You are on page 1of 11

Bài: BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA SAU NĂM 1975

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG


1.1 Khái niệm, vị trí, vai trò nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
1.1.1. Khái niệm: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tổng thể các hoạt động,
các biện pháp nhằm quy tụ lực lượng tạo nên sức mạnh tổng hợp để giữ vững độc
lập, tự do, chủ quyền quốc gia, lãnh thổ, biển đảo, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ cuộc sống của nhân dân và các thành quả cách mạng, tạo điều kiện để phát
triển đất nước về mọi mặt.
1.1.2. Vị trí, vai trò: Bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam - là bộ phận quan trọng trong đường lối xây dựng và phát triển
đất nước, giữ vị trò quyết định thành bại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, xây dựng đất nước phải luôn đi đôi với bảo vệ Tổ quốc; dựng nước phải
đi đôi với giữ nước.
Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn có sự
phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, cả bảo vệ về mặt tự nhiên và mặt xã hội.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn để tiến hành sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng HCM đều khẳng định bảo vệ Tổ quốc
XHCN là một tất yếu khách quan; đồng thời nêu rõ nội dung, phương pháp bảo vệ
Tổ quốc XHCN
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Nội dung bảo vệ Tổ quốc XHCN: Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM
đều khẳng định: bảo vệ Tổ quốc XHCN là bảo vệ độc lập DT và CNXH.
Phương pháp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: V.I.Lênin đã đề cập nhiều
việc phải làm, trước hết là xây dựng và củng cố quốc phòng;
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng quy tụ sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp sức
mạnh của con người, điều kiện xã hội với điều kiện tự nhiên để hình thành sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
- Trong tiến trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt nam, các triều đại phong kiến đều phải chăm lo quốc phòng, quân đội, chăm lo
sức dân, “đề phòng, không để bị động bất ngờ”, “lo giữ nước từ lúc vận nước chưa
nguy”, “lo trị nước từ khi nước chưa loạn”.
- Lịch sử cách mạng thế giới và Việt Nam.
+ Sau cách mạng tháng mười Nga năm 1917 thành công, mười bốn nước đế quốc đã ra
sức bao vây, tiến công hòng tiêu diệt nhà nước Xô Viết non trẻ đầu tiên trên thế giới.
+ Trong những năm 80 và cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, nhà nước xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu do những sai lầm của các nhà lãnh đạo đất nước buông
lỏng quản lý, thực hiện chính sách kinh tế trì trệ, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với đất nước và xã hội, nhất là đối với quân đội, cộng vào là sự phá hoại của các thế
lực thù địch trong và ngoài nước đã dẫn đến Liên bang Xô Viết bị tan rã, hệ thống xã
hội chủ nghĩa lâm vào thoái trào.
+ Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng tám năm 1945, các nước đế quốc Pháp, Anh,
Tưởng, Mỹ, cùng với các thế lực thù địch trong và ngoài nước đều muốn xóa bỏ thành
quả cách mạng do nhân dân Việt Nam giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Thực tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động chưa bao giờ từ bỏ ý đồ
xâm lược và chống phá chủ nghĩa xã hội, chúng chỉ thay đổi thủ đoạn, biện pháp chống
phá mà thôi.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên cho thấy, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội là một
yêu cầu khách quan tất yếu, là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu và có tính xuyên suốt.
II. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG ĐẤU TRANH BẢO VỆ TỔ
QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TỪ SAU NĂM 1975 ĐẾN NAY
2.1 Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn (1975 -1989)
2.1.1.Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Tây Nam
a) Nguyên nhân
- Một là, tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari cho rằng: lịch sử vùng đất miền Tây
Nam bộ Việt Nam là của Campuchia, bị Việt Nam chiếm đóng từ trước, nên phải đòi lại.
- Hai là, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 được ký kết, họ xoáy vào việc Việt Nam
bỏ rơi Campuchia, không bảo vệ quyền lợi và lợi ích của nhân dân Campuchia.
- Ba là, họ cho rằng, vì Việt Nam lập căn cứ địa cách mạng trên đất Campuchia
nên Mỹ và đồng minh đã oanh tạc vào vùng Đông Bắc Campuchia.
- Bốn là, phát động chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam Việt Nam, lực lượng Pôn
Pốt - Iêng Xari nhằm tạo cớ để thanh trừng nội bộ, đàn áp những cuộc nổi dậy ở trong nước,
củng cố quyền lực để thực hiện một chế độ tàn bạo ở Campuchia.
- Năm là, họ được các thế lực phản động nước ngoài “hà hơi, tiếp sức”.
b) Diễn biến chính của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
Ngày 3-5-1975 lực lượng Khơ me đỏ đổ bộ quân đánh chiếm đảo Phú Quốc, ngày
10-5-1975 chúng đánh chiếm đảo Thổ Chu, trong những ngày tiếp theo chúng đưa quân
đánh chiếm các tỉnh biên giới Tây Nam của Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh.
Phối hợp với quân Pôn Pốt - Iêng Xari, bọn phản động tay sai của lực lượng phản
động quốc tế hoạt động mạnh tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh Nam Bộ chuẩn
bị thực hiện bạo loạn. Tất cả âm mưu và hành động đó của chúng đều bị quân dân ta
ngăn chặn, đấu tranh và làm thất bại.
Với mong muốn sớm chấm dứt xung đột biên giới bằng thương lượng đàm
phán hòa bình, ngày 5 - 2 - 1978 Bộ Ngoại giao ta chủ động đưa ra tuyên bố lập
trường 3 điểm để giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia.
Để tỏ thiện chí, đêm 5-11-1978, Việt Nam đơn phương thu quân vào cách
biên giới 5 km. Đáp lại, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari không những khước từ thiện
chí của ta mà chúng còn tăng cường hơn nữa quân chủ lực dọc biên giới, kiếm cớ
duy trì cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam, đồng thời chuẩn bị những cuộc
tiến công quân sự quy mô lớn sau này.
Ngày 23-12-1978, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari “huy động 10 trong số 19 sư
đoàn bộ binh” tinh nhuệ, có xe tăng và pháo binh yểm trợ đang bố trí ở biên giới, mở
cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta, trong đó chúng dùng 3 sư
đoàn bộ binh đánh vào khu vực Bến Sỏi, Bến Cầu thuộc tỉnh Tây Ninh (cách Thành
phố Hồ Chí Minh hơn 100km) với ý đồ đánh chiếm chớp nhoáng thị xã Tây Ninh, mở
đường tiến sâu vào miền Nam Việt Nam.
Trước tình trên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện quyền tự vệ chính đáng của
mình, quân và dân các tỉnh Nam Bộ đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chủ lực, tổ chức
lực lượng tiến hành phản công tiêu diệt quân địch, mở màn tổng tiến công trên toàn tuyến
biên giới, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân xâm lược vừa tiến vào đất nước ta.
c) Kết quả
Cuộc tiến công quy mô lớn của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari hoàn toàn bị đập
tan. Toàn bộ quân xâm lược bị quét khỏi bờ cõi nước ta, hoà bình lập lại trên biên giới
Tây - Nam Tổ quốc. Những thắng lợi lịch sử đó đã khôi phục lại tình đoàn kết
chiến đấu, tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam -
Campuchia, đồng thời góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Chiến thắng biên giới Tây - Nam của quân dân ta đã tạo thời cơ lớn, hết sức thuận lợi
để quân và dân ta tiếp tục hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc tế, giúp nhân dân
Campuchia giải phóng đất nước, giữ vững thành quả cách mạng; đồng thời chuẩn bị
mọi mặt cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc.
2.1.2. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm tròn
nhiệm vụ quốc tế vẻ vang
2.1.3. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc
Vừa kết thúc cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân lại phải đương đầu với những khó khăn và thử thách lớn do các
thế lực phản động quốc tế gây ra, đặc biệt là nguy cơ xảy ra một cuộc tiến công tổng
lực của quân bành trướng Trung Quốc từ phía Bắc.
a) Nguyên nhân
- Một là, Trung Quốc cho rằng, “Việt Nam ngạo mạn” xâm lược Campuchia, khoa
trương thế lực là “cường quốc thứ ba trên thế giới”, Trung Quốc muốn cứu Pôn Pốt.
- Hai là, sau khi Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện được ký vào ngày
3/11/1978 giữa hai nước Việt Nam và Liên Xô, Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã
ngã hẳn sang Liên Xô, phản bội Trung Quốc nên cần phải “dạy cho Việt Nam một bài
học”; đồng thời, thông qua đó để thăm dò phản ứng của Liên Xô và dư luận thế giới
để chuẩn bị cho những bước phiêu lưu sau này.
- Ba là, theo Đặng Tiểu Bình, bản chất cuộc chiến là “hoàn kích tự vệ chiến”,
tức đánh trả để tự vệ, bởi vì Việt Nam đã "trục xuất kiều dân người Hoa" cũng như
bộ đội Việt Nam nhiều lần mở các cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, chiếm
đất của Trung Quốc cũng như bắn giết lực lượng của Trung Quốc.
- Bốn là, Trung Quốc muốn “sát hạch” khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực
lượng, tranh thủ Mỹ và các nước đế quốc giúp đỡ họ xây dựng “bốn hiện đại hóa”.
- Năm là, quyết định đánh Việt Nam, Trung Quốc ngầm chuyển môt thông
điệp với Mỹ và phương Tây rằng Trung Quốc rất thực dụng và Trung Quốc cần
có trách nhiệm để duy trì cân bằng quyền lực đại cường.
- Sáu là, đánh Việt Nam nhằm phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế của ta.
- Ngoài ra, đánh Việt Nam sẽ thâu tóm quyền lực trong nội bộ đảng, thống
nhất ý chí nội bộ, khuấy động ủng hộ trong nước và nước ngoài, tạo nên môi
trường an toàn và ổn định để Trung Quốc hiện đại hóa.
b) Diễn biến chính của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
Những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, Trung Quốc dùng mọi thủ đoạn
như: xây dưng các công trình hữu nghị với ý đồ đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ
Việt Nam; đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới, xê dịch, xuyên tạc pháp
lý các mốc quốc giới để sửa đổi đường biên giới; dùng lực lượng vũ trang đóng chốt,
uy hiếp để xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời, họ làm bế tắc cuộc đàm phán về
biên giới, công khai thực hiện chính sách chống Việt Nam.
“Từ tháng 8-1978 phía Trung Quốc điều động từ phía sau ra biên giới gồm 32
sư đoàn bộ binh (9 quân đoàn và 5 sư đoàn độc lập), cùng 550 xe tăng, xe bọc thép,
2558 pháo, có 1092 pháo xe kéo, 676 máy bay… Trên hướng biển có hàng chục tàu
chiến thuộc hạm đội Nam Hải hỗ trợ…”
Đêm 16 rạng sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc bí mật “huy động hơn 60 vạn
quân của 11 quân đoàn và nhiều sư đoàn độc lập”, cùng vũ khí trang bị, phương tiện
hiện đại, tổ chức lực lượng lớn vượt biên, luồn sâu, ém sẵn ở nhiều khu vực trên toàn
tuyến biên giới Việt - Trung. Từ 3 giờ 30 phút ngày 17 - 2 - 1979, quân Trung Quốc
sử dụng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ nước ta, sau đó tổ chức lực
lượng tiến công sang lãnh thổ Việt Nam.
Ngay ngày đầu, gần 20 sư đoàn bộ binh Trung Quốc đồng thời tiến đánh sáu tỉnh
của Việt Nam giáp với Trung Quốc dài hơn 1150 ki-lô-mét, bao gồm: Quảng Ninh,
Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu. Quân Trung Quốc đã
tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi tới vài chục ki-lô- mét.
Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, từ ngày 17 - 2 - 1979, chính
phủ ta đã ra tuyên bố nêu rõ: Nhà cầm quyền Trung Quốc đã đi ngược lại lợi ích của
nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước
và khẳng định: “Quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác phải dùng
quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả”.
Theo đó, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã điều động các sư đoàn bộ binh của các
quân khu từ tuyến sau lên. Quân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc tích cực, chủ động tổ
chức lực lượng chiến đấu tại chỗ, cầm chân và đẩy lùi từng đợt tiến công của địch
trong khi chờ quân tăng viện. Cùng thời điểm, một cuộc chuyển quân và vũ khí trang
bị, lương thực, thực phẩm thần tốc của 3 quân đoàn chủ lực Việt Nam diễn ra bằng
đường biển, đường bộ, đường hàng không chi viện cho mặt trận biên giới phía Bắc
kịp thời. Đặc biệt là đã cơ động lớn các đơn vị đang làm nhiệm vụ ở mặt trận
Campuchia ra thẳng miền Bắc thông qua lập cầu hàng không.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, với tinh thần “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, với thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc đã được chuẩn
bị sẵn, quân và dân ta trên tuyến đầu của Tổ quốc, từ bộ đội chủ lực của Quân khu 1,
Quân khu 2, đến bộ đội địa phương các tỉnh, huyện, Bộ đội biên phòng và dân quân tự
vệ trên tất cả các hướng biên giới đã kịp thời giáng trả những đòn quyết liệt, bẻ gãy
các đợt tiến công của địch.
Tuy nhiên, trước sự hung hãn bành trướng bá quyền nước lớn, ngày 4-3-1979,
Ban chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước nhất tề
đứng lên bảo vệ Tổ quốc.
Ngay sau lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 05 - 3 - 1979,
Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký Sắc lệnh 29 - LCT ra lệnh tổng động viên trong cả
nước để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định
số 83-CP về việc thực hiện quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân.
Đáp lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Lệnh tổng động viên của
Chủ tịch nước, cả nước chung sức, chung lòng chi viện cho cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc.
Hàng triệu người, chủ yếu là thanh niên, học sinh, sinh viên ở hầu hết các tỉnh, thành phố
trong cả nước đã tình nguyện đăng ký gia nhập lực lượng vũ trang, ra trận tuyến chống
quân thù. Hầu hết họ viết đơn, trong đó có nhiều thanh niên viết đơn bằng máu của mình,
tình nguyện lên biên giới phía Bắc để được trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trước sự phản đối kịch liệt của dư luận tiến bộ trên thế giới và trong nước, trước
những đòn giáng trả mạnh mẽ, quyết liệt của quân và dân ta, quân Trung Quốc bị tổn thất
nặng nề. Thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, ngày
5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Với truyền thống nhân nghĩa và lòng mong muốn củng cố hòa bình hữu nghị
giữa nhân dân hai nước, Trung ương Đảng và Chính phủ ta chỉ thị cho các lực lượng
vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc ngừng mọi hoạt động tiến công
quân sự để Trung Quốc được yên ổn rút toàn bộ lực lượng, phương tiện chiến tranh về
nước. Ngày 18-3-1979, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân.
c) Kết quả
Qua 30 ngày đêm chiến đấu cực kỳ anh dũng, kiên cường trừng trị quân xâm
lược, quân và dân ta ở các tỉnh biên giới phía Bắc đã gây tổn thất cho 9 quân đoàn chủ
lực, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 tên (hơn 1/10 tổng quân số Trung Quốc huy
động vào cuộc chiến tranh), tiêu diệt và đánh thiệt hại 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn
cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 115
khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. “Như vậy, tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược này, đối phương đã bị thất bại toàn diện về quân sự,
chính trị, ngoại giao. Thất bại cả ở chiến trường, ở trong nước họ và trên thế giới”
2.1.4. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc
Mặc dù cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc chính thức diễn ra từ ngày 17-2 đến
ngày 18-3-1979, nhưng xung đột biên giới kéo dài dai dẳng đến tận cuối năm 1988.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, quân và dân cả nước luôn giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nêu cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào và tự tôn dân tộc, đề cao
cảnh giác cách mạng, kiên quyết kiên trì vận dụng linh hoạt, sáng tạo mọi hình thức biện pháp
đấu tranh không khoan nhượng với âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch, bảo vệ vững
chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân
thế giới, vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.1.5. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc
a) Khái lược về biển Đông và biển, đảo Việt Nam
b) Chiến dịch “Bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa năm 1988”
- Nguyên nhân: Xuất phát từ vị thế địa chiến lược quan trọng của Biển Đông;
thông qua Biển Đông Trung Quốc sẽ bóp chết yết hầu kinh tế và buộc các nước
ASEAN phụ thuộc vào mình đồng thời từng bước mở rộng khả năng hoạt động, thay
thế Mỹ ở Thái Bình Dương và bá chủ thế giới. Do đó, Trung Quốc luôn khẳng định
có chủ quyền không thể tranh cãi đối với gần như toàn bộ biển Đông theo yêu sách
đường chữ U (lưỡi bò) đứt khúc 9 đoạn trên biển Đông, yêu sách không chỉ các đảo,
đá mà toàn bộ vùng biển trong đó.
- Diễn biến chính:
+ Năm 1956, Trung Quốc đánh chiếm cụm đảo phía Đông thuộc quần đảo
Hoàng Sa; tháng 1 năm 1974 Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam (Lúc bấy giờ quần đảo Hoàng Sa doa quân lực Việt Nam
Cộng hòa đóng giữ bảo vệ).
+ Cuối năm 1987, đầu năm 1988, một lực lượng lớn tàu hải quân Trung Quốc đã
liên tục xuống hoạt động ở khu vực Trường Sa, ngang nhiên ngăn cản, uy hiếp lực lượng
Hải quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên biển; đồng thời bố trí thành 3 tuyến hoạt
động, gồm: Cụm đứng chân phía sau ở Hoàng Sa; cụm ngăn chặn lực lượng của ta ở
đông Cam Ranh - Cù Lao Thu 110 - 120 hải lý; cụm chiếm đóng Chữ Thập;
+ Đầu năm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số bãi đá thuộc khu
vực tại quần đảo Trường Sa: Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Tư Nghĩa (Huy
Gơ) đồng thời có âm mưu chiếm giữ bãi đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao; tiếp tục tăng
cường lực lượng, phương tiện xuống khu vực quần đảo Trường Sa. Sự có mặt và hành
động Trung Quốc là xâm chiếm trái phép, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt
Nam, bị dư luận quốc tế phản đối quyết liệt.
+ Sáng ngày 14 - 3 - 1988, tàu chiến Trung Quốc nổ súng tiến công hai tàu vận tải của
ta ở bãi đá Gạc Ma, làm 64 cán bộ chiến sĩ của ta hy sinh, gây ra tình hình hết sức căng thẳng
ở khu vực quần đảo Trường Sa.
- Kết quả của chiến dịch “Bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa năm 1988”,
Việt Nam đóng giữ thêm 11 đảo chìm. Sau đó, tháng 11-1988, Hải quân Việt
Nam bắt đầu đóng giữ, bảo vệ khu vực DK1 ở thềm lục địa phía Nam. Hiện nay, trên
quần đảo Trường Sa ta đóng giữ 21 đảo, trong đó có 9 đảo nổi, 12 bãi đá.
+ Trước những diễn biến theo chiều hướng ngày càng phức tạp ở Trường Sa,
ngày 30 - 11 - 1987 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 06-NQ/TW, về việc bảo vệ chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tăng cường sự có
mặt của Việt Nam trên các đảo và vùng biển thuộc chủ quyền lãnh hải của ta. Trong
đó chỉ rõ: “Bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trưòng Sa, trước mắt là
Trường Sa là nhiệm vụ khẩn trương, quyết liệt, lâu dài, là nhiệm vụ chiến lược của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; yêu cầu, các cấp, các ngành trong cả nước cùng
chung sức thực hiện”.
+ Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các lực lượng
phối hợp hiệp đồng chiến đấu bảo vệ các đảo, bao gồm cả việc củng cố, xây dựng
thêm các công trình chiến đấu và sinh hoạt; đưa lực lượng ra đóng giữ bảo vệ các bãi
đá cạn. Nếu có lực lượng nào xâm phạm hoặc dùng vũ lực uy hiếp an ninh chủ quyền
của ta thì được phép đánh trả và luôn luôn cảnh giác, tỉnh táo không để bị khiêu khích
và bất ngờ, đánh trả kịp thời.
+ Theo đó đầu năm 1988, Quân chủng Hải quân đã mở chiến dịch “Bảo vệ chủ
quyền quần đảo Trường Sa năm 1988” nhằm tập trung cao nhất khả năng lực lượng của
toàn quân chủng để bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa.
- Kết quả của chiến dịch “Bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa năm 1988”, Việt
Nam đóng giữ thêm 11 đảo chìm. Sau đó, tháng 11-1988, Hải quân Việt Nam bắt đầu
đóng giữ, bảo vệ khu vực DK1 ở thềm lục địa phía Nam. Hiện nay, trên quần đảo
Trường Sa ta đóng giữ 21 đảo, trong đó có 9 đảo nổi, 12 bãi đá.
2.2. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn từ năm 1990 đến nay
2.2.1. Thực trạng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn từ
năm 1990 đến nay
a) Những thành tựu cơ bản

+ Đảng và nhà nước ta đã có những đổi mới tư duy về quốc phòng và an ninh bảo vệ Tổ quốc;
+ Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn đân gắn với thế trận an
ninh nhân dân tiếp tục được củng cố.
+ Việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh, quốc phòng an ninh
với kinh tế ngày càng chặt chẽ hơn; triển khai tích cực các hoạt động đối ngoại quân
sự quốc phòng, ngoại giao đa phương, góp phần tạo môi trường hòa bình và ổn định
và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
+ Đã điều chỉnh về chiến lược, bố trí lại thế trận, giảm được một lực lượng lớn
quân thường trực;
+ Chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân và công an
nhân dân không ngừng được nâng cao.
+ Đã triển khai kịp thời, đồng bộ, có kết quả chủ trương xây dựng phòng tuyến
biên giới; các khu kinh tế - quốc phòng; đường tuần tra biên giới.
+ Công tác giáo dục quốc phòng và an ninh được triển khai sâu rộng ở các cấp, các ngành.
b) Những hạn chế

+ Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trương, quan điểm bảo vệ
Tổ quốc chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
+ Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân tuy được xây dựng, củng cố nhưng chưa toàn diện và vững chắc.
+ Chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang
có mặt còn hạn chế, nhất là tác chiến chống chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
+ Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực còn có những thiếu sót; xử lý
tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi chưa nắm chắc tình hình, còn bị
động; tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số
địa bàn còn diễn biến phức tạp.
+ Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế xã hội với tăng cường sức mạnh quốc
phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ.
+ Việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào nghiên cứu sửa chữa, sản
xuất vũ khí trang bị kỹ thuật còn thấp, chưa có khả năng tự nghiên cứu, sản xuất vũ
khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao.
2.2.2. Mục tiêu, quan điểm, lực lượng, sức mạnh, phương châm, phương thức
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới
Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ
và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
a) Mục tiêu bảo vệ Tổ Quốc
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Phát huy mạnh mẽ sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình
ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội”. Đồng thời bổ
sung “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống;
bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”.
b) Quan điểm chỉ đạo bảo vệ Tổ quốc
Một là, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
Ba là, phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Phát huy mạnh mẽ nội lực là nhân tố quyết định; tranh thủ tối đa sự đồng, tình ủng hộ
của cộng đồng quốc tế.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng
viên và từng người dân;
Năm là, quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế. Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá;
thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác vừa đấu tranh.
Sáu là, vận dụng linh hoạt quan điểm về “đối tác”, “đối tượng”.
Bảy là, nâng cao chất lượng công tác dự báo, nắm chắc tình hình; chủ động phòng
ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu những nhân tố có thể dẫn đến những đột biến, bất lợi.
Thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình
huống.
c) Lực lượng tiến hành bảo vệ Tổ quốc: Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt.
d) Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc : là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng, tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế, lấy sức mạnh nội lực là
chính; khắc phục tư tưởng trông chờ, dựa dẫm vào sự giúp đỡ của nước khác.
e) Phương châm chỉ đạo bảo vệ Tổ quốc: kiên định về mục tiêu, các nguyên tắc
chiến lược, đi đôi với vận dung linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; tranh thủ sự ủng hộ
rộng rãi của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹ lãnh thổ của
Tổ quốc. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở
tôn trọng luật phát quốc tế
g)phương thức tiến hành bảo vệ Tổ quốc: kết hợp chặt chẽ phương thức đấu
tranh vũ trang và phương thức đấu tranh phi vũ trang; giữa bảo vệ với xây dựng, lấy
xây dựng để bảo vệ, bảo vệ trong xây dựng, xây dựng trong bảo vệ; bảo vệ là một bộ
phận của xây dựng, xây dựng là một bộ phận của bảo vệ.
III. Ý NGHĨA VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỌC SINH
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam, là nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta trong giai đoạn hiện nay. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ mới đòi hỏi rất cao ý thức trách nhiệm công dân của mỗi con người.
Nhận thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không những trực tiếp nâng
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, mà còn định
hướng, điều chỉnh hành vi của con người trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Mỗi học sinh cần thấy rõ những thành quả có ý nghĩa lịch sử mà quân và dân ta
đã giành được trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quán triệt
sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới; nhận thức đầy đủ về những thuận lợi khó khăn, thách thức đối với nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc; nhận rõ “đối tượng”, “đối tác” của cách mạng Việt Nam; âm mưu thủ
đoạn của các thế lực thù địch… Trên cơ sở đó, nêu cao tinh thần yêu nước, lòng tự
hào, tự tôn dân tộc, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, kiên
định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; luôn cảnh giác cách
mạng, xây dựng cho mình có bản lĩnh, ý chí vững vàng, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ
quân sự, chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và hạnh
phúc của nhân dân.
Tích cực học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh, trung thực, giản dị,
xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân; chấp hành nghiêm pháp luật
của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Gương mẫu thực hiện và tích cực tuyên truyền giúp nhân dân hiểu rõ về âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nâng cao cảnh giác, không để các thế lực lợi
dụng, lôi kéo chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương; đồng thời nắm
chắc và chấp hành tốt quan điểm, chủ trương của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tích cực tham gia và vận động nhân dân tham gia
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ
vững chắc, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội địa phương vững mạnh, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân, nhất là nơi biên giới, hải đảo. Nêu cao trách nhiệm giúp dân phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xoá đói, giảm nghèo, phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu
nạn, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng, tài sản và hạnh phúc của nhân dân.
Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng. đối ngoại quốc phòng trong tình
hình mới; tích cực tuyên truyền vận động nhân dân, đặc biệt là những người dân sinh
sống nơi biên giới, hải đảo và làm ăn trên biển chấp hành tốt đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống
lại mọi hành động sai trái vi phạm chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc, góp
phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên đất liền, biển, đảo./.

KẾT LUẬN

Qua bài học này chúng ta phải biết những kiến thức cơ bản về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa từ sau năm 1975. Trên cơ sở đó quán triệt những quan điểm,
mục tiêu, phương châm, nội dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới.

You might also like