You are on page 1of 76

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN 1


MÔN: LUẬT HÌNH SỰ (PHẦN CÁC TỘI PHẠM)
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Ánh Hồng

STT Họ và tên Lớp MSSV Ghi chú


1 Mạch Hồng Phương CLC45A 2053801011204 Nhóm trưởng
2 Trần Lâm Thanh Trúc CLC45A 2053801011306
3 Nguyễn Thu Minh Nguyệt CLC45A 2053801011347
4 Nguyễn Hoàng An CLC45A 2053801013004
5 Giang Kỳ Giao CLC45A 2053801013034
6 Lê Nhất Khang CLC45A 2053801014101
7 Lê Thu Phương CLC45A 2053801014215
8 Lê Châu Ngọc Lan CLC45A 2053801014327
9 Bùi Nguyễn Phương Anh CLC45A 2053801015002
10 Nguyễn Minh Như CLC45A 2053801015090

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 9 năm 2022


1

MỤC LỤC
PHẦN I. NHẬN ĐỊNH 5
1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra
hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự)...5
2. Động cơ đê hèn là dấu hiệu định tội của Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự)5
3. Mọi hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác đều cấu thành Tội giết người
theo Điều 123 Bộ luật Hình sự...........................................................................................5
4. “Giết phụ nữ mà biết là có thai” là trường hợp giết nhiều người..............................5
5. Tình tiết “giết nhiều người” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên....6
6. Sử dụng điện trái phép làm chết người là hành vi chỉ cấu thành Tội vô ý làm giết
người (Điều 128 Bộ luật Hình sự)......................................................................................6
7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 07 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con
mới đẻ (Điều 124 Bộ luật Hình sự)....................................................................................7
8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu
thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 Bộ luật
Hình sự)................................................................................................................................7
9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho
phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi thi
hành công vụ (Điều 127 Bộ luật Hình sự).........................................................................7
10. Không phải mọi hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp đều
cấu thành Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp (Điều 129 Bộ luật
Hình sự)................................................................................................................................8
11. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 Bộ luật Hình sự)
...............................................................................................................................................8
12. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của chính
họ thì cấu thành Tội bức tử (Điều 130 Bộ luật Hình sự).................................................8
13. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là hành
vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 Bộ luật Hình sự).............................9
14. Hành vi đối xử tàn ác đối với người bị lệ thuộc nếu không dẫn đến hậu quả nạn
nhân tự sát thì không cấu thành tội phạm........................................................................9
15. Dùng gạch đá tấn công trái phép người khác gây thương tích cho họ với tỷ lệ
thương tật dưới 11% thì cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 Bộ luật Hình
sự).......................................................................................................................................10
16. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỉ lệ thương tật dưới 11% thì
không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 Bộ luật Hình sự).......................10
17. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội cố ý gây
thương tích (Điều 134 Bộ luật Hình sự)..........................................................................10
1
2

18. Gây cố tật nhẹ được hiểu chỉ là trường hợp gây thương tích với tỷ lệ thương tật
dưới 11% nhưng đã làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân.................................11
19. Hành vi vô ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội vô ý gây
thương tích được quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự..............................................11
20. Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội hành hạ
người khác được quy định tại Điều 140 Bộ luật Hình sự..............................................11
21. Mọi hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn
của họ đều cấu thành Tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật Hình sự)..................................12
22. Mọi hành vi dùng thủ đoạn khiến trẻ em lệ thuộc mình phải miễn cưỡng giao cấu
đều cấu thành Tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 144 Bộ luật
Hình sự...............................................................................................................................12
23. Mọi hành vi giao cấu thuận tình với trẻ em đều cấu thành Tội giao cấu với người
dưới 16 tuổi (Điều 145 Bộ luật Hình sự).........................................................................12
24. Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân
.............................................................................................................................................13
25. Mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác
đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 Bộ luật Hình sự).........13
26. Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật
Hình sự)..............................................................................................................................13
27. Hành vi bắt cóc trẻ em làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì cấu thành Tội
chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 Bộ luật Hình sự........................14
28. Mọi trường hợp bán con đẻ dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội mua bán người dưới
16 tuổi theo Điều 151 Bộ luật Hình sự.............................................................................14
29. Mọi hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt đều cấu thành Tội
vu khống (Điều 156 Bộ luật Hình sự)..............................................................................15
30. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ là hành vi của người không
có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người.........................................15
31. Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là không chỉ là dấu hiệu định tội được
quy định trong cấu thành Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 Bộ
luật Hình sự)......................................................................................................................16
32. Hành vi cưỡng bức, buộc người lao động đang làm việc ở các cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, các doanh nghiệp phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm
trọng thì cấu thành Tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp
luật (Điều 162 Bộ luật Hình sự).......................................................................................16
33. Đối tượng tác động của Tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái
pháp luật (Điều 162 Bộ luật Hình sự) chỉ là cán bộ, công chức, người lao động của
các cơ quan Nhà nước.......................................................................................................17
2
3

34. Chủ thể của Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 Bộ luật Hình sự)
phải là người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo...........................17
35. Hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi khách quan của Tội xâm phạm
quyền khiếu nại tố cáo (Điều 166 Bộ luật Hình sự)........................................................18
36. Mọi hành vi cưỡng ép kết hôn đều cấu thành Tội cưỡng ép kết hôn được quy định
tại Điều 181 Bộ luật Hình sự............................................................................................18
37. Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều cấu thành
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 Bộ luật Hình sự).............................19
38. Chỉ giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ mới cấu thành Tội loạn luân
được quy định tại Điều 184 Bộ luật Hình sự..................................................................19
39. Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi chỉ quy
định trong cấu thành Tội loạn luân được quy định tại Điều 184 Bộ luật Hình sự......20
40. Mọi hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi
dưỡng mình đều cấu thành Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người
có công nuôi dưỡng mình (Điều 185 Bộ luật Hình sự)...................................................20
PHẦN II. BÀI TẬP 21
I. Xác định tội danh đối với hành vi:...............................................................................21
a) Giết người trong khi thi hành công vụ với thái độ hống hách, coi thường tính mạng
của người khác;...............................................................................................................21
b) Sử dụng điện trái phép làm chết người: Tội giết người (Điều 123), Tội vô ý làm
chết người (Điều 128);....................................................................................................21
c) Đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình;.....................................................................21
d) Dùng vũ lực chống người thi hành công vụ làm nạn nhân chết;...........................21
e) Giao cấu với trẻ em: Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145);.................21
f) Vứt đồ đạc của người thuê nhà ra ngoài đường và không cho phép họ tiếp tục ở
trong căn nhà mà người thực hiện hành vi là chủ sở hữu: Tội xâm phạm chỗ ở của người
khác (Điều 158);..............................................................................................................21
g) Mua bán người: Tội mua bán người (Điều 150), Tội mua bán người dưới 16 tuổi
(Điều 151);......................................................................................................................21
h) Đồng tình thực hiện quan hệ giao cấu với anh chị em nuôi, bố mẹ nuôi và con
nuôi: Tội loạn luân (Điều 184);.......................................................................................21
i) Giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ: Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi
(Điều 142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi (Điều 145), Tội loạn luân (Điều 184).......................................................................21
II. Giải quyết tình huống..................................................................................................21
Bài tập 1...........................................................................................................................21
Bài tập 2...........................................................................................................................22

3
4

Bài tập 3...........................................................................................................................23


Bài tập 4...........................................................................................................................24
Bài tập 5...........................................................................................................................25
Bài tập 6...........................................................................................................................27
Bài tập 7...........................................................................................................................28
Bài tập 8...........................................................................................................................29
Bài tập 9...........................................................................................................................31
Bài tập 10.........................................................................................................................32
Bài tập 11.........................................................................................................................33
Bài tập 12.........................................................................................................................34
Bài tập 13.........................................................................................................................35
Bài tập 14.........................................................................................................................36
Bài tập 15.........................................................................................................................38
Bài tập 16.........................................................................................................................39
Bài tập 17.........................................................................................................................40
Bài tập 18.........................................................................................................................41
Bài tập 19.........................................................................................................................43
Bài tập 20.........................................................................................................................44
Bài tập 21.........................................................................................................................45
Bài tập 22.........................................................................................................................46
Bài tập 23.........................................................................................................................47
Bài tập 24.........................................................................................................................50
Bài tập 25.........................................................................................................................51
Bài tập 26.........................................................................................................................52
Bài tập 27.........................................................................................................................54
Bài tập 28.........................................................................................................................56
Bài tập 29.........................................................................................................................56
Bài tập 30.........................................................................................................................58
Bài tập 31.........................................................................................................................60
Bài tập 32.........................................................................................................................61
Bài tập 33.........................................................................................................................62
Bài tập 34.........................................................................................................................64
Bài tập 35.........................................................................................................................66
Bài tập 36.........................................................................................................................68
Bài tập 37.........................................................................................................................70

4
5

PHẦN I. NHẬN ĐỊNH


1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây
ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.
Theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) (Bộ luật Hình sự), giết
người là hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật. Đây là tội phạm
có cấu thành vật chất, tuy nhiên dấu hiệu hậu quả chỉ nhằm xác định tội phạm trong trường
hợp người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp. Đối với trường hợp lỗi cố ý gián tiếp, hậu quả chỉ là
dấu hiệu xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Khi đó, hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính
mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết người có thể cấu thành tội giết
người.
=> Đã có lỗi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác thì khi đó là cấu thành vật chất,
không cần hậu quả xảy ra vẫn định được tội giết người. (nếu là giết người chung chung thì
ko thể định tội danh giết người khi hậu quả chưa xảy ra)
2. Động cơ đê hèn là dấu hiệu định tội của Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình
sự)
Nhận định sai.
Căn cứ Điều 123 Bộ luật Hình sự, dấu hiệu định tội của tội giết người nằm ở mặt
khách quan (hành vi có khả năng gây chết người và hậu quả chết người) và mặt chủ quan
của hành vi phạm tội (có ý muốn giết người). Do đó, động cơ đê hèn không phải là dấu hiệu
định tội, mà là tình tiết định khung tăng nặng của tội giết người được quy định tại điểm q
khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Key: Tội này cấu thành cơ bản được quy định ở đâu? => Đối với Tội giết người quy
định tại Điều 123 thì CT cơ bản được quy định ở khoản 2, còn khoản 1 quy định các tình tiết
định khung tăng nặng. Do đó, giết người vì động cơ đê hèn thì tình tiết động cơ đê hèn làm
tăng lên tính nguy hiểm của hành vi chứ động cơ đê hèn không phải là tình tiết quyết định có
phạm tội hay ko.
3. Mọi hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác đều cấu thành Tội giết
người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự
Nhận định sai.

5
6

Bởi lẽ, không phải mọi hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác đều cấu thành
tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự. Theo Điều 123 Bộ luật Hình sự, giết người là
hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật, nghĩa rằng hành vi tước
đoạt tính mạng của người khác phải thoả mãn hai yếu tố “cố ý” và “trái pháp luật” mới cấu
thành tội giết. Vì vậy, những hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác nằm trong sự
cho phép của pháp luật sẽ không cấu thành tội giết người. Ví dụ: thi hành án tử hình, làm
chết người trong giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong những tình thế cấp thiết.
- Cố ý tước đoạt tính mạng người khác nhưng hợp pháp (above)
- Trong trương hợp cố ý tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật có kèm với
các dấu hiệu đặc biệt khác thì có thể cấu thành các tội ở Đ124, Đ125, Đ126,…
4. “Giết phụ nữ mà biết là có thai” là trường hợp giết nhiều người
Nhận định sai.
Bởi lẽ, đối tượng tác động của tội phạm liên quan đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người, cụ thể là tội giết người; phải là con người đang sống. Theo quan
điểm của pháp luật hình sự Việt Nam, thời điểm bắt đầu sự sống của con người là thời điểm
họ được sinh ra và tồn tại độc lập với người mẹ (đứa trẻ nằm trong bụng mẹ vẫn phụ thuộc
và gắn bó với người mẹ như một thể thống nhất). Vì thế, hành vi giết phụ nữ có thai chỉ có
đối tượng tác động là tính mạng của chính người phụ nữ mang thai, tức không thuộc trường
hợp giết 02 người trở lên.
Cơ sở lý luận: khi nào bào thai được coi là một cá thể độc lập? Khi nó sinh ra và tồn
tại độc lập với cơ thể người mẹ. Do đó BLHS quy định riêng trường hợp giết nhiều người
với giết phụ nữ mà biết là có thai.
Cơ sở pháp lý: điểm a và c khoản 1 Điều 123
5. Tình tiết “giết nhiều người” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở
lên
Nhận định sai.
Tình tiết định khung tăng nặng “giết 02 người trở lên” không đòi hỏi phải có hậu quả
hai người chết trở lên. Bởi lẽ, người phạm tội trong trường hợp này chỉ cần có ý thức chủ
quan mong muốn giết từ 02 người trở lên, không cần hậu quả xảy ra (ví dụ: không có người
chết, một người chết một người sống) là đã thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1
Điều 123 Bộ luật Hình sự.
6
7

6. Sử dụng điện trái phép làm chết người là hành vi chỉ cấu thành Tội vô ý làm
giết người (Điều 128 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.
Bởi lẽ, sử dụng điện trái phép làm chết người là hành vi có thể cấu thành tội khác
ngoài tội vô ý làm chết người. Theo Mục 12 Phần I Công văn số 81/2002/TANDTC ngày
10/6/2002 của TANDTC, hành vi sử dụng điện trái phép làm chết người sẽ cấu thành các
tội danh khác nhau trong từng trường hợp cụ thể như sau: “Đối với trường hợp sử dụng điện
trái phép để chống trộm cắp mà làm chết người thì người phạm tội phải bị xét xử về tội giết
người; Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép để diệt chuột, chống súc vật phá hoại
mùa màng thì cần phân biệt như sau: Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi có nhiều
người qua lại (cho dù có làm biển báo hiệu), biết việc mắc điện trong trường hợp này là
nguy hiểm đến tính mạng con người, nhưng cứ mắc hoặc có thái độ bỏ mặc cho hậu quả xảy
ra và thực tế có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử về tội giết người; Nếu
người sử dụng điện mắc điện ở nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh gác cẩn
thận, có biển báo nhưng hậu quả có người bị điện giật chết thì người phạm tội bị xét xử về
tội vô ý làm chết người”.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp nào hành vi sử dụng điện trái phép mà
gây ra cái chết cho người khác cũng là hành vi cấu thành Tội vô ý làm chết người.
→ Sử dụng điện trái phép hướng đến con người là xử tội giết người (kể cả sử dụng
điện để chống trộm vì vẫn là hướng đến con người), chỉ khi sử dụng điện với mục đích
hướng đến mùa màng thì mới chia trường hợp (phải nêu rõ 4 trường hợp): dùng điện để
giết người, chống trộm: giết người; bảo vệ mùa màng: tuỳ theo qđ như công văn 81.
/7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 07 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết
con mới đẻ (Điều 124 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.
Căn cứ khoản 1 Điều 124 Bộ luật Hình sự, để cấu thành tội giết con mới đẻ, chủ thể
của loại tội phạm này phải là chủ thể đặc biệt là người mẹ (do ảnh hưởng nặng nề của tư
tưởng lạc hậu, hoặc trong hoàn cảnh khác khách quan đặc biệt mà có hành vi giết con do
mình đẻ ra trong vòng 07 ngày tuổi). Vì vậy, nếu là chủ thể thường thực hiện hành vi giết trẻ
sinh ra trong vòng 07 ngày tuổi thì không cấu thành Tội giết con mới đẻ quy định tại Điều
124 Bộ luật Hình sự, mà cấu thành Tội giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự.

7
8

Dấu hiệu định tội bao gồm: (trả lời 4 ý sau mới đủ điểm)
+ Đối tượng tác động
+ Hành vi khách quan
+ Hoàn cảnh khách quan
+ Chủ thể phạm tội

8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều
cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 Bộ
luật Hình sự)
Nhận định sai.
Không phải mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Bởi lẽ, theo Điều
125 Bộ luật Hình sự, dấu hiệu định tội của Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh gồm ba dấu hiệu: “phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (là
trạng thái tâm lý mà người phạm tội gần như mất khả năng tự chủ, tự kiểm soát đối với hành
vi của mình), “do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội
hoặc đối với người thân thích của người phạm tội”, “nạn nhân bị tử vong”. Vì vậy, để hành
vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cấu thành tội này, hành vi đó phải
thỏa mãn đủ ba dấu hiệu.
- Dấu hiệu định tội của Điều 125
- Trường hợp nếu có thêm yếu tố “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” thì phải định tội
ở Điều 126, áp dụng tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 BLHS 2015. => Phải định tội theo
Đ126 vì hình phạt nhẹ hơn nên phải ưu tiên định tội theo Điều 126, đồng thời áp dụng tình
tiết giảm nhẹ ở Điều 51 với tình tiết ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật
cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi thi
hành công vụ (Điều 127 Bộ luật Hình sự)
Nhận định này sai.
Để xác định tội danh của một người có cấu thành Tội làm chết người trong khi thi
thành công vụ (Điều 127 Bộ luật Hình sự) thì cần xem xét các điều kiện như: chủ thể phải là
người thi hành công vụ, có hành vi dùng vũ lực ngoài trường hợp pháp luật cho phép dẫn
8
9

đến hậu quả chết người do lỗi cố ý gián tiếp khi đang thi hành công vụ và có động cơ thi
hành công vụ. Nếu trong trường hợp người đang thi hành công vụ có hành vi làm chết người
do lỗi vô ý hoặc với động cơ lưu manh, đê hèn hoặc coi thường sức khỏe, tính mạng, v.v…
thì không cấu thành Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 Bộ luật Hình
sự) mà có thể rơi vào các trường hợp quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Vấn đề pháp lý: Để định tội theo Điều 127 cần những yếu tố gì? Dấu hiệu định tội
Điều 127 quy định là gì, nếu hành vi thực tế đáp ứng dấu hiệu định tội thì ok. Hành vi khách
quan: dùng vũ lực ngoài trường hợp pháp luật cho phép. Chủ thể là người thi hành công vụ.
Khi thoả mãn 2 dấu hiệu này thì chỉ áp dụng Điều 127 khi động cơ là để thi hành công vụ
(nếu hống hách, tư thù thì không định Điều 127). Ngoài ra còn yêu cầu lỗi phải là lỗi cố ý
gián tiếp và lỗi vô ý (cố ý trực tiếp không thỏa mãn động cơ công vụ, không định Điều 127
mà định tội ở Điều 123 vì cố ý trực tiếp là coi thường tính mạng người khác, thực hiện hành
vi với mong muốn tước đoạt trái phép tính mạng người khác).
10. Không phải mọi hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
đều cấu thành Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp (Điều 129 Bộ
luật Hình sự)
Nhận định này đúng.
Căn cứ Điều 129 Bộ luật Hình sự về Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp thì dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này về chủ thể phải là người từ đủ 16 tuổi
trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Và hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính chung (không được quy định ở các điều luật riêng khác) và vô ý gây nên hậu
quả chết người. Như vậy, dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này là phải có hậu quả
chết người.
Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực nghề nghiệp, hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp
làm chết người là hành vi khách quan của một số tội phạm khác như các Tội xâm phạm an
toàn công cộng trong lao động sản xuất (Điều 295 Bộ luật Hình sự); trong lĩnh vực y tế
(Điều 315 Bộ luật Hình sự), … mà không phải chỉ là Tội vô ý làm chết người do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp (Điều 129 Bộ luật Hình sự).
11. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 Bộ luật Hình
sự)
Nhận định này sai.

9
10

Theo khoản 1 Điều 130 Bộ luật Hình sự quy định về Tội bức tử: “1. Người nào đối
xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người
đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Tội phạm này có cấu thành vật chất, khoản 1 Điều 130 quy định hành vi phạm tội
dẫn đến hậu quả là người đó tự sát. Lúc này chỉ cần người đó có hành vi “đối xử tàn ác,
thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình” và dẫn đến hành vi tự
sát của người lệ thuộc họ thì đã có đủ dấu hiệu bắt buộc để xác định người đó phạm Tội bức
tử. Vậy dấu hiệu định tội của Tội bức tử là nạn nhân tự sát chứ không cần biết nạn nhân có
chết hay không.
12. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của
chính họ thì cấu thành Tội bức tử (Điều 130 Bộ luật Hình sự)
Nhận định này sai.
Theo khoản 1 Điều 130 Bộ luật Hình sự quy định về Tội bức tử: “1. Người nào đối
xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người
đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Chỉ có hành vi “đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người
lệ thuộc mình làm người đó tự sát” thì mới cấu thành nên Tội bức tử. Hành vi kích động, dụ
dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của chính họ thì cấu thành nên Tội xúi giục
hoặc giúp người khác tự sát (Điều 131 Bộ luật Hình sự).
13. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là
hành vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 Bộ luật Hình sự)
Nhận định này sai.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 131 Bộ luật Hình sự, chỉ có những hành vi khách
quan như kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ hoặc tạo điều
kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ thì mới cấu thành
Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu
cầu của người bị hại sẽ không cấu thành Tội giúp người khác tự sát theo Điều 131 Bộ luật
Hình sự.
14. Hành vi đối xử tàn ác đối với người bị lệ thuộc nếu không dẫn đến hậu quả
nạn nhân tự sát thì không cấu thành tội phạm
Nhận định này sai.
10
11

Theo quy định tại khoản 1 Điều 130 Bộ luật Hình sự Tội bức tử: “1. Người nào đối
xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người
đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Dấu hiệu định tội của Tội bức tử là nạn nhân phải có hành vi tự sát sau khi bị đối xử
tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục. Vậy hành vi đối xử tàn ác đối với
người bị lệ thuộc nếu không dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát thì không cấu thành Tội bức tử.
Song nếu xét dựa trên Điều 140 và Điều 185 Bộ luật Hình sự thì người có hành vi đối xử tàn
ác đối với người bị lệ thuộc nhưng không dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát thì vẫn có thể cấu
thành Tội hành hạ người khác hoặc Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình.
(Bổ sung thêm trường hợp quân nhân làm hại người cấp trên của mình)
15. Dùng gạch đá tấn công trái phép người khác gây thương tích cho họ với tỷ lệ
thương tật dưới 11% thì cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 Bộ luật Hình sự)
Nhận định này đúng.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự: “1. Người nào cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên”.
Và theo hướng dẫn tại Tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12 tháng 5 năm 2006 của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì vũ khí nguy hiểm là vật có
sẵn trong tự nhiên bao gồm: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt, …
Vậy nếu dùng gạch đá tấn công trái phép người khác gây thương tích cho họ với tỷ lệ
thương tật dưới 11% thì vẫn cấu thành Tội cố ý gây thương tích.
16. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỉ lệ thương tật dưới 11%
thì không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 Bộ luật Hình sự)
Nhận định này sai.
Theo quy định khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự: “1. Người nào cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến
30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.
11
12

Khi có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỉ lệ thương tật dưới 11% thì
vẫn có khả năng cấu thành Tội cố ý gây thương tích nếu thuộc một trong các trường hợp tại
khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
(Bổ sung thêm tất cả cái khoản tại Điều 134: từ điểm nào đến điểm nào)
17. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội cố ý
gây thương tích (Điều 134 Bộ luật Hình sự)
Nhận định đúng.
Theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác
là dấu hiệu pháp lý để cấu thành Tội cố ý gây thương tích. Tuy nhiên, nếu hành vi này đi
kèm với các dấu hiệu đặc biệt khác thì còn có thể cấu thành các tội khác được quy định trong
Bộ luật Hình sự. Ví dụ, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được thực hiện trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì sẽ cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, quy định
tại Điều 135 Bộ luật Hình sự.
(Giống với câu 3. Chỉ tạm chấp nhận trong phạm vi chương này. Lần sau giải thích
thêm về các điều kiện khác [chủ/khách thể, mặt khách quan/chủ quan])
18. Gây cố tật nhẹ được hiểu chỉ là trường hợp gây thương tích với tỷ lệ thương
tật dưới 11% nhưng đã làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân
Nhận định sai.
Theo hướng dẫn tại khoản 1 mục I Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP, “Gây cố tật nhẹ
cho nạn nhân” là hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của nạn nhân để lại trạng thái bất thường, không thể chữa được cho một bộ phận cơ thể của
nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11% khi thuộc một trong các trường hợp: làm mất một bộ
phận cơ thể của nạn nhân; làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm
chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm
mỹ của nạn nhân.
Như vậy, gây cố tật nhẹ ngoài được hiểu là trường hợp gây thương tích với tỷ lệ
thương tật dưới 11% nhưng đã làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân thì còn các trường
hợp khác là làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt
động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân.

12
13

19. Hành vi vô ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội vô ý
gây thương tích được quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự
Nhận định đúng.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, hành vi vô ý gây thương
tích cho người khác có thể cấu thành nên Tội vô ý gây thương tích. Ngoài ra, hành vi này
nếu đi kèm các dấu hiệu đặc biệt thì còn có thể cấu thành tội khác như Tội vô ý gây thương
tích do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139 Bộ luật Hình sự),
hoặc các tội phạm thuộc các chương khác.
20. Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội
hành hạ người khác được quy định tại Điều 140 Bộ luật Hình sự
Nhận định sai.
Không phải trong mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu
thành Tội hành hạ người khác. Bởi lẽ, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật
Hình sự, ngoài các trường hợp hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình được quy định
tại Điều 140, loại hành vi này cũng được quy định tại các Điều 185 Bộ luật Hình sự với nạn
nhân của việc đối xử tàn ác là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi
dưỡng chủ thể của tội phạm.
Không ra thi. Cách làm giống câu số 14. Bổ sung trường hợp ở Điều 397.
21. Mọi hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn
của họ đều cấu thành Tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.
Không phải mọi hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý
muốn của họ đều cấu thành Tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật Hình sự), mà cũng có thể cấu
thành tội khác. Bởi vì, hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân mà có độ tuổi
dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ sẽ cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự.

13
14

22. Mọi hành vi dùng thủ đoạn khiến trẻ em lệ thuộc mình phải miễn cưỡng giao
cấu đều cấu thành Tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 144 Bộ
luật Hình sự
Nhận định sai.
Không phải mọi hành vi dùng thủ đoạn khiến người dưới 16 tuổi lệ thuộc mình phải
miễn cưỡng giao cấu đều cấu thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
theo quy định tại Điều 144 Bộ luật Hình sự. Bởi vì, căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ
luật Hình sự, nếu dùng thủ đoạn khiến trẻ em lệ thuộc mình phải miễn cưỡng giao cấu và đối
tượng giao cấu là người dưới 13 tuổi thì khi đó sẽ cấu thành tội Hiếp dâm người dưới 16
tuổi.
23. Mọi hành vi giao cấu thuận tình với trẻ em đều cấu thành Tội giao cấu với
người dưới 16 tuổi (Điều 145 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.
Không phải mọi hành vi giao cấu thuận tình với trẻ em đều cấu thành Tội giao cấu
với người dưới 16 tuổi (Điều 145 Bộ luật Hình sự). Bởi trong trường hợp giao cấu với người
dưới 13 tuổi, dù thuận tình hay không thì đều sẽ cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự.
24. Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của nạn
nhân
Nhận định sai.
Không phải mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của
nạn nhân. Ví dụ như, nếu hành vi giao cấu giữa người đủ 18 tuổi với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi là thuận tình, theo ý muốn của nạn nhân và chủ thể thực hiện tội phạm nhưng
đây vẫn là hành vi trái pháp luật và cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự);
nếu có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi
cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự).
25. Mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người
khác đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.

14
15

Căn cứ theo khoản 1 Điều 148 Bộ luật Hình sự quy định người nào biết mình bị
nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm, trừ
trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình
dục. Do đó, không phải mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh
cho người khác đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác mà sẽ không cấu thành tội
phạm trong trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự
nguyện quan hệ tình dục.
Biết mình bị HIV nhưng lây truyền cho người dưới 13 tuổi qua con đường giao cấu
=> điểm b khoản 1 Điều 142.
Biết mình bị HIV nhưng lây truyền cho người trên 13 tuổi đến dưới 16 tuổi qua con
đường giao cấu => Điều 145.
 Trong 2 trường hợp này, tình tiết lây nhiễm HIV sẽ là tình tiết tăng nặng.
26. Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 Bộ
luật Hình sự)
Nhận định sai.
Để cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật Hình sự) thì phải thoả mãn được
dấu hiệu sau:
Có hành vi mua bán người để thu lợi bất chính. Hành vi này thể hiện dưới hình thức
dùng tiền, tài sản hoặc các phương tiện thanh toán khác để đổi lấy người (nhằm đem bán)
hoặc ngược lại để thu lợi. Người bị hại phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên không phụ thuộc
vào giới tính. Trường hợp người bị hại dưới 16 tuổi thì cấu thành tội mua bán người dưới 16
tuổi. (Điều 151 Bộ luật Hình sự)
Đối với Tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật Hình sự) thì người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. (CSPL: khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình
sự).
Do đó, không phải mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người
(Điều 150 Bộ luật Hình sự). Tuỳ thuộc vào mức tuổi của người bị mua bán là từ đủ 16 tuổi
trở lên hoặc dưới 16 tuổi mà định tội danh khác nhau. Nếu hành vi mua bán người mà nạn
nhân từ 16 tuổi trở lên thì cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật Hình sự). Nếu
hành vi mua bán người mà nạn nhân dưới 16 tuổi thì cấu thành Tội mua bán người dưới 16
tuổi (Điều 151 Bộ luật Hình sự).

15
16

27. Hành vi bắt cóc trẻ em làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì cấu thành
Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 Bộ luật Hình sự
Nhận định sai.
Theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự, để cấu thành Tội chiếm đoạt người dưới 16
tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự) thì người thực hiện hành vi bắt cóc phải có mục đích nhằm
chiếm giữ nạn nhân. Còn trong trường hợp này, hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con
tin có mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 Bộ luật Hình sự) chứ không phải Tội
chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự).
28. Mọi trường hợp bán con đẻ dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội mua bán người
dưới 16 tuổi theo Điều 151 Bộ luật Hình sự
Nhận định sai.
Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự: “a) Chuyển giao hoặc tiếp
nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp
vì mục đích nhân đạo”. Căn cứ theo Điều 3 Chương 4 NQ 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày
29/11/1986 (Điều 2 khoản 2 NQ 02/2019/NQ-HĐTP) thì trường hợp bố mẹ vì đông con hoặc
vì khó khăn đặc biệt mà phải bán con mình (dưới hình thức cho làm con nuôi và nhận một số
tiền giúp đỡ) cũng như trường hợp vì hiếm con mà mua của chính người có con đem bán để
về nuôi thì không coi là phạm tội (có thể hiểu là “mục đích nhân đạo”). Vì vậy, đối với
trường hợp vì mục đích nhân đạo thì sẽ không cấu thành Tội mua bán người dưới 16 tuổi
(Điều 151 Bộ luật Hình sự). Do đó, không phải mọi trường hợp bán con đẻ dưới 16 tuổi đều
cấu thành Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 Bộ luật Hình sự).
Đối với hành vi mua bán người có hậu quả là chết người thì hậu quả chết người là
tình tiết tăng nặng định khung, quy định tại điểm d khoản 3 Điều 150 BLHS.
29. Mọi hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt đều cấu thành
Tội vu khống (Điều 156 Bộ luật Hình sự)
Nhận định này sai.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật Hình sự thì hành vi bịa đặt, loan truyền những
điều biết rõ là bịa đặt, sai sự thật nhằm xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (mặt khách quan của tội vu khống) sẽ cấu thành
Tội vu khống (Điều 156 Bộ luật Hình sự). Nếu hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết

16
17

rõ là bịa đặt mà không nhằm mục đích xúc phạm nhân phẩm, danh dự hoặc không gây thiệt
hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì không cấu thành Tội vu khống (Điều 156
Bộ luật Hình sự). Do đó, không phải mọi hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là
bịa đặt đều cấu thành Tội vu khống (Điều 156 Bộ luật Hình sự) mà phải xem xét đến hậu
quả của hành vi đó có thoả mãn các dấu hiệu về mặt khách quan của Tội vu khống hay
không.
30. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ là hành vi của người
không có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người
Nhận định sai.
Hành vi bắt giữ, hoặc giam người trái pháp luật không chỉ là hành vi của người không
có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ, giam người mà còn là hành vi của chủ thể có thẩm
quyền, có chức vụ quyền hạn. Điều 157 Bộ luật Hình sự quy định Tội bắt, giữ, giam người
trái pháp luật là: “người nào bắt, giữ hoặc giam người…” thì dấu hiệu trái pháp luật được thể
hiện qua các đặc điểm sau:
+ Người không có thẩm quyền nhưng lại thực hiện việc bắt, giữ, giam người khác.
+ Người có thẩm quyền trong việc bắt, giữ hoặc giam người nhưng thực hiện việc bắt,
giữ, giam người không đúng quy định của pháp luật như: Không có lệnh bắt, hoặc khi có
lệnh bắt nhưng lại không lập biên bản theo đúng quy định không có người chứng kiến, tạm
giam quá thời hạn hoặc bắt sai đối tượng…
Ngoài ra Điều 377 Bộ luật Hình sự cũng có quy định cụ thể về hành vi bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn là Tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật.
Do đó, hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật không chỉ là hành vi của người
không có thẩm quyền mà còn là hành vi của người có thẩm quyền, có chức vụ, quyền hạn
mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (chủ thể thực hiện hành vi này
phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự).
31. Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là không chỉ là dấu hiệu định tội
được quy định trong cấu thành Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157
Bộ luật Hình sự)
Nhận định này đúng sai.

17
18

Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật không chỉ là dấu hiệu định tội được
quy định trong cấu thành Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 Bộ luật Hình
sự) mà còn là dấu hiệu định tội của các tội danh tại Điều 153 - Tội chiếm đoạt người dưới 16
tuổi, Điều 169 - Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (hành vi bắt cóc cũng có thể hiểu là bắt,
giữ hoặc giam người trái pháp luật), Điều 377 - Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật.
32. Hành vi cưỡng bức, buộc người lao động đang làm việc ở các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu quả
nghiêm trọng thì cấu thành Tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái
pháp luật (Điều 162 Bộ luật Hình sự)
Nhận định này sai.
Hành vi buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật chỉ bị coi là
tội phạm nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Trong trường hợp chưa gây hậu quả nghiêm trọng
thì chỉ bị xử lý bằng các biện pháp khác. Hậu quả nghiêm trọng được hiểu là gây ra những
thiệt hại về vật chất, tinh thần cho người bị buộc thôi việc như là dẫn đến tự sát, bản thân và
gia đình bị thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế vì không còn nguồn thu nhập khác hoặc là ảnh
hưởng xấu về mặt xã hội như dẫn đến khiếu kiện đông người, đình công gây trì trệ trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, gây mất trật tự công cộng,… Tuy nhiên, phải xét về mặt chủ
quan của tội phạm, hành vi cưỡng bức, buộc người lao động đang làm việc ở các cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu quả
nghiêm trọng và hành vi này phải là cố ý thực hiện (động cơ phạm tội phải vì động cơ vụ lợi
như vì tiền hoặc vì lợi ích vật chất khác hoặc động cơ cá nhân khác như tư thù, vì nể nang
người khác, để làm vừa lòng cấp trên, …) thì mới đủ yếu tố để cấu thành tội danh quy định
tại Điều 162 Bộ luật Hình sự.
33. Đối tượng tác động của Tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc
trái pháp luật (Điều 162 Bộ luật Hình sự) chỉ là cán bộ, công chức, người lao động của
các cơ quan Nhà nước
Nhận định sai.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể, bị hành vi phạm tội
tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đối với khách thể bảo vệ của luật hình
sự. Đối tượng tác động của Tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp
luật (Điều 162 Bộ luật Hình sự) không chỉ là cán bộ, công chức, người lao động của cơ quan

18
19

Nhà nước mà còn là người lao động của tổ chức xã hội, doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Điều 162 Bộ luật Hình sự không giới hạn cán bộ, công chức, người lao
động chỉ của cơ quan Nhà nước thì hành vi buộc họ thôi việc trái pháp luật mới là tội phạm.
Do đó đối tượng tác động của Tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái
pháp luật (Điều 162 Bộ luật Hình sự) không chỉ là cán bộ, công chức, người lao động của
các cơ quan Nhà nước.
34. Chủ thể của Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 Bộ luật Hình
sự) phải là người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
Nhận định sai.
Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo tại Điều 166 Bộ luật Hình sự có hai loại chủ
thể:
- Đối với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác cản trở việc
khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại,
tố cáo (điểm a khoản 1 Điều 166 Bộ luật Hình sự), chủ thể là chủ thể thường thoả mãn các
dấu hiệu của chủ thể của tội phạm, là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự.
- Đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ
quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố
cáo (điểm b khoản 1 Điều 166 Bộ luật Hình sự), chủ thể là chủ thể đặc biệt: ngoài phải thoả
mãn các dấu hiệu của chủ thể thường còn phải thoả mãn dấu hiệu là người có trách nhiệm thi
hành quyết định xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan có thẩm quyền, tức là chủ
thể phải có một chức vụ nhất định, có quyền hạn trong việc xét giải quyết khiếu nại tố cáo.
Bởi vì là người có trách nhiệm thi hành quyết định xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo
của cơ quan có thẩm quyền nên mới có thể có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình
để cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố
cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.
Do đó chủ thể của tội ở Điều 166 Bộ luật Hình sự không chỉ là chủ thể có thẩm quyền
trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo mà còn là chủ thể thường không có thẩm quyền trong
việc giải quyết khiếu nại tố cáo (có thể là người tố cáo, người khiếu nại).

19
20

35. Hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi khách quan của Tội xâm
phạm quyền khiếu nại tố cáo (Điều 166 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.
Hành vi khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế
giới khách quan mà mặt thực tế của nó được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển. Theo
khoản 1 Điều 166, Tội xâm phạm quyền khiếu nại tố cáo được thực hiện với một trong hai
hành vi khách quan:
“a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo,
việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm
quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo”.
Như vậy, hành vi khách quan của tội phạm này hướng đến cản trở việc khiếu nại tố
cáo hoặc cản trở việc thi hành quyết định khiếu nại tố cáo chứ không bao hàm hành vi trả
thù người khiếu nại, tố cáo. Hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi được quy định
tại khoản 2 Điều 166 Bộ luật Hình sự, là tình tiết định khung tăng nặng thuộc cấu thành định
khung tăng nặng. Người phạm tội có hành vi này phải chịu hình phạt nặng hơn so với hình
phạt quy định cấu thành cơ bản quy định ở khoản 1 (02 – 07 năm so với 06 tháng – 03 năm).
36. Mọi hành vi cưỡng ép kết hôn đều cấu thành Tội cưỡng ép kết hôn được quy
định tại Điều 181 Bộ luật Hình sự
Nhận dịnh sai.
Hành vi cưỡng ép kết hôn của tội phạm quy định tại Điều 181 Bộ luật Hình sự thuộc
yếu tố mặt khách quan của tội phạm. Theo Điều 181 Bộ luật Hình sự, người nào cưỡng ép
người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi này mà còn vi phạm thì mới chịu hình phạt ở Bộ luật Hình sự. Như vậy một dấu hiệu bắt
buộc để xác định hành vi có cấu thành tội phạm hay không là chủ thể “đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này” hay chưa.
Do đó, không phải mọi hành vi cưỡng ép kết hôn đều cấu thành tội cưỡng ép kết hôn
quy định tại Điều 181 Bộ luật Hình sự mà chủ thể thực hiện hành vi cưỡng ép đó đã phải bị
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này thì mới cấu thành tội cưỡng ép kết hôn ở Điều
181 Bộ luật Hình sự, nếu các dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm cũng được thoả mãn.

20
21

37. Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều cấu
thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.
Điều 182 Bộ luật Hình sự quy định người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn với
người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 182 thì mới
được coi là tội phạm vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
Hành vi kết hôn với người khác trong khi đang có vợ, có chồng chỉ cấu thành tội vi
phạm chế độ một vợ, một chồng ở Điều 182 Bộ luật Hình sự khi phải dẫn đến hệ quả là làm
cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi này mà vẫn tiếp tục vi phạm.
Do đó không phải mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác
đều cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 Bộ luật Hình sự).
38. Chỉ giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ mới cấu thành Tội loạn
luân được quy định tại Điều 184 Bộ luật Hình sự
Nhận định sai.
Điều 184 Bộ luật Hình sự quy định tội loạn luân: “Người nào giao cấu với người mà
biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha
khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha…”.
Như vậy là cấu thành tội phạm quy định không chỉ hành vi giao cấu với người có
cùng dòng máu về trực hệ, mà với người là anh chị em cùng cha mẹ hoặc là anh chị em cùng
cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha cũng có thể cấu thành tội loạn luân. Ngoài ra để cấu thành
tội loạn luân thì còn phải thoả mãn những dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm, như dấu
hiệu về chủ thể (phải có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự).
Như vậy không chỉ giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ mới cấu thành
tội loạn luân quy dịnh tại Điều 184 Bộ luật Hình sự mà còn có hành vi khác, ngoài ra cũng
cần thoả mãn đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
39. Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi chỉ
quy định trong cấu thành Tội loạn luân được quy định tại Điều 184 Bộ luật Hình sự
Nhận định sai.

21
22

Hành vi giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ được quy định
trong cấu thành tội loạn luân được quy định tại Điều 184 Bộ luật Hình sự. Do đó hành vi này
có thể xem là hành vi có tính chất loạn luân. Hành vi này còn được quy định trong cấu thành
những tội phạm khác và sẽ được áp dụng trong trường hợp tội phạm không thoả mãn cấu
thành tội loạn luân.
Chẳng hạn giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi có cùng dòng máu về trực hệ
cũng là hành vi loạn luân, nhưng không áp dụng Điều 184 Bộ luật Hình sự mà áp dụng quy
định về tội phạm khác. Hành vi có tính chất loạn luân này là hành vi được quy định trong
cấu thành định khung tăng nặng của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi quy định tại khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình
sự.
Như vậy khi có hành vi giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ
mà người có cùng dòng máu về trực hệ đó từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không áp dụng
Điều 184 về tội loạn luân mà áp dụng Điều 145 về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, vì Điều 145 có cấu thành tội phạm
cũng quy định hành vi loạn luân và dấu hiệu chủ thể được thoả mãn.
40. Mọi hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công
nuôi dưỡng mình đều cấu thành Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu,
người có công nuôi dưỡng mình (Điều 185 Bộ luật Hình sự)
Nhận định sai.
Điều 185 Bộ luật Hình sự quy định hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,
cháu, người có công nuôi dưỡng mình phải thuộc một trong các trường hợp sau mới thoả
mãn dấu hiệu mặt khách quan của cấu thành tội phạm: thường xuyên làm cho nạn nhân bị
đau đớn về thể xác, tinh thần hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn
vi phạm. Hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng
mình nếu chưa bị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó thì không thể cấu thành tội
phạm tại Điều 185 Bộ luật Hình sự.
Do đó không phải mọi hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người
có công nuôi dưỡng mình đều cấu thành tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu,
người có công nuôi dưỡng mình tại Điều 185 Bộ luật Hình sự.

22
23

PHẦN II. BÀI TẬP


I. Xác định tội danh đối với hành vi:
a) Giết người trong khi thi hành công vụ với thái độ hống hách, coi thường tính
mạng của người khác: Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127);
b) Sử dụng điện trái phép làm chết người: Tội giết người (Điều 123), Tội vô ý
làm chết người (Điều 128);
c) Đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình: Tội bức tử (Điều 130), Tội hành hạ
người khác (Điều 140);
d) Dùng vũ lực chống người thi hành công vụ làm nạn nhân chết: Tội giết người
(Điều 123);
e) Giao cấu với trẻ em: Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng
dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành
vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145);
f) Vứt đồ đạc của người thuê nhà ra ngoài đường và không cho phép họ tiếp tục
ở trong căn nhà mà người thực hiện hành vi là chủ sở hữu: Tội xâm phạm chỗ ở của
người khác (Điều 158);
g) Mua bán người: Tội mua bán người (Điều 150), Tội mua bán người dưới 16
tuổi (Điều 151);
h) Đồng tình thực hiện quan hệ giao cấu với anh chị em nuôi, bố mẹ nuôi và con
nuôi: Tội loạn luân (Điều 184);
i) Giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ: Tội Hiếp dâm người dưới 16
tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (Điều 145), Tội loạn luân (Điều 184).
II. Giải quyết tình huống
Bài tập 1
Khoảng 19 giờ, T ra sân kho HTX xem biểu diễn ca nhạc. Khi đi, T dắt một lưỡi
lê tự tạo (lưỡi lê dài 15 cm rộng 2 cm). Chưa tới giờ biểu diễn nên một số thanh niên
túm lại với nhau nói chuyện ở phía cổng vào khu vực biểu diễn, khiến một số cháu nhỏ
không thể đi qua được. Thấy vậy, T liền nói: “Sao các anh đứng ngang thế?”. Hai bên
23
24

va chạm, chửi nhau. A và B trong tốp thanh niên đó đã chạy gọi thêm bạn bè để gây sự.
Cả bọn quay trở lại gặp T thì ngay lập tức C túm áo T và thúc gối vào bụng của T, còn
A và B đấm vào mặt T làm môi T bị sưng. Các trật tự viên đã kịp thời ngăn cản và
chấm dứt sự va chạm. Một lát sau, T lại đến gần chỗ đứng của A, B và C để đôi co dẫn
đến tiếp tục xô xát. Trong lúc xô xát, T rút lưỡi lê ở thắt lưng đâm một nhát vào ngực
C rồi bỏ chạy. Kết luận giám định pháp y xác định: “C chết do vết thương sắc gọn, thấu
ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt động mạch, mất máu cấp tính”.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của T.
Hành vi của T mang tội danh giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự, vì đã thỏa
mãn cấu thành tội phạm của Tội giết người. Cụ thể:
- Chủ thể: tình huống không đề cập nên sẽ mặc định T có đủ năng lực chịu trách
nhiệm hình sự và đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: hành vi của T đã xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của C - đây là khách
thể được pháp luật hình sự bảo vệ.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: hành vi “rút lưỡi lê ở thắt lưng đâm một nhát vào ngực C” của T là hành vi
cố ý tước bỏ trái pháp luật tính mạng người khác. Sự cố ý được thể hiện ở chỗ khi T quay lại
chỗ A, B và C đang đứng, T đã có sự chuẩn bị khi giắt sẵn một hung khí nguy hiểm theo
mình.
+ Hậu quả: C chết do vết thương sắc nhọn, thấu ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt
động mạch, mất máu cấp tính.
- Mặt chủ quan (dấu hiệu lỗi): lỗi của T là lỗi cố ý trực tiếp giết C. Bởi lẽ, về lý trí, T
đã có sự chuẩn bị hung khí, cố ý dùng hung khí đó tấn công C và gây ra cái chết của C. Hơn
nữa, vị trí mà T tấn công C là ở ngực - vùng trọng yếu của cơ thể nơi nhiều cơ quan dễ bị tổn
thương liên đới, đồng thời T còn sử dụng hung khí nguy hiểm là lưỡi lê sắc nhọn tại thời
điểm gây án. Về ý chí, việc T mong muốn hậu quả là C chết xảy ra thể hiện qua chi tiết mặc
dù các trật tự viên đã ngăn cản và chấm dứt sự va chạm, nhưng T vẫn chủ động tiếp cận A, B
và C lần nữa để đôi co dẫn đến xô xát, gây ra cái chết cho C.
Bài tập 2
Chị N sinh con nhưng đứa bé sinh ra bị dị tật bẩm sinh, không có chân tay. Lần
đầu nhìn thấy con, chị N đã bị sốc và ngất xỉu. 10 ngày sau khi sinh, do không làm chủ
24
25

được mình, chị N lấy tay chùm chăn, bịt mặt đứa bé cho đến khi không còn thấy nhịp
tim đập nữa mới bỏ ra. Hậu quả đứa bé chết.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của N có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội
gì? Tại sao?
Hành vi của chị N mang tội danh giết người theo điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật
Hình sự, vì đã thỏa mãn cấu thành tội phạm của Tội giết người. Cụ thể:
- Chủ thể: Chị N có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: hành vi của chị N đã trực tiếp xâm phạm đến quan hệ nhân thân, cụ thể
là quyền được bảo vệ về tính mạng và sức khoẻ của đứa bé. Đối tượng tác động của hành vi
là đứa con ruột 10 ngày tuổi của chị N.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: Chị N đã có hành vi trùm chăn, bịt mặt đứa bé cho đến khi không còn thấy
nhịp tim đập nữa mới bỏ ra – là một hành vi rõ ràng có khả năng gây chết người.
+ Hậu quả: hậu quả trực tiếp của hành vi của chị N là đứa bé chết, lúc này tội phạm
đã hoàn thành.
- Mặt chủ quan (dấu hiệu lỗi): lỗi của chị N là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi lẽ, về lý trí, chị
nhận thức được sự nguy hiểm của hành vi; về ý chí, chị muốn hậu quả là đứa bé chết xảy ra,
thể hiện qua việc chị bịt mặt đứa bé đến khi không còn cảm thấy nhịp tim mới bỏ ra.
Trong tình huống này, tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội, đứa bé đã 10 ngày tuổi
nên không thuộc đối tượng tác động của Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (trong phạm vi 07
ngày tuổi) được quy định tại Điều 124 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 3
A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu, nhưng do gia đình ép gả
nên phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn gặp C - người yêu cũ của B. Biết
vậy, nên gia đình B khuyên A đưa vợ lên làm ăn ở TP. Hồ Chí Minh. A nghe lời đem
vợ lên sống ở TP. HCM. Dù vậy, B vẫn lén lút quan hệ với C bằng cách viện lý do đi
khám bệnh và lưu lại bệnh viện để điều trị ít ngày, nhưng thực chất là 2 người hẹn hò
nhau tại một khách sạn và sống với nhau. Gia đình B biết được nên đã báo cho A biết
mối quan hệ giữa B và C, đồng thời cho A biết số xe Honda của C. Một hôm, vì mất
điện nên A về nhà sớm hơn thường lệ thì thấy B chuẩn bị quần áo nói là đi chữa bệnh
tại bệnh viện. A không tin nên chạy nhanh ra đường cái, cách nhà khoảng 200m thì
25
26

thấy một thanh niên đang ngồi trên một chiếc xe Honda có biển số như gia đình B đã
báo trước. Quá tức giận, A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60cm,
phang thẳng vào đầu anh thanh niên đang ngồi trên xe gắn máy nhiều nhát cực mạnh
khiến anh thanh niên nọ bị chấn thương sọ não, chết trên đường cấp cứu tới bệnh viện.
Khi kiểm tra căn cước của người bị hại thì mới xác định được nạn nhân không phải là
C mà chính là bạn của C. Do không biết mặt C nên A đã đánh nhầm người. Lúc đó, C
đang mua thuốc lá gần đó.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A.
Hành vi của A mang tội danh giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự, vì đã thỏa
mãn bốn yếu tố cấu thành tội phạm của Tội giết người. Cụ thể:
- Chủ thể: A đã kết hôn nên A đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc các
trường hợp miễn trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: Hành vi của A trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của anh thanh niên.
- Mặt khách quan: A dùng khúc gỗ dài 60cm (phương tiện nguy hiểm) phang thẳng
vào đầu (vùng trọng yếu) của thanh niên đang ngồi xe gắn máy nhiều nhát cực mạnh. Hành
vi của A là hành vi cố ý tước đoạt mạng sống của thanh niên này, và đã trực tiếp dẫn đến hậu
quả là thanh niên bị chấn thương sọ não, chết trên đường đi cấp cứu.
- Mặt chủ quan (dấu hiệu lỗi): lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp. Mặc dù có sai lầm về đối
tượng nhưng A vẫn nhận thức được rằng hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả sẽ có người chết. Đồng thời, A mong muốn hậu quả đó xảy ra, thể hiện qua
việc A cố ý phang thẳng vào đầu người thanh niên với nhiều nhát cực mạnh.
Bài tập 4
Hai gia đình là hàng xóm của nhau. Trong một gia đình có bà mẹ là K và cậu
con trai tên là H. Gia đình bên kia có ông cụ là A cùng hai con trai tên là B và C. Ban
ngày các con đều đi làm nên ông A thường hay qua nhà bà K chơi. Sau một thời gian,
ông A mang gạo góp với bà K nấu cơm chung. B và C không đồng ý vì cho là cha mình
bị bà K dụ dỗ, đem tài sản cho bà K nên yêu cầu cha mình chấm dứt quan hệ với bà K
nhưng ông A không nghe và vẫn tiếp tục làm theo ý mình. B và C cho là sự bất đồng
trong gia đình mình là do bà K gây ra nên quyết định gây án.
Vào 3 giờ sáng, B cầm đuốc và C cầm một con dao lớn đến trước sân nhà bà K.
B và C châm lửa đốt nhà, đồng thời chặn cửa đón đầu hai mẹ con bà K. Bà K và H

26
27

chạy ra đến cửa thì thấy B đang quơ đuốc xông tới, C cầm dao lao vào tấn công H. H
xông tới C, giành được con dao từ tay C và chém đứt bàn tay C. Ngay lúc đó, B dùng
đuốc xông tới gần H. H nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C chết tại chỗ, đồng
thời H quay sang đối phó với B thì bà con vừa kịp đến.
Hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì?
Hành vi của H là hành vi giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được
quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự. Cụ thể:
- Về phía nạn nhân: B và C đã đốt nhà H, chặn cửa và có hành vi dùng dao, đuốc tấn
công mẹ H và H. Đây là hành vi xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của
H cũng như bà K.
- Về phía người phòng vệ: việc C cầm dao xông tới tấn công H là điều kiện để phát
sinh quyền phòng vệ chính đáng của H, H buộc phải tự vệ trong trường hợp này. Tuy nhiên,
hành vi tấn công của C đã ngừng lại khi H chém đứt tay C, lúc này quyền phòng vệ chính
đáng của H đã kết thúc. Vì vậy, hành vi chém tiếp vào đầu C sau đó của H là hành vi vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Việc định tội này dựa trên tinh thần của Nghị quyết 04/1986: “Nếu hành vi trái pháp
luật đó trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội
hoặc người thân thích của người phạm tội hoặc của xã hội, đã cấu thành tội phạm, thì hành
vi chống trả lại gây chết người có thể được xem là trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”
Ý kiến của cô: Không có tội
- Phải ưu tiên xét bối cảnh hơn là nhát chém
Bài tập 5
A là đối tượng không có việc làm ổn định, thường uống rượu, gây gổ, đánh nhau
và bị cha mẹ rầy la.
Khoảng 17 giờ 30’, sau một chầu nhậu về, A bắt đầu chửi ông Th (bố đẻ của A)
với những lời lẽ hết sức hỗn láo: “Ngày trước tao còn nhỏ mày đánh tao, bây giờ tao đã
lớn, thằng nào há miệng tao bóp cổ chết tươi”. Đúng lúc đó, B (anh ruột của A) đi làm
về nghe A chửi cha nên rất bực tức, đã chỉ mặt A răn đe: “Nếu còn hỗn láo với cha mẹ,
có ngày tao đánh chết”.

27
28

Dù vậy, A vẫn tiếp tục chửi ông Th. Thấy A hỗn láo quá mức, không coi lời nói
của mình ra gì nên B chạy ngay vào bếp rút con dao lưỡi bầu mũi nhọn (kích thước
25cm x 7cm) đâm liên tiếp 4 nhát vào bụng A khiến A gục chết tại chỗ.
Khi định tội cho vụ án có 2 quan điểm:
a. B phạm tội “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (Điều 125
Bộ luật Hình sự);
b. B phạm tội “giết người” (Điều 123 Bộ luật Hình sự).
Theo anh (chị), B đã phạm tội gì? Tại sao?
Trong trường hợp này, B đã phạm Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh quy định tại Điều 125 Bộ luật Hình sự, chứ không phải Tội giết người quy định
tại Điều 123 Bộ luật Hình sự. Viện dẫn Nghị quyết 04/1986, sự kích động này không nên chỉ
được nhìn nhận tại thời điểm tội phạm xảy ra mà cần xem xét cả quá trình phát triển của sự
việc. Cụ thể:
- Chủ thể: tình huống không đề cập nên sẽ mặc định B có đủ năng lực chịu trách
nhiệm hình sự và đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: tính mạng, quyền được sống của A. Đối tượng tác động là A - con người
đang sống.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của A: với hành vi chửi bới, cư xử hỗn láo quá
mức đối với cha mẹ đẻ, A đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng cha mẹ theo Luật Hôn nhân và Gia
đình.
+ Hành vi tước đoạt tính mạng của B: cầm dao đâm 4 nhát liên tiếp vào bụng A (là
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và tính mạng của A).
+ Sự mãnh liệt của hành vi: hành vi dùng dao đâm 4 nhát vào bụng A của B tuy
không tác động vào vùng trọng yếu của cơ thể, nhưng việc đâm liên tục 4 lần đã thể hiện rõ
độ quyết liệt của hành vi.
+ Công cụ nguy hiểm: con dao lưỡi bầu mũi nhọn - một công cụ có tính sát thương
cao.
+ Hậu quả: A chết.

28
29

- Mặt chủ quan (dấu hiệu lỗi): A gây ra lỗi trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh.
Thực chất, trong tình huống này, hành vi chửi bới, cư xử hỗn láo quá mức đối với cha
mẹ đẻ của A không là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, nhưng lại là hành vi mang tính
chất đè nén, dồn ép tâm lý kéo dài cho người thân trong gia đình, bao gồm cả B là anh trai
của A. Bởi lẽ, từ những chi tiết tình huống đưa ra như A không có việc làm ổn định, nghiện
rượu, hay gây gổ, đánh nhau và bị cha mẹ rầy la, có thể suy luận rằng đây không phải lần
đầu tiên A bị anh trai mình là B nhắc nhở về hành vi hỗn láo với cha mẹ. Do đó, việc A vẫn
lặp lại hành vi chửi bới cha mẹ ngay cả khi đã bị B răn đe đã khiến cho B không thể tự kiềm
chế, làm chủ hành vi và hành động do cơn bộc phát từ sự giận dữ, từ đó thực hiện hành vi
gây án.
Thực tế thường sẽ xử Điều 123, còn Điều 125 thì phải cần thêm bằng chứng.
Bài tập 6
S là một đối tượng hay rượu chè, đã nhiều lần say rượu và gây gổ, đập phá đồ
đạc của gia đình. Trong một lần say, S đến nhà anh rể (tên là N) đập phá nhiều tài sản
(01 máy cassette, 01 TV, 01 tủ kính, 04 két bia…). Bố mẹ S đến can, khuyên bảo nhưng
vô hiệu. S còn hùng hổ hơn, hai tay cầm hai dao xẻ thịt đuổi chém bất kỳ ai. Bà Hai là
mẹ S biết H là du kích và có súng nên sang nhờ H can thiệp giúp ngăn chặn S. H nói là
phải có ý kiến của chính quyền và ấp đội chứ không tự can thiệp được. Bà Hai tìm đến
nhà ông M (ấp đội trưởng) và ông Đ (phó công an ấp) báo cáo đề nghị giúp đỡ. Ông M
và Đ đã huy động H và một công an viên nữa tới nhà anh N để làm nhiệm vụ. Cả 2
người tới nơi đã khuyên ngăn và ra lệnh cho S bỏ dao xuống, S không chấp hành lại
dùng cả 2 dao đuổi chém các cán bộ. Để tránh hậu quả xấu, anh ruột S (tên là Đ) đã lấy
1 khúc cây so đũa bất ngờ đánh vào tay S cho rớt dao ra nhưng chỉ là cây gỗ mục nên
càng làm cho S hung hăng hơn. Tất cả mọi người đều bỏ chạy, chỉ còn H và anh công
an viên kia đứng lại. Thấy H cầm súng thì S càng hùng hổ xông tới. H ra lệnh S bỏ dao
xuống nhưng S vẫn tiếp tục chạy tới với cả 2 dao vung lên. H lùi lại sau nhưng vì phải
đi giật lùi nên S đã đứng trước mặt H cách chừng 02 mét, H chúc nòng súng xuống,
bắn vào chân làm S ngã xuống. S đã chết trên đường đi cấp cứu vì mất quá nhiều máu.
Hãy xác định TNHS của H trong vụ án này.
Hành vi của H thuộc trường hợp phòng vệ chính đáng. Phân tích các điều kiện làm
phát sinh quyền phòng vệ như sau:

29
30

- Sự tấn công nguy hiểm đáng kể và trái pháp luật: Tại thời điểm xảy ra vụ án, nạn
nhân đang trong trạng thái say xỉn, có hành vi đập phá đồ đạc và sử dụng dao gây nguy hiểm
cho mọi người xung quanh. Chính nạn nhân đã cầm 2 dao nhào vào người phòng vệ với
trạng thái vung dao mặc dù người phòng vệ đã 2 lần yêu cầu nạn nhân bỏ dao xuống. Đây là
hành vi hết sức nguy hiểm và trái pháp luật hình sự.
- Sự tấn công xâm phạm lợi ích của NN, xã hội hoặc lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác: hành vi tấn công nguy hiểm của S đã xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ của những người xung quanh.
- Sự tấn công đang hiện hữu: H đã ra lệnh cho S bỏ dao xuống hai lần nhưng S không
chấp hành và có hành vi tấn công nguy hiểm đe dọa trực tiếp tới tính mạng của H và anh
công an. Lúc này, hành vi tấn công nguy hiểm đang tồn tại và xâm phạm tới tính mạng, sức
khỏe của những người xung quanh. Đối mặt với diễn biến của tình huống, H đã chúc nòng
súng xuống và bắn vào chân S nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm này.
Dựa theo tinh thần của Nghị quyết 04/1986: “Nếu hành vi trái pháp luật đó trực tiếp
xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân
thích của người phạm tội hoặc của xã hội, đã cấu thành tội phạm, thì hành vi chống trả lại
gây chết người có thể được xem là trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng”. Đối chiếu với tình huống, việc phòng vệ của H khi này là cần
thiết khi S đang có hung khí nguy hiểm trong tay và đang trong trạng thái say xỉn, không
kiểm soát được bản thân và có hành vi tấn công H. “H ra lệnh cho S bỏ dao xuống nhưng S
vẫn tiếp tục chạy tới với cả 2 dao vung lên. H lùi lại sau nhưng vì phải đi giật lùi nên S đã
đứng trước mặt H cách chừng 2 mét” và H đã lựa chọn phòng vệ chính đáng, tuy nhiên hậu
quả cái chết của nạn nhân là nằm ngoài ý chí chủ quan của người phòng vệ.
Tội khác: làm chết người khi thi hành công vụ
Đòi hỏi hành vi tấn công đang hiện hữu và hoàn toàn có cơ sở xảy ra. Theo cô: đang
cách 2m thì ko có khả năng xảy ra hành vi gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ; vì dao
chỉ gây nguy hiểm trong phạm vi tầm với → xử theo Đ127.
Bài tập 7
Bà X cho các con cất nhà ở riêng trên phần đất của nhà bà, cụ thể là: A (con
ruột) ở cuối hẻm, B (con rể) cất nhà ở phía trước nhà A. Tất cả sử dụng con hẻm chung
rộng 1,2m để làm lối đi vào nhà. Do B thường để bếp lò trong đường hẻm nướng đồ
nhậu gây vướng đường đi lại, nên bà X nhiều lần kêu B dọn bếp vào trong nhà. Ngày
30
31

15/7/2016, bà X lại nhắc nhở B, B cho rằng A xúi bà X đến nói, B hét to: “Tao đâm chết
mẹ mày rồi về ngoài quê ở, xem ai làm gì tao”. Lúc này, A ở trong nhà đang cầm con
dao Thái Lan gọt cắt trái xoài ăn. B cầm khúc cây tầm vông (dài 1m, đường kính
3,5cm, một đầu vót nhọn) xông vào nhà đập A một cái từ trên xuống nhưng A đưa tay
trái lên đỡ nên trúng cổ tay bị thương nhẹ phần mềm. Ngay sau đó, B cầm chiếc ấm
nhôm ném trúng vào vai A rồi lao vào dùng tay chân đấm đá vào người A. A chụp
được con dao trên bàn, đâm một nhát trúng vào ngực của B, rồi vứt con dao bỏ chạy. B
chết trên đường đi cấp cứu.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội hay không? Nếu có thì phạm
tội gì? Tại sao?
Hành vi của A phạm Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều
126 Bộ luật Hình sự). Điều 123
Về phía người nạn nhân: Nạn nhân có những hành vi tấn công, xâm phạm trực tiếp
đến tính mạng, sức khỏe của người phòng vệ mà cụ thể là “ cầm khúc cây tầm vông đập”,
“cầm ấm nhôm ném”, “lao vào dùng tay chân đấm đá”. Đây là những hành vi tấn công nguy
hiểm dồn dập và liên tiếp, không tạo kẽ hở về thời gian để người phòng vệ sử dụng cách
thức khác ngoài cách thức vội chụp thứ gần mình nhất là con dao trên bàn để phản ứng lại.
Về phía người phòng vệ: Người phòng vệ đang bị hành vi trái pháp luật của nạn nhân
xâm phạm trực tiếp, đây là điều kiện để phát sinh quyền phòng vệ chính đáng của người này.
Tuy nhiên, hành vi dùng dao đâm vào vùng ngực (là vùng trọng yếu của cơ thể) khi nạn
nhân chỉ dùng tay chân đấm đá là vượt quá giới hạn phòng vệ. Hành vi đâm vào vào vùng có
thể gây tử vong là nguy hiểm hơn rất nhiều so với hành vi đấm, đá của nạn nhân và thực tế
đã gây ra cái chết cho nạn nhân. Cần lưu ý rằng, tình tiết “A chụp được con dao trên bàn”
cho thấy A không có chủ đích sử dụng dao nhằm gây nguy hiểm cho B, nhưng trước những
hành vi tấn công dồn dập và liên tiếp của B thì con dao là công cụ duy nhất trong phạm vi A
có thể với tới để đối phó với B. Hơn nữa, việc A đâm B một nhát rồi vứt dao bỏ chạy cho
thấy A hành động hoàn toàn vì mục đích bảo vệ bản thân chứ không phải vì mục đích giết
người (vì nếu A mong muốn hậu quả là B chết xảy ra, A đáng lẽ phải ở lại kiểm tra xem B
đã chết hoàn toàn hay chưa thay vì bỏ chạy). Hậu quả B chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan
của A.
Dựa theo tinh thần của Nghị quyết 04/1986: “Nếu hành vi trái pháp luật đó trực tiếp
xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân

31
32

thích của người phạm tội hoặc của xã hội, đã cấu thành tội phạm, thì hành vi chống trả lại
gây chết người có thể được xem là trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng”. Do đó, hành vi của A phạm Tội giết người do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng (Điều 126 Bộ luật Hình sự).
Nhát đâm vào ngực là nhát đâm mạnh. Hành động đấm đá tay chân không gây nguy
hiểm tính mạng.
Bài tập 8
Một năm trước, P được tuyển vào làm bảo vệ cho nông trường X chuyên trồng
thơm xuất khẩu. P đã được trang bị một khẩu súng trường và được học cách sử dụng
súng trong thời gian 2 tuần.
Một buổi sáng chủ nhật, P phát hiện có 3 em (gồm A-17 tuổi, B-15 tuổi, và C-11
tuổi) đang hái trộm thơm của nông trường. P khoác súng lên vai và lấy xe đạp chạy
theo đường đá đón đầu 3 em nhỏ. Tới nơi, P bỏ xe chạy bộ đuổi bắt. Khi đó, A và B đã
vứt bao tải đựng thơm và chạy thoát. C do cố mang theo bao thơm nên bị P bắt được
và bị dẫn về Ban quản lý để xử lý.
Trên đường đi, P dùng một tay giữ bao thơm (tang vật), tay kia nắm chặt tay
của C. Khi vượt qua một cây cầu khỉ thì C đã vùng chạy thoát, còn đẩy làm P mất
thăng bằng và té xuống nước. Khi C chạy được chừng 30m thì P kê súng lên bờ
mương, nhắm về phía C lên đạn và bóp cò. Súng nổ và viên đạn xuyên qua cuống tim
làm cho C chết ngay tại chỗ. P liền đến công an tự thú.
Anh (chị) hãy cho biết quan điểm về tội danh trong vụ án này.
Hành vi làm chết người của P trong trường hợp này cấu thành Tội giết người quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự vì lúc này C mới 11 tuổi, hành vi gây ra
cái chết cho C được P thực hiện trong lúc đang thực hiện nghĩa vụ bảo vệ nông trường của
mình. Phân tích hành vi của P:
Thứ nhất, xét về mặt chủ thể, P được tuyển vào làm bảo vệ cho nông trường X nghĩa
là P đã trên 16 tuổi và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, xét về khách thể của tội phạm thì hành vi kê súng lên bờ mương, lên đạn và
bóp cò đã xâm phạm đến quyền nhân thân của C, tước đi tính mạng và quyền được sống của
C.

32
33

Thứ ba, xét về mặt khách quan của tội phạm, hành vi kê súng lên bờ mương, lên đạn,
nhắm vào C và bóp còi là hành động phạm tội. P đã sử dụng vũ lực và thông qua vũ khí
nguy hiểm là khẩu súng trường được nông trường X trang bị và hướng dẫn sử dụng cho mục
đích bảo vệ nông trường.
- Hành vi: Khi C chạy được chừng 30m thì P kê súng lên bờ mương, nhắm về phía C
lên đạn và bóp cò.
- Hậu quả: Súng nổ và viên đạn xuyên qua cuống tim làm cho C chết ngay tại chỗ. P
liền đến công an tự thú.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của P là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hậu quả C tử vong.
Thứ tư, xét về mặt chủ quan của tội phạm, P nhận thức rõ được hành vi kê súng lên
bờ mương, lên đạn, nhằm vào C và bóp cò là hành vi nguy hiểm và có thể xảy ra hậu quả là
C bị thương hoặc chết. Ở đây có thể thấy rõ P đã mong muốn hậu quả đó xảy ra nên lỗi của
P là cố ý trực tiếp.
Dựa trên những yếu tố cấu thành tội phạm này thì hành vi gây ra cái chết cho C của P
không cấu thành Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Mặc dù trước đó
C đã có hành vi vùng chạy thoát, đẩy P té xuống sông khi P đang áp giải C về nông trường X
nhưng hành vi phản kháng của C đã dừng lại sau khi P té xuống sông nên hành vi dùng súng
bắn C sau đó của P là vì mục đích muốn gây thương tích hoặc giết chết C để C không chạy
thoát chứ không phải vì mục đích tự vệ.
Hành vi gây chết người của P cũng không thuộc trường hợp phạm Tội vô ý làm chết
người trong lúc thi hành công vụ và Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp vì lỗi của P là lỗi cố ý trực tiếp, P không phải là người có chức vụ đang thi hành công
vụ và P không vi phạm quy tắc nghề nghiệp của mình.
Bài tập 9
Chị V sinh con đầu lòng ở trạm y tế xã. Người đỡ đẻ là bác sĩ N. Đây là ca đẻ
ngược. Do có những sai sót về chuyên môn và kỹ thuật của bác sĩ N nên khi lọt lòng mẹ,
cháu bé đã bị gãy xương cánh tay trái, tình trạng rất yếu, thở thoi thóp và không khóc
được. Điều đó khiến cho N luống cuống nên cắt rốn của bé quá sát da, gây mất máu
khá nhiều. Ngay lúc đó N dùng vải màn quấn quanh người đứa bé, để nằm trên bàn và
không cho ai trong số người nhà vào nhìn mặt. N nói với người nhà chị V là đứa bé đã
chết.
33
34

Khoảng 10 phút sau bà T (mẹ của chị V) tông cửa xông vào thì thấy cháu bé hãy
còn thở. Bà kêu N tới nhưng N nói: “Chỉ còn thoi thóp, cứu sao được nữa!”. Bất chấp
lời N, bà T vẫn đưa cháu lên bệnh viện tuyến trên cấp cứu. Tại bệnh viện này các bác sĩ
có kết luận: cháu bị gãy kín xương cánh tay do sang chấn sản khoa, cuống rốn bị cắt
sát da, chỉ buộc rốn bị tuột ra, mất nhiều máu. Dù được các bác sĩ cấp cứu tận tình
nhưng qua ngày thứ 5 thì bé chết.
Hãy định tội danh đối với hành vi của N trong vụ án này?
Có khả năng xảy ra các tội danh sau:
 Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
 Tội ko cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm tính mạng
 Tội giết người
Trách nhiệm của bác sĩ thậm chí còn phát sinh sau khi bệnh nhân ngưng tim ngưng
phổi, nghĩa rằng phải toàn lực cứu chữa, chứ ko phải “dùng vải màn quấn…” khi đứa bé
đang còn sự sống → rất đáng ngờ. Là lỗi cố ý gián tiếp.
Hành vi của N trong vụ án này cấu thành Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự)
gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất, về mặt chủ thể: N đã có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, về mặt khách thể: N đã xâm phạm đến quyền nhân thân của đứa bé mới sinh.
Đối tượng tác động là tính mạng, quyền được sống của đứa bé.
Thứ ba, về mặt khách quan:
- Hành vi: Bác sĩ N là người đỡ đẻ cho chị V. Do có những sai sót về chuyên môn và
kỹ thuật của bác sĩ N nên khi lọt lòng mẹ, cháu bé đã bị gãy xương cánh tay trái, tình trạng
rất yếu, thở thoi thóp và không khóc được. Sau đó, N cắt rốn của bé quá sát da, gây mất máu
khá nhiều. Ngay lúc đó N dùng vải màn quấn quanh người đứa bé, để nằm trên bàn và không
cho ai trong số người nhà vào nhìn mặt. N nói với người nhà chị V là đứa bé đã chết nhưng
trên thực tế thì cháu bé vẫn còn sống và N không cứu chữa.
- Hậu quả: cháu bé tử vong sau 5 ngày điều trị
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của N là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hậu quả cháu bé tử vong.
34
35

Thứ tư, về mặt chủ quan: N thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý gián tiếp, việc
này thể hiện qua việc N biết hành vi của mình là nguy hiểm cho cháu bé nhưng vẫn bỏ mặc
cho hậu quả xảy ra (cố ý không cứu chữa cho cháu bé mặc dù biết cháu bé còn sống và che
giấu người nhà về việc này).
Bài tập 10
Chị H là người mồ côi mẹ từ nhỏ. Bố chị lấy vợ khác là bà Y. Trong cuộc sống
thường ngày, bà Y thường có hành vi ngược đãi, ức hiếp đối với chị H. Vì vậy, H đã
sớm yêu một thanh niên. Do nhẹ dạ nên H đã có thai với anh thanh niên này. Khi biết
được tình trạng trên, người yêu của H lánh mặt không gặp H nữa và tìm cách chối bỏ
trách nhiệm làm cha. Quá thất vọng vì bị bội tình, H viết thư tuyệt mệnh rồi tự sát.
Trong vụ việc này có hành vi phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì và ai phải
chịu trách nhiệm hình sự?
Trong vụ việc này không có hành vi phạm tội và không ai phải chịu trách nhiệm hình
sự.
Xét về hành vi của bà mẹ, mặc dù bà Y thường có hành vi ngược đãi, ức hiếp với chị
H nhưng không phải là nguyên nhân chính khiến H tự sát. H tự sát là do bị bội tình khi
người yêu của H lánh mặt không gặp H nữa và tìm cách chối bỏ trách nhiệm làm cha. Do đó,
bà Y không phạm tội khiến cho H tự sát.
Xét về hành vi chối bỏ trách nhiệm làm cha đối với con của chị H của nam thanh niên
chưa đủ để cấu thành Tội bức tử (Điều 130 Bộ luật Hình sự). Nam thanh niên chỉ chối bỏ
đứa bé trong bụng chị H song không có bất cứ hành vi nào được cho là đối xử tàn ác, thường
xuyên ức hiếp hoặc làm nhục nên không thể coi là hành vi trực tiếp bức tử chị H.
Trong vụ việc này không có hành vi phạm tội và không ai phải chịu trách nhiệm hình sự.

Thư tuyệt mệnh thể hiện nguyên nhân tự sát là do bị bội tình —> ko thể xử bà Y tội bức tử.
Xử Đ140 chứ ko phải Đ185: người trong nhà phải thoả mãn ĐK “thường xuyên làm cho nạn
nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần" (“thường xuyên" rất khó xác định: không cho ăn,
Bài tập 11
A dùng dây điện trần giăng xung quanh luống mía ở trong vườn mía trước nhà
mình để diệt chuột vì mía đã lên cao khoảng 0,80m – 1m, nhưng bị chuột cắn phá rất
nhiều ở phần ngọn. Xung quanh ruộng mía có tường bao quanh cao 1m40 đến 1m50 và

35
36

không có lối đi tắt, đi qua cho hàng xóm. Thường thường, A cắm điện vào lúc 22 giờ
đêm và ngắt điện vào 5 giờ sáng. Việc cắm điện đã được A thông báo cho bà con trong
xóm biết. Những con chuột bị chết do điện giật, A thường đem cho những người trong
xóm nấu cho heo ăn. Khoảng 24 giờ, có một thanh niên khác xã trèo qua tường để vào
vườn mía và bị điện giật chết.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi gây chết người của A.
Hành vi gây chết người của A bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất, về mặt chủ thể, A đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng
lực trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, về mặt khách thể, hành vi gây chết người của A đã xâm phạm đến quyền
nhân thân của một thanh niên, đối tượng tác động ở đây là sức khỏe và tính mạng của thanh
niên đó.
Thứ ba, về mặt khách quan, hành vi giăng dây điện trần xung quanh luống mía với
mục đích diệt chuột của A (hành động phạm tội) đã gián tiếp gây ra hậu quả làm chết người
và nạn nhân là một thanh niên khác xã.
- Hành vi: A dùng dây điện trần giăng xung quanh luống mía ở trong vườn mía trước
nhà mình. Hành vi giăng dây điện bản chất là nguy hiểm và có khả năng làm chết người.
Tuy nhiên, xung quanh ruộng mía có tường bao quanh cao 1m40 đến 1m50 và không có lối
đi tắt, đi qua cho hàng xóm. Thường thường, A cắm điện vào lúc 22 giờ đêm và ngắt điện
vào 5 giờ sáng (khoảng thời gian ít người qua lại). Việc cắm điện đã được A thông báo cho
bà con trong xóm biết. Khoảng 24 giờ, có một thanh niên khác xã trèo qua tường để vào
vườn mía và bị điện giật.
- Hậu quả: thanh niên khác xã bị điện giật chết.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: hành vi dùng dây điện trần giăng
xung quanh luống mía ở trong vườn mía trước nhà mình là hành vi vi phạm quy tắc chung
dẫn đến hậu quả làm thanh niên xã bên chết vì điện giật.
Thứ tư, về mặt chủ quan, xét dựa trên các tình tiết về hành vi gián tiếp làm chết người
của A thì A có lỗi vô ý, cụ thể là lỗi vô ý do quá tự tin. A nhận thức được hành vi mắc dây
điện trần của mình là nguy hiểm song với những yếu tố như luống mía có tường cao bao
quanh, không có lối đi tắt, xung quanh không có người qua lại đông đúc cũng như đã thông

36
37

báo trước cho bà con về việc cắm điện,... nên A đã tự tin cho rằng hậu quả nguy hiểm sẽ
không xảy ra.
Từ những yếu tố được phân tích ở trên kèm theo quy định về sử dụng điện tại đoạn 2
điểm b mục 12 Phần I Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10 tháng 6 năm 2002 của
TANDTC hướng dẫn cụ thể về các trường hợp sử dụng điện, kết luận rằng hành vi của A
phạm Tội vô ý làm chết người (Điều 128 Bộ luật Hình sự).
Bài tập 12
A, B và H là ba người bạn kết thân từ thời còn học ở Đại học Cảnh sát nhân dân.
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/7/2016, A, B, C và D (đã uống rượu) rủ nhau ra Nhà Bè
nhậu tiếp. Trên đường đi, A và B ghé vào cơ quan để rủ H cùng đi. B và C đứng ngoài
cổng trông xe, còn A và B lên phòng để tìm H. Gặp H ở hành lang, A liền đùa, rút súng
K54 mang theo và cười lớn. H cũng đùa lại, vờ nấp vào cánh cửa. Anh T ở cùng phòng
thấy vậy bảo: “Không được đùa với súng”. A tháo băng đạn, kéo quy lát, lấy nốt viên
đạn trong nòng súng ra. B đi vào phòng H. A lắp lại băng đạn vào nòng súng rồi cũng
đi vào phòng theo. A và B rủ H đi chơi nhưng H từ chối vì đã có hẹn. Nghe vậy, B bảo
A: “Đưa súng đây để tao ép nó đi”.
A lấy súng đưa cho B. Vì nghĩ rằng súng không có đạn (B đã thấy A lấy viên đạn
ra ở hành lang) nên B cầm súng bằng tay trái, kéo quy lát rồi rê nòng súng về phía H,
ngón tay vẫn còn đặt trong vòng cò thì bất ngờ súng nổ. Viên đạn bắn trúng vào trán H
làm H chết ngay tại chỗ.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của B trong vụ án.
Trong vụ án này, B phạm tội tại Điều 129 Bộ luật Hình sự là Tội vô ý làm chết người
do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.
B từng học ở Đại học Cảnh sát nhân dân, hiện nay đang làm ở cơ quan cùng A và H.
A là người đã rút súng K54 mang theo nên họ là những người thuộc đối tượng được trang bị
súng. Do đó, B có thể là cảnh sát, công an hoặc những người giữ chức vụ liên quan. Chính vì
thế, B phải có những kiến thức và hiểu được những quy tắc nghề nghiệp trong ngành nghề
này, bao gồm cả việc sử dụng súng, súng không sử dụng thì phải khoá, tháo đạn, không được
đùa giỡn với súng…
Thứ nhất, về mặt chủ thể, B từng học ở Đại học Cảnh sát nhân dân và đang làm ở cơ
quan nên B đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

37
38

Thứ hai, về mặt khách thể, hành vi đùa giỡn bằng vũ khí nguy hiểm và nổ súng vì tin
rằng trong súng không có đạn của B đã xâm phạm đến quyền nhân thân của H.
Đối tượng bị tác động ở đây là tính mạng, quyền được sống của H.
Thứ ba, về mặt khách quan:
- Hành vi: nên B cầm súng bằng tay trái, kéo quy lát rồi rê nòng súng về phía H, ngón
tay vẫn còn đặt trong vòng cò thì bất ngờ súng nổ nghĩ rằng súng không có đạn (B đã thấy A
lấy viên đạn ra ở hành lang). Quy tắc nghề nghiệp là súng không sử dụng thì phải khoá, tháo
đạn, không được đùa giỡn với súng… nhưng B vẫn chĩa súng vào người H và cũng không
kiểm tra trong súng còn đạn hay không nên dẫn đến nổ súng chết người.
- Hậu quả: Viên đạn bắn trúng vào trán H làm H chết ngay tại chỗ.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của B là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hậu quả H tử vong.
Thứ tư, về mặt chủ quan, B thực hiện hành vi của mình với lỗi vô ý (do cẩu thả) khi
gây nên cái chết cho H vì sự chủ quan, cẩu thả của mình rằng A đã lấy đạn ra khỏi khẩu
súng. B nhận thức được hành vi đùa giỡn bằng vũ khí nguy hiểm là súng của mình nhưng
không mong hậu quả gây thiệt hại về người xảy ra vì B cẩu thả cho rằng A đã lấy đạn ra
khỏi súng.
Xử B ở tội Điều 128, không phải Điều 129.
Bài tập 13
A, B, C và D chơi bài tại nhà ông T. Cả bọn chơi bài đến khoảng 12 giờ thì chị L
(vợ của B) đến gọi B về. Thấy chồng đang đánh bài, chị L đã nói lời xúc phạm khiến B
nổi cáu, đứng lên đá chị L. Thấy B đánh vợ, chị A vội vào can ngăn thì bị B đá 1 cái.
Chị A té ngửa xuống sân nhà và ngất xỉu. Mọi người đưa chị A đi cấp cứu nhưng chị A
đã chết sau đó. Biên bản giám định kết luận: A chết là do chấn thương sọ não.
Hãy định tội danh đối với hành vi của B.
Phân tích hành vi của B như sau:
Tội danh mà B đã phạm là Tội vô ý làm chết người theo Điều 128 Bộ luật Hình sự.
- Chủ thể: B là người đã thực hiện tội phạm. B đã có đủ năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

38
39

- Khách thể: B xâm phạm đến tính mạng, quyền được sống của chị A. Đối tượng tác
động là chị A – một con người đang sống.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: Thấy B đánh vợ, chị A vội vào can ngăn thì bị B đá 1 cái.
+ Hậu quả: Chị A té ngửa xuống sân nhà và ngất xỉu. Mọi người đưa chị A đi cấp cứu
nhưng chị A đã chết sau đó. A chết là do chấn thương sọ não.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của B là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hậu quả A tử vong.
- Mặt chủ quan: B thực hiện hành vi của mình với lỗi vô ý việc này thể hiện qua việc
B có hành vi đá chị A nhưng không ý thức được hành vi của mình nguy hiểm cho chị A và
hậu quả xảy ra là chị A chết.
Thường sẽ xử cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người.
Bài tập 14
A và B cùng đi săn. A nhìn thấy một con gà rừng liền giơ súng lên ngắm bắn. B
thấy gần đó có một người đang bẻ măng nên ngăn đừng bắn và nói rằng: “Thôi đừng
bắn nữa, nhỡ trúng người ta thì chết”. A tiếp tục rê súng theo con gà rừng và đáp lại:
“Mày chưa biết tài bắn của tao à! Chưa bao giờ tao bắn trượt cả”. Nói xong, A bóp cò,
không ngờ đạn trúng vào người bẻ măng.
Hãy xác định A phạm tội gì nếu:
a. Nạn nhân chết
Tội danh mà A đã phạm là Tội vô ý làm chết người theo quy định tại Điều 128 Bộ
luật Hình sự. Hành vi của A đã có đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết
người theo quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự:
- Chủ thể: A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này (nếu đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
- Khách thể: Ở đây là tính mạng, quyền được sống của người hái măng.
- Đối tượng tác động là người hái măng – con người đang sống.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: A bóp cò súng và đạn đã trúng vào người hái măng.
39
40

+ Hậu quả: Người hái măng chết.


+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc A bóp cò súng và đã bắn trúng
vào người hái măng làm cho nạn nhân tử vong.
- Mặt chủ quan: A có lỗi vô ý (vô ý vì quá tự tin). A ý thức được việc bắn súng gần
người hái măng là hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe người đó. A thấy
trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng cho rằng hậu quả không xảy
ra vì A tự tin vào tài bắn súng của mình.
b. Nạn nhân bị thương nặng
Trong trường hợp nạn nhân bị thương nặng, vì hậu quả là người bẻ măng bị “thương
nặng” chưa được xác định rõ ràng nên ta giả sử lúc này là tỉ lệ thương tổn của nạn nhân từ
31% trở lên. Lúc này A phạm vào Tội vô ý gây thương tích cho người khác theo quy định tại
Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Hành vi của A đã có đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý gây thương tích
cho người khác theo quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự:
- Chủ thể: A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này (nếu đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).
- Khách thể: Ở đây là sức khỏe của người hái măng. Đối tượng tác động là người hái
măng – con người đang sống.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: A bóp cò súng và đạn đã trúng vào người hái măng.
+ Hậu quả: Người hái măng bị thương nặng (tỉ lệ tổn thương trên 31%).
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc A bóp cò súng và đã bắn trúng
vào người hái măng làm cho nạn nhân bị thương nặng (tỉ lệ tổn thương trên 31%).
- Mặt chủ quan: A có lỗi vô ý (vô ý vì quá tự tin). A ý thức được việc bắn súng gần
người hái măng là hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe người đó. A thấy
trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng cho rằng hậu quả không xảy
ra vì A tự tin vào tài bắn súng của mình.
c. Nạn nhân bị thương với tỷ lệ thương tật 21%
Trong trường hợp nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%, lỗi của A ở
đây vẫn là lỗi vô ý vì quá tự tin. Tuy nhiên, vì hậu quả là người bẻ măng bị thương với tỷ lệ
40
41

tổn thương cơ thể 21% tức là mức độ tổn thương dưới 31% nên A chỉ bị xử phạm hành
chính.
Bài tập 15
Ông M và bà H lấy nhau đã được 30 năm nhưng hai người không có con chung.
Ông M thường xuyên vắng nhà, có khi nhiều ngày không hề về nhà. Quan hệ của M và
H cứ như thế đã nhiều năm. Cuộc sống tẻ nhạt của bà H thật sự trở thành địa ngục khi
bà biết ông M lừa dối bà: ông M đang có vợ bé và đang có một con chung với người vợ
này.
Đúng vào ngày sinh nhật thứ 53 của bà H, ông M trở về nhà chìa vào mặt bà H
tờ đơn xin ly hôn. Bà H buồn rầu nói qua hai hàng nước mắt: “Ông thật tàn ác, hôm
nay là sinh nhật tôi cơ mà! Tôi hận ông đã lừa dối tôi suốt bấy nhiêu năm. Không cần
đơn chi hết. Tôi sẽ chết cho ông rảnh nợ mà đi lấy người ta. Ông đừng có cản tôi, tôi đã
quyết vậy rồi”.
Ông M buông lời lạnh lùng: “Bà làm gì mặc xác bà. Tôi cần một chữ ký của bà vô
tờ đơn gửi tòa thôi”.
Nghe vậy bà H leo lên thành cửa sổ (đang mở sẵn), ông M vẫn ngồi yên ở ghế
salon mà không nói gì thêm. Khoảng cách giữa chỗ ông M ngồi và thành cửa sổ là 5m.
Bà H nhảy xuống, đầu đập xuống nền xi măng, vỡ hộp sọ và chết. (Nhà ông M và bà H
ở tầng 5 chung cư T). Theo tin báo của nhân dân, công an đã tạm giữ ông M để làm rõ
cái chết của bà H.
Hãy xác định ông M có tội không? Nếu có là tội gì?
Về mặt khách thể của tội phạm:
- Khách thể bị xâm hại ở đây là mạng sống của bà H.
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan của tội phạm: thể hiện ở việc ông M dù đã thấy bà H leo lên
thành cửa sổ (đang mở sẵn) mà ông M vẫn ngồi yên ở ghế salon mà không nói gì thêm. Với
khoảng cách từ ông M đến bà H là 5m nên ông M vẫn có thể hoàn toàn chạy đến để cứu giúp
bà H.
- Hậu quả của tội phạm: là dẫn đến việc bà H nhảy lầu từ tầng 5 chung cư dẫn đến tử
vong do vỡ hộp sọ.

41
42

- Quan hệ nhân quả: thể hiện ở việc hành vi không cứu giúp của ông M đã là nguyên
nhân đưa đến hậu quả là bà H nhảy lầu dẫn đến tử vong.
Về mặt chủ quan của tội phạm:
- Ông M thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Thể hiện ở việc ông M dù khi thấy việc bà
M leo lên thành cửa sổ mà không can ngăn, cứu giúp bà là nguy hiểm đến tính mạng nhưng
không thực hiện việc cứu giúp
Về chủ thể của tội phạm:
- Khi xảy ra vụ việc, cả ông M và bà H đều có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quan hệ giữa họ vẫn còn là quan hệ hôn nhân hợp pháp và
được pháp luật bảo vệ.
Vì vậy, ông M đã phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 132 Bộ luật Hình sự.
Ông M không có tội vì bà M đứng trên thành cửa sổ không phải là tình tiết nguy hiểm
Bài tập 16
H và B là chiến sĩ công an nghĩa vụ công tác tại đội A vệ binh thuộc Ban tham
mưu Trung đoàn cảnh sát cơ động – Công an tỉnh X. Theo sự phân công của đơn vị, H
và B được giao nhiệm vụ trực bảo vệ đơn vị từ 4 giờ đến 6 giờ sáng. H và B tự phân
công nhau: B trực từ 4 giờ đến 5 giờ, H trực từ 5 giờ đến 6 giờ.
Sau khi trực xong, B vào gọi H dậy để bàn giao ca trực. B giao cho H một khẩu
súng ngắn loại K54 và băng đạn gồm 08 viên. Theo quy định, súng và hộp tiếp đạn
được để riêng trong bao da, chung một dây thắt lưng, khi nhận bàn giao phải kiểm tra
súng đạn. Khi nhận súng, H không kiểm tra theo quy định mà đeo súng vào và ra cổng
trực gác.
Đến 5 giờ 45 phút H đánh kẻng báo thức đơn vị dậy tập thể dục rồi vào gọi C (là
người phụ trách ca trực tiếp theo) dậy để bàn giao việc trực. C tỉnh dậy xếp chăn màn
xong nhưng không ra trực. H từ ngoài trở vào thấy C vẫn ngồi xếp bằng hai chân trên
giường, bèn tiến lại đứng ngay đầu giường C và rút súng K54 ra cầm trên tay phải, kéo
súng lên đạn rồi chĩa nòng súng vào nách trái của C vừa cười đùa, đồng thời bóp cò
làm đạn nổ. C ôm ngực ngã ngửa xuống giường. H hoảng hốt la lên: “Ai bỏ đạn vào
súng?”. Thấy máu trên người C ra nhiều, H đưa C đến bệnh viện cấp cứu, nhưng C đã
chết trên đường đi.
42
43

Kết luận giám định pháp y là: “C chết do đạn bắn ở tầm kề, xuyên ngực và hai lá
phổi, từ hõm nách phía trước bên trái đến vùng lưng phải, gây choáng mất máu cấp”.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội
gì? Tại sao?
Về khách thể của tội phạm: hành vi của H xâm phạm đến tính mạng của C.
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan: là hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp. Cụ thể là khi H được B bàn giao khẩu súng ngắn K54 và băng đạn gồm 08 viên,
đúng theo quy định thì H phải kiểm tra súng và đạn theo quy định mà đeo súng vào và ra
cổng trực gác, dẫn đến việc H không biết trong súng có đạn và vô ý bắn C.
- Hậu quả của hành vi: là C bị bắn và chết do đạn bắn ở tầm kề, xuyên ngực và hai lá
phổi, từ hõm nách phía trước bên trái đến vùng lưng phải, gây choáng mất máu cấp.
Về mặt chủ quan:
- Lỗi của H: là lỗi vô ý do cẩu thả. H hoàn toàn có thể biết trước là trong súng có đạn
và sẽ không thực hiện hành vi khách quan là bóp còi nổ súng vào C, nhưng do H đã không
thực hiện việc kiểm tra súng đạn khi được B bàn giao nên đã không nhìn thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Chủ thể của tội phạm: tại thời điểm xảy ra vụ việc trên thì H là người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự căn cứ tại Điều 30 Luật Nghĩa vụ
quân sự 2015 quy định về độ tuổi độ tuổi đăng ký đi nghĩa vụ công an là từ đủ 18 tuổi đến
hết 25 tuổi hoặc đến hết 27 tuổi đối với công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã
được tạm hoãn gọi nhập ngũ.
Do đó, H phạm tội Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính theo khoản 1 Điều 129 Bộ luật Hình sự.
Xử ở Điều 128. Đối với chiến sĩ, công an và các vụ gây chết người do sử dụng súng
thì xét ở Điều 128.
Bài tập 17
Khoảng 23 giờ ngày 18/11/2016, M cùng vợ là N đi bộ từ nhà mẹ ruột về nhà trọ.
Khi ra đến đầu đường thì N ngất xỉu. Hay tin, mẹ M từ trong nhà chạy ra chạy đến
chăm sóc chị N; còn M chạy đi tìm người nhờ phụ chở vợ đi bệnh viện cấp cứu. Lúc

43
44

này, M nhìn thấy anh T là người chạy xe ôm đang ngồi trong quán nhậu gần đó liền
đến năn nỉ anh này chở vợ mình đi cấp cứu nhưng bị từ chối. Thấy vợ mình đang trong
tình trạng nguy kịch mà anh T không thèm quan tâm nên M lớn tiếng với anh T dẫn
đến cãi nhau rồi M dùng tay đánh T. Sau đó, anh T bỏ đi ra đến lề đường thì bị M chạy
theo dùng tay nắm cổ áo đẩy ra đường. Lúc đó, anh K đi xe máy (không bật đèn xe) đã
tông phải anh T làm T chết.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của M có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội
gì? Tại sao?
Về khách thể bị xâm hại trong trường hợp này là tính mạng của anh T.
Về chủ thể của tội phạm là M và M có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi để
chịu trách nhiệm hình sự.
Về mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: M lớn tiếng với anh T dẫn đến việc cãi nhau rồi M dùng tay
đánh T. Sau đó thì T bỏ đi ra đến lề đường thì bị M chạy theo dùng tay nắm cổ áo đẩy ra
đường.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở việc anh T bị xe tông chết.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thể hiện ở việc M ra tay đánh anh T
và đẩy anh T ra đường là nguyên nhân dẫn đến việc anh T bị xe tông chết.
Về mặt chủ quan: Lỗi của M là lỗi vô ý do cẩu thả. Anh M không nhận thức được
việc trên đường đang có anh K đi xe máy do anh K không bật đèn xe nên khi anh M đẩy anh
T xuống đường thì bị anh K tông và tử vong.
Vì vậy, M đã phạm Tội Vô ý gây chết người theo khoản 1 Điều 128 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 18
A và B là vợ chồng có một đứa con chung là C (8 tháng tuổi). Cuộc sống gia đình
khó khăn, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. A thường nhậu nhẹt say xỉn về đánh
đập mẹ con chị B. Đêm 29/10/2016, sau khi đi nhậu về, A tiếp tục đánh đập, chửi bới
chị B rồi vứt quần áo đuổi hai mẹ con ra khỏi nhà mặc dù ngoài trời đang mưa bão.
Chị B khóc van xin A mở cửa nhưng A kiên quyết không chịu. Quá tuyệt vọng, chị B
bế con ra bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát. Lúc này, ông X đi ngang qua thấy
vậy nhảy xuống sông cứu hai mẹ con nhưng chỉ cứu được chị B, cháu C chết do ngạt
nước.
44
45

Trong tình huống trên, ai phạm tội? Nếu có phạm tội gì? Tại sao?
Trong tình huống trên, A và B là người phạm tội.
a. Đối với A:
- Hành vi của A là bức tử mẹ con chị B, được quy định tại Điều 130 Bộ luật Hình sự.
Về khách thể của tội phạm:
- Tội phạm xâm phạm đến tính mạng của con người.
- Đối tượng tác động: là mẹ con chị B - là người lệ thuộc vào A. Sự lệ thuộc này do
quan hệ hôn nhân, gia đình.
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan: anh A đã có nhiều lần nhậu nhẹt say xỉn về đánh đập mẹ con
chị B. Và vào đêm 29/10/2016 thì A lại tiếp tục đánh đập chửi bới chị B rồi vứt quần áo đuổi
hai mẹ con ra khỏi nhà mặc dù ngoài trời đang mưa bảo. Theo Nghị quyết số 04/HĐTP thì
những hành vi trên của anh A được cho là thường xuyên ức hiếp, ngược đãi mẹ con chị B,
và là nguyên nhân chính khiến chị B bị giày vò về tư tưởng, tình cảm, thấy bế tắc mà tự sát.
- Hậu quả của hành vi trên thể hiện ở việc chị B bế con ra bờ sống gần nhà nhảy tự
sát, mặc dù chị B được cứu sống, cháu C chết, tuy nhiên việc nạn nhân bị tử vong hay không
không phải là dấu hiệu định tội của tội phạm này.
- Mối quan hệ nhân quả: Hành vi nhiều lần ngược đãi, đánh đập mẹ con chị B và
hành vi đuổi hai mẹ con chị ra khỏi nhà là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc chị B bị giày
vò về tư tưởng, tình cảm, thấy bế tắc mà tự sát.
Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của A là cố ý gián tiếp, bởi A có đủ nhận thức
hành vi của mình có khả năng làm mẹ con chị B tự sát, tuy A không mong muốn nhưng vẫn
mặc kệ việc tự sát xảy ra.
Về chủ thể của tội phạm là A và A có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi để chịu
trách nhiệm hình sự.
Như vậy, A phạm tội bức tử chị B được quy định tại khoản 1 Điều 130 Bộ luật Hình
sự.
b. Đối với B:
- Hành vi của chị B là giết bé C, được quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự.

45
46

Về khách thể của tội phạm: là quyền được sống của bé C. Đối tượng tác động là con
người là C.
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan: là chị B đã trái phép tước bỏ mạng sống của bé C bằng cách
ôm bé C nhảy sông tự sát.
- Hậu quả của hành vi là trực tiếp dẫn đến việc làm cho bé C tử vong do ngạt nước.
Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của chị B là lỗi cố ý trực tiếp bởi chị B thấy trước
và nhận thức rõ hành vi của mình có thể làm bé C chết và chị B cũng mong muốn hậu quả
này diễn ra.
Về chủ thể của tội phạm là chị B và chị B có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, vì bé C mới 8 tháng tuổi nên chị B đã phạm Tội giết người được quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 19
A và B yêu nhau nhưng bị cha mẹ B phản đối vì cho rằng không môn đăng hộ
đối. Sau nhiều lần thuyết phục nhưng cha mẹ vẫn không thay đổi ý kiến, thất vọng, A
và B bàn nhau cùng tự sát. Họ chuẩn bị sẵn hai sợi dây thừng rồi cùng nhau đến khúc
sông vắng người. A giúp B trói người lại, sau đó tự trói mình để cùng nhau nhảy xuống
sông. Hãy xác định A có phải chịu TNHS hay không trong các tình huống sau và nếu có
thì phạm tội gì?
1. A và B cùng nhảy xuống sông sau khi đã bị trói. Do A tự trói nên dây thừng
trói A lỏng ra nên A không chết
Về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của A là giúp B trói người lại,
tạo điều kiện thuận lơi để B tự sát. Hành vi của A là nguyên nhân gây ra cái chết của B và
nó chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong việc B tự giết bản thân mình.
Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp vì hành vi giúp đỡ của
A đã dẫn đến việc B có hành vi tự sát; A biết rõ hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả này
nhưng vì mục đích từ ban đầu là giúp đỡ B tự sát nên đã thực hiện hành vi này.
Khách thể bị xâm phạm là quyền được sống của B. Đối tượng tác động là con người
là B.

46
47

Chủ thể của tội phạm là A và A có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Như vậy, A đã tạo điều kiện thuận lợi để B tự sát nên A phạm tội giúp người khác tự
sát quy định tại điểm b khoản 1 Điều 131 Bộ luật Hình sự.
2. Do bị trói quá chặt, B không thể tự nhảy được nên đã nhờ A đẩy mình xuống
sông trước. Kế đến A cũng nhảy xuống sông. B chết, A được cứu sống
Về khách thể của tội phạm: A xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ tính
mạng của con người cụ thể là tính mạng của B.
Về mặt khách quan của tội phạm:
- A có hành vi khách quan là trói B và đẩy B xuống sông (Dù B không muốn sống
nữa nhưng không tự thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của mình mà nhờ A thực hiện
thì hành vi của A không phải là giúp người khác tự sát mà là tước đoạt tính mạng người
khác), trực tiếp dẫn đến hậu quả là B chết.
Về mặt chủ quan của tội phạm: A phạm lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì, A có thể thấy trước
hậu quả là B chết khi A đẩy B xuống sông và mong muốn hậu quả B chết xảy ra.
Chủ thể của tội phạm là A và A có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Vì vậy, A đã phạm tội giết người được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình
sự.
Bài tập 20
Ông K mắc bệnh hiểm nghèo nằm liệt giường gần 01 năm. Ông mong cho cái
chết sớm đến nhưng không biết làm cách nào. Ông đem tâm sự của mình than thở với
B là một y tá thường chăm sóc sức khỏe cho ông. Sau đó ông đề nghị B giúp ông sớm
kết thúc sự sống của mình. B đồng ý và thống nhất cùng với ông K về việc chích cho
ông một liều thuốc độc. Sau khi nhất trí, B mang xi-lanh và hai ống thuốc đến tiêm cho
ông K. Sáng hôm sau, ông K chết do bị chích thuốc độc. Hãy xác định hành vi của B có
phải là tội phạm không? Nếu có là tội gì?
Về khách thể của tội phạm bị xâm phạm là quyền được sống của K. Đối tượng tác
động là con người K.

47
48

Về mặt khách quan của tội phạm: B có hành vi khách quan là tước bỏ trái phép tính
mạng của người khác bằng cách lợi dụng nghề nghiệp: B là y tá nên B có thể tiếp cận được
với các công cụ phương tiện phạm tội như xi-lanh và thuốc để tiêm cho ông K. Và hành vi
của B là nguyên nhân dẫn đến hậu quả là nạn nhân tử vong.
Về mặt chủ quan: B đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp: B biết rõ hành vi
tiêm thuốc động là sẽ gây ra cái chết cho ông K và mong muốn hậu quả xảy ra vì đã thống
nhất và đồng ý với ông K về việc chích thuốc độc cho ông K để ông sớm kết thúc sự sống
của mình.
Chủ thể của tội phạm là B và B có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Vì vậy, B là phạm Tội giết người thuộc trường hợp được quy định tại điểm k khoản 1
Điều 123 Bộ luật Hình sự (giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp).
Bài tập 21
A là người thường dậy sớm mang cây gậy dài có gắn vợt đi vợt ốc nhồi ở các ao
bèo. Một hôm A đang đi vợt ốc như thế thì phát hiện B là người hàng xóm đang sắp
chết đuối dưới ao. Tuy A biết rõ B là người không biết bơi (lội) nhưng vì trong cuộc
sống B thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau với gia đình A, thậm chí có lần B đã ném cả
phân vào bể nước ăn nhà A nên khi thấy B sắp chết đuối A không những không thò
gậy xuống cứu B mà còn mong cho B bị chết để khỏi mâu thuẫn với gia đình mình.
Hãy xác định tội danh cho hành vi của A trong các tình huống sau:
a. A đứng yên trên bờ ao chờ tới khi B chìm xuống hẳn rồi bỏ đi. Theo kết quả
giám định pháp y B chết do bị ngạt nước
Về khách thể của tội phạm: là B đang trong tình huống nguy hiểm đến tính mạng.
Về mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan: A đã đứng yên trên bờ ao khi thấy B đang sắp bị chết đuối
dưới ao mà biết rõ là B không biết B. A đã hoàn toàn có điều kiện để cứu giúp B (A có cây
gậy dài có gắn vợt).
- Hậu quả là B bị chìm xuống hẳn thì A bỏ đi khiến B chết do bị ngạt nước.
- Quan hệ nhân quả ở đây là việc A không cứu giúp B trong trường hợp này là
nguyên nhân đưa đến hậu quả b tử vong.

48
49

Về mặt chủ quan: B thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. A nhận thức được B là người
không biết bơi và khi thấy B sắp chết đuối thì A đã mong cho B bị chết để khỏi mâu thuẫn
với gia đình của mình.
Chủ thể của tội phạm là A và A có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Vì vậy, A phạm tội Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng được quy định tại khoản 1 Điều 132 Bộ luật Hình sự.
b. Ngay lúc B gần chìm (A vẫn đứng trên bờ ao) thì có anh C (chủ ao) nhảy
xuống vớt B lên và B đã được cứu sống
Trường hợp này A không phạm tội. Vì Tội không cứu giúp người đang ở trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng quy định tại Điều 132 Bộ luật Hình sự yêu cầu hậu quả nạn
nhân chết là dấu hiệu bắt buộc. Trong trường hợp này C đã nhảy xuống cứu và B không chết
nên A không thể cấu thành tội phạm.
Bài tập 22
Sáng ngày 20/10/2016, N (40 tuổi) đi ra đồng làm ruộng, khi qua chiếc cầu ở giữa
đồng thì nghe thấy tiếng kêu cứu của mấy đứa trẻ chăn trâu báo có người sắp chết
đuối, nhìn xuống dưới kênh thì N phát hiện có một đứa trẻ khoảng 12 tuổi chới với
dưới nước như đang sắp chìm. N liền nhảy xuống kênh để cứu đứa trẻ. Khi N nhảy
xuống thì đứa trẻ lập tức bơi nhanh vào bờ rồi chạy ra phía mấy đứa trẻ chăn trâu
đang cười khoái chí vì có người bị mắc lừa chúng. N bực bội quay về nhà thay đồ và
tiếp tục đi làm. Chiều tối hôm đó, khi N đi làm về qua chiếc cầu thì cũng có mấy đứa
trẻ kêu có người chết đuối dưới kênh và nhìn xuống thì N cũng thấy có người đang
ngụp lặn như sắp chết đuối giống lúc sáng. Vì cho rằng lũ trẻ lại lừa mình nên N bỏ về.
Khoảng 8 giờ tối, N nghe tin có một đứa trẻ chết đuối ở dưới kênh. Lúc này, N mới biết
việc có người sắp chết đuối ở dưới kênh là có thật. Hôm sau, đám trẻ chăn trâu khai
với công an là đã nhờ ông N cứu nhưng ông N không cứu.
Hãy xác định hành vi của N có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? Tại
sao?
Hành vi của ông N không phạm tội:
- Chủ thể: Ông N (40 tuổi) là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự.

49
50

- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm là tính mạng của người khác.
+ Đối tượng tác động của tội phạm là đứa trẻ đang trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng (chết đuối).
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: được thể hiện dưới dạng không hành động. Ông N không ý
thức được nạn nhân và tình trạng nguy hiểm của nạn nhân (có mấy đứa trẻ kêu có người chết
đuối và ông N nhìn xuống thì thấy có người đang ngụp lặn như sắp chết đuối dưới kênh
giống lúc sáng), nhưng không ý thức tình trạng thực sự của nạn nhân bởi lẽ sáng ngày
20/10/2016 ông N nghe thấy tiếng kêu cứu của bọn trẻ chăn trâu là có người sắp chết đuối và
ông N liền nhảy xuống cứu giúp người bị nạn nhưng đó lại là mấy đứa trẻ chăn trâu lừa ông.
+ Hậu quả: một đứa trẻ chết đuối.
+ Quan hệ nhân quả: hành vi không cứu giúp của N đã dẫn đến hậu quả đứa trẻ tử
vong.
- Mặt chủ quan: vào sáng cùng ngày, ông N nghe thấy tiếng kêu cứu của mấy đứa trẻ
chăn trâu là có người sắp chết đuối và ông đã nhảy xuống cứu giúp nhưng lại bị lừa, dẫn đến
khi sự việc buổi chiều xảy ra ông N đã không tin tưởng, không nhận thức được nạn nhân
đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, ông N không nhận thức được nếu không
được cứu giúp kịp thời có thể sẽ bị tử vong vì ông cho rằng lũ trẻ lại lừa mình như lúc sáng
nên ông mới không thực hiện việc cứu giúp.
Do đó, ông N không có lỗi cố ý, hành vi của ông N không thoả mãn cấu thành Tội
không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132 Bộ luật
Hình sự) bởi vì xét về mặt chủ quan của tội phạm thì tội phạm phải được thực hiện với lỗi cố
ý, người phạm tội nhận thức được nạn nhân đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,
nếu không cứu giúp kịp thời có thể dẫn đến tử vong mà vẫn không thực hiện việc cứu giúp.
Tuy nhiên, ông N cho rằng ông lại bị lừa như lúc sáng nên ông không hề biết việc ông không
cứu giúp sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, không phải ông N nhận thức mà
không cứu giúp vì đến 8 giờ tối, ông N nghe tin có đứa trẻ chết đuối ở dưới kênh thì lúc này
ông mới biết sự việc là có thật. Cho nên, hành vi của ông N trong trường hợp này không cấu
thành Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng tại Điều
132 Bộ luật Hình sự.

50
51

Bài tập 23
M, 39 tuổi, là tổ trưởng quản lý điện ở địa phương với nhiệm vụ trông giữ, đóng
cắt điện và thu tiền điện của người sử dụng. Gần đây, ông C là người sử dụng điện
thường xuyên cố tình không nộp tiền điện. Sau nhiều lần nhắc nhở mà vẫn không thu
được tiền điện của ông C, M đã thông báo cắt điện. Thấy bị mất điện, ông C cầm một
thanh sắt cùng với em trai là Đ trên tay có một thanh gỗ chạy ra xông vào đánh vào
người M. Lúc đó, M sẵn có trong tay một cây kiếm (M mang theo người dùng để phát
cành cây bảo vệ đường dây điện) chống cự lại. C và Đ bỏ chạy. M đuổi theo chém nhiều
nhát từ phía sau lưng của C.
Hãy xác định tội danh trong vụ án này với các tình huống như sau:
1. Thương tích gây ra cho C có tỷ lệ thương tật là 27%
Xét khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự, ta thấy:
Có sự tấn công nguy hiểm đáng kể và trái pháp luật, sự tấn công xâm phạm quyền, lợi
ích chính đáng của người bị tấn công, sự tấn công đang hiện hữu là hành vi tấn công đang
xảy ra (Ông C và ông Đ đánh vào người ông M; hai người cùng tấn công 1 người; Trong khi
ông C cầm thanh sắt và ông Đ cầm thanh gỗ là những phương tiện nguy hiểm, việc đánh vào
người ông M có thể gây tổn thương nguy hiểm cho ông M). Do đó, có căn cứ để phát sinh
quyền phòng vệ của ông M. Ông M chống cự lại nhằm gạt bỏ sự tấn công nhằm phòng vệ.
Trong trường hợp này, sự chống cự của ông M là phòng vệ chính đáng. Sau đó, C và Đ đã
bỏ chạy, tình trạng nguy hiểm đã không còn nhưng M lại đuổi theo chém nhiều nhát từ phía
sau của C (vượt ra khỏi giới hạn phòng vệ chính đáng). Trong trường hợp này, hành vi của
M không còn được xem là phòng vệ chính đáng mà đây là hành vi cố ý gây thương tích.
- Chủ thể: M là người thực hiện tội phạm, M có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: đối tượng tác động là C, quan hệ xã hội bị xâm phạm là quan hệ về nhân
thân được pháp luật bảo vệ.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: Ông M sử dụng cây kiếm là hung khí nguy hiểm (theo tiểu
mục 3.1 mục 1 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006) để cố ý gây thương tích cho
ông C (vượt ra khỏi giới hạn phòng vệ chính đáng).

51
52

+ Hậu quả: gây tỷ lệ tổn thương cơ thể là 27% cho ông C. Để cấu thành tội phạm thì
tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% trở lên. Tỷ lệ tổn thương cơ thể mà ông M gây ra cho C
trong trường hợp này là 27%, đã đủ cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác tại Điều 134 Bộ luật Hình sự.
+ Quan hệ nhân quả: hành vi ông M dùng kiếm đuổi theo chém ông C dẫn đến hậu
quả là ông C bị tổn thương cơ thể 27%.
- Mặt chủ quan: hành vi của M là lỗi cố ý trực tiếp. M nhận thức việc sử dụng hung
khí nguy hiểm chém C là nguy hiểm, có thể gây tổn thương cho C nhưng M vẫn mong muốn
hậu quả xảy ra.
Như vậy, ông M phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự: “đ) Gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều
này”.
2. Thương tích gây ra cho M có tỷ lệ thương tật là 08%, thương tích gây ra cho C có
tỷ lệ thương tật là 51%
Các dấu hiệu pháp lý trong trường hợp 2 tương tự như trường hợp 1. Điểm khác là
hậu quả tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông C trong trường hợp 2 là 51%. Như vậy, ông M phạm
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo điểm c khoản 3
Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Về việc C, D gây thương tích cho M:
- Chủ thể: C và Đ là người thực hiện tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: đối tượng bị tác động là sức khỏe của M, quan hệ xã hội bị xâm phạm là
quan hệ về nhân thân được pháp luật bảo vệ.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: C sử dụng thanh sắt và Đ sử dụng thanh gỗ là những phương
tiện nguy hiểm (CSPL: tiểu mục 3.1 mục 1 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006)
để cố ý gây thương tích cho M.
+ Hậu quả: gây ra cho M tỷ lệ tổn thương cơ thể là 8%.

52
53

+ Quan hệ nhân quả: hành vi ông C cầm một thanh sắt cùng với em trai là Đ trên tay
có một thanh gỗ chạy ra xông vào đánh vào người M dẫn đến hậu quả là tỷ lệ tổn thương cơ
thể của M là 8%.
- Mặt chủ quan: hành vi của C và Đ là lỗi cố ý trực tiếp. Cả hai nhận thức việc sử
dụng phương tiện nguy hiểm đánh M là nguy hiểm, có thể gây tổn thương cho M nhưng C
và Đ vẫn mong muốn hậu quả xảy ra.
Thông thường, để cấu thành tội phạm thì tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% trở lên.
Đối với các trường hợp được luật định (Trong đó trường hợp sử dụng phương tiện
nguy hiểm quy định tại tiểu mục 3.1 NQ 01/2006 NQ-HĐTP) thì tỷ lệ tổn thương cơ thể
dưới 11% cũng đủ cấu thành tội phạm. Mà C và Đ dùng phương tiện nguy hiểm (thanh sắt,
thanh gỗ) gây thương tích cho M với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 8%.
Như vậy, hành vi của C và Đ đủ cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 24
T là kẻ sống lang thang. Đầu tháng 2/2016, T đã cho kẹo để rủ một cháu bé 3
tuổi đi theo và đưa cháu vào TP.HCM. Để có thể xin tiền được nhiều, T đã dùng tay
đánh vào đầu cháu bé cho đến khi chảy máu rồi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bệnh viện
Chợ Rẫy xác định cháu bị chấn thương sọ não. Sau khi bệnh viện băng bó và cấp thuốc
cho cháu, T đã bế cháu ra khỏi bệnh viện rồi đưa đi ăn xin trên các phố. Ngày
19/07/2016, T lại bẻ gẫy chân trái của cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng I bó bột rồi
tiếp tục dẫn cháu đi ăn xin. Ngày 13/08/2016, T lại bẻ gãy tay cháu, đồng thời rạch mặt
nhiều nơi, cắt môi trên của cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng II bó bột, sau đó lại
tiếp tục đưa cháu đi ăn xin. Đến ngày 15/08/2016, thấy cháu bé bị T đánh đập rất dã
man trên đường phố, nhiều người dân đã báo công an bắt giữ.
Qua giám định kết luận: “Cháu bé bị gãy kín các xương đoạn 1/3 dưới xương
cánh tay phải và trái, bị di chứng lệch trục chi phải, vỡ đầu trên xương chày trái, di
chứng cứng gối trái, mặt bị dị dạng. Tỷ lệ thương tích cháu phải gánh chịu là 55%”.
1. T phạm tội gì? Tại sao?
Hành vi của T:
- Chủ thể: T là người thực hiện tội phạm, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

53
54

- Khách thể: đối tượng tác động là cháu bé (3 tuổi) và sức khỏe của cháu bé, quan hệ
xã hội bị xâm phạm là quan hệ về nhân thân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến nhân
phẩm và sự phát triển bình thường của cháu bé.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: T dùng thủ đoạn để chiếm giữ (cho kẹo để rủ một cháu bé 3
tuổi đi theo) cháu bé là người dưới 16 tuổi, cố ý đánh vào đầu bằng tay cho đến khi chảy
máu (là khu vực trọng yếu trên cơ thể có thể gây nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng của nạn
nhân, chưa kể nạn nhân chỉ mới 3 tuổi, còn đang trong giai đoạn phát triển của hộp sọ nên
hộp sọ sẽ chưa đủ cứng cáp như một người trưởng thành bình thường, lúc này đánh vào đầu
có thể gây tổn thương càng nghiêm trọng hơn; việc đánh vào đầu cho đến khi chảy máu còn
cho ta thấy sự mãnh liệt, bạo lực của hành vi), cố ý bẻ gãy tay, chân, rạch mặt, đánh đập dã
man.
+ Hậu quả: gây tổn hại cho cháu bé tỷ lệ tổn thương cơ thể là 55%.
+ Quan hệ nhân quả: hành vi dùng thủ đoạn “cho kẹo” để chiếm giữ cháu bé 3 tuổi,
đánh đập cháu bé dẫn đến hậu quả cháu bé bị gãy kín các xương đoạn 1/3 dưới xương cánh
tay phải và trái, bị di chứng lệch trục chi phải, vỡ đầu trên xương chày trái, di chứng cứng
gối trái, mặt bị dị dạng. Tỷ lệ thương tích cháu phải gánh chịu là 55%.
- Mặt chủ quan: dùng thủ đoạn “cho kẹo” để dụ dỗ cháu bé 3 tuổi đi theo mình, đánh
đập cháu bé dã man, nhiều lần (tỷ lệ tổn thương lên đến 55%) để lợi dụng lòng thương của
người khác để xin được nhiều tiền. Như vậy đây là lỗi cố ý trực tiếp.
Như vậy, T đủ các dấu hiệu cấu thành Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153)
và Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của người khác (Điều 134 Bộ luật
Hình sự).
2. Cần áp dụng điều khoản nào với T?
Cần áp dụng các điều khoản sau đối với T:
- Đối với Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự) thì áp dụng
theo khoản 1 Điều này: “e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm
thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%”.
- Đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của người khác (Điều
134 Bộ luật Hình sự) thì áp dụng theo điểm c khoản 3 Điều này: “Người nào dùng vũ lực, đe

54
55

dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người
dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm”.
T có hành vi dùng thủ đoạn “cho kẹo” để dụ dỗ cháu bé 3 tuổi đi theo mình. Sau khi
dụ dỗ nạn nhân đi theo mình, T bắt đánh đập dã man cháu bé nhiều lần nhằm mục đích lấy
lòng thương cảm của người khác để xin tiền. Thông qua giám định kết luận tỷ lệ tổn thương
cơ thể mà T gây ra cho cháu bé là 55% nên áp dụng điểm e khoản 2 Điều 153 và điểm c
khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự là hợp lý.
Bài tập 25
Năm 2015, bị ông X - Phó công an xã lập biên bản về các hành vi đánh nhau, gây
rối trật tự công cộng và chống người thi hành công vụ, A nuôi lòng thù hận. Sau khi
ông X về hưu, tối ngày 22/02/2017, A rủ B đến nhà ông X để hành hung. Khi đến nơi, A
và B xông vào đánh và đạp làm ông X bật ngửa xuống nền nhà và chết do chấn thương
sọ não.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội hay không? Nếu có thì phạm
tội gì? Tại sao?
Hành vi của A có phạm tội, cụ thể:
- Chủ thể: A là người thực hiện tội phạm, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự
- Khách thể: đối tượng tác động là tính mạng của ông X, quan hệ xã hội bị xâm phạm
là quan hệ về nhân thân được pháp luật bảo vệ.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: A xông vào đánh và đạp làm ông X bật ngửa xuống nền nhà.
+ Hậu quả: ông X chấn thương sọ não tử vong.
+ Quan hệ nhân quả: Hành vi đánh và đạp của ông X của A đã dẫn đến hậu quả ông
X bật ngửa xuống nền nhà và chết do chấn thương sọ não.
- Mặt chủ quan: hành vi của A là hành vi là hỗn hợp lỗi, tức là A phạm tội cố ý trong
việc gây ra thương tích nhưng A không hướng tới việc đạt một hậu quả xác định nên việc
định tội danh phụ thuộc vào hậu quả xảy ra trên thực tế (ông X tử vong). Do đó, A vô ý đối
với hậu quả chết người.
A phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác tại điểm
a khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
55
56

Bài tập 26
Ngày 10/3/2017, do có mâu thuẫn từ trước, A đang điều khiển xe máy chở B thì
bị một số thanh niên chặn xe, dùng mũ bảo hiểm đánh vào đầu. A và B bỏ chạy về nhà
lấy một cái ná cao su rồi đến chỗ bị đánh lúc nãy tìm đám thanh niên để trả thù. Lúc
này, thấy X đang điều khiển chạy ngược chiều, A hô to: “Dừng xe lại” rồi A và B cùng
chạy ra chặn xe với mục đích là nếu đúng người trong đám thanh niên kia thì đánh. X
không dừng xe mà kéo ga bỏ chạy. Thấy vậy, A dùng ná cao su bắn trúng vào đầu X.
Còn B, trước đó đã nhặt một viên gạch (loại gạch xây 04 lỗ), khi xe của X chạy đến thì
B dùng viên gạch ném trúng vào ngực X làm X loạng choạng gục xuống. Sau đó, X
được mọi người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện nhưng do vết thương nặng nên X đã chết.
Tại bản kết luận pháp y, kết luận nguyên nhân tử vong của X là trụy tim mạch
cấp do vỡ tim. Ngoài ra còn có vết thương đỉnh trán phải tỉ lệ thương tích là 12%.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội hay không? Nếu có thì
phạm tội gì? Tại sao?
a. Đối với trường hợp của A
- Chủ thể: A là người thực hiện tội phạm, A có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: đối tượng tác động là sức khỏe của ông X, quan hệ xã hội bị xâm phạm
là quan hệ về nhân thân được pháp luật bảo vệ.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: A gây thương tích cho ông X là dùng ná cao su bắn trúng vào
đầu X
+ Hậu quả: là vết thương đỉnh trán phải với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 12%. Bên cạnh
đó, A sử dụng ná cao su - là hung khí nguy hiểm (theo tiểu mục 3.1 mục 1 Nghị quyết
01/2006/NQ-HĐTP).
+ Quan hệ nhân quả: A dùng ná cao su bắn vào đầu ông X khiến cho ông có vết
thương đỉnh trán phải tỷ lệ thương tích là 12%.
- Mặt chủ quan: hành vi của A có lỗi cố ý trực tiếp do A biết sử dụng ná cao su - là
hung khí nguy hiểm - bắn vào đầu ông X - đầu là khu vực trọng yếu có thể gây nguy hiểm
trực tiếp tới tính mạng của ông X đồng thời mong muốn hậu quả đó xảy ra.

56
57

Tại bản kết luận pháp y, kết luận nguyên nhân tử vong của X là trụy tim mạch cấp do
vỡ tim. Ngoài ra còn có vết thương đỉnh trán phải tỷ lệ thương tích 12%. Vết thương đỉnh
trán phải do A gây ra dù không phải là nguyên nhân chính dẫn đến việc X tử vong nhưng đã
gây thương tích cho X với tỉ lệ 12%. Do đó, A phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại đến sức khỏe người khác theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
b. Đối với trường hợp của B
- Chủ thể: B có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị xâm phạm: tính mạng của ông X.
+ Đối tượng tác động của tội phạm: ông X.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: thể hiện ở dạng hành động, cụ thể B dùng viên gạch (loại gạch
xây 04 lỗ) ném trúng vào ngực ông X.
+ Hậu quả: khiến cho ông X tử vong vì trụy tim mạch cấp do vỡ tim.
+ Quan hệ nhân quả: B dùng viên gạch (loại gạch xây 04 lỗ) ném trúng ngực ông X
khiến ông X tử vong vì trụy tim mạch cấp do vỡ tim.
- Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, cụ thể: B biết dùng
viên gạch (loại gạch xây 04 lỗ) ném trúng ngực ông X có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe
của ông nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra.
Như vậy, B phạm Tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 27
Tối ngày 16/7/2016, A chở vợ là B (đang mang thai 2 tháng) đi công việc về. Đến
một hẻm nhỏ thì A bị T và H chặn lại gây sự do hai bên có mâu thuẫn trước đó. T và H
cầm nón bảo hiểm đập vào đầu A làm A ngã gục ngay bờ tường cạnh lối vào của một
dãy nhà trọ. Thấy chồng bị đánh nhiều, B lao đến đỡ đòn cho chồng. T và H dùng nón
bảo hiểm đánh luôn B. Thấy vậy, A hét lên: “Chạy!” và chạy vào trong một phòng trọ.
A nhìn lại thấy vợ mình không chạy kịp mà đang bị T và H đấm đá. Xót vợ, A lấy con
dao lao từ phòng trọ ra đâm vào lưng H. Kết quả, H chết trên đường đi cấp cứu do vết
dao đâm trúng phổi trái. T chạy thoát. Chị B được đưa đi cấp cứu nhưng đã bị sẩy thai
do bị T và H đánh (tỉ lệ thương tật 27%).
57
58

Trong tình huống trên, ai phạm tội? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?
Trong tình huống trên, T và A là người phạm tội. (H đã chết nên không còn năng lực
chịu trách nhiệm hình sự)
a. Phân tích hành vi của T
- Chủ thể: T có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: đối tượng tác động là sức khỏe, tính mạng của A và B, quan hệ xã hội bị
xâm phạm là quan hệ về nhân thân được pháp luật bảo vệ.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: dùng nón bảo hiểm đập vào đầu A và dùng nón bảo hiểm đánh
B; đấm đá B.
+ Hậu quả: B bị sảy thai, tỷ lệ tổn thương cơ thể 27%.
+ Quan hệ nhân quả: T cùng H cầm nón bảo hiểm đánh A và B khiến cho B bị tổn
thương 27% và khiến cho chị bị sảy thai.
- Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, cụ thể: T đã biết trước
việc mình tấn công bằng nón bảo hiểm có thể khiến cho A và B bị thương nhưng vẫn mong
muốn xảy ra. Tuy nhiên, ngoài bị tổn thương 27%, chị B còn bị sảy thai.
Trường hợp 1: Chị B mang thai 2 tháng có thể thấy được dấu hiệu bên ngoài cơ thể -
trong trường hợp này thì T đã thấy trước hậu quả có thể khiến chị sảy thai nhưng vẫn thực
hiện hành vi phạm tội.
Trường hợp 2: Chị B mang thai 2 tháng nhưng không thấy được dấu hiệu bên ngoài
cơ thể - trong trường hợp này T không thấy trước được hậu quả làm B sảy thai.
Như vậy, nếu trong trường hợp 1, T sẽ phạm Tội cố ý gây thương tích tại điểm đ
khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự; nếu trong trường hợp 2, T sẽ phạm Tội cố ý gây thương
tích tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
b. Phân tích hành vi của A
- Chủ thể: A có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Khách thể: đối tượng tác động là sức khỏe, tính mạng của H, quan hệ xã hội bị xâm
phạm là quan hệ về nhân thân được pháp luật bảo vệ.
- Mặt khách quan:
58
59

+ Hành vi khách quan: dùng dao đâm vào lưng H


+ Hậu quả: H chết trên đường đi cấp cứu do vết dao đâm trúng phổi trái
+ Quan hệ nhân quả: việc A dùng dao đâm vào lưng H đã khiến cho H chết.
- Mặt chủ quan: B (vợ của A, đang mang thai 2 tháng) bị tấn công bởi T và H bằng
nón bảo hiểm. Khi A bỏ chạy, B không chạy kịp nên vẫn tiếp tục bị T và H đấm đá. Chứng
kiến cảnh tượng đó, trạng thái tinh thần của A bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của T và H đối với vợ mình, dẫn đến hành vi lấy dao đâm vào lưng H. Do đó,
căn cứ theo Đ125 Bộ luật Hình sự, A phạm Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh.
Bài tập 28
A (20 tuổi) là sinh viên đại học quen với B (15 tuổi) là học sinh lớp 9. Trong quá
trình yêu nhau, A đã quan hệ tình dục với B và làm cho B có thai khi B mới 15 tuổi 6
tháng. Sự việc trên bị ông C là cha của B phát hiện và C yêu cầu A phải cưới B, nếu A
không đồng ý thì sẽ tố cáo. A đã nói lại yêu cầu của C với cha mẹ mình là ông D và bà
E và hai người đã đồng ý. Sau đó, C, D, E đã tổ chức đám cưới cho A và B.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Nếu có thì phạm
tội gì? Tại sao?
Trong trường hợp này A có phạm tội, bởi lẽ các hành vi của A đã cấu thành nên Tội
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự.
- Chủ thể: A (20 tuổi) đủ năng lực trách nhiệm hình sự
- Khách thể: đối tượng bị tác động là B (15 tuổi 6 tháng), quan hệ xã hội bị xâm phạm
là sự phát triển bình thường về thể chất, tâm sinh lý của B.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: có hành vi giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
là B.
+ Hậu quả: B có thai.
+ Quan hệ nhân quả: việc A quan hệ tình dục đã khiến cho B có thai khi mới 15 tuổi
6 tháng.

59
60

- Mặt chủ quan: A quan hệ tình dục với B (15 tuổi) và B tự nguyện. A có lỗi cố ý trực
tiếp. Mặc dù A và B tự nguyện quan hệ tình dục, nhưng B (15 tuổi) là đối tượng mà Nhà
nước bảo vệ, tội phạm hoàn thành khi A và B cùng thống nhất thực hiện việc giao cấu với
nhau, B còn có thai khi 15 tuổi 6 tháng. Do đó, A phạm Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi quy định tại Điều 145 Bộ
luật Hình sự với tình tiết định khung tăng nặng là làm nạn nhân có thai tại điểm d khoản 2
Điều này.
Bài tập 29
A là nam, 17 tuổi. A và B yêu nhau và có quan hệ sinh lý khiến B có thai. Gia
đình B khiếu nại A về sự việc trên. Hãy xác định hành vi của A có phạm tội không, nếu
phạm tội thì là tội gì trong các tình huống sau:
a. B là người dưới 13 tuổi
A có hành vi quan hệ tình dục với B là người dưới 13 tuổi, làm B có thai. Hành vi của
A phạm vào Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi làm B có thai theo điểm b khoản 2 Điều 142
Bộ luật Hình sự. Xét dấu hiệu của cấu thành tội phạm:
- Về khách thể, hành vi của A xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất,
tâm sinh lý của B, cũng như danh dự, nhân phẩm của B là người dưới 13 tuổi.
- Về mặt khách quan, A đã có hành vi quan hệ tình dục với B là người dưới 13 tuổi
làm cho B có thai.
- Về mặt chủ quan, hành vi của A có lỗi cố ý, A đã nhận thức được hành vi của mình
là nguy hiểm, thấy trước hậu quả có thể xảy ra là làm B mang thai và mong muốn, hoặc tuy
không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
- Về chủ thể, A 17 tuổi, là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự với mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật Hình sự có quy định khác theo khoản 1 Điều 12 Bộ
luật Hình sự.
Trong trường hợp này A và B yêu nhau, B có thể là tự nguyện quan hệ tình dục với A
hoặc B không đồng thuận quan hệ tình dục, tuy nhiên dù thuận tình hay không thì A vẫn
phạm tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự. Vì mặt
khách quan của tội này đề cập đến hành vi giao cấu quan hệ tình dục với người dưới 13 tuổi
mà không cần xem xét đến yếu tố tự nguyện hay không tự nguyện.

60
61

Tình tiết A quan hệ tình dục với B làm B có thai là tình tiết định khung tăng nặng quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 142 Bộ luật Hình sự: A có hành vi giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi (thoả mãn cấu thành tội phạm cơ bản)
và làm cho nạn nhân có thai (có tình tiết định khung tăng nặng).
Như vậy, hành vi của A có phạm tội và phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự.
b. B là người 15 tuổi
- Trường hợp 1: Nếu B tự nguyện quan hệ tình dục với A thì A không phạm tội.
Trong trường hợp này A là người dưới 18 tuổi (17 tuổi), nếu xét các tội được quy
định từ Điều 141 đến Điều 144 Bộ luật Hình sự thì A không thỏa mãn các yếu tố cấu thành
nên các tội phạm này nên A không phạm tội.
- Trường hợp 2: Nếu B không tự nguyện quan hệ tình dục với A, A có thể sẽ phạm
vào một trong các tội sau nếu thỏa mãn yếu tố cấu thành tội phạm của tội đó:
+ Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi và rơi vào tình tiết định khung tăng nặng làm nạn
nhân có thai theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 142 Bộ luật Hình sự nếu A có hành vi
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của B hoặc
thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với B mà trái với ý
muốn của B.
+ Tội Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và rơi vào tình tiết định khung
tăng nặng làm nạn nhân có thai theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 144 Bộ luật Hình sự
nếu A có hành vi dùng thủ đoạn khiến B đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong
tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác với mình.
c. B là người tròn 16 tuổi
- Trường hợp 1: Nếu B tự nguyện quan hệ tình dục với A thì A không phạm tội.
- Trường hợp 2: Nếu B không tự nguyện quan hệ tình dục với A, A có thể sẽ phạm
vào một trong các tội sau nếu thỏa mãn yếu tố cấu thành tội phạm của tội đó:
+ Tội Hiếp dâm và rơi vào tình tiết định khung tăng nặng làm nạn nhân có thai theo
quy định tại điểm g khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự nếu A có hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của B hoặc thủ đoạn khác giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với B mà trái với ý muốn của B.
61
62

+ Tội Cưỡng dâm và rơi vào tình tiết định khung tăng nặng làm nạn nhân có thai theo
quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 143 Bộ luật Hình sự nếu A có hành vi dùng thủ đoạn
khiến B đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn
cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với mình.
Bài tập 30
A (công dân Việt Nam) có quen biết với B (công dân Trung Quốc) từ năm 2015
do A thường sang Trung Quốc mua vải của B. Vào cuối tháng 02/2016, B nhập cảnh
vào VN đến nhà A để nhờ tìm người giúp việc tại tiệm cắt tóc của B ở cửa khẩu và nếu
khách có nhu cầu thì bán dâm. A nhận lời giúp. B thỏa thuận nếu A tìm được phụ nữ
Việt Nam trẻ đẹp khoảng 16 đến 17 tuổi thì A sẽ được trả công 01 triệu đồng một
người.
Tối ngày 01/8/2016, A đã rủ hai cháu X (15 tuổi) và Y (16 tuổi 3 tháng) nói là đi
làm thuê ở thị xã, tiền công mỗi ngày được 15.000 đồng nên cả hai đều đồng ý. Sáng
hôm sau, A cho xe ôm chở X và Y đi lên cửa khẩu, rồi sang Trung Quốc qua đường
rừng đến nhà của B. A được trả công 2 triệu đồng. Sau đó, B đã tổ chức cho X và Y
hành nghề mại dâm. Đến ngày 01/5/2017, X và Y đã trốn về Việt Nam và tố cáo hành vi
phạm tội của A và B.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội hay không? Nếu có thì
phạm tội gì? Tại sao?
a. Hành vi của A: rủ X và Y, lừa nói là đi làm thuê ở thị xã nhưng lại đưa X, Y lên
cửa khẩu biên giới để sang nhà của B để nhận tiền, phạm tội mua bán người tại Điều 150 và
tội mua bán người dưới 16 tuổi tại Điều 151 Bộ luật Hình sự. Xét các yếu tố của cấu thành
tội phạm:
- Về khách thể, hành vi của A, B xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ là danh dự, nhân phẩm của nạn nhân là X và Y; đối tượng tác động là con người X (15
tuổi) và Y (16 tuổi 3 tháng) lần lượt là đối tượng tác động của tội mua bán người dưới 16
tuổi (Điều 151) và tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật Hình sự);
- Về mặt khách quan, hành vi của A là hành vi lừa gạt, dùng thủ đoạn để chuyển giao
người để nhận tiền (khoản 1 Điều 150, khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự). A đã lừa gạt X,
Y rằng sẽ đi làm thuê ở thị xã, nhưng lại đưa X, Y lên biên giới để qua nhà của B để sau đó
nhận khoản tiền 2 triệu đồng từ B.

62
63

- Về mặt chủ quan: hành vi của A có lỗi cố ý, vì bản thân A đã nhận thức được tính
nguy hiểm của hành vi cho X, Y, thấy trước hậu quả xảy ra là X, Y bị đưa ra khỏi biên giới
đến nhà B, mong muốn cho hậu quả xảy ra qua việc chủ động lừa và đưa X, Y lên cửa khẩu.
- Về chủ thể: A là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
b. Hành vi của B: dùng thủ đoạn để tiếp nhận người để bóc lột tình dục, phạm tội
mua bán người tại Điều 150 và tội mua bán người dưới 16 tuổi tại Điều 151 Bộ luật Hình sự.
- Về chủ thể: B, công dân Trung Quốc, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng
lực trách nhiệm hình sự.
- Về mặt khách quan: B thông qua A thực hiện hành vi mua bán người để giúp việc
tại tiệm cắt tóc của mình và tổ chức mua bán dâm. B đã thực hiện hành vi tiếp nhận người từ
16 tuổi trở lên và người dưới 16 tuổi (X – 15 tuổi và Y – 16 tuổi 3 tháng) và mục đích tổ
chức cho X và Y bán dâm khi khách có nhu cầu được xem là hành vi bóc lột tình dục theo
quy định tại các điểm b khoản 1 Điều 150 và điểm b khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự.
- Về khách thể: B đã xâm hại đến nhân phẩm và danh dự của X và Y. Đối tượng tác
động là X là người dưới 16 tuổi (15 tuổi) và Y là người từ 16 tuổi trở lên (16 tuổi 3 tháng).
- Về mặt chủ quan: lỗi cố ý, vì B nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, thấy
trước hậu quả xảy ra và mong muốn hậu quả xảy ra.
Những hành vi này còn thoả mãn tình tiết định khung tăng nặng quy định ở điểm d, đ
khoản 2 Điều 150, điểm c, đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự, là “đưa nạn nhân ra khỏi
biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (đối với hành vi của A) và “đối
với từ 02 người đến 05 người”.
Như vậy, các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được thoả mãn nên hành vi của A và B
phạm tội mua bán người tại Điều 150 và tội mua bán người dưới 16 tuổi tại Điều 151 Bộ luật
Hình sự.
Bài tập 31
A muốn nhận một đứa trẻ để nuôi. A được B giới thiệu chị C đang gặp khó khăn
nên muốn cho một đứa con 3 tháng tuổi. A và B đến nhà gặp chị C để xin cháu bé làm
con nuôi nhưng chị C đổi ý không cho con. Một tuần sau A quay lại nhà chị C nhằm
thỏa thuận nhận cháu bé làm con nuôi với chi phí bồi dưỡng là 10 triệu đồng nhưng chị
C không có nhà mà chỉ có con gái lớn của chị C – cháu X (10 tuổi) đang ở nhà trông
63
64

em. A đã cho X tiền đi mua kẹo. Khi X ra khỏi nhà, A đã bế cháu bé đi. Vụ việc sau đó
bị phát hiện.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội hay không? Nếu có thì phạm
tội gì? Tại sao?
Hành vi của A là cho tiền X đi mua kẹo để khi X ra khỏi nhà liền bế cháu bé con chị
C đi. Hành vi này phạm tội chiếm đoạt trái phép người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153
Bộ luật Hình sự. Xét các dấu hiệu của cấu thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của A xâm phạm đến quan hệ xã hội là danh dự, nhân phẩm
và sự phát triển bình thường của con người. Đối tượng tác động là con người dưới 16 tuổi, ở
đây là cháu bé 3 tháng tuổi con chị C.
- Về mặt khách quan: hành vi của A là hành vi thủ đoạn chiếm giữ người dưới 16
tuổi. Thủ đoạn phạm tội của A là: sau khi xin cháu bé làm con nuôi nhưng không được chị C
đồng ý, A quay lại nhà chị C để thoả thuận việc cung cấp tiền bồi dưỡng nhưng do không có
chị C, mà có X (10 tuổi) đang trông em nên A đã cho tiền để X ra khỏi nhà đi mua kẹo, nhân
lúc X ra khỏi nhà A đã bế cháu bé 3 tháng tuổi đi. Như vậy A đã dùng tiền để khiến X ra
khỏi nhà để chiếm đoạt cháu bé.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A có lỗi cố ý, A đã mong muốn có đứa bé, thấy trước
hậu quả xảy ra là đứa bé mất mẹ và vẫn chủ động tìm cách để được nuôi đứa bé.
- Về chủ thể: A là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Trường hợp A dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự vì tội
phạm của A là tội phạm nghiêm trọng (vì có mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật
Hình sự quy định đối với tội này là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù theo Điều 9 Bộ luật
Hình sự) theo Điều 12 Bộ luật Hình sự.
Như vậy, hành vi của A thoả mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội chiếm
đoạt trái phép người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 32
Ngày 03/7/2016, Công an TP.HCM nhận được tin trình báo về việc một nhóm
người đã bắt giữ anh X (làm nghề lái xe taxi) để siết nợ. Tại cơ quan công an, A và B
khai nhận, sau khi tìm thấy anh X tại đường, các đối tượng đã ép anh X lên xe, đưa về
nhà A. Sau đó, A gọi điện cho gia đình anh X đe dọa, yêu cầu giao nộp 20 triệu đồng.

64
65

Nguyên nhân sự việc xuất phát từ việc anh X vay của A 20 triệu đồng đã đến hạn mà
không chịu thanh toán còn có hành vi trốn tránh chủ nợ.
A và B bắt anh X là để ép anh X phải trả nợ.
Hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì?
Tại sao?
Hành vi của A và B là bắt, ép anh X lên xe để đưa về nhà A, sau đó đe doạ và yêu cầu
gia đình anh X giao nộp 20 triệu đồng. A và B đã phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
theo quy định tại Điều 169 Bộ luật Hình sự. Xét các yếu tố của cấu thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của A, B xâm phạm đến quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân
Đối tượng tác động là tài sản và thân thể của anh X.
- Về mặt khách quan: hành vi của A và B là hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
A và B đã tìm thấy anh X trên đường, ép anh X lên xe để đưa về nhà của A giữ anh X tại đó
để gọi điện thoại đe doạ gia đình anh X nộp một khoản tiền 20 triệu. Việc bắt, giữ anh X của
A, B trái với trình tự, thủ tục và thẩm quyền của việc bắt, giữ người theo Bộ luật Tố tụng
hình sự, Bộ luật Tố tụng hành chính. Anh X cũng không là đối tượng đang bị truy nã hay
phạm tội quả tang nên không phải chủ thể nào cũng có quyền bắt theo Bộ luật Tố tụng hình
sự. Như vậy, A và B đã có hành vi bắt giữ anh X làm con tin và gây áp lực, đe dọa gia đình
X giao tài sản.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A và B có lỗi cố ý. Vì A, B đã chủ động bắt, ép anh X
lên xe về nhà A và đã chủ động gọi điện thoại đe doạ gia đình anh X phải nộp tiền.
- Về chủ thể: A, B là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu năng
lực trách nhiệm hình sự.
Như vậy, hành vi của A, B phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” theo quy định
tại Điều 169 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 33
Giữa năm 2016, X tổ chức chơi hụi và A, B, C đã tham gia. Đến tháng 5/2017, do
không còn khả năng chi trả nên X bỏ trốn và tạm trú tại khu phố Hòa Lân 1, phường
Thuận Giao, thị xã Thuận An, Bình Dương. Bức xúc vì bị giật hụi với số tiền ước tính
là 20 triệu đồng, sau nhiều ngày truy tìm, A phát hiện chỗ ở mới của X nên rủ B, C
thuê xe 16 chỗ từ Đồng Tháp lên Bình Dương tìm và bắt giữ X đưa về Đồng Tháp để
buộc X phải trả tiền.
65
66

Hãy xác định tội danh trong vụ án trên


a. Đối với X
X phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự, với
hành vi bỏ trốn và mang theo số tiền hụi của A, B, C.
- Về khách thể: hành vi của X xâm phạm đến quan hệ xã hội là quyền sở hữu đối với
tài sản của A, B, C. Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản của A, B, C, có giá trị ước
tính là 20 triệu đồng.
- Về mặt khách quan: hành vi của X là bỏ trốn sau khi chơi hụi, không có khả năng
chi trả. Hành vi của tội này phải là hành vi của chủ thể đã nhận tài sản một cách ngay thẳng
hợp pháp, sau đó có hành vi dùng thủ đoạn chiếm đoạt tài sản.
Theo Điều 471 BLDS 2015, hụi là hình thức hợp đồng vay tài sản hợp pháp, là hình
thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp
nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và
quyền, nghĩa vụ của các thành viên. Do bản chất là một giao dịch dân sự về tài sản, nên việc
X đứng ra tổ chức chơi hụi và nắm giữ tài sản của người chơi hụi là A, B, C là hợp pháp.
Sau khi nắm giữ tài sản của A, B, C, X đã dùng thủ đoạn nhằm chiếm đoạt số tài sản này, là
bỏ trốn đến địa phương khác. Do đó hành vi của X thoả mãn dấu hiệu hành vi khách quan.
- Về mặt chủ quan: hành vi của X có lỗi cố ý trực tiếp. Vì X đã nhận thức rõ hành vi
bỏ trốn của mình là chiếm đoạt trái phép tài sản của A, B, C và sẽ khiến cho A, B, C mất số
tài sản này, nhưng vẫn chủ động thực hiện hành vi là bỏ trốn đến địa phương khác và tạm trú
tại đó, chứng tỏ mong muốn hậu quả xảy ra, muốn chiếm đoạt luôn tài sản của A, B, C.
- Về chủ thể: X là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự vì theo Điều 6 Nghị định 19/2019/NĐ-CP, chủ hụi là người từ đủ mười tám
tuổi trở lên và không thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành
vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định tại Bộ luật dân
sự. X đứng ra tổ chức chơi hụi, là chủ hụi nên phải là người từ đủ 18 tuổi, đã có năng lực
chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, X phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Điều 175 Bộ luật
Hình sự.
b. Đối với A, B, C

66
67

A, B, C phạm tội bắt, giữ người trái pháp luật theo quy định tại Điều 157 Bộ luật
Hình sự. Hành vi của A, B, C là đã bắt giữ chị X từ Bình Dương đưa về Đồng Tháp để buộc
chị X trả tiền. Xét các dấu hiệu của cấu thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của A, B, C xâm phạm đến quan hệ xã hội là quyền tự do cá
nhân, quyền tự do thân thể của con người. Đối tượng tác động là con người là chị X.
- Về mặt khách quan: hành vi của A, B, C là hành vi bắt và giữ người trái pháp luật.
Việc bắt, giữ chị X của A, B, C trái với trình tự, thủ tục và thẩm quyền của việc bắt, giữ
người theo Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hành chính. Chị X cũng không là đối
tượng đang bị truy nã hay phạm tội quả tang nên không phải chủ thể nào cũng có quyền bắt
theo Bộ luật Tố tụng hình sự. Hành vi của A, B, C cũng không phải là chiếm đoạt người
dưới 16 tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự) vì chị X đã trên 16 tuổi, cũng không phải là lợi
dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ người trái pháp luật trong hoạt động tố tụng và thi hành án
(Điều 377 Bộ luật Hình sự). Do đó hành vi này là hành vi bắt, giữ người trái pháp luật theo
Điều 157 Bộ luật Hình sự.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A, B, C có lỗi cố ý. Vì A, B, C đã chủ động đi tìm và
bắt chị X lên xe về Đồng Tháp và mong muốn điều này xảy ra.
- Về chủ thể: A, B, C là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu
năng lực trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp A, B, C từ đủ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này (vì là tội phạm ít nghiêm trọng, có mức cao
nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội này là phạt cải tạo không
giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm, Điều 9 Bộ luật Hình sự) theo Điều 12 Bộ luật Hình sự và
độ tuổi tối thiểu để tham gia hụi là từ đủ 15 tuổi trở lên nếu có tài sản riêng theo Điều 5 Nghị
định 19/2019/NĐ-CP.
Như vậy, A, B, C phạm tội bắt, giữ người trái pháp luật tại Điều 157 Bộ luật Hình sự,
trừ trường hợp A, B, C là người từ đủ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Bài tập 34
Tối ngày 17/7/2016, X thực hiện vụ gây rối và hủy hoại tài sản tại khu phố K.
Sau đó, A và B là tổ viên bảo vệ dân phố được cử đến để giải quyết trật tự. Thay vì xử
lý vụ việc đúng quyền hạn, thì A và B đã đưa X về Văn phòng khu phố K mà không
báo cơ quan có thẩm quyền biết. Tiếp đó, A và B đã đánh X chấn thương, 1 tiếng đồng
hồ sau thấy X bất tỉnh, A gọi người nhà của X lên đưa đi bệnh viện.

67
68

Gia đình X làm đơn tố cáo và hành vi của A và B. Hãy xác định tội danh của A
và B nếu:
1. X bị thương tật với tỉ lệ 15%
A, B phạm tội bắt, giữ người trái pháp luật quy định tại Điều 157 Bộ luật Hình sự và
tội cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Về tội bắt, giữ người trái pháp luật (Điều 157 Bộ luật Hình sự), hành vi của A, B là
đưa X về văn phòng mà không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền biết. Xét dấu hiệu của
cấu thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của A, B xâm phạm đến quan hệ xã hội là quyền tự do cá
nhân, quyền tự do thân thể của con người. Đối tượng tác động là con người là X.
- Về mặt khách quan: hành vi của A, B là hành vi bắt và giữ người trái pháp luật.
Việc bắt, giữ X của A, B trái với trình tự, thủ tục và thẩm quyền của việc bắt, giữ người theo
Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hành chính và không báo cho cơ quan có thẩm
quyền về việc bắt X về văn phòng. X cũng không là đối tượng đang bị truy nã hay phạm tội
quả tang nên không phải chủ thể nào cũng có quyền bắt theo Bộ luật Tố tụng hình sự. Hành
vi của A, B cũng không phải là chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự),
cũng không phải là lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ người trái pháp luật trong hoạt
động tố tụng và thi hành án (Điều 377 Bộ luật Hình sự) vì chưa có hoạt động tố tụng, thi
hành án diễn ra. Do đó hành vi này là hành vi bắt, giữ người trái pháp luật theo Điều 157 Bộ
luật Hình sự.
Hành vi này còn thoả mãn tình tiết định khung tăng nặng tại điểm b khoản 2 Điều
157, là lợi dụng chức vụ, quyền hạn. A, B đưa X về trong lúc được cử đi giải quyết trật tự
nhưng lại không giải quyết mà đưa X về văn phòng mà không báo cho cơ quan có thẩm
quyền, là đã lợi dụng quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A, B có lỗi cố ý. Vì A, B đã chủ động bắt X về văn
phòng, không báo cho cơ quan có thẩm quyền mặc dù có trách nhiệm phải báo và xử lý vụ
việc đúng quyền hạn của mình, sau đó còn đánh X chấn thương tại văn phòng, chứng tỏ A,
B có ý định thực hiện hành vi và mong muốn thực hiện hành vi này.
- Về chủ thể: A, B là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu năng
lực trách nhiệm hình sự.

68
69

Như vậy A và B phạm tội bắt, giữ người trái pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 157
Bộ luật Hình sự.
Đối với tội cố ý gây thương tích (Điều 134 Bộ luật Hình sự), hành vi của A, B
là đánh X gây thương tích, X bất tỉnh 1 giờ sau đó, X có tỉ lệ thương tật là 15%. Xét dấu
hiệu của cấu thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của A, B xâm phạm đến sức khoẻ của X. Đối tượng tác động
là con người là X.
- Về mặt khách quan: hành vi khách quan của A, B đã tác động trái phép đến thân thể
của X mà không thuộc trường hợp được pháp luật cho phép (như phòng vệ chính đáng, tình
thế cấp thiết, thi hành công vụ, …). Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là X bị bất tỉnh phải đưa
đi cấp cứu và bị thương tật với tỉ lệ 15% (đã thoả mãn điều kiện trên 11%). Hậu quả mà X
phải chịu là do hành vi đánh người của A, B.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A, B có lỗi cố ý: nhận thức được hành vi đánh người
của mình là nguy hiểm vì bản thân là bảo vệ tổ dân phố phải bảo đảm an toàn trật tự nhưng
lại bắt người trái phép và đưa về văn phòng, thấy trước sẽ gây ra hậu quả về sức khoẻ cho X
và vẫn mong muốn, thực hiện để cho hậu quả xảy ra.
- Về chủ thể: A, B là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu năng
lực trách nhiệm hình sự.
Như vậy, hành vi đánh người của A, B thoả mãn đủ dấu hiệu để cấu thành một tội độc
lập với tội bắt, giữ người trái pháp luật (Điều 157 Bộ luật Hình sự), là tội cố ý gây thương
tích (khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự).
2. X bị thương tật với tỉ lệ 35%
A, B phạm tội bắt, giữ người trái pháp luật với tình tiết định khung tăng nặng
tại khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương tự.
Với tội cố ý gây thương tích (Điều 134 Bộ luật Hình sự), các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cũng tương tự với trường hợp X bị thương tật với tỉ lệ 35%, tuy nhiên mặt
khách quan có sự khác biệt:
Hành vi khách quan của A, B đã tác động trái phép đến thân thể của X mà không
thuộc trường hợp được pháp luật cho phép (như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, thi
hành công vụ, …). Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là X bị bất tỉnh phải đưa đi cấp cứu và bị
thương tật với tỉ lệ 35% (đã rơi vào tình tiết định khung tăng nặng tại điểm a khoản 2 Điều
69
70

134 là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể từ 31% đến 60%). Hậu quả mà X phải chịu là do hành vi đánh người của A, B.
Do đó, trường hợp này A, B phạm tội cố ý gây thương tích tại khoản 2 Điều 134 Bộ
luật Hình sự.
Bài tập 35
A kết hôn với X, có hai con chung. Đến năm 2015, X bỏ đi nhưng không làm thủ
tục ly hôn với A. Năm 2017, X sống như vợ chồng với Y và họ đã mua nhà để ở tại địa
phương khác. Cuối năm 2017, khi X mất, A cùng hai con đến nhà nơi X và Y sinh sống
về bắt Y phải giao nhà. Y xin được chia một phần nhưng mẹ con A không đồng ý. Y
gửi đơn ra tòa, trong thời gian chờ tòa xét xử thì A và hai con là B và C huy động hàng
chục người kéo tới và đuổi Y ra đường.
Anh (chị) hãy xác định tội danh trong vụ án trên
a. Đối với A, B, C
A, B, C phạm tội xâm phạm chỗ ở của người tại Điều 158 Bộ luật Hình sự. Hành vi
của A, B, C là huy động người đến nhà Y đuổi Y ra đường. Xét dấu hiệu của cấu thành tội
phạm:
- Về khách thể: hành vi này xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của cá
nhân, được quy định trong Hiến pháp 2013. Đối tượng tác động là hoạt động bình thường
của chủ thể quan hệ xã hội, là việc được ở trong nhà một cách tự nhiên, bình thường của Y.
Căn nhà này được Y cùng X mua để ở.
- Về mặt khách quan: hành vi của A, B, C là đã đuổi trái pháp luật Y ra khỏi chỗ ở
của Y bằng thủ đoạn huy động hàng chục người đến nhà Y. Hành vi này có thể là hành vi
dùng vũ lực.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A, B, C có lỗi cố ý: A cùng B, C nhận thức được hành
vi của mình, biết trước hậu quả có khả năng dẫn đến Y bị đuổi khỏi nhà của mình và mong
muốn điều đó xảy ra và đã thực hiện hành vi này.
- Về chủ thể: A là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự vì đã đủ tuổi kết hôn nên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội này. Với B
và C, trường hợp là người dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, nếu đã đủ
16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

70
71

Như vậy, A phạm tội xâm phạm chỗ ở của người tại khoản 1 Điều 158 Bộ luật Hình
sự. B, C có thể phạm tội này nếu đã đủ 16 tuổi.
b. Đối với Y
Y có thể phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tại Điều 182 Bộ luật Hình sự.
Hành vi của Y là sống chung như vợ chồng với X mà không đi đăng ký kết hôn. Xét các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của Y xâm phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng theo
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
- Về chủ thể: Y là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự vì đã đủ tuổi để thực hiện giao dịch mua nhà.
- Về mặt chủ quan: hành vi của Y có thể có lỗi hoặc không có lỗi. Để thoả mãn dấu
hiệu này, hành vi của Y phải có lỗi cố ý trực tiếp, tức là Y nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó (có thể là làm cho cuộc hôn nhân
của A và X tan vỡ, A và X ly hôn, …) và mong muốn hậu quả xảy ra.
- Về mặt khách quan: để thoả mãn dấu hiệu này, hành vi của Y phải:
+ Y phải biết rõ X đang có vợ, có chồng;
+ Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn hoặc Y đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Như vậy nếu hành vi của Y thoả mãn các dấu hiệu về mặt chủ quan, mặt khách quan
của cấu thành tội phạm thì Y phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tại khoản 1 Điều
182 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 36
Tháng 8/2016, B bị bố mẹ ép lên xe để anh A chở đến UBND phường X đăng ký
kết hôn. Sau khi A và B đã đăng ký kết hôn, bố mẹ B đồng ý cho A về ở luôn trong nhà
mình cho tiện sinh hoạt. Vì không đồng ý với cuộc hôn nhân nên A và B thường xuyên
mâu thuẫn, A đã nhiều lần đánh đập B. Ngày 23/9/2016, trong một lần cãi vã, A dùng
dao lam rạch lên người B rồi đổ cồn lên đốt làm cho B bị nhiều vết bỏng ở vùng lưng và
vùng hông đã nhiễm trùng với tỷ lệ thương tích 20%.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội
gì? Tại sao?

71
72

Hành vi của A là hành vi dùng dao lam rạch lên người B rồi đổ cồn đốt những chỗ
rạch đó. Hành vi này phạm tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 Bộ luật Hình sự. Xét các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của A xâm phạm đến sức khoẻ của B. Đối tượng tác động là
con người là B.
- Về mặt khách quan: hành vi khách quan của A đã tác động trái phép đến thân thể
của B mà không thuộc trường hợp được pháp luật cho phép (như phòng vệ chính đáng, tình
thế cấp thiết, thi hành công vụ, …). Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là B bị nhiều vết bỏng ở
vùng lưng và vùng hông đã nhiễm trùng với tỷ lệ thương tích 20%. Hậu quả mà B phải chịu
là do hành vi của A.
Khi thực hiện, A có dao lam để rạch lên người B. Hành vi này có thể rơi vào tình tiết
định khung tăng nặng tại điểm đ khoản 2 và điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, đó là
gây thương tích cho một người với tỷ lệ 20% (từ 11% đến 30%) và sử dụng hung khí nguy
hiểm. Tham khảo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao: “Dùng hung khí nguy hiểm” là trường hợp dùng vũ khí
hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị
quyết 02/2003/NQ-HĐTP Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Theo đó, “phương tiện nguy hiểm” là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ
cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội
chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà
người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác
thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công. Trong đó có búa
đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn, … Do đó có thể xem dao lam cũng là hung khí nguy
hiểm vì vết cắt của dao lam hoàn toàn có thể gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của nạn nhân.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A có lỗi cố ý: A nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm vì dao lam và cồn là hai vật có thể gây ra sát thương, thấy trước sẽ gây ra hậu quả
về sức khoẻ cho B và vẫn mong muốn để cho hậu quả xảy ra và đã thực hiện hành vi để gây
ra hậu quả.
- Về chủ thể: A là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự vì đã đủ tuổi kết hôn.
Như vậy A phạm tội cố ý gây thương tích tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
72
73

Ngoài ra hành A còn có thể cấu thành tội hành hạ vợ chồng tại Điều 185 Bộ luật Hình
sự. Xét các dấu hiệu của cấu thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của A xâm phạm đến nghĩa vụ đạo đức giữa thành viên trong
gia đình được Luật Hôn nhân và gia đình luật hoá thành nghĩa vụ pháp lý. Ngoài ra còn xâm
phạm đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân. Đối tượng tác động là con người là
B, đang là vợ hợp pháp của A.
- Về mặt khách quan: hành vi của A là nhiều lần đánh đập B mỗi khi cãi vã, đã xâm
phạm đến thân thể của B là vợ hợp pháp của mình. Để thoả mãn dấu hiệu này, hành vi đánh
đập của A phải thường xuyên làm cho B bị đau đớn về thể xác, tinh thần. Việc chỉ trong
chưa đầy 2 tháng mà A đã nhiều lần đánh đập B cho thấy B phải thường xuyên bị đau đớn
về thể xác và tinh thần.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A có lỗi cố ý trực tiếp. Nghĩa là A nhận thức được
hành vi của mình là nguy hiểm vì đó là hành động bạo lực đối với người thân trong gia đình,
sử dụng dao lam và cồn có thể gây thương tích cho sức khoẻ người khác, biết rõ có thể gây
ra hậu quả là B phải chịu đau đớn, tổn thương, và mong muốn hậu quả xảy ra, vẫn thực hiện
hành vi để hậu quả xảy ra.
- Về chủ thể: A là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự vì đã đủ tuổi kết hôn.
Như vậy, A cũng có thể phạm tội hành hạ vợ chồng tại Điều 185 Bộ luật Hình sự.
Bài tập 37
A (21 tuổi) và B (17 tuổi) là anh em cùng cha khác mẹ. Ngày 12/10/2016, Bà Y là
mẹ ruột của B thấy những biểu hiện khác thường của con gái nên đưa B đi đến bệnh
viện khám bệnh thì phát hiện B có thai được gần 4 tháng. Bà Y tra hỏi B thì B khai
nhận rằng do có tình cảm với A nên cả hai đã có quan hệ tình dục từ 2 năm nay và cả 2
đều hoàn toàn tự nguyện. Bà Y hỏi A thì A cũng thừa nhận hành vi của mình và khai
nhận lần đầu tiên quan hệ là ngày B đã đủ 15 tuổi.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Nếu có thì phạm
tội gì? Tại sao?
A phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi tại Điều 145 Bộ luật Hình sự. Hành vi của A là đã quan hệ tình dục với

73
74

B là người dưới 16 tuổi tại thời điểm lần đầu thực hiện hành vi. Xét các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm:
- Về khách thể: hành vi của A xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất,
tâm sinh lý của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là B. Đối tượng tác động là con người
là B, đã từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại thời điểm A thực hiện hành vi.
- Về mặt khách quan: hành vi của A là hành vi quan hệ tình dục với B trên cơ sở
thuận tình từ cả hai bên. Hành vi này còn là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm c khoản
2 Điều 145 Bộ luật Hình sự là “có tính chất loạn luân” vì đã quan hệ tình dục với em cùng
cha khác mẹ. Tham khảo tiểu mục 6.1 mục 6 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-
TANDTC-VKSNDTC “loạn luân là việc giao cấu giữa anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc
cùng mẹ khác cha”.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A có lỗi cố ý, tức là A nhận thức được mình có hành
vi quan hệ tình dục với B mà A đã biết rõ A là người chưa đủ 16 tuổi tại thời điểm đó vì là
người thân trong gia đình.
- Về chủ thể: cấu thành tội phạm yêu cầu người phạm tội phải là người đủ 18 tuổi và
tại thời điểm thực hiện hành vi A 19 tuổi.
Như vậy A phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
Đối với hành vi quan hệ tình dục làm cho B có thai và được phát hiện ngày
12/10/2016, hành vi này không cấu thành tội phạm tại Điều 145 Bộ luật Hình sự vì: thời
điểm thực hiện hành vi là khoảng 4-5 tháng trước ngày 12/10/2016, lúc này B đã đủ 16 tuổi
và việc quan hệ tình dục là trên cơ sở thuận tình của hai bên. Tuy nhiên hành vi này của A
và hành vi thuận tình giao cấu với A của B ở thời điểm này lại cấu thành tội loạn luân tại
Điều 184 Bộ luật Hình sự.
- Về khách thể: hành vi này xâm phạm đến quan hệ xã hội nhằm bảo đảm cho sự phát
triển bình thường của con người, xâm phạm đến thuần phong mỹ tục, hạnh phúc gia đình.
- Về mặt khách quan: hành vi này là thuận tình giao cấu giữa anh chị em cùng cha
khác mẹ.
- Về mặt chủ quan: hành vi của A và B có lỗi cố ý. Cả hai đều nhận thức được mình
là anh chị em cùng cha khác mẹ với nhau mà vẫn thực hiện việc giao cấu, biết hành vi giao
cấu của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện.

74
75

- Về chủ thể: A và B đều là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi
luật định và có quan hệ huyết thống với nhau.
Như vậy, trường hợp này hành vi của A và B cấu thành tội loạn luân tại Điều 184 Bộ
luật Hình sự.

75

You might also like