Professional Documents
Culture Documents
Chu I Cung NG C A Nike
Chu I Cung NG C A Nike
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Công
nghệ Thông tin & Truyền thông Việt – Hàn đã đưa môn học Hệ thống thông tin quản lý
vào chương trình giảng dạy. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ
môn – Tiến sĩ Trần Thảo An đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong
suốt thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học của cô, em đã có thêm
cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả và nghiêm túc. Đây chắc
chắn sẽ là hành trang để em có thể vững bước trên con đường tương lai sau này.
Bộ môn Hệ thống thông tin quản lí là môn học thú vị, vô cùng bổ ích và có tính
thực tế cao. Đảm bảo cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của sinh viên.
Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu thực tế còn nhiều bỡ
ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài tập cá nhân khó có thể tránh
khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ còn chưa chính xác, kính mong cô xem xét và góp ý để
bài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 10 năm 2022
LỜI MỞ ĐẦU
Để cạnh tranh thành công trong môi trường kinh doanh đầy biến động như hiện
nay, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tham gia vào công việc kinh doanh của nhà cung cấp
cũng như khách hàng của họ bằng việc xây dựng riêng cho mình một chuỗi cung ứng
hoàn chỉnh. Phát triển chuỗi cung ứng hoàn chỉnh sẽ tạo nên nền tảng cho doanh nghiệp
tiết kiệm chi phí không cần thiết, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, tăng sức cạnh
tranh của các sản phẩm với các đối thủ. Ngoài ra, nó còn giúp cho công nghiệp trong
nước gia nhập chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, phát triển thị trường tiêu thụ ra toàn thế
giới. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm sâu sắc đến toàn bộ dòng dịch chuyển
nguyên vật liệu, cách thức thiết kế và đóng gói sản phẩm và dịch vụ của nhà cung cấp,
cách thức vận chuyển, bảo quản sản phẩm hoàn thiện và những điều mà người tiêu dùng
yêu cầu.
Nhận thức được tầm quan trọng của quản trị chuỗi cung ứng nên em quyết định lựa
chọn đề tài: “Chuỗi cung ứng của Nike”. Từ đó để thấy được vai trò cũng như lợi ích mà
Nike có được từ việc thực hiện tốt quản trị chuỗi cung ứng.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng
- Theo Viện quản trị cung ứng mô tả quản trị chuỗi cung ứng là việc thiết kế và quản lý
các tiên trình xuyên suốt, tạo giá trị cho các tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu thực sự của khách
hàng cuối cùng. Sự phát triển và tích hợp nguồn lực con người và công nghệ là nhân tố then chốt
cho việc tích hợp chuỗi cung ứng thành công.
- Theo Hội đồng chuỗi cung ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản lý cung và cầu,
xác định nguồn nguyên liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp, kiểm tra kho hàng và tồn kho, tiếp
nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân phối qua các kênh và phân phối đến khách hàng cuối
cùng.
- Theo tiến sĩ Hau Lee và đồng tác giả Corey Billington trong bài báo nghiên cứu thì “quản
trị chuỗi cung ứng’’ như là việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở các cơ sở của mạng lưới nhằm
tạo ra nguyên vật liệu, dịch chuyển chúng vào sản phẩm trung giản và sau đó đến sản phẩm hoàn
thành cuối cùng, và phân phối sản phẩm đến khách hàng thông qua hệ thống phân phối.
1.2. Mục tiêu của quảnh trị chuỗi cung ứng
- Trước hết, quán trị chuỗi cung ứng phải cân nhắc đến tất cả các thành tổ của chuỗi cung
ứng, từ nhà cung ứng và các cơ sở sản xuất thông qua các nhà kho và turng tâm phân phối đến
nhà bán lẻ và các cửa hàng, tác động của các thành tố này đến chi phí và vai trò của chúng trong
việc sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu khách hàng. Thực ra, trong các phân tích chuỗi
cung ứng, điều cần thiết là nhà phân tích phải xét để người cung cấp của các nhà cung ứng và
khách hàng của khách hàng bởi vì họ có tác động đến kết quả và hiệu quả của chuỗi cung ứng.
- Thứ hai, mục tiêu của quản trị chuỗi cung ứng là hiệu lực và hiệu quả trên toàn hệ thống
tổng chi phí của toàn hệ thống từ khâu vận chuyển, phân phối đến tồn kho nguyên vật liệu, tồn
kho trong sản xuất và thành phẩm, cần phải được tối thiểu hóa. Nói cách khác, mục tiêu của mọi
chuỗi cung ứng là tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn hệ thống. Giá trị tạo ra của chuỗi cung ứng là
sự khác biệt giữa giá trị của sản phẩm cuối cùng đối với khách hàng và nỗ lực mà chuỗi cung cấp
dung vào việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Lợi nhuận của chuỗi cung ứng là tăng lợi nhuận
được chu sẽ trong toàn chuỗi. Lợi nhuận của chuỗi cung ứng càng cao chứng tỏ sự thành công
của chuỗi cung ứng càng lớn.
mà ở đó hàng hóa tồn kho được lưu trữ trong quá trình lưu chuyển trong chuỗi cung ứng.
Trong tài liệu tham khảo cho Nike, Mongluzzo (2002) cho rằng phần lớn sản xuất và phân
phối của công ty được thực hiện ở châu Á với Trung Quốc cung cấp hơn 40% cho thị trường của
Nike Mỹ. Để đảm bảo rằng các đối tác họ chọn sẽ có hiệu quả, Nike chú trọng vào khâu chọn
được đúng đối tác. Theo Doughu & Barff (1990), hệ thống sản xuất của Nike được chia thành ba
phần chính gồm các đối tác phát triển, các nhà sản xuất khối lượng lớn và các nguồn lực.
3.1.3. Sản xuất tinh gọn
Theo giải thích của Gemaat (2006), ngành công nghiệp thời trang thông thường có chu kỳ
sản phẩm ngắn, nhu cầu cao và mức độ mua sắm dao động cao. Các đặc tính đó đã dẫn tới yêu
cầu về thời gian giao hàng ngắn cũng như chuỗi cung ứng linh hoạt. Ngược lại, gia công thuê
ngoài toàn cầu từ trước đó thường có thời gian giao hàng lâu do các sản phẩm phải được vận
chuyển qua đường biển thường mất rất nhiều thời gian. Theo Donaghu & Barff (1990) Nike
thông qua quá trình hợp đồng phụ cho phép mức độ năng động cao để có thể cung ứng đủ cho thị
trường và hệ thống sản xuất linh hoạt theo nhu cầu và cho phép chuyển giao sản xuất từ nước
này sang nước khác. Theo ghi nhận của Herzog (2003) vài năm trước đây, Nike giới thiệu một
chuỗi cung ứng mới sử dụng ngay phương pháp tiếp cận thời gian để tạo điều kiện giao hàng
nhanh hơn cho khách hàng ở châu Âu và Mỹ.
Từ các ý trên, rõ ràng là bộ phân phối của Nike đóng một vai trò rất quan trọng trong
sự thành công của công ty. Có thể lập luận rằng việc phân phối có trách nhiệm cân đối cung và
cầu trong suốt cả năm, bảo vệ hoạt động của công ty chống lại bất kỳ sự không chắc chắn như
các sản phẩm có thể được giữ lại một thời gian trong nhà kho cũng như đảm bảo rằng nền sản
xuất quy mô lớn được vận hành hiệu quả khi công ty có thể vận chuyển khối lượng lớn các sản
phẩm xuyên đại dương.
3.2. Các mối quan hệ trong chuỗi cung ứng của Nike
Mối quan hệ chuỗi cung ứng có thể được định nghĩa là mối quan hệ giữa các đối tác chuỗi
cung ứng và các liên kết kinh doanh trong chuỗi cung ứng. Theo ông Li (2007), mối quan hệ gắn
kết hơn giữa các đối tác cung cấp thường dẫn đến các liên kết kinh doanh mạnh mẽ. Li (2007)
cho rằng giá trị trao đổi giữa các đối tác chuỗi cung ứng thường là kết quả để tạo ra giá trị toàn
diện cho chuỗi cung ứng. Hai loại chính của các mối quan hệ trong bất kỳ chuỗi cung ứng như
ghi nhận của Li (2007) là quan hệ theo chiều dọc và quan hệ ngang. Như đã được đề cập, Nike
có mối quan hệ dây chuyền cung cấp cực kỳ mạnh mẽ mà có ý nghĩa cho sự thành công của công
ty.
3.2.1. Mối quan hệ theo chiều dọc
Quan hệ theo chiều dọc như giải thích chi tiết bởi Lev, Kaminsky & Simchi (2004) thường
đòi hỏi mối quan hệ hiện có giữa các công ty mà trong chuỗi cung ứng ví dụ như các nhà phân
phối, nhà bán lẻ và nhà sản xuất. Theo Barret (2004), phạm vi của dãy liên kết dọc từ quá trình
tìm kiếm nguyên liệu sản xuất của sản phẩm tới sự xếp đặt các sản phẩm lên kệ tại các nhà bán lẻ
hoặc nhà phân phối.
Trong tài liệu tham khảo cho Nike, hội nhập theo chiều dọc tồn tại trong chuỗi cung ứng là
giữa các nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối và các nhà bán lẻ. Tất cả các đối tác có vai
trò cực kỳ quan trọng trong các mối quan hệ khi mà bất kỳ đối tác bị sự cố có nghĩa là các chuỗi
cung ứng sẽ không thể được hoàn thành. Nike (2012) chỉ ra rằng công ty sẽ coi trọng các mối
quan hệ với đối tác một cách nghiêm túc với cố gắng cao nhất để chắc chắn rằng tất cả các công
ty đang ở trong một mối quan hệ làm việc chặt chẽ.
3.2.2. Mối quan hệ theo chiều ngang
Mối quan hệ ngang ngược lại bao gồm mối quan hệ kinh doanh giữa các doanh nghiệp có
vị trí song song trong quá trình hậu cần. Trong mối quan hệ loại này, các công ty khác nhau cộng
tác với để đạt được một mục tiêu chính được thiết lập khác nhau tùy thuộc vào loại công việc.
Trong trường hợp của Nike, công ty đặt trọng tâm nhiều vào quan hệ loại này vì họ là những
nhân tố giữ cho công ty có thể tồn tại được trong thị trường cạnh tranh. Mối quan hệ theo chiều
ngang của Nike còn bao gồm các nhà cung cấp khác nhau, các nhà phân phối, nhà bán lẻ và nhà
sản xuất.
Ngược lại, sản phẩm “in-line” thì được thiết kế để xuất khẩu toàn cầu hướng tới thị trường
phát triển và không bị ràng buộc với khu vực sản xuất. Dòng sản phẩm “in-line” được sản xuất
tại nhà máy sản xuất “in-line”, những nhà máy này mua vật liệu từ nhà cung cấp có chi phí thấp
nhất, bất kể nguồn gốc của các đầu vào này.
Nike không có nhà máy chỉ sản xuất riêng dòng sản phẩm “local”, mà chỉ có riêng những
nhà máy sản xuất dòng “In-Line” hoặc là các nhà máy sản xuất cả hai loại. Dòng sản phẩm
“local”, hay nói cách khác là dòng giày “world shoe” vẫn là mới, và chưa đủ sức để có thể đòi
hỏi những nhà máy riêng sản xuất dòng sản phẩm này.
4.3. Vai trò của hệ thống thông tin
Theo Koch (2004), chuỗi cung ứng của Nike là tập trung khi khâu thiết kế của sản phẩm,
gia công thuê ngoài và dịch vụ hậu cần được tất cả được thực hiện từ trụ sở chính của công ty tại
Beaverton, Oregon. Để đảm bảo rằng các chuỗi cung ứng hiệu quả, MSI (2004) chỉ ra rằng Nike
đã sử dụng SAP R3 là một công cụ lập kế hoạch duy nhất mà quản lý tập trung nhu cầu để đảm
bảo sự hợp tác hiệu quả với các nhà cung cấp.
Ngoài ra, Koch (2004) lưu ý rằng Nike là quá trình tích hợp tất cả các thông tin của mình
với quản lý chuỗi cung ứng cũng như quản lý quan hệ khách hàng được tích hợp vào một nền
tảng chia sẻ duy nhất. Nền tảng chia sẻ duy nhất theo Koch (2004) đã được dự kiến để cải thiện
hoạt động chung của công ty, sẽ được cải thiện khả năng tài chính, dự báo chính xác và dự báo
và phân bố lại tốt hơn các nguồn tài nguyên của công ty. Mongelluzzo (2002) giải thích rằng, là
kết quả của nền tảng chia sẻ duy nhất, Nike sẽ có thể đạt được mục tiêu chính của chiến lược
chuỗi cung ứng là có thông tin cập nhật, đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng
chuỗi cung ứng luôn hoạt động hiệu quả.
4.4. Hậu cần
Nike đã có những hợp đồng dài hạn và toàn cầu với các công ty logisitics. Đây là công ty
có rất nhiều hợp đồng làm ăn với các doanh nghiệp Việt Nam nhưng riêng về khâu vận tải và
logisitics thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể tham gia vào trong quá trình thương thảo. Rõ
ràng một ông lớn như Nike thì việc ký được hợp đồng gia công với họ đã là quá tốt với các
doanh nghiệp gia dày của Việt Nam rồi chứ đừng nói đến việc đàm phán về vận tải và logisitics.
Trên thực tế Nike đang sử dụng hai công ty là Maersk Logisitics và APL Logisitics cung cấp
dịch vụ logisitics cho mình.
Chúng ta nên biết visibility ( khả năng nhìn thấy và kiểm soát đơn hàng ) là một yếu tố
được các chủ hàng đánh giá rất cao khi họ lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logisitics cho mình.
Bản thân các công ty như APL Logisitics, Maersk Logisitics được Nike chọn là nhà cung cấp
dịch vụ cho mình là họ có thể cung cấp cho Nike công cụ visibility — trong bất kỳ thời điểm
nào, tại bất kỳ nơi nào nhân viên của Nike cũng có thể nắm bắt và có thể kéo ra bất kỳ các loại
báo cáo liên quan đến các đơn hàng của mình đã, đang và sẽ được thực hiện bởi các công ty trên.
Điều này sẽ giúp Nike tính toán tốt những dự báo, kiểm soát hàng tồn, đáp ứng kịp thời yêu cầu
của khách hàng ở chi phí tối ưu nhất.
4.5. Mối quan hệ với các đối tác
Đối với các mối quan hệ với các nhà cung cấp, Donaghu & Barff (1990) cho rằng Nike đặt
nhiều kì vọng sẽ dẫn đến những mối quan hệ kinh doanh mạnh mẽ. Donaghu & Barff (1990)
nhấn mạnh rằng đôi lúc Nike gửi nhân viên nghiên cứu và phát triển tới các nhà máy sản xuất
khác nhau để đảm bảo việc sản xuất trôi chảy, để tránh bất kỳ truyền đạt sai có thể đe dọa mối
quan hệ khi phát sinh. Ngoài ra, Nike cũng khuyến khích các công ty sản xuất được tham gia vào
phát triển sản phẩm như là góp phần xây dựng một chặng đường dài trong việc đảm bảo mối
quan hệ làm việc lâu dài. Đối với các doanh nghiệp chỉ sản xuất các sản phẩm của Nike,
Donaghu & Barff (1990) lưu ý rằng Nike luôn luôn hướng tới mục tiêu ổn định sản xuất cho các
nhà máy bằng cách gửi các đơn đặt hàng trước nhiều tháng.
4.6. Quản trị nhu cầu
Theo Gernaat (2004), dự báo trong ngành công nghiệp thời trang thường là một công việc
phức tạp do thực tế là ngành công nghiệp được đặc trưng bởi chu kỳ ngăn đời sản phẩm, nhu cầu
cao và sự khác nhau của dòng sản phẩm. Berger & Piller (2003), mặt khác giải thích rằng hầu hết
các công ty trong ngành công nghiệp thời trang nỗ lực để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách
hàng bằng việc có các dòng sản phẩm khác nhau. Kết quả là, dự đoán nhu cầu khách hàng khó
khăn cũng như làm cho các tổ chức phải cố gắng tránh tồn kho không bán được. Theo Giáo sư
Porter, Harris & Yeung (2002), Nike quản lý nhu cầu cho sản phẩm của mình bằng cách sử dụng
chương trình tương lai đòi hỏi nhà bán lẻ các sản phẩm của Nike để đặt hàng 80% hàng tồn kho
của họ trước sáu tháng để được giao hàng đảm bảo.
Theo Nikebiz (năm 2007), hệ thống đặt hàng tương lai cho phép Nike giảm được bàng tồn
kho, thời gian dành cho việc thực hiện các đơn đặt hàng bán lẻ cũng như các nguy cơ về vận
chuyển hàng. Hệ thống theo Nikebiz (2007), là công cụ cho sự thành công của Nike trong những
năm 1990 và đa số các nhà bán lẻ đều tuyên bố giảm giá như là kết quả của việc làm ăn có lãi.
Tuy nhiên, Koch (2004) cho rằng, hệ thống đặt hàng tương lai đã bị đe dọa vì các nhà bán lẻ đã
không còn quan tâm đặt hàng sáu tháng kể từ khi thị thiếu người tiêu dùng và sở thích có thể
thay đổi trước khi giao hàng. Ngoài ra, Koch (2004) cho rằng Nike như đứng đằng sau các đối
thủ trong việc vẽ điểm của hệ thống bán hàng từ các đối thủ như Adidas, vốn có một hệ thống
thông báo cho các công ty sản xuất bất kỳ hàng hóa nào được bán mà cần yêu cầu bổ sung ngay
lập tức.
Theo Adidas (2012) mà là một đối thủ cạnh tranh nghiêm trọng với Nike, các công ty
trong năm 2006 đã phát triển chuỗi cung ứng của mình để bao gồm năm khía cạnh chính để đáp
ứng nhu cầu khách hàng một cách hiệu quả. Ngoài ra, công ty nhằm mục đích thu ngắn thời gian
từ sản xuất đến tiêu thụ của sản phẩm từ 18 tháng còn 5 tháng.
KẾT LUẬN
Chuỗi cung ứng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, đặc biệt là sự phát triển của các doanh nghiệp trên nền tảng thương mại điện tử như ngày
nay. Nhiệm vụ của chúng ta đó chính là cần nhanh chóng thích nghi với xu hướng phát triển này
để có nắm bắt những cơ hội tốt hơn!