Cuối năm 1948, Quang Dũng phải chuyển đơn vị khác.
Rời xa đoàn binh Tây Tiến chưa được
bao lâu, khi kỉ niệm về Tây Tiến và hơi ấm đồng đội hầu như vẫn còn nguyên vẹn, tại Phù Lưu Chanh - một làng nhỏ bên bờ sông Đáy hiền hòa, ông nhớ về đơn vị cũ nên viết bài thơ này. Bằng bút pháp lãng mạn hòa cùng chất hiện thực, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh hùng vĩ mà thơ mộng của thiên nhiên miền tây Tây Bắc. Và với tám câu thơ đầu, thông qua nỗi nhớ da diết của tác giả, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra trong những cuộc hành quân gian khổ. Hai câu thơ đầu mở ra nỗi nhớ mênh mang: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Nhớ về Tây Tiến, nhà thơ nhớ đầu tiên là sông Mã. Trải dài trên địa bàn hoạt động của đoàn quân, con sông đã gắn liền với chặng đường hành quân của người lính, trở thành người bạn đồng hành của các anh đồng thời là chứng nhân lịch sử, ghi lại toàn bộ những ngày tháng chiến đấu gian khổ. Sông Mã giờ đây không còn đơn thuần là dòng sông của thiên nhiên nữa mà là dòng sông của cảm xúc, của tâm trạng để khơi nguồn cảm hứng, tâm trạng của thi sĩ. Đối tượng nhớ thứ hai là Tây Tiến hay chính là nhớ đồng đội cũ, nhớ bao gương mặt sát cánh một thời chinh chiến. Nếu hai đối tượng “sông Mã”, “Tây Tiến” ở câu thứ nhất gợi lên một nỗi nhớ chủ đạo xuyên suốt cả tác phẩm: “nhớ Tây Tiến” thì đối tượng thứ ba của nỗi nhớ: “rừng núi” đã cụ thể hóa nỗi nhớ ấy trong tám câu đầu là nhớ về rừng, về núi, về những miền đất đoàn quân đã đi qua, đã gắn bó sâu đậm nhưng nay đã “xa rồi”. Hai từ “nhớ” đặt trong cùng một câu nhưng lại tách ra làm hai vế càng thêm tô đậm cảm xúc nhung nhớ khôn nguôi, thổn thức. Đặc biệt, với từ láy “chơi vơi” Quang Dũng đã vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ: một nỗi nhớ thật khó định hình, hụt hẫng, miên man khiến người ta đứng ngồi không yên. Âm “ơi” trong “chơi vơi” là âm mở lại hiệp vần với chữ “ơi” (“Tây Tiến ơi”) ở câu thơ đầu tạo nên âm hưởng vang vọng, lan tỏa, nỗi nhớ thường trực trong tâm hồn như trào ra, bao trùm cả không gian. Ngược dòng nỗi nhớ, nhà thơ đưa ta trở về những đêm hành quân gian lao, vất vả: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Sài Khao, Mường Lát là những địa danh xa lạ miền Tây Bắc, mang ý nghĩa khái quát, tạo nên không gian rừng rú, gây ấn tượng về một chốn xa xôi, hẻo lánh, đầy hoang dã. Vốn là những chốn xa xôi vậy mà lúc này chúng lại là nơi in những dấu chân kỷ niệm, tại hiện lại một thời kì lịch sử hào hùng mà gian khổ của những chàng lính Hà Thành. Cụm từ “sương lấp”, “đoàn quân mỏi” đưa người đọc đến với cuộc sống khắc nghiệt của người chiến sĩ Tây Tiến. Thời tiết khắc nghiệt, những biển sương mù dày đặc mang theo gió rét, buốt giá nuốt chửng cả không gian, “lấp” cả đường đi, “lấp” dáng người trong mờ mịt. Hành quân suốt ngày đêm, bị nhấn chìm trong biển sương lạnh giá, đoàn quân không thể tránh khỏi sự mỏi mệt.Nhưng “đoàn quân mỏi” chứ tinh thần không mỏi. Tuy phải đối mặt với hiện thực khắc nghiệt, những chàng lính Hà Thành vẫn phát hiện được vẻ đẹp nên thơ của thiên nhiên: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Không phải đêm sương mà là “đêm hơi”- một cách sử dụng từ ngữ đầy tài tình, khéo léo. “đêm hơi” lại gợi lên hình ảnh sương núi bồng bềnh trong đêm thật huyền ảo, thật mơ hồ. Giữa màn “đêm hơi” ấy, cái nhìn lãng mạn của người lính hướng đến những đóa hoa. “Hoa” có thể là những bông hoa rừng nở rộ thơm ngát, cũng có thể là hoa đuốc lung linh soi đường. Dù là hoa rừng hay hoa đuốc, chúng đều làm dịu đi vẻ dữ dội, tô thêm nét thơ mộng cho bức tranh núi rừng. Song song với hình ảnh, nhịp điệu cũng góp phần tạo nên sự hài hòa giữa hai câu thơ. Trái ngược với một loạt thanh trắc (“lấp”, “mỏi”) đem lại cảm giác mỏi mệt, nặng nề ở câu ba, những thanh bằng trong câu thơ thứ tư mang đến cho người đọc cảm nhận về sự thanh thoát, nhẹ nhàng. Bốn câu thơ tiếp đậm chất họa, là bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây - địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Chỉ với vài nét phác họa, chặng đường hành quân của lính Tây Tiến hiện lên là những đèo cao, dốc thẳm: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm . Từ “dốc” tuy được điệp hai lần trong một câu, lại được tách thành hai vế khiến cả chặng đường dường như chỉ toàn trùng điệp những dốc, hết “dốc lên khúc khuỷu” lại đến “dốc thăm thẳm”.“Khúc khuỷu” “thăm thẳm” là các từ láy giàu tính tạo hình, đặc tả những cung đường trúc trắc, gập ghềnh, vừa lên cao đã lại đổ xuống. Nếu “khúc khuỷu” chỉ những con đường có nhiều đoạn gấp khúc ngắn, nối tiếp, quanh co thì “thăm thẳm” gợi lên cả độ cao lẫn độ sâu, cảm giác như con đường phía trước cao đến hút tầm mắt người, không biết đâu là giới hạn cuối cùng. Song hành cùng phép điệp và các từ láy, tác giả còn sử dụng rất nhiều các thanh trắc đặt ở cả đầu, giữa cũng như cuối câu khiến chặng đường hành quân của người lính vốn đã gập ghềnh trúc trắc nay càng thêm gân guốc, gồ ghề. Vượt qua cái khúc khuỷu, thăm thẳm của dốc, đoàn quân đặt chân đến những đỉnh núi cao đến chạm trời: Heo hút cồn mây súng ngửi trời Từ láy heo hút - gợi ra sự vắng vẻ, hiu quanh- qua biện pháp đảo ngữ được đặt lên đầu câu như nhấn mạnh cái hẻo lánh, hoang sơ, lạnh lẽo nơi đỉnh núi. Núi cao, cao vời vợi, cao ngập cả vào trong mây. Mây tụ lại quanh đỉnh núi, xếp thành từng tầng từng tầng tạo thành những “cồn mây” lơ lửng. Người lính trèo lên những ngọn núi tưởng chừng như đang đi trên mây, mũi súng chạm đến trời. Nhưng thay vì “súng chạm trời” tác giả lại viết “súng ngửi trời”. Hình ảnh nhân hóa thật hóm hỉnh. Súng vốn là một vũ khí chết chóc, biểu tượng cho sự không yên bình, bất ổn thì với một chữ “ngửi” hình ảnh cây súng lại được nhìn ở góc độ có phần tinh nghịch, trẻ trung. Dù câu thơ không nói đến người lính mà ta vẫn thấy được hình bóng của họ. Người lính vai khoác súng, đứng trên đỉnh núi cao chót vót mà vẫn tếu táo, đùa vui trêu ghẹo cả tạo hóa. Giữa thiên nhiên, vắng vẻ, heo hút, chân dung người lính vẫn sừng sững kiên cường với vẻ đẹp của con người mang tư thế sánh ngang với trời đất. Tiếp nối nét vẽ gân guốc, gập ghềnh ở câu “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, câu thơ tiếp theo như được ngắt làm đôi, vẽ ra hai chặng của con đường hành quân: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Điệp ngữ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ thuật, diễn tả sinh động miền đất cheo leo, hiểm trở, gập ghềnh. Dấu phẩy ngắt câu thơ làm hai vế tiểu đối, gây nên sự thay đổi đột ngột của cảm giác: nửa vế đầu đưa ta lên cao tận chân mây: “ngàn thước lên cao”, nửa vế sau “gập” xuống một nét đầy dứt khoát: “ngàn thước xuống”. Đồng thời, yếu tố tương đồng của điệp ngữ “ngàn thước” và tính chất tương phản của các động từ “lên - xuống” trong hai vế đã cho người đọc cảm nhận đầy chân thực về độ cao của dốc, độ sâu của vực: một bên dựng đứng, vút cao chót vót, một bên đổ xuống hun hút, thăm thẳm. Đọc những câu thơ này của Quang Dũng ta liên tưởng đến hai câu thơ của Lí Bạch tả cảnh thác Hương Lô: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây Câu thơ thứ bảy với nét vẽ dứt khoát và khỏe khoắn đã đặc tả thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, tráng lệ, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Từ đây, bản lĩnh của người chiến sĩ phải ngày ngày leo dốc, vượt đèo càng được thể hiện rõ nét. Bức tranh kết lại bằng những nét vẽ mềm mại: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Không còn những thanh trắc nặng nề, câu thơ toàn bộ là thanh bằng cùng âm mở “ơi” kết thúc gợi lên một cảm giác thật nhẹ nhàng như nhịp thở thư giãn của người lính. Khung cảnh thiên nhiên lúc này như cũng bớt lạnh lẽo, heo hút bởi sự xuất hiện của sự sống: “Nhà ai”. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến hai tiếng “nhà ai” trở nên sao da diết, bâng khuâng đến thế. Quang Dũng đặt điểm nhìn từ xa hướng về làng bản những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn. Một lần nữa, địa danh miền tây Tây Bắc được nhắc đến nhưng khác với những Sài Khao, Mường Lát, cái tên Pha Luông nghe thật nhẹ nhàng, làm dịu đi bầu không khí rừng rú, hoang dại trải dài suốt tám câu thơ. Mưa rừng vốn lạnh, vốn rét, nhưng với hình ảnh sáng tạo: “mưa xa khơi”, Quang Dũng như đã làm lu mờ đi cái lạnh, cái rét ấy và to đậm thêm nét kì bí, trữ tình. Cả câu thơ cho ta hình dung cảnh người lính sau chặng đường dài vất vả, tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa qua một không gian mịt mù sương rừng, mây núi thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi. Nét gân guốc, dữ dội của thiên nhiên nhạt dần nhường chỗ cho vẻ đẹp thơ mộng, bình yên. Sự mỏi mệt, nặng nhọc của con người cũng mờ đi, để lại những thư thái, thanh thản. Qua câu thơ, ta không chỉ thấy một Tây Tiến thơ mộng hài hòa với núi non hùng vĩ mà còn thấy được tâm hồn lãng mạn hòa quyện với nét đẹp hào hùng của người lính.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời Bao sự khó khăn, cơ cực của người lính Tây Tiến đổ dồn lên từ láy "dãi dầu": họ đã chịu đựng, trải qua nhiều mưa nắng, vất vả, gian truân. Từ "gục" đã nói lên một thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính cố gắng tiến về phía trước nhưng rồi đến lúc vẫn phải kiệt sức và nằm lại, không thể bước tiếp cùng đồng đội của mình nữa. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế, Quang Dũng ở đây đã không hề né tránh hiện thực, mà tái hiện thực tế chiến trường. Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do.Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương. Tác giả đã dùng cách nói giảm nói tránh cùng với cách diễn đạt chủ động trong cụm từ “bỏ quên đời” để tránh đi màu sắc tang thương, giúp ta thấy rằng người lính Tây Tiến khi nằm xuống trong lòng đất mẹ dường như rất nhẹ nhàng và thanh thản. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn, qua đó, nhà thơ đã làm hiện lên không phải khó khăn mà chính là vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ kiên cường sẵn sàng đương đầu với tất cả những thử thách gian truân.