You are on page 1of 6

“Lắng tai nghe…

Khúc nhạc mùa xuân đang mời gọi


Dõi mắt nhìn…
Sắc xuân lung linh tràn ngập cả đất trời.”
Vâng! Xuân về đánh thức ngàn cây cỏ đâm chồi nảy lộc, thi nhau khoe sắc. Xuân đến còn đánh
thức nguồn cảm xúc vô tận của thi nhân. Lắng lòng lại, ta nghe đâu đây sắc xuân, tình xuân đang
hòa quyện trong vũ điệu giao mùa, đang rạo rực trong tâm hồn Thanh Hải để “Mùa xuân nho nhỏ”
ra đời. Bài thơ với lời thơ giản dị nhưng cũng thật sâu lắng, gọi trọn tâm hồn đôn hậu, bình dị,
thiết tha yêu cuộc sống của nhà thơ.
Trước hết, bài thơ ra đời vào năm 1980,một tháng trước nhà thơ mãi mãi ra đi và đất nước đang
gặp muôn vàn khó khăn. Tác phẩm có sức hấp dẫn mãnh liệt bởi thể thơ 5 chữ rất gần với làn điệu
dân ca miền Trung nhẹ nhàng, đằm thắm. Bài thơ là tình cảm yêu mến, gắn bó thiết tha với mùa
xuân, với cuộc đời của tác giả và qua đó thể hiện ước nguyện chân thành là được cống hiến cho
đất nước.
Mở đầu tác phẩm, ông đã trở thành người hoạ sĩ vẽ nên một bức tranh về một mùa xuân của thiên
nhiên đất nước với những gam màu thật ấm áp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.”
Tại sao, nước sông lại màu xanh mà không là “dòng sông trong mát” hay “dòng sông đỏ nặng phù
sa”? Đây là màu nước của dòng sông Hương Giang, hay chính là tín hiệu báo mùa xuân đang về.
Tác giả đã sử dụng màu sắc thật hài hòa: ở giữa dòng sông xanh lại có một màu tím nổi lên. Màu
tím hiện lên giữa màu xanh, đó là hình ảnh của một vẻ đẹp nổi bật nhưng không rực rỡ, mà nên
thơ nhẹ nhàng, hài hòa duyên dáng. Bức tranh ngày xuân ấy có cả sự mềm mại, uyển chuyển của
dòng sông xanh uốn lượn, vừa có cả sự mảnh mai, khoe sắc của bông hoa lục bình. "Mọc" là vươn
lên để đón lấy những nắng gió cuộc đời, là sự trỗi dậy, sự thức tỉnh sau một giấc ngủ đông. Bằng
việc vận dụng nghệ thuật đảo ngữ, từ "mọc" đặt ở đầu câu thơ càng tô đậm sức sống mãnh liệt đến
bất ngờ của thiên nhiên, tạo vật khi khoác lên mình chiếc áo của sự khởi đầu và hứng lấy những
tinh chất quý giá của ngày xuâm, một bông hoa bé nhỏ giữa bốn bề sông nước vươn lên để hòa
cùng vạn vật giữa sự bao la vô tận. Đây cũng chính là nét chấm phá mang tính đặc trưng của mùa
xuân xứ Huế mộng mơ.
Trong không gian tĩnh lặng của mùa xuân bị khuấy động bởi âm thanh ngân vang đầy trìu mến
chất chứa niềm vui rộn rã:
“Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.”
Mùa xuân không chỉ với sắc màu hài hòa mà bức tranh xuân ấy bỗng nhộn nhịp hẳn lên với tiếng
chim hót vang trời chào đón ngày mới.. Âm thanh ấy vút cao, lảnh lót, trong trẻo, ngân vang như
lan tỏa trong không gian làm cho không khí mùa xuân trở lên náo nức, rộn ràng. Tiếng chim chiền
chiện ấy ta cũng từng bắt gặp trong hồn thơ Huy Cận:
“Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta”
Và cũng chính không gian của mùa xuân bao la, rộng lớn, đa chiều: chiều dài của dòng sông,
chiều rộng của mặt đất và chiều cao của bầu trời ấy đã làm xao động đến tâm hồn nhạy cảm của
thi nhân. Từ cảm thán “Ơi” được đặt lên đầu câu cùng với câu hỏi “ hót chi” tạo cảm giác thân
thương, trìu mến của tác giả, đồng thời giúp ta cảm nhận được sự ngọt ngào thân thương của xứ
Huế, như một nốt nhạc ngân vang trong bản trường ca vô tận, đồng thời thể hiện được cảm xúc
tận hưởng, đắm chìm của tác giả trước mùa xuân thiên nhiên. Tiếng chim hót như rót vào tâm hồn
nhà thơ một niềm rung cảm mãnh liệt, tiếng chim chiền chiện hót vang lừng trong trẻo như nốt
nhạc rộn rã của mùa xuân. Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn rã… bức tranh
mùa xuân xứ Huế bao giờ cũng đẹp, nhẹ nhàng, và mơ mộng như thế! Trong dòng cảm xúc tuôn
trào của mùa xuân, Thanh Hải như cảm nhận được hơi thở nồng ấm của mùa xuân mà thốt lên:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Cảm xúc thi nhân lắng đọng lại trong hình ảnh “giọt long lanh”. Ở đây có 2 cách hiểu, “giọt long
lanh” cũng có thể là giọt mưa mùa xuân lung linh trên cành biếc, là giọt nắng bên thềm. Hay đó
cũng có thể là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Theo cách hiểu này, kết hợp nghệ thuật
ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, âm thanh tiếng chim chiền chiện vốn được cảm nhận bằng thính giác
trở thành các giọt hình khối cảm nhận bằng thị giác có ánh sáng, sắc màu rồi bằng xúc giác Thi
nhân vội vàng đưa đôi bàn tay để "hứng" lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón
nhận, nâng niu, trân quý như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm
vào thinh vắng. Đại từ "tôi" được điệp hai lần đã gợi nên khát khao được ôm trọn vào lòng tất cả
tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với bản hoà tấu mùa xuân. Âm
thanh mượt mà trong vắt của tiếng chim, thánh thót như chuỗi ngọc long lanh, đọng lại lên thành
từng giọt và rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Với
cách cảm nhận độc đáo ấy, nhà thơ vừa gợi lên vẻ đẹp tinh khôi, ngận tràn sức sống của mùa
xuân, vừa thể hiện được cảm giác say sưa, ngất ngây trước cảnh sắc đất trời mùa xuân. Dường
như, nhà thơ đang căng hết mọi giác quan để tận hưởng mùa xuân quê nhà. Đặt bài thơ vào hoàn
cảnh nhà thơ Thanh Hải, ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế, đối mặt với biên giới giữa sự sống
và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại, tâm hồn thi nhân càng nảy
nở, bừng sức sống để cảm nhận sâu sắc về mùa xuân tươi trẻ, tràn đầy sức sống, thể hiện một tâm
hồn lạc quan yêu đời, một niềm khát khao cuộc sống vô bờ.
Trong vũ điệu của mùa xuân, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp quyến rũ của mùa xuân thiên nhiên
mà con người bắt gặp mùa xuân trẻ trung, sôi nổi của con người Thanh Hải đưa ra hai hình ảnh cụ
thể, tiêu biểu của đất nước đó là người lính và người nông dân:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.”
Điệp từ “mùa xuân” được tác giả đặt ở đầu hai câu thơ để nhấn mạnh đến mùa xuân của “người
cầm súng” và “ người ra đồng”, biểu thị cho hai nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là bảo vệ độc lập cho
tổ quốc và xây dựng đất nước.Gắn liền với đó hình ảnh độc đáo “lộc”. Về nghĩa đen, lộc là chồi
non lá biếc, những con người Việt Nam đang đi trong sắc xanh ngập tràn của chồi xanh. Về nghĩa
bóng, lộc của lính là vòng lá ngụy trang, và đó thứ người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là xương
máu mà các anh đổ xuống, là công sức bảo vệ mùa xuân thanh bình của dân tộc, gieo niềm hạnh
phúc đến mọi nơi. Đồng thời, “lộc” cũng chính là những may mắn, những hi vọng mà người thân
đã gửi gắm lại “quanh lưng” anh bộ đội cụ Hồ. Đối với người nông dân, những nhành mạ non trải
dài trên những cánh đồng tạo màu xanh ngút ngàn, hay đó cũng chính là những mùa màng bội thu,
là những hạt gạo trắng ngần, là bát cơm dẻo thơm làm giàu cho đất nước.Từ bàn tay người nông
dân mà “lộc trải dài nương mạ”. Cũng như người cầm súng, lộc của người ra đồng mang đến cũng
đáng trân trọng biết bao. Các từ “ giắt đầy”, “ trải dài” gợi ra một không gian rộng lớn, những
thành quả, “lộc” mà các anh gặt hái đều được góp vào cho cả đất nước.
Giai điệu rộn rã của mùa xuân, nhịp sống con người chừng như hối hả hơn, xôn xao hơn:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.”
Lời thơ giản dị có cụm từ so sánh “tất cả như” như là một điệp ngữ đặt trong nhịp thơ nhanh gấp
của nhân dân tạo nên sự thống nhất trong suy nghĩ và hành động của mọi người. Bởi vì từ “tất
cả” gợi lên hiện thực đồng lòng, nhất trí trong cả một cộng đồng. Bên cạnh đó, từ láy “hối hả”
mang tính gợi hình cao, nó gợi lên hình ảnh mọi người đang say sưa, khẩn thương, tấp nập trong
công việc. Còn từ láy “xôn xao” thì gợi âm thành cuộc sống, vừa thể hiện chiều sâu của cộng
đồng đang phát triển, vừa là tiếng reo vui trong lao động, trong tư thế làm chủ đất nước của con
người. Hơn nữa, cách ngắt nhịp 2/1/2 làm cho câu thơ vang lên một nhịp điệu tươi vui, mạnh mẽ.
Đó là hành khúc mùa xuân của thời đại Hồ Chí Minh.
Âm hưởng của mùa xuân tràn ngập cả thiên nhiên, hòa vào tâm hồn con người những niềm rung
động. Bất giác Thanh Hải chạnh lòng nghĩ đến quê hương đất nước, âm hưởng câu thơ bỗng trầm
buồn, sâu lắng:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Trong giai điệu trầm lắng suy tư, câu thơ như đưa ta trở về với quá khứ “bốn nghìn năm” lịch sử.
Trải dài suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, Tổ quốc ta đã trải qua bao biến động, thăng
trầm. Ngày từ buổi đầu dựng nước, dựng nước đã đứng trước nguy cơ xâm lược của kẻ thù. Câu
chuyện mang màu sắc huyền sử về Thánh Gióng, cậu bé ba tuổi làng Phù Đổng cất tiếng nói đầu
tiên là tiếng nói yêu nước. Một ngàn năm nô lệ cho phong kiến phương Bắc đầy đau thương, tủi
nhục, những hình ảnh của những người phụ nữ kiên trinh “chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ
không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Năm 938, với chiến thắng oanh liệt của Ngô
Quyền trên sông Bạch Đằng đã mở ra một kỉ nguyên mới của độc lập tự chủ. Những vần thơ bỗng
trầm lắng suy tư như gợi nhớ về một thời kỳ đau thương mà anh dũng. Trong thời kỳ ấy sản sinh
ra những người con trưởng thành từ đất mẹ đầy gian nan, vất vả nhưng luôn giành chiến thắng
như trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:

“Đất nghèo nuôi những anh hùng


Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên.”
“Bốn nghìn năm” cũng là lời khẳng định sự trường kì của đất nước ta, dù lúc thịnh, lúc suy, lúc
thăng, lúc trầm, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn sáng ngời, vẫn mạnh mẽ đi lên phía trước. Cảm xúc
thi nhân ngập tràn niềm tự hào và khâm phục về lịch sử quá đỗi hào hùng ấy. Hình ảnh một quốc
gia dẫu trải qua bao nhiêu khó khăn, dẫu phải đứng trước những kẻ thù to lớn vẫn không bao giờ
cam tâm quỳ xuống đã đi vào hồn thơ của Hạ Văn Thịnh:
"Định mệnh nhắc ta rằng Đất Việt gian truân
Nhưng chữ S chẳng thể nào gục gãy
Người trước ngã, người sau đứng dậy"
Vì vậy tác giả đã nhân hóa đất nước “ vất vả và gian lao” cho thấy đất nước như một người mẹ
tần tảo,vất vả sớm hôm, trĩu nặng gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Hình ảnh so
sánh “ Đất nước như vì sao” là hình ảnh đẹp thể hiện sự tỏa sáng của dân tộc Việt Nam mãi như
một vì sao sáng. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là
hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. Vần thơ vút lên cao với hình ảnh đẹp “vì sao” gợi sự vận
động đi lên, trưởng thành của đất nước ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong niềm
tự hào và kiêu hãnh của con người: đất nước đang vươn tới tương lai tươi sáng. Ba động từ “cứ đi
lên” đặt liên tiếp cạnh nhau vừa là hình ảnh nhân hóa vừa khẳng định tư thế vươn lên mạnh mẽ
không ngừng của dân tộc Việt Nam, không có một thế lực nào, khó khăn nào có thể cản trở được
tư thế ấy. Khổ thơ trên ta cảm nhận được niềm tin, sự lạc quan phơi phới, niềm tự hào của tác giả
vào tương lai của đất nước. Đặt bài thơ vào những năm 1980 khi đất nước ta phải đương đầu với
bao khó khăn, thử thách, nền kinh tế như người bệnh trọng vừa mới hồi phục, nhưng nhà thơ
Thanh Hải luôn đặt trọn niềm tin lớn lao vào đất nước. Qua đó ta càng thêm trân trọng lòng yêu
đời, yêu cuộc sống và niềm tin của nhà thơ Thanh Hải vào quê hương, đất nước.

Trong cảm xúc về mùa xuân đang dâng trào nhà thơ bỗng muốn hóa thân:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
Cái giai điệu nhẹ nhàng, du dương, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp thể hiện một
sự hóa thân kì diệu của tác giả. Ta thấy lời thơ cất lên ngân vang như một lời ca. Khổ thơ có sự
chuyển đổi đại từ nhân xưng. Nếu như ở khổ đầu tác giả xưng tôi là để bộc lộ cảm xúc say sưa,
ngây ngất của riêng mình trước cảnh mùa xuân thiên nhiên đất trời thì đến khổ thơ này nhà thơ đã
chuyển thành đại từ “ta” để nói lên khát vọng hòa nhập không chỉ của riêng mình mà là của tất cả
mọi người, là tiếng nói chung, đại diện cho cả dân tộc, là ước nguyện chung của muôn triệu con
dân Việt Nam muốn sống trong mùa xuân chung của dân tộc. Ước nguyện ấy là mong muốn được
làm “con chim” để cất cao tiếng hát, làm “cành hoa” để tô điểm cho đời thêm rực rỡ và làm
“một nốt trầm” trong bản hòa ca để ngợi ca cuộc đời. Điệp ngữ “Ta làm ... Ta nhập” vừa có tác
dụng nhấn mạnh, khắc ghi ước nguyện trong lòng; vừa diễn tả niềm vui, niềm hạnh phúc khi được
hiến dâng cho cuộc đời. Khát vọng sống là trọn đời hiến dâng của Thanh Hải cũng bắt gặp được
nét đồng điệu trong tâm hồn các nhà thơ Tố Hữu:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là đâu chỉ nhận riêng mình.”
Hay là sự đồng điệu với tâm hồn nhạc sĩ Trương Quốc Khánh – tác giả khúc ca Tự nguyện :
“Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
Nhịp thơ nhanh, gấp gáp, hối hả diễn tả niềm khao khát mãnh liệt, bỏng cháy được hóa thân của
thi nhân vào mùa xuân chung của đất nước.
Tất cả khát vọng như lắng lại trong tâm hồn nhà thơ như một niềm cảm xúc:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời.”
Mùa xuân là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian. Thanh Hải đã cụ thể hình ảnh “nho nhỏ” thể hiện
một tâm hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến. Lặng lẽ thôi mà sao đẹp biết bao, dạt dào như sóng triều
dâng. “Mùa xuân nho nhỏ” là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, nó đồng thời là nhan đề của bài thơ, là điểm
sáng, là nhãn tự kết tinh chủ đề tư tưởng của bài thơ. Nó thể hiện ước m,ơ cao đẹp nhưng rất lặng
lẽ khiêm nhường. “Mùa xuân nho nhỏ” là cuộc đời của con ngừi, của nhà thơ với những gì tinh
túy nhất, đẹp đẽ nhất, âm thầm dâng hiến cho đất nước, cho cuộc đời, góp phần vào mùa xuân lớn
lao của dân tộc, của đất trời. Lật tiếp những dòng thơ của Thanh Hải, ta lại liên tưởng đến những
chiến sĩ, những cô gái thanh niên xung phong đã miệt mài, âm thầm cống hiến cả tuổi xuân phơi
phới tươi đẹp cho Tổ quốc trong bài thơ “Khoảng trời, hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ:
“Em đã lấy tình yêu Tổ quốc thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy luồng bom.”
Thanh Hải ngay trên giường bệnh trong điều kiện khắc nghiệt vẫn khẳng định khát vọng cống
hiến trọn cả cuộc đời cho Tổ quốc:
“Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Điệp ngữ “dù là” kết gợp hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi, khi tóc bạc” diễn tả khát vọng âm
thầm, bền bỉ hiến dâng suốt cả cuộc đời. Dù là khi còn trẻ trung, tuổi xanh tràn đầy sức dống hay
khi về già, còn sống, còn hơi thở, còn nhịp đập của trái tim thì vẫn còn cống hiến, ngọn lửa nhiệt
huyết trong miền thẳm sâu vẫn không bao giờ lịm tắt. Khát vọng ấy vẫn luôn thường trực, đau đáu
trong tâm hồn Thanh Hải như Nguyễn Trãi đã từng khẳng định về tấm lòng trung hiếu sắt son với
đất nước:
“Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”
Hay trong bài thơ “Khúc bảy” của Thanh Thảo:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
Lời tâm nguyện ấy thật thủy chung, son sắt vững bền. Đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời, đây chính
là tâm nguyện cuối cùng của cuộc đời nhà thơ, ta càng khâm phục và xúc động khát vọng sống
mãnh liệt cũng như lẽ sống tràn đầy ý nghĩa nhân sinh của nhà thơ.
Khổ thơ cuối đã kết thúc bài thơ trong âm điệu nhẹ nhàng êm ả như giọng hò xứ Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. “Mùa xuân ta xin
hát” đã diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ trước mùa xuân quê hương.. Điệu “ Nam ai”
với giai điệu buồn thương, còn điệu “Nam bình” thì lại dịu dàng trìu mến.Dù ở trên mảnh đất
“nước non nghìn dặm” hay ở bất cứ đâu cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
(Chế Lan Viên)
Khổ thơ tha thiết dịu dàng ngân lên như một khúc dân ca, như tình cảm ngọt ngào của người dân
xứ Huế. Và trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Thanh Hải muốn cất lên hát điệu ca xứ
Huế quê mẹ.Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình, tình” đã tạo
âm hưởng bài thơ nhẹ nhàng như câu hò xứ Huế cứ ngân dài mãi ra rồi lắng đọng lại trong lòng
chúng ta những cảm xúc chân thành, ru hồn người đọc trên con đò xứ Huế êm ả trôi nhẹ trên sông
Hương rồi khép lại trong ân hưởng rộn ràng, xao động của “nhịp phách tiền” đầy xao xuyến.
Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta
về một tình cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của
Thanh Hải làm xao xuyến rung động biết bao trái tim người đọc. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía
tự nhiên đi vào lòng người như một bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn,
tấm gương cao thượng trong sáng của Thanh Hải làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải
sống sao cho xứng đáng với Tổ quốc, Nhân dân.

You might also like