You are on page 1of 4

Đề 2: Cảm nhận của anh( chị) đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Tràng

Giang” của Huy Cận: Bèo dạt về đâu… không khoá hoàng hôn”

Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện
rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại quá trình viết nó. Cảm hứng
thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây
giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào
thời Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sông nước,
vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Nếu như ở trên, tiếng chợ chiều đang vãn cũng là “đâu có” thì đến đây, khổ thơ
tiếp tục phủ nhận tuyệt đối tất cả những gì thuộc về con người. “Bèo dạt mây trôi”,
cánh bèo xa nay vẫn thường gợi cho người ta nỗi buồn về sự nổi nênh vô định. Cái
“dạt” của nó cho thấy sự vô định, không biết đâu là bờ bến, không biết đi đâu về
đâu. Lại là “hàng nối hàng”, nỗi sầu cứ thế nhân lên, ngày càng nhiều, ngày càng
chất chồng. Điệp từ “không” láy lại hai lần càng gợi thêm nỗi buồn mênh mông.
Toàn cảnh sông nước tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người. Tất cả những
sợi dây nối giữa con người và sự sống của con người với nhau đều không tồn tại:
không một chuyến đò ngang, không một cây cầu. Nghĩa là người đứng trước cảnh
kia đang cô độc một cách hoàn toàn và hơn bao giờ hết đang thấm thìa nỗi cô đơn,
bơ vơ ấy. Chỉ là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Có sự xuất hiện của thiên nhiên
thôi thì cũng chỉ là “lặng lẽ” bờ bãi tiếp nối tiếp cũng như nỗi buồn, dù lặng lẽ,
nhưng đang ngày càng thấm sâu hơn vào trong tâm hồn con người. Ta hiểu rằng,
thi sĩ đã dùng tất cả những cái không tồn tại để làm nổi bật Sự cô quạnh, cũng là để
khẳng định một thứ khác, chỉ được gợi ra một cách kín đáo nhưng lại trải ra suốt từ
đầu đến cuối tác phẩm: là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời. Thái độ phủ
nhận thực tại nằm ngay trong kết cấu bài thơ.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cảnh nhỏ bóng chiều sa
"Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng", đó là lời tự
bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rực bằng lúc bình
minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi "bóng chiều sa".
Nhưng chính lúc ấy, trong thơ Huy Cận, nơi "Tràng Giang" lại rạng lên vẻ đẹp
tráng lệ với "lớp lớp" những tầng mây hợp thành "núi mây" khổng lồ được những
vạt nắng chiếu rọi thành "núi bạc". Đó là cảnh thực, song cung là một hình ảnh
nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết được hình tượng "núi bạc", thi nhân phải có một sự
cảm nhận vẻ đẹp rất tinh tế, và đó phải là một hồn thơ yêu quê hương, đất nước
đằm thắm. Hình ảnh "núi bạc" ấy sinh động hơn, hùng vĩ hơn qua động từ "đùn":
"Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao,
ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp" (Huy Cận
Ta thấy trong suốt hành trình Tràng Giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng
cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc loài, vô định:
một cành củi khô bập bềnh trôi trên sóng (Củi một cành khô lạc mấy dòng), một
đám bèo xanh trôi nổi trên sông (Bèo dạt về đâu hàng nối hàng)... Và tới khổ thơ
cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một
hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là một cánh chim
nhỏ nhoi, cánh chim đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố bay về nơi chân
trời xa vắng.
Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng hôn là hình ảnh ước lệ, tượng
trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy đã từng là nơi bao thi
nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thìa vào đó. Và có lẽ nó sẽ còn là nơi
để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. Trong dòng suy nghĩ ấy,
một lần nữa, cánh chim lẻ loi, cô đơn, lạc đàn "nghiêng cánh nhỏ" trong Tràng
Giang lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nỗi buồn bơ vơ, trống trải của một người lữ
thứ xa quê đang cô đơn thả những mảnh hồn theo "cánh chim mỏi" cố bay về nơi
chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuôì rất hay. Nếu như câu thơ "lớp lớp mây cao đùn
núi bạc" gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại
trĩu xuông theo hình ảnh "bóng chiều sa". Chữ "sa" rất hay. Có lẽ bóng chiều ấy
đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ "sa" ấy, chứ
không phải là "xa", bởi nếu đó là "bóng chiều xa" thì nỗi buồn của thi nhân chỉ
giản đơn là một nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu còn là
"nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên" của
thi nhân. Tâm trạng cô đơn cùng nỗi "sầu nhân thế" như ngưng đọng và không thể
giải tỏa trong không gian của "bóng chiều sa" ấy, và nó còn thể hiện sâu đậm trong
hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái
vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu hạn:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Trong suốt hành trình "Tràng Giang", ta luôn gặp những từ láy: "điệp điệp", "song
song", "đìu hiu", "lớp lớp"... tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu thê
thiết, và nốt nhạc kết thúc là "dợn dợn", nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước,
sóng lòng. "Dợn dợn" diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh
mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Rõ ràng tâm tình của Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn thường trực
trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vạn vật. Huy Cận có lần tâm sự:
cái "nhớ” ở đây không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh - nơi chôn nhau
cắt rốn, mà "nhớ nhà" nên hiểu theo nghĩa rộng là nhớ quê hương, đất nước Việt
Nam. ông còn kể: Khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp, chiếm đóng Paris, nhà
thơ Aragon cảm thấy lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Tới nay, trước
cảnh nhân dân cơ cực, lầm than, sống cuộc đời nô lệ dưới ách thông trị của thực
dân Pháp, thi sĩ Huy Cận lại có tâm sự lạc loài ấy. Chính vì thế, Huy Cận đã nói:
"Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường". Ân tình thi sĩ Huy Cận dành cho
quê hương, đất nước thật là sâu nặng.
Khổ thơ đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình quê buồn tha thiết, sâu lắng thì như
kéo dài, vang vọng mãi theo cái âm điệu "dập dềnh như sóng nước Tràng Giang"
của hai câu thơ cuối.
Đây là khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca truyền thống - những
nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể hiện ở
cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của
thi nhân - "nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước" (Huy Cận). Nỗi buồn khơi
nguồn từ tâm ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim - lặng lẽ thế nhưng sâu
nặng và mãnh liệt vô cùng:
Bâng khuâng trời rộng nhở sông dài. Cảm hứng của lời đề tựa ấy dàn trải trong ba
khổ thơ đầu, để rồi hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối - khổ thơ có thể xem như
một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương
của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu quê hương
thắm thiết bao nhiêu, thi nhân lại càng "ảo não", càng "buồn" bấy nhiêu.

Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển, có sự kết hợp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại. Bài
thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt với những thi liệu truyền thông; mang dáng dấp
Đường thi ở sự hàm súc cô đọng, tao nhã, và khái quát. Có thể nhận thây rằng, đi
hết bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Là nỗi buồn của thi nhân trước cái
mênh mông, rợn ngợp của thiên nhiên, vũ trụ. Là nỗi buồn trước tình đời tình
người. Nỗi buồn này như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới, là nỗi buồn
của cả một dân tộc, cả một thế hệ thanh niên trí thức những năm tháng mất nước,
ngột ngạt, bế tắc. Nó thể hiện những tâm sự yêu nước kín đáo của nhà thơ. Bởi
vậy, Đây là cái buồn đẹp, cái buồn của những thanh niên chưa khô hộ, lạnh nhạt,
thờ ơ, phó mặc trước cuộc đời. Như những gì Xuân Diệu đã đánh giá: “Tràng
giang” là bài thơ dọn đường cho lòng yêu giang san, đất nước.Đọc “Tràng giang”,
ta cảm thông với những tâm sự của Huy Cận mà thêm yêu, thêm quí một tài năng,
một tâm hồn

You might also like