You are on page 1of 67

MÔN : Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

(PHÂN TÍCH ĐƯỜNG LỐI, MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG)

Câu 1: Phân tích quá trình chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc cho việc
thành lập Đảng năm 1930.
Trả lời
a, thời kì Bác hoạt động ở Pháp (1921-1923)
- 12/1920: Tại đại hội của đảng xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập
quốc tế cộng sản và tham gia thành lập đảng cộng sản Pháp. Từ đây người đã trở thành người cộng sản đầu
tiên của dân tộc, biến tư tưởng nhận thức thành hành động cụ thể. Người xác định rằng: muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản.
- 1921: Bác tham gia sáng lập hội Liên hiệp thuộc địa. Bác viết bài cho các tờ báo, viết một số tác phẩm (tờ
báo người cùng khổ, nhân đạo, đời sống công nhân…)
-1922: Bác viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân pháp”. Nhằm tuyên truyền bằng hiện thực phê phán, vở
kịch “con rồng tre” đả kích chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Người cũng chủ nhiệm tờ báo “người cùng
khổ” của hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa nhằm hướng tới những người lao động của các nước thuộc địa.
b, thời kì Bác hoạt động ở liên xô (1923-1924)
- Bác tham dự hội nghị quốc tế nông dân, phụ nữ. Bác dự đại hội V của quốc tế cộng sản.
- Tiếp tục viết bài cho các tờ báo: sự thật, viết bài cho tạp chí thư tín quốc tế.
c, thời kì Bác hoạt động ở Trung Quốc (1925-1927)
- 11/1924 người rời liên xô trở về Quảng Châu Trung Quốc (vì gần Việt Nam, là môi trường thuận lợi cho
hoạt động cách mạng vô sản, ở đây khuynh hướng cách mạng vô sản phát triển mạnh mẽ, ở đây người việt
nam yêu nước có rất nhiều nhưng họ hoạt động riêng rẽ)
- 6/1925 người sáng lập ra tổ chức mang tên “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” với nhiệm vụ của hội là
tuyên truyền CN Mác-Leenin, đào tạo đội ngũ cán bộ CM VN, chuẩn bị các điều kiện để thành lập đảng
cộng sản Việt Nam.
- 1928 Người đến Thái Lan. Hội Việt Nam thanh niên thực hiện “Vô sản hóa” đưa hội viên vào nhà máy,
hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp Công nhân, truyền bá CN Mác-Leenin…tác
động mạnh vào phong trào yêu nước ở việt nam với những việc làm đó Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng ở việt nam.
- Tham gia giảng dạy tại các lớp đào tạo cán bộ Cách mạng
- 1927 Tập hợp bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên tại Quảng Châu được in thành sách gọi là “Đường Cách Mệnh” (Đường cách mệnh chỉ rõ tính
chất và nhiệm vụ của cách mạng VN là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội).
Câu 2: Phân tích nội dung cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam của Đảng nêu trong Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 năm 1930.
Trả lời
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua
tại hội nghị thành lập Đảng (2/1930) chỉ rõ những nội dung cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam của
Đảng là:
a, Phướng hướng chiến lược: Chủ trương làm tư sản dân quyền Cách mạng và thổ địa Cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản.
- Tư sản dân quyền Cách mạng là cuộc Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới với nhiệm vụ chống đế quốc.
- Thổ địa cách mạng là cuộc cách mạng ruộng đất.
b, Nhiệm vụ của cách mạng. Nêu nhiệm vu cụ thể hiện các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa…
Các nhiệm vụ này đều bao hàm nội dung dân tộc, dân chủ trong đó:
- Chính trị: nổi bật lên nhiệm vụ đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến tay sai để giành độc lập dân tộc,
thành lập chính quyền quân đội cách mạng việt nam làm cho VN hoàn toàn độc lập.
- Kinh tế: tịch thu ruộng đất tài sản của đế quốc để làm của công chia lại ruộng đất cho dân cày nghèo. Đây
là một điểm sáng tạo của NAQ: chủ trương chỉ chống đế quốc, tận dụng giai cấp phong kiến tham cách
mạng.
- Xã hội: Quyền tự do tổ chức, nam nữ bình đẳng và giáo dục phổ thông theo hướng công-nông hóa mà đối
tượng là những người lao động.
c, Lực lượng cách mạng: Công nhân, nông dân là động lực chính của cách mạng, đây là lực lượng quyết
định sự thành công của cách mạng, phải hết sức liên lạc với tri thức, với trung nông để lôi kéo họ về phía
vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ tư bản VN mà chưa ra mặt phản cách mạng thì cần
phải lợi dụng trung lập, bộ phận nào ra mặt phản cách mạng thì cần phải đánh đổ.
d, Lãnh đạo cách mạng: g/c Vô sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng ĐCS, là đội tiên phong của g/c công
nhân. Đảng phải thu phục được đại bộ phận g/c mình làm cho g/c mình lãnh đạo được đông đảo quần
chúng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đầu tiên quyết định sự thắng lợi của cuộc cách mạng.
e, Đoàn kết quốc tế: Cách mạng VN là một bộ phận của cách mạng thế giới phải hết sức liên lạc đoàn kết
với giai cấp vô sản quốc tế, với các ĐCS trên thế giới nhất là liên lạc với ĐCS pháp và vô sản Pháp.
=> Nhận xét: Đây là cương lĩnh đúng đắn. sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn của một nước thuộc địa
như việt nam. Độc lập tự do là tư tưởng cốt lõi của bản cương lĩnh và “Độc lập tự do là viên ngọc quý được
khảm trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Câu 3: Trình bày nội dung, làm rõ bước phát triển và hạn chế trong nhận thức của Đảng về đường
lối cách mạng Việt Nam thể hiện trong Luận cương chính trị tháng 10/1930.
Trả lời:
14/10/1930 đến 31/10/1930 Hội nghị ban chấp hành TW Đảng được triệu tập tại Hương Cảng Trung
Quốc với sự chủ trì của Đ/c Trần Phú:
a, Nội Dung: Hội nghị đi đến quyết định đổi tên ĐCSVN thành ĐCS Đông Dương.
- Thông qua các văn kiện: luận cương chính trị của Đảng
- Bầu ban chấp hành TW Đảng chính thức. Đ/c Trần Phú được bầu làm tổng bí thư.
- Luận cương phân tích đặc điểm tình hình xã hội thuộc đại nửa phong kiến và nêu những vấn đề cơ bản
của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Luận cương chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử
lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
b, Phương hướng chiến lược: Luận cương nêu rõ tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là
“cách mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và điền địa. Cách mạng tư sản dân quyền là thời kì dự bị
để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dan quyền giành thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển bỏ
qua thời kì tư bản chủ nghĩa để tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa”
c, Nhiệm vụ cách mạng: 2 nhiệm vụ của cách mạng là:
- Chống đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
- Chống phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân cày. Trong đó luận cương nhấn mạnh đề cao đến cách
mạng ruộng đất đấu tranh giai cấp, coi cách mạng ruộng đất là cái cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền,
chỉ có thực hiện cách mạng ruộng đất mới đoàn kết tập hợp được đông đảo lực lượng nông dân tham gia.
*) Hạn chế; Đề cao nhiệm vụ đấu tranh giai cấp, đề cao cách mạng ruộng đất.
d, Lực lượng cách mạng: Công nhân, nông dân là động lực chính của cách mạng. Luận cương không đưa ra
chủ trương tập hợp các g/c tầng lớp khác tham gia đấu tranh. Ngoài ra cần nhấn mạnh đến điểm hạn chế
tiêu cực của các bộ phận này.
*) Nguyên nhân của hạn chế:
- Chủ quan: Đ/c Trần phú chưa nghiên cứu đầy đủ đặc điểm tình hình cách mạng việt nam, Đông Dương để
nhận thấy mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn cơ bản. Nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập cho dân tộc là
nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng. Trần Phú đã vận dụng một cách máy móc vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp
áp dụng vào tình hình thực tiễn của VN.
- Khách quan: Chịu ảnh hưởng của khuynh hướng tả trong quôc tế cộng sản, đề cao vấn đề đấu tranh giai
cấp.
e, Đoàn kết quốc tế: Khẳng định cách mạng việt nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải hết sức
liên lạc với g/c vô sản quốc tế, với ĐCS, với các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhất là Đảng cống sản
Pháp, TQ, Ấn Độ…
f, Lãnh đạo cách mạng: Khẳng định vai trò lãnh đạo của g/c vô sản. Luận cương khẳng định điều kiện cốt
yếu cho thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là có một ĐCS lãnh đạo với đường lối đúng đắn phải
hết sức liên lach mật thiết với quần chúng, phải lấy CN Mác-Lênin làm nền tảng.
g, Phương pháp cách mạng; Con đường để thực hiện thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là vũ
trang lao động chuẩn bị cho quần chúng con đường vũ trang bạo động. Đây là một điểm mới và phát triển
của luận cương tháng 10/1930 mà cương lĩnh tháng 2 chưa nêu ra. Luận cương khẳng định phải chuẩn bị
cho quần chúng con đường vũ trang bạo động khi thời cơ cách mạng chưa đến thì đưa ra các khẩu hiệu đấu
tranh phần ít, khi thời cơ cách mạng đến thì đưa ra khẩu hiệu đấu tranh phần nhiều.

Câu 4: Phân tích nội dung cơ bản của đường lối đấu tranh đòi dân sinh dân chủ thể hiện trong các
Nghị quyết BCHTW Đảng (1936- 1939).
Trả lời:
a, Hoàn cảnh lịch sử
*) hoàn cảnh thế giới:
- CN phát xít xuất hiện =>Nguy cơ chiến tranh thế giới xảy ra đe dọa hòa bình an ninh thế giới.
- 7/1935 Đại hội lần VII quốc tế cộng sản được triệu tập xác định kẻ thù đấu tranh là CN phát xít.
- Chủ trương mỗi một nước thành lập mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc, chống phát xít.
- Nhiệm vụ trước mắt chủ yếu của nhân dân là đấu tranh chống CN phát xít, chống chiến tranh bảo vệ nền
dân chủ trên thế giới.
- 1936 Chính phủ và mặt trận nhân dân Pháp lên nắm quyền ban hành một số cải cách đan chủ đối với
người dân ở các nước thuộc địa.
*) hoàn cảnh trong nước:
- cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 tác động ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi giai cấp tầng lớp trong xã
hội, ảnh hưởng đến đời sống của mọi g/c, tầng lớp. Yêu cầu cải thiện đời sống nhân dân là yêu cầu bức
thiết của mọi g/c tầng lớp trong xã hội.
- Phong trào cách mạng trong nước sau một thời gian bị khủng bố, đàn áp đã được khôi phục trở lại. Hệ
thống tổ chức của Đảng được gây dựng trở lại. Đây là cơ sở quan trọng để phát triển đổi mới.
b, Chủ trương mới của Đảng giai đoạn 1936-1939
- Tại hội nghị xác định nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến mầ Đảng ta đề ra từ khi thành lập đảng
đến nay không hề thay đổi. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình mới hội nghị xác định những vấn đề trước mắt
là:
+ Kẻ thù trước mắt là đấu tranh chống lại lực lượng phản động thuộc địa và tay sai.
+ Mục tiêu đấu tranh: đấu tranh chống pháp xít, chống chiến tranh đòi tự do dân chủ, hòa bình
+ Khẩu hiệu đấu tranh là tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
+ Hình thức đấu tranh, phương pháp tổ chức đấu tranh; chuyển từ đấu tranh bí mật hợp pháp =>đấu tranh
công khai hợp pháp, nửa công khai nửa hợp pháp.
+ Về đoàn kết quốc tế: hội nghị xác định phải liên kết chặt chẽ với g/c công nhân, với đảng cộng sản đặc
biệt đấu tranh chống lại lực lượng phản động thuộc địa ở Đông Dương.
+ Chủ trương thành lập mặt trận nhân dân thống nhất phản đế Đông Dương để đoàn kết mọi lực lượng
chống chủ nghĩa phát xít đòi tự do dân chủ hòa bình.
 Cái mới đó là đã tạm gác cách mạng ruộng đất, nhiệm vụ trước mắt là thực hiện tự do, dân chủ, cơm áo,
hòa bình, chống chủ nghĩa phát xít.
*) Ý Nghĩa: Với những nội dung cơ bản trên ĐCSVN đã giải quyết được hai vấn đề; chiến lược và sách
lược, cách mạng việt nam đã bắt kịp cách mạng thế giới, chống phát xít, chống chiến tranh đòi hòa bình.

Câu 5: Phân tích nội dung cơ bản của đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng được thể
hiện trong các Nghị quyết TW 6, 7 và 8 (1939- 1941).
Trả lời:
a, hoàn cảnh lịch sử:
*) hoàn cảnh lịch sử thế giới:
- 1/3/1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ngay khi chiến tranh nổ ra chính phủ pháp tham chiến.
- 1940 Đức tấn công pháp, pháp bại trận chính phủ mặt trận nhân dân pháp bị tan vỡ, ĐCS pháp chịu nhiều
tổn thất.
*) hoàn cảnh lịch sử trong nước
- Ngay khi chiến tranh nổ ra lực lượng pháp thống trị ở Đông Dương đã thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ
của người dân mở ra các cuộc tấn công vào ĐCS, tăng cường bóc lột về kinh tế, đàn áp về chính trị.
- 22/9/1940 Nhật tấn công Đông Dương. Nhật-Pháp bắt tay với nhau để thống trị nhân dân Đông Dương.
Chính sách thống trị của Pháp Nhật đè nặng lên vai nhân dân Đông Dương, thúc đẩy mâu thuẫn dân tộc
phát triển gay gắt ở Đông Dương đòi hỏi phải giải quyết
b, Chủ trương mới của Đảng 1939-1941
Thể hiện tập trung trong 3 hội nghị TW Đảng ( lần VI- 11/1939; lần VII- 11/1940; lần VIII- 5/1941)
*) Lần VI-11/1939: họp tại Bà Điểm- Hóc Môn(Gia Định) phân tích tình hình thế giới, tình hình Đông
Dương hội nghị khẳng định mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với các nước đế quốc phát xít đã
phát triển gay gắt cao độ, trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất, yêu cầu bức thiết là giải phóng dân tộc. Hội
nghị quyết định tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế
quốc, cảu việt gian chia cho dân nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức.
+ hội nghị chủ trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
+ hội nghị xác định con đường đấu tranh của cách mạng Đông Dương là con đường đấu tranh vũ trang
giành chính quyền về tay nhân dân.
*) Lần VII-11/1940: họp tại Đình Bảng- Bắc Ninh, tán thành chủ trương lần VI tuy nhiên có bổ sung mới.
+ xác định đối tượng đâu tranh: Nhật- Pháp
+ khẩu hiệu đấu tranh: đánh đuổi đế quốc phát xít, Pháp, Nhật thành lập chính quyền cách mạng của nhân
dân Đông Dương.
+ ra quyết định: duy trì củng cố đội du kích Bắc Sơn quyết dịnh đình chỉ cuộc cách mạng Nam Kì
*) Lần VIII-5/1941: Là hội nghị phát triển hoàn chỉnh chủ trương mới của Đảng có sự tham gia chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc.
+ 2/1941: NAQ trở về nước hoạt động ở Pắc pó- Cao Bằng
+ 10/5/1941 =>19/5/1941: Hội nghị VIII được triệu tập tại Pắc pó- Cao Bằng dưới sự chủ trì của NAQ.
+ Phát triển dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, hội nghị nhấn mạnh hơn nữa vấn đề giải pháp dân tộc,
khẳng định hơn nữa vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức thiết nhất.
+ Hội nghị chủ trương giải pháp vấn đề giải phóng dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương ở mỗi
một nước Đông Dương sẽ thành lập một mặt trận riêng, có đường lối riêng ở việt nam sẽ thành lập một mặt
trận lấy tên gọi là Việt nam độc lập Đồng minh hay mặt trận Việt Minh.
+ Các tổ chức chính trị của quần chúng đứng trong hàng ngũ của Mặt trận việt minh đều được lấy tên gọi là
cứu quốc.
+ Hội nghị đã dự đoán thời cơ Cách mạng xã hội
- khi liên xô đại thắng
- khi mặt trận cứu quốc đã phát triển thống nhất trong cả nước
- khi nông dân không thể sống hơn được nữa dưới ách thống trị của đế quốc phát xít.
+ Khi lực lượng ở Đông Dương lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc toàn dân không thể thống trị nhân dân
thêm được nữa
+ Hình thái cuộc khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương tiến lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Câu 6: Phân tích đường lối xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng của Đảng (1945- 1946).
Trả lời:
a, Hoàn cảnh lịch sử:
*) Thuận lợi:
+ Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước
+ Toàn dân tin tưởng và ủng hộ văn minh, ủng hộ chính phủ
+ Chính quyền dân chủ nhân dân thành lập có hệ thống từ TW xuống cơ sở.
*) Khó khăn:
+ Thù trong giặc ngoài: Miền Bắc có 20 vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa quân, đồng minh vào giải giáp
quân Nhật, thực chất có dã tâm chống phá chính quyền Cách mạng và 2 tổ chức phản động Việt Quốc- Việt
Cách. Miền Nam, Quân đội Anh đã tiếp tay cho Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương. 23/9/1945 Pháp
nổ súng tấn công xâm lược nước ta lần 2.
+ Còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải pháp cũng sẵn sàng chống phá chính quyền cách mạng nếu
được lệnh của quân Anh, quân Tưởng.
- chính trị: Hệ thống chính quyền mới được thành lập, thiếu kinh nghiệm quản lý kinh tế xã hội, đội ngũ cán
bộ còn thiếu trong khi chính quyền phải giải quyết nhiều vấn đề cấp bách của đời sống xã hội
- Ngoại giao: chưa một nước nào trên thế giới công nhận, đặt quan hệ ngoại giao
- Quân sự: lực lượng vũ trang mới thành lập (22/04/1944) tổ chức, trang bị yếu, thiếu, kinh nghiệm chiến đấu
chưa nhiều.
- Kinh tế- tài chính: nguy cơ nạn đói mới diễn ra đầu năm 1946 đe dọa vận mệnh của cả dân tộc, ngân sách
nhà nước trống rỗng, khánh kiệt
- Văn hóa: 95% dân số trong tình trạng mù chữ “giặc dốt”
=> Tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
b, Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng
- 25/11/1945 BCHTW Đảng ban hành bản chị thị “Kháng chiến kiến quốc”
- Bản chị thị xác định cuộc cách mạng ở Đông Dương vẫn là giải phóng dân tộc, với khẩu hiệu đấu tranh là
“dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”
- Xác định kẻ thù chính của Đông Dương là thực dân pháp xâm lược.
- Phân tích tình hình thế giới và trong nước nhận định âm mưu và ý đồ của từng lực lượng đế quốc.
- Xác định các nhiệm vụ trước mắt chủ yếu là;
+ Củng cố chính quyền cách mạng
+ Chống thực dân pháp xâm lược
+ Bài trừ nội phản
+ Cải thiện đời sống nhân dân
- Xác định các biện pháp cụ thể trên các lĩnh vực:
+ chính trị: Xúc tiến đi đến bầu cử quốc hội để thành lập chính phủ chính thức, quy định hiến pháp.
+ Quân sự: Động viên nhân dân kháng chiến lâu dài, thực hiện phối hợp giữa chiến tranh du với bất hợp
tác.
+ Ngoại giao: Kiên trì thực hiện nguyên tắc bình đẳng và nhượng bộ làm cho mình ít kẻ thù, nhiều bạn
đồng minh.
c, Ý nghĩa:
- Bảo vệ được nền độc lập chính đảng, bảo vệ thành quả cách mạng
- Có điều kiện củng cố lực lượng, chuẩn bị lực lượng
- Xây dựng được nền móng ban đầu cơ bản của chính quyền mới, chế độ mới.

Câu7: Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó làm rõ sự sáng tạo
của Đảng.
Trả lời:
a, Quyết định toàn toàn quốc kháng chiến:
- 3/1946 Thực dân Pháp có hành động vi phạm điều khoản kí kết
- Từ tháng 9/1946 Pháp liên tục vi phạm những điều khoản đã kí với ta trong bảo tạm ước (14/9/1946). Cụ
thể: 9/1946 Pháp đưa quân vào Đà Nẵng.
- 11/1946 Pháp tự ý di chuyển quân ở Hải Phòng, tiếp đó chúng cho quân đánh lên thị xã Lạng Sơn.
- 12/1946 Pháp liên tục có những hành động lấn tới đánh chiếm những trụ sở của ta ở Hà Nội, khiêu khích
và tàn sát nhân dân ta ở phố hàng Bún và phố Yên Ninh.
- 18/12/1946 Pháp gửi tối hậu thư đòi ta phải hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện
- 19/12/1946 TW Đảng phát động toàn quốc kháng chiến; lực lượng vũ trang của ta ở Hà Nội tấn công vào
các vị trí của quân đội Pháp, mở đầu cho cuộc kháng chiến diễn ra trong phạm vi cả nước.
b, Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta: Tập trung trong 3 văn kiện.
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, t/giả chủ tịch Hồ Chí Minh
- Chỉ thị toàn dân kháng chiến của ban thường vụ TW Đảng
- Tác phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi của Đ/c Trường Chinh
*) Mục tiêu của cuộc kháng chiến: Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược giành độc lập thống nhất.
*) Tính chất của cuộc kháng chiến: cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và tính chất dân chủ
mới.
*) Nhiệm vụ: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ nóng bỏng nhất, cấp bách nhất.
*) Tư tưởng chỉ đạo của cuộc kháng chiến: Toàn dân, toàn diện, lâu dài trường kì và tự lực cánh sinh(dựa
vào sức mình là chính).
- Toàn dân: kháng chiến do nhân dân tiến hành, làm cho toàn dân tham gia kháng chiến và phục vụ kháng
chiến.
- Toàn diện: Kháng chiến đánh địch trên tất cả các mặt trận, kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự… trong
đó quân sự là mặt trận là quan trọng hàng đầu. Cụ thể;
+ Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết với nhân dân các nước Đông Dương. Tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
+ Về quân sự: Ta thực hiện chiến lược đánh lâu dài nhưng trong từng chiến dịch thì có những chiến thuật
cụ thể và phải đánh nhanh thắng nhanh, tránh tỏn hao về lực lượng. Ta dùng lối đánh du kích, đây là lối
đánh của toàn dân, từ chiến tranh du kích sẽ phát triển lên chiến tranh chính quy.
+ Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế kháng chiến đảm bảo tự cung tự cấp về mọi mặt, thực hiện vừa kháng
chiến vừa kiến quốc.
+ Về văn hóa: Đánh đổ văn hóa ngu dân, xây dựng nền văn hóa mới, bài trừ mê tín dị đoan.
- Kháng chiến lâu dài, trường kì: vừa đánh, vừa xây dựng lực lượng của ta, từng bước làm biến đổi tương
quan lực lượng của ta và địch để tiến lên giành thắng lợi, về cơ bản thì cuộc kháng chiến của ta trải qua 3
giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, tổng phản công.
- Dựa vào sức mình là chính: phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện để thực hiện trường kì kháng chiến.
Đồng thời hết sức tranh thủ sự giúp đỡ và ủng hộ của quốc tế, coi cách mạng việt nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới.
c, Ý Nghĩa: Việc đề ra và tiếp tục hoàn thiện đường lối dài, đến những thắng lợi to lớn của chúng ta sau này
=>thể hiện vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng. Buộc pháp phải công nhận độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của các nước Đông Dương, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên CNXH
làm căn cứ địa hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam =>tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân,
tăng uy tín của việt nam trên trường quốc tế.

Câu 8: Phân tích đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thể hiện trong Chính cương Đảng
lao động Việt Nam được thông qua tai Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
Trả lời:
a, Hoàn cảnh lịch sử triệu tập Đại Hội;
- Bước sang những năm 50 Liên xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa vươn lên phát triển mạnh
mẽ, tạo hậu thuẫn cho cách mạng việt nam.
- năm 1950: ta thiết lập đặt quan hệ ngoại giao với liên xô, Trung Quốc và triều tiên.
- Pháp ngày càng gặp khó khăn trong việc tiếp tục duy trì cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
- Mỹ tăng cường giúp Pháp bằng cách viện trợ cho pháp.
- năm 1951: 17% ngân sách chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương do mỹ viện trợ, tới năm 1953 thì
con số này lên tới 70%.
- Trong nước nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi lớn trong cuộc kháng chiến, uy tín của Đảng và
Chính phủ được nâng cao trên trường quốc tế.
- Yêu cầu mới của cuộc kháng chiến đặt ra cho Đảng là có nhiệm vụ phải bổ sung hoàn chỉnh đường lối
cách mạng đưa cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi. Đòi hỏi Đảng ta phải ra hoạt động công khai, lãnh đạo
cách mạng với tư cách là đảng cầm quyền.
b, Đại hội ĐBTQ lần thứ 2 của Đảng diễn ra từ 11=>19/02.1951 tại xã Vinh Quang- Chiêm Hóa- Trung
Quốc
*) Nội dung của Đại Hội là:
- Căn cứ vào tình hình thực tiễn và nhu cầu kháng chiến của từng nước Đôg Dương, Đại hội quyết định ở
mỗi nước thành lập một Đảng cách mạng riêng có cương lĩnh, đường lối riêng thích hợp với đặc điểm từng
dân tộc. Ở việt nam Đảng ra đời và hoạt động công khai lấy tên gọi là Đảng liên đoàn Việt nam.
- Đại hội thông qua chính cương của Đảng liên đoàn việt nam. Chính cương trình bày toàn bộ đường lối
cách mạng việt nam là đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân tiến lên CNXH. Nội dung chính
của chính cương là:
+ Xác định tính chất của xã hội: Xã hội việt nam trong giai đoạn hiện thời mang trong mình 3 tính chất:
tính dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến.
Mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn giữa tính dân chủ nhân dân với tính chất thuộc địa, mâu thuẫn này
chính là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân việt nam với đế quốc xâm lược.
+ Đối tượng đấu tranh của cách mạng: Đối tượng chính là đế quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp xâm
lược và can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ là địa chủ, phong kiến mà cụ thể là địa chủ và phong kiến phản động.
+ Nhiệm vụ của cách mạng: cách mạng việt nam trong giai đoạn mới có 3 nhiệm vụ cơ bản: Đánh đuổi đế
quốc xâm lược để giành độc lập thống nhất, xóa bỏ các di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện
người cày có ruộng. Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
+ lực lượng cách mạng: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước tiến bộ.
Những tầng lớp đó sẽ hợp thành nhân dân mà nền tảng là khối liên minh công nhân, nông dân, lao động trí
thức.

Câu 9: Phân tích nội dung cơ bản về đường lối cách mạng miền Nam của Đảng do Hội nghị lần thứ
15 (Tháng 1/1959)?
Trả lời:
Cho đến năm 1957 chủ trương chủ yếu của Đảng là đấu tranh cách mạng là chủ yếu, thực hiện thế giữ
gìn lực lượng. Tuy nhiên Đảng ta cũng có chủ trương xây dựng, củng cố các lực lượng vũ trang, các căn cứ
địa cách mạng.
Chính quyền ngụy quân đề ra chính sách tố cộng, diệt cộng, theo thống kê đến cuối năm 1958 chỉ còn
5000 Đảng viên trên hàng chục vạn Đảng viên trước đây, đặt ra yêu cầu chuyển hướng đấu tranh.
- 1/1959 Hội nghị lần thứ 15 của Đảng thông qua đường lối cách mạng miền Nam, nghị quyết xác định;
+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc và tay sai, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
+ Nghị quyết xác định con đường phát trienr cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân dựa vào lực lượng của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang.
+ Đánh đổ tập đoàn Ngô Đình Diệm, thiết lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ nhân dân.
 Hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng tích cực cho cách mạng miền Nam, được coi là bước ngoặt cho quá
trình phát triển của cách mạng ở miền Nam.

Câu 10: Phân tích nhiệm vụ, vị trí và mối quan hệ của chiến lược cách mạng XHCN ở miền Bắc và
chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Trả lời:
Từ ngày 05 đến 10/09/1960; ĐHĐBTQ lần thứ 3 của Đảng được triệu tập tại Hà Nội.
Đại hội đã thống nhất đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới;
- Xác định nhiệm vụ chiến lược cách mạng cụ thể của từng miền:
+ Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng cho cả nước,
hậu thuẫn và chi viện cho miền Nam.
+ Miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giải phóng miền Nam thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà.
- Xác định mối quan hệ và vị trí cách mạng từng miền, mỗi miền có một nhiệm vụ chiến lược cụ thể khác
nhau song đều hướng tới cùng một mục tiêu chung là thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Vì vậy nó
được tiến hành đồng thời, song song với nhau để hỗ trợ nhau thúc đẩy nhau phát triển nhanh đi tới thực
hiện mục tiêu chung;
+ Cách mạng XHCN ở miền Bắc giữ vị trí quyết định nhất đối với toàn bộ cách mạng miền Nam.
+ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với việc giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà.
 Như vậy trong giai đoạn 1954- 1975 ở nước ta một Đảng cách mạng tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ cách
mạng trên 2 miền Đất nước.

Câu 11: Phân tích mục tiêu, phương hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kì đổi mới
Trả lời:
a, Mục tiêu
- Mục tiêu cơ bản của CNH- HĐH là: Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kĩ
thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất. Có mức sống vật chất và tinh thần cao. Quốc phòng, an ninh vững mạnh, dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
- Mục tiêu cụ thể là: Trong từng thời kì nhất định có những mục tiêu cụ thể, ĐHĐBTQ lần thứ 10 xác định:
đẩy mạnh CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Cơ bản phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

b, Phương hướng CNH- HĐH trong thời kì đổi mới


- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý;
- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng;
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.

Câu 12: Phân tích quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kì đổi mới.
Trả lời:
- CNH gắn với HĐH, CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thế giới. Tiến hành CNH- HĐH tiếp
thu những thành tựu tiến bộ trên thế giới để bắt kịp xu thế thế giới; nền kinh tế thế giới là nền kinh tế tri
thức.
- CNH- HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế quốc tế.
- CNH- HĐH lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triern nhanh và bền vững.
- Khoa học và công nghệ là nền tảng động lực của CNH- HĐH
- Phát triển nhanh hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc tiến bộ công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

Câu 13: Phân tích định hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của Đảng.
Trả lời:
a, Chủ trương đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn:
- Đảng coi CNH- HĐH nông thôn là một trong những nội dung quan trọng nhất của toàn bộ quá trình
CNH- HĐH đất nước
- Ưu tiên cho mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp, đặc biệt chú trọng phát huy nguồn lực con người. Ứng dụng các thành tựu Khoa học công nghệ, đẩy
mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường.
Hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội nông thôn, thực hiện bảo vệ môi trường sinh thái.
- Phát triển kinh tế đi liền và kết hợp chặt chẽ với việc giải quyết các vẫn đề xã hội nông thôn, nhanh chóng
cải thiện đời sống của người dân ở nông thôn trên tất cả các mặt.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nông thôn với củng cố an ninh trật tự bảo vệ tổ quốc.
b, Biện pháp đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn.
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nông thôn, đổi mới các chính sách phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
- Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, đa dạng hóa các thành phần
sản xuất kinh doanh trong tất cả lĩnh vực trong nông thôn.
- Làm tốt công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao Khoa học công nghệ vào việc phát triển nông nghiệp
kinh tế nông thôn.
- Nâng cao trình độ, đảm bảo tính đồng bộ của người lao động nông thôn thông qua các đổi mới chính sách
đào tạo và dạy nghề.

Câu 14: Phân tích những đặc điểm của cơ chế quản lý kinh tế thời kì trước đổi mới, những bước đột
phá trong đổi mới tư duy của Đảng về cơ chế quản lý kinh tế trước đổi mới.
Trả lời:
a, Đặc điểm của cơ chế quản lý kinh tế thời kì trước đổi mới:
- Đặc điểm cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp; nhà nước can thiệp vào toàn bộ nền kinh tế, là người tổ
chức, điều hành, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế
- Nền kinh tế dựa trên nền tảng của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, coi chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất dưới hình thức quốc doanh là trình độ cao nhất của xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Vì vậy đi đến việc
xóa bỏ các thành phần kinh tế tự nhiên, xóa bỏ cơ sở của kinh tế thị trường.
*) Biểu hiện cụ thể ở Việt Nam:
- Quá trình công hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ ý do xuất phát từ quan niệm xây dựng CNXH phải có nền
kinh tế công hữu.
- Nhà nước quản lý nền sản xuất trực tiếp bằng các chỉ tiêu, pháp lệnh.
- Quan hệ giữa nhà nước và các đơn vị kinh tế là quan hệ cấp phát, giao nộp. Thể hiện tính chất bao cấp,
gây ra nhiều hạn chế và tiêu cực trong phát triển kinh tế.
- Phạm trù giá trị chỉ tồn tại một cách hình thức chủ yếu để tính toán.
*) Hậu quả của cơ chế này là;
- Biệt tiêu động lực trong sản xuất, không kích thích các đơn vị kinh tế phát triển, cải tiến kinh tế, nâng cao
năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
- Thủ tiêu tính cạnh tranh, kìm hãm các tiến bộ của khoa học công nghệ
*) Yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế;
- Với việc áp dụng mô hình quản lý kinh tế bao cấp, nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới rơi vào tình trạng
khủng hoảng. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là do những hạn chế của Đảng và nhà nước trong
chủ trương xây dựng CNXH, trong việc áp dụng mô hình kinh tế tập trung, bao cấp, kế hoạch hóa.
=> Yêu cầu cần phải thay đổi mô hình quản lý kinh tế.
b, Những đột phá đầu tiên trong tư duy của Đảng:
- 8/1979 tại hội nghị TW Đảng lần 6, hội nghị đã thừa nhận sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch hóa với thị
trường, thừa nhận sự cần thiết phải kết hợp nhiều loại lợi ích. Huy động vai trò của các tiểu thương, cá thể,
tiểu chủ để làm cho sẩn xuất bung ra.
- 13/01/1981 Ban thư kí TW Đảng ra chỉ thị 100 về cải tiến công tác khoán, thực hieenjkhoans sản phẩm
đến nhà và người lao động trong các Hợp tác xã nông nghiệp.
*) Cơ chế khoán: tạo tính chủ độngtrong sản xuất cho người dân và cho các hợp tác xã, làm cho việc đánh
giá thành quả lao động xác thực hơn.
*) kết quả; đưa năng suất lao động tăng lên 17 triệu tấn do với trước là 14,4 triệu tấn.
- 1981 Chính phủ ban hành 2 quyết định: QĐ 25CP và QĐ 26CP
+ QĐ 25CP là quyết định giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh tự chủ về tài chính đối với các xí
nghiệp quốc doanh.
+ QĐ 26CP là quyết định về việc mở rộng hình thức trả lương, sử dụng hình thức tiền thưởng đối với người
lao động.
- 1982 tại ĐHĐBTQ lần thứ 5, đều đã có một số tư duy mới về xây dựng CNXH, Đại hội nhấn phải xác lập
một chế độ quản lý và kế hoạch hóa hiện hành, xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp.
- - 6/1985 tại hội nghị TW Đảng lần 8 hội nghị chủ trương xáo bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện cơ chế một giá
chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, thừa nhận các quy luật của sản xuất hàng hóa.

Câu 15: Trình bày khái quát quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường định hướng
XHCN từ 1986 đến nay
Trả lời:
*) Giai đoạn 1986- 1994: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của nước ta là nền kinh
tế thị trường.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 6 thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa, sự tồn tại khách quan của
thị trường, phê phán những hạn chế của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xóa bỏ cơ chế tập trung, bao
cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN.
- Tại Hội nghị TW Đảng lần thứ 6 vào 3/1989 Hội nghị khẳng định thực hiện chính sách kinh tế nhiều
thành phần, phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch bao gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên CNXH.
Hội nghị khẳng định:
+ Dứt khoát xóa bỏ cơ chế 2 giá, thực hiện 1 giá thống nhất trên toàn thị trường.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 7 năm 1991: Đại hội khẳng định nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
*) Giai đoạn 1994- 2001: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng của CNTB, không đối lập với
CNXH.
- 1/1994: tại hội nghị ĐBTQ giữa nhiệm kì khóa 7. Hội nghị khẳng định: thị trường và kinh tế thị trường
không phải là cái vốn có của CNTB mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 8 năm 1996: Đại hội khẳng định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
*) Giai đoan 2001- 2006: Coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước
ta trong thời kì quá độ lên CNXH.
- 9/2001: Tại DDHDDBTQ lần 9: Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng
XHCN (kinh tế thị trường định hướng XHCN là một thể chế kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh
tế thị trường vừa dựa trên cơ sở được dẫn dắt, chi phối bới các nguyên tắc, bản chất của CNXH, đảm bảo
tính định hướng XHCN.
*) Giai đoạn 2006 đến nay: Gắn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với nền kinh tế thị
trường toàn cầu hóa. Hội nhập kinh tế quốc tế ngayd càng sâu rộng và đầy đủ hơn.
- ĐHĐBTQ lần thứ 10 năm 2006: xác định rõ hơn tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta dựa vào 4 tiêu chí:
+ Mục tiêu phát triển: vì con người. Thực hiện mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh.
+ Phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân.
+ Định hướng XHCN trong phân phối: Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả tác động, theo
hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác thông qua phúc lợi xã hội.
+ Định hướng XHCN trong quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý
điều tiết kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Câu 16: Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam? Tại sao
phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN?
Trả lời:
a, Đặc trưng cơ bản:
- Nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, bền vững, lực lượng sản xuất phát triển trên cơ sở sử dụng những
thành tựu của khoa học công nghệ, cùng với đội ngũ lao động có trình độ, chuyên môn cao.
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nhằm thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Mục tiêu còn nhằm nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, hạn chế những bất bình đẳng
trong thu nhập, bảo vệ môi trường, giữu gìn bản sắc văn hóa dân tộc, ổn định chính trị xã hội, quốc phòng
và an ninh.
- Là một nền kinh tế mở, mang tính chất quốc tế hóa, khu vực hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN nhằm phát huy vị thế của đất nước trên trường quốc tế, đồng thời đảm bảo độc lập tự chủ về kinh tế.
- Các yếu tố: vốn, vật tư, nguyên liệu và các sản phẩm do sản xuất làm ra đều trở thành hàng hóa được lưu
thông tự do trên thị trường.
- Hệ thống thị trường với các quy luật cung cầu, giá trị cạnh tranh là yếu tố trực tiếp tác động điều tiết các
hoạt động doanh nghiệp, các chủ thể kinh tế.
- Nhà nước quản lý nền kinh tế, điều tiết, tác động tới hoạt động của doanh nghiệp, của chủ thể kinh tế bằng
luật pháp, cơ chế chính sách.
b, Lý do phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là:
- Làm các thể chế phù hợp với nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định
hướng XHCN phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định
hướng XHCn.
- Để phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.

Câu 17: Phân tích chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản trước thời kì đổi mới của
Đảng.
Trả lời:
a, Hoàn cảnh lịch sử:
- Sau tháng 7/1954 khi đất nước bị chia cắt làm 2 miền, miền Bắc có điều kiện đi lên xây dựng CNXH, Hệ
thống chính trị được xây dựng ở miền Bắc, là hệ thống chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch
sử chuyên chính vô sản.
- Sau 30/04/1975 đất nước được hòa bình thống nhất, cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH, Hệ thống
chuyên chính vô sản trên phạm vi cả nước.
- Sản xuất Nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh.
- Quá độ nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong giai đoạn mới, đưa cả nước cùng quá độ lên CNXh, bỏ qua
giai đoạn phát triển của CNTB.
b, Chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản trước thời kì đổi mới của Đảng.
Việc xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản được quan niệm là xây dựng chế độ làm chủ tập thể
XHCN, xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trên
mọi phương diện(Chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng…). Do đó chủ trương xây dựng hệ thống
chuyên chính vô sản gồm các nội dung sau:
- Xác định quyền làm chủ của nhân dân lao động, được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức.
- Xác định nhà nước trong thời kì quá độ là nhà nước chuyên chính vô sản, thực hiện chế độ dân chủ,
XHCN. Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng dựa trên nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp, thực hiện chủ yếu bằng sự hoạt động của nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
- Xác định Đảng cộng sản là người lãnh đạo toàn bộ mọi hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên chính vô
sản.
- Xác định nhiệm vụ chung của mặt trận tổ quốc, các đoàn thể tham gia và kiểm tra công việc của nhà
nước, có nhiệm vụ tập hợp quần chúng hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
- Xác định mối quan hệ trong hệ thống chính trị: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý là cơ
chế chung quản lý toàn bộ xã hội.
Câu 18: Phân tích chủ trương xây dựng hệ thống chính trị trong thời kì đổi mới của Đảng.
Trả lời:
a, Chủ trương trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
*) Quan điểm:
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xác định trọng tâm là xây dựng Đảng phải tiến hành đồng bộ
với nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế, đồng
bộ với đổi mới tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị, đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với đòi hỏi quá trình CNH- HĐH và hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần chủ động, tích cực, quyết tâm, thận trọng bước đi vững
chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm
*) Nội dung thực hiện:
- Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua việc đề ra chủ trương, đường lối, các chính sách, định hướng cho sự
phát triển, kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, hiến pháp và pháp luật của nhà
nước.
- Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra bằng hoạt động gương
mẫu của Đảng viên.
- Đảng giới thiệu những Đảng viên ưu tú có đủ năng lực, đủ phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo, chính quyền các đoàn thể.
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng đồng thời cũng là bộ phận của hệ thống chính trị, liên hệ mật thiết
với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
- tăng cường cường độ lao động tập thể, đi đôi với việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của
cá nhân.
b, Xây dựng nhà nước Pháp quyền XHCN.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 6 (1986) khẳng định quản lý nhà nước bằng pháp luật chứ không bằng đạo lý.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 7 (1991) khẳng định nhà nước Việt Nam thống nhất 3 quyền: lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
- ĐHĐB giữa nhiệm kì khóa 7 (1994) Nói tới việc xây dựng nhà nước Pháp quyền.
- Năm 2006: Đại hội 10 chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN xác định các đặc điểm của nhà
nước pháp quyền XHCn Việt Nam:
+ Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao, thể hiện
được tiện ích, ý trí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp kết quả, thúc đẩy tiến bộ xã hội trong đó hiến pháp
và các điều luật giữ vị trí tối cao.
+ Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về tay nhân dân, là nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
+ Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế trong xã hội, xử lý
nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Bảo vệ quyền tự do, lợi ích hợp pháp của nhân dân.
+ Nhà nước pháp quyền là nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp
nhằm hạn chế sự lạm quyền xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía nhà nước.
+ Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng CSVN lãnh đạo. đồng thời đảm bảo sự giám sát của nhân dân, sự
phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận.
c, Xây dựng mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội khác.
- Nhà nước ban hành cơ chế để mặt trận tổ quốc và các tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
- Thực hiện tốt luật mặt trận tổ quốc, luật công đoàn.
- Đổi mới hoạt động của mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, khắc phục tình trạng hành chính
hóa, nhà nước hóa, phô trương hình thức, nâng cao chất lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận theo
phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu,
làm dân tin.

Câu 19: Trình bày chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển văn hoá trong thời kì 1945- 1975.
Qua đó làm rõ vai trò của văn hoá trong kháng chiến.
Trả lời:
a, Chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa.
*) Giai đoạn 1945- 1954: Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ đã đề ra 6 việc làm cấp bách cần làm
ngay gồm: Giết giặc dốt, xóa nạn mù chữ, giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng việc thực hiện “cần, kiệm,
liêm, chính”, thực hiện xây dựng đạo đức mới. Trong phiên họp đưa ra 6 nhiệm vụ cấp bách trong đó 2 vấn
đề liên quan tới văn hóa.
- 25/11/1945: TW Đảng đề ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc trong đó nhấn mạnh đến việc xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam mới.
- 7/1948: Đ/c Trường Chinh đã trình bày báo cáo CN Mác và văn hóa Việt Nam:
+ Đảng xác định mối quan hệ giữa văn hóa Việt Nam với cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng phát động
phong trào thi đua yêu nước, cổ động người dân thực hiện đời sống mới.
+ Thực hiện nền văn hóa dân chủ mới với tính chất khoa học, dân tộc, đại chúng.
+ Phát triển cái hay trong văn hóa dân tộc, bài trừ những thủ tục lạc hậu, ngăn ngừa sự xâm nhập của văn
hóa thực dân, học cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới.
+ Nhằm xây dựng đội ngủ tri thức mới, đóng góp tích cực cho kháng chiến kiến quốc.
- 2/1951: Tại ĐHĐBTQ lần thứ 2 Đảng nhấn mạnh xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới,
cán bộ mới, phục vụ cho công cuộc kháng chiến kiến quốc.
*) Giai đoạn 1954- 1975:
- Văn hóa phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
- Đại hội lần thứ III (1960) tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng thời với cuộc cách mạng về
quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học, kĩ thuật, là chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hóa mới,
con người mới.
- Mục tiêu: Làm cho nông dân thoát nạn mù chữ và thói hư tật xấu do xã hội cũ để lại, trình độ văn hóa
ngày càng cao, có hiểu biết cần thiết về khoa học, kỹ thuật tiên tiến để xây dựng CNXH, nâng cao đời sống
vật chất và văn hóa.
- Tại Đại hội IV và V xác định, xây dựng nền văn hóa mới có nội dung XHCN và tính chất dân tộc, có tính
Đảng và có tính nhân dân.
b, Vai trò của văn hóa trong kháng chiến.
- Động viên được quần chúng nhân dân tích cực vào công cuộc kháng chiến, cổ vũ quần chúng trong sản
xuất, chiến đấu phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
- Văn hóa là mục tiêu của phát triển
- Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển.
- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người và xây dựng xã
hội mới.

Câu 20: Phân tích những hạn chế trong việc giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới.
Trả lời:
*) Những hạn chế trong việc giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới là:
- Áp lực gia tăng dân số còn lớn. Chất lượng dân số thấp cản trở mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và hội
nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề việc là rất bức xúc và nan giải.
- Sự phân hóa giàu- nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng, rất đáng lo ngại.
- Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an sinh xã hội.
- Môi trường sinh thái bị ô nhiễm trầm trọng và còn tiếp tục tăng thêm, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác
bừa bãi và bị tàn phá.
- Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa được đảm bảo.
- Công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm nâng cao đời sống nhân dân, phòng chống tệ nạn xã hội
còn nhiều khó khăn thách thức.

Câu 21: Phân tích chủ trương đối ngoại của Đảng thời kì trước đổi mới
Trả lời:
*) Mục tiêu, nhiệm vụ của đường lối đối ngoại.
- Ra sức tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, hàn gắn vết thương chiến tranh nhanh chóng, khôi phục phát
triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội.
- Đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động tích cực trong đấu tranh làm thất bại chính sách của các
thế lực thù địch.
- Tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, với các dân tộc trên thế giới, đấu tranh cho
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
*) Phương hướng của đường lối đối ngoại:
- phương hướng chung: Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác, thiết lập mở rộng quan hệ
bình thường về mặt nhà nước, về kinh tế, về văn hóa, khoa học kĩ thuật đối với tất cả các nước, không phân
biệt chế độ chính trị trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện ủng hộ các
cuộc đấu tranh chống đế quốc, chống thực dân kiểu cũ, kiểu mới.
- Phương hướng cụ thể:
+ Đối với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa: ra sức củng cố tăng cường tình đồng kiến chiến đấu,
quan hệ hợp tác với tất cả các nước XHCN, làm hết sức mình để góp phần khôi phục, củng cố đoàn kết
giữa các nước trong hệ thống XHCN, trong phong trào cộng sản quốc tế. Đoàn kết, hợp tác toàn diện với
Liên Xô, coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại Việt Nam.
+ Đối với các nước trong khu vực Đông Dương: Bảo vệ và phát triển mối quan hệ Việt Nam- Lào-
Campuchia, xác định mối quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào- Campuchia có ý nghĩa sống còn với vận mệnh
của 3 dân tộc.
+ Đối với các nước trong khu vực Asean: Ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân các nước khu vực
Đông Nam Á, góp phần xây dựng Đông Nam Á hòa bình, tự do, trung lập, ổn định. Sẵn sàng thiết lập quan
hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước trong khu vực trên cơ sở nguyên tắc cùng tồn tại, hòa bình.
Câu 22: Phân tích những đổi mới của Đảng trong nhận thức về chính sách ngoại giao trong thời kì
đổi mới.
Trả lời:
a, Các giai đoạn phát triển nhận thức của Đảng.
*) Giai đoạn 1986- 1988: giai đoạn khởi đầu cho tư duy đổi mới
*) Giai đoạn 1989- 1995: giai đoạn hình thành đường lối mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
đối ngoại.
- Tại ĐHĐBTQ lần thứ 7 (1991) khẳng định Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu về hòa bình độc lập, phát triển hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi tất cả các nước, không
phân biệt chế độ chính trị xã hội trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
*) Giai đoạn 1996 đến nay: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ hợp tác và phát triển.
Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác, thực hiện
phương châm Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
b, Nội dung của đường lối đối ngoại;
*) Mục tiêu, nhiệm vụ của đường lối đối ngoại:
- Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, để phát triển kinh tế xã hội là lợi ich cao nhất của tổ quốc.
- Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước, kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành ngoại lực tổng hợp đẩy mạnh CNH- HĐH,
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
*) Tư tưởng chỉ đạo đưởng lối
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường, đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác nhưng vẫn
phải đấu tranh dưới lao động và mật độ thích hợp với từng đối tác, tránh thực hiện đối đầu, tránh để bị đẩy
vào thế cô lập.
- Mở rộng quan hệ với quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính tri- xã hội. Coi
trọng quan hệ hòa bình hợp tác với khu vực, chủ động tham gia tổ chức đa phương khu vực và toàn cầu.
- Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế quốc
tế là công việc của toàn dân.
- Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế- xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách
kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và nhà nước.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của nhà nước, mặt trận tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
c, Một số chủ trương, chính sách lớn.
- Tại hội nghị TW 4 khóa X (2/2007) đã nêu rõ:
+ Đưa các qua hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
+ Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của
WTO
+ Đẩy mạnh cải cách hoàn chỉnh nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập.
+ Xây dựng và vận hành có hiểu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế, đẩy mạnh công
tác xóa đói giảm nghèo.
+ Giữ vững và tăng cường quốc phòng an ninh trong quá trình hội nhập
+ Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính trị
đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
+ Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động ngoại giao.

Câu 23: Phân tích, làm rõ quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thông qua tại Đại hội
VIII 1996 của Đảng
1. Tổng quan về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
a. Sơ lược về bối cảnh
• Tình hình trong nước

Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về
mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông
đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố. Đồng thời, thành tựu 10 năm
đổi mới đã tạo được tiền đề cần thiết cho công cuộc CNH, HĐH đất nước.

• Tình hình thế giới


Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, CNXH lâm vào thoái trào sau sự sụp đổ của
Liên Xô và Đông Âu. Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh
cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố
vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao,
tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế
hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Bối cảnh quốc tế nói trên ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
• Thời gian, địa điểm: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ
ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.
• Thành phần tham dự
Tham dự Đại hội có 1198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước. cùng
các đồng chí cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí đại diện lão thành cách mạng, đại diện các
bà mẹ Việt Nam anh hùng, các nhân sĩ trí thức tiêu biểu cho trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh đoàn kết của toàn
Đảng toàn dân ngoài ra còn có gần 40 đoàn đại biểu quốc tế đại diện các đảng anh em trên thế giới.
• Chủ đề trọng tâm của Đại hội
“Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”
• Tóm tắt các nội dung, quyết định, … trong đại hội
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, đi sâu tổng kết 10
năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước đến năm 2000 và 2020. Đại hội cũng sẽ kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vạch ra phương
hướng xây dựng Đảng, sửa đổi điều lệ Đảng và bầu Ban chấp hành Trung ương mới.
Nhận định đặc điểm tình hình thế giới, thời cơ và thách thức, Ðại hội xác định: Mục tiêu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh. Ra sức phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Ðại hội đã xây dựng định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu: Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chính sách đối với các thành phần kinh tế; tiếp tục đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế; phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội; quốc phòng và an ninh; chính sách đối
ngoại; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; tiếp tục cải cách bộ máy
nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Ðại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Ðảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Ðó là
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Ðảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và
năng lực cán bộ, đảng viên. Củng cố Ðảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Ðảng. Ðổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Ðảng.
Ðại hội bầu BCH T.Ư gồm 170 đồng chí. Ðồng chí Ðỗ Mười được bầu tiếp tục làm Tổng Bí thư của
Ðảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công làm Cố vấn BCH T.Ư.
2. Quan điểm về công nghiệp hóa
a. Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài
• Độc lập, tự chủ ở đây là độc lập, tự chủ của đất nước, của quốc gia, là năng lực của quốc gia giữ
vững chủ quyền và sự tự quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia của mình, không bị sự
thống trị, lệ thuộc, chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt, bắt buộc từ các lực lượng bên ngoài. Một
đất nước độc lập, tự chủ là một đất nước có quyền, có năng lực quyết định việc lựa chọn con đường,
mô hình phát triển, chế độ chính trị của mình, là đất nước có độc lập, tự chủ cả về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đặc biệt trong thời kì CNH, HĐH đất nước cần mở
rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ để áp
dụng vào công cuộc xây dựng đất nước, đa dạng hóa mối quan hệ ngoại giao với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, phải bảo vệ nền độc lập tự chủ của quốc gia không để các
nước khác can thiệp nhiều vào nền kinh tế của đất nước. Giữ vững nền độc lập, tự chủ cần đi đôi
với quan hệ quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa mối quan hệ đối ngoại.
• Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tự lực gánh sinh là chính dựa vào nguồn
lực của đất nước. Những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ mối
quan hệ giữa tăng cường sức mạnh kinh tế trên cơ sở nội lực và mở rộng quan hệ hợp tác, phá thế bị
bao vây, cấm vận, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Nền kinh tế dựa vào nguồn
lực sẵn có trong nước là chính làm cho đất nước trở nên độc lập, tự chủ ít bị ảnh hưởng bởi các
quốc gia khác đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài thúc đẩy nền kinh tế phát triển
nhanh và đẩy nhanh tiến độ CNH, HĐH đất nước đưa nước ta phát triển lên giai đoạn mới.
b. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
• Quan điểm này xuất phát từ nguyên lý: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp cách mạng trọng đại của nhân dân ta,đất nước ta nhằm
mục đích “ dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,văn minh”.
⇒ Vì vậy nó không phải là công việc riêng của một bộ phận, một gia cấp mà là sự nghiệp
của toàn dân,do nhân dân thực hiện.
• Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải huy động cao độ sức mạnh của toàn dân về mọi mặt: sức
lao động tiền vốn, trí tuệ, tài năng, kinh nghiệm, kỹ thuật,...Nhân dân là người quyết định sự thành
công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
• Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố
sản xuất, các tiềm năng và nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần
vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
• Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế có lợi thế so sánh riêng về kỹ thuật,
vốn, lực lượng lao động, kinh nghiệm quản lý, … trong đó kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế Nhà Nước “ làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho chế độ xã hội
mới ”.
• Kinh tế nhà nước nắm giữ các ngành,các lĩnh vực,các khâu quan trọng nhất của nền kinh tế được
trang bị bằng kỹ thuật và công nghệ hiện đại đủ sức chủ đạo và định hướng phát triển các thành
phần kinh tế khác.
c. Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
Sự tồn tại bền vững và phát triển theo con đường tiến bộ xã hội của một quốc gia dân tộc nào cũng
phụ thuộc vào 5 nguồn lực chủ yếu: khoa học và công nghệ, vốn, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế
chính trị và quản lý nhà nước. Trong đó, quan điểm của Đảng lấy việc phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản, quyết định nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững vì:
+Thứ nhất,yếu tố vốn là rất quan trọng.Tuy nhiên,yếu tố này chỉ ở dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ
phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi con người biết sử dụng,khai thác chúng đúng mục đích
và có hiệu quả cao.
+ Thứ hai, khoa học,công nghệ là sản phẩm của trí tuệ con người; được phát triển và áp dụng bởi
con người. Khoa học và công nghệ càng phát triển thì con người càng đóng vai trò quan trọng trong
quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa.
+ Thứ ba, từ kinh nghiệm và thực tiễn cho thấy sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định chính sách, đường lối chủ trương cũng như tổ chức thực
hiện. Điều này càng thể hiện vai trò quan trọng của yếu tố con người bởi chính sách, đường lối chủ
trương là do con người đề ra và cũng do con người tổ chức, thực hiện.
+ Thứ tư, nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ là nguồn lực vô tận,có khả năng tái sinh và tự
sản sinh về mặt sinh học.

d. Khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công
nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
• Quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa phải coi khoa học công nghệ làm động lực, coi năng
lực nội sinh về khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
• Xây dựng năng lực nội sinh về khoa học công nghệ để đủ sức lựa chọn, làm chủ, thích nghi
với công nghệ nhập, cải tiến, biến công nghệ nhập thành công nghệ của mình tiến tới tự tạo
ra công nghệ.
• Quan điểm chỉ đạo về nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế là cơ khí hóa, hóa
học hóa, tự động hóa. Bước đầu phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao về điện tử, thông
tin, sinh học, vật liệu mới và tự động hóa.
• Quan điểm trên đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh.
Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn
hóa, nghệ thuật, quản lý kinh tế - xã hội.
• Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, đòi hỏi phải kết hợp công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại, phải tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở
những khâu quyết định. Điều đó cho phép kết hợp tuần tự với nhảy vọt, khai thác hiệu quả
các công nghệ cổ truyền vừa nhanh chóng hiện đại hóa ở các khâu quyết định. Sự kết hợp đó
là phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và cho phép thực hiện công nghiệp hóa “rút
ngắn” ,đồng thời chống lại tư tưởng bảo thủ trì trệ và nóng vội, phiêu lưu trong quá trình
công nghiệp hóa,hiện đại hóa.
e. Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và
công nghệ
Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô
vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số
công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát
triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo
điều kiện cho các vùng đều phát triển.
• Từ nay đến 2000, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một “nước công nghiệp”.
• Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của giai đoạn
1996-2000 là:
• Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp
đôi năm 1990. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt khoảng 9-10%.
• Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ
sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ
tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hằng năm 4,5-5%.
• Phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công nghiệp
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng.có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về
dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp
quốc phòng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm 14-15%.
• Đến năm 2000, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 34-35% trong GDP; nông,
lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 19-20%,dịch vụ chiếm khoảng 45-46%. .
f. Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh

Đến Đại hội VIII, nhận thức của Đảng về vấn đề kết hợp đã có sự đổi mới quan trọng. Không chỉ là kết
hợp kinh tế với quốc phòng như trước đây mà đã là kết hợp kinh tế với quốc phòng-an ninh, bởi vì trong
thời kỳ mới quốc phòng-an ninh là hai mặt của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có quan hệ hữu cơ, đan xen, hoà
nhập vào nhau và chuyển hoá cho nhau. Kết hợp kinh tế với quốc phòng-an ninh đã được xác định là một
trong những quan điểm cần quán triệt trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kết hợp
quốc phòng - an ninh với kinh tế còn là tư tưởng chỉ đạo công tác quốc phòng - an ninh. Đại hội VIII, Đảng
đã nhận thức về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại rõ ràng, cụ thể hơn, nổi bật là nhận
thức rõ vai trò của đối ngoại trong các hoạt động quốc phòng, an ninh, đặc biệt là các hoạt động đấu tranh
trên mặt trận ngoại giao. Đảng chủ trương: “Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế. Gắn chặt nhiệm vụ
quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có mối quan hệ khăng khít trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ chế độ trong tình hình mới. Phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại”.
Từ đây, mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại luôn được Đảng khẳng định và đề cập trong
các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị về quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

• Về nhận thức: Từng bước thể chế hóa, cụ thể hóa nhận thức, quan điểm, đường lối, chủ
trương pháp, chiến lược, sách lược, quy hoạch, kế hoạch để triển khai thực hiện trong thực
trạng của Đảng về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại thành luật tiễn: Luật
Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Nghị định về Đối
ngoại quốc phòng...; quy định, chỉ thị của Chính phủ về tổ chức thực hiện sự kết hợp giữa
các hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giữa
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao trong giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc
phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong phạm vi cả
nước, từng ngành, từng địa phương.
• Về đối nội: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về giải quyết mối quan hệ
giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, từng bước tăng cường tiềm lực và sức mạnh tổng
hợp của đất nước; sức mạnh quân sự, quốc phòng để không ngừng lớn mạnh; thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố vững chắc;
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng
và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn
xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, tạo ra những điều kiện thuận lợi để đất nước phát
triển nhanh, toàn diện và vững chắc; sớm nhận diện và kịp thời đấu tranh có hiệu quả, làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; ngăn chặn các nguy cơ chiến
tranh và xung đột vũ trang.
• Về đối ngoại: Với những quan điểm, chủ trương, đúng đắn và sự nỗ lực không ngừng trên các
phương diện, Đảng từng bước lãnh đạo đất nước phá thế bao vây cấm vận từ bên ngoài; giải quyết
tốt mối quan hệ giữa đối tượng và đối tác; chuyển hóa tính chất, nâng cấp mối quan hệ với một số
nước thành quan hệ đối tác, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện; hình
thành thế trận ngoại giao vững chắc, bao gồm: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân
dân; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng; giải
quyết các tranh chấp, bất đồng, mâu thuẫn với các nước trong khu vực bằng biện pháp hòa bình trên
cơ sở luật pháp quốc tế; thiết lập quan hệ song phương với các nước, đưa quan hệ hợp tác với các
đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn; từng bước xây dựng được vị thế, uy tín của Việt
Nam là một trụ cột quan trọng trong các diễn đàn, các tổ chức quốc tế, khu vực.

Trong mục VII – Quốc phòng và an ninh của “Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng” cũng nhấn mạnh:

“Nhiệm vụ về quốc phòng và an ninh trong những năm tới là:


Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc
phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn
dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ
trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân,
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây
mất ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước; ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả mọi loại tội phạm, đảm bảo tốt trật
tự, an toàn xã hội.
Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, cần nắm vững các tư tưởng chỉ đạo sau
đây:
- Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế.
- Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có quan hệ khăng khít với nhau của nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa; phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt
động đối ngoại.
- Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà
nước và của toàn quân, toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để tăng cường tiềm
lực quốc phòng và an ninh; xây dựng lực lượng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận
an ninh nhân dân; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm
mưu và hoạt động chống phá ta.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về
xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng, an
ninh.
- Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an,
đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh.
3. Ý nghĩa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới -
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị
và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc
và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI. Đại hội đã phân tích những đặc điểm
nổi bật, của tình hình thế giới, nêu rõ những thời cơ và thách thức, từ đó định ra mục tiêu phấn đấu đến năm
2000 và 2020 của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Đó là "... vẫn tiếp tục nắm
vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng: chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa
và hiện đại hóa” .

4. Đánh giá về quan điểm CNH, HĐH trong đại hội lần VIII
• Quán triệt và thống nhất nhận thức về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đại hội VIII của
Đảng đã xác định là cơ sở để xây dựng niềm tin, chỉ đạo thực tiễn, nắm bắt thời cơ, lợi thế, phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sớm đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại như kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
• Tuy nhiên nhìn tổng thể chúng ta chưa đạt mục tiêu: Đến năm 2020, Việt Nam chỉ mới cơ bản trở
thành một nước công nghiệp với tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp chiếm 16-17%, công nghiệp
khoảng 40-41%, dịch vụ chiếm 42-43%, tỷ trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động
công nghiệp và dịch vụ là 50%, nông nghiệp là 50%.. Do đó, cần phải tổng kết sâu sắc 25 năm thực
hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH
của nước ta.

CÂU HỎI ÔN THI MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

CHƯƠNG 1

Câu 1.1: Trình bày những chuyển biến mới của tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX tác động đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Tình hình trong nước:

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội.
Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ
phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc,
tiểu tư sản) với thái độ khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ
yếu nhất và ngày càng gay gắt.

Tình hình thế giới:


Từ nửa sau thế kỷ XIX, Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền, đẩy mạnh xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ-
Latinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc. Trước bối cảnh đó, phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa, tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu
nước Việt Nam.

Vào giữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa Mác-Lê nin,
chỉ rõ sự ra đời đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống
áp bức, bóc lột. Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và những hoạt động cách mạng
của Quốc tế Cộng sản đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản và có ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam và Đông Dương.

Câu 1.2: Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của chính sách đó đến
xã hội Việt Nam?

-Mưu đồ của thực dân Pháp nhằm biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu
thụ hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người
bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề

Chế độ cai trị, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam là “chế độ độc tài chuyên chế
nhất, nó vô cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân chủ châu Á đời xưa”

Kinh tế: Pháp đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất, lập các đồn điền, tập trung khai thác than và kim loại.

Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam, hàng hoá của Pháp nhập vào Việt Nam chỉ bị đánh thuế rất nhẹ hoặc
được miễn thuế, nhưng đánh thuế cao hàng hoá các nước khác, hàng hóa của Việt Nam chủ yếu là xuất
sang Pháp

Chính trị: Chia Việt Nam thành ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau: Bắc Kì là xứ nửa bảo hộ, Trung Kì
theo chế độ bảo hộ, Nam Kì theo chế độ thuộc địa.

Tổ chức bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương đều do thực dân Pháp chi phối

Văn hóa xã hội: thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, đồng thời
du nhập những giá trị phản văn hóa, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ
nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền
tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”

-Việt Nam đã biến đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mất hẳn quyền
độc lập, phụ thuộc vào nước Pháp về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá. Chính sách cai trị và khai thác bóc
lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân)
đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ khác
nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay
gắt

Câu 3: Trình bày vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam?
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua trải
nghiệm thực tế qua nhiều nước.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở
Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở Vécxây
(Versailles), Tổng thống Mỹ Uynxơn tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước nhược
tiểu. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp
gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt
Nam) ngày 18-6-1919. Những yêu sách đó không được Hội nghị đáp ứng, những sự kiện này đã tạo nên
tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận
điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát
triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc
tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ
ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại học lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920) tại
thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng
sản do V.I.Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã
tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản - tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này,
Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản
đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của
Nguyễn Ái Quốc. Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở
Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6
- 8-7-1924), làm việc trực tiếp ở Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu
để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
về Việt Nam.
Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Về tư tưởng. Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa khác,
Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng
khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín
quốc tế,...
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc
được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt
động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú,
Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với
nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ
bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thể hiện, của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng về
con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó
giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”14. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Về chính trị. Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc.
Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của
Đảng cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản
ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở
nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách
mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là
lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn
được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của
cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”15. Do vậy,
Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai
người”16.
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát động từ ngày
29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức của
công nhân.
Về tổ chức. Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản - cho dân tộc Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa
họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”17. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát
thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi có đông người
Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 2-1925,
Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm
cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ
chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ,
kỳ bộ, tỉnh bộ hay thành bộ, huyện bộ và chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội.
Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền tôn
chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và về phương hướng phát triển của cuộc vận
động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt và ra hằng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản.
Ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên, đến tháng 4-1927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được 88 số. Sau
khi Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu (4-1927) đi Liên Xô, những đồng chí khác trong Tổng bộ đã tiếp tục
việc xuất bản và hoạt động cho đến tháng 2-1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng
Hải). Một số lượng lớn báo Thanh niên được bí mật đưa về nước và tới các trung tâm phong trào yêu nước
của người Việt Nam ở nước ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách,
phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi
dưỡng về lý luận chính trị. Từ giữa năm 1925 đến tháng 4-1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn
luyện tại nhà số 13 và 13 B đường Văn Minh, Quảng Châu (nay là nhà số 248 và 250). Sau khi được đào
tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản.
Trong số học viên được đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Cộng sản
phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc).
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4-1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và sau đó được
Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, Người trở về châu Á và hoạt động ở
Xiêm (tức Thái Lan).
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu
nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường
Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý
luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng
tiên phong. Đường Cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của
cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vấn đề sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ
chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở ở
trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều
ở Xiêm (Thái Lan). Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương
trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới ra
đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân ở
Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào
công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó là
tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu 1.4: Trình bày sự phát triển phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 1919-1930
và giải thích tại sao giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam?
Trình bày sự phát triển phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 1919-1930

* Thời kỳ 1919-1925:

Để bù đắp những thiệt hại, tổn thất nặng nề trong chiến tranh, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) ở Việt Nam cả về quy mô và mức độ, nên số lượng công nhân tăng
lên nhanh chóng. Do đó, phong trào đấu tranh của công nhân cũng mạnh lên.

Đời sống của công nhân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp vô cùng cực khổ: ngày làm
việc thường kéo dài từ 9h đến 10h trong một ngày. “Có nơi như khu dệt Nam Định, ngày công của công
nhân trong năm 1924 được quy định bình quân là 12 giờ, công nhân không được hưởng bất kỳ một chế độ
bảo hiểm thân thể nào. Tiền lương rất thấp”. Ngoài đồng lương rẻ mạt, chết đói, điều kiện làm việc cực
khổ, công nhân còn bị đánh đập, cúp phạt, ngược đãi như nô lệ! Ở nhiều đồn điền, hầm mỏ, bọn chủ tư bản
còn lập nhà lao, xà lim riêng để đàn áp các cuộc phản kháng của công nhân. Tình trạng bị áp bức, đói khổ,
cộng với lòng yêu nước và truyền thống dân tộc đã thúc đẩy giai cấp công nhân hăng hái đứng lên đấu
tranh chống cường quyền.

Vào thời kỳ đầu, do số lượng còn ít, trình độ giác ngộ còn thấp nên những cuộc đấu tranh của công
nhân chỉ diễn ra lẻ tẻ, rời rạc ở từng xí nghiệp, từng kíp thợ, xưởng mộc,… Mục đích đấu tranh chủ yếu là
đòi quyền lợi kinh tế như tăng lương, giảm giờ làm. Hình thức đấu tranh chủ yếu là đập phá máy móc, đánh
cai ký, chủ thầu, phá giao kèo, bỏ trốn tập thể,… “Trong thời gian những năm 1919-1925, số lượng công
nhân bỏ trốn, phá giao kèo với chủ đã lên tới 4877 người. Càng ngày, công nhân đã biết sử dụng hình thức
đấu tranh đặc thù của mình là bãi công, mặc dù hình thức này bị ghép vào tội “phá rối trị an” và bị kết án
tù”. Một sự kiện có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam, đó là năm
1921“Liên đoàn công nhân tàu biển ở Viễn Đông” đã được thành lập và phát triển các cơ sở ở Ma Cao,
Thượng Hải (Trung Quốc). Một số công nhân, thủy thủ Việt Nam làm việc trên các hãng tàu của Pháp đã
gia nhập liên đoàn này. Họ đã có nhiều đóng góp trong việc đưa đón cán bộ, vận chuyển các sách báo cách
mạng từ Pháp về trong nước.

Từ năm 1922, phong trào công nhân bắt đầu có nét khởi sắc mới. Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công
của 600 công nhân thợ nhuộm Sài Gòn-Chợ Lớn. Nguyễn Ái Quốc đánh giá đây là một “dấu hiệu của thời
đại mới”, “lần đầu tiên một phong trào như thế đã nhóm lên ở thuộc địa”.

Năm 1924, có nhiều cuộc bãi công của công nhân nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Nam Định, Hà Nội,
Hải Dương,.. Năm 1925, phong trào công nhân đã xuất hiện nhiều cuộc bãi công có quy mô lớn và có tổ
chức lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Trong đó, điển hình nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân Ba
Son (Sài Gòn) vào tháng 8/1925 để ngăn không cho tàu chiến Pháp chở lính sang tham gia đàn áp phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân và thủy thủ Trung Quốc. Gắn liền với cuộc bãi công này là vai trò
tổ chức của đồng chí Tôn Đức Thắng. Sau khi tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải, năm 1920 đồng chí Tôn
Đức Thắng về nước, xin vào làm công nhân ở Sài Gòn. Tại đây, ông đã bí mật thành lập tổ chức “Công
hội” đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam.

Đặc điểm chung của phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này còn ở mức độ thấp, phụ thuộc vào
phong trào yêu nước nói chung, mang tính chất tự phát, chưa tỏ rõ được sức mạnh của một lực lượng chính
trị độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình. Cuộc bãi công Ba Son kết thúc
thắng lợi đánh dấu một bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam: không chỉ nhằm vào mục tiêu
đấu tranh kinh tế mà cao hơn nữa còn nhằm vào mục đích chính trị, thể hiện tình đoàn kết giai cấp, đoàn
kết quốc tế của công nhân Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, cuộc bãi công Ba Son là một mốc son rất
quan trọng trong phong trào công nhân - giai đoạn công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức
và có mục đích chính trị rõ ràng.

* Thời kỳ 1926-1930:

Trên thế giới, cách mạng dân tộc, dân chủ ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ với những bài học
kinh nghiệm về sự thất bại của Công xã Quảng Châu 1927. Đại hội V của Quốc tế cộng sản với những nghị
quyết quan trọng về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.

Trong nước, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt đã đẩy mạnh hoạt động trong phong
trào công nhân (mở lớp huấn luyện cán bộ), ra báo "Thanh niên", Nguyễn Ái Quốc viết cuốn "Đường cách
mệnh", phong trào "Vô sản hoá"...

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thông qua những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều
người Việt Nam yêu nước khác, các sách báo cách mạng đã được truyền bá vào nước ta. Nhờ đó, giai cấp
công nhân Việt Nam bước đầu biết tới Cách mạng tháng Mười Nga, biết đến chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ
sở đó dần dần tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa cộng sản để từng bước thấm sâu hơn vào tinh thần giác ngộ
lý tưởng và đã bắt đầu biến thành hành động cách mạng!

Nhờ sự ra đời và hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, các tư tưởng của
Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân và nhân
dân lao động. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ và chuyển biến nhanh
chóng về chất. Các cuộc đình công, bãi công liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi. Trong hai năm 1926-1927, đã nổ ra
27 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định,
của 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm, công nhân cao su Phú Riềng,… Các cuộc đấu tranh này đều
nhằm hai mục tiêu chung là đòi tăng lương từ 20% đến 40% và đòi thực hiện ngày làm 8h như công nhân
bên Pháp.

Điều đó chứng tỏ, công nhân không còn bị chi phối, lệ thuộc nặng nề vào các yêu sách lợi ích cục
bộ, địa phương mà đã biết chú ý tới lợi ích chung của giai cấp bằng cách đề ra các yêu sách phù hợp với
nguyện vọng chung của đông đảo công nhân. Một điều kiện thuận lợi quan trọng lúc bấy giờ là một số cán
bộ được Nguyễn Ái Quốc đào tạo tại Quảng Châu được đưa về nước, trực tiếp tham gia lãnh đạo đấu tranh.
Họ tham gia vào phong trào “vô sản hóa”, cụ thể là đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, xí nghiệp, thành
thị, nông thôn,… Một mặt, để tự rèn luyện, mặt khác để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cho công nhân,
nông dân và những người yêu nước khác ở Việt Nam. Phong trào “vô sản hóa” phát triển mạnh nhất vào
những năm 1928-1929, làm cho phong trào công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Trong hai
năm 1928-1929, số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân đã lên tới 40 cuộc, tăng gấp 2,5 lần so với hai
năm 1926-1927. Lớn nhất là các cuộc bãi công ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định,
diêm cưa Bến Thủy, xe lửa Trường Thi (Vinh), mỏ than Mạo Khê, Hòn Gai (Quảng Ninh),… Các cuộc đấu
tranh đó đã mang tính chất chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một xưởng, bước đầu liên kết được nhiều
ngành, nhiều địa phương. Tình hình đó chứng tỏ, trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân đã được nâng
lên rõ rệt.

Đặc biệt, trong cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa chữa ôtô Avia (Hà Nội) tháng 5/1929
đã có sự lãnh đạo của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Chi bộ cộng sản đầu tiên, mà người
đóng vai trò chỉ đạo trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự. Để chỉ đạo công nhân đấu tranh, một Ủy ban bãi
công đã được thành lập, phát truyền đơn kêu gọi công nhân và nhân dân lao động Hà Nội hưởng ứng và
ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Avia. Cuộc bãi công đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của
công nhân nhiều nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định.

Tháng 7/1929, Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập, đã đề ra chương trình, điều lệ và quyết định xuất
bản tờ báo Lao động làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện đó vừa thể hiện bước trưởng thành của phong trào
công nhân, vừa tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo
thống nhất.

Nhìn chung, trong thời kỳ 1926-1929, phong trào công nhân đã có những bước tiến bộ mới, thay đổi
về chất từ có chủ nghĩa, đấu tranh mục tiêu rõ ràng, có tổ chức thống nhất. Những cuộc đấu tranh tự phát đã
giảm đi và thay vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức nổ ra liên tục, rầm rộ, rộng khắp, sôi nổi và quyết
liệt hơn với số lượng người tham gia đông, có sự phối kết hợp giữa các địa phương, đơn vị đấu tranh, có sự
lãnh đạo chặt chẽ của tổ chức công hội hay thanh niên với quy mô ngày càng lớn. Khẩu hiệu đấu tranh
không chỉ giới hạn ở mục đích kinh tế mà đã mang tính chất chính trị. Điều đó cho thấy, quá trình đấu tranh
của giai cấp công nhân Việt Nam đang chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác.

Cùng với phong trào công nhân, phong trào nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu
nước khác cũng phát triển, tạo thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ rộng khắp cả nước. Trong
đó, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đi đầu và trực tiếp lãnh đạo phong trào
đấu tranh cách mạng.

Trước sự chuyển biến mạnh mẽ trong các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp
nhân dân ngày càng lên cao, “Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” không còn đủ sức lãnh đạo. Yêu cầu
phải thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc, đảm nhiệm vai
trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đang trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam
lúc bấy giờ. Từ đó, dẫn tới sự tan rã của các tổ chức Thanh niên vàTân Việt, xuất hiện ba tổ chức cộng sản
“Đông Dương Cộng sản Đảng”(17/06/1929), “An Nam Cộng sản Đảng” (11/1929), “Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn” (01/01/1930). Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã khẳng định bước nhảy vọt của cách
mạng Việt Nam: nó chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc và những
điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chín muồi trong phạm vi cả nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
chứng tỏ “rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp công
nhân Việt Nam thực sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả nước. Thông qua
chính đảng của mình, giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc vượt qua mọi thác
ghềnh hiểm trở để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ thắng lợi.
Giải thích tại sao giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam

Thứ nhất, quan niệm về giai cấp công nhân và đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam. Trong tác phẩm
“Thường thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả những người không có tư liệu sản
xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong nông
nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân”. Tuy nhiên, trong số đó, không phải
tất cả họ đều là giai cấp công nhân và chỉ ra tiêu chí căn bản để xác định đó là giai cấp công nhân đúng
nghĩa mang đầy đủ “đặc tính” của giai cấp công nhân quốc tế theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Người viết: “Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa,
vân vân... Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông, vân
vân..., cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc
tính của giai cấp công nhân”. Về đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, giai cấp công
nhân Việt Nam mang đầy đủ đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, đó là: “Đặc tính cách mạng của giai
cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong
sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp
công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh
thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác”.

Thứ hai,giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành gắn với các cuộc khai thác thuộc địa, với việc thực
dân Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu đồn điền... Ngoài những đặc điểm của giai cấp
công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng vì ra đời trong hoàn cảnh một
nước thuộc địa nửa phong kiến, chủ yếu xuất thân từ nông dân- là người bạn tự nhiên của nông dân, cơ cấu
chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền, lực lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư
tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng
lực lãnh đạo cách mạng.

Câu 1.5: Phân tích đường lối cách mạng thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam (tháng 2 năm 1930)? Ý nghĩa của Cương lĩnh đối với tiến trình cách mạng Việt Nam?

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: phân tích thực trạng
và mâu thuẫn trong xã hội Việt, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế
quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam
“chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy,
mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng
thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và
chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó
chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.

- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng
đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng HCM, phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt
Nam, phải đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời
đại.

Câu 1.6: Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc, hãy chứng minh: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời
là một tất yếu?

- Nói ĐCSVN ra đời là 1 tất yếu lịch sử vì tại thời điểm đó, Việt Nam ta đã có những điều kiện cần
và đủ cho sự ra đời của Đảng đã xuất hiện

o Điều kiện cần:

Sự du nhập của CN Mác – Lênin: Tháng 7-1920, Bác Hồ đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo), số ra
ngày 16 và 17-7-1920. Sau khi đọc và hiểu được bản đề cương ấy, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận:
“Muốn cứu nước và GPDT, ko còn con đường nào khác ngoài con đường CMVS”. Từ đó Người tin theo
CNCS, tin theo CN Mác - Lênin và tin theo Quốc tế III. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc là 1 trong số 200
Đảng viên Đảng XH Pháp đã giơ tay biểu quyết lập ĐCS Pháp và đồng ý gia nhập Quốc tế CS. Đây là 1
mốc son quan trọng trong lịch sử VN, ghi dấu lần đầu tiên lịch sử VN có 1 người chấp nhận CNCS, tiếp thu
CNCS và trở thành người CS. Từ đó, Người tìm mọi cách truyền bá CN Mác - Lênin về VN và các nước
thuộc địa thông qua làm báo, viết báo, truyền bá sách báo yêu nước, mang tư tưởng CS về VN và Đông
Dương. 1921 – 1924 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc truyền bá gián tiếp CN Mác - Lênin về VN. 1925 trở đi,
Nguyễn Ái Quốc truyền bá trực tiếp CN Mác - Lênin về VN thông qua Hội VNCM thanh niên với phong
trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát động từ ngày 29-9-1928.
CN Mác - Lênin và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên đường CM mới ở VN. Nó góp phần
quan trọng giải quyết khủng hoảng về đường lối cứu nước ở VN.

Phong trào CN: CN VN ra đời gắn liền với sự du nhập CNTB kiểu Pháp vào VN. Từ cuối thế kỷ
XIX, đặc biệt là trải qua 2 cuộc khai thác thuộc địa đầu thế kỷ XX, CN VN cho đến đầu 1939 đã có 22 vạn
người. Từ cuối chiến tranh thế giới I, nó đã thật sự trở thành 1 giai cấp mới, thật sự trở thành 1 lực lượng
chính trị mới nổi lên ở VN. Cho tới 1925, sau khi tổ chức Công hội đỏ ra đời, sau khi Hội VNCM thanh
niên ra đời và phát triển về VN, phong trào CN ở VN đã có bước phát triển nhảy vọt. Đặc biệt sau phong
trào VS hóa năm 1928 của tổ chức Hội VNCM thanh niên, CMVN đã thật sự tiếp thu CN Mác và cho tới
đầu 1929, phong trào CN VN đã chuyển hẳn từ đấu tranh từ phát sang đấu tranh tự giác. Điều này được thể
hiện qua việc trong hai năm 1928-1929, số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân đã lên tới 40 cuộc, tăng
gấp 2,5 lần so với hai năm 1926-1927, điển hình là các cuộc bãi công ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà
máy sợi Nam Định, diêm cưa Bến Thủy, xe lửa Trường Thi (Vinh), mỏ than Mạo Khê, Hòn Gai (Quảng
Ninh), cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa chữa ôtô Avia (Hà Nội, 5/1929),…

o Điều kiện đủ: Phong trào yêu nước ở VN: Từ 1884 -1885 đi theo ngọn cờ Cần Vương mà đứng đầu
là vua Hàm Nghi nhưng cũng chỉ đến 1897 thì ngọn cờ phong kiến VN đã gãy đổ hoàn toàn. Sang đầu thế
kỷ XX, phong trào yêu nước VN đã hướng theo các tư tưởng DCTS được du nhập từ bên ngoài vào, tiêu
biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong
trào tiểu tư sản trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng (12-1927 - 2-1930) đã tiếp tục diễn ra rộng
khắp các tỉnh Bắc kỳ, nhưng tất cả đều không thành công Phong trào yêu nước VN đang gặp khủng hoảng
về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo, đòi hỏi phải có 1 tổ chức CM tiên tiến với đường lối CM đúng
đắn và khoa học để giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo của CMVN.

- 3 điều kiện cần và đủ đã nêu ở trên từ cuối 1929 đến đầu 1930 được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau
trong thực tiễn CMVN và nó dẫn đến sự ra đời 3 tổ chức CS ở VN: Đông Dương CS Đảng (17/6/1929, chủ
yếu ở miền Bắc) – An Nam CS Đảng (8/1929) – Đông Dương CS Liên đoàn (9/1929) ..Sự xuất hiện của 3
tổ chức CS này chứng tỏ phong trào CMVN đã đòi hỏi phải có Đảng lãnh đạo nhưng sự tồn tại cùng lúc 3
tổ chức CS có nguy cơ kìm hãm sự phát triển và gây chia rẽ phong trào CMVN. Bản thân phong trào
CMVN lúc này có 1 đòi hỏi khách quan là phải thống nhất 3 tổ chức CS, phải đi đến một ĐCS thống nhất ở
VN.

Tại sao Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi sau này?

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầu thế kỷ XX, sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam chỉ phát
huy cao độ khi được tập hợp, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90 năm
qua

Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng
dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, đây chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời
đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về
đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương
hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực
lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc
cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này.

Trong lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn, phân tích sâu sắc thời cuộc,
nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng.

Từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và
thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng
Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc
Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Câu 1.7: Phân tích nội dung cơ bản của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 và rút ra nhận
xét?

Thay cho Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam là Luận cương chính
trị của Đảng Cộng sản Đông Dương với các nội dung chính 39:
Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là “một bên thì
thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông
Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ
tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong
kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và
“đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó
có quan hệ khăng khít với nhau: “... có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và
làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ
nghĩa”. Luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để
Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Giai cấp vô sản là nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp
vô sản là động lực chính và mạnh.
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương khẳng định: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách
mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng có kỷ luật tập
trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường
“võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, “Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ
chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông”. Võ trang bạo động để giành chính
quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông
Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết
liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.

Nhận xét:

Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược cách mạng. Tuy
nhiên, Luận cương đã không vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra được một
chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu
ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế
Cộng sản và một số Đảng Cộng sản anh em trong thời gian đó.
Những hạn chế của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc,
giữa hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất, cũng như trong việc tập hợp lực lượng cách
mạng còn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau.
Câu 1.8: Nêu những điểm giống và khác nhau về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền được
xác định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của Đảng?
nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền
Giống:
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách
mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa
để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách.
Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt
Nam.
Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc
lập dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nòng cốt và cơ
bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.
Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và
vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính
quyền về tay công nông.
Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể
hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội tiên phong của
vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự giống nhau trên là
do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.

Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau: Cương lĩnh chính
trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng hơn (Đông Dương).
Đánh đổ Đế quốc và phong kiến

Cương lĩnh chính trị đầu tiên Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của
Đảng

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân
cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích
Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền
được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định: tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho
Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm
bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ
dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau: “... có
dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai
cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng
lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh
đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương nhấn
mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư
sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh
đạo dân cày.

→ Kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh → Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận
đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay cương đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng
sai phản cách mạng( nhiệm vụ dân tộc và dân chủ). thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn
của cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn giai cấp đang ngày càng sâu sắc
đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của
cương lĩnh xác định: làm cho Việt Nam hoàn toàn
độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng,
tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia
cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông
binh và tổ chức cho quân đội công nông, thi hành
chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo
dục theo hướng công nông hóa.

Về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính
trị xác định lực lượng cách mạng là giai cấp công của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai
nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp
minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo
lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn
Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông
như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc
→ ngoài việc xác định lực lượng nòng cốt của
chống cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng
cách mạng là giai cấp công nhân thì cương lĩnh
về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát
cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết
triển cao thì họ sẽ theo đế quốc.
dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải
phóng dân tộc. → Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối
đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách
mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế
quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản
dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa
chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế
quốc và tay sai.

Câu 1.9: Vì sao Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong giai
đoạn 1939-1945? Nội dung chủ trương chiến lược mới của Đảng được thông qua tại Hội nghị
BCHTW 8 (tháng 5 năm 1941)?
a)Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong giai đoạn 1939-1945 vì:

-Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ (1-9-1939) tác động sâu sắc đến tình hình chính trị thế giới. Để
phục vụ cho chiến tranh, thực dân Pháp thực hiện nhiều chính sách cực kỳ phản động, giải tán Đảng Cộng
sản ở Pháp, ở Đông Dương, chúng thực thi chính sách cai trị tàn bạo, điên cuồng tấn công nhằm tiêu diệt
Đảng Cộng sản và các đoàn thể do Đảng lãnh đạo, thực hiện chính sách khủng bố, ban bố lệnh tổng động
viên, ra sức bắt người, cướp của tại chỗ phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc của chúng.

-Chính sách phát xít hóa bộ máy chính quyền thực dân đế quốc ở Đông Dương không làm Đảng ta bất ngờ,
vì Đảng đã sớm dự báo vấn đề này. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, Đảng cho rằng nếu cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) làm xuất hiện tình thế cách mạng ở Nga, dẫn tới cuộc Cách
mạng Tháng Mười năm 1917 nổ ra, thì cuộc chiến tranh thế giới lần này sẽ làm xuất hiện tình thế cách
mạng. Nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin: “giai cấp vô sản nắm lấy ngọn
cờ dân tộc, tự mình trở thành dân tộc”, dựa trên cơ sở phân tích diễn biến tình hình ở Đông Dương lúc này,
Đảng kịp thời đề ra chủ trương cách mạng mới.
b)Nội dung chủ trương chiến lược mới của Đảng được thông qua tại Hội nghị BCHTW 8 (tháng 5 năm
1941)?
-Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề dân tộc,
nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu muốn tập hợp lực lượng toàn dân thì phải giương cao
ngọn cờ dân tộc, phải đoàn kết hết sức rộng rãi “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp, phải
đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”.
-Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trong Mặt trận đều
lấy tên là Hội Cứu quốc như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc,
Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội Nhi đồng Cứu vong, Hội Quân nhân Cứu quốc...
Với các dân tộc Lào, Cao Miên, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận ở mỗi nước, tiến tới thành lập một
Mặt trận chung Đông Dương.
-Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội nghị tiếp tục thực hiện
chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch
thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm
tức.
-Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một
cuộc khởi nghĩa vũ trang".Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi
thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương
cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
-Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam, Lào, Khơ me, thi
hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi...
-Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ và tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng.
Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ
Bá Cang, Phùng Chí Kiên, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Ban Thường vụ Trung ương
Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang.
Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương thay đổi chiến lược
cách mạng được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, có ý nghĩa quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.

Câu 1.10: Làm rõ nguyên nhân Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945)? Đảng Cộng sản Đông Dương đã có
chủ trương như thế nào? Ý nghĩa của chủ trương?

-Tháng 6/1940, Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Lợi dụng cơ hội đó, chính quyền phát xít Nhật tăng sức
ép lên chính quyền Pháp tại Đông Dương nhằm thế chân Pháp. Ngay từ năm 1940, Pháp đã có những động
thái khiến Đế quốc Nhật Bản xúc tiến từng bước để dần kiểm soát toàn Đông Dương. Theo Hiệp ước
Tokyo 1940 thì Pháp chấp nhận hầu hết các yêu sách của Nhật, trong đó có các điều khoản liên quan đến
việc Nhật có quyền chi phối nền kinh tế Đông Dương để thâu tóm miền Hoa Nam. Ngày 25 tháng 9 năm
1940, dù chỉ huy lực lượng võ trang khá hùng hậu Pháp tỏ ra bất lực khi Nhật tấn công biên giới Việt -
Hoa. Pháp tiếp tục phải nhượng bộ Nhật. Hiệp ước Tokyo 1941, ấn định Nhật là nước hưởng những ưu đãi
đặc biệt tại Đông Dương.

-Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, nước Pháp được giải phóng.
Chính phủ Đờ-Gôn trở về Pa-ri. Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật khốn đốn trước các đòn tấn
công dồn dập của quân Anh - Mĩ cả ở trên biển và trên bộ. Quân Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ
thời cơ để giành lại địa vị thống trị cũ, làm cho mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. Tình thế trên buộc
Nhật phải đảo chính Pháp, nhằm độc chiếm Đông Dương.

-Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng và đề ra
chủ trương: Ra chỉ thị ”Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chỉ rõ bản chất hành động của
Nhật ngày 9-3-1945 là một cuộc đảo chính tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác định kẻ thù cụ thể,
trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật; thay khẩu hiệu
“đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu khẩu hiệu “thành lập chính
quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật, làm tiền đề cho cuộc tổng
khởi nghĩa với hình thức đấu tranh: từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình thị uy, vũ trang du kích và
sẵn sàng chuyển qua tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.

Câu 1.11: Phân tích chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng
trong cách mạng tháng Tám năm 1945?
Điểm đặc sắc trước hết là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời nắm bắt và chủ động tận dụng
triệt để thời cơ thuận lợi của cách mạng để lãnh đạo các lực lượng tiến hành tổng khởi nghĩa. Đến đầu
tháng 8-1945, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến hết sức mau lẹ, trực tiếp tạo thuận lợi
cho cách mạng Việt Nam. Đó là sau khi phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Việt Nam cũng
như ở Lào và Cam-pu-chia rất hoang mang, tinh thần chiến đấu rệu rã; đồng thời, chính quyền tay sai và
bọn Việt gian thân Nhật cũng hoảng sợ, dao động. Trong khi đó, cao trào kháng Nhật, cứu nước của nhân
dân ta và lực lượng vũ trang cách mạng đang dâng lên rất mạnh mẽ trên khắp cả nước; một số tầng lớp
trung gian do dự, lừng khừng đã ngả theo cách mạng.
Tận dụng thời cơ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo thực hành tổng khởi nghĩa;
chủ động tổ chức, phát huy sức mạnh của toàn dân ở từng vùng, miền và trên quy mô cả nước. Quán triệt
và chấp hành Lệnh tổng khởi nghĩa của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, từ ngày 14-8-1945, các tầng lớp
nhân dân, các dân tộc, tôn giáo… được huy động tổ chức thành những đội quân chính trị đông đảo và đội
quân vũ trang, trong đó có Việt Nam Giải phóng quân và lực lượng vũ trang các địa phương làm nòng cốt,
xung kích ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, do Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và các đảng bộ địa phương
lãnh đạo. Toàn bộ lực lượng chính trị và lực lượng quân sự tham gia tổng khởi nghĩa quán triệt và thực hiện
theo 3 nguyên tắc do Hội nghị toàn quốc của Đảng đề ra. Một là, tập trung lực lượng vào những mục tiêu
chính. Hai là, thống nhất các mặt chính trị, quân sự, hành động và chỉ huy. Ba là, kịp thời tổ chức hành
động đồng loạt, không bỏ lỡ cơ hội.
Nhờ phát động kịp thời, nhanh chóng tổ chức được những đạo quân chính trị đông đảo và đội quân vũ trang
làm nòng cốt, tiến hành tổng khởi nghĩa đúng thời cơ và vận dụng theo 3 nguyên tắc chỉ đạo, Đảng ta đã
phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh áp đảo kẻ thù, nhanh chóng giành thắng
lợi.
Cuộc cách mạng tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công là do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo, chủ động kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng quân sự, tiến hành khởi nghĩa từng
phần, tiến lên tổng khởi nghĩa trên quy mô cả nước. Tận dụng thời cơ thuận lợi và thực hiện Lệnh tổng khởi
nghĩa của Trung ương, đông đảo nhân dân ở nhiều địa phương có đội quân vũ trang (tổ, đội) hỗ trợ đã đồng
loạt nổi dậy, giành chính quyền. Ở một số địa phương, tuy chưa nhận được Lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng
thực hiện Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, các đảng bộ đã lãnh đạo quần chúng
nhân dân, có các đội tự vệ xung kích nổi dậy, giành chính quyền ở địa phương.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, cuộc tổng khởi nghĩa do các đảng bộ tỉnh, thành phố trực tiếp lãnh
đạo diễn ra trên cả nước rất đa dạng, phong phú. Hầu hết các tỉnh, thành phố đều tổ chức khởi nghĩa dưới
hình thức kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa đấu tranh chính trị với đòn
tiến công quân sự, trong đó lực lượng chính trị tiến hành đấu tranh chính trị đóng vai trò quyết định, lực
lượng vũ trang thực hiện đấu tranh vũ trang đóng vai trò chế áp lực lượng địch, kết hợp với sách lược mềm
dẻo, cô lập và vô hiệu hóa quân thù nên giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. Trong tất cả các tỉnh,
thành phố, đặc khu trong cả nước tiến hành khởi nghĩa, có 36 tỉnh, thành phố về cơ bản ta tổ chức lực
lượng khởi nghĩa bắt đầu từ xã, huyện, phát triển lên tỉnh lỵ, từ ngoại thành vào nội thành, rồi kết thúc ở
một số huyện, xã còn lại; 15 tỉnh tổ chức lực lượng tiến hành khởi nghĩa ở tỉnh lỵ trước rồi lan về các huyện
và 11 tỉnh, đặc khu tổ chức lực lượng cùng khởi nghĩa cả ở tỉnh lỵ và nông thôn trong một ngày.

Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa ở các tỉnh, thành phố, đặc biệt là thắng lợi ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8)
và Sài Gòn (25-8) đã tác động mạnh tới phong trào nổi dậy ở các địa phương trong cả nước. Nhờ tổ chức
kịp thời các đòn đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng có tự vệ vũ trang xung kích hỗ trợ, kết hợp
chặt chẽ đòn tiến công quân sự của lực lượng vũ trang, chỉ trong nửa tháng (từ ngày 14-8 đến 28-8-1945),
cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước đã giành thắng lợi, để ngày 2-9-1945, nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và đặt cơ sở để xây dựng, phát triển
toàn diện đất nước.
CHƯƠNG 2
Câu 2.1: Tại sao nói: Sau cách mạng tháng Tám nước ta lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”? Để
giải quyết tình thế trên, Trung ương Đảng và Chính phủ đã có những chủ trương như thế nào?
Trả lời:
*Chính quyền cách mạng non trẻ của ta phải đối phó với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình thế “Ngàn
cân treo sợi tóc”. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng kéo vào, theo chúng là bọn tay sai thuộc
các tổ chức phản động, âm mưu cướp chính quyền mà nhân dân ta đã giành được. Từ vĩ tuyến 16 trở vào
Nam, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Ngoài ra, trên
cả nước còn hơn 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Bọn phản động trong nước ngóc đầu dậy, làm tay sai
cho Pháp, chống phá cách mạng. Chính quyền cách mạng còn non trẻ; lực lượng vũ trang còn yếu. Nạn đói
vẫn chưa khắc phục. Hàng hoá khan hiếm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Di sản văn hoá lạc hậu
của chế độ cũ rất nặng nề, hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội còn phổ biến. Ngân sách Nhà nước trống
rỗng...
*Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân,
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa
bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để tranh
thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù. Chúng ta đã chủ động đàm
phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập cho Tổ quốc, rồi ký
Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14-9-1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới
nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hợp quốc nêu rõ thiện chí hòa bình,
mong muốn Liên hợp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hòa bình. Đồng
thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm
đầu Pháp ở Đông Dương để tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm
quyền thực dân đã khước từ mọi thiện chí, nỗ lực của chúng ta. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp
càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt Nam, trong các ngày 15 và 16-12-1946, quân Pháp
nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17-12-1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò
Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18-12-1946, tướng Môlie gửi
cho ta 2 tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại vật trên
các đường phố, đòi để cho chúng giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu đó không được
Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành động, chậm nhất là sáng ngày 20-12-
1946.
Vậy là kẻ thù đã đặt dân tộc Việt Nam trước 2 con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại làm nô lệ; hai
là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Tình thế đó, buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và nhân dân ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ khí, đứng lên chiến đấu. Chính vì vậy, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến và ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đây là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá
của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi
thúc, cỗ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến trưởng kỳ giành lại độc lập, tự do
cho Tổ quốc.
Câu 2.2: Trình bày sách lược hòa hoãn của Đảng trong những năm 1945 – 1946 và ý nghĩa
lịch sử?
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong ba thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam
trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó đã tạo ra "một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta": chấm
dứt sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp tồn tại trong 87 năm (1858-1945) và sự tồn tại của chế độ quân
chủ chuyên chế tồn tại ngót nghìn năm, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập…Cả dân tộc
Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời, chưa kịp củng cố và phát triển thì chính quyền cách
mạng phải đối phó với muôn vàn khó khăn: kinh tế nghèo nàn lạc hậu, ngân quỹ nhà nước trống rỗng, nạn
đói, nạn dốt, sự chống phá của các đảng phái phản động… nhưng khó khăn lớn nhất khiến vận mệnh dân
tộc rơi vào tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" đó là âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, đặc biệt là
của quân Tưởng và thực dân Pháp.
Để giữ vững chính quyền cách mạng, để bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân đã đạt được,
trên lĩnh vực ngoại giao, Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối chính trị
vô cùng linh hoạt, sáng tạo đó là "cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược", triệt để lợi dụng mẫu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc.
Từ tháng 9-1945 đến trước tháng 3-1946, thực hiện việc nhân nhượng với quân Tưởng, chính quyền
cách mạng cung cấp 10 ngàn tấn gạo mỗi tháng cho quân đội Tưởng, thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu về nhà
ở, điều kiện sinh hoạt, tạm thời cho phép lưu hành tiền Quan Kim trong phạm vi trao đổi hàng hoá giữa
nhân dân ta với quân đội Tưởng, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp lâm thời, dành 1 ghế Phó Chủ
tịch nước, 4 ghế Bộ trưởng và 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Quốc, Việt Cách không thông qua bầu cử,
tránh mọi xung đột với quân đội Tưởng. Phải nhân nhượng với Tưởng nhưng Đảng ta cũng xác định phải
giữ vững 2 nguyên tắc, đó là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, chính quyền cách mạng và giữ vững mục
tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; đồng thời kiên quyết trừng trị bọn tay sai phản cách mạng.
Với sách lược tạm hòa hoãn với quân Tưởng, chúng ta đã hạn chế đến mức thấp nhất mọi hoạt động
phá hoại của quân Tưởng và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng, góp
phần làm ổn định mọi mặt ở miền Bắc, tạo điều kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian củng cố và xây
dựng lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngày 28-2-1946, chính quyền Tưởng Giới Thạch và thực dân Pháp ký Hiệp ước Hoa - Pháp tại Trùng
Khánh. Theo Hiệp ước này, quân đội Tưởng rút về nước nhường cho quân Pháp quyền giải giáp quân đội
Nhật của chúng ở miền Bắc Đông Dương. Đổi lại, Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất
Trung Hoa, bán cho Tưởng đoạn đường sắt Côn Minh - Hồ Kiều, nhượng cho Tưởng một đặc khu ở cảng
Hải Phòng, hàng hóa của Tưởng vận chuyển qua miền Bắc sẽ được miễn thuế.
"Hiệp ước Hoa - Pháp" là một sự chà đạp thô bạo đối với độc lập, chủ quyền của Việt Nam; buộc Đảng
và nhân dân ta phải lựa chọn một trong hai con đường: hoặc là đánh Pháp ngay từ khi chúng đưa quân ra
miền Bắc, hoặc là chủ động hoà hoãn với Pháp để đuổi 20 vạn quân Tưởng về nước, tránh tình thế cùng
một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc
chiến đấu mới, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Lựa chọn giải pháp hòa với thực dân Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng chỉ rõ lập trường đàm phán của chúng ta là: "Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân ta…
và sự thống nhất quốc gia của ta".
Chủ trương hòa với thực dân Pháp được tiến hành thông qua việc ký kết bản "Hiệp định sơ bộ" (6-3-
1946) và bản "Tạm ước" (14-9-1946) giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp.
Mọi nỗ lực ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều bị tư tưởng hiếu chiến của thực
dân Pháp phá bỏ. Nhân dân Việt Nam một lần nữa phải đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược.
Chủ trương "cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược" đã thể hiện rõ sự thông minh, sáng suốt,
tài tình, khéo léo, bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ trương này được thực hiện thắng lợi không chỉ góp phần to lớn vào việc giữ vững nền độc lập, bảo vệ
chính quyền cách mạng non trẻ, đưa dân tộc vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", cả nước có thêm thời
gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với hoạt
động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta trong những giai đoạn sau này.
Ý nghĩa:
Nhờ có sách lược hòa hoãn với tưởng và Pháp mà chúng ta có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến đấu
mới
Qua đó cta rút ra được:
-lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù nguy hiểm nhất.
-bài học về việc kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng
- bài học đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của chính quyền cách mạng
- bài học biết phân hóa kẻ thù
- bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân nhượng có nguyên tắc
Câu 2.3: Trình bày nội dung, ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Pháp?
. Hoàn cảnh lịch sử
- Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ
bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh - Hàng Bún (Hà Nội).
Đồng thời Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ ta, đòi phải tước hết vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát
an ninh trật tự ở Thủ đô.
- Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày 22/12/1946 Ban thường vụ trung ương Đảng ta đã họp tại Vạn
Phúc, Hà Đông dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã
cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng khả năng hoà hoãn
không còn. Hoà hoãn nữa sẽ dẫn đến hoạ mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. Do đó, hội nghị đã
quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực
dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc
20h ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày
20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.

· Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là: cuộc chiến
tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị
cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
· Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được
nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Lào,
Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền
Bắc.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến
- Ngay sau cách mạng tháng Tám, trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" Đảng ta đã khẳng định kẻ thù
chính của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, trung
ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại
âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
- Ngày 19/10/1946 thường vụ trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí
thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng
nhất định phải đánh Pháp". Hội nghị đã đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức
để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ ra
ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào
cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của trung ương Đảng
(22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh (9/1947).
Nội dung:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn
cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức
mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Đường
lối đó được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc (25-11-1945), Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946), Chỉ thị Hòa để tiến (9-3-1946),
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19-12-1946), tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (8-1947),...
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống nhất
hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích cực tham gia kháng
chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm
nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự mà cả về chính
trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi
nhọn, mang tính quyết định. Động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi
nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình vừa
đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực
lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh.
Kháng chiến lâu dài nhưng không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc
đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc,
phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ
yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ,
giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan
trọng hàng đầu.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, trở thành
ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân
dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu
quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Ý nghĩa:
- Việt Nam: Thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến buộc Pháp và Mỹ công nhận độc lâp chủ quyền giải
phóng Miền Bắc
- Quốc Tế: Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và mở đầu cho sự sụp đổ Chủ Nghĩa
Thực Dân cũ trên thế giới, trươc tiên là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Bài học kinh nghiệm:
- Đảng ta xây dựng đường lối kháng chiến đúng đắn quán triệt sâu sắc.
- Kết hợp đúng đắn nhiêm vụ chống đế quốc và phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để gây
mầm móng cho Chủ Nghĩa Xã Hội.
- Thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hâu phương vững mạng.
- Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ lâu dài nhất định thắng lợi.
Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao,
buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất
bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông
Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa,
hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở rộng địa
bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và
Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa
của thực phân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: "Lần
đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một
thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân
chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".
Câu 2.4: Trình bày nội dung cơ bản Chính cương của Đảng (2-1951) và ý nghĩa lịch sử?
Bài làm:
a) Nội dung cơ bản:
+ Tính chất xã hội Việt Nam có ba tính chất: Dân chủ nhân dân một phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba
tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ
nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân
tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
+ Đối tượng cách mạng Việt Nam có hai đối tượng:
•Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
•Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động.
+ Nhiệm vụ cách mạng:
•Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
•Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng.
•Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc.
+ Động lực của cách mạng gồm: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những
thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà
nền tảng là công nông, lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
+ Sắp xếp loại hình cách mạng: Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin (cách mạng giải
phóng dân tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản) gọi cách mạng Việt Nam là cách mạng
dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng chí Trường Chinh giải thích:
Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho nông dân.
Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.
Đây là sự bổ sung và phát triển lý luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết Mác- Lênin mà công lao to
lớn thuộc về đồng chí Trường Chinh.
+ Phương hướng tiến lên của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và đại thể trải qua ba giai đoạn:
•Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
•Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt
để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
•Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa
xã hội
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau.
+ Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng lao
động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh
phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.
+ Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống
cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.
+ Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã
hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và
đoàn kết Việt - Miên - Lào.
b) Ý nghĩa: Không biết
Câu 2.5: Trình bày nội dung và ý nghĩa đường lối chiến lược chung được Đảng ta thông qua tại Đại
hội lần thứ III (tháng 9-1960)?
Tóm tắt:
* Đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng ta được thông qua tạiĐại hội Đảng III (tháng 9/1960):
+ Nhiệm vụ chung: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơsở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới"
.+ Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:•Một là,
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.•Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Mục tiêu chiến lược: "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai
chiến lược khác nhau,mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền tronghoàn cảnh nước nhà
tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế
quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc".
+ Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên "Hai nhiệm vụ chiến
lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".
+ Vị trí, tác dụng:
•Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước,
hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả
nước.
•Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước
nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
+ Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì
con đường hoà bình thốngnhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng
tuyển cử hoà bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc
ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn
sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng
xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và
thống nhất Tổ quốc".
+ Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thựchiện thống nhất nước nhà là một quá
trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của
chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một
nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội

diễn giải:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp trong hoàn cảnh lịch sử đất nước và thế giới có những
đặc điếm nổi bật sau đây: Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có những bước tiến
quan trọng. Ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa với các thành phần kinh tế
đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm đã giành được
thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong phong trào "Đồng khởi" (1959 - 1960), làm lung lay chế độ ngụy
quyền Sài Gòn. Phong trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, chuyển cách
mạng từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công. Trong thời điểm này, tình hình thế giới cũng có
nhiều thay đổi, vừa là thuận lợi, vừa là thách thức cho cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống xã
hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô và Trung Quốc đã có nhiều ảnh hường tích cực đến cách mạng Việt
Nam. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh phát triển mạnh
mẽ. Đó là thuận lợi cơ bản cho cách mạng Việt Nam ở cả hai miền. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong phong
trào cộng sản mà tâm điểm là quan hệ Liên Xô - Trung Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và cũng ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của
cách mạng hai miền Bắc - Nam đòi hỏi Đảng phải nhanh chóng hoạch định đường lối cách mạng cho cả
nước, thống nhất ý chí và hành động, định hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai
miền. Mặt khác, đã gần 10 năm kể từ khi diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ 11 của Đảng (tháng 2-1951), cách
mạng Việt Nam đã có nhiều thay đổi, thế và lực của đất nước đã phát triển, nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn đang đặt ra cho cả dân tộc ta trên con đường cách mạng gải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, cùng với sự thách thức của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo nàn, lạc hậu,
Đảng và dân tộc Việt Nam đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề thực tiễn phức tạp đặt ra yêu cầu cấp thiết
Đảng phải sớm khẳng định những nhiệm vụ cụ thể cho sự nghiệp cách mạng ở hai miền đất nước. Lần đầu
tiên sau 30 năm hoạt động trong điều kiện bí mật và chiến tranh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Tham dự Đại hội có 525
đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết hay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước đến tham dự
Đại hội còn có đại biểu các đoàn thể và các đảng phái dân chủ trong nước và đại biểu của 16 đoàn quốc tế.
Nội dung chủ yếu của Đại hội:
Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà".
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình bày,
thảo luận và thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua
Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lấn thứ nhất (1961 - 1965).
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết do Đại hội thông qua về nhiệm vụ
và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới gồm những vấn để lớn sau:
- Về đường lối cách mạng chung trong cả nước:
Căn cứ vào tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội đã xác định cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn
mới cùng lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng khác nhau: chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai chiến lược
đó có mối quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Mỗi chiến lược cách mạng ở mỗi
miền của đất nước có vị trí và trách nhiệm riêng trong mục tiêu chung là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng đă trở thành căn cứ địa cách mạng chung của cả nước. Tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc được tăng cường về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh
cách mạng ở miền Nam. bảo dám sự phát triển của cách mạng trong cả nước. Vì vậy, "cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc rỏ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng
nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta". Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng
dân tộc , dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, cách mạng miền Nam "có tác
dụng quyết định trực tiếp đối vời sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai".
Trong khi giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền, cả hai chiến lược cách mạng ở hai miền đều nhằm giải
quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của
chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Từ những nhiệm vụ trên đây, Đại hội vạch ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong thời ký mới
là: ''Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân lộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông
Nam Á và thế giới".
- Về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và
phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đại hội đề ra "Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở miền
Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập
đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc
dân chủ ở miền Nam. thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chu và cải thiện đời sống nhân dân,
giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân dân chủ, tích cực góp phần bảo
vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả
nước. Đó là quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai của chúng ở miền Nam.
- Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là vấn đề trung tâm thảo
luận tại Đại hội. Xuất phát từ các đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
Đại hội xác định: cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi
mặt, là một quá trình đấu tranh gay go giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hoá và kỹ thuật.
Về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị khẳng
định: 'Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. xây dựng đời sống ấm no
hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình
thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế
giới".
Để thực hiện xây dựng chiến lược này, Nghị quyết Đại hội đã xác định: cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ
cơ bản, trong đó, cải cạo nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo nhằm tăng năng suất lao
lộng, phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. nhằm xâydựng cơ sở vật chất
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội "Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta là xây
dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy
công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước
có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại".
Cùng với việc phát triển kinh tế, Nghị quyết Đại hội còn đề cập đến việc phát triển văn hóa, giáo dục, khoa
học- kỹ thuật: xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân: tăng cường đoàn kết quốc tế, vấn đề Đảng và công tác
tổ chức cán bộ của Đảng.
Căn cứ vào đường lối chung trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội đã thảo
luận và thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm mục
tiêu: "phấn đấu để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho kinh tế miến Bắc
nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa".
Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội đề ra năm nhiệm vụ:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện.
- Hoàn thành công cuộc cảicách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp
nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh.
- Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh
tế và công nhân lành nghề, xúc tiến công tác khoa học và kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
- Đi đôi với kết hợp phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định rằng, sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng, cho nên Đảng cần phải
tăng cường sự lãnh đạo đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đốivới cuộc đấu tranh
nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ
quốc. Muốn thế, "phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, cụ thể là phải tăng cường
tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phải củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng".
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa III gồm có 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết.
Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ban Bí thư gồm có 7 dồng chí. Đồng chí
Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đánh dấu một bước phát triển mới của cách mạng nước ta
do Đảng lãnh đạo. Đại hội đã đề ra được đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nghị quyết của Đại hội là nguồn ánh sáng mới, là cơ sở để toàn
Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình, thống nhất lại nước nhà.
Ý nghĩa:
Ngày 10-9/1960, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai
đoạn mới; Thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng Lao động Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn bế mạc Đại hội.
- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp
với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh
cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả
Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc
Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể
hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ
lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.
- Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo
quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
Câu 2.6: Trình bày đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng được đề ra trong Nghị quyết Trung
ương Đảng lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 và ý nghĩa của Nghị quyết?
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ chủ nghĩa thực
dân mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn, chính quyền của Tổng thống Mỹ Giôn
xơn quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ” (The limited
war) là một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ, biểu
hiện là đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò
chủ yếu trên chiến trường miền Nam; quân đội Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ và thực hiện bình
định. Đồng thời, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền
Bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền
Nam.
Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước những thách thức nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc và hạ quyết
tâm chiến lược: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”47.
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế thừa và phát triển sáng
tạo đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960),
gồm các nội dung lớn là:
Quyết tâm chiến lược: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so
sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân
dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường; cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà
Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiến tranh đó
được đề ra trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ
không thể nào cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ở miền Nam. Từ sự phân tích và nhận
định trên, Trung ương khẳng định chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Với tinh
thần “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước trong toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí
Bắc.
Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình
huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần phải cố
gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời
cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục
tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực
hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. “Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự
có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng”.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc
vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức
người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực
chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả
nước.
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả
nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ
bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội
chủ nghĩa là thành quả chung rất to lớn của nhân dân cả nước ta, là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến
tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường
lực lượng miền Bắc về mọi mặt, nhất là về kinh tế và quốc phòng, nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền
Nam, đồng thời, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò đắc lực của hậu phương lớn
đối với tiền tuyến lớn. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Đế quốc Mỹ
xâm lược Việt Nam, thì bất kỳ chúng đặt chân ở đâu trên đất nước Việt Nam, mọi người Việt Nam đều có
nghĩa vụ tiêu diệt chúng. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược”.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 với nội dung như trên thể hiện tư tưởng nắm
vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc của dân tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính trong hoàn cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi
tới thắng lợi vẻ vang.

CHƯƠNG 3:

Câu 3.1: Trình bày quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước sau ngày 30-04-1975?
- Nguyên nhân cần thống nhất đất nước về mặt nhà nước: Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước
ta bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Để
thực hiện bước quá độ này, rất nhiều nhiệm vụ được Đảng đặt ra nhưng nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất là
lãnh đạo thống nhất nước nhà về mặt nhà nước cụ thể là thống nhất hai chính quyền khác nhau ở hai miền
là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam ở miền Nam.
- Quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước:
o Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (8-1975) chủ trương: Hoàn
thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thống nhất đất nước vưà là nguyện vọng
thiết tha của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng
Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Cần xúc tiến việc thống nhất nước nhà một cách
tích cực và khẩn trương. Thống nhất càng sớm thì càng mau chóng phát huy sức mạnh
mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia rẽ của các thế lực phản
động trong nước và trên thế giới.
o Dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 27-10-1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên đặc biệt để bàn chủ trương, biện pháp thống nhất nước
nhà về mặt nhà nước. Hội nghị cử đoàn đại biểu miền Bắc gồm 25 thành viên do đồng chí
Trường Chinh làm trưởng đoàn để hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam.
o Ngày 5 và 6-11-1975, tại Sài Gòn, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam, Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình
Việt Nam, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hội đồng cố
vấn Chính phủ và đại biểu các nhân sĩ, trí thức đã họp hội nghị liên tịch và cử đoàn đại
biểu miền Nam gồm 25 thành viên do đồng chí Phạm Hùng dẫn đầu để hiệp thương với
đoàn đại biểu miền Bắc.
o Từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu
Bắc, Nam đã họp tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định: Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là
một, nước nhà cần được sớm thống nhất về mặt nhà nước. Tổ chức tổng tuyển cử trên toàn
lãnh thổ Việt Nam bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976 theo
nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
o Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 228-CT/TW nêu rõ tầm quan
trọng của cuộc Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp ủy lãnh đạo cuộc bầu cử.
o Thực hiện chủ trương đó, dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử
bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri,
đạt tỷ lệ 98,77% tổng số cử tri đi bầu, đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần công
nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, các đại biểu tầng lớp thanh niên, phụ nữ,
đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo... trên cả nước. Thắng lợi của công việc bầu
cử thể hiện ý chí đoàn kết toàn dân tộc quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn
thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”11.
o Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất
đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài
Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Thành
phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc hội đã bầu Tôn Đức Thắng làm
Chủ tịch nước; Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nước; Trường
Chinh làm Chủ tịch Quốc hội và Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội đã và thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp
mới. Theo chủ trương của Đảng, các tổ chức chính trị-xã hội đều được thống nhất cả nước
với tên gọi mới: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh,
Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,...
- Ý nghĩa: Hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước là một trong những thành tựu nổi bật, có ý
nghĩa to lớn; là cơ sở để thống nhất nước nhà trên các lĩnh vực khác, nhanh chóng tạo ra sức mạnh toàn
diện của đất nước; là điều kiện tiên quyết để đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó còn thể
hiện tư duy chính trị nhạy bén của Đảng trong thực hiện bước chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta.
Câu 3.2: Trình bày nội dung cơ bản, ý nghĩa và hạn chế của Đại hội IV của Đảng (12-1976)?
- Những nội dung cơ bản Đại hội:
o Thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5
năm (1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao
động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp
hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn
làm Tổng Bí thư của Đảng.
o Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khẳng định thắng lợi của nhân
dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như
một trong những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của
thế kỷ XX, một sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc.
o Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới: “Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền
kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của
chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra12. Ba là, cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng
ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết
liệt”13. Ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, nhưng đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và nhân dân
ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng. Trong ba
đặc điểm trên, đặc điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức, bước đi của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
o Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của
nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học-kỹ
thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu;
không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị
và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và
xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”14. Trong đường lối chung thể hiện nhận thức
mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn, nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa; coi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là
công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
o Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công-nông
nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản
xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển
quan hệ kinh tế với các nước khác.
o Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa (1976-1980) nhằm hai
mục tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn
hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới; tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát
huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và
trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng cố quan hệ
đặc biệt với Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
- Ý nghĩa: Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại
hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Hạn chế: Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh
nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa là hậu
phương, vừa là tiền tuyến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam và
làm nhiệm vụ quốc tế. Trong điều kiện đó không thể áp dụng đầy đủ các quy luật kinh tế, không
thể hạch toán kinh tế mà tất yếu phải thực hành chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong điều kiện đó, chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình
chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh. Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá
trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng
20 năm để kết thúc thời kỳ quá độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc
đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là những chủ
trương nóng vội, thực tế đã không thực hiện được.

Câu 3.3: Trình bày những quan điểm mới được đề ra tại Đại hội V của Đảng (3-1982). Nêu ý nghĩa
và hạn chế của Đại hội.

*Những quan điểm mới:


Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những khó
khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều
chặng đường. Hiện nay nước ta đang ở chặng đường đầu tiên với nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội rất nặng nề. Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến những năm
1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là ổn định tiến
lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đáp
ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
“Kinh nghiệm của 5 năm 1976-1980 cho thấy phải cụ thể hóa đường lối của Đảng-đường lối chung của
cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vạch ra chiến
lược kinh tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”1. Chặng
đường trước mắt trong những năm 80 là ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hóa của nhân
dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng
tiêu dùng và xây dựng; đáp ứng nhu cầu của quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. “Trong
khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là tập
trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng hàng tiêu
dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý. Nhận thức đó phù hợp với thực tiễn nước
ta, khai thác và phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước về lao động, đất đai, ngành nghề..., làm cơ sở để
thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho chặng đường tiếp
theo.
*Ý nghĩa và hạn chế:
Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn; khuyết điểm là trong khâu tổ chức
thực hiện, nên đã không có được những sửa chữa đúng mức và cần thiết. Tuy nhiên, Đại hội chưa thấy hết
sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị
trường, về công tác quản lý lưu thông, phân phối; vẫn tiếp tục chủ trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Nam trong vòng 5 năm; vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển
công nghiệp nặng một cách tràn lan; không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư cho phát triển nông nghiệp
và công nghiệp hàng tiêu dùng…
Câu 3.4: Trình bày ba bước đột phá kinh tế của Đảng thời kỳ trước đổi mới? Nêu ý nghĩa?
Bài làm:
a)Ba bước đột phá kinh tế:
-Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất
"bung ra" là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta.
+Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải
tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản
xuất phát triển: ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu
thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc
dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích
sản xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất,
định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
+Trên cơ sở đó, Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời, làm cho người lao
động thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản
xuất, đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
+Trên lĩnh vực công nghiệp, với Quyết định 25/CP, ngày 21-1-1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với
Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền
thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh, được áp dụng,bước đầu tạo ra động lực mới cho lĩnh vực
công nghiệp..
+Có thể nhìn nhận những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6
khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và trong các Quyết định của Chính phủ thời kỳ này như
sau:
*Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là bước mở đầu có
ý nghĩa quan trọng.
*Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản xuất" , “làm cho
sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất : chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao
động. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam gây ra, do thiếu đồng bộ của
tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tòi
đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu,
bám rễ trong nhiều người. Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, cũng
đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư duy thừa nhận sản xuất hàng
hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.
- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6-1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy
kinh tế với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá
bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội
nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá.
- Tháng 8-1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã
xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó, đưa ra Kết luận đối với một số
vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm
mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; b)
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng
thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp;
chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ
ba về đổi mới tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
b)Ý nghĩa:
-Những thành công:
+Một là, quá trình đổi mới và phát triển tư duy lý luận kinh tế của Đảng là xuyên suốt nhất quán,
ngày càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; đảm bảo sự thống nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều
sâu, giữa phát triển và hội nhập trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư
duy lý luận kinh tế của Đảng thực sự đi trước, có vai trò dẫn đường và định hướng quá trình đổi mới và
phát triển kinh tế trên thực tế. Thực tế quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta đã trải qua nhiều giai đoạn cả khó khăn và thuận lợi, đặc biệt là trong bối cảnh sự tan rã của Liên Xô cũ
và các nước Đông Âu ở thời kỳ đầu đổi mới; khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu…Tuy
nhiên, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên trì tư duy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cho
đến nay, thực tế đã chứng minh đây là con đường đi đúng đắn bằng những thành tựu phát triển kinh tế-xã
hội mà nước ta đã đạt được trong gần 30 năm qua.
+Hai là, đã hình thành tư duy nhất quán có tính chiến lược về chế độ sở hữu và các thành phần kinh
tế. Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, giúp giải phóng sức sản xuất vốn bị kìm hãm
trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia. Đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác ngoài sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước, trên cơ sở đó đã có
những chủ trường, định hướng đúng đắn về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, từ đó huy động được tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.
+Ba là, đã có sự thay đổi cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh
tế. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước vừa xây dựng chế độ, chính sách vừa thực hiện mọi
hoạt động của nền kinh tế, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng sản xuất
kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đã được xác định rõ, đó là xây dựng và
hoàn thiện thể chế, tạo dựng và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, can thiệp vào
nền kinh tế với mục tiêu sửa chữa những khuyết tật của thị trường và đảm bảo an sinh xã hội. Đồng thời,
Nhà nước cũng đóng vai trò là một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và quản lý tài
sản công.
+Bốn là, chính sách thị trường thông thương giữa các vùng trong cả nước và giữa trong nước và
nước ngoài là một bước tiến lớn trong nhận thức và xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Chính
sách “cởi trói” để hàng hóa được tự do lưu thông cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế đã giúp đổi mới
tư duy trong sản xuất và phân phối, chuyển Việt Nam từ một nền kinh tế tự cấp tự túc sang một nền kinh tế
sản xuất hàng hóa, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp trở thành một nền kinh tế
thị trường được nhiều nước trên thế giới công nhận .
+Năm là, quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chuyển dịch từ chỗ
coi Nhà nước là chủ thế quyết định phân phối (phân phối lần đầu và phân phối lại) sang việc coi thị
trường quyết định phân phối lần đầu và vai trò của Nhà nước trong việc phân phối lại. Cơ chế phân
bổ nguồn lực bằng hiện vật và cào bằng chuyển sang phân bổ dựa trên các nguyên tắc và tiêu chí hiệu quả,
tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng tâm đã góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong
phân bổ ngân sách nói riêng và nguồn lực xã hội nói chung. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực để
phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo dựng
được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tăng kinh tế xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và đời
sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng
bước được hình thành và phát triển.
Sáu là, cơ chế giá chuyển từ quản lý mệnh lệnh hành chính, không phản ánh đúng quy luật giá trị, là một
trong những nguyên nhân gây lạm phát cao sang quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
đã khắc phục nhưng bất cập, hạn chế về giá, giá cả hàng hoá phản ánh giá trị hàng hoá, khắc phục được
những mặt trái về giá trong KTTT, đảm bảo ổn định và an sinh xã hội.
+Bảy là, khuyến khích phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó thị trường tài chính đã được
chú trọng, đặc biệt là thị trường vốn để tạo kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế. Phát triển thị
trường không chỉ bao gồm thị trường hàng hóa và dịch vụ mà còn cả thị trường các yếu tố sản xuất như
vốn, tài sản, tiền tệ và sức lạo động.
+Tám là, nhận thức được vai trò tích cực của cơ chế thị trường và đa dạng hoá các chủ thể tham gia
thị trường. Trong đó, Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, công cụ
đòn bảy kinh tế và bằng nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước. Từng bước tách chức năng kinh doanh
của doanh nghiệp và chức năng quản lý, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, chủ sở hữu, hình thành
các định chế tài chính trung gian để thực hiện nhiệm vụ tín dụng chính sách của nhà nước cũng như đầu tư
kinh doanh vốn nhà nước.
Câu 3.5: Trình bày những chủ trương đổi mới được đề ra tại Đại hội VI của Đảng (12-1986). Ý nghĩa
của Đại hội VI.
*Những chủ trương đổi mới:
Đường lối đổi mới do Đại hội VI toàn diện trên các lĩnh vực, nổi bật ở những nội dung sau:
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc
kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975-1986. Đó là những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế là
bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn
từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đại hội rút ra bốn
bài học quý báu: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mơi. Bốn là, chăm lo xây
dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch
với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên
là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú
trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự
cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Thực hiện cải tạo xã hội
chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng
sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân
phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo
đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu
sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải
tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học
kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Về chính sách xã hội, Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người,
cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu, khả năng trong
chặng đường đầu tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người
lao động. Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh
vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân.
Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Về quốc phòng và an ninh: Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước,
quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để
bảo vệ Tổ quốc.
Về nhiệm vụ đối ngoại: Góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông
Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hòa
bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông
Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Về xây dựng Đảng: Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tư tưởng;
đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng
cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực
hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất
yếu để huy động lực lượng của quần chúng.
*Ý nghĩa:
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt phát triển
mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học và cách
mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế của Đại hội VI là
chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông.
Câu 3.6: Trình bày sáu đặc trưng cơ bản xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại
Đại hội VII (6-1991)? Làm rõ đặc trưng về nền văn hóa Việt Nam.
*Sáu đặc trưng cơ bản xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng:
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc trưng
cơ bản là: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới”.
*Đặc trưng về nền văn hóa Việt Nam: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát ở tính chất tiên tiến
của nền văn hóa (bao hàm những giá trị mới, tiến bộ, hiện đại, nhân văn của văn hóa nhân loại); ở việc giữ
gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia, khu vực tham gia. Xu thế này,
một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia; mặt khác làm nảy
sinh nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế mà các chế
độ chính trị - xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh; trong giao lưu, hợp tác và phát triển
văn hóa, tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng phải được thể hiện không chỉ bằng việc xác
định tính ưu việt của đặc trưng về văn hóa vừa nêu, mà còn phải hiện thực hóa đặc trưng đó trên thực tế.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị của
tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây
dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với
những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng
trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

Câu 3.7: Trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991) được thông qua tại Đại hội VII (6-1991).

*Nội dung cơ bản:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua (gọi tắt
là Cương lĩnh năm 1991) đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; chỉ ra những thành
công, khuyết điểm, sai lầm và nêu ra năm bài học lớn. Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ba là, không ngừng
củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc trưng
cơ bản là: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới”.
Cương lĩnh nêu ra 7 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm. Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Thực hiện chính sách đại đoàn kết
dân tộc. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường với những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại. “Mục tiêu
tổng quát phải đạt tới, khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.
Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong
hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ thống đó. Đảng lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức.
*Ý nghĩa lịch sử:
Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh
tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.
Câu 3.8: Trình bày những nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
được xác định tại Đại hội IX của Đảng (4-2001). Ý nghĩa của Đại hội IX.
Ngoài những nội dung tiếp tục đổi mới toàn diện, các văn kiện của Đại hội IX nổi bật với những nhận
thức mới về con đường xã hội ở nước ta:
Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dấu ấn cực kỳ sâu sắc: Khoa học và công nghệ tiến
nhanh chưa từng thấy; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu; đầu thế kỷ phong trào cách mạng
phát triển rộng toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào. Đối với
nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử và thời đại: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở ra bước ngoặt của cách mạng Việt Nam;
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm tiếp theo (2001-2010) với mục tiêu tổng quát
là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với
thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đường lối
đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công
bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu
cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa;
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội;
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển.
- Phát triển kinh tế
- Những đổi mới về công tác tư tưởng, lý luận
- Những đổi mới về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
- Về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tq
Ý nghĩa
Đại hội IX của Đảng đã họp tại Hà Nội, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại hội mở đầu thế kỷ
XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-9-
2001 ở Mỹ, một nước lớn lợi dụng chống khủng bố, tăng cường can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều
nước. Khu vực Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động
nhưng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, tạo thế và lực mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Các
nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách
mạng nước ta.
Câu 3.9: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X (7-2008).
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững
ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ,
gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa
trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh
vực; phát huy nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu
khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông
dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng
xã hội nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo
động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân. Ba vấn đề
này có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ
sở và lực lượng quan trọng phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh,
quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Trên
cơ sở quan điểm đó Trung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn
trong thời kỳ mới.
Câu 3.10: Trình bày những điểm bổ sung, phát triển chủ yếu của Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) so với Cương lĩnh
năm 1991.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011 có kết cấu bốn phần cơ bản giữ như Cương lĩnh năm 1991 có bổ
sung, phát triển nhận thức mới ở tiêu đề và nội dung từng phần.
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có một số điểm mới:

-Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới: 1/ Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhvà 2/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X,
hai đặc trưng quan trọng này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây
dựng. Song, trong đặc trưng thứ nhất của Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí
công bằng. Thực tiễn cho thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai
trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ
được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn
minh.
Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân
dân, do nhân dân xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi
mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để
thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
-Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân
lao động làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều
chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội
hàm rộng hơn so với khái niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều
này cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
-Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương
lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng
nhất với quan hệ sản xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một
trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất.
Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong những bài học
quan trọng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất.
-Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư của
Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của mô hình
chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi điều
này là hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được
giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công.
-Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát triển toàn
diện'' (trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng
Văn kiện Đại hội X ghi ''con người ... được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều
kiện” là chính xác thể hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều
kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
-Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh
năm 2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ
''tôn trọng'' hoàn toàn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí:
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” (trong Văn
kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.
-Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
“Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại
hội lần thứ X và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng
hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp
tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ
chức phi chính phủ của các nước trên thế giới.
Câu 3.11: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tại Hội nghị Trung ương 9, khóa XI
(5-2014).
Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, đất nước đã đạt những thành
tựu rất nổi bật về phát triển văn hóa. Tuy nhiên, những kết quả đạt được trong xây dựng và phát triển văn
hóa chưa tương xứng với yêu cầu và chưa vững chắc; thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa với kinh tế,
chính trị; giữa các lĩnh vực của văn hóa; chưa tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế-xã hội, đến xây
dựng con người. Trong bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế; sự phát triển nhanh chóng của khoa học,
công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, truyền thông; quá trình toàn cầu hóa, trong đó có toàn cầu hóa về
văn hóa đã và đang đặt ra những yêu cầu mới. Hội nghị Trung ương 9 (5-2014) đã chủ trương tiếp tục xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Quan điểm
chỉ đạo của Trung ương: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với
các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con
người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây
dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình,
cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa và xây dựng con người mới. Xây dựng và phát triển văn
hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ
trí thức giữ vai trò quan trọng. Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò
quan trọng.
Câu 3.12: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, được thông qua tại Hội nghị Trung ương 8, khóa XI
(11-2013).
Hội nghị Trung ương 8 (11-2013) đã ra Nghị quyết “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế”. Cái mới của Nghị quyết này không chỉ ở nhận thức mà cả trong chỉ đạo thực tiễn phải
coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi
mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào
tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học,
ngành học. Trung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp nhằm chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ. Đổi mới hệ thống giáo dục theo
hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Thực
hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.
Câu 3.13: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được thông qua tại Hội
nghị Trung ương 9, khóa XII (10-2018).
Hội nghị Trung ương 8 (10-2018) đề ra Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí,
vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc. Biển là bộ phận
cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật
thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ
biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với
bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp
tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Phát triển bền vững kinh
tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh
nghiệp và mọi người dân Việt Nam. Trung ương đã xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm
2030 và năm 2045, một số chủ trương lớn và khâu đột phá, các giải pháp để thực hiện Chiến lược biển tiếp
tục phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong nhiều năm tới.

You might also like