You are on page 1of 9

1.Triết học là gì? Nội dung, phương pháp triết học.

Triết học đáp ứng một nhu cầu xác định của tinh thần con người. Đồng thời
đời sống tinh thần và văn hóa đương nhiên cũng không phải chỉ có triết học. Triết
học xuất hiện ở những nơi nảy sinh nhu cầu đặc biệt về nó.
Sự thiếu vắng triết học ở đâu đó không hề chứng tỏ trình độ văn hóa ở đó còn
thấp. Trong một số điều kiện cụ thể, cả xã hội, cả con người riêng biệt đều không
cần đến triết học khi đã có những thành tựu văn hóa bằng con đường khác.
Mọi người đều thừa nhận rằng triết học đã xuất hiện vào thế kỷ kỷ VI - V tr.cn., ở
Hy Lạp cổ. Bản thân thuật ngữ "triết học" cũng đã xuất hiện ở đây, nó cấu thành từ
hai danh từ tiếng Hy Lạp: "phyleo - tình yêu và "sophia" - sự thông thái. Như vậy,
triết học theo nguyên nghĩa có nghĩa là ”tình yêu sự thông thái”. Những tác phẩm
triết học kinh điển là của Platôn (427-347 tr.cn.) và của Aristốt (384-322 tr.cn.).
Chính chúng lần đầu tiên đã đặt ra, khảo cứu tỉ mỉ và giải quyết các vấn đề mà từ
đó sẽ mang tên là các vấn đề triết học. Trong nhiều thế kỷ, các tác phẩm của Platôn
và của Aristốt đã được coi và hiện nay cũng tiếp tục được coi là mẫu mực của tri
thức triết học nói chung. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là sau đó các nhà triết
học chỉ ngoan ngoãn tuân thủ mẫu mực này hay sao chép nó. Điều đó có nghĩa là
tác phẩm của các nhà kinh điển cổ đại đã bao chứa nội dung, phương pháp và mục
đích mà toàn bộ tư tưởng sau đó lĩnh hội chính như là nội dung, phương pháp và
mục đích của triết học.
Luận điểm về sự xuất hiện của triết học ở Hy Lạp cổ còn có nghĩa là cần phải
khước từ tính triết học của các học thuyết ở các khu vực khác trên thế giới cùng
thời hay thậm chí còn sớm hơn các tác phẩm triết học Hy Lạp cổ. Đó trước hết là
Ai Cập cổ, Babilon cổ, Trung Quốc và ấn Độ cổ.
Thời gian khoảng 500 năm (từ năm 800 đến năm 200) tr.cn. là một thời gian
độc đáo không chỉ trong lịch sử Hy Lạp mà còn cả trong lịch sử toàn thế giới. Nhà
triết học người Đức, K.Giaxpe (Jaspers) (1883-1969) đã đánh giá nó như là "thời
gian trục". "Nhiều thứ bình thường đã diễn ra vào thời gian này. Khi đó Khổng tử
và Lão tử đã sống ở Trung Quốc, tất cả mọi khuynh hướng triết học Trung Quốc đã
xuất hiện. Tại ấn Độ, Upanishad đã xuất hiện, Phật đã sống..; Tại Iran, Zaratustra
đã dạy về thế giới trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác; các nhà
tiên tri - Ilia, Isắc, Ieremia, v.v.- đã phát biểu ở Palestin; ở Hy Lạp - đó là thời kỳ
của Hôme, Pacmênit, Hêraclít, Platôn.. Tất cả những gì gắn liền với những tên tuổi
ấy đều xuất hiện dường như đồng thời trong suốt mấy thế kỷ ở các nơi nêu trên độc
lập với nhau. Vào thời đại đó, người ta đã xây dựng các phạm trù cơ bản mà hiện
nay tư duy ta vẫn đang dựa vào, đã đặt cơ sở cho các tôn giáo thế giới mà ngày nay
vẫn có ảnh hưởng mạnh. Chính vào thời kỳ này, con người đã ý thức được toàn bộ
tồn tại của mình, bản thân mình không phải như một thực thể khép kín mà như một
thực thể phổ biến. Những chuyển biến diễn ra vào "thời gian trục" có ý nghĩa to
lớn đối với sự phát triển sau đó. Khi đó đã diễn ra một bước ngoặt lớn nhất trong
lịch sử"1.
Như vậy, sự xuất hiện của triết học tại Hy Lạp cổ cần phải được xem xét
trong bối cảnh có những chuyển biến triệt để trên quy mô toàn cầu. Triết học Hy
Lạp cổ đã xuất hiện như là một trong nhiều phát kiến vĩ đại của "thời gian trục".
Đồng thời, ngay từ đầu, nó đã có những đặc điểm phân biệt một cách căn bản nó
với những hiện tượng khác của thời đại. Người Hy Lạp cổ tất nhiên đã tiếp nhận
nhiều thứ từ phương Đông, đặc biệt là từ Babilon và Ai Cập cổ. Song, những gì mà
họ sáng tạo ra, là không giống với những gì đã được biết tới trước đó. Triết học đã
trở thành sản phẩm độc đáo của thiên tài Hy Lạp. Theo Nitsê, thậm chí nếu người
Hy Lạp "chỉ ném ngọn lao đi xa hơn người của dân tộc khác, thì việc đó cũng
mang tính quyết định"2.
Nội dung, phương pháp và mục đích của triết học

Về nội dung, triết học là khát vọng hướng tới sự nắm bắt tất cả trong sự
thống nhất. Nếu các khoa học khác coi một phương diện nào đó của hiện thực là
đối tượng nghiên cứu của mình, thì triết học cố gắng nắm bắt toàn bộ hiện thực
trong sự thống nhất của nó. Điểm đặc trưng của triết học là quan niệm cho rằng thế
giới có sự thống nhất nội tại, bất chấp có sự phân tán bề ngoài của các bộ phận.
Tính thực tại của thế giới với tư cách một chỉnh thể - đó là nội dung đặc trưng của
triết học.

Xét về phương pháp, triết học là phương thức giải thích duy lý về hiện thực. Nó
không thoả mãn với các biểu tượng cảm xúc mà cố gắng đạt tới tính được luận
chứng có căn cứ lôgíc. Đây là điểm khác biệt của triết học so với tôn giáo, nghệ
thuật, thần thoại vốn cũng xem xét thế giới trong chỉnh thể nhưng lại không đặt ra
nhiệm vụ lý giải nó một cách duy lý. Triết học cố gắng xây dựng hệ thống căn cứ
trên lý tính chứ không phải trên niềm tin hay hình tượng nghệ thuật. Hình tượng
nghệ thuật, ẩn dụ, phép so sánh, v.v. chỉ đóng vai trò bổ trợ trong triết học..
1
K. Jaspers. Mục đích và nội dung của lịch sử. M., 1991, tr. 32-33.
2
Ph. Nitsê. Triết học ở thời đại bi đát. M., 1994, tr. 195.
Xét về mục đích, triết học là tri thức được giải phóng khỏi những lợi ích thực
tế vị lợi. Điểm này phân biệt nó với phần lớn những tri thức khác, chủ yếu là với tri
thức khoa học và công nghệ có nhiệm vụ phục vụ cho các nhu cầu thực tế. Tính
hữu ích không phải là mục đích của triết học. Câu nói sau đây của Aristốt là rất
điển hình: Tất cả mọi khoa học khác là cần thiết hơn nhưng không có khoa học nào
tốt hơn triết học.
Có thể nhận thấy ý nghĩa của triết học không phải ở tính hữu ích thực tế (tính
thực dụng) mà ở bầu không khí đạo đức (tinh thần). Lịch sử triết học chứng tỏ tư
tưởng triết học tìm kiếm và luận chứng cho lý tưởng có thể trở thành ngôi sao chỉ
đường trong cuộc đời con người. Đây trước hết là lý tưởng đạo đức gắn liền với
việc tìm kiếm mục đích sống của con người. Đây cũng là lý tưởng xã hội có nhiệm
vụ giải thích mục đích của sự phát triển xã hội. Nhân đây nhà tư tưởng người Đức,
M. Seler đã nêu đặc trưng triết học như là "tri thức vì sự giải thoát" sau khi đã đem
đối lập nó với "tri thức vì thành tựu và sự thống trị", tức tri thức thực chứng (khoa
học và công nghệ).
Đồng thời cũng phải thấy rằng, các tri thức triết học chuyên ngành riêng biệt
cũng gián tiếp góp phần đem lại những kết quả thực tiễn đáng kể. Chẳng hạn, triết
học và phương pháp luận của khoa học đã giúp đỡ các khoa học cụ thể giải quyết
những vấn đề của chúng. Qua đó triết học thúc đẩy tiến bộ khoa học và kỹ thuật.
Triết học xã hội tham gia vào việc giải quyết những vấn đề chính trị - xã hội, kinh
tế, v.v.. Hoàn toàn có quyền khẳng định rằng, dù là gián tiếp, triết học vẫn đóng
góp đáng kể vào mọi thành tựu của loài người.
2. Nội dung tư tưởng và thế giới quan của triết học Phục hưng
Sự thịnh vượng của văn hóa Phục hưng diễn ra ở thế kỷ XV-XVI. Phục hưng
không những là một thời đại đặc biệt mà còn là một hiện tượng đặc thù của văn
hóa Tây Âu, mang tầm vóc toàn thế giới.
Với nghĩa chung nhất thì Phục hưng được hiểu là sự định hướng vào phục hồi
văn hóa cổ đại. Nhân đây văn hóa Phục hưng được xem như là sự phủ định văn
hóa trung cổ, như là phản đề đối với triết học kinh viện trung cổ. Đó là đánh giá
chung nhất (chủ yếu là hời hợt) về Phục hưng. Nó cho phép làm sáng tỏ một số đặc
điểm của Phục hưng:
+ Chủ nghĩa cá nhân về thực tiễn và về lý luận, có nghĩa là các nhà hoạt động
Phục hưng đặt cá nhân con người vào trung tâm thế giới quan và thực tiễn cuộc
sống của mình;
+ Tôn thờ cuộc sống thế tục cùng với việc định hướng vào những lạc thú cảm
tính;
+ Tinh thần thế tục hoá tôn giáo cùng với xu hướng dẫn tới đa thần giáo. Cần
phải hiểu "tinh thần thế tục của tôn giáo" là việc, khi vẫn là những người hữu thần,
các đại diện Phục hưng đã ít coi trọng phương diện lễ nghi và thờ cúng của sinh
hoạt tôn giáo, họ đặt trọng tâm vào phương diện bên trong, tinh thần. Để xem xét
các giá trị Thiên Chúa giáo họ sử dụng rộng rãi những tư tưởng đã có trong các
thuyết tôn giáo cổ đại;
+ Sự giải phóng khỏi thế lực của các quyền uy, có nghĩa là có một thái độ
khác đối với các tác giả và các học thuyết được triết học kinh viện thừa nhận. Các
nhà Phục hưng dũng cảm phê phán cả Aristốt mà triết học kinh viện coi là bất khả
xâm phạm;
+ Sự quan tâm đặc biệt tới quá khứ, tới thời cổ đại. Văn hóa HyLa cổ đại trở
thành đối tượng nghiên cứu, tôn thờ và bắt chước tỉ mỉ nhất;
+ Đặc biệt ưa thích nghệ thuật.
Những điểm đặc trưng nêu trên của văn hóa Phục hưng bắt đầu được biết tới
nhờ các nhà nghiên cứu thế kỷ XIX. Sẽ không phải là phóng đại nếu nói rằng các
nhà nghiên cứu lịch sử thế kỷ XIX, trước hết là nhà nghiên cứu nổi tiếng người
Đức, J. Burkhardt, đã phát hiện ra Phục hưng cho thời hiện đại sau khi vạch ra
hàng loạt điểm đặc trưng của hiện tượng tuyệt vời này. Nhưng khoa học thế kỷ
XIX cũng đã tuyệt đối hoá một cách sai lầm hàng loạt đặc điểm của thời Phục
hưng, không quan tâm thỏa đáng tới những đặc điểm khác.

Câu 3. Đặc điểm của tư tưởng triết học Ấn Độ


Triết học Ấn Độ cổ đại có năm đặc điểm cơ bản như sau:
1. Triết học ấn Độ cổ đại là một nền triết học xuất hiện từ rất sớm – khoảng
2.500 năm TCN. Kinh Veda được coi là tác phẩm triết học đầu tiên của triết học
Ấn Độ cổ đại. Bao gồm nhiều trường phái như: Samkhya; Vaisesika; Nyaya;
Mimansa; Vedanta; Yoga; Lokaya; Phật Giáo; Jaina
2. Triết học cổ đại Ấn Độ gắn liền với tôn giáo, vì vậy triết học khó tránh
khỏi những yếu tố duy tâm, hữu thần. Tính chất của nền triết học Ấn Độ mang
tính xuất thế. Chẳng hạn: Đạo Bàlamon, Kinh Upanisad, Vedanta đều cho
rawngfBrahman là nguyên nhân đầu tiên , là đấng tối cao sáng tạo ra vũ trụ, trong
đó có con người và vạn vật. Và thế giới vật chất theo họ là không có thức – hình
ảnh của nó chỉ là ảo ảnh và do vô minh tham gia. Còn các nhà duy vật thì cho
rằng thế giới vật chất trong đó có con người là do tứ đại vật chất sinh ra (đất,
nước, lửa, gió)....
3. Trong triết học Ấn Độ cổ đại những yếu tố duy vật, và duy tâm, vô thần
và hữu thần thường tồn tại đan xen vào nhau, khó nhận thấy. Ranh giới giữa
CNDV và CNDT còn mờ nhạt, không rạch ròi.
4. Triết học Ấn Độ cổ đại ít bàn đến những vấn đề thuộc về bản thể luận,
nhận thức luận và lôgic học, mà chủ yếu bàn đến những vấn đền thuộc về con
người, về thế giới tâm linh của con người. Số phận và cuôc đời con người là nỗi
niềm trăn trở của các nhà triết học Ấn Độ cổ đại, họ luôn mong muốn cho cuộc
sống của con người được thoát khỏi bể khổ trầm luân.
5. Trong triết học Ấn Độ cổ đại chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sơ khai
có giá trị như cho rằng thế giới vật chất là vĩnh hằng, nhưng không đứng yên, mà
biến chuyển không ngừng từ dạng này sang dạng khác (Samkhya), rằng tồn tại
vừa bất biến, lại vừa biến chuyển trong đó cái vĩnh hằng là vật chất, cái bất biến
là các dạng cụ thể của vật chất, ví như đất sét thì không thay đổi những những
dạng cụ thể làm từ đất sét (bình, lọ..) thì lại luôn thay đổi.
Câu 4. Phân tích nội dung nhân sinh quan Phật giáo
* Sự ra đời
Phật giáo là một tôn giáo xuất hiện ở cuối TK VI TCN ở miền Bắc Ấn Độ.
Phật giáo ra đời là một làn sóng phản đối mạnh mẽ sự ngự trị của đạo Bàlamôn
và chế độ phân biệt đẳng cấp rất nghiệt ngã ở Ấn Độ cổ đại, đòi tự do tư tưởng,
đòi bình đẳng xã hội, lý giải căn nguyên của nỗi khổ và tìm cách giải thoát con
người ra khỏi kiếp trầm luân bể khổ. Người sáng lập ra Phật giáo là Siddhartha
Gautama (563 – 483 TCN) hay Trung Quốc dịch ra Tất Đạt Đa.
Nhân sinh quan Phật giáo được thể hiện trong tứ diệu đế (4 chân lý huyền
diệu) gồm Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
Khổ đế: Phật giáo cho rằng đời người là bể khổ. Phật giáo đã tìm ra rất
nhiều nỗi khổ đau của con người trong đó có 8 cái khổ cơ bản: sinh, lão, bệnh, tử,
ái thụ biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ.
Tập đế (nhân đế): Phật giáo cho rằng nỗi khổ của con người là có nguyên
nhân và đã tìm ra 12 nguyên nhân gọi là thập nhị nhân duyên:. Vô minh; Hành;
Thức; Danh – sắc; Lục nhập; Xúc; Thụ; Ái; Thủ; Hữu; Sinh; Lão – tử. Đây là
chuỗi nguyên nhân và điều kiện sinh ra nỗi khổ. Ngoài ra nỗi khổ của con người
còn do nghiệp báo, luân hồi sinh ra.
Nghiệp (Karma): sự tạo tác (hoạt động, ý nghĩ) gây ra một luân hồi tương
ứng. Con người có 3 nghiệp: thân nghiệp (hành động), khẩu nghiệp (lời nói) và ý
nghiệp (suy nghĩ, tư tưởng).Vòng luân hồi gồm 6 kiếp: Địa ngục, ma đói, súc vật,
Atula, người, trời.
Diệt đế: Phật giáo cho rằng nỗi khổ của con người là có thể tiêu diệt được,
con người có thể đạt tới trạng thái Niết bàn (Nirvana) – là nơi hư vô, tuyệt diệt, là
nơi không mà có; là trạng thái chấm dứt vòng luân hồi và nghiệp.
Đạo đế: Đạo đế là con đường để tiêu diệt nỗi khổ, vươn tới Niết bàn.
Phật giáo nhấn mạnh sự hoàn thiện đạo đức cá nhân và đưa ra nhiều
phương pháp để hoàn thiện. Trong đó có 8 phương pháp cơ bản gọi là Bát chính
đạo: chính kiến (hiểu biết đúng đắn về tứ diệu đế) ; chính tư duy(suy nghĩ, đúng
đắn) ; chính ngữ (lời nói phải đúng đắn, chân thực); chính nghiệp (giữ cho nghiệp
không bị tác động xấu); chính mệnh (giữ ngăn dục vọng, phải biết tiết chế dục
vọng); chính tinh tiến (rèn luyện, tu tập không mệt mỏi, hăng hái tích cực tìm
kiếm và truyền bá chân lý nhà Phật); chính niệm (có niềm tin bền vững vào sự
giải thoát, thường xuyên thờ Phật, niệm Phật); chính định (tập trung tư tưởng cao
độ, duy nghĩ về tứ diệu đế, về vô thường, vô ngã).
Ngoài ra còn có con đường tam học: Học giới, học tuệ, học định.
Học giới: Những điều răn cần tránh đối với nữ có 348 điều, nam có 250
điều. Trong đó có 8 điều răn cơ bản gọi là Bát giới: không sát sinh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không xem ca nhạc, không
nằm giường sang, không ăn quá giờ ngọ.
Học tuệ: Nghe, nhìn, suy nghĩ sáng suốt để chống vô minh.
Học định: (Thiền định): Học trạng thái tu luyện, tập trung tinh thần (ngồi
chắp bằng, 2 tay để trước ngực).
Ngoài ra còn có 6 phương pháp bổ trợ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến,
thiền định, trí tuệ.
Tóm lại, Phật giáo là một tôn giáo đặc biệt, khác với các tôn giáo khác, nó
phủ nhận sự tồn tại của thần thánh, dạy con người ta tự cứu lấy mình, chứa đựng
nhiều yếu tố biện chứng. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn mang tính yếm thế.
Câu 4. Phân tích nội dung học thuyết Âm Dương – Ngũ Hành.
Tiền đề tư tưởng: Thuyết Âm dương – Ngũ hành
Đại biểu tiêu biểu của phái này là Trâu Diễn ở TK III TCN.
Người Trung Quốc cổ đại cho rằng khởi nguyên của thế giới là 2 yếu tố âm
và dương. Âm là bóng tối và tất cả những gì thuộc về bóng tối; Dương là ánh
sáng và tất cả những gì thuộc về ánh sáng. Âm – dương là 2 mặt đối lập nhưng lại
thống nhất với nhau, ràng buộc vào nhau, là cơ sở điều kiện tiền đề tồn tại của
nhau và của mọi sự vật đồng thời là nguyên nhân của mọi sự vật động và phát
triển.
Biểu hiện cụ thể của âm – dương là các mặt đối lập như: Mặt trời – mặt
trăng, sáng – tối, dài – ngắn, rộng – hẹp, nhanh – chậm, nóng – lạnh, quân tử –
tiểu nhân, nam – nữ, thông minh – ngu đần… Trong đó mặt một thuộc về dương,
mặt 2 thuộc về âm. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất của âm và
dương, trong dương có âm, trong âm có dương, âm – dương luôn luôn tương tác,
chuyển hoá lẫn nhau, không có gì là thuần âm hoặc thuần dương cả.
Có thể biểu thị mối quan hệ âm – dương bằng sau đồ sau

[
Phần sáng nhiều gọi là thái dương, phần sáng ít gọi là thiếu dương. Phần
tối nhiều gọi là thái âm, phần tối ít gọi là thiếu âm. Trong thái dương có thiếu âm
và trong thái âm có thiếu dương. Âm – dương xoay vần, đắp đổi không ngừng,
thiếu dương trong thái âm phát triển đến cùng thì có sự chuyển hoá âm thành
dương và ngược lại. Trong mối quan hệ âm – dương thì dương được coi là mặt
năng động, tích cực còn âm là mặt thụ động, tiêu cực. Nhưng không phải hoàn
toàn như vậy mà phải xem xét chúng trong những mục đích, điều kiện, địa điểm,
thời gian cụ thể để chỉ ra cái gì mang tính tích cực hay tiêu cực.
Người Trung Quốc cho rằng tốt nhất là đạt được sự cân bằng âm – dương,
mọi sự thái quá về âm hoặc về dương đều là không tốt.
Biểu hiện cụ thể hơn nữa của âm – dương là ngũ hành – 5 yếu tố vật chất
đầu tiên của vũ trụ: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Mỗi yếu tố có tính chất riêng biệt
chẳng hạn: thuỷ (nước) thì lạnh và luôn luôn chảy về chỗ thấp; hoả (lửa) thì nóng
và luôn luôn bốc lên cao; mộc (gỗ) có tính chất đàn hồi; kim (kim loại) thì có tính
chất phụ thuộc; thổ (đất) thì tiếp nhận hạt giống và làm mùa. 5 yếu tố này luôn
luôn vận động, biến đổi và chuyển hoá không ngừng. Cơ chế của sự chuyển hoá
là cái này thắng (khắc) cái kia gọi là quá trình tương khắc, cái này sinh cái kia gọi
là quá trình tương sinh.
Thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ rồi
lại thổ sinh kim.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ
rồi lại thổ khắc thuỷ. Đây là kết quả của quá trình quan sát trực quan và đúc kết
kinh nghiệm đời sống lâu dài của người Trung Quốc. VD: Thổ khắc thuỷ vì đất
thấm được nước và ngăn chặn dòng nước, thuỷ khắc hoả vì nước có thể dập tắt
lửa…
Quy luật tương sinh – tương khắc biểu thị bằng sơ đồ sau:
Những người theo thuyết Ngũ hành dùng 5 yếu tố này để giải thích nguồn
gốc, chủng loại của các hiện tượng tự nhiên.
Ngũ sắc: Vàng (do thổ sinh ra) – trắng (do kim) - đen (do thuỷ) – xanh (do
mộc) - đỏ (do hoả).
Ngũ vị: Ngọt (do thổ sinh ra) – cay (do kim) – mặn (do thuỷ) – chua (do
mộc) - đắng (do hoả).
Ngũ tạng: Tỳ vị (lá lách, dạ dày) – phế (phổi) – thận – can (gan) – tâm
(tim).
4 mùa: Xuân (do mộc sinh ra) – hạ (do hoả) – thu (do kim) - đông (do
thuỷ) - điều hoà 4 mùa (do thổ).
4 phương: Đông (do mộc sinh ra)– Tây (do kim)– Nam (do hoả)– Bắc (do
thuỷ) – ở giữa các phương (do thổ).
Tóm lại, thuyết âm - dương, ngũ hành đã giải thích nguồn gốc và sự vận hành của
thế giới trên lập trường duy vật, mặc dù đây chỉ là duy vật ngây thơ, chất phác,
giản đơn, mang tính chất máy móc nhưng nó có ý nghĩa thế giới quan quan trọng
chống lại quan điểm duy tâm tôn giáo và mục đích luận về tự nhiên. Nó là cơ sở
lý luận quan trọng cho những phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên như Thiên
văn, Lịch pháp, Y học…Tuy nhiên, khi vận dụng nó vào các vấn đề lịch sử xã hội
thì các nhà triết học đã làm mất đi tính duy vật, làm nghèo nàn đi tính biện chứng
ban đầu của nó
 Ý nghĩa học thuyết AD – NH trong chuyên ngành các bạn được đào tạo (tự
NC)

You might also like