có ngăn cản được việc thảo luận tòan diện vấn đề
này không?
_____ 7. Hiệu trưởng có sẵn sàng đánh mất niềm tin ở Rami không?
_____ 8. Rami thực sự trung thành với nhà trường và yêu đất nước không?
_____ 9. Việc đóng cửa tờ báo có đụng chạm gì vấn đề lẽ phải không?
_____ 10. Rami có phải vi phạm quyền của mọi người trong việc đăng tải các quan điểm của mình
không?
_____ 11. Hiệu trưởng có chịu ảnh hưởng của các phụ huynh phản đối tờ báo trong khi ông mới là
người am hiểu nhiều nhất điều gì xả ra với nhà trường?
_____ 12. Có phải Rami sử dụng tờ báo để khơi dậy sự bất bình, thù hận?
Liệt kê bốn vấn đề quan trọng
Quan trọng nhất ______________________
Quan trọng nhì ______________________
Quan trọng ba ______________________
Quan trọng bốn ______________________

4. Trắc nghiệm phong cách học


Bài trắc nghiệm dưới đây sẽ giúp bạn nếu bạn nghĩ về các tình huống học tập của mình.
Đó có thể là các tình huống ở nhà, ở nơi làm việc, ở trường hoặc ở nơi nào đó. Hãy dành vài phút
62 – Chương 1: Tự nhận thức

để suy nghĩ về những tình huống này và trả lời các câu hỏi sau: Bạn học ở đâu? Những gì là quan
trọng mà bạn đã học được trong năm qua? Bạn đã có tiếp cận như thế nào đối với cơ hội học tập
mới?.
Trong trắc nghiệm dưới đây, bạn sẽ được hỏi để hòan thành 12 câu mô tả việc học. Mỗi
câu có 4 chọn lựa. Để trả lời những câu hỏi, hãy xem xét một vài tình huống được đề nghị. Sau
đó sắp xếp các trả lời theo mức độ bạn cho rằng đó là cách thức mà bạn đã học. Viết 4 vào dòng
chọn trả lời mô tả bạn đã
học tốt nhất như thế nào và 1 có nghĩa ít thích hợp nhất với cách mà bạn đã học. Hãy sắp xếp tất
cả các trả lời cho mỗi câu hỏi.
VÍ DỤ: Khi tôi học:
a. __2__ Tôi thấy hạnh phúc
b. __4__ Tôi cẩn thận
c. __1__ Tôi nhanh nhẹn
d. __3__ Tôi hợp lý
Sau đây là nội dung câu hỏi trắc nghiệm.
1. Khi tôi học:
a. ______ Tôi thích giải quyết với cảm nhận của mình
b. ______ Tôi thích nghĩ về các ý tưởng
c. ______ Tôi thích làm những gì đó
d. ______ Tôi thích lắng nghe
2. Tôi học tốt khi:
a. ______ Tôi lắng nghe và xem xét cẩn thận
b. ______ Tôi dựa vào việc tư duy logic
c. ______ Tôi chân thật với cảm nhận của mình
d. ______ Tôi làm việc chăm chỉ để công việc được thực hiện tốt
3. Khi tôi đang học:
a. _____ Tôi muốn biết những nguyên nhân với những gì xảy ra
b. _____ Tôi thấy có trách nhiệm về những gì xảy ra
c. _____ Tôi bình tĩnh và lưu trữ
d. _____ Tôi có cảm giác mạnh mẽ
4. Tôi học bằng:
a. _____ Cảm nhận
b. _____ Thực hành
c. _____ Quan sát
d. _____ Suy nghĩ
5. Khi tôi học:
a. _____ Tôi thu nhận kinh nghiệm mới
b. _____ Tôi xem xét mọi khía cạnh của vấn đề
c. _____ Tôi thích phân tích, phân chia vấn đề theo những thành tố
d. _____ Tôi thích suy nghĩ những điều xa hơn
6. Khi tôi đang học:
a. _____ Tôi là người có khả năng quan sát
b. _____ Tôi là người năng động
c. _____ Tôi có khả năng nhạy cảm
Chương 1: Tự nhận thức - 63

d. _____ Tôi là người tư duy lô gíc


7. Tôi học tốt từ
a. _____ Quan sát
b. _____ Mối quan hệ cá nhân
c. _____ Lý thuyết
d. _____ Cơ hội thực hành
8. Khi tôi học
a. _____ Tôi thích nhìn thấy hiệu quả từ công việc của tôi
b. _____ Tôi thích ý tưởng và lý thuyết
c. _____ Tôi chờ thời gian để thực hành
d. _____ Tôi cảm thấy cá tính ảnh hưởng đến mọi thứ
9. Tôi học tốt khi:
a. _____ Tôi tin vào quan sát
b. _____ Tôi tin vào sự cảm nhận
c. _____ Tôi có thể nghĩ những điều khác
d. _____ Tôi tin vào các ý tưởng của mình
10. Khi tôi đang học
a. _____ Tôi là người cẩn thận
b. _____ Tôi là người dễ chấp nhận
c. _____ Tôi là người có trách nhiệm
d. _____ Tôi là người hiệu quả
11. Khi tôi học
a. _____ Tôi tập trung
b. _____ Tôi thích quan sát
c. _____ Tôi đánh giá mọi thứ
d. _____ Tôi trở nên năng động
12. Tôi học tốt khi
a. _____ Tôi phân tích ý tưởng
b. _____ Tôi mở rộng ý tưởng
c. _____ Tôi cẩn thận
d. _____ Tôi thực hành

5. Trắc nghiệm nơi kiểm soát


Sau đây là những câu hỏi trắc nghiệm được trả lời dựa trên ý kiến của bạn về một số chủ.
Mỗi chủ đề gồm có hai khả năng a và b để bạn chọn lựa. Hãy lựa chọn khả năng mà bạn đồng ý
với nó. Nếu bạn nghĩ rằng cả hai khả năng đều đúng như nhau, hãy cố gắng để chọn một khả
năng phù hợp nhất. Còn nếu bạn nghĩ rằng cả hai khả năng trên đều không được đúng cho lắm,
thì hãy cố gắng đánh dấu chọn đối với khả năng nào mà bạn cho là chí ít nó cũng đúng một phần
nhỏ nào đó. Trong quá trình tiến hành trắc nghiệm, hãy nghĩ rằng đây đơn giản chỉ là một cuộc
đánh giá đối với những ý kiến của bạn, vì thế nó sẽ không có câu trả lời nào là sai hoặc không
đúng cả. Khi bạn đã hoàn thành bảng đánh giá này, hãy tiến hành tra số điểm mà mình đạt được ở
phần Tra cứu trắc nghiệm của Phụ lục này nói về cách làm thế nào để tra được kết quả đã được
sắp xếp trong một bảng kê cụ thể và dữ liệu so sánh.
64 – Chương 1: Tự nhận thức

Những câu hỏi được đặt ra ở đây là khá đơn giản, nhưng không dễ gì để có thể xác định
được, dựa trên cơ sở thang kiểm tra tỷ lệ (Control Scale) được phát triển bởi Julian Rotter. Nhưng
sự so sánh dữ liệu được trình bày ở phần Tra cứu trắc nghiệm của Phụ này được rút ra từ những
cuộc nghiên cứu của Rotter có được. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng hai cách trình bày được đưa ra ở
dưới đây được đánh giá là đúng như nhau, có độ dài như nhau, và nghĩ cũng khá giống nhau. Chú
ý nhé!
1. a. Những nhà lãnh đạo là được sinh ra (be born), không phải được tạo ra (be made)
b. Những nhà lãnh đạo là được tạo ra (be made), không phải được sinh ra (be born)
2. a. Người ta thường thành công bởi vì họ ở đúng nơi và đúng lúc
b. Những thành công là hầu như lệ thuộc vào những công việc khó (hard work) và khả
năng giải quyết.
3. a. Khi những thứ xảy ra không như tôi mong đợi trong cuộc sống của tôi, nó thường là
do tôi đã phạm nhiều lỗi.
b. Những điều bất hạnh xuất hiện trong cuộc sống của tôi, nhưng tôi thường không để ý
đến những gì tôi đã làm.
4. a. Nơi đó có xảy ra chiến tranh hay không thì nó phụ thuộc vào những hành động của
những nhà lãnh đạo thế giới.
b. Nó sẽ là chắc chắn rằng thế giới sẽ tiếp tục phải niếm trải những cuộc chiến.
5. a. Những đứa trẻ tốt là kết quả của những người cha người mẹ tốt.
b. Một vài đứa trẻ trở nên không tốt bất kể những hành vi của cha mẹ chúng là như thế
nào.
6. a. Sự thành công trong tương lai của tôi phụ thuộc chính vào những tình huống mà tôi
không thể kiểm soát.
b. Tôi là người làm chủ số phận của chính mình.
7. a. Lịch sử đã làm cho người ta thấy rằng một nhà lãnh đạo lỗi lạc vì hoàn cảnh đã làm
họ nổi tiếng và thành công.
b. Một nhà lãnh đạo hiệu quả là người là có thể tạo ra những quyết định hoặc có thể
làm ra những hành động, để từ đó có thể đưa đến những sự đóng góp quan trọng.
8. a. Tránh việc đối xử thô bạo đối với trẻ em sẽ đảm bảo rằng chúng sẽ lớn lên với tính
vô trách nhiệm.
b. Đánh vào mông của những đứa trẻ là không bao giờ được xem là phù hợp.
9. a. Tôi thường cảm thấy ít bị ảnh hưởng bởi những phương hướng trong cuộc sống đã
tạo ra.
b. Nó là vô lý để tin rằng số phận và sự may mắn đóng một phần chủ yếu đối với
những điều mà cuộc sống tạo ra.
10. a. Một vài khách hàng sẽ không bao giờ được thoả mãn đầy đủ bất kể bạn làm gì đi
chăng nữa.
b. Bạn có thể làm thoã mãn khách hàng nhờ vào việc trao cho họ những cái mà họ
muốn khi họ muốn nó.
11. a. Chúng ta sẽ đạt được thứ hạng cao ở trường nếu chúng ta làm việc thật chăm chỉ.
b. Một vài người lại cho rằng mình sẽ không vượt trội hơn người khác ở trường bất kể
họ đã cố gắng chăm chỉ như thế nào đi chăng nữa.
Chương 1: Tự nhận thức - 65

12. a. Một cuộc hôn nhân là tốt đẹp khi cả hai bên không ngừng vun đắp quan hệ tình
cảm cho nhau.
b. Một số cuộc hôn nhân trở nên đỗ vỡ chỉ vì hai bên xung khắc nhau.
13. a. Tôi nhận ra rằng tôi có thể cải thiện những kỹ năng quản trị cơ bản của tôi thông
qua việc học hỏi và không ngừng luyện tập.
b. Nó được xem là lãng phí thời gian khi muốn cố gắng cải thiện những kỹ năng quản
trị của mình ở những lớp học.
14. a. Nhiều khoá học về kỹ năng quản trị nên được giảng dạy tại những trường kinh
doanh.
b. Những khoá học về kỹ năng quản trị được giảng dạy tại những trường kinh doanh
là mang tính kém quan trọng.
15. a. Khi tôi nghĩ lại về những điều tốt đẹp đã mang đến cho tôi, và tôi tin rằng phần lớn
những điều đó diễn ra là do tôi đã làm những điều đúng đắn
b. Những điều xấu xảy ra trong cuộc sống của chúng ta phần lớn là những kết quả của
những trường hợp nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta.
16. a. Những kỳ kiểm tra mà tôi đã làm ở trường thường không có liên quan đến những
tài liệu mà tôi đã học, vì vậy dù học một cách chăm chỉ thì nó cũng không giúp
được gì cả.
b. Khi tôi chuẩn bị tốt cho những kỳ kiểm tra ở trên trường, thường thì tôi làm bài rất
tốt.
17. a. Tôi thường bị ảnh hưởng bởi những điều được lý giải từ những hình chiêm tinh tôi
nhìn thấy.
b. bất kể những ngôi sao được sắp xếp theo một hình dạng nào đi nữa thì tôi vẫn cố
gắng để nắm và kiểm soát vận mệnh của mình.
18. a. Chính phủ là quá to lớn và mang tính quan liêu, do đó nó rất là khó khăn cho một
vài người để có những sự tác động , phản ứng đối với những gì xảy ra.
b. Một cá nhân có thể có được những sự tác động thực sự trong lĩnh vực chính trị nếu
họ sẵn sàng trình bày một cách thẳng thắn về ý kiến và những ước muốn của chính
họ.
19. a. Một số nguời cố gắng để hoàn thành trách nhiệm thực hiện công việc của mình.
b. Một số người lại tìm cách trốn tránh thực hiện những nhiệm vụ của mình khi họ có
cơ hội để làm.
20. a. Hầu hết những người nổi tiếng là những người có những đặc điểm khác biệt, một
sự uy tín vốn có để có thể lôi cuốn những người khác.
b. Một người trở nên nổi tiếng bởi vì cách ứng xử của họ.
21. a. Trong cuộc sống của tôi thường xuất hiện những điều mà tôi không thể kiểm soát
được.
b. Lúc nào tôi cũng cảm thấy cần phải chịu trách nghiệm đối với những kết quả mà
mình làm ra.
22. a. Những nhà quản trị có xu hướng cải thiện những khả năng cá nhân của mình sẽ gặt
hái được nhiều thành công hơn so với những người không chú trọng đến việc cải
thiện những khả năng của mình.
66 – Chương 1: Tự nhận thức

b. Sự thành công của nhà quản trị không phải chỉ dựa vào chính khả năng của bản
thân họ.
23. a. Đội chiến thắng trong những giải đấu vô địch là những đội đã gặp nhiều may mắn
nhất.
b. Đội chiến thắng trong những giải đấu vô địch là những đội có được những cầu thủ
xuất sắc và có được một sự chuẩn bị tốt nhất.
24. a. Làm việc nhóm trong kinh doanh là một trong những điều tiên quyết nhất để có thể
thành công.
b. Chỉ cần sự cố gắng của một cá nhân mình thôi cũng đủ để có thể dẫn đến những
thành công.
25. a. Có một vài người công nhân là luời biếng và bạn chẳng có cách nào để có thể thúc
đẩy họ làm việc chăm chỉ hơn.
b. Nếu bạn thừa nhận mình là một người có những kỹ năng quản trị tốt, vậy bạn có
thể đưa ra những cách để tạo động lực thúc đẩy nhân viên cố gắng làm việc chứ
nhỉ.
26. a. Chúng ta sẽ có thể cải thiện tình hình kinh tế của đất nuớc thông qua những hành
động có trách nhiệm của chúng ta.
b. Tình hình kinh tế của một nuớc là nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chúng ta.
27. a. Tôi có thể thuyết phục mọi người khi tôi biết là tôi đúng.
b. Tôi có thể thuyết phục mọi người, thậm chi ngay cả khi tôi cũng không chắc là tôi
đúng.
28. a. Tôi thường hướng đến việc thiết kế một bản kế hoạch trước và từng bước đạt được
mục tiêu mà tôi đã đề ra.
b. Tôi hiếm khi lập kế hoạch bởi vì có nhiều thứ nó không thể xảy ra theo những điều
mà ta mong muốn được.
29 a. Chỉ có một vài điều là có ý nghĩa mà thôi.
b. Chúng ta có thể thay đổi một số điều trong cuộc sống của chúng ta như: làm việc
chăm chỉ (hard work), lòng kiên trì (persistence) và khả năng (ability).

6. Trắc nghiệm mức độ chịu đựng sự mơ hồ


Tiến hành trả lời theo những câu hỏi được trình bày dưới đây, hãy đánh giá đối với từng
trường hợp về mức độ đồng ý và không đồng ý đối với chúng. Ghi con số mức độ được chọn vào
phía bên trái những câu hỏi đó, là con số mà bạn nghĩ nó là phù hợp nhất cho mỗi trường hợp
đánh giá của mình. Khi hoàn thành xong hãy mở phần Tra cứu trắc nghiệm ở mục Phụ lục để giải
mã những điều về bạn.
Mức độ chọn lựa được định nghĩa như sau:
1. Rất không đồng ý
2. Không đồng ý
3. Hơi không đồng ý
4. Chưa chắc
5. Hơi đồng ý
6. Đồng ý
7. Hoàn toàn đồng ý
Chương 1: Tự nhận thức - 67

____ 1. Một chuyên gia không thể đưa ra được một định nghĩa, có lẻ họ cũng không biết gì
vấn đề đó.
____ 2. Tôi thích sống ở nước ngoài trong một thời gian.
____ 3. Không có điều gì là không thể giải quyết được.
____ 4. Một người có thể đưa ra một thời khoá biểu và thực hiện đúng những điều đã sắp
xếp trong đó thì có lẻ họ là những người đã bỏ lỡ nhiều niềm vui trong cuộc sống.
____ 5. Một công việc tốt là một công việc phải trả lời một cách rõ ràng 2 câu hỏi sau: công
việc đó làm gì? và cách thực hiện công việc đó như thế nào?
____ 6. Nó sẽ vui hơn (fun) khi ta tiến hành để giải quyết những vấn đề phức tạp hơn là chỉ
giải quyết những vấn đề đơn giản không thôi.
____ 7. Rốt cuộc thì ta thấy rằng giải quyết một vấn đề nhỏ, đơn giản là tốt hơn giải quyết
một vấn đề lớn, phức tạp.
____ 8. Thường thì những người sối nổi và thú vị nhất là những người không ngại những sự
khác biệt và mới mẻ.
____ 9. Những gì chúng ta đã từng trải qua là luôn luôn thích hơn những gì mà chúng ta
chưa hề biết tới, những điều xa lạ.
____ 10. Một người thường hay nhấn mạnh đến những câu trả lời đơn giản “Có” (“Yes”)
hoặc “Không” (“No”) là những người không biết những điều phức tạp thực sự là như
thế nào.
____ 11. Một người sống một cuộc sống bình thường- với một số những điều ngạc nhiên
cùng với những điều không mong đợi xảy ra- là những người dễ chịu.
____ 12. Nhiều trong số những quyết định quan trọng nhất của chúng ta là chỉ dựa trên
những thông tin có tính không đầy đủ và ít.
____ 13.Tôi thích những buổi lễ hội nơi mà tôi có thể biết được nhiều người nhất hơn là nơi
mà mọi người hoàn toàn xa lạ lẫn nhau
____ 14. Một người thầy hay một nguời giám sát thường không nắm rõ việc bổ nhiệm hoặc
phân cho ai một cơ hội để thể hiện tính sáng tạo và tính độc đáo.
____ 15. Chúng ta càng tranh thủ để đạt được tất cả những giá trị và ý tưởng giống nhau là
càng tốt.
____ 16. Một người thầy giỏi là người làm cho chúng ta phải kinh ngạc

7. Trắc nghiệm khuynh hướng trong quan hệ giữa các cá nhân (FIRO-B)
Đối với từng trường hợp dưới đây, hãy quyết định chọn ra câu trả lời tốt nhất. Con số
được chọn hãy ghi vào bên trái ở từng trường hợp. Khi bạn hoàn thành nó, hãy so sánh những câu
trả lời của bạn với phần hướng dẫn ở phần Tra cứu trắc nghiệm ở mục Phụ lục.
Có thể chọn một trong số những câu trả lời sau:
1. Luôn luôn (Usually)
2. Thường xuyên (Often)
3. Thỉnh thoảng (Sometimes)
4. Đôi khi (Occasionally)
5. Hiếm khi (Rarely)
6. Không bao giờ (Never)
68 – Chương 1: Tự nhận thức

1. Tôi cố gắng cùng với mọi người.


2. Tôi để người khác quyết định những điều cần làm.
3. Tôi tham gia vào những tổ chức xã hội (Social Groups).
4. Tôi cố gắng tạo dựng được mối quan hệ thân thiết với mọi người.
5. Tôi có khuynh hướng tham gia vào những tổ chức xã hội khi tôi có cơ hội.
6. Tôi để những người khác tác động mạnh đến những hành động của tôi.
7. Tôi cố gắng tham gia vào những hoạt động xã hội một cách không chính thức.
8. Tôi cố gắng có được những mối quan hệ thân thiết với mọi người.
9. Tôi cố gắng mời những người khác cùng tham gia vào những kế hoạch của tôi.
10. Tôi để những người khác kiểm soát những hoạt động của tôi.
11. Tôi cố gắng để có được mọi người xung quanh tôi.
12. Tôi cố gắng tạo dựng mối quan hệ thân thiết với mọi người.
13. Khi mọi người đang thảo luận với nhau, tôi có khuynh hướng tham gia vào với họ.
14. Tôi rất dễ bị dẫn dắt bởi những người khác.
15. Tôi cố gắng tránh để bị cô đơn.
16. Tôi cố gắng để tham gia vào nhữung hoạt động của nhóm.
Đối với những trường hợp tiếp theo, hãy chọn ra những câu trả lời đúng nhất
1. Nhiều người nhất (Most People)
2. Nhiều người (Many People)
3. Một vài người (Some People)
4. Một ít người (A few People)
5. Một hoặc hai người (One or two People)
6. Không ai cả (Nobody)
17. Tôi cố gắng làm bạn đối với tất cả mọi người
18. Tôi để những người khác quyết định những điều nên làm.
19. Mối quan hệ giữa tôi và mọi người là khá nhạt nhẽo và luôn có khoảng cách.
20. Tôi để những người khác chịu trách nhiệm đối với công việc của chúng tôi.
21. Tôi cố gắng để có được mối quan hệ thân thiết với mọi người.
22. Tôi để những người khác tác động mạnh đến những hành động của tôi.
23. Tôi cố gắng để thân thiết với mọi người.
24. Tôi để những người khác kiểm soát những hoạt động của tôi.
25. Tôi lạnh nhạt và giữ khoảng cách với mọi người xung quanh.
26. Tôi là rất dễ bị dẫn dắt bởi những người khác.
27. Tôi cố gắng tạo dựng mối quan hệ thân thiết và tốt đẹp với mọi người.
28. Tôi thích những người khác mời tôi tham gia vào những cuộc thảo luận của họ.
29. Tôi thích mọi người có những hành động thân thiện với tôi.
30. Tôi cố gắng để có thể tác động mạnh đến những hoạt động của người khác.
31. Tôi thích những người khác mời tôi cùng tham gia vào những hoạt động của họ.
32. Tôi thích mọi người có những hành động thân thiện hướng đến tôi.
33. Tôi cố gắng đứng ra gánh vác công việc khi làm việc với những người khác.
34. Tôi thích mọi người, trong đó có tôi tham gia vào cùng làm việc chung.
Chương 1: Tự nhận thức - 69

35. Tôi thích mọi người có những hành động lạnh nhạt và giữ khoảng cách đối với tôi
36. Tôi cố gắng để những người khác làm những việc mà tôi muốn.
37. Tôi thích những người khác yêu cầu tôi tham gia vào những cuộc thảo luận của họ.
38. Tôi thích những người khác có những hành động thân thiện với tôi.
39. Tôi thích những người khác mời tôi cùng tham gia vào những hoạt động của họ.
40. Tôi thích những người khác giữ khoảng cách với tôi.
Đối với những trường hợp tiếp theo hãy chọn một trong những câu trả lời sau:
1. Luôn luôn (Usually)
2. Thường xuyên (Often)
3. Thỉnh thoảng (Sometimes)
4. Đôi khi (Occasionally)
5. Hiếm khi (Rarely)
6. Không bao giờ (Never)
41. Tôi cố gắng để là người có tác động lớn trong nhóm.
42. Tôi thích những người khác mời tôi cùng tham gia.
43. Tôi thích những người khác có những hành động thân thiện hướng đến tôi.
44. Tôi cố gắng để mọi người khác làm những việc mà tôi muốn.
45. Tôi thích những người khác mời tôi cùng tham gia vào những hoạt động của họ.
46. Tôi thích mọi người có những hành động lạnh nhạt và giữ khoảng cách đối với tôi.
47. Tôi cố gắng để có thể tác động mạnh đến những hoạt động của mọi người.
48. Tôi thích mọi người lôi kéo tôi tham gia vào cùng làm việc chung.
49. Tôi thích mọi người có những hành động thân thiện với tôi.
50. Tôi cố gắng đứng ra gánh vác công việc khi làm việc những người khác.
51. Tôi thích mọi người mời tôi cùng tham gia vào những hoạt động của họ.
52. Tôi thích những người khác có những hành động giữ khoảng cách với tôi.
53. Tôi cố gắng để những người khác có thể làm việc theo những cách mà tôi muốn họ
làm.
54. Tôi cố gắng đứng ra chịu trách nhiệm công việc khi làm việc với những người khác.

TRA CỨU TRẮC NGHIỆM


1. Trắc nghiệm tự nhận thức
LĨNH VỰC KỸ NĂNG CÂU TỔNG
ĐIỂM
Sự cởi mở, thân tình với mọi người xung quanh 1,2,3,9,11
Nhận thức giá trị, kiểu nhận thức, xu hướng thay đổi và định hướng 4,5,6,7,8,10
cá nhân
Tổng điểm:_______ Điểm số >=55: bạn ở top ¼ thứ nhất; 52-54: nhì; 48-51: ba; <=47: tư
70 – Chương 1: Tự nhận thức

2. Trắc nghiệm tính cách


Dấu hiệu tính cách xác định bằng cách tính tổng số phương án chọn a hay b. Đặc tính thứ
nhất (E/I) tính từ một cột phương án chọn; các đặc tính còn lại tính từ hai cột phương án chọn.
a b a b a b a b a b a b a b
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30 31 32 33 34 35
36 37 38 39 40 41 42
43 44 45 46 47 48 49
50 51 52 53 54 55 56
57 58 59 60 61 62 63
64 65 66 67 68 69 70

E I S N T F J P

Các đặc trưng của tính cách (Dựa vào tổng số bên nào lớn hơn)
E/I – Tập trung năng lượng E: Hướng ngoại /I: Hướng nội (Extroverted/Introverted)
S/N: Sử dụng thông tin S: Cụ thể / N: Khái quát (Sensing / iNtuitive)
T/F: Ra quyết định T: Lý trí / F: Tình cảm (Thinhking / Feeling)
J/P: Tổ chức công việc J: Có kế hoạch / P: Tự do (Judging / Perceiving)

KẾT QUẢ THỐNG KÊ


ISTJ ISFJ INFJ INTJ
24% 4%
ISTP ISFP INFP INTP
ESTP ESFP ENFP INTP
52% 20%
ESTJ ESFJ ENFJ ENTJ

3. Trắc nghiệm xác định vấn đề


Tù nhân vượt ngục Bệnh nhân hiểm nguy Báo mới
CÂU GIAI CÂU GIAI CÂU GIAI CÂU GIAI CÂU GIAI CÂU GIAI
ĐỌAN ĐỌAN ĐỌAN ĐỌAN ĐỌAN ĐỌAN
1. 3 7. 3 1. 3 7. 3 1. 4 7. 3
2. 4 8. 4 2. 4 8. 6 2. 4 8. 3
3. Thái 9. 3 3. Thái độ 9. 4 3. 2 9. 5
độ chống
chống đối sự
lại sự độc
độc đoán
đoán
Chương 1: Tự nhận thức - 71

4. 4 10. 4 4. 2 10. 5 4. 4 10. 5


5. 6 11. 5 5. 5 11. 4 5. Thái 11. 4
độ
cực
đoan
6. Thái 12. 5 6. Thái 12. 5 6. 5 12. 3
độ độ cực
cực đoan
đoan

4. Trắc nghiệm phong cách học


Tính điểm số theo khóa ở biểu sau:
KIỂU PHONG CÂU TỔNG
CÁCH 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 CỘNG
Kinh nghiệm thực tế A C D A A C B D B B A B
Suy luận D A C C B A A C A A B C
Khái quát, trừu B B A D C D C B D D C A
tượng
Hành đông thực tiễn C D B B D B D A C C D D

5. Trắc nghiệm nơi kiểm soát


Tính số lượng các mục mà bạn đã theo danh mục trình bày dưới đây:
2a 5b 9a 12b 16a 20a 23a 28b Tổng cộng: _____
3a 6a 10a 13a 17a 21a 25a 29a Các nhà quản trị doanh nghiệp: TB = 8.29; ĐLC
4a 7a 11a 15b 18a 22a 22b 26b = 3.75
Sĩ quan cao cấp: TB = 8.29; ĐLC = 3.86

6. Trắc nghiệm mức chịu đựng sự mơ hồ


Sự mơ hồ xuất hiện từ ba nguồn chính: sự mới lạ, sự phức tạp và sự nhập nhằng. Có 3
thước đo được sử dụng. Điểm số cao dấu hiệu tính không chịu đựng sự mơ hồ. Để tính điểm, cần
điều chỉnh 7 thành 1, 6 thành 2, 5 thành 3. Sau khi điều chỉnh xong, tổng điểm toàn bộ 16 câu là
tổng số điểm của bạn. Toàn bộ các câu phân thành 3 nhóm thang phụ của thang đo mức chịu
đựng của sự mơ hồ: sự mới lạ (N - novelty), sự phúc tạp (C - completxity) và sự nhập nhằng (I -
insolubiliti).
CÂU THANG CÂU THANG CÂU THANG MỤC THANG ĐIỂM SỐ
PHỤ PHỤ PHỤ PHỤ
1 I 5 C 9 N 13 N (N) Điểm sự mới lạ
(2,9,11,13) = _____
2 N 6 C 10 C 14 C (C) Điểm sự phức tạp
(4,5,6,7,8,10,14,15,16)
=_____
3 I 7 C 11 N 15 C (I) Điểm sự nhập
72 – Chương 1: Tự nhận thức

nhằng (1,3,12) = ____


4 C 8 C 12 I 16 C Tổng số điểm =____
(điểm TB từ 44-48)
7. Trắc nghiệm khuynh hướng trong quan hệ giữa các cá nhân (FIBO-B).
Điểm xác định điểm số định hướng quan hệ của bạn, hãy xem xét biểu dưới đây. Lưu ý
rằng có 6 cột, mỗi cột chứa thông tin câu hỏi và khoá. Mỗi cột thể hiện khía cạnh quan hệ như
biểu đồ. Khoá để chỉ câu trả lời của bảng câu hỏi. Nếu bạn trả lời bởi 1 trong các phương án liệt
kê ở mỗi câu, khoanh tròn số của câu trong biểu.
LIÊN KẾT MUỐN ĐƯỢC KIỂM SOÁT MUỐN THÂN ĐƯỢC
VỚI MỌI MỌI NGƯỜI MỌI NGƯỜI ĐƯỢC THIỆN VỚI THÂN
NGƯỜI (E) LIÊN KẾT(W) KIỂM SOÁT MỌI NGƯỜI THIÊN BỞI
MỌI NGƯỜI
MỤ KHO MỤC KHO MỤC KHO MỤ KHO MỤ KHO MỤ KHO
C Á Á Á C Á C Á C Á
1 1-2-3 28 1-2 30 1-2-3 2 1-2-3- 4 1-2 29 1-2
4
3 1-2-3- 31 1-2 33 1-2-3 6 1-2-3- 8 1-2 32 1-2
4 4
5 1-2-3- 34 1-2 36 1-2 10 1-2-3 12 1 35 5-6
4
7 1-2-3 37 1 41 1-2-3- 14 1-2-3 17 1-2 38 1-2
4
9 1-2-3 39 1 44 1-2-3 18 1-2-3 19 4-5-6 40 5-6
11 1-2 42 1-2 47 1-2-3 20 1-2-3 21 1-2 43 1
13 1-2 45 1-2 50 1-2 22 1-2-3- 23 1-2 46 5-6
4
15 1 48 1-2 53 1-2 24 1-2-3 25 4-5-6 49 1-2
16 1 51 1-2 54 1-2 26 1-2-3 27 1-2 52 5-6
Tổng: ______ Tổng: ______ Tổng: ______ Tổng: _____ Tổng: _____ Tổng: _____
Sau khi bạn đã khoanh tròn toàn bộ các số, hãy tính tổng số các ô khoanh tròn (trong mỗi
cột), và điền kết quả vào trong ô tương ứng:
Liên kết Kiểm soát Thân thiện Tổng cộng
Thể hiện với người khác (E) (E)
Mong muốn từ người khác (W) (W)
Tổng cộng
Các số này cho biết mức độ mạnh của nhu cầu. Điểm tối đa = 9, tối thiểu = 0. Các giá trị
trung bình:
TỔNG E: 13.4
TỔNG W: 15.9
TỔNG LIÊN KẾT: 11.9
TỔNG KIỂM SOÁT: 8.5
TỔNG THÂN THIỆN: 8.9

You might also like