You are on page 1of 115

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

***

DIỆP THẾ DÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC


CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DIỆP THẾ DÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC


CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Bùi Nguyên Khánh

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Diệp Thế Dân


MỤC LỤC

Mở đầu 1
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM 7
VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền làm việc của người
7
khuyết tật

1.2. Cơ chế quốc tế bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật 21
1.3. Cơ chế quốc gia về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật 26
Tiểu kết chương 1 32

Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI 33
KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH GIAI ĐOẠN 2015 - 2019
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền làm việc của người
33
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

2.2. Kết quả, hạn chế trong bảo đảm quyền làm việc của người
36
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

2.3. Nguyên nhân hạn chế trong bảo đảm quyền làm việc của người
48
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Tiểu kết chương 2 53


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM 54
VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
3.1. Phương hướng bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ 54
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

3.2. Giải pháp bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ thực
55
tiễn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Tiểu kết chương 3 78


KẾT LUẬN 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người khuyết tật được coi là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương
nhất. Vì tình trạng khuyết tật nên họ phải chịu những thiệt thòi trên tất cả phương
diện của đời sống xã hội, như sức khỏe kém hơn, học vấn thấp hơn, mức độ tham
gia kinh tế ít hơn và nghèo khổ hơn, so với những người không khuyết tật.
Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phát huy truyền thống
nhân ái của dân tộc, Đảng, Nhà nước và xã hội luôn quan tâm chăm sóc và giúp đỡ
những người yếu thế trong xã hội, trong đó có người khuyết tật. Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 sửa đổi 2011) đã chỉ rõ:
"Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và
trẻ mồ côi" [18, tr .23]. Hiến pháp năm 2013, Điều 59, khoản 2 quy định: "Nhà
nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ
thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người
nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”.
Để giúp người khuyết tật có thể vượt qua được những khó khăn, do khiếm
khuyết của cơ thể, hòa nhập cộng đồng, ngoài các chính sách xã hội giúp người
khuyết tật ổn định cuộc sống như: Trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế, giáo dục… thì việc
hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết việc làm cho người khuyết tật, đóng
vai trò vô cùng quan trọng giúp họ tự tin vươn lên ổn định cuộc sống. Đây là, một
trong những giải pháp không chỉ mang lại hiệu quả thiết thực mà còn thể hiện tính
nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với đối tượng yếu thế, thiệt thòi gặp
nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Năm 2010 được đánh dấu là năm bước ngoặt trong công tác chăm sóc người
khuyết tật bằng việc ra đời Luật Người khuyết tật. Luật Người khuyết tật là sự kế
thừa của Pháp lệnh về Người tàn tật năm 1998. Ngoài ra, Nhà nước còn có các Nghị
định, Thông tư, hướng dẫn trong công tác chăm sóc người khuyết tật như: Nghị
định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật người khuyết tật, trong đó quy định rõ về việc làm cho người
khuyết tật, Thông tư số 37/2012/ TTLT-BLĐTBXH-BYT-BTC-BGDĐT thông tư
liên tịch quy định về việc xác định mức độ khuyết tật do hội đồng xác định mức độ
khuyết tật thực hiện…
Tuy nhiên, quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam nói chung và
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, chưa được quan tâm đúng mức, một số người
khuyết tật mặc dù đã qua đào tạo, có kỹ năng tay nghề nhưng vẫn không có việc
làm hoặc bị từ chối nhận vào làm việc, dẫn đến lãng phí nguồn lao động, tạo thêm
gánh nặng cho phúc lợi xã hội. Một phần do quan niệm xã hội luôn xem thường
người khuyết tật, không có khả năng lao động, một số người sử dụng lao động chưa
nhận thức được năng lực của người khuyết tật (những đặc điểm hơn hẳn người bình
thường như chăm chỉ, tận tuỵ, làm việc hết mình…) và chiến lược sắp xếp và sử
dụng người lao động khuyết tật. Mặt khác, các chính sách hỗ trợ, khuyến khích,
tuyên truyền của Nhà nước chưa thực sự hiệu quả, cộng với tâm lý tự ti của chính
bản thân người khuyết tật đã tạo thành rào cản rất lớn trong việc làm.
Từ những luận giải trên, vận dụng những kiến thức đã được học cùng với thực
tiễn công tác tại địa phương, học viên chọn đề tài "Bảo đảm quyền làm việc của
người khuyết tật từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để nghiên cứu trong phạm
vi luận văn thạc sĩ, chuyên ngành luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
Đảm bảo quyền con người là một trong những nội dung quan trọng đã được
các ngành và nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, từ khi Ban Bí
thư khóa X ban hành Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20/7/2010 về công tác nhân quyền
trong tình hình mới đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến việc đảm bảo
quyền con người nói chung và đảm bảo quyền của người khuyết tật nói riêng, cụ thể
như sau:
* Các công trình là đề tài, dự án, báo cáo nghiên cứu:
- "Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương" của Hoàng Thị Kim Quế.
- "Báo cáo khảo sát về Đào tạo nghề và Việc làm cho người khuyết tật tại Việt
Nam" của Tổ chức Lao động Quốc tế đã cung cấp một cách nhìn riêng cho phụ nữ
khuyết tật, Chính phủ Việt Nam chú trọng nhiều đến hòa nhập, đào tạo nghề, việc
làm và phát triển doanh nghiệp.
- "Báo cáo thường niên về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam" của
Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD.
- "Báo cáo nghiên cứu về người khuyết tật ở Việt Nam, một số kết quả chủ
yếu" của Quỹ Dân số Liên hợp Quốc.
* Các công trình nghiên cứu trong phạm vi luận văn, luận án
- Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Báo: "Hoàn thiện pháp luật về quyền của
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay" năm 2008 [4].
- "Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam hiện hành” của
Nguyễn Bích Ngọc [28].
- "Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật từ thực tiễn Thành phố Hà Nội"
của Dương Thị Chung [12].
- "Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật" của Hồ Thị Trâm [51].
* Các công trình nghiên cứu đã xuất bản thành sách, đăng trên các tạp
chí chuyên ngành:
- "Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam" của Lê Bạch Dương,
Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung và Robert Leroy Bach [16].
- "Luật người khuyết tật" của Hà Đình Bốn [8].
- "Bảo đảm việc làm và thu nhập cho người khuyết tật" của Đinh Thị Cẩm Hà
[21].
- "Bảo đảm quyền lao động của người khuyết tật" của Ngọc Điệp [20].
- "Thực trạng các quy định về việc làm đối với người khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay" của Hoàng Kim Khuyên [22].
- "Chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp của thương binh và người khuyết
tật: Còn nhiều bất cập" của PV [30]. Bài viết đánh giá Doanh nghiệp "tàn nhưng
không phế" đó là tên gọi mà giới doanh nhân Việt Nam đặt cho doanh nghiệp của
thương binh và người khuyết tật với bao tình cảm trân trọng và khâm phục. Bởi lẽ,
lực lượng lao động trong loại hình doanh nghiệp này thiệt thòi đủ thứ: vừa yếu về
sức khỏe, thiếu về vốn và kiến thức... so với lực lượng lao động bình thường trong
xã hội, song họ lại có nghị lực kiên cường dám vượt lên số phận.
- "Bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam và
việc gia nhập Công ước 159 của ILO" của Trần Thái Dương [17]. Bài viết phân tích
khái niệm về quyền lao động và việc làm, bảo đảm quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật; chính sách và việc thực hiện chính sách bảo đảm quyền lao động
và việc làm của người khuyết tật; việc gia nhập Công ước 159 (Công ước về Phục
hồi chức năng lao động và Việc làm của người khuyết tật) của Tổ chức Lao động
quốc tế; nêu một số ý kiến đề xuất, kiến nghị bảo đảm quyền lao động và việc làm
của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
- "Thực trạng các quy định về việc làm đối với người khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay" của Hoàng Kim Khuyên [22].
Như vậy, có thể thấy, các công trình nghiên cứu về quyền của người khuyết
tật, pháp luật về quyền lao động việc làm của người khuyết tật khá phong phú, đã
khái quát một cách có hệ thống các vấn đề bảo đảm quyền của người khuyết tật
dưới góc nhìn quyền con người. Kết quả nghiên cứu này sẽ là tài liệu bổ ích cho tác
giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài của luận văn. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về đề tài: "Bảo đảm quyền làm việc của
người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh", do đó đề tài nghiên cứu của
luận văn là mới, không trùng lặp với các đề tài đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật; phân tích, đánh giá thực trạng bảo
đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; để từ
đó đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo đảm quyền làm việc của người khuyết
tật ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền
làm việc của người khuyết tật;
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015-2020;
Ba là, đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo đảm quyền làm việc của
người khuyết tật ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Dưới góc độ pháp luật về quyền con người, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Chỉ tập
trung nghiên cứu, đánh giá dựa trên nội dung bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia; không đánh
giá theo cơ chế bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng bảo đảm quyền làm
việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Số liệu cập nhật để phân tích thực trạng bảo đảm quyền làm việc
của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm
2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Liên hợp quốc, quan điểm của Đảng, Nhà
nước Việt Nam về quyền con người, quyền của người khuyết tật và quyền làm việc
của người khuyết tật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận
văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, khảo cứu tài liệu, … Đồng thời, luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên
cứu, số liệu phân tích của các công trình khoa học đã được công bố.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến nay. Từ đó, Luận văn góp phần làm phong phú thêm
những vấn đề lý luận về quyền làm việc của người khuyết tật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn cung cấp thêm kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất các giải
pháp mới có giá trị tham khảo cho lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình
thực hiện trách nhiệm bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng
dạy, nghiên cứu chuyên ngành pháp luật hiến pháp về quyền con người tại Học viện
Khoa học và xã hội, tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm có 3 chương, 08 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC
CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA
NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
1.1.1.1. Khái niệm người khuyết tật
Trên thế giới hiện nay có hai quan điểm về vấn đề khuyết tật. Theo quan điểm
thứ nhất, cho rằng khuyết tật là ở chính sự phát triển tự nhiên về thể chất của con
người đó, hoặc không quan tâm đến các yếu tố về môi trường xã hội xung quanh họ
(mô hình khuyết tật dưới góc độ y tế). Ngược lại, quan điểm thứ hai cho rằng,
khuyết tật là một sản phẩm của xã hội, bắt nguồn từ việc môi trường vật thể và môi
trường xã hội không đáp ứng được những nhu cầu của từng cá nhân hoặc các nhóm
đối tượng cụ thể (mô hình xã hội).
Từ hai quan điểm nêu trên, việc phân loại quốc tế về khiếm khuyết, khuyết tật
và tàn tật xuất bản đầu tiên vào năm 1980 bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã có
một sự phân biệt quan trọng giữa khiếm khuyết và hai hình thức khác của tình trạng
khiếm khuyết được gọi là khuyết tật và tàn tật [55]. Theo đó, khuyết tật là bất kỳ
giới hạn hoặc mất chức năng bắt nguồn từ sự khiếm khuyết làm ngăn cản việc thực
hiện một hoạt động trong khoảng thời gian được coi là bình thường của một người;
tàn tật là tình thế bất lợi xuất phát từ sự khiếm khuyết hoặc khuyết tật hạn chế thực
hiện một vai trò được coi là bình thường đối với tuổi tác, giới tính và các yếu tố xã
hội và văn hóa.
Tại Khoản 1, Điều 1 Công ước số 159 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về
phục hồi chức năng và việc làm (người khuyết tật) năm 1983 có định nghĩa về
người có khuyết tật như sau: "Người khuyết tật dùng để chỉ một cá nhân mà khả
năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó và thăng tiến với nó bị
giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất và tâm thần được
thừa nhận" [48].
Theo Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 13/3/2007: Người khuyết tật bao gồm những người có
khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác
với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn
vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác [26].
Như vậy, Theo Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật thì khái niệm
người khuyết tật được hiểu là một khái niệm mở, có sự tiến triển theo thời gian và
điều kiện xã hội, là kết quả của sự tương tác giữa những người có khiếm khuyết và
những rào cản về thái độ và môi trường mà ở đó hạn chế sự tham gia một cách đầy
đủ và có hiệu quả vào các hoạt động trên cơ sở bình đẳng với các thành viên khác
trong xã hội. Mặc dù, vẫn còn những quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu
thành khái niệm "người khuyết tật", tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa
về "người khuyết tật" được xác định trong luật nhân quyền quốc tế. Điều này có ý
nghĩa lớn trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền của người khuyết tật.
Ở nước ta, khái niệm về người khuyết tật trước đây chưa có sự thống nhất và
tồn tại song song 2 cụm từ "người khuyết tật" và "người tàn tật". Từ năm 2009 thì
mới có sự thống nhất gọi chung là "người khuyết tật" trên các phương tiện thông tin
đại chúng và trong các văn bản pháp luật.
Theo Luật Người khuyết tật năm 2010 khái niệm người khuyết tật được hiểu
là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó
khăn [38]. Đây là khái niệm tương đối toàn diện về lao động khuyết tật, khắc phục
những bất cập trong khái niệm lao động khuyết tật trước đây. Khái niệm này thuận
lợi cho xây dựng các mục tiêu hỗ trợ về mặt vật chất hoặc tài chính cho lao động
khuyết tật, hoặc người sử dụng lao động khuyết tật. Điều này mang lại ý nghĩa to
lớn, giúp cho việc hoạch định chính sách và thực hiện chính sách đối với lao động
khuyết tật được hiệu quả. Như vậy, khái niệm người khuyết tật được xây dựng phụ
thuộc rất nhiều vào mục tiêu mà luật hoặc các chính sách pháp luật của mỗi nước
theo đuổi, tiêu chí xác định khuyết tật, yếu tố văn hóa, điều kiện về kinh tế, xã hội.
Có thể thấy cho đến nay, các nước trên thế giới không có một định nghĩa
chung nhất về người khuyết tật. Tuy nhiên, từ phân tích nêu trên có thể đưa ra khái
niệm người khuyết tật như sau: Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế trong việc
tham gia vào các hoạt động của đời sống xã hội trên cơ sở bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ với những chủ thể khác.
1.1.1.2. Khái niệm quyền làm việc
Quyền làm việc hay quyền có việc làm, quyền được làm việc là một yếu tố cơ
bản bảo đảm sự tồn tại thực tế của con người, đồng thời bảo đảm nhân phẩm và
lòng tự trọng của con người (sống dựa vào năng lực và khả năng của bản thân chứ
không dựa dẫm, ỷ lại vào người khác). Quyền làm việc là nhóm quyền cơ bản trong
Bộ Luật Lao động và là một trong rất nhiều quyền khác của người lao động. Quyền
được làm việc có vị trí rất quan trọng, vì quyền được làm việc là cốt lõi để thực hiện
các quyền con người khác và tạo nên một phần quan trọng không thể tách rời tự
nhiên của nhân phẩm. Quyền làm việc chính là tiền đề, điều kiện quan trọng để thực
hiện các quyền khác của người lao động nói riêng và các quyền của con người nói
chung, như quyền về nhà ở, quyền về giáo dục, văn hoá... Chỉ khi quyền làm việc
được đảm bảo thực hiện, thì các quyền khác của con người mới có ý nghĩa.
Theo pháp luật quốc tế, tại Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
đã ghi nhận: Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được
hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất
nghiệp; Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không
phân biệt đối xử; Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để
bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu
cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác [24].
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 cũng xác
định các yếu tố của quyền có việc làm: Các quốc gia thành viên Công ước này thừa
nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm
sống bằng công việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi
hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này; Các quốc gia thành viên Công
ước phải tiến hành các biện pháp để thực hiện đầy đủ quyền này, bao gồm triển khai
các chương trình đào tạo kỹ thuật và hướng nghiệp, các chính sách và biện pháp kỹ
thuật nhằm đạt tới sự phát triển vững chắc về kinh tế, xã hội và văn hoá, tạo công ăn
việc làm đầy đủ và hữu ích với điều kiện đảm bảo các quyền tự do cơ bản về chính
trị và kinh tế của từng cá nhân."; "Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận
quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi,
đặc biệt đảm bảo: Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo: (i)
Tiền lương thoả đáng và tiền công bằng nhau cho những công việc có giá trị như
nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ nữ phải được đảm bảo những
điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, được trả công ngang nhau đối với
những công việc giống nhau, (ii) Một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia
đình họ phù hợp với các quy định của Công ước này; Những điều kiện làm việc an
toàn và lành mạnh; Cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên
chức vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc; Sự nghỉ
ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những ngày nghỉ thường
kỳ được hưởng lương cũng như thù lao cho những ngày nghỉ lễ [25].
So với quyền của người lao động thì quyền làm việc hẹp hơn nhưng lại là một
quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất, bởi vì quyền làm việc chính là tiền đề, điều
kiện quan trọng để thực hiện các quyền khác của người lao động nói riêng và các
quyền của con người nói chung, như quyền về nhà ở, quyền về giáo dục, văn hoá...
Ở Việt Nam, quyền làm việc được ghi nhận là quyền làm việc trong Hiến pháp
năm 1959: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền làm việc. Nhà
nước dựa vào sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, dần dần mở rộng
công việc làm, cải thiện điều kiện lao động và lương bổng, để bảo đảm cho công
dân được hưởng quyền đó [25].
Hiến pháp năm 1980: Lao động là quyền, nghĩa vụ và vinh dự hàng đầu của
công dân; Công dân có quyền có việc làm. Người có sức lao động phải lao động
theo quy định của pháp luật; Nhà nước dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn
hoá mà tạo thêm việc làm, sắp xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá
nhân và yêu cầu của xã hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động,
không ngừng cải thiện điều kiện làm việc của lao động chân tay và lao động trí óc;
Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện các chế độ nhằm đề phòng tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp [34].
Hiến pháp năm 1992 quy định: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động"
[35]. Hiến pháp năm 2013: "Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm" [36].
Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc;
người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn;
được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi; nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao
động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu [39], [40].
1.1.1.3. Quyền làm việc của người khuyết tật
Quyền làm việc là một trong những quyền cơ bản của quyền con người,
Quyền làm việc của người khuyết tật là tiền đề tạo ra cơ hội và động lực cho
người khuyết tật tìm kiếm việc làm, có cơ hội khẳng định bản thân, tự lập trong
cuộc sống, tạo ra thu nhập để không phải dựa dẫm vào gia đình, người thân. Do vậy,
đảm bảo việc làm cho người khuyết tật được ghi nhận trong Công ước quốc tế và
trong pháp luật quốc gia.
Tại Điều 27 Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật quy định rõ:
Các quốc gia thành viên công nhận quyền được làm việc của người khuyết tật,
trên cơ sở bình đẳng với người khác; trong đó bao gồm cả quyền có cơ hội kiếm
sống bằng một công việc được tự do lựa chọn hoặc chấp nhận trong thị trường lao
động và môi trường làm việc mở, hòa nhập và dễ tiếp cận đối với người khuyết tật
[26].
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cần thiết phải ban hành chính sách việc
làm nhằm đảm bảo cho người khuyết tật được tiếp cận với cơ hội việc làm và
nghiêm cấm phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật. Ngoài ra, cũng theo tổ chức này thì
người sử dụng lao động phải có trách nhiệm nhận người khuyết tật vào làm việc.
Ở Việt Nam, vấn đề việc làm và đảm bảo quyền làm việc cho người khuyết tật
được Nhà nước và xã hội coi trọng, quan tâm thích đáng. Các quy định của Luật
Người khuyết tật năm 2010 đã nhấn mạnh Nhà nước cần tạo điều kiện để người
khuyết tật có việc làm và làm việc phù hợp với sức khoẻ, đặc điểm khuyết tật của
người khuyết tật (Điều 33), khuyến khích các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp
nhận người khuyết tật vào làm việc. Nếu doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là
người khuyết tật được hưởng chính sách ưu tiên hơn. Mặt khác, Nhà nước còn tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người
khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc, được miễn thuế thu
nhập cá nhân, được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được ưu tiên cho thuê đất, mặt
bằng, mặt nước… Ngoài ra, để đảm bảo cho người khuyết tật có cuộc sống và việc
làm phù hợp, Luật còn quy định thành lập quỹ hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật.
Đây là quỹ xã hội từ thiện với mục tiêu huy động nguồn lực trợ giúp người khuyết
tật. Quỹ được hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc từ các cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước đóng góp hoặc từ các khoản thu khác.
Năm 2012, sửa đổi năm 2019, Bộ luật Lao động một lần nữa khẳng định việc
làm và đảm bảo việc làm cho người khuyết tật là nhiệm vụ quan trọng, trong đó:
"Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của lao động là người khuyết tật,
có chính sách khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo việc làm và nhận
lao động là người khuyết tật vào làm việc, theo quy định của Luật Người khuyết tật"
(khoản 1 Điều 176) [39], [40].
Như vậy, quyền làm việc là quyền thiêng liêng, cao quý của con người, đã
được cộng đồng quốc tế và các quốc gia công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Đối với người khuyết tật, quyền làm việc lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn, bởi lẽ
nếu quyền này được tôn trọng và bảo đảm thì mới tạo ra cơ hội thực tế để người
khuyết tật có thể tiếp cận, hoà nhập, bình đẳng với mọi người trong cộng đồng xã
hội. Việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật phải được thực hiện theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật, không phân biệt đối xử, đồng thời có sự hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý
đối với người khuyết tật.
1.1.1.4. Bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Theo Từ điển Tiếng Việt, "bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ
gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết" [52, tr.36]. Quyền làm việc của mọi
người trong đó có người khuyết tật thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội và là quyền
hiến định. Điều 14, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp
luật" [41].
Quyền Hiến định về việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam đã được ghi
nhận và cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật. Cùng với Luật Người khuyết tật
(2010), Bộ luật Lao động (2012, sửa đổi 2019), Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật như Luật Giáo dục nghề nghiệp (2014), Luật Việc làm
(2013), Luật An toàn, vệ sinh lao động (2015)...đều ghi nhận, bảo đảm quyền làm
việc của người khuyết tật. Nhà nước cũng đã triển khai những đề án, kế hoạch nhằm
trợ giúp người khuyết tật trong tiếp cận việc làm. Có thể kể đến một số văn bản
quan trọng như Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (được
phê duyệt theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1956/QĐ-TTg ngày
27/11/2009; Đề án “Trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020” (được phê
duyệt theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1019/QĐ-TTg ngày 5/8/2012);
Chỉ thị của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội số 3930/BLĐTBXH-TCDN ngày
21/10/2014 về nâng cao hiệu quả và chất lượng trong thực hiện mục tiêu dạy nghề
và tạo việc làm cho người khuyết tật ...
Bên cạnh đó, Nhà nước áp dụng các biện pháp để đưa chính sách, pháp luật
được thực thi trong thực tiễn như tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp
luật và chính sách đã được ban hành; về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật,
người sử dụng lao động là người khuyết tật, các bên có liên quan được pháp luật
quy định; các dịch vụ hỗ trợ về việc làm và cách thức tìm kiếm việc làm…để người
khuyết tật quyết định phương thức làm việc phù hợp như tự tạo việc làm hoặc tham
gia vào các quan hệ lao động bằng hình thức tuyển dụng…
Từ phân tích trên, dưới góc độ quyền con người có thể hiểu: Bảo đảm quyền
làm việc của người khuyết tật là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, văn hóa
và tổ chức thực hiện để người khuyết tật có cơ hội bình đẳng để tiếp cận, thụ hưởng
đầy đủ quyền làm việc theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Như vậy, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trước hết thuộc về
trách nhiệm của Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường phù hợp để
người khuyết tật có cơ hội tiếp cận, hưởng thụ quyền làm việc của mình một cách
bình đẳng, không bị phân biệt đối xử.
1.1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
1.1.2.1. Đặc điểm bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Thứ nhất, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật là trách nhiệm của
Nhà nước và xã hội.
Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp và
tạo việc làm cho người khuyết tật, bởi họ cũng là công dân, là lực lượng lao động
của xã hội. Bộ luật Lao động còn quy định Nhà nước thực hiện bảo trợ quyền lao
động, tự tạo việc làm của người lao động khuyết tật.
Nhà nước có nghĩa vụ thúc đẩy việc tuyển dụng người khuyết tật trong các
khu vực công, tạo ra những cơ hội tự tạo việc làm của người khuyết tật, hỗ trợ việc
tiếp cận việc làm của họ ở khu vực tư nhân, bảo đảm có những sự điều chỉnh hợp lý
với người khuyết tật ở nơi làm việc, bảo vệ người khuyết tật khỏi bị lao động cưỡng
bức, bóc lột hay bị bóc lột sức lao động...
Ngoài trách nhiệm của Nhà nước, đảm bảo việc làm cho người khuyết tật còn
là trách nhiệm của toàn xã hội.
Pháp luật quy định các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không
được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ điều kiện vào làm việc hoặc hạn
chế cơ hội làm việc của họ bằng cách đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái pháp luật; có
trách nhiệm bố trí, sắp xếp công việc, đảm bảo môi trường và điều kiện làm việc
phù hợp đối với lao động là người khuyết tật; phải tham khảo ý kiến lao động là
người khuyết tật trước khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích
của họ.
Các tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn, giới thiệu việc làm cho
người khuyết tật. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh nếu có từ 30% trở lên
tổng số lao động là người khuyết tật thì được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường
làm việc phù hợp, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, được vay vốn với lãi suất
ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất, kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt
bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất
kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao
động và quy mô doanh nghiệp. Doanh nghiệp có sử dụng từ 10 người khuyết tật trở
lên làm việc ổn định sẽ được hưởng ưu đãi về cải tạo điều kiện, môi trường làm
việc; ưu đãi về vay vốn ưu đãi theo dự án phát triển kinh doanh từ ngân hàng chính
sách xã hội. Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết
tật trở lên làm việc ổn định được hưởng chính sách về cải tạo điều kiện, môi trường
làm việc…
Thứ hai, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật bao hàm sự bảo đảm cả
về mặt thể chế và về mặt thực tế
Ở Việt Nam, trong thời gian qua Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật như Luật Người khuyết tật (2010), Bộ luật Lao động (2012,sửa
đổi 2019), Luật Giáo dục nghề nghiệp (2014), Luật Việc làm (2013), Luật Xây
dựng (2014), Luật Giao thông đường bộ (2008), Luật Bảo hiểm y tế (2008, sửa đổi
bổ sung năm 2014), Luật An toàn, vệ sinh lao động (2015)...đều ghi nhận việc đảm
bảo quyền làm việc của người khuyết tật. Trên cơ sở pháp luật ghi nhận về quyền
làm việc của người khuyết tật, Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm
của người khuyết tật, khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo ra việc
làm và nhận người lao động khuyết tật vào làm việc.
Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, để hiện thực hóa trong thực tế
Nhà nước cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chính sách, chương trình kinh tế -
xã hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật, trong đó
tập trung vào việc phát triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trợ các doanh
nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động như Đề án
đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 (Quyết định số 1956/QĐ-TTg
ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2012 - 2020 (Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 5/8/2012 của Thủ tướng
Chính phủ); Chỉ thị của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội số 3930/BLĐTBXH-
TCDN ngày 21/10/2014 về nâng cao hiệu quả và chất lượng trong thực hiện mục
tiêu dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật...
Thứ ba, đảm bảo người khuyết tật có cơ hội tiếp cận, hưởng thụ quyền làm
việc của mình một cách bình đẳng thực chất, không bị phân biệt đối xử.
Người khuyết tật có những thiệt thòi hơn so với người bình thường trong hoạt
động nghề nghiệp bởi những khó khăn mà họ phải gánh chịu do những khiếm
khuyết về thể chất hoặc tinh thần. Vì vậy, nếu hiểu "đối xử bình đẳng" hay "không
phân biệt đối xử" theo nghĩa đối xử cào bằng giữa người khuyết tật với người bình
thường sẽ dẫn đến không những máy móc trong nhận thức và hành động mà còn tạo
ra sự bất bình đẳng giữa người khuyết tật và người không khuyết tật. Ví dụ, không
thể giao cho người bị khiếm thính công việc trực điện thoại như người người bình
thường, không thể giao người bị khiếm thị lái xe như người người bình thường…
Như vậy, người sử dụng lao động phải có những điều chỉnh nhất định nhằm bảo
đảm người lao động là người khuyết tật có khả năng tiếp cận nghề nghiệp, lao động,
cụ thể là:
Sắp xếp lại các vị trí công việc theo hướng phân bổ hợp lý công việc để người
khuyết tật có thể đảm nhiệm được một hoặc một số vị trí phù hợp với đặc điểm
khuyết tật cá nhân. Trong trường hợp, người lao động vì lý do bệnh tật hoặc tai nạn
mà có khuyết tật thì người sử dụng lao động phân bổ lại công việc nhằm bảo đảm
người lao động là người khuyết tật có thể làm việc được. Ví dụ, phân công người
khiếm thính đảm nhận công việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và lập báo cáo, còn vị trí
công việc phải giao tiếp với khách hàng dành cho người có khả năng giao tiếp tốt.
Mua sắm, thay đổi, bổ sung các thiết bị, dụng cụ phù hợp với đặc điểm khuyết
tật của lao động là người khuyết tật. Ví dụ, bố trí bàn làm việc thấp cho người lao
động phải ngồi xe lăn, mua sắm máy tính phù hợp với người khiếm thị…
Ban hành, sửa đổi, bổ sung các chính sách, quy tắc lao động trong nội bộ
doanh nghiệp hoặc tổ chức nhằm bảo đảm có những chính sách, quy tắc lao động
phù hợp với đặc điểm riêng của khuyết tật của người lao động. Ví dụ, chính sách về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi áp dụng đối với người khuyết tật không có khả
năng duy trì cường độ làm việc 8 giờ/ngày.
Cần có người chuyển ngữ trong nội bộ doanh nghiệp hoặc tổ chức nhằm giúp
người sử dụng lao động với người lao động có khuyết tật (không có khả năng nói,
nghe, và/hoặc nhìn) cũng như người lao động có khuyết tật (không có khả năng nói,
nghe và/hoặc nhìn) với người lao động khác.
Thứ tư, khi tham gia vào quan hệ lao động, ngoài các quyền, nghĩa vụ như mọi
người trong tất cả các lĩnh vực, người khuyết tật còn được hưởng các chính sách
mang tính chất đặc thù của lao động là người khuyết tật như pháp luật quy định
người lao động là người khuyết tật có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng
lao động thì được nghỉ 14 ngày làm việc (thay vì 12 ngày làm việc đối với lao động
là người không khuyết tật); họ không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định; bị suy giảm khả
năng lao động từ 51% trở lên không phải làm thêm giờ, làm việc ban đêm; được
người sử dụng lao động tổ chức khám sức khỏe định kỳ ít nhất 6 tháng một lần…
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Thứ nhất, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật xuất
phát từ ý nghĩa việc làm và vai trò của mỗi người đối với phát triển kinh tế và xã
hội.
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối
với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các
hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn
bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản
thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân.
Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá
nhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những
vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ
tầng,…), vào những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề,
trình độ văn hoá thấp, lao động là người khuyết tật...). Việc không có việc làm trong
dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kỹ năng nghề
nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có.
Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu
vào không thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng
trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc
làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và
kinh tế, tức là luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững,
ngược lại nó cũng duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động.
Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã
hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích
cực, mặt khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã
hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội,
không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về
nhân cách và trí tuệ…Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm
cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động
ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự
hoàn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến
lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã
hội. Ngoài ra khi không có việc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu
nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình
chính trị.
Vai trò của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì
vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi Nhà nước phải có
những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này.
Thứ hai, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật là một trong những
chính sách quan trọng của mỗi quốc gia và có sự tác động lớn đến sự phát triển kinh
tế và đời sống xã hội. Đối với người khuyết tật, việc làm luôn đóng vai trò quan
trọng. Việc làm giúp người khuyết tật có thu nhập để nuôi sống bản thân, ổn định
cuộc sống. Thông qua công việc được làm, người lao động khuyết tật có thể tự
khẳng định về bản thân, không phải phụ thuộc vào gia đình, xã hội.
Trước đây, người khuyết tật thường được nhìn nhận dưới góc độ đạo đức, là
đối tượng cần trợ giúp. Thì ngày nay tiếp cận người khuyết tật dưới góc độ về
quyền con người thì họ có đầy đủ các quyền, trong đó có quyền làm việc để tạo ra
của cải vật chất, nuôi sống bản thân, cống hiến cho xã hội. Nếu bảo đảm được
quyền làm việc cho người khuyết tật sẽ góp phần thay đổi nhận thức về khả năng
lao động của người khuyết tật, có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống vật chất và
tinh thần của người khuyết tật và gia đình họ.
Bảo đảm quyền làm việc không chỉ giúp người khuyết tật có thu nhập, ổn định
đời sống mà điều quan trọng hơn đó là giúp người khuyết tật được hòa nhập với
cộng đồng và tự tin trong cuộc sống.
Trong thực tế đã có rất nhiều trường hợp, dù bản thân khuyết tật nhưng họ
vẫn ý thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, họ biết tự vươn lên trong cuộc
sống, học tập và lao động như những người không khuyết tật khác, thậm chí là tạo
được việc làm cho những người khác. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận
không nhỏ người khuyết tật luôn tự ti, mặc cảm với khiếm khuyết của mình, sống
khép kín trong gia đình, ngại tiếp xúc xã hội, ngại giao tiếp… chỉ trông chờ vào sự
trợ giúp của Nhà nước và xã hội. Nếu được làm việc, những người khuyết tật này sẽ
có cơ hội thể hiện năng lực của bản thân mình, họ sẽ ngày càng tự tin hơn để hòa
nhập với cuộc sống và môi trường xung quanh.
Thứ ba, bảo đảm quyền làm việc là điều kiện tốt để người khuyết tật hoàn
thiện và thay đổi bản thân, khai thác được những tiềm năng của họ.
Môi trường làm việc tập thể tạo cho người lao động khuyết tật có cơ hội tiếp
xúc với những người lao động khác, do đó nhận thức của người khuyết tật về bản
thân cũng sẽ có những thay đổi theo hướng tích cực, họ sẽ thấy mình vẩn là người
có ích cho gia đình, xã hội và họ tự xóa bỏ những mặc cảm, rào cản để tự tin hòa
nhập với cộng đồng.
Do mối quan hệ xã hội của họ được mở rộng, mọi người trong cộng đồng hiểu
biết hơn về khả năng của người khuyết tật, uy tín của họ trong cộng đồng được tăng
lên, họ tự tin khi có việc làm, có thu nhập, vai trò và vị thế của họ trong gia đình và
trong cộng đồng thay đổi. Mọi người nể họ hơn vì sự cố gắng của họ trong cuộc
sống, họ trở thành tấm gương vượt khó cho mọi người khuyết tật khác trong cộng
đồng.
Thứ tư, bảo đảm quyền làm việc cho người khuyết tật góp phần phát triển
nguồn nhân lực cho xã hội.
Với trên 8 triệu người, chiếm 7,8% dân số, người khuyết tật là một bộ phận
cấu thành không thể tách rời của xã hội [7].Vì vậy, người khuyết tật cũng có trách
nhiệm trong việc tham gia vào các hoạt động của cộng đồng và đóng góp công sức
của mình đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và có quyền được
hưởng đầy đủ những thành quả phát triển của xã hội.
Xét trên số liệu này, tỷ lệ người khuyết tật ở nước ta khá cao. Trong số này,
vẫn có nhiều người khuyết tật có khả năng và mong muốn được làm việc. Nếu vấn
đề việc làm cho người khuyết tật được bảo đảm thực hiện thì một bộ phận người
khuyết tật sẽ trở thành lực lượng lao động không nhỏ trong các ngành nghề, lĩnh
vực, góp phần phát huy nguồn nhân lực rất lớn cho xã hội.
Nếu được tạo điều kiện cần thiết, xây dựng được môi trường làm việc phù hợp
và tự mình vươn lên thì người khuyết tật có thể sống, hoạt động và đóng góp cho xã
hội theo sức khỏe và năng lực như những người không khuyết tật khác. Người
khuyết tật sẽ cùng với những người không khuyết tật phát huy khả năng, nguồn
nhân lực của chính mình cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Thực tế cho thấy,
người khuyết tật cũng đã có những đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế của đất
nước.
Quan tâm hỗ trợ cho người khuyết tật phát huy khả năng của mình để đáp ứng
nhu cầu bản thân; tạo điều kiện để người khuyết tật vươn lên tham gia bình đẳng
vào các hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã hội, trong
đó quan tâm tạo việc làm, bảo đảm việc làm là sự hỗ trợ thiết thực và ý nghĩa nhất.
1.2. CƠ CHẾ QUỐC TẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT
1.2.1. Quan niệm về cơ chế và cơ chế pháp lý bảo đảm quyền làm việc của
người khuyết tật.
Quan niệm về: “Cơ chế là cách thức, sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ
sở theo đó mà thực hiện” [58, tr.133]. Như vậy, cơ chế là cách thức, phương thức
để thực hiện một công việc nào đó.
Quan niệm về cơ chế pháp lý: “tổ hợp các yếu tố do pháp luật quy định, có
mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại trong thực tiễn nhằm làm phát sinh một
kết quả mong muốn theo ý chí của nhà nước” [54, tr.119]. Cơ chế pháp lý gồm các
yếu tố cơ bản bao gồm: 1.Chủ thể: cá nhân, tổ chức có thẩm quyền tổ chức thực
hiện, 2.Các quy tắc xử sự, quyền nghĩa vụ, trách nhiệm, 3. Trình tự thủ tục thực
hiện quan hệ pháp luật.
Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật là: các tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền thực hiện các quy định của pháp luật, theo trình tự, thủ tục
thực hiện quyền, nghĩa vụ về việc làm của người khuyết tật.
1.2.2. Cơ chế quốc tế bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Lao động là hoạt động tạo nên các giá trị vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu
cầu của con người. Lao động cũng làm nên các giá trị, phẩm giá cho con người. Do
vậy, lao động và việc làm đã trở thành nhu cầu tất yếu, có tính thống nhất và có ý
nghĩa quyết định đối với cuộc sống, địa vị xã hội của tất cả mọi người. Quyền làm
việc là quyền thiêng liêng, cao quý của con người, đã được cộng đồng quốc tế và
các quốc gia công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Đối với người khuyết tật,
quyền làm việc càng ý có nghĩa quan trọng hơn, bởi lẻ một khi quyền này được tôn
trọng và bảo đảm thì mới tạo ra cơ hội thực tế để người khuyết tật có thể tiếp cận,
hòa nhập bình đẳng với mọi người trong cộng đồng xã hội. Việc công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền làm việc cho người khuyết tật phải được thực hiện
trên nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử,
đồng thời có sự hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý đối với người khuyết tật. Việc làm cho
người khuyết tật được cả Liên hợp quốc và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đặc
biệt quan tâm.
Liên hợp quốc quy định: các quốc gia phải công nhận quyền được làm việc
của người khuyết tật, bằng cách thực thi những bước phù hợp, bao gồm cả các biện
pháp luật pháp.
Tại Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật đã đưa ra 11 biện pháp
mà các quốc gia thành viên cần phải thực hiện để bảo đảm quyền làm việc của
người khuyết tật: (a) Nghiêm cấm phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật trong các vấn
đề có liên quan đến tất cả các hình thức về việc làm, bao gồm các điều kiện tuyển
dụng, thuê và nhận vào làm, duy trì việc làm, thăng tiến trong sự nghiệp, các điều
kiện lao động an toàn và bảo đảm sức khỏe; (b) Bảo vệ quyền của người khuyết tật,
trên cơ sở bình đẳng với người khác, nhằm bảo đảm điều kiện lao động công bằng
và thuận lợi, bao gồm cơ hội bình đẳng và được trả lương bình đẳng cho những
công việc như nhau, có các điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe, bao
gồm việc bảo vệ khỏi bị quấy rối và được bồi thường cho nỗi bất bình; (c) Bảo đảm
người khuyết tật có thể thực hiện quyền lao động và quyền về công đoàn, bình đẳng
với người khác; (d) Bảo đảm người khuyết tật tiếp cận có hiệu quả tới các chương
trình chung về hướng dẫn kỹ thuật và dạy nghề, các dịch vụ sắp xếp việc làm,
chương trình đào tạo và bổ túc nghề; (đ) Nâng cao cơ hội có việc làm và sự thăng
tiến trong nghề nghiệp của người khuyết tật trong thị trường lao động cũng như hỗ
trợ trong việc tìm việc làm, nhận được việc làm, duy trì việc làm và trở lại làm việc;
(e) Tăng cường khả năng tự tạo việc làm, lập doanh nghiệp, phát triển các hợp tác
xã và bắt đầu tạo dựng sự nghiệp riêng; (g) Tuyển dụng người khuyết tật trong khu
vực công; (h) Thúc đẩy việc làm của người khuyết tật trong khu vực tư nhân thông
qua các chính sách và biện pháp phù hợp, trong đó có thể bao gồm những chương
trình hành động được phê chuẩn, sự khuyến khích và các biện pháp khác; (i) Bảo
đảm có sự điều chỉnh hợp lý đối với người khuyết tật tại nơi làm việc; (k) Nâng cao
sự tiếp thu kinh nghiệm làm việc của người khuyết tật trong thị trường lao động mở;
(l) Thúc đẩy phục hồi nghề nghiệp và chuyên môn, duy trì việc làm và trở lại làm
việc của người khuyết tật. Các quốc gia thành viên bảo đảm người khuyết tật không
bị bắt lao động cực nhọc như nô lệ hay khổ sai; và họ được bảo vệ, trên cơ sở bình
đẳng với những người khác, trước những công việc lao động cưỡng bức hoặc bắt
buộc [26].
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) hướng dẫn thúc đẩy cơ hội việc làm bình
đẳng cho người khuyết tật không bao gồm việc ngăn cấm phân biệt đối xử vì lý do
khuyết tật. Theo ILO, cần thiết phải ban hành chính sách việc làm nhằm đảm bảo
cho người khuyết tật được tiếp cận với cơ hội việc làm và nghiêm cấm phân biệt đối
xử vì lí do khuyết tật. Ngoài ra, cũng theo tổ chức này thì người sử dụng lao động
phải có trách nhiệm nhận người khuyết tật vào làm việc [26].
Tổ chức Lao động quốc tế đã ban hành Công ước 159 về phục hồi chức năng
lao động và việc làm của người khuyết tật, thông qua ngày 20/6/1983 (Công ước
159). Công ước đưa ra các yêu cầu về phục hồi khả năng lao động và việc làm cho
người khuyết tật, quy định về việc điều chỉnh và đánh giá các tài liệu hướng dẫn
nghề nghiệp, dạy nghề, bố trí việc làm và dịch vụ thất nghiệp cho người khuyết tật.
Như vậy, đối với người khuyết tật, bên cạnh việc phục hồi chức năng y tế, sức khoẻ
thì phục hồi chức năng lao động và việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng, điều này
thậm chí có tính quyết định cho việc hoà nhập bình đẳng vào cộng đồng xã hội. Bởi
lẽ, chức năng lao động và việc làm chỉ có thể được phục hồi trên cơ sở chức năng y
tế, sức khoẻ đồng thời người khuyết tật được trang bị kỹ năng lao động theo nghề
nghiệp, có khả năng tìm kiếm, duy trì được việc làm và thăng tiến với nó. Nếu được
phục hồi về chức năng y tế, sức khoẻ mà người khuyết tật không có khả năng tìm
kiếm và duy trì việc làm thì việc hoà nhập hoặc tái hoà nhập với xã hội của họ khó
có thể được bảo đảm bền vững và thực chất.
1.2.3. Cơ chế của ASEAN về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết
tật
Năm 2012, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Tuyên bố Nhân quyền
ASEAN2 (AHRD) vào năm 2012. Cùng với Tuyên bố Phnom Penh (Campuchia) về
việc thông qua AHRD, cam kết của Chính phủ ASEAN nhằm bảo vệ quyền con
người và quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người trong ASEAN, kể cả người
khuyết tật. Đến năm 2016, tất cả các Quốc gia Thành viên ASEAN đã phê chuẩn
Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền của Người khuyết tật (CRPD).
Xuyên suốt nhiều năm, ASEAN đã liên tục ưu tiên xúc tiến và bảo vệ quyền
của người khuyết tật. Khung chính sách của ASEAN đối với việc thúc đẩy quyền và
phúc lợi của người khuyết tật bắt nguồn từ Tuyên bố Bali (Indonesia) về Tăng
cường Vai trò và Sự tham gia của Người khuyết tật trong Cộng đồng ASEAN
(2011), trong đó kêu gọi hiện thực hóa sự hòa nhập của người khuyết tật thông qua
việc phát triển các kế hoạch hành động quốc gia, đa dạng hóa các dịch vụ xã hội,
phát triển các chương trình an sinh xã hội cũng như các cơ hội học tập và làm việc
có thể tiếp cận được. Bản Tuyên bố cũng đã công bố và giới thiệu Khung hành động
của Thập kỷ ASEAN về Người khuyết tật (2011-2020) nhằm thúc đẩy phát triển
hòa nhập cho người khuyết tật trong ASEAN. Nguyên tắc hòa nhập, với vai trò là
một định hướng chính sách đặc thù của ASEAN, đã thấm nhuần trong tất cả các
sáng kiến và chương trình thúc đẩy hiện thực hóa quyền của người khuyết tật trong
Cộng đồng ASEAN.
Ngoài ra, các công cụ khác của khu vực cũng khẳng định cam kết của ASEAN
và minh họa môi trường chính sách mạnh mẽ trong khu vực nhằm tìm cách nâng
cao năng lực cho người khuyết tật. Tuyên bố Hà Nội (Việt Nam) về Tăng cường
Phúc lợi và Phát triển cho Phụ nữ và Trẻ em ASEAN (2010) nhằm mục đích đảm
bảo bình đẳng giới trong giáo dục và tuyển sinh cho trẻ em khuyết tật và có nhu cầu
đặc biệt. Tuyên bố Kuala Lumpur (Malaysia) về một ASEAN hướng tới con người,
tập trung vào con người (2015) kêu gọi thúc đẩy và bảo vệ quyền của người khuyết
tật cũng như thúc đẩy quyền và phúc lợi của họ tại các chương trình nghị sự trong
tương lai của ASEAN.
Tuyên bố ASEAN về tăng cường giáo dục cho trẻ em và thanh niên ngoài
trường học (OOSCY) nhận định rằng tiếp cận giáo dục là một ưu tiên nhằm đảm
bảo lợi ích tối ưu cho mọi trẻ em và thanh thiếu niên, dù có bị khuyết tật hay không.
Tuyên bố về xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ và xóa bỏ bạo lực đối với trẻ em tại
ASEAN (2013) nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ em khuyết tật khỏi mọi hình thức bạo
lực, lạm dụng và bóc lột. Tuyên bố ASEAN về Tăng cường An sinh Xã hội (2013)
tuyên bố rằng người khuyết tật có quyền tiếp cận công bằng đối với an sinh xã hội
và kêu gọi các Quốc gia Thành viên ASEAN hỗ trợ các chính sách, chiến lược và
cơ chế quốc gia để tăng cường triển khai các chương trình bảo trợ xã hội, cũng như
các hệ thống nhắm mục tiêu hiệu quả để đảm bảo rằng các dịch vụ an sinh xã hội sẽ
đến được những người có nhu cầu cấp thiết nhất.
Các chính sách ASEAN nhằm thúc đẩy quyền và phúc lợi của người khuyết
tật được lấy cảm hứng từ sự phát triển toàn cầu, đồng thời cũng đóng góp tích cực
cho sự phát triển toàn cầu. Mốc chính sách quan trọng nhất trong số đó là Chương
trình nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững, trong đó chính sách không để ai bị bỏ lại
phía sau đã bổ sung cho tầm nhìn của ASEAN về một cộng đồng ASEAN hướng tới
con người, tập trung vào con người. Chiến lược Incheon (Hàn quốc) nhằm “Hiện
thực hóa quyền” cho người khuyết tật châu Á và Thái Bình Dương kêu gọi khuyến
khích sự tham gia của người khuyết tật bằng cách loại bỏ rào cản và tăng cường khả
năng tiếp cận, và đảm bảo đáp ứng giới, thông qua các phương thức liên ngành và
đa bên.
1.3. CƠ CHẾ QUỐC GIA VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA
NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Pháp luật về bảo đảm việc làm cho người khuyết tật là những quy định pháp lý
được xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà người khuyết tật đang phải gánh
chịu, xóa bỏ các cơ chế khiến người khuyết tật bị tách biệt ra ngoài xã hội, đồng
thời tăng cường cơ hội việc làm bình đẳng cho họ trong thị trường lao động. Nội
dung bảo đảm quyền làm việc cho người khuyết tật theo quy định của pháp luật
Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật.
Tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật Lao động năm 2012, sửa đổi năm 2019 khẳng
định:
Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của lao động là người
khuyết tật, có chính sách khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo việc
làm và nhận lao động là người khuyết tật vào làm việc, theo quy định của Luật
Người khuyết tật [39], [40].
Cụ thể: (1) Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao
động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe
và đặc điểm của người khuyết tật; (2) Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào
làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn
chế cơ hội làm việc của người khuyết tật; (3) Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp
công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật;
(4) Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật
phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là người
khuyết tật; (5) Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn
và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật; (6) Người khuyết tật tự tạo việc làm
hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi
để sản xuất kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ
tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Chính phủ; (7) Nhà nước khuyến khích cơ
quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc. Doanh nghiệp
sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi.
Thứ hai, bảo đảm chính sách học nghề, dạy nghề cho người khuyết tật
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm tới công tác đào
tạo nghề và tạo việc làm cho người lao động là người khuyết tật. Chính sách đào tạo
nghề cho người khuyết tật đã được xã hội hóa, huy động sự tham gia của đông đảo
các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp, các tổ chức của người khuyết tật.
Luật Dạy nghề năm 2006 đã dành toàn bộ Chương VII quy định dạy nghề cho
người khuyết tật, với mục tiêu giúp đối tượng có năng lực thực hành nghề phù hợp
với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm, ổn định
đời sống. Đồng thời, Nhà nước cũng khẳng định, hỗ trợ về tài chính và các chính
sách ưu đãi khác đối với các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật nhằm khuyến
khích công tác dạy nghề cho người khuyết tật.
Luật Người khuyết tật năm 2010 và Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày
10/4/2012 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết
tật đã có những quy định chi tiết về dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật.
Theo đó: Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí,
lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác;
người khuyết tật học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được hưởng chế
độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
Đa số người khuyết tật sống nhờ vào sự trợ giúp của gia đình, xã hội và cộng
đồng nên họ thường gặp khó khăn về tài chính, việc tham gia học nghề là vấn đề
khó khăn và đôi khi không thể thực hiện được do còn định kiến nên nhiều gia đình
không cho con em mình là người khuyết tật đi học nghề, được tiếp xúc với cộng
đồng. Chính vì vậy, Nhà nước phải có những chính sách nhằm khuyến khích và hỗ
trợ cho người khuyết tật học nghề. Cụ thể, Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật
được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình
đẳng như những người khác (quy định tại Điều 32 Luật Người khuyết tật 2010);
người khuyết tật tham gia học nghề được hưởng học bổng và trợ cấp xã hội, chế độ
cử tuyển, chính sách tín dụng giáo dục, chính sách miễn, giảm phí dịch vụ công
cộng cho học sinh, sinh viên theo quy định của Luật Giáo dục; người khuyết tật
được tư vấn học nghề miễn phí, được miễn, giảm học phí, đặc biệt người khuyết tật
thuộc hộ nghèo còn được miễn học phí, được cấp học bổng và hỗ trợ ăn ở đi lại theo
quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng có những chính sách cụ thể đối với giáo viên
dạy nghề cho cho người khuyết tật. Giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật ngoài
các quyền lợi chung đối với giáo viên dạy nghề còn được hưởng phụ cấp đặc thù
cho việc giảng dạy người khuyết tật. Tùy thuộc vào việc dạy nghề ở các lớp dành
riêng cho người khuyết tật hay ở các lớp hoà nhập người khuyết tật mà giáo viên
được hưởng chế độ ưu đãi khác nhau. Đối với giáo viên chuyên trách dạy nghề
trong các cơ sở dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật và giáo viên chuyên trách
dạy nghề cho các lớp dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật, được hưởng mức
phụ cấp bằng 70% mức lương hiện hưởng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp
thâm niên vượt khung (nếu có). Giáo viên tham gia dạy nghề cho người tàn tật,
người khuyết tật ở các cơ sở dạy nghề, lớp dạy nghề dành riêng cho người tàn tật,
người khuyết tật được hưởng mức phụ cấp 70% mức lương hiện hưởng và phụ cấp
chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). Mức phụ cấp được tính
theo số giờ thực tế giảng dạy. Giáo viên chuyên trách dạy nghề ở các lớp hoà nhập
cho người khuyết tật được hưởng mức phụ cấp đặc thù 35% đến 65% mức lương
hiện hưởng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có)
tùy thuộc vào số lượng sinh viên là người khuyết tật.
Thứ ba, bảo đảm về cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật, yêu cầu tuyển dụng
và bảo đảm chế độ ưu đãi cho cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng lao động là người
khuyết tật
- Bảo đảm cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật.
Trình độ nghề và kỹ năng nghề là những điều kiện có ý nghĩa tiên quyết để
người lao động nói chung, người khuyết tật nói riêng có được việc làm cũng như
việc làm ổn định. Có được trình độ nghề, người khuyết tật có thể tự tạo việc làm
cho mình hoặc tham gia vào quan hệ lao động, thậm chí còn có thể thành lập doanh
nghiệp để tạo việc làm cho những người khuyết tật khác. Chính vì vậy, dạy nghề
đối với người khuyết tật là vấn đề hết sức cần thiết.
Theo quy định của Luật dạy nghề năm 2006, cơ sở dạy nghề cho người khuyết
tật ngoài những điều kiện của cơ sở dạy nghề nói chung, còn phải đảm bảo các điều
kiện sau: cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề; giáo trình, phương pháp và thời gian dạy
nghề phù hợp với người khuyết tật; giáo viên có chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng
giảng dạy cho người khuyết tật; các công trình xây dựng phục vụ cho người khuyết
tật học nghề phải đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định của Bộ trưởng Bộ xây dựng.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, các cơ sở dạy nghề phải đầu tư nhiều hơn về
cơ sở vật chất. Bởi vậy, Nhà nước có chính sách nhằm khuyến khích các cơ sở dạy
nghề tuyển người khuyết tật vào học, khuyến khích các cá nhân, tổ chức thành lập
cơ sở dạy nghề dành cho người khuyết tật như: Nhà nước hỗ trợ về tài chính để đầu
tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, được giao đất không thu tiền hoặc thuê đất ở nơi
thuận lợi cho việc học nghề của người khuyết tật. Điều này đã khuyến khích các cơ
sở dạy nghề cho người khuyết tật được thành lập đồng thời tạo điều kiện để các cơ
sở này duy trì hoạt động trong quá trình thực hiện việc đào tạo nghề cho người
khuyết tật.
Ngoài ra Nhà nước quy định các cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng,
chứng chỉ, công nhận nghề đào tạo khi người khuyết tật học hết chương trình đào
tạo và đủ điều kiện theo quy định của thủ trưởng cơ quan quản lí nhà nước về dạy
nghề [37].
- Yêu cầu tuyển dụng và bảo đảm chế độ ưu đãi cho cơ sở sản xuất kinh doanh
sử dụng lao động là người khuyết tật.
Luật Người khuyết tật 2010 quy định: Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng
vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm
hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật. Việc sử dụng lao động là người
khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao
động là người khuyết tật phải tùy theo điều kiện cụ thể để bố trí sắp xếp công việc,
bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật [38].
Bên cạnh đó, Doanh nghiệp sẽ được hưởng nhiều ưu đãi khi sử dụng lao động
là người khuyết tật, cụ thể:
Đối với người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho
người khuyết tật sẽ được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh, được
hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm theo những
ưu đãi trên được quy định tại Điều 33 Luật Người khuyết tật 2010.
Chính sách thuế: Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp sửa đổi 2013 thì doanh nghiệp sử dụng từ 30% số lao động bình quân trong
năm là người khuyết tật và có số lao động bình quân trong năm từ 20 người trở lên
thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ lĩnh vực tài chính, kinh doanh bất
động sản) [42].
Hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người
khuyết tật theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Mức hỗ trợ
theo tỷ lệ người khuyết tật làm việc ổn định tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức độ
khuyết tật của người lao động và quy mô của cơ sở sản xuất, kinh doanh theo quy
định của Thủ tướng Chính phủ;
Vay vốn ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh từ Ngân hàng Chính
sách xã hội. Điều kiện vay, thời hạn vay, mức vốn vay và mức lãi suất vay thực hiện
theo quy định hiện hành áp dụng đối với dự án vay vốn giải quyết việc làm;
Ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước theo quy định của pháp luật; Miễn
tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất kinh doanh đối với cơ sở sản
xuất, kinh doanh sử dụng từ 70% lao động là người khuyết tật trở lên. Giảm 50%
tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất kinh doanh đối với cơ sở sản
xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% đến dưới 70% lao động là người khuyết tật.
Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật trở
lên làm việc ổn định được hưởng chính sách về cải tạo điều kiện, môi trường làm
việc…
Nhìn chung, Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận
người khuyết tật vào làm việc. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người
khuyết tật đều được hưởng những chính sách ưu đãi trên. Các doanh nghiệp khi sử
dụng lao động là người khuyết tật vừa được hưởng ưu đãi vừa nhận được sự ủng hộ
của xã hội bởi đã góp phần giúp người khuyết tật được hòa nhập với cộng đồng.
Thứ tư, bảo đảm quỹ việc làm cho người khuyết tật.
Với mục đích giúp đỡ người khuyết tật học nghề, tạo việc làm, hỗ trợ cơ sở
dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật; hỗ trợ các
doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế nhận người khuyết tật vào học
nghề và làm việc đạt tỷ lệ cao thì quy định về thành lập và sử dụng quỹ việc làm
cho người khuyết tật là một vấn đề quan trọng và cần thiết.
Tại Điều 10 Luật Người khuyết tật năm 2010, quy định về Quỹ trợ giúp người
khuyết tật. Theo đó, quỹ này là quỹ xã hội từ thiện nhằm huy động nguồn lực trợ
giúp người khuyết tật và quỹ này được hình thành từ các nguồn như: Đóng góp tự
nguyện, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Hỗ trợ từ ngân sách
nhà nước; Các khoản thu hợp pháp khác. Ngoài ra, tại Điều 8. “Khuyến khích người
khuyết tật tự tạo việc làm, hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật: (1). Người
khuyết tật tự tạo việc làm, hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được
hưởng chính sách sau đây: a) Vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh từ
Ngân hàng Chính sách xã hội. Điều kiện, thời hạn và mức vốn cho vay thực hiện
theo các quy định hiện hành áp dụng đối với các dự án vay vốn giải quyết việc làm;
b) Hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, hỗ trợ chuyển giao công nghệ sản xuất, hỗ
trợ tiêu thụ sản phẩm. (2). Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân
liên quan hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ
sản phẩm do người khuyết tật làm ra” [9].
Tiểu kết chương 1
Với tư cách là một thành viên của cộng đồng nhân loại, dưới góc độ quyền
con người, người khuyết tật có tất cả các quyền cơ bản của con người trong đó có
quyền làm việc.
Trong chương 1, luận văn đã phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn
về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và
nội dung bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật theo pháp luật quốc tế và
tuyên bố Asean về quyền làm việc của người khuyết tật và pháp luật cơ chế pháp lý
về quyền làm việc của người khuyết tật Việt Nam;
Cơ sở lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, cơ chế pháp lý trách nhiệm bảo đảm
quyền làm việc của người khuyết tật, trước hết thuộc về Nhà nước ban hành pháp
lý, tạo điều kiện thông qua chính sách, để khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ
chức trong đó tổ chức Hội của người khuyết tật và bản thân người khuyết tật.
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT
TẬT TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GIAI ĐOẠN 2015-2019

2.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC
CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Khái quát điều kiện kinh tế tự nhiên, kinh tế -xã hội của thành phố
Hồ Chí Minh ảnh hưởng đến bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố
Hồ Chí Minh (TPHCM) ngày nay có 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,239
km². Năm 2019, tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn Thành phố (GRDP) đạt hơn
1,34 triệu tỷ đồng, tăng 8,32%; năng suất lao động năm 2019 ước đạt 299,8 triệu
đồng/người, tăng 6,8%, trong khi thu ngân sách đạt 412.474 tỷ đồng, tăng 3,3% so
với chỉ tiêu kế hoạch năm 2019 [5].
Hầu hết các ngành kinh tế trọng điểm được đánh giá tăng trưởng khá so với
năm 2018. Cơ cấu kinh tế Thành phố tiếp tục tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ
chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, có lợi thế cạnh tranh; tổng mức bán lẻ hàng hóa
và doanh thu dịch vụ tăng 12,3%; khách quốc tế đến TPHCM đạt 8,5 triệu lượt; chỉ
số sản xuất công nghiệp tăng 7,6%; thu hút đầu tư nước ngoài đạt 8,3 tỷ USD; thu
ngân sách vượt dự toán 2,7%.
Thành phố cũng đạt và vượt 18/20 chỉ tiêu đặt ra trong năm 2019, trong đó chỉ
tiêu không đạt được là chỉ mới thực hiện đăng ký 44.000/46.000 doanh nghiệp
thành lập theo kế hoạch.
Việc triển khai chủ đề “Năm đột phá cải cách hành chính và thực hiện Nghị
quyết 54 của Quốc hội” đạt nhiều kết quả tích cực; Đề án xây dựng TPHCM trở
thành đô thị thông minh đã hoàn thành giai đoạn 1, tổ chức 14 cuộc hội thảo, hội
nghị quốc tế quy mô lớn trong nhiều lĩnh vực nhằm nâng chất lượng môi trường đầu
tư kinh doanh, triển khai những giải pháp thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư
tạo nền tảng xây dựng các định hướng phát triển lâu dài của Thành phố trong các
giai đoạn sắp tới.
Bên cạnh đó, công tác quy hoạch và chỉnh trang phát triển đô thị tiếp tục
chuyển biến, tạo diện mạo đô thị ngày càng văn minh, hiện đại; các lĩnh vực y tế,
giáo dục - đào tạo, văn hóa - xã hội, an toàn thực phẩm được quan tâm. Việc giải
quyết kiến nghị cử tri, nhất là các vụ khiếu kiện, khiếu nại kéo dài có tiến bộ rõ rệt.
Quốc phòng - an ninh được giữ vững ổn định…
Là một đô thị đặc biệt, một trung tâm nhiều mặt của cả nước, Thành phố chịu
tác động của bối cảnh thế giới, trong nước cả thuận lợi và khó khăn. Trong điều
kiện đó, để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
ngay từ tháng đầu, quý đầu của năm 2020, Uỷ ban nhân dân (UBND) Thành phố đã
yêu cầu Thủ trưởng các sở - ban - ngành, Chủ tịch UBND các quận - huyện, các
doanh nghiệp căn cứ chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn phụ trách, khẩn trương
thực hiện các nhiệm vụ.
Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm GRDP năm 2020 đạt 8,3 -
8,5%, cả nhiệm kỳ đạt từ 8-8,5%.
Trong năm 2020, thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục triển khai thực hiện nhiều
đề án quan trọng. Cụ thể, hoàn thành đề án điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) các
khoản thu phân chia giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Bên cạnh
đó, triển khai kế hoạch sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trên địa
bàn Thành phố giai đoạn 2019 - 2021.
Tiếp tục triển khai kế hoạch thực hiện đề án “Xây dựng thành phố Hồ Chí
Minh thành thành phố thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025”;
Đề án xây dựng Khu đô thị sáng tạo phía Đông thành phố. Hoàn thành xây dựng Đề
án thí điểm mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh trình cấp thẩm
quyền phê duyệt…
Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm ngày 1 tháng 4 năm
2009, thì dân số Thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam),
mật độ dân số trung bình 3.419 người/km². Đến năm 2019, dân số Thành phố tăng
lên 8.993.082 người và cũng là nơi có mật độ dân số cao nhất Việt Nam [14]. Tuy
nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của Thành phố
này năm 2018 là gần 14 triệu người. Giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong nền kinh
tế Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và
29,38% tổng thu ngân sách của cả nước. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, thành
phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và
Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không. Vào
năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70% lượng
khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, thành
phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất.
Dân số trung bình thành phố Hồ Chí Minh năm 2019 có hơn 8,64 triệu người,
bao gồm dân số thành thị chiếm 80,9%; dân số nông thôn chiếm 19,1%; dân số nam
chiếm 47,9%; dân số nữ chiếm 52,1%.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2017 đạt 4,54 triệu người; trong đó
lực lượng lao động thành thị chiếm 80,34%; lao động nông thôn chiếm 19,66%; lực
lượng lao động nam chiếm 53,15%; lao động nữ chiếm 46,85%. Tỷ lệ dân số từ 15
tuổi trở lên biết chữ đạt 98,5%.Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã
qua đào tạo năm 2017 đạt 36,69%; trong đó lao động đã qua đào tạo khu vực thành
thị đạt 40,66%; khu vực nông thôn đạt 20,61%; tỷ lệ lao động là nam giới từ 15 tuổi
trở lên đã qua đào tạo đạt 38,5%; tỷ lệ này ở lao động nữ đạt 34,66%.
Theo kết quả tổng hợp sơ bộ, dân số của thành phố Hồ Chí Minh đến thời
điểm ngày 23/1/2019 là 8.859.688 người, tăng 216.644 người so với số liệu thống
kê năm 2017. Số liệu này chưa tính lực lượng bộ đội và công an ở tại hộ [47].
2.1.2. Tình hình người khuyết tật ảnh hưởng đến bảo đảm quyền làm việc
của người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
Theo số liệu của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí
Minh, tính đến 31 tháng 5 năm 2018, tổng số người khuyết tật trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh là 56.644 người. Trong đó, có 51.497 người đã xác định mức độ
khuyết tật (gồm 8.272 người khuyết tật đặc biệt nặng, 34.788 người khuyết tật nặng
và 13.584 người khuyết tật nhẹ). Về lộ trình và kế hoạch chăm sóc sức khỏe và
phục hồi chức năng cho người khuyết tật của thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến
năm 2020 và những năm tiếp theo. Đây cũng là cơ sở quan trọng để Ủy ban nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 5627/QĐ-UBND ngày 10
tháng 12 năm 2018 nhằm bảo đảm quyền con người cho người khuyết tật, đang
được chăm sóc, điều trị tại thành phố Hồ Chí Minh và ở Việt Nam.
1. Số người khuyết tật là 54.279 người; trong đó:
+ Số người khuyết tật vận động: 21.010 người
+ Người khuyết tật nghe, nói: 7.192 người;
+ Người khuyết tật nhìn: 4.353 người;
+ Người khuyết tật thần kinh, tâm thần: 15.594 người;
+ Người khuyết tật trí tuệ: 12.704 người;
+ Người khuyết tật thuộc dạng khác: 3.186 người
+ Trẻ em từ 0 - 16 tuổi là: 9.057 người trên tổng số 54.279 người đã xác nhận
là người khuyết tật
2. Người khuyết tật sống ngoài cộng đồng là: 58.174 người. Người khuyết tật
sống ở Trung tâm Bảo trợ xã hội là: 4.637 người.
3. Số học sinh khuyết tật học tập tại các cơ sở giáo dục chuyên biệt là 2.911
học sinh, Số học sinh khuyết tật học tập, hòa nhập cộng đồng là 6.669 học sinh.
4. Tỷ lệ người khuyết tật có việc làm: khoảng 9,7%, nghĩa là có 4.827 người
khuyết tật có việc làm trên tổng số 49.699 người khuyết tật.
* Ghi chú: 1, 2, 3: Số liệu tính đến 31.12.2018; 4: Số liệu tính từ điều tra 2015
- 2016" (PVS cán bộ Sở Lao động - Thương binh & Xã hội thành phố Hồ Chí
Minh)
2.2. KẾT QUẢ, HẠN CHẾ TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC
CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY
2.2.1. Kết quả bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh
Trong giai đoạn này, vấn đề việc làm đối với người khuyết tật đã được cấp uỷ
và chính quyền thành phố quan tâm và chỉ đạo tổ chức thực hiện. Trên cơ sở văn
bản quy định như Luật Người Khuyết tật 2010, Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày
05 tháng 8 năm 2012 của thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án trợ giúp
người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020 và Công văn số 2722/LĐTBXH-BTXH
ngày 08 tháng 8 năm 2012 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc chỉ
đạo triển khai Đề án trợ giúp người khuyết tật theo Quyết định số 1019/QĐ-TTg…
Thứ nhất, Lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh đã quán triệt quan điểm chỉ đạo
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, trước đây, thành phố Hồ Chí Minh
ban hành Quyết định số 4060/QĐ-UB-VX ngày 07 tháng 8 năm 1998 của Ủy ban
nhân dân thành phố về thành lập Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho
Người tàn tật thành phố trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Quyết
định số 5220/QĐ-UBND ngày 20 tháng 11 năm 2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố về việc cho phép chuyển Trường nghiệp vụ nhà hàng cho trẻ em
đường phố thành Trường nghiệp vụ nhà hàng thành phố trực thuộc Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội và bãi bỏ các Quyết định trước đây trái với Quyết định này.
Ngày 23/8/2019, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết
định số 3598/QĐ-UBND về việc thành lập Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và tạo
việc làm thành phố trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trên cơ sở tổ
chức lại Trường Nghiệp vụ Nhà hàng thành phố và Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề
và tạo việc làm cho người tàn tật.
Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và tạo việc làm thành phố là đơn vị sự nghiệp
công lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được cấp kinh phí hoạt động từ
ngân sách Nhà nước và được mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước theo quy định.
Căn cứ tình hình thực hiện các các văn bản trên về bảo đảm quyền làm việc
cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo từng giai đoạn có thể
thấy, với sự nỗ lực và quyết tâm chính trị trong lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự
vào cuộc của chính quyền và các tổ chức của người khuyết tật, sự chung tay của
toàn xã hội, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận.
Kết quả bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản quan
trọng thúc đẩy công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật như: Trên cơ
sở đó, thành phố đã giao nhiệm vụ cho các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các
quận, huyện và các hội, đoàn thể căn cứ chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các
chính sách ưu đãi đối với người khuyết tật như dạy nghề, tạo việc làm, cho vay vốn
ưu đãi phát triển sản xuất kinh doanh.
Thực hiện chính sách dạy nghề, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đã phối
hợp với Sở Tài chính trình Ủy ban nhân dân thành phố ban hành các quyết định về
định mức chi phí dạy nghề, tạo việc làm phù hợp với nhu cầu và khả năng của
người khuyết tật và mức hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại cho người khuyết tật trong thời
gian học nghề.
Trong công tác tạo việc làm, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đã giao
nhiệm vụ cho Trung tâm Dịch vụ việc làm phối hợp với Hội người khuyết tật thành
phố tổ chức các phiên giao dịch việc làm lồng ghép, lưu động hàng năm cho người
khuyết tật; tổ chức thực hiện các dự án phi Chính phủ nhằm mở rộng cơ hội việc
làm và thúc đẩy hòa nhập cho người khuyết tật; kết nối người khuyết tật với các
doanh nghiệp tuyển dụng. Ngoài ra, Hội người khuyết tật thành phố còn phối hợp
với Trung tâm dịch vụ việc làm thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu cho người khuyết
tật có nhu cầu vào làm việc tại các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn.
Chỉ tính riêng trong 4 năm (2015-2019), Trung tâm dịch vụ việc làm thành
phố Hồ Chí Minh đã tổ chức 4 phiên giao dịch việc làm dành cho người khuyết
tật. Đã có hàng trăm người khuyết tật có việc làm tại các cơ sở, công ty do
trung tâm làm cầu nối. Bên cạnh đó, Trung tâm đã phối hợp với các cơ sở đào tạo
nghề tổ chức các lớp học nghề đan móc, kết cườm và tạo ra nhiều sản phẩm cung
cấp cho các cửa hàng bán đồ lưu niệm... Đã có 2.500 người khuyết tật trong độ tuổi
lao động còn khả năng lao động được học nghề và tạo việc làm phù hợp. Ngoài ra,
Hội người khuyết tật thành phố Hồ Chí Minh đã đào tạo nghề miễn phí 121
người; giới thiệu việc làm 27 người; giải quyết việc làm cho 114 người và tổ
chức các lớp dạy văn hóa, Anh văn, tin học, kỹ năng sống miễn phí cho người
khuyết tật. Hội đã vận động cho 127 người khuyết tật vay vốn không lãi suất để
tự tạo việc làm với tổng số tiền tính đến thời điểm 6 tháng đầu năm 2015 là
623.400.000 đồng.
Thứ hai, kết quả bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2016 đến nay.
Để bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn, thành phố Hồ
Chí Minh đã xây dựng và triển khai thực hiện Dự án Chương trình hỗ trợ việc làm
cho người khuyết tật thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2016-2020, qua đó hàng
năm Trung tâm dịch vụ việc làm thành phố Hồ Chí Minh (trực thuộc Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội) tổ chức sàn giao dịch việc làm định kỳ mỗi tháng hai lần
nhằm kết nối giữa người lao động và doanh nghiệp, thường xuyên tư vấn và giới
thiệu việc làm cho lao động là người khuyết tật có nhu cầu tìm việc làm, bao gồm
các hoạt động sau đây.
Một là, khảo sát nhu cầu tuyển dụng, nhu cầu học nghề và tìm kiếm việc làm
của lao động là người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là nội dung khá quan trọng trong quá trình thực hiện dự án, bởi vì kết quả
khảo sát là cơ sở để xây dựng các nội dung tiếp theo trong Dự án.
Do dự án mới thực hiện từ năm 2016 nên bước đầu thực hiện khảo sát 600
người khuyết tật do các Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội quận, huyện
thực hiện, kết quả có 205 người khuyết tật có khả năng học nghề và 22 người
có nhu cầu học nghề gắn với tìm kiếm việc làm.
Khảo sát nhu cầu tuyển dụng lao động là người khuyết tật của 300 doanh
nghiệp trên địa thành phố Hồ Chí Minh do Trung tâm Dịch vụ việc làm thực hiện
khảo sát. Kết quả số lượng doanh nghiệp đang có sử dụng người khuyết tật hoặc có
nhu cầu tuyển dụng người khuyết tật là 30 doanh nghiệp, trong đó 06 doanh nghiệp
đang sử dụng lao động khuyết tật và 24 doanh nghiệp có nhu cầu tuyển lao động
khuyết tật.
Hai là, thông tin, tuyên truyền và kết nối việc làm với doanh nghiệp.
Xây dựng tài liệu, hình ảnh về những gương điển hình người khuyết tật đang
làm việc tại các doanh nghiệp để tuyên truyền đến lao động là người khuyết tật.
Tiến hành liên hệ và phỏng vấn 09 gương điển hình về người khuyết tật làm cơ sở
cho việc thực hiện các bài viết cho tài liệu về gương người khuyết tật điển hình trên
địa bàn thành phố.
Xây dựng tài liệu về những chia sẻ của doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng
hoặc đang sử dụng lao động là người khuyết tật. Đã tiến hành thực hiện phỏng vấn
05 doanh nghiệp đang sử dụng lao động khuyết tật và 05 doanh nghiệp có nhu cầu
tuyển dụng lao động là người khuyết tật.
Xây dựng danh mục nghề phù hợp với các dạng tật; danh bạ doanh nghiệp có
tuyển dụng lao động là người khuyết tật trên địa bàn; danh bạ các trường có đào tạo
nghề dành cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Tập hợp thông
tin các ngành nghề phù hợp, thông tin các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng và
danh bạ các trường đào tạo nghề dành cho người khuyết tật.
Ba là, tổ chức Hội thảo Cơ hội nghề nghiệp và việc làm dành cho người
khuyết tật thành phố Hồ Chí Minh.
Tại buổi Hội thảo đã giới thiệu về Dự án "Chương trình hỗ trợ việc làm dành
cho người khuyết tật" tại thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2016; Báo cáo kết quả
khảo sát nhu cầu tìm kiếm việc làm, học nghề của người khuyết tật và nhu cầu
tuyển dụng người khuyết tật của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh năm 2016; Giới thiệu những chính sách, pháp luật hiện hành có liên quan đến
việc tuyển dụng người khuyết tật vào làm việc trong các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất kinh doanh. Chia sẻ những thuận lợi và khó khăn về việc đào tạo, tuyển dụng
và sử dụng người khuyết tật của doanh nghiệp. Chia sẻ những thuận lợi và khó khăn
trong việc tìm kiếm việc làm, học nghề của người khuyết tật.
Thông qua Hội thảo, đại biểu tham dự đã nhận thức đầy đủ tinh thần chung tay
cộng đồng vì người khuyết tật. Tại Hội thảo, Ban tổ chức đã giới thiệu đến lao động
là người khuyết tật tham gia Hội thảo các điều kiện về cơ sở vật chất tại Trung tâm
dịch vụ việc làm, nơi liên hệ tìm kiếm việc làm dễ tiếp cận và thân thiện với người
khuyết tật khi họ đến liên hệ công việc. Trung tâm sẽ tiếp tục phối hợp với Hội
Người khuyết tật, Hiệp Hội doanh nghiệp, phòng Lao động - Thương binh và Xã
hội quận, huyện và các đơn vị có liên quan khác để tổ chức các hoạt động hỗ trợ
việc làm và học nghề dành cho người khuyết tật tại thành phố Hồ Chí Minh, thành
lập Ban Vận động doanh nghiệp để tuyên truyền cho doanh nghiệp nhận thức được
trách nhiệm xã hội đối với người khuyết tật. Từ đó, tiếp nhận đào tạo và tuyển dụng
lao động là người khuyết tật.
Bốn là, tổ chức phiên giao dịch việc làm dành cho người khuyết tật thành phố
Hồ Chí Minh.
Đây làm một trong những hoạt động rất mới về thực hiện quyền làm việc của
người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Bao gồm các hoạt động:
(i)Thông tin các cơ hội đào tạo nghề, kỹ năng ưu đãi về học phí phù hợp với người
khuyết tật; (ii) Thông tin về nhu cầu tuyển dụng người khuyết tật của các doanh
nghiệp, đơn vị sử dụng lao động; (iii) Tổ chức kết nối việc làm trực tiếp, trực tuyến
giữa người khuyết tật tìm việc và nhà tuyển dụng; (iv) Tổ chức các gameshow:
"Vòng quay việc làm" để tạo sân chơi bổ ích về kiến thức xã hội và hiểu biết về
nghề nghiệp, việc làm dành cho người khuyết tật đến tham dự; (v) Gian hàng trưng
bày và bán sản phẩm do người khuyết tật tự làm; (vi) Dự án sinh kế cho người
khuyết tật…
Kết quả từ khi hoạt động đến nay số người lao động tham dự trực tiếp: 12; số
lượng đơn vị tuyển dụng tham dự: 21; Ủy thác: 17; Tuyển trực tiếp: 01; Tuyển sinh
trực tiếp: 01; Trưng bày và bán sản phẩm: 02; Số việc làm trống cần tuyển: 184 vị
trí; Tư vấn: 36 lượt; Giới thiệu việc làm: 06 (trong đó trực tiếp là 01 và ủy thác là 05
người) [43].
Bên cạnh đó, ngày 27/02/2018, Liên hiệp hội về Người khuyết tật Việt Nam
(VFD), Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục và Đào tạo, Hội Người
khuyết tật thành phố Hồ Chí Minh ký kết dự án hòa nhập xã hội của người khuyết
tật thành phố Hồ Chí Minh năm 2018.
Theo đó, kinh phí dành cho thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2018 là 1,285
tỉ đồng, với 4 chuỗi hoạt động chính. Trong đó, trẻ khuyết tật được tiếp cận giáo
dục hòa nhập có chất lượng gồm các hoạt động: khảo sát một số trường về giáo dục
hòa nhập, tập huấn kỹ năng đọc tín hiệu môi cho giáo viên trường dạy trẻ khuyết
tật, tập huấn các phương pháp và công cụ đánh giá trẻ chậm phát triển trí tuệ trong
can thiệp sớm, trang bị các đồ dùng dạy học trẻ khuyết tật; tập huấn dạy học hòa
nhập trẻ khuyết tật, kỹ năng can thiệp sớm, tập huấn chuyên sâu dạy trẻ chậm phát
triển trí tuệ cho giáo viên, hội thảo đánh giá vai trò của gia đình trong việc hỗ trợ
người khuyết tật hòa nhập...
Hoạt động chính thứ 2 là tạo cơ hội việc làm, cải thiện thu nhập của người
khuyết tật gồm hỗ trợ kỹ thuật và vốn cho 5 mô hình khởi nghiệp cho người khuyết
tật dựa trên nhu cầu và năng lực; hội thảo chia sẻ và kết nối các mô hình tạo việc
làm hiệu quả cho người khuyết tật... Các hoạt động chính còn lại là nâng cao nhận
thức cho người khuyết tật, chính quyền, các tổ chức và doanh nghiệp hiểu về quyền
và khả năng của người khuyết tật thông qua tổ chức sự kiện, tập huấn; tập huấn kỹ
năng tham vấn đồng cảnh và tổ chức tham vấn đồng cảnh cho người khuyết tật
nặng, đào tạo tin học cơ bản cho 8 người khuyết tật, trang bị phần mềm quản lý hội
viên, hội thảo Luật giao thông đường bộ và cấp giấy phép lái xe mô tô cho người
khuyết tật, tập huấn kỹ năng hỗ trợ người khuyết tật cho tài xế taxi...
Năm 2017, đã triển khai các hoạt động như: khai giảng lớp đào tạo nghề thiết
kế đồ họa và xây dựng thương hiệu cho người khuyết tật dựa trên nhu cầu của
doanh nghiệp cho 6 hội viên; tổ chức lớp tập huấn về bình đẳng và hòa nhập cho
người khuyết tật; tập huấn nâng cao năng lực cho các lãnh đạo trẻ khuyết tật; tổ
chức tham vấn đồng cảnh cho người khuyết tật nặng; giới thiệu cách tiếp cận nguồn
vốn vay từ Ngân hàng Chính sách Xã hội cho hội viên... với tổng kinh phí trên 654
triệu đồng do Tổ chức Liên minh Na Uy tại Việt Nam tài trợ.
Để tạo điều kiện cho người khuyết tật tìm việc làm, thành phố cũng chú trọng
công tác giải quyết thủ tục vay vốn ưu đãi cho hộ gia đình có người khuyết tật. Theo
Ngân hàng Chính sách xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, người khuyết tật luôn được
ưu tiên tạo điều kiện tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi, nhất là chương trình cho vay từ
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Chỉ tính đầu năm 2016, chi nhánh đã phát vay
692 triệu đồng cho 50 người khuyết tật [55].
Cùng với đó, thành phố cũng tổ chức kiểm tra, rà soát để quyết định công
nhận cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người
khuyết tật để được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước và thành phố theo
quy định của pháp luật. Thực hiện miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các
cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người
khuyết tật. Ngoài ra, thành phố còn tổ chức tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán, kỷ
niệm ngày Người khuyết tật Việt Nam (18/4) cho các cơ sở có sử dụng từ 50% tổng
số lao động trở lên là và các cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật công lập của
thành phố để ghi nhận những đóng góp của các đơn vị vì người khuyết tật.
Những ưu điểm và nguyên nhân giúp Thành phố đạt nhiều thành quả trong
giải quyết việc làm cho người khuyết tật trong giai đoạn 2015 – 2919
Với những kết quả đạt được trong giải quyết việc làm cho người khuyết tật, có
thể thấy và đúc kết được những ưu điểm và nguyên nhân giúp Thành phố đạt nhiều
thành quả trong giải quyết việc làm cho người khuyết tật trong giai đoạn 2015 –
2919 như sau:
Thứ nhất, Lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh đã quán triệt quan điểm chỉ đạo
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thể hiện qua sự nỗ lực và quyết tâm
chính trị cao trong lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự vào cuộc của chính quyền và
các tổ chức của người khuyết tật, sự chung tay của toàn xã hội.
Thứ hai, thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng và triển khai thực hiện Dự án
Chương trình hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2016-2020. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định
số 3598/QĐ-UBND về việc thành lập Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và tạo việc làm
thành phố trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Triển khai thực hiện
đồng thời các hoạt động:
+ Khảo sát nhu cầu tuyển dụng, nhu cầu học nghề và tìm kiếm việc làm của
lao động là người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
+ Thông tin, tuyên truyền và kết nối việc làm với doanh nghiệp.
+ Tổ chức Hội thảo Cơ hội nghề nghiệp và việc làm dành cho người khuyết
tật thành phố Hồ Chí Minh
+ Tổ chức phiên giao dịch việc làm dành cho người khuyết tật thành phố
Hồ Chí Minh.
- Thứ ba, Lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản quan
trọng thúc đẩy công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật. Thành phố
đã giao nhiệm vụ cho các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các quận, huyện và các
hội, đoàn thể căn cứ chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chính sách ưu đãi
đối với người khuyết tật như dạy nghề, tạo việc làm, cho vay vốn ưu đãi phát triển
sản xuất kinh doanh.
- Thứ tư, Lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh rất chú trọng việc bố trí nguồn
nhân lực nhằm nâng cao nhận thức cho người khuyết tật, chính quyền, các tổ chức
và doanh nghiệp hiểu về quyền và khả năng của người khuyết tật để nâng cao hiệu
quả tạo việc làm cho người khuyết tật. Việc bố trí nguồn nhân lực này được thực
hiện thông qua tổ chức sự kiện, triển khai các hoạt động như: khai giảng lớp đào tạo
nghề thiết kế đồ họa và xây dựng thương hiệu cho người khuyết tật; tổ chức lớp tập
huấn về bình đẳng và hòa nhập cho người khuyết tật; tập huấn nâng cao năng lực
cho các lãnh đạo trẻ khuyết tật; trẻ khuyết tật được tiếp cận giáo dục hòa nhập có
chất lượng; hội thảo đánh giá vai trò của gia đình trong việc hỗ trợ người khuyết tật
hòa nhập; tập huấn kỹ năng tham vấn đồng cảnh và tổ chức tham vấn đồng cảnh cho
người khuyết tật nặng; đào tạo tin học cơ bản, trang bị phần mềm quản lý hội viên,
hội thảo Luật giao thông đường bộ và cấp giấy phép lái xe mô tô cho người khuyết
tật, tập huấn kỹ năng hỗ trợ người khuyết tật cho tài xế taxi...
- Thứ năm, thành phố Hồ Chí Minh đã dành nguồn kinh phí thỏa đáng nhằm
thúc đẩy giải quyết và và tạo việc làm cho người khuyết tật như: giới thiệu cách tiếp
cận nguồn vốn vay từ Ngân hàng Chính sách Xã hội; chú trọng công tác giải quyết
thủ tục vay vốn ưu đãi cho hộ gia đình có người khuyết tật; sử dụng có hiệu quả
nguồn tài trợ, viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ trong giải quyết việc làm cho
người khuyết tật, …
- Thứ sáu, Thành phố đã tổ chức kiểm tra, rà soát để công nhận các cơ sở sản
xuất kinh doanh có sử dụng lao động là người khuyết tật được hưởng các chính sách
ưu đãi của Nhà nước và thành phố theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện
miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có sử
dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật. Ngoài ra, thành phố còn
tổ chức tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán, kỷ niệm ngày Người khuyết tật Việt
Nam (18/4) cho các cơ sở có sử dụng từ 50% tổng số lao động trở lên và các cơ sở
đào tạo nghề cho người khuyết tật công lập của thành phố để ghi nhận những đóng
góp của các đơn vị vì người khuyết tật.
- Thứ bảy, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không ngừng khuyến
khích và đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa trong giải quyết và và tạo việc làm cho
người khuyết tật. Thực hiện đầy đủ và có trách nhiệm các quy định về quyền của
người khuyết tật theo các Công ước quốc tế đã được Quốc hội phê chuẩn.
2.2.2. Hạn chế trong bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Thứ nhất, tiến độ triển khai Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2015 -
2019 còn chậm; kinh phí bố trí không đủ nên các mục tiêu đề ra của dự án sẽ khó
đạt được.
Thứ hai, thành phố Hồ Chí Minh chưa có các chính sách riêng hỗ trợ giải
quyết việc làm cho người khuyết tật mà chỉ mới được thực hiện lồng ghép với các
chương trình, đề án khác nên số lượng người khuyết tật được hỗ trợ dạy nghề và tạo
việc làm còn thấp. Hầu hết, lao động là người khuyết tật đều làm những công việc
giản đơn nên việc làm không ổn định, năng suất lao động thấp, chưa đảm bảo được
cuộc sống tự lập...
Thứ ba, nhận thức của xã hội về giáo dục, dạy nghề, việc làm cho người
khuyết tật tuy đã có sự thay đổi tích cực, người khuyết tật đã từng bước tham gia
vào mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã hội, việc dạy nghề theo hướng hòa nhập
cho người khuyết tật được nhiều địa phương, cơ sở doanh nghiệp thực hiện. Tuy
nhiên, công tác dạy nghề cho người khuyết tật thời gian qua cũng đặt ra nhiều vấn
đề. Khảo sát tại các địa phương trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, hầu
hết các quận, huyện trong thành phố chỉ nắm được số người khuyết tật thuộc diện
hưởng trợ cấp, chưa nắm được cơ bản thông tin cũng như nhu cầu học nghề của đối
tượng. Kinh phí thực hiện dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật hiện đang
lồng ghép với các chương trình, đề án khác, chưa được bố trí kinh phí riêng. Hầu
hết, người khuyết tật mới được hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng, số
người được đào tạo trình độ Trung cấp, Cao đẳng rất thấp.
Thứ tư, cán bộ phụ trách lĩnh vực lao động, Thương binh và Xã hội huyện
cũng như cấp phường, xã thay đổi thường xuyên nên việc nắm vững các chính sách
còn hạn chế; kiêm nhiệm nhiều công việc nên hiệu quả triển khai chính sách về
người khuyết tật chưa cao, việc tổ chức thực hiện còn chậm. Thậm chí có tình trạng
cán bộ chưa thật sự tâm huyết với công việc.
Thứ năm, ngân sách bố trí thực hiện các chính sách cho người khuyết tật của
thành phố Hồ Chí Minh còn hạn chế; kinh phí dạy nghề cho người khuyết tật chưa
được bố trí riêng; mức hỗ trợ tiền ăn, đi lại còn thấp gây khó khăn và tạo rào cản
cho người khuyết tật tham gia các khóa đào tạo nghề.
Thứ sáu, tình trạng người khuyết tật mù chữ còn nhiều, nhất là đối với những
người khuyết tật sống ở khu vực ngoại thành, gây ra nhiều khó khăn, thách thức
trong việc thực hiện các giải pháp dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ sinh kế.
Thứ bảy, một số người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc gia đình tạo việc làm
cho người khuyết tật chưa được trực tiếp vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất
kinh doanh từ Ngân hàng chính sách xã hội.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chưa có nguồn vay vốn riêng
dành cho người khuyết tật trong Quỹ việc làm, pháp luật tuy khuyến khích người
khuyết tật tạo việc làm bằng cách vay vốn qua Quỹ quốc gia về việc làm, nhưng lại
không phân bổ số vốn dành riêng cho người khuyết tật trong Quỹ việc làm chưa rõ.
Chính vì vậy, các tổ tiết kiệm vay vốn, Ngân hàng chính sách xã hội tại địa phương
dùng quỹ này để cho vay đối với các đối tượng khác như hộ gia đình chính sách,
người có công, hộ nghèo, hộ cận nghèo, sinh viên, học sinh… chứ không tập trung
cho người khuyết tật, do quan niệm cho rằng khả năng hoàn trả của người khuyết tật
thấp hơn so với các đối tượng khác. Đây là lý do chính, trở thành rào cản khiến
người khuyết tật khó tiếp cận được với những nguồn vốn ưu đãi.
Bên cạnh đó, còn nhiều người khuyết tật chưa tiếp cận thông tin về chính sách
vay vốn ưu đãi giải quyết việc làm dành cho người lao động là người khuyết tật.
Hiện nay, các chương trình vay vốn ưu đãi dành cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ
thoát nghèo đã được phổ biến rộng rãi tới từng khu vực, ấp trên địa bàn thành phố
và tại một số nơi chương trình này còn được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân
cấp phường; xã. Tuy nhiên, đối với chương trình vay vốn giải quyết việc làm dành
cho người lao động là người khuyết tật vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, ít người
biết đến.
Ngoài ra, đã có trường hợp người khuyết tật bị tổ tiết kiệm vay vốn từ chối
cho vay vì không phải là thành viên của họ. Hiện nay, do pháp luật về vay vốn giải
quyết việc làm quy định người khuyết tật muốn vay vốn cần nộp hồ sơ tại tổ tiết
kiệm - vay vốn thuộc tổ chức chính trị xã hội tại địa bàn sinh sống (Hội Phụ nữ, Hội
Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên), không quy định người vay vốn
phải là thành viên của tổ tiết kiệm vay vốn. Tuy nhiên, trên thực tế, đã có nhiều
trường hợp người khuyết tật bị từ chối cho vay vì lý do họ không thuộc thành viên
của tổ tiết kiệm vay vốn nên không được vay từ quỹ của các tổ chức chính trị - xã
hội này.
Một thực trạng nữa là mức vay vốn để giải quyết việc làm cho người khuyết
tật còn thấp theo quy định của Ngân hàng chính sách xã hội. Từ năm 2014 đến nay,
nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc làm chưa được bổ sung thêm để Ngân hàng chính
sách xã hội mở rộng cho vay giải quyết việc làm đến các đối tượng chính sách trong
đó có người khuyết tật, chỉ thực hiện cho vay bằng nguồn vốn xoay vòng. Do vậy,
người lao động khuyết tật chưa có điều kiện tiếp cận nhiều hơn các nguồn vốn ưu
đãi tạo việc làm, mặt khác cũng chưa có cơ chế và chưa phân bổ nguồn vốn vay cho
đối tượng này, dẫn đến tỷ lệ người khuyết tật được tiếp cận với nguồn vốn vay ưu
đãi thấp.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm số vốn đưa về cho các tổ chức chính trị
- xã hội eo hẹp trong khi số lượng người có nhu cầu vay cao, điều này, dẫn đến thay
vì dồn vốn cho một số người với mức vay cao thì phân bổ cho nhiều người với mức
vay thấp hơn. Tuy nhiên, chính vì mức vay thấp dẫn đến hiện trạng nhiều người
quyết định không vay, hoặc cũng có trường hợp vì vốn thấp không thể thực hiện
được hoạt động sản xuất kinh doanh mà thua lỗ, thất thoát dẫn đến không trả được
nợ.
2.3. NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, rào cản lớn nhất hiện nay là xã hội, gia đình có người khuyết tật vẫn
nhìn người khuyết tật bằng con mắt thương hại, đối xử với người khuyết tật theo
quan điểm từ thiện, nhân đạo chứ chưa theo cách tiếp cận tích cực là bảo đảm quyền
cơ bản của họ; nhìn người khuyết tật với con mắt thiếu tin tưởng và cho rằng họ học
nghề không để làm gì. Do đó phần lớn gia đình người khuyết tật không muốn cho
con đi học nghề, tìm việc làm, đây là một nguyên nhân chủ yếu gây khó khăn cho
công tác tuyển sinh dạy nghề cho người khuyết tật, có những lớp dạy nghề được mở
nhưng không có người đăng ký tham gia nên phải đình mở hoặc hủy.
Thứ hai, việc đi lại, giao tiếp của người khuyết tật còn khó khăn; trình độ học
vấn thấp, thậm chí không biết chữ nên tự ti, mặc cảm và rất ngại tham gia các lớp
học nghề, vì vậy họ không có kỹ năng, chuyên môn đáp ứng công việc đang tuyển
dụng. Do đó, ít có cơ hội tìm được việc làm có thu nhập ổn định đảm bảo cuộc
sống.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng nơi đào tạo nghề, nơi làm việc chưa phù hợp với người
khuyết tật, đặc biệt là dạng khuyết tật vận động như không có đường cho xe lăn di
chuyển, nhiều bậc tam cấp, nhà vệ sinh không tiếp cận được; không sắp xếp chỗ ăn,
ở và học, đi làm không có phương tiện di chuyển và do hạn chế sức khỏe dẫn đến
hạn chế cơ hội tham gia học nghề, không có nghề nên khó tìm việc làm.
2.3.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, tiến độ xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Người
khuyết tật của Bộ, ngành liên quan chậm đã ảnh hưởng đến việc triển khai. Một số
quy định mang tính nguyên tắc trong Luật nên số lượng văn bản cần được hướng
dẫn chi tiết khá lớn, cần có thời gian để nghiên cứu, ban hành. Chưa có cơ chế phù
hợp ở cấp quốc gia để thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các Bộ, ngành
và địa phương trong việc thực hiện các chính sách, chương trình, đề án liên quan
đến người khuyết tật.
Thứ hai, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm
việc chưa thực sự hiệu quả nên nhiều doanh nghiệp không muốn tuyển dụng người
khuyết tật.
Chính sách pháp luật bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết
tật vẫn còn những điểm chưa thực sự hợp lý. Chẳng hạn, đơn vị sử dụng ổn định từ
10 lao động là người khuyết tật trở lên được hỗ trợ, còn đơn vị sử dụng lao động là
người khuyết tật làm việc ổn định dưới con số đó lại không được hưởng bất kỳ sự
ưu đãi nào. Khoảng cách giữa 10 lao động là người khuyết tật và 30% tổng số lao
động là người khuyết tật quá xa trong một số trường hợp. Có doanh nghiệp sử dụng
số lượng lớn lao động là người khuyết tật nhưng chưa đạt tỷ lệ 30% không được
hưởng chính sách ưu đãi, trong khi đó có doanh nghiệp sử dụng lao động là người
khuyết tật ít hơn nhưng do tổng số lao động trong doanh nghiệp ít nên vẫn chiếm tỷ
lệ 30% thì lại được hưởng chính sách ưu đãi. Điều này sẽ thiếu công bằng đối với
các cơ sở, doanh nghiệp, đơn vị và không khuyến khích được người sử dụng lao
động trong việc sử dụng lao động là người khuyết tật. Một số quy định mang tính
hỗ trợ, ưu đãi đối với người khuyết tật có thể gây phản tác dụng, tạo nên rào cản đối
với chính người khuyết tật. Những quy định riêng biệt đối với lao động là người
khuyết tật làm cho người sử dụng lao động có xu hướng tâm lý né tránh sử dụng lao
động là người khuyết tật ...
Như vậy, nếu so sánh các quy định trước đây thì quy định mới nhất tại Luật
người khuyết tật năm 2010 về quỹ trợ giúp người khuyết tật vẫn chưa có nét mới
khắc phục những khó khăn, bất cập của quỹ giải quyết việc làm cho người khuyết
tật. Việc quy định chung chung đây là nguồn quỹ xã hội từ thiện thì các khoản thu
cho quỹ cũng chỉ mang tính chất từ thiện. Quy định sẽ dẫn tới việc các nguồn thu
cho quỹ, cũng chỉ trông chờ vào từ thiện; các doanh nghiệp sẽ dựa vào lý do từ
thiện để đóng quỹ chứ không dựa vào trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với vấn đề hỗ trợ, giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật. Chủ trương
thành lập quỹ việc làm cho người khuyết tật có ý nghĩa rất lớn đối với người khuyết
tật. Vì vậy, các địa phương cần tích cực xúc tiến thành lập quỹ việc làm cho người
khuyết tật và ban hành quy chế hoạt động, quản lý quỹ. Đồng thời, thành lập quỹ
việc làm cho người khuyết tật ở cấp quốc gia để thống nhất quản lý nhằm phát huy
tác dụng tích cực của quỹ trong đào tạo nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với công tác tự tạo việc làm cho người lao động
khuyết tật ngay tại địa phương nơi họ sinh sống.
Thứ ba, bảo đảm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cho lao động là người
khuyết tật.
Trước đây, Bộ luật Lao động quy định về thời gian làm việc của người khuyết
tật không quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần với mục đích tạo điều kiện cho
người khuyết tật làm việc trong giới hạn phù hợp với khả năng và sức khoẻ của
mình, giúp họ phục hồi sức khoẻ một cách nhanh chóng, có khả năng làm việc lâu
dài và đạt năng suất. Sau một thời gian thực hiện, quy định đã thể hiện sự bất cập,
đó là tạo ra sự phân biệt giữa lao động khuyết tật và lao động không khuyết tật.
Người sử dụng lao động dựa vào quy định này để từ chối nhận người khuyết tật vào
làm việc vì họ không đáp ứng được thời gian làm việc như các lao động khác. Tuy
nhiên, người khuyết tật lại khẳng định, họ có thể làm tốt công việc như những người
lao động không khuyết tật. Chính vì vậy, nhằm đảm bảo phát huy được năng lực
của người lao động đồng thời giảm thiểu việc phân biệt đối xử trong việc tuyển
dụng của người sử dụng lao động, Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2012
không còn quy định về thời giờ làm việc của người khuyết tật cụ thể như trước để
tạo ra môi trường làm việc bình đẳng giữa người khuyết tật và người không khuyết
tật, mà chỉ quy định về vấn đề làm đêm và làm thêm giờ tại khoản 1 Điều 178 Bộ
luật Lao động 2012: "Cấm sử dụng lao động là người khuyết tật suy giảm khả năng
lao động từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm".
Thứ tư, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với lao động là người
khuyết tật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 177 Bộ luật Lao động 2012 thì người sử dụng
lao động phải bảo đảm về điều kiện lao động, công cụ lao động, an toàn lao động,
vệ sinh lao động phù hợp với lao động là người khuyết tật và thường xuyên chăm
sóc sức khoẻ của họ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 178 Bộ luật Lao động 2012 cấm sử dụng lao
động là người khuyết tật làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc
tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.
Như vậy, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm trong việc bảo đảm về
điều kiện lao động, vệ sinh lao động phù hợp với người khuyết tật và thường xuyên
chăm sóc sức khỏe cho họ. Người sử dụng lao động không được vì lợi ích trước mắt
của mình để thỏa thuận làm thêm giờ, làm việc ban đêm, hoặc trường hợp chủ sử
dụng lao động lợi dụng người lao động khuyết tật vào làm những công việc nặng
nhọc độc hại cho sức khỏe của họ.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn đã tập trung đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến bảo
đảm quyền làm việc cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, bao
gồm: Điều kiện về dân số, kinh tế; tình hình người khuyết tật trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh. Qua khảo sát báo cáo của Sở Lao động thương binh và Xã hội từ
năm 2015- 2019 và Trung Tâm Bảo Trợ - Dạy Nghề và Tạo Việc Làm Cho Người
Tàn Tật Thành Phố, đánh giá tình hình thực tế cho thấy, cấp ủy, chính quyền các
cấp và các ban ngành, đoàn thể trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đã có nhiều cố
gắng trong lãnh đạo, điều hành triển khai thực hiện các đề án theo từng giai đoạn về
hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật.
Luận văn phân tích, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân trong việc
bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay làm cơ sở cho việc đề xuất các phương hướng và giải pháp
bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
thời gian tới.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC
CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và của thành phố Hồ Chí Minh, về bảo đảm quyền làm việc cho người khuyết
tật trong đó chú trọng quyền được đào tạo nghề, được tuyển dụng, được hỗ trợ để
sản xuất, kinh doanh.
Hai là, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 43/KH-UBND
ngày 07 tháng 5 năm 2014 về trợ giúp người khuyết tật của thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn 2013 - 2020 và Kế hoạch số 113/KH-UBND ngày 01 tháng 12 năm 2016
về triển khai thực hiện Công ước của Liên Hợp quốc về của Người khuyết tật trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, tập trung nguồn lực trước hết vào thực hiện ở
những địa phương khó khăn nhất.
Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả dạy nghề, gắn với tạo việc làm cho người khuyết tật; khảo sát nhu cầu học
nghề của người khuyết tật và cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật. Đồng thời
nghiên cứu, xây dựng danh mục nghề phù hợp với các dạng tật của người khuyết
tật; rà soát cơ chế dạy nghề linh động hơn, có sự hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp,
bao gồm đặt hàng để doanh nghiệp, cá nhân dạy nghề cho người khuyết tật.
Bốn là, tăng cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ giáo viên dạy nghề và
tư vấn học nghề cho người khuyết tật; xây dựng các chính sách hỗ trợ cho người
khuyết tật và giáo viên dạy người khuyết tật.
Năm là, tiếp tục quan tâm nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo cơ hội phát
triển bình đẳng cho người khuyết tật. Bảo đảm bình đẳng thực chất giữa người
khuyết tật và người không khuyết tật về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và
bền vững của địa phương. Thực hiện đúng, đủ, kịp thời các chính sách đối với
người khuyết tật.
Sáu là, triển khai các chương trình nhằm tăng cường huy động xã hội hóa trợ
giúp cho người khuyết tật, trong đó có đào tạo nghề, giải quyết việc làm.
Bảy là, phấn đấu đạt các mục tiêu cụ thể đã đặt ra trong bảo đảm quyền làm
việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 -
2020, bao gồm: 10.000 người khuyết tật trong độ tuổi lao động còn khả năng lao
động được học nghề và tạo việc làm phù hợp; 90% công trình là trụ sở làm việc của
cơ quan nhà nước; nhà ga, bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo
dục, dạy nghề, công trình văn hóa, thể dục thể thao; nhà chung cư bảo đảm điều
kiện tiếp cận đối với người khuyết tật; ít nhất 80% người khuyết tật có nhu cầu
tham gia giao thông được sử dụng phương tiện giao thông đảm bảo quy chuẩn kỹ
thuật về giao thông tiếp cận hoặc dịch vụ trợ giúp tương đương; 50% người khuyết
tật được trợ giúp tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông; 100%
người khuyết tật được trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu; 80% cán bộ làm công tác trợ
giúp người khuyết tật được tập huấn, nâng cao năng lực về quản lý, chăm sóc, hỗ
trợ, tổ chức điều hành, phối hợp liên ngành và giám sát, đánh giá trong công tác trợ
giúp người khuyết tật; 60% gia đình có người khuyết tật được tập huấn về kỹ năng,
phương pháp chăm sóc phục hồi chức năng cho người khuyết tật; 50% người
khuyết tật được tập huấn các kỹ năng sống.
Tám là, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ: Tư vấn học nghề, việc làm theo
khả năng của người khuyết tật; xây dựng và nhân rộng, một số mô hình Dự án sinh
kế cho người khuyết tật; xây dựng thí điểm mô hình phục hồi chức năng lao động
cho người khuyết tật; dạy nghề, tạo việc làm phù hợp cho người khuyết tật theo
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề.
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.2.1. Nhóm giải pháp chung
3.2.1.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền làm việc của người khuyết
tật
Thứ nhất, đổi mới và hoàn thiện tiêu chí xác định mức độ khuyết tật, xác định
mức độ khó khăn của người khuyết tật, nhu cầu của người khuyết tật, độ tuổi và
giới tính của người khuyết tật; xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật như tổng
số, tình trạng sức khỏe, dạng tật; số người trong độ tuổi lao động, còn khả năng lao
động; số người có nhu cầu về học nghề; số người có nhu cầu làm việc và những
công việc phù hợp với nhu cầu và sức khỏe người khuyết tật… ở từng địa phương
và trong cả nước.
Thứ hai, xây dựng các chính sách trợ giúp cho người khuyết tật hướng đến
mục tiêu tăng cường hỗ trợ sinh kế phù hợp với đặc điểm sức khỏe và nhu cầu của
đối tượng trong thiết kế chính sách, cần phải đổi mới quan điểm tiếp cận đối với
người khuyết tật phải dựa trên quyền, phải coi người khuyết tật là công dân bình
thường, bình đẳng như mọi công dân khác chứ không chỉ là đối tượng chăm sóc của
xã hội, từ đó có các chính sách phù hợp hơn với chuẩn mực theo quy định của Công
ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật.
Thứ ba, cần ban hành quy định pháp luật theo hướng "đảm bảo sự công bằng"
cho người khuyết tật để không bị phân biệt đối xử và kì thị, đáp ứng yêu cầu mọi
người khuyết tật được đảm bảo việc làm mà không có bất kì sự phân biệt đối xử nào
trên cơ sở khuyết tật và đảm bảo nguyên tắc mọi người đều được bình đẳng trước
pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về
chống phân biệt đối xử với người khuyết tật nhằm khắc phục những lỗ hổng pháp lý
của pháp luật Việt Nam. Theo đó cần sớm ban hành Luật Phòng, chống phân biệt
đối xử nhằm đáp ứng yêu cầu của ILO và phù hợp với Hiến pháp năm 2013; cụ thể
hóa sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Lao động sửa đổi năm năm 2019, đối với
hành vi cấm phân biệt đối xử và kì thị đối với người khuyết tật ở tất cả các khâu của
quá trình lao động, giúp người khuyết tật tự tin hơn trong cuộc sống và tự khẳng
định được vị trí của mình trong xã hội.
Thứ tư, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp khi nhận
người khuyết tật vào làm việc. Với trách nhiệm xã hội, hiện nay nhiều doanh nghiệp
đã xây dựng một số chỉ tiêu việc làm cho người khuyết tật. Tuy nhiên, theo cơ chế,
chính sách cho các doanh nghiệp có lao động là người khuyết tật như hiện nay thì
vẫn chưa thực sự khuyến khích được doanh nghiệp quan tâm thực hiện.
Để tăng cơ hội việc làm cho người khuyết tật, pháp luật quy định doanh
nghiệp phải nhận 2-3% người khuyết tật vào làm việc tùy ngành nghề, hoặc phải
đóng một khoản tiền trên cơ sở người khuyết tật còn chưa nhận đủ vào cơ quan đơn
vị để làm việc theo quy định về Quỹ việc làm dành cho người khuyết tật. Thực tế,
rất ít các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện và chưa có cơ quan
nào giám sát việc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ cho Quỹ này. Từ thực tiễn trên
xét thấy cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp chủ động
đảm bảo mục tiêu việc làm cho người lao động khuyết tật thay vì quy định định
mức và nộp phạt như hiện nay, để người sử dụng lao động có nhiều cách thức lựa
chọn mang lại lợi ích tốt nhất cho người khuyết tật tùy thuộc vào điều kiện của công
ty mình và khi họ thực hiện thì họ sẽ nhận được những chính sách ưu đãi tương
xứng. Bên cạnh đó có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cung cấp các khóa
đào tạo tại chỗ, học nghề, xây dựng kế hoạch tuyển dụng và đào tạo cho lao động
khuyết tật hoặc thực hiện những điều chỉnh cần thiết về môi trường làm việc cho
phù hợp hơn với người khuyết tật…
Theo Luật Người khuyết tật, khi doanh nghiệp có 30% lao động khuyết tật thì
doanh nghiệp được miễn giảm thuế, vốn vay với lãi suất ưu đãi.... Tuy nhiên, trên
thực tế nhiều doanh nghiệp tuyển dụng lao động là người khuyết tật đạt được tỷ lệ
quy định nhưng vẫn chưa được nhận các ưu đãi, việc chậm triển khai chính sách
đến doanh nghiệp chính là lý do họ hạn chế nhận người khuyết tật vào làm việc. Do
đó, cần có cơ chế đảm bảo cho doanh nghiệp được hưởng ưu đãi theo luật pháp quy
định.
Với doanh nghiệp sử dụng dưới 30% lao động là người khuyết tật thì không
được hỗ trợ vay vốn. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp này thì Nhà nước có thể hỗ
trợ bằng cách khác như miễn, giảm trích nộp bảo hiểm xã hội của những người lao
động khuyết tật; hỗ trợ tiền trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ lao động
cho người khuyết tật…
Cần có sự tách biệt giữa biện pháp khuyến khích và biện pháp bắt buộc đối với
các doanh nghiệp sử dụng người khuyết tật nhằm giảm bớt gánh nặng cho người sử
dụng lao động, đảm bảo sự hợp lý giữa các doanh nghiệp khác nhau trên thị trường.
Thứ năm, cần có quy định về ngành nghề ưu tiên cho người khuyết tật khi
tuyển dụng. Trong thời gian gần đây, nhiều ngành nghề phù hợp với người khuyết
tật đã được triển khai và mở rộng, tuy nhiên, để hỗ trợ cho người khuyết tật một
cách tốt nhất thì nhà nước cũng cần có những quy định về ngành nghề ưu tiên mang
tính đặc thù cho người khuyết tật.
Việc quy định các ngành nghề ưu tiên cho người khuyết tật không phải phủ
nhận năng lực của người khuyết tật khi tham gia học nghề ở tất cả mọi ngành nghề
mà là tính đến khả năng học tập và khả năng làm việc trong thực tế của người
khuyết tật. Một số ngành nghề thích hợp và cần số lượng người khuyết tật lớn như
công nghệ thông tin, may mặc, điện tử, thủ công mỹ nghệ…thì cần phải được đầu tư
hơn nữa để người khuyết tật có thêm cơ hội việc làm.
Thứ sáu, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các cá nhân, tổ chức thành
lập cơ sở dạy nghề và tuyển người khuyết tật vào học. Ngoài những chính sách
chung của cơ sở dạy nghề, các cơ sở dạy nghề dành cho người khuyết tật, Nhà nước
cần hỗ trợ về tài chính để đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, được giao đất
không thu tiền hoặc thuê đất ở nơi thuận lợi cho việc học nghề của người khuyết tật.
Điều này khuyến khích các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật được thành lập,
đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở này duy trì hoạt động trong quá trình thực hiện
việc đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Thứ bảy, cần quy định rõ về môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết
tật để giúp cho người sử dụng lao động xây dựng kế hoạch hỗ trợ tốt nhất cho người
lao động khuyết tật trong quá trình làm việc.
Cần tập trung vào xây dựng chính sách bảo đảm tiếp cận cơ hội việc làm và
môi trường làm việc cho người khuyết tật; cải thiện cơ sở hạ tầng, các phương tiện
công cộng để bảo đảm tiếp cận cho người khuyết tật và hỗ trợ giáo dục, đào tạo
nghề nghiệp cho người khuyết tật.
Hỗ trợ doanh nghiệp thay đổi phương thức làm việc nhằm giúp người khuyết
tật được hưởng cơ hội việc làm bình đẳng như: Cải tiến quá trình xin việc; điều
chỉnh, cải tiến môi trường làm việc cho phù hợp với hoạt động của người lao động
khuyết tật; thay đổi cách thức làm việc; tạo điều kiện để người khuyết tật được
hưởng các phúc lợi, chế độ đãi ngộ như những người lao động khác...
Về trách nhiệm bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi cho người
khuyết tật của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Môi trường làm việc phù hợp có
thể được hiểu là một chiếc ghế ở văn phòng có thể điều chỉnh được (dành cho người
khuyết tật ở lưng); giờ làm việc linh hoạt (cho người trong tình trạng y tế đòi hỏi
phải nghỉ giữa giờ), một bàn phím máy tính với hệ thống chữ nổi Braille (cho người
mù), có một người chịu trách nhiệm hướng dẫn công việc (cho người khuyết tật về
trí tuệ hoặc tâm thần). Việc quy định cụ thể giúp tránh sự hiểu nhầm và giúp người
sử dụng lao động hiểu rõ trách nhiệm của mình trong việc tạo môi trường làm việc
phù hợp cho người khuyết tật.
Thứ tám, pháp luật cần quy định rõ nghĩa vụ của người sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ xây dựng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực cho đơn vị mình và xem đó là một phần quan trọng không tách rời trong
chính sách việc làm của đơn vị. Chính sách này bao gồm các quy định liên quan đến
tuyển dụng người lao động khuyết tật, trong đó có cả người chưa từng làm việc và
những người mong muốn được trở lại làm việc sau một thời gian nghỉ; chính sách
trụ việc cho nhân viên bị tai nạn lao động dẫn đến khuyết tật trong quá trình làm
việc tại đơn vị...
Chủ sử dụng lao động có nghĩa vụ phối hợp với các đơn vị dịch vụ việc làm để
giúp người lao động khuyết tật tìm việc làm phù hợp với khả năng, năng lực và
nguyện vọng; đảm bảo rằng trong công việc, người lao động khuyết tật được đối xử
bình đẳng với người lao động không khuyết tật về các quyền lợi vật chất.
Bên cạnh đó, cần phải có các quy định rõ về các chế tài xử phạt, đặc biệt là các
hành vi ngược đãi, phân biệt đối xử với người khuyết tật, vấn đề kì thị xã hội đối
với người khuyết tật, hoặc không thực hiện những vấn đề được quy định trong luật
liên quan đến nhu cầu và quyền của người khuyết tật về vấn đề giải quyết việc làm.
Thứ chín, cần chặt chẽ hơn trong các quy định về tổ chức dạy nghề cho người
khuyết tật như giáo án phù hợp, chính sách thỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa,
dạy nghề phiên dịch cho người khiếm thính. Thời gian học nghề cần phải linh hoạt,
tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận các nguồn vốn vay hỗ trợ kinh phí cho
các tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh doanh của người khuyết tật. Trên cơ sở phân
dạng, phân hạng khuyết tật tiến hành thống kê, đánh giá phân loại số người khuyết
tật theo mức độ dạng tật theo khả năng lao động để giúp cho công tác dạy nghề phù
hợp với khả năng học nghề, khả năng lao động, yêu cầu của nghề nghiệp trong
tương lai.
Thứ mười, cần nâng cao mức phụ cấp ưu đãi đối với giáo viên dạy nghề cho
người khuyết tật. Giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật đòi hỏi phải kiên trì và
mất nhiều công sức hơn so với giáo viên giảng dạy cho những người bình thường.
Đối với một số dạng tật, giáo viên còn phải học và nắm bắt được ngôn ngữ đặc thù
của người khuyết tật. Hiện nay đã có những ưu đãi dành cho giáo viên dạy nghề cho
người khuyết tật nhưng mức phụ cấp này vẫn chưa khuyến khích được các giáo viên
dạy nghề cho người khuyết tật. Vì vậy, để khuyến khích các giáo viên dạy nghề cho
người khuyết tật cần nâng cao hơn mức phụ cấp đặc thù cho họ.
Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, còn đòi hỏi các chính sách xã
hội đó phải gắn liền với khả năng xây dựng và triển khai các dịch vụ xã hội. Việc
chuyển các mô hình chính sách từ trợ cấp về mặt tài chính sang các mô hình đào tạo
nghề, đào tạo kỹ năng sống, tổ chức các dịch vụ nâng cao khả năng sống độc lập
của người khuyết tật là hết sức cần thiết. Đồng thời, tiếng nói của người khuyết tật
cần được thể hiện rõ trong tiến trình xây dựng luật và hệ thống chính sách cho chính
người khuyết tật. Các hoạt động nghiên cứu và thực hành về công tác xã hội cũng
cần thêm chức năng và nhiệm vụ đóng góp vào việc đưa tiếng nói của người khuyết
tật trong các chính sách xã hội và chương trình xã hội.
3.2.1.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao trách nhiệm của các chủ thể
trong bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách, pháp luật phát triển hệ thống cơ sở cung cấp
dịch vụ trợ giúp xã hội, tiêu chuẩn nghiệp vụ nhân viên công tác xã hội và cấp giấy
hành nghề công tác xã hội, tiêu chuẩn dịch vụ trợ giúp xã hội, khung giá dịch vụ trợ
giúp xã hội. Cần quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội đáp ứng nhu
cầu của các nhóm đối tượng, ưu tiên trợ giúp cho người khuyết tật sống ở các vùng
kinh tế - xã hội khó khăn. Có cơ chế khuyến khích khu vực ngoài công lập phát
triển cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội, ưu tiên các cơ sở cung cấp dịch vụ đối
với những nhóm người yếu thế mà trong đó có đối tượng là người khuyết tật.
Thứ hai, cần có quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Liên
hiệp hội người khuyết tật trong Luật Người khuyết tật để tăng cường hoạt động của
Liên hiệp hội trong công tác người khuyết tật nói chung và việc làm cho người
khuyết tật nói riêng như: tham gia đóng góp, xây dựng và thúc đẩy việc thực hiện
các quy định pháp luật của Nhà nước về khuyết tật và Công ước quốc tế về quyền
của người khuyết tật.
Thứ ba, cần phát triển mạng lưới tổ chức dịch vụ việc làm như giới thiệu việc
làm, hướng nghiệp, học nghề, giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật; tăng định
mức hỗ trợ cho các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật để thu hút người khuyết tật
vào học nghề; đối với nhóm người khuyết tật không tiếp cận được với trường lớp
cần có chương trình đào tạo phù hợp, mô hình sinh kế phù hợp tại gia đình, cộng
đồng; tạo cơ chế chính sách thông thoáng về vốn để người khuyết tật và gia đình có
thể dễ dàng tiếp cận phát triển kinh tế; các cơ sở y tế liên quan đến chỉnh hình, phục
hồi chức năng cần trang bị kỹ thuật, đội ngũ nhân lực thực hiện tốt hoạt động phục
hồi chức năng cho người khuyết tật...
Thứ tư, Quốc hội, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ban hành một số luật
mới có liên quan đến dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật, đồng thời tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về người khuyết tật phù hợp với Hiến pháp và
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật; bảo đảm việc phân bổ ngân sách
hàng năm và trung hạn cho chính sách bảo trợ xã hội, trong đó có chính sách dạy
nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật.
Thứ năm, Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan, nghiên cứu xây dựng kế
hoạch tổ chức thực hiện Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật. Cân đối
nguồn lực và ưu tiên bố trí ngân sách để thực hiện có hiệu quả chính sách pháp luật
và các chương trình, đề án về người khuyết tật. Rà soát sửa đổi, bổ sung các chế độ,
chính sách về dạy nghề, tạo việc làm; chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác
người khuyết tật ở các trung tâm bảo trợ xã hội; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, xây dựng hệ thống dữ liệu thống kê đảm bảo cung cấp thông tin chính
xác, cập nhật, đáp ứng yêu cầu thực hiện công tác quản lý Nhà nước về người
khuyết tật; tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật về
người khuyết tật.
Thứ sáu, các địa phương, cần tăng cường thực hiện quản lý Nhà nước về công
tác người khuyết tật, cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp về công tác người khuyết tật
vào chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương; ban hành các chính sách
cụ thể tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động trợ
giúp người khuyết tật; chủ động cân đối nguồn lực phù hợp để thực hiện chính sách
dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật.
Cần có sự kết nối, hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị có liên quan nhằm tăng cơ
hội dạy nghề, việc làm cho người khuyết tật. Hiện nay đã có các đơn vị cung cấp
dịch vụ hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật như các cơ sở dạy nghề, trung tâm giới
thiệu việc làm, đơn vị phục hồi chức năng, doanh nghiệp… Tuy nhiên, sự kết nối,
hợp tác giữa các đơn vị còn chưa chặt chẽ nên cơ hội học nghề và việc làm đối với
người khuyết tật còn ở mức độ rất hạn chế.
Chính vì vậy, cần phải tăng cường hơn nữa sự kết nối giữa các đơn vị này, có
như vậy mới tăng cơ hội học nghề và việc làm cho người khuyết tật.
3.2.1.3. Nâng cao nhận thức của xã hội về bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật
Tuyên truyền nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của gia
đình, Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và trợ giúp người khuyết tật;
quan điểm chủ trương, chính sách, pháp luật về trợ giúp xã hội; các giải pháp, mô
hình trợ giúp xã hội hiệu quả, gương điển hình tiên tiến vượt khó và những nội dung
khác có liên quan nhằm thay đổi cách thức trợ giúp xã hội theo hướng tiên tiến, hiệu
quả.
Các cơ quan, ban ngành chức năng, đoàn thể xã hội, các tổ chức của người
khuyết tật cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền Công ước của Liên Hợp quốc về
quyền của người khuyết tật, Luật Người khuyết tật, các nghị định, quyết định,
hướng dẫn của Chính phủ, của các bộ, ngành liên quan đến chế độ của người khuyết
tật tới cộng đồng bằng hình thức trực quan sinh động; tổ chức các hoạt động giao
lưu của người khuyết tật về văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, tin học; tổ chức
gặp gỡ trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về mô hình đào tạo, dạy nghề cho người
khuyết tật, kể cả trong nước và quốc tế.
Quan tâm đào tạo, tập huấn bồi dưỡng, nâng cao năng lực hoạt động cho cán
bộ Hội và cộng tác viên với các nội dung về Luật Người khuyết tật, Công ước về
quyền của người khuyết tật; Đề án Trợ giúp người khuyết tật 2012 - 2020; Đề án
phát triển nghề, cùng các nội dung liên quan khác... Thông qua các hoạt động này sẽ
từng bước nâng cao nhận thức, năng lực chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật.
Cộng đồng xã hội cần xóa bỏ thái độ kỳ thị, phân biệt với người khuyết tật.
Chẳng hạn như khi người khuyết tật đi xin việc làm thì được doanh nghiệp tiếp
nhận, bố trí công việc phù hợp, tạo điều kiện cho học có cuộc sống tự lập, phát huy
khả năng của mình... Bản thân người khuyết tật cũng cố gắng khắc phục khó khăn
về sức khỏe, bệnh tật, xác định rõ hơn trách nhiệm của bản thân, có cuộc sống lạc
quan, nỗ lực vươn lên hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích, sống tự lập,
giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Khi nhận thức của cộng đồng về người khuyết tật được nâng cao sẽ góp phần
xoá bỏ được những rào cản, không chỉ là những rào cản về vật chất và điều kiện tiếp
cận trong sinh hoạt đời sống thường ngày, mà còn là những rào cản về tinh thần, về
định kiến xã hội cũng như của chính thân nhân, gia đình của người khuyết tật đối
với vấn đề khuyết tật và khả năng của người khuyết tật. Có như vậy người khuyết
tật mới cộng đồng xã hội được đối xử bình đẳng, được tiếp cận mọi cơ hội trong
cuộc sống một cách công bằng, trong sự quan tâm hỗ trợ đầy trách nhiệm của toàn
xã hội.
3.2.1.4. Bố trí nguồn vốn vay ưu đãi dành riêng cho người khuyết tật và các
doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật
Hiện nay, cả nước còn hàng triệu người khuyết tật trong độ tuổi lao động lao
động cần được hỗ trợ dạy nghề và vay vốn tạo việc làm. Tuy nhiên, nguồn vốn ưu
đãi dành riêng cho người khuyết tật còn rất hạn chế. Ngân hàng Chính sách xã hội
cho vay đối với người khuyết tật và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sử dụng lao
động là người khuyết tật chủ yếu thông qua nguồn vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm,
nguồn vốn từ nhà tài trợ Nippon chứ chưa có nguồn vốn dành riêng cho người
khuyết tật vay để phát triển kinh tế.
Từ năm 2014 đến nay, ngân sách nhà nước không bổ sung nguồn vốn cho Quỹ
quốc gia về việc làm để cho vay giải quyết việc làm mà chỉ thực hiện cho vay bằng
vốn quay vòng. Do vậy, người lao động khuyết tật cũng không có điều kiện tiếp cận
các nguồn vốn ưu đãi tạo việc làm, nhất là người mù gặp không ít khó khăn trong
việc thực hiện quy trình, thủ tục vay vốn. Mặt khác, hiện cũng chưa có cơ chế và
chưa phân bổ nguồn vốn vay cho đối tượng này, dẫn đến tỷ lệ người khuyết tật
được tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi thấp.
Do đó Chính phủ cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về
người khuyết tật, tạo điều kiện để họ được hưởng các chính sách của Nhà nước.
Đồng thời, quan tâm hơn nữa công tác đào tạo nghề, cân đối, bố trí đủ nguồn lực để
thực hiện các chương trình tín dụng chính sách. Hàng năm, tăng cấp bổ sung vốn
cho Quỹ quốc gia về việc làm; xem xét bố trí nguồn vốn vay ưu đãi dành riêng cho
người khuyết tật và các doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật.
3.2.1.5. Nâng cao trình độ cho người khuyết tật
Để người khuyết tật được học nghề, có việc làm ổn định cần nâng cao trình độ
chuyên môn của người khuyết tật. Muốn vậy, trước hết người khuyết tật phải được
đào tạo nghề phù hợp với trang thiết bị của doanh nghiệp. Người khuyết tật phải có
sự đầu tư để vững vàng về chuyên môn, giỏi tay nghề; cần phải trang bị các kỹ năng
nghề nghiệp, cũng như các kỹ năng mềm, kỹ năng hòa nhập cuộc sống để phù hợp
với doanh nghiệp hơn đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Thực tế, gần đây
trình độ tay nghề, chuyên môn, văn hóa của người khuyết tật có xu hướng ngày
càng tăng chứng tỏ người khuyết tật đang được đào tạo, học hành đầy đủ. Bên cạnh
đó, doanh nghiệp tuyển dụng lao động khuyết tật có trình độ cũng đang tăng dần,
kéo theo tỉ lệ người khuyết tật có thu nhập cao cũng tăng lên.
3.2.1.6. Nâng cao vai trò của truyền thông
Truyền thông có vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi nhận thức xã hội
và tạo ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của công chúng. Việc lựa chọn ngôn từ,
hình ảnh và thông điệp có thể giúp hình thành nhận thức, thái độ, hành vi của xã hội
nói chung và người khuyết tật nói riêng. Việc tuyên truyền về những tấm gương
người khuyết tật vượt lên số phận để sống có ích cho xã hội có tác động rất lớn tới
tâm lý của cộng đồng người khuyết tật. Người khuyết tật thường ít có cơ hội tiếp
cận được thông tin về chính sách, luật pháp và những chương trình, dịch vụ có ảnh
hưởng trực tiếp đến bản thân. Sự thiếu thông tin, kiến thức này làm hạn chế sự tham
gia của họ vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nói chung. Chính vì thế, truyền
thông phải là kênh thông tin quan trọng góp phần để cộng đồng xã hội hiểu rõ hơn
về người khuyết tật, hiểu rõ hơn những tâm tư, nguyện vọng của họ - nguyện vọng
được sống, được làm việc, được chia sẻ từ cộng đồng và từ các chính sách xã hội.
Truyền thông phải xác định được trách nhiệm của mình trong việc thúc đẩy bình
đẳng về cơ hội, tiếp cận dịch vụ và thông tin đối với người khuyết tật.
Đây cũng chính là cơ hội để nhà tuyển dụng và người khuyết tật tìm đến với
nhau. Giải quyết được việc làm cho người khuyết tật thông qua truyền thông có một
ý nghĩa xã hội rất lớn, đó là một phần rất quan trọng của chiến lược xóa đói giảm
nghèo - một mục tiêu lớn không chỉ ở Việt Nam mà cả cộng đồng quốc tế đang
cùng nỗ lực phấn đấu.
3.2.1.7. Đảm bảo giao thông tiếp cận với người khuyết tật
Một trong những rào cản đối với người khuyết tật trong hòa nhập với cộng
đồng, tìm kiếm việc làm chính là sự khó khăn trong việc đi lại do hiện nay mặc dù
hệ thống chính sách phát triển hệ thống giao thông tiếp cận trợ giúp cho người
khuyết tật ở nước ta đã khá đầy đủ, song việc thực thi tới nay vẫn còn nhiều khó
khăn, bất cập.
Bộ Xây dựng đã ban hành QCVN10:2014/BXD về Xây dựng công trình đảm
bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng quy định các yêu cầu kỹ thuật bắt buộc phải
tuân thủ khi xây dựng mới hoặc cải tạo các công trình xây dựng để đảm bảo người
khuyết tật tiếp cận sử dụng gồm nhà chung cư và công trình công cộng. Theo đó,
công trình công cộng bao gồm: trụ sở làm việc của cơ quan Nhà nước; cơ sở khám,
chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình văn hóa, thể dục - thể thao; công
trình khách sạn, thương mại, dịch vụ; nhà ga, bến tàu, bến xe, đường, hè phố, hầm
đi bộ, cầu vượt, các công trình hạ tầng kỹ thuật và tiện ích đô thị khác (nhà tang lễ,
nghĩa trang, nhà vệ sinh công cộng, điểm chờ xe buýt, máy rút tiền tự động, điểm
truy cập internet công cộng…).
Mặc dù, đã có quy chuẩn cụ thể nhưng trên thực tế việc quan tâm xây dựng
các công trình công cộng đảm bảo thuận lợi cho người khuyết tật sử dụng của các
chủ đầu tư là không đồng đều. Các công trình chưa được chú ý là chợ, siêu thị, bưu
điện, nhà ga; công trình có tỷ lệ tiếp cận ít nhất là ngân hàng. Bên cạnh đó, các hạng
mục thiết kế trong một công trình cũng không hoàn thiện đầy đủ, chủ yếu chỉ hỗ trợ
ban đầu cho nhóm người khuyết tật vận động sử dụng xe lăn lên xuống bằng vệt
dốc, đường vào công trình, đường và hè phố… Một số công trình còn thi công, cải
tạo khá tùy tiện, vòng cua thường quá ngắn, đường tiếp cận quá dốc hoặc quá dài,
gây khó khăn cho người khuyết tật; nhiều đường dẫn thậm chí vừa dốc ngược vừa
không có tay vịn, khiến người khuyết tật không thể tự đi xe lăn lên hoặc có một số ít
công trình tuy bổ sung đường tiếp cận nhưng các hạng mục khác như chỗ ngồi, cầu
thang và nhà vệ sinh vẫn "nguyên trạng" khiến người khuyết tật không thể sử dụng;
đa phần các công trình đều chưa có biển báo, biển chỉ dẫn cho người khuyết tật.
Như vậy, người khuyết tật sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu như họ muốn tìm kiếm
việc làm tại những nơi này do môi trường làm việc không phù hợp đối với người
khuyết tật.
Trong thời gian tới, để giúp người người khuyết tật tái hòa nhập cộng đồng,
tiếp cận dễ dàng hơn đối với công trình xây dựng, giao thông cần nâng cao trách
nhiệm trong công tác quản lý Nhà nước, tăng cường hướng dẫn, thẩm định, kiểm
tra, giám sát thực hiện các quy định, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng để
người khuyết tật tiếp cận, sử dụng các công trình xây dựng, giao thông; xây dựng
một số mô hình thí điểm về tiếp cận, sử dụng các công trình xây dựng, giao thông
để phổ biến nhân rộng; tập huấn cho kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng và các đối tượng
hành nghề trong hoạt động thiết kế xây dựng. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền nâng
cao nhận thức của các cấp, các ngành, các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực đầu
tư, xây dựng. Tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật thiết kế, xây dựng công trình đảm
bảo người khuyết tật tiếp cận các công trình xây dựng tới các địa phương. Có chính
sách hỗ trợ lãi suất vay vốn đối với những doanh nghiệp đầu tư, cải tạo phương tiện
giao thông bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật cho người khuyết tật tiếp cận.
3.2.1.8. Cần tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật ở từng địa
phương và trong cả nước
Để thực hiện cam kết của Việt Nam khi phê chuẩn công ước Quốc tế về quyền
của người khuyết tật, thực hiện Luật Người khuyết tật, các cơ quan Trung ương cần
tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật ở từng địa phương và trong cả
nước để có cơ sở xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện chính sách.
Hiện nay, trong các hoạt động liên quan đến người khuyết tật ở Việt Nam, con
số được nhắc đến nhiều nhất đều dựa vào kết quả cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 2009. Theo Tổng cục Thống kê năm 2009, Việt Nam có khoảng 6,1 triệu người
khuyết tật trên tổng số 85,8 triệu dân, tương đương 7,8% dân số .
Trên thực tế hiện nay, các số liệu về người khuyết tật được rất nhiều Bộ,
ngành, đơn vị, tổ chức thu thập, báo cáo theo mục tiêu, mục đích, nguyên nhân gây
ra các dạng khuyết tật khác nhau mà chưa đưa vào một hệ thống quản lý chung,
biểu mẫu thống nhất để có thể sử dụng, phân tích số liệu phục vụ cho việc dự báo,
xây dựng chiến lược, chính sách, và triển khai thực hiện hiệu quả để trợ giúp người
khuyết tật.
Báo cáo đánh giá công tác trợ giúp xã hội năm 2015, định hướng giai đoạn
2016 - 2020 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra con số thống kê "Do hậu
quả của chiến tranh, tác động của già hóa dân số và đô thị hóa nên số đối tượng có
nhu cầu trợ giúp xã hội ở nước ta lớn, ước tính khoảng 20% dân số, gồm 9,4 triệu
người cao tuổi, 7,2 triệu NKT, 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…". Cũng
thống kê về số người có nhu cầu trợ giúp xã hội, Báo cáo tóm tắt nghiên cứu đánh
giá hệ thống chăm sóc xã hội ở Việt Nam của ông Nguyễn Hải Hữu (nguyên Cục
trưởng Cục Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em) lại đưa ra một con số khác "Nhu cầu trợ
giúp xã hội ở nước ta lớn, ước tính khoảng 20% dân số, gồm 9,4 triệu người cao
tuổi, 6,5 triệu người khuyết tật, 3,3 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…". Trong khi
đó, ở một hoạt động khác, con số mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra
lại là: Trong số 78,5 triệu người Việt Nam từ 5 tuổi trở lên năm 2009, có 6,1 triệu
người tương ứng với 7,8% dân số có khó khăn trong việc thực hiện ít nhất một
trong 4 chức năng nhìn, nghe, vận động và tập trung hoặc ghi nhớ. Trong đó có
387.384 người khuyết tật nặng được nhận hỗ trợ hàng năm .
Như vậy, chỉ xét về khái niệm, nhóm đối tượng là người khuyết tật đã mở
rộng hơn so với tiêu chí được xét để điều tra năm 2009. Cùng với đó, cuộc tổng
điều tra được tiến hành cách đây đã 8 năm, trong điều kiện, hoàn cảnh tuổi thọ trung
bình của người khuyết tật ngắn, số người khuyết tật có xu hướng gia tăng do các
nguyên nhân chủ quan, khách quan. Vì vậy, tính chính xác của con số cũng có nhiều
biến động.
Trong các nhóm đối tượng là người khuyết tật, số người khuyết tật vận động
có xu hướng tăng cao do tai nạn lao động và tai nạn giao thông cũng như do một số
bệnh tật như teo cơ. Mỗi năm tăng lên khoảng từ 30 - 40.000 người. Số người
khuyết tật nghe, nói chiếm tỷ lệ tương đối lớn và đang gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình hòa nhập, đặc biệt là về tiếp cận, giáo dục, học nghề và giải quyết việc
làm. Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu quy mô toàn quốc nào để có
những số liệu chính xác, mang tính tổng thể về số lượng người khuyết tật nhìn,
những dạng khiếm thị, độ tuổi, giới tính, nguyên nhân, tâm lý, nhu cầu thông tin/tài
liệu/các dạng dịch vụ & sản phẩm thông tin mà những người khiếm thị quen sử
dụng... Con số vẫn thường được nhắc đến là khoảng 2 triệu người mù lòa, 1/3 trong
số đó là người nghèo không có tiền điều trị mang lại ánh sáng…
Sự gia tăng của chứng rối loạn tự kỷ cũng là một vấn đề đáng lưu tâm. Cách
đây khoảng 30 năm, người ta không nói đến dạng tật này và trong cuộc điều tra năm
2009 cũng không nhắc đến. Nhưng những năm gần đây, tình trạng trẻ tự kỷ có xu
hướng tăng nhanh đặt ra nhiều vấn đề phức tạp về cơ hội học tập, thụ hưởng các
chính sách ưu đãi của nhà nước…. Hiện, rối loạn tự kỷ đang được xếp trong nhóm
"khuyết tật khác" của Luật Người khuyết tật, tuy nhiên, theo cộng đồng người
khuyết tật nói chung và các hội, nhóm của cha mẹ trẻ khuyết tật nói riêng, trẻ tự kỷ
cần được đưa vào Luật với vị trí là một nhóm riêng thay vì gộp chung với các
khuyết tật khác vì những đặc điểm khu biệt của nhóm đối tượng này.
Số người khuyết tật tinh thần trước đây không được tính vào số người khuyết
tật nhưng theo phân loại mới trong Luật thì cần phải thống kê những người này.
Đây là một con số rất lớn. Đối tượng khuyết tật thần kinh, tâm thần bao hàm rất
rộng và việc xác nhận khuyết tật cũng không hề dễ dàng, điều này dẫn đến không ít
khó khăn trong công tác thống kê, phân loại.
Ngoài ra, vấn đề về số người khuyết tật hỗn hợp hiện nay đang gia tăng đáng
kể trong cộng đồng xã hội, vấn đề gia tăng dân số (trên 90 triệu người)… cũng
khiến cho các số liệu báo cáo không còn tính tuyệt đối mà chỉ là ước lượng dựa trên
kết quả điều tra năm 2009. Nếu phân tích các nhóm đối tượng như trên, tổng số
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay không chỉ dừng lại ở con số 6,1 triệu người
và 7,8% dân số. Nhìn vào cơ cấu dân số Việt Nam, chúng ta thấy số người khuyết
tật có thể lên tới 15 triệu người (13,35% dân số).
Cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 sử dụng khung phân loại quốc tế
về chức năng, khuyết tật và sức khỏe của Tổ chức Y tế thế giới để xác định tình
trạng sức khỏe và khuyết tật, sử dụng bộ câu hỏi ngắn trọng tâm về tình trạng
khuyết tật do nhóm Washington về thống kê khuyết tật xây dựng. Tuy nhiên, bộ câu
hỏi này không bao phủ tất cả các loại hình khuyết tật, do đó hạn chế trong việc đưa
ra một bức tranh toàn diện về tình trạng cũng như mức độ khuyết tật trong từng
cộng đồng.
Sau khi Luật người khuyết tật được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01-01-
2011, hàng loạt các Nghị định, Quyết định, thông tư, hướng dẫn thực hiện chính
sách liên quan đến người khuyết tật đã được ban hành và đi vào thực tiễn, nhưng
con số thống kê vẫn không hề thay đổi, thiếu sự thống nhất. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ tới việc triển khai có hiệu quả các chính sách pháp luật của Nhà nước
liên quan đến người khuyết tật, đặc biệt là việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch,
chương trình dài hạn, ngắn hạn hỗ trợ người khuyết tật, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong điều kiện đó, cần thiết phải tổ chức riêng một cuộc điều tra cụ thể về số
lượng, độ tuổi, giới tính, phân loại, phân dạng khuyết tật thật cụ thể, chi tiết để làm
cơ sở cho việc triển khai thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước.
Việc thiếu một hệ thống thông tin toàn diện về người khuyết tật đã gây nên
không ít khó khăn trong việc hỗ trợ nhóm đối tượng này thụ hưởng các chính sách
ưu đãi của Nhà nước cũng như hòa nhập cộng đồng. Việc cải tiến, xây dựng hệ
thống thông tin thống nhất và phù hợp là thực sự cần thiết.
3.2.1.9. Tăng cường xã hội hóa công tác đào tạo nghề, tạo việc làm cho người
khuyết tật
Để đảm bảo và chăm sóc cho người khuyết tật, Đảng, Nhà nước đã ban hành
nhiều Đề án, chính sách về an sinh xã hội, tạo việc làm, dạy nghề cho các đối tượng
này. Nhiều văn bản đã được ban hành như Bộ luật Lao động, Luật Người khuyết
tật... tạo cơ sở triển khai các chính sách đến người khuyết tật tại các địa phương.
Nhờ đó đến nay đã có nhiều địa phương thành lập và bố trí kinh phí từ Quỹ việc
làm cho người khuyết tật để hỗ trợ, tạo việc làm; đã có hơn 15.000 lao động là
người khuyết tật và hơn 16.000 lao động khuyết tật khác đang làm việc trong các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình hoặc được hỗ trợ từ Quỹ việc
làm. Trong số những người khuyết tật được hỗ trợ về dạy nghề, tạo việc làm có gần
41% người nhận được tư vấn về học nghề, tư vấn việc làm và giới thiệu việc làm,
gần 18% người được miễn, giảm học phí... Bên cạnh đó, số cơ sở dạy nghề ở Việt
Nam đã tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, đã có 156 cơ sở dạy nghề
tham gia dạy nghề cho người khuyết tật, trong đó 55 cơ sở dạy nghề chuyên biệt,
200 cơ sở tham gia dạy nghề cho người khuyết tật, trên 500 cơ sở sản xuất, kinh
doanh của người khuyết tật.
Các tổ chức của người khuyết tật cũng đóng góp tích cực vào việc gia tăng số
người khuyết tật học nghề, tạo việc làm hàng năm. Báo cáo của 63 tỉnh, thành phố
giai đoạn 2012-2017 cho thấy, mỗi năm các tổ chức này đã dạy nghề, hỗ trợ hàng
chục nghìn người khuyết tật có việc làm.
Tuy nhiên, công tác dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật vẫn còn nhiều
khó khăn, thách thức. Trong đó, việc đào tạo và hỗ trợ việc làm cho người khuyết
tật phần lớn là tư vấn, chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các trung tâm dịch vụ việc
làm với các doanh nghiệp, do đó rất ít người khuyết tật tìm được việc làm ổn định.
Việc tự tạo việc làm cho người khuyết tật đã, đang triển khai chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn. Tỷ lệ người khuyết tật có việc làm trong các cơ sở kinh doanh
thấp, khoảng trên dưới 10%, còn lại là lao động tự làm, lao động hộ gia đình, tham
gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh ở địa phương với các công việc chủ yếu
trong lĩnh vực nông nghiệp, bấp bênh, có thu nhập thấp.
Trong những năm tới, số lượng người khuyết tật sẽ tiếp tục gia tăng, đời sống
của người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật thuộc hộ nghèo, ở vùng thường
xuyên bị thiên tai, vùng sâu, vùng xa còn rất nhiều khó khăn. Do đó cần nhiều hơn
nữa quyết tâm, nỗ lực chung tay hành động của các cấp, các ngành, sự sẻ chia của
các tổ chức, cá nhân đối với người khuyết tật; cần nhiều hơn nữa "chiếc cầu" để
người khuyết tật có điều kiện, cơ hội được làm việc và ổn định cuộc sống; trong đó
đẩy mạnh xã hội hóa dạy nghề, tạo việc làm là yếu tố vô cùng quan trọng giúp
người khuyết tật có cơ hội có việc làm ổn định để hòa nhập với xã hội.
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể bảo đảm quyền làm việc của người khuyết
tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng và sự phối hợp
của chính quyền các cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bảo đảm quyền
làm việc cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố. Cấp ủy các cấp cần ban hành
văn bản chỉ đạo các đơn vị, địa phương xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai
thực hiện trợ giúp người khuyết tật hàng năm, đưa chỉ tiêu dạy nghề, tạo việc làm
cho người khuyết tật vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và xây
dựng cơ chế phối hợp liên ngành để thực hiện có hiệu quả mục tiêu, kế hoạch đã đề
ra.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người khuyết tật và các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật người khuyết tật đến các tầng lớp nhân dân trong toàn thành phố,
nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về người khuyết tật; tăng cường sự tham gia
của người dân, là người khuyết tật vào các hoạt động của Đề án trợ giúp người
khuyết tật, từ việc xác định đối tượng, lập kế hoạch, triển khai thực hiện ở Tổ dân
phố, khu vực, ấp, xã, phường, quận/huyện đến quản lý nguồn lực, giám sát và đánh
giá trong toàn thành phố.
Thứ ba, xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án dạy nghề - tạo
việc làm dành riêng cho người khuyết tật chứ không lổng ghép trong tổng thể
chương trình mục tiêu quốc gia về dạy nghề - tạo việc làm cho lao động nông thôn
như hiện nay. Cần gắn kết chính sách việc làm cho người khuyết tật với kế hoạch
tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội của địa phương và tập trung phát triển bền
vững.
Ngoài ra, thành phố cần có quy định ưu tiên, hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm
cho người khuyết tật. Trên cơ sở danh mục nghề đào tạo cho người khuyết tật, định
mức chi phí đào tạo cho từng nghề, các địa phương cần đa dạng hóa các hình thức
dạy nghề cho người khuyết tật như việc hỗ trợ thông qua cơ sở dạy nghề hoặc các tổ
chức người khuyết tật, tổ chức vì người khuyết tật, đặc biệt là các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ có sử dụng người khuyết tật.
Thứ tư, đề nghị các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu điều chỉnh định mức phân
bổ ngân sách cho chi đảm bảo xã hội từ bằng đến cao hơn các lĩnh vực khác.
Việc tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi dành cho người khuyết tật còn đang gặp
nhiều bất cập từ cả chính sách lẫn thực thi, do đó, cần có những chính sách hiệu quả
giúp người khuyết tật tham gia nhiều hơn vào thị trường vì lợi ích của mỗi người và
của toàn xã hội.
Hàng năm, cần đề xuất tăng cấp bổ sung vốn cho Quỹ quốc gia về việc làm;
xem xét bố trí nguồn vốn dành riêng cho vay ưu đãi đối với người khuyết tật và các
doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật trong Quỹ quốc gia về việc làm
hoặc ngân sách riêng dành cho người khuyết tật vay vốn. Bên cạnh đó, cần khuyến
khích các nguồn lực từ ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác ủy thác sang
Ngân hàng chính sách xã hội để cho vay đối với người khuyết tật. Chỉ đạo Ngân
hàng chính sách xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh rà soát lại việc thực hiện chính
sách này trên phạm vi toàn thành phố để đảm bảo tất cả địa phương đã, đang thực
hiện đúng chương trình vay vốn ưu đãi về giải quyết việc làm cho người lao động là
người khuyết tật, đối với địa phương chưa thực hiện thì cần có văn bản đôn đốc,
nhắc nhở thực hiện. Bên cạnh đó, Cấp ủy, chính quyền thành phố tiếp tục có sự
quan tâm bố trí nguồn lực từ ngân sách của thành phố và các nguồn vốn hợp pháp
khác ủy thác sang Ngân hàng Chính sách Xã hội để cho vay đối với người khuyết
tật trên địa bàn. Ngoài ra, có sự phối hợp chặt chẽ hơn để nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng chính sách; lồng ghép hiệu quả các chương trình với hoạt động tín
dụng chính sách.
Quan tâm tăng cường phổ biến chương trình vay vốn ưu đãi dành cho người
lao động là người khuyết tật giải quyết việc làm trên phạm vi cả nước thông qua các
hoạt động tuyên truyền trên loa, báo, đài, thông tin truyền thông, website, và phát tờ
rơi về cho từng hộ gia đình. Ngoài ra, cần liên kết phối hợp với cơ quan hành chính
quản lý lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội cấp địa phương để chia sẻ thông tin
với tất cả người khuyết tật và gia đình họ về chương trình này.
Thứ năm, thúc đẩy triển khai các mô hình hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận giáo
dục, học nghề, tạo việc làm, tiếp cận giao thông, công trình xây dựng, phương tiện
thông tin và các mô hình sinh kế, mô hình tự lực...
Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ việc làm. Hoạt động của các trung tâm giới
thiệu việc làm cần chú trọng đến hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị
trường lao động. Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các trung tâm giới thiệu việc
làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động.
Thời gian tới, các trung tâm dịch vụ việc làm cần khảo sát nhu cầu tuyển dụng
của các doanh nghiệp, nhất là nhu cầu sử dụng lao động là người khuyết tật, trên cơ
sở đó xây dựng kế hoạch mở sàn giao dịch việc làm dành riêng để tư vấn, giới thiệu
việc làm cho người khuyết tật. Cùng với đó, cung cấp thông tin tuyển dụng, thị
trường lao động cho người khuyết tật và gia đình của họ. Trên cơ sở đó, định hướng
để người khuyết tật chọn nghề học, việc làm phù hợp. Các cơ sở dạy nghề sẽ mở
rộng và đa dạng các hình thức học nghề một cách linh động phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện của người khuyết tật; tổ chức dạy nghề lưu động tại các xã, liên kết đào
tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người khuyết tật.
Tổ chức các hoạt động Ngày hội việc làm lồng ghép cho người khuyết tật. Đó
là việc mở những gian hàng tuyển dụng lao động khuyết tật trong những phiên chợ
giao dịch việc làm do Trung tâm Dịch vụ việc làm phối hợp với các đơn vị, huyện,
thành phố tổ chức. Qua hoạt động này, nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến
người khuyết tật; trong đó có chính sách dạy nghề, tạo việc làm phù hợp với người
khuyết tật; hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng, năng lực của bản thân; tạo
điều kiện để người khuyết tật vươn lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động kinh
tế - xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã hội; tạo điều kiện cho người khuyết
tật được tư vấn nghề nghiệp phù hợp và có cơ hội việc làm tại các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh, tiếp cận thị trường lao động.
Ngoài ra, ngành chức năng sẽ triển khai chính sách ưu đãi trong hỗ trợ học
nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Hàng năm, giao chỉ tiêu cụ thể cho
từng cơ sở dạy nghề công lập trong việc dạy nghề cho người khuyết tật; tăng cường
hỗ trợ phương tiện đi lại cho người khuyết tật để họ dễ dàng di chuyển, tiếp cận với
các dịch vụ; phát triển mạng lưới tổ chức dịch vụ việc làm (giới thiệu việc làm,
hướng nghiệp, học nghề, giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật); tăng định mức
hỗ trợ cho các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật để thu hút người khuyết tật vào
học nghề; đối với nhóm người khuyết tật không tiếp cận được với trường lớp cần có
chương trình đào tạo phù hợp, mô hình sinh kế phù hợp tại gia đình, cộng đồng; tạo
cơ cơ chế chính sách thông thoáng về vốn để người khuyết tật và gia đình có thể dễ
dàng tiếp cận phát triển kinh tế; các cơ sở y tế liên quan đến chỉnh hình, phục hồi
chức năng cần trang bị kỹ thuật, đội ngũ nhân lực thực hiện tốt hoạt động phục hồi
chức năng cho người khuyết tật...
Phổ biến và triển khai các chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp khi nhận
người khuyết tật vào làm việc như: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, được vay vốn
ưu đãi, ưu tiên thuế đất…
Thứ sáu, cần đẩy mạnh việc nâng cao trình độ văn hóa cho người khuyết tật.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tạo cơ hội học nghề của người
khuyết tật bị hạn chế, cũng như việc người khuyết tật thường học các nghề đơn
giản, trình độ thấp dẫn đến công việc và thu nhập không ổn định là do trình độ văn
hóa của người khuyết tật còn thấp, ít người được tham gia học tập. Vì vậy, để nâng
cao việc dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật, đặc biệt là những ngành nghề
có trình độ chuyên môn và thu nhập cao thì cần phải nâng cao trình độ văn hóa của
người khuyết tật. Đây được xem là giải pháp có tính căn bản để giải quyết vấn đề
này.
Thành phố cần có chính sách hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho giáo
viên trực tiếp dạy trẻ khuyết tật trí tuệ, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn, khuyết
tật ngôn ngữ, tự kỷ; cung ứng các tài liệu học tập hỗ trợ cho học sinh khiếm thính,
sách chữ nổi cho học sinh khiếm thị, học sinh khuyết tật; giao Sở Giáo dục và Đào
tạo triển khai thực hiện tốt các chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập
và cho vay đối với sinh viên là người khuyết tật theo Nghị định 86/2015/NĐ-CP.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức của người
khuyết tật. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ
chức của người khuyết tật theo phương châm "Tăng cường đoàn kết, chủ động vươn
lên, bình đẳng, hòa nhập với cộng đồng". Đề cao trách nhiệm và sự chủ động của
các tổ chức của người khuyết tật trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ, các
phong trào, các cuộc vận động trong người khuyết tật. “Tạo điều kiện cho tổ chức
của người khuyết tật có đủ năng lực tham gia thực hiện các dịch vụ công của Nhà
nước” [2]. Thường xuyên giới thiệu, tuyên truyền để nhân rộng trong cả nước
những tấm gương tiêu biểu vượt khó vươn lên của người khuyết tật, những cách
làm hay trong hoạt động của các tổ chức của người khuyết tật.
Thứ tám, tăng cường vận động sự hỗ trợ từ các tổ chức trong nước cũng như
nước ngoài về các hoạt động trợ giúp người khuyết tật.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động tôn vinh Người lao động khuyết tật và
doanh nghiệp vì người khuyết tật, nhằm thúc đẩy vai trò chủ động, tích cực, tự tin
của người khuyết tật tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội, góp phần giảm bớt
khó khăn cho gia đình và xã hội; động viên, khích lệ kịp thời người khuyết tật có
tinh thần giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ vươn lên trong cuộc sống.
Tiếp tục khơi dậy truyền thống "Thương người như thể thương thân" của dân
tộc Việt Nam, đồng thời, vận động các tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội cùng
tham gia giúp đỡ để người khuyết tật có thêm động lực vượt qua khó khăn vươn lên
trong cuộc sống. Tạo cơ hội cho người khuyết tật, người bảo trợ tiêu biểu được giao
lưu, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau trong lao động, học tập và chăm sóc
người khuyết tật một cách tốt nhất.
Thứ chín, tăng cường công tác giám sát, đánh giá.
Thành phố cần xây dựng hệ thống bộ chỉ tiêu giám sát, đánh giá; định kỳ xây
dựng kế hoạch liên ngành kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các ngành, đơn vị,
địa phương và tổ chức sơ, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm.
Định kỳ 6 tháng, 1 năm; các ngành, hội, đoàn thể, địa phương báo cáo kết quả
hoạt động về Ủy ban nhân dân thành phố (thông qua Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội cơ quan thường trực để tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố được
biết để chỉ đạo kịp thời).
Thứ mười, xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật và công tác chăm sóc,
trợ giúp người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Sớm tổ chức các cuộc điều tra khảo sát thực trạng người khuyết tật và công tác
chăm sóc, trợ giúp người khuyết tật trên địa bàn thành phố làm cơ sở để đánh giá
kết quả đã đạt được; hoạch định các mục tiêu, chỉ tiêu trợ giúp người khuyết tật cho
phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương.
Triển khai thực hiện dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đối
tượng người khuyết tật. Đưa danh sách người khuyết tật lên cổng thông tin điện tử
của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở lý luận về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật, từ thực
trạng bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, chương 3 luận văn đã phân tích, luận giải 8 phương hướng bảo đảm quyền
làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay. Đồng thời, luận văn cũng đã căn cứ vào các nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan của hạn chế bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay để đề xuất 9 nhóm giải pháp chung và
9 nhóm giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
KẾT LUẬN

GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT
TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
3.2.1. Nhóm giải pháp chung
3.2.1.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền làm việc của người khuyết
tật
Thứ nhất, đổi mới và hoàn thiện tiêu chí xác định mức độ khuyết tật, xác định
mức độ khó khăn của người khuyết tật, nhu cầu của người khuyết tật, độ tuổi và
giới tính của người khuyết tật; xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật như tổng
số, tình trạng sức khỏe, dạng tật; số người trong độ tuổi lao động, còn khả năng lao
động; số người có nhu cầu về học nghề; số người có nhu cầu làm việc và những
công việc phù hợp với nhu cầu và sức khỏe người khuyết tật… ở từng địa phương
và trong cả nước.
Thứ hai, xây dựng các chính sách trợ giúp cho người khuyết tật hướng đến
mục tiêu tăng cường hỗ trợ sinh kế phù hợp với đặc điểm sức khỏe và nhu cầu của
đối tượng trong thiết kế chính sách, cần phải đổi mới quan điểm tiếp cận đối với
người khuyết tật phải dựa trên quyền, phải coi người khuyết tật là công dân bình
thường, bình đẳng như mọi công dân khác chứ không chỉ là đối tượng chăm sóc của
xã hội, từ đó có các chính sách phù hợp hơn với chuẩn mực theo quy định của Công
ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật.
Thứ ba, cần ban hành quy định pháp luật theo hướng "đảm bảo sự công bằng"
cho người khuyết tật để không bị phân biệt đối xử và kì thị, đáp ứng yêu cầu mọi
người khuyết tật được đảm bảo việc làm mà không có bất kì sự phân biệt đối xử nào
trên cơ sở khuyết tật và đảm bảo nguyên tắc mọi người đều được bình đẳng trước
pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về
chống phân biệt đối xử với người khuyết tật nhằm khắc phục những lỗ hổng pháp lý
của pháp luật Việt Nam. Theo đó cần sớm ban hành Luật Phòng, chống phân biệt
đối xử nhằm đáp ứng yêu cầu của ILO và phù hợp với Hiến pháp năm 2013; cụ thể
hóa sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật Lao động sửa đổi năm năm 2019, đối với
hành vi cấm phân biệt đối xử và kì thị đối với người khuyết tật ở tất cả các khâu của
quá trình lao động, giúp người khuyết tật tự tin hơn trong cuộc sống và tự khẳng
định được vị trí của mình trong xã hội.
Thứ tư, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp khi nhận
người khuyết tật vào làm việc. Với trách nhiệm xã hội, hiện nay nhiều doanh nghiệp
đã xây dựng một số chỉ tiêu việc làm cho người khuyết tật. Tuy nhiên, theo cơ chế,
chính sách cho các doanh nghiệp có lao động là người khuyết tật như hiện nay thì
vẫn chưa thực sự khuyến khích được doanh nghiệp quan tâm thực hiện.
Để tăng cơ hội việc làm cho người khuyết tật, pháp luật quy định doanh
nghiệp phải nhận 2-3% người khuyết tật vào làm việc tùy ngành nghề, hoặc phải
đóng một khoản tiền trên cơ sở người khuyết tật còn chưa nhận đủ vào cơ quan đơn
vị để làm việc theo quy định về Quỹ việc làm dành cho người khuyết tật. Thực tế,
rất ít các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện và chưa có cơ quan
nào giám sát việc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ cho Quỹ này. Từ thực tiễn trên
xét thấy cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp chủ động
đảm bảo mục tiêu việc làm cho người lao động khuyết tật thay vì quy định định
mức và nộp phạt như hiện nay, để người sử dụng lao động có nhiều cách thức lựa
chọn mang lại lợi ích tốt nhất cho người khuyết tật tùy thuộc vào điều kiện của công
ty mình và khi họ thực hiện thì họ sẽ nhận được những chính sách ưu đãi tương
xứng. Bên cạnh đó có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cung cấp các khóa
đào tạo tại chỗ, học nghề, xây dựng kế hoạch tuyển dụng và đào tạo cho lao động
khuyết tật hoặc thực hiện những điều chỉnh cần thiết về môi trường làm việc cho
phù hợp hơn với người khuyết tật…
Theo Luật Người khuyết tật, khi doanh nghiệp có 30% lao động khuyết tật thì
doanh nghiệp được miễn giảm thuế, vốn vay với lãi suất ưu đãi.... Tuy nhiên, trên
thực tế nhiều doanh nghiệp tuyển dụng lao động là người khuyết tật đạt được tỷ lệ
quy định nhưng vẫn chưa được nhận các ưu đãi, việc chậm triển khai chính sách
đến doanh nghiệp chính là lý do họ hạn chế nhận người khuyết tật vào làm việc. Do
đó, cần có cơ chế đảm bảo cho doanh nghiệp được hưởng ưu đãi theo luật pháp quy
định.
Với doanh nghiệp sử dụng dưới 30% lao động là người khuyết tật thì không
được hỗ trợ vay vốn. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp này thì Nhà nước có thể hỗ
trợ bằng cách khác như miễn, giảm trích nộp bảo hiểm xã hội của những người lao
động khuyết tật; hỗ trợ tiền trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ lao động
cho người khuyết tật…
Cần có sự tách biệt giữa biện pháp khuyến khích và biện pháp bắt buộc đối với
các doanh nghiệp sử dụng người khuyết tật nhằm giảm bớt gánh nặng cho người sử
dụng lao động, đảm bảo sự hợp lý giữa các doanh nghiệp khác nhau trên thị trường.
Thứ năm, cần có quy định về ngành nghề ưu tiên cho người khuyết tật khi
tuyển dụng. Trong thời gian gần đây, nhiều ngành nghề phù hợp với người khuyết
tật đã được triển khai và mở rộng, tuy nhiên, để hỗ trợ cho người khuyết tật một
cách tốt nhất thì nhà nước cũng cần có những quy định về ngành nghề ưu tiên mang
tính đặc thù cho người khuyết tật.
Việc quy định các ngành nghề ưu tiên cho người khuyết tật không phải phủ
nhận năng lực của người khuyết tật khi tham gia học nghề ở tất cả mọi ngành nghề
mà là tính đến khả năng học tập và khả năng làm việc trong thực tế của người
khuyết tật. Một số ngành nghề thích hợp và cần số lượng người khuyết tật lớn như
công nghệ thông tin, may mặc, điện tử, thủ công mỹ nghệ…thì cần phải được đầu tư
hơn nữa để người khuyết tật có thêm cơ hội việc làm.
Thứ sáu, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các cá nhân, tổ chức thành
lập cơ sở dạy nghề và tuyển người khuyết tật vào học. Ngoài những chính sách
chung của cơ sở dạy nghề, các cơ sở dạy nghề dành cho người khuyết tật, Nhà nước
cần hỗ trợ về tài chính để đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, được giao đất
không thu tiền hoặc thuê đất ở nơi thuận lợi cho việc học nghề của người khuyết tật.
Điều này khuyến khích các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật được thành lập,
đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở này duy trì hoạt động trong quá trình thực hiện
việc đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Thứ bảy, cần quy định rõ về môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết
tật để giúp cho người sử dụng lao động xây dựng kế hoạch hỗ trợ tốt nhất cho người
lao động khuyết tật trong quá trình làm việc.
Cần tập trung vào xây dựng chính sách bảo đảm tiếp cận cơ hội việc làm và
môi trường làm việc cho người khuyết tật; cải thiện cơ sở hạ tầng, các phương tiện
công cộng để bảo đảm tiếp cận cho người khuyết tật và hỗ trợ giáo dục, đào tạo
nghề nghiệp cho người khuyết tật.
Hỗ trợ doanh nghiệp thay đổi phương thức làm việc nhằm giúp người khuyết
tật được hưởng cơ hội việc làm bình đẳng như: Cải tiến quá trình xin việc; điều
chỉnh, cải tiến môi trường làm việc cho phù hợp với hoạt động của người lao động
khuyết tật; thay đổi cách thức làm việc; tạo điều kiện để người khuyết tật được
hưởng các phúc lợi, chế độ đãi ngộ như những người lao động khác...
Về trách nhiệm bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi cho người
khuyết tật của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Môi trường làm việc phù hợp có
thể được hiểu là một chiếc ghế ở văn phòng có thể điều chỉnh được (dành cho người
khuyết tật ở lưng); giờ làm việc linh hoạt (cho người trong tình trạng y tế đòi hỏi
phải nghỉ giữa giờ), một bàn phím máy tính với hệ thống chữ nổi Braille (cho người
mù), có một người chịu trách nhiệm hướng dẫn công việc (cho người khuyết tật về
trí tuệ hoặc tâm thần). Việc quy định cụ thể giúp tránh sự hiểu nhầm và giúp người
sử dụng lao động hiểu rõ trách nhiệm của mình trong việc tạo môi trường làm việc
phù hợp cho người khuyết tật.
Thứ tám, pháp luật cần quy định rõ nghĩa vụ của người sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ xây dựng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực cho đơn vị mình và xem đó là một phần quan trọng không tách rời trong
chính sách việc làm của đơn vị. Chính sách này bao gồm các quy định liên quan đến
tuyển dụng người lao động khuyết tật, trong đó có cả người chưa từng làm việc và
những người mong muốn được trở lại làm việc sau một thời gian nghỉ; chính sách
trụ việc cho nhân viên bị tai nạn lao động dẫn đến khuyết tật trong quá trình làm
việc tại đơn vị...
Chủ sử dụng lao động có nghĩa vụ phối hợp với các đơn vị dịch vụ việc làm để
giúp người lao động khuyết tật tìm việc làm phù hợp với khả năng, năng lực và
nguyện vọng; đảm bảo rằng trong công việc, người lao động khuyết tật được đối xử
bình đẳng với người lao động không khuyết tật về các quyền lợi vật chất.
Bên cạnh đó, cần phải có các quy định rõ về các chế tài xử phạt, đặc biệt là các
hành vi ngược đãi, phân biệt đối xử với người khuyết tật, vấn đề kì thị xã hội đối
với người khuyết tật, hoặc không thực hiện những vấn đề được quy định trong luật
liên quan đến nhu cầu và quyền của người khuyết tật về vấn đề giải quyết việc làm.
Thứ chín, cần chặt chẽ hơn trong các quy định về tổ chức dạy nghề cho người
khuyết tật như giáo án phù hợp, chính sách thỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa,
dạy nghề phiên dịch cho người khiếm thính. Thời gian học nghề cần phải linh hoạt,
tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận các nguồn vốn vay hỗ trợ kinh phí cho
các tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh doanh của người khuyết tật. Trên cơ sở phân
dạng, phân hạng khuyết tật tiến hành thống kê, đánh giá phân loại số người khuyết
tật theo mức độ dạng tật theo khả năng lao động để giúp cho công tác dạy nghề phù
hợp với khả năng học nghề, khả năng lao động, yêu cầu của nghề nghiệp trong
tương lai.
Thứ mười, cần nâng cao mức phụ cấp ưu đãi đối với giáo viên dạy nghề cho
người khuyết tật. Giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật đòi hỏi phải kiên trì và
mất nhiều công sức hơn so với giáo viên giảng dạy cho những người bình thường.
Đối với một số dạng tật, giáo viên còn phải học và nắm bắt được ngôn ngữ đặc thù
của người khuyết tật. Hiện nay đã có những ưu đãi dành cho giáo viên dạy nghề cho
người khuyết tật nhưng mức phụ cấp này vẫn chưa khuyến khích được các giáo viên
dạy nghề cho người khuyết tật. Vì vậy, để khuyến khích các giáo viên dạy nghề cho
người khuyết tật cần nâng cao hơn mức phụ cấp đặc thù cho họ.
Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, còn đòi hỏi các chính sách xã
hội đó phải gắn liền với khả năng xây dựng và triển khai các dịch vụ xã hội. Việc
chuyển các mô hình chính sách từ trợ cấp về mặt tài chính sang các mô hình đào tạo
nghề, đào tạo kỹ năng sống, tổ chức các dịch vụ nâng cao khả năng sống độc lập
của người khuyết tật là hết sức cần thiết. Đồng thời, tiếng nói của người khuyết tật
cần được thể hiện rõ trong tiến trình xây dựng luật và hệ thống chính sách cho chính
người khuyết tật. Các hoạt động nghiên cứu và thực hành về công tác xã hội cũng
cần thêm chức năng và nhiệm vụ đóng góp vào việc đưa tiếng nói của người khuyết
tật trong các chính sách xã hội và chương trình xã hội.
3.2.1.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao trách nhiệm của các chủ thể
trong bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách, pháp luật phát triển hệ thống cơ sở cung cấp
dịch vụ trợ giúp xã hội, tiêu chuẩn nghiệp vụ nhân viên công tác xã hội và cấp giấy
hành nghề công tác xã hội, tiêu chuẩn dịch vụ trợ giúp xã hội, khung giá dịch vụ trợ
giúp xã hội. Cần quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội đáp ứng nhu
cầu của các nhóm đối tượng, ưu tiên trợ giúp cho người khuyết tật sống ở các vùng
kinh tế - xã hội khó khăn. Có cơ chế khuyến khích khu vực ngoài công lập phát
triển cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội, ưu tiên các cơ sở cung cấp dịch vụ đối
với những nhóm người yếu thế mà trong đó có đối tượng là người khuyết tật.
Thứ hai, cần có quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Liên
hiệp hội người khuyết tật trong Luật Người khuyết tật để tăng cường hoạt động của
Liên hiệp hội trong công tác người khuyết tật nói chung và việc làm cho người
khuyết tật nói riêng như: tham gia đóng góp, xây dựng và thúc đẩy việc thực hiện
các quy định pháp luật của Nhà nước về khuyết tật và Công ước quốc tế về quyền
của người khuyết tật.
Thứ ba, cần phát triển mạng lưới tổ chức dịch vụ việc làm như giới thiệu việc
làm, hướng nghiệp, học nghề, giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật; tăng định
mức hỗ trợ cho các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật để thu hút người khuyết tật
vào học nghề; đối với nhóm người khuyết tật không tiếp cận được với trường lớp
cần có chương trình đào tạo phù hợp, mô hình sinh kế phù hợp tại gia đình, cộng
đồng; tạo cơ chế chính sách thông thoáng về vốn để người khuyết tật và gia đình có
thể dễ dàng tiếp cận phát triển kinh tế; các cơ sở y tế liên quan đến chỉnh hình, phục
hồi chức năng cần trang bị kỹ thuật, đội ngũ nhân lực thực hiện tốt hoạt động phục
hồi chức năng cho người khuyết tật...
Thứ tư, Quốc hội, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ban hành một số luật
mới có liên quan đến dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật, đồng thời tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về người khuyết tật phù hợp với Hiến pháp và
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật; bảo đảm việc phân bổ ngân sách
hàng năm và trung hạn cho chính sách bảo trợ xã hội, trong đó có chính sách dạy
nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật.
Thứ năm, Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan, nghiên cứu xây dựng kế
hoạch tổ chức thực hiện Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật. Cân đối
nguồn lực và ưu tiên bố trí ngân sách để thực hiện có hiệu quả chính sách pháp luật
và các chương trình, đề án về người khuyết tật. Rà soát sửa đổi, bổ sung các chế độ,
chính sách về dạy nghề, tạo việc làm; chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác
người khuyết tật ở các trung tâm bảo trợ xã hội; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, xây dựng hệ thống dữ liệu thống kê đảm bảo cung cấp thông tin chính
xác, cập nhật, đáp ứng yêu cầu thực hiện công tác quản lý Nhà nước về người
khuyết tật; tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật về
người khuyết tật.
Thứ sáu, các địa phương, cần tăng cường thực hiện quản lý Nhà nước về công
tác người khuyết tật, cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp về công tác người khuyết tật
vào chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương; ban hành các chính sách
cụ thể tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động trợ
giúp người khuyết tật; chủ động cân đối nguồn lực phù hợp để thực hiện chính sách
dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật.
Cần có sự kết nối, hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị có liên quan nhằm tăng cơ
hội dạy nghề, việc làm cho người khuyết tật. Hiện nay đã có các đơn vị cung cấp
dịch vụ hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật như các cơ sở dạy nghề, trung tâm giới
thiệu việc làm, đơn vị phục hồi chức năng, doanh nghiệp… Tuy nhiên, sự kết nối,
hợp tác giữa các đơn vị còn chưa chặt chẽ nên cơ hội học nghề và việc làm đối với
người khuyết tật còn ở mức độ rất hạn chế.
Chính vì vậy, cần phải tăng cường hơn nữa sự kết nối giữa các đơn vị này, có
như vậy mới tăng cơ hội học nghề và việc làm cho người khuyết tật.
3.2.1.3. Nâng cao nhận thức của xã hội về bảo đảm quyền làm việc của người
khuyết tật
Tuyên truyền nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của gia
đình, Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và trợ giúp người khuyết tật;
quan điểm chủ trương, chính sách, pháp luật về trợ giúp xã hội; các giải pháp, mô
hình trợ giúp xã hội hiệu quả, gương điển hình tiên tiến vượt khó và những nội dung
khác có liên quan nhằm thay đổi cách thức trợ giúp xã hội theo hướng tiên tiến, hiệu
quả.
Các cơ quan, ban ngành chức năng, đoàn thể xã hội, các tổ chức của người
khuyết tật cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền Công ước của Liên Hợp quốc về
quyền của người khuyết tật, Luật Người khuyết tật, các nghị định, quyết định,
hướng dẫn của Chính phủ, của các bộ, ngành liên quan đến chế độ của người khuyết
tật tới cộng đồng bằng hình thức trực quan sinh động; tổ chức các hoạt động giao
lưu của người khuyết tật về văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, tin học; tổ chức
gặp gỡ trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về mô hình đào tạo, dạy nghề cho người
khuyết tật, kể cả trong nước và quốc tế.
Quan tâm đào tạo, tập huấn bồi dưỡng, nâng cao năng lực hoạt động cho cán
bộ Hội và cộng tác viên với các nội dung về Luật Người khuyết tật, Công ước về
quyền của người khuyết tật; Đề án Trợ giúp người khuyết tật 2012 - 2020; Đề án
phát triển nghề, cùng các nội dung liên quan khác... Thông qua các hoạt động này sẽ
từng bước nâng cao nhận thức, năng lực chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật.
Cộng đồng xã hội cần xóa bỏ thái độ kỳ thị, phân biệt với người khuyết tật.
Chẳng hạn như khi người khuyết tật đi xin việc làm thì được doanh nghiệp tiếp
nhận, bố trí công việc phù hợp, tạo điều kiện cho học có cuộc sống tự lập, phát huy
khả năng của mình... Bản thân người khuyết tật cũng cố gắng khắc phục khó khăn
về sức khỏe, bệnh tật, xác định rõ hơn trách nhiệm của bản thân, có cuộc sống lạc
quan, nỗ lực vươn lên hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích, sống tự lập,
giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Khi nhận thức của cộng đồng về người khuyết tật được nâng cao sẽ góp phần
xoá bỏ được những rào cản, không chỉ là những rào cản về vật chất và điều kiện tiếp
cận trong sinh hoạt đời sống thường ngày, mà còn là những rào cản về tinh thần, về
định kiến xã hội cũng như của chính thân nhân, gia đình của người khuyết tật đối
với vấn đề khuyết tật và khả năng của người khuyết tật. Có như vậy người khuyết
tật mới cộng đồng xã hội được đối xử bình đẳng, được tiếp cận mọi cơ hội trong
cuộc sống một cách công bằng, trong sự quan tâm hỗ trợ đầy trách nhiệm của toàn
xã hội.
3.2.1.4. Bố trí nguồn vốn vay ưu đãi dành riêng cho người khuyết tật và các
doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật
Hiện nay, cả nước còn hàng triệu người khuyết tật trong độ tuổi lao động lao
động cần được hỗ trợ dạy nghề và vay vốn tạo việc làm. Tuy nhiên, nguồn vốn ưu
đãi dành riêng cho người khuyết tật còn rất hạn chế. Ngân hàng Chính sách xã hội
cho vay đối với người khuyết tật và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sử dụng lao
động là người khuyết tật chủ yếu thông qua nguồn vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm,
nguồn vốn từ nhà tài trợ Nippon chứ chưa có nguồn vốn dành riêng cho người
khuyết tật vay để phát triển kinh tế.
Từ năm 2014 đến nay, ngân sách nhà nước không bổ sung nguồn vốn cho Quỹ
quốc gia về việc làm để cho vay giải quyết việc làm mà chỉ thực hiện cho vay bằng
vốn quay vòng. Do vậy, người lao động khuyết tật cũng không có điều kiện tiếp cận
các nguồn vốn ưu đãi tạo việc làm, nhất là người mù gặp không ít khó khăn trong
việc thực hiện quy trình, thủ tục vay vốn. Mặt khác, hiện cũng chưa có cơ chế và
chưa phân bổ nguồn vốn vay cho đối tượng này, dẫn đến tỷ lệ người khuyết tật
được tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi thấp.
Do đó Chính phủ cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về
người khuyết tật, tạo điều kiện để họ được hưởng các chính sách của Nhà nước.
Đồng thời, quan tâm hơn nữa công tác đào tạo nghề, cân đối, bố trí đủ nguồn lực để
thực hiện các chương trình tín dụng chính sách. Hàng năm, tăng cấp bổ sung vốn
cho Quỹ quốc gia về việc làm; xem xét bố trí nguồn vốn vay ưu đãi dành riêng cho
người khuyết tật và các doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật.
3.2.1.5. Nâng cao trình độ cho người khuyết tật
Để người khuyết tật được học nghề, có việc làm ổn định cần nâng cao trình độ
chuyên môn của người khuyết tật. Muốn vậy, trước hết người khuyết tật phải được
đào tạo nghề phù hợp với trang thiết bị của doanh nghiệp. Người khuyết tật phải có
sự đầu tư để vững vàng về chuyên môn, giỏi tay nghề; cần phải trang bị các kỹ năng
nghề nghiệp, cũng như các kỹ năng mềm, kỹ năng hòa nhập cuộc sống để phù hợp
với doanh nghiệp hơn đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Thực tế, gần đây
trình độ tay nghề, chuyên môn, văn hóa của người khuyết tật có xu hướng ngày
càng tăng chứng tỏ người khuyết tật đang được đào tạo, học hành đầy đủ. Bên cạnh
đó, doanh nghiệp tuyển dụng lao động khuyết tật có trình độ cũng đang tăng dần,
kéo theo tỉ lệ người khuyết tật có thu nhập cao cũng tăng lên.
3.2.1.6. Nâng cao vai trò của truyền thông
Truyền thông có vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi nhận thức xã hội
và tạo ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của công chúng. Việc lựa chọn ngôn từ,
hình ảnh và thông điệp có thể giúp hình thành nhận thức, thái độ, hành vi của xã hội
nói chung và người khuyết tật nói riêng. Việc tuyên truyền về những tấm gương
người khuyết tật vượt lên số phận để sống có ích cho xã hội có tác động rất lớn tới
tâm lý của cộng đồng người khuyết tật. Người khuyết tật thường ít có cơ hội tiếp
cận được thông tin về chính sách, luật pháp và những chương trình, dịch vụ có ảnh
hưởng trực tiếp đến bản thân. Sự thiếu thông tin, kiến thức này làm hạn chế sự tham
gia của họ vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nói chung. Chính vì thế, truyền
thông phải là kênh thông tin quan trọng góp phần để cộng đồng xã hội hiểu rõ hơn
về người khuyết tật, hiểu rõ hơn những tâm tư, nguyện vọng của họ - nguyện vọng
được sống, được làm việc, được chia sẻ từ cộng đồng và từ các chính sách xã hội.
Truyền thông phải xác định được trách nhiệm của mình trong việc thúc đẩy bình
đẳng về cơ hội, tiếp cận dịch vụ và thông tin đối với người khuyết tật.
Đây cũng chính là cơ hội để nhà tuyển dụng và người khuyết tật tìm đến với
nhau. Giải quyết được việc làm cho người khuyết tật thông qua truyền thông có một
ý nghĩa xã hội rất lớn, đó là một phần rất quan trọng của chiến lược xóa đói giảm
nghèo - một mục tiêu lớn không chỉ ở Việt Nam mà cả cộng đồng quốc tế đang
cùng nỗ lực phấn đấu.
3.2.1.7. Đảm bảo giao thông tiếp cận với người khuyết tật
Một trong những rào cản đối với người khuyết tật trong hòa nhập với cộng
đồng, tìm kiếm việc làm chính là sự khó khăn trong việc đi lại do hiện nay mặc dù
hệ thống chính sách phát triển hệ thống giao thông tiếp cận trợ giúp cho người
khuyết tật ở nước ta đã khá đầy đủ, song việc thực thi tới nay vẫn còn nhiều khó
khăn, bất cập.
Bộ Xây dựng đã ban hành QCVN10:2014/BXD về Xây dựng công trình đảm
bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng quy định các yêu cầu kỹ thuật bắt buộc phải
tuân thủ khi xây dựng mới hoặc cải tạo các công trình xây dựng để đảm bảo người
khuyết tật tiếp cận sử dụng gồm nhà chung cư và công trình công cộng. Theo đó,
công trình công cộng bao gồm: trụ sở làm việc của cơ quan Nhà nước; cơ sở khám,
chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình văn hóa, thể dục - thể thao; công
trình khách sạn, thương mại, dịch vụ; nhà ga, bến tàu, bến xe, đường, hè phố, hầm
đi bộ, cầu vượt, các công trình hạ tầng kỹ thuật và tiện ích đô thị khác (nhà tang lễ,
nghĩa trang, nhà vệ sinh công cộng, điểm chờ xe buýt, máy rút tiền tự động, điểm
truy cập internet công cộng…).
Mặc dù, đã có quy chuẩn cụ thể nhưng trên thực tế việc quan tâm xây dựng
các công trình công cộng đảm bảo thuận lợi cho người khuyết tật sử dụng của các
chủ đầu tư là không đồng đều. Các công trình chưa được chú ý là chợ, siêu thị, bưu
điện, nhà ga; công trình có tỷ lệ tiếp cận ít nhất là ngân hàng. Bên cạnh đó, các hạng
mục thiết kế trong một công trình cũng không hoàn thiện đầy đủ, chủ yếu chỉ hỗ trợ
ban đầu cho nhóm người khuyết tật vận động sử dụng xe lăn lên xuống bằng vệt
dốc, đường vào công trình, đường và hè phố… Một số công trình còn thi công, cải
tạo khá tùy tiện, vòng cua thường quá ngắn, đường tiếp cận quá dốc hoặc quá dài,
gây khó khăn cho người khuyết tật; nhiều đường dẫn thậm chí vừa dốc ngược vừa
không có tay vịn, khiến người khuyết tật không thể tự đi xe lăn lên hoặc có một số ít
công trình tuy bổ sung đường tiếp cận nhưng các hạng mục khác như chỗ ngồi, cầu
thang và nhà vệ sinh vẫn "nguyên trạng" khiến người khuyết tật không thể sử dụng;
đa phần các công trình đều chưa có biển báo, biển chỉ dẫn cho người khuyết tật.
Như vậy, người khuyết tật sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu như họ muốn tìm kiếm
việc làm tại những nơi này do môi trường làm việc không phù hợp đối với người
khuyết tật.
Trong thời gian tới, để giúp người người khuyết tật tái hòa nhập cộng đồng,
tiếp cận dễ dàng hơn đối với công trình xây dựng, giao thông cần nâng cao trách
nhiệm trong công tác quản lý Nhà nước, tăng cường hướng dẫn, thẩm định, kiểm
tra, giám sát thực hiện các quy định, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng để
người khuyết tật tiếp cận, sử dụng các công trình xây dựng, giao thông; xây dựng
một số mô hình thí điểm về tiếp cận, sử dụng các công trình xây dựng, giao thông
để phổ biến nhân rộng; tập huấn cho kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng và các đối tượng
hành nghề trong hoạt động thiết kế xây dựng. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền nâng
cao nhận thức của các cấp, các ngành, các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực đầu
tư, xây dựng. Tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật thiết kế, xây dựng công trình đảm
bảo người khuyết tật tiếp cận các công trình xây dựng tới các địa phương. Có chính
sách hỗ trợ lãi suất vay vốn đối với những doanh nghiệp đầu tư, cải tạo phương tiện
giao thông bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật cho người khuyết tật tiếp cận.
3.2.1.8. Cần tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật ở từng địa
phương và trong cả nước
Để thực hiện cam kết của Việt Nam khi phê chuẩn công ước Quốc tế về quyền
của người khuyết tật, thực hiện Luật Người khuyết tật, các cơ quan Trung ương cần
tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật ở từng địa phương và trong cả
nước để có cơ sở xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện chính sách.
Hiện nay, trong các hoạt động liên quan đến người khuyết tật ở Việt Nam, con
số được nhắc đến nhiều nhất đều dựa vào kết quả cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 2009. Theo Tổng cục Thống kê năm 2009, Việt Nam có khoảng 6,1 triệu người
khuyết tật trên tổng số 85,8 triệu dân, tương đương 7,8% dân số .
Trên thực tế hiện nay, các số liệu về người khuyết tật được rất nhiều Bộ,
ngành, đơn vị, tổ chức thu thập, báo cáo theo mục tiêu, mục đích, nguyên nhân gây
ra các dạng khuyết tật khác nhau mà chưa đưa vào một hệ thống quản lý chung,
biểu mẫu thống nhất để có thể sử dụng, phân tích số liệu phục vụ cho việc dự báo,
xây dựng chiến lược, chính sách, và triển khai thực hiện hiệu quả để trợ giúp người
khuyết tật.
Báo cáo đánh giá công tác trợ giúp xã hội năm 2015, định hướng giai đoạn
2016 - 2020 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra con số thống kê "Do hậu
quả của chiến tranh, tác động của già hóa dân số và đô thị hóa nên số đối tượng có
nhu cầu trợ giúp xã hội ở nước ta lớn, ước tính khoảng 20% dân số, gồm 9,4 triệu
người cao tuổi, 7,2 triệu NKT, 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…". Cũng
thống kê về số người có nhu cầu trợ giúp xã hội, Báo cáo tóm tắt nghiên cứu đánh
giá hệ thống chăm sóc xã hội ở Việt Nam của ông Nguyễn Hải Hữu (nguyên Cục
trưởng Cục Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em) lại đưa ra một con số khác "Nhu cầu trợ
giúp xã hội ở nước ta lớn, ước tính khoảng 20% dân số, gồm 9,4 triệu người cao
tuổi, 6,5 triệu người khuyết tật, 3,3 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…". Trong khi
đó, ở một hoạt động khác, con số mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra
lại là: Trong số 78,5 triệu người Việt Nam từ 5 tuổi trở lên năm 2009, có 6,1 triệu
người tương ứng với 7,8% dân số có khó khăn trong việc thực hiện ít nhất một
trong 4 chức năng nhìn, nghe, vận động và tập trung hoặc ghi nhớ. Trong đó có
387.384 người khuyết tật nặng được nhận hỗ trợ hàng năm .
Như vậy, chỉ xét về khái niệm, nhóm đối tượng là người khuyết tật đã mở
rộng hơn so với tiêu chí được xét để điều tra năm 2009. Cùng với đó, cuộc tổng
điều tra được tiến hành cách đây đã 8 năm, trong điều kiện, hoàn cảnh tuổi thọ trung
bình của người khuyết tật ngắn, số người khuyết tật có xu hướng gia tăng do các
nguyên nhân chủ quan, khách quan. Vì vậy, tính chính xác của con số cũng có nhiều
biến động.
Trong các nhóm đối tượng là người khuyết tật, số người khuyết tật vận động
có xu hướng tăng cao do tai nạn lao động và tai nạn giao thông cũng như do một số
bệnh tật như teo cơ. Mỗi năm tăng lên khoảng từ 30 - 40.000 người. Số người
khuyết tật nghe, nói chiếm tỷ lệ tương đối lớn và đang gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình hòa nhập, đặc biệt là về tiếp cận, giáo dục, học nghề và giải quyết việc
làm. Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu quy mô toàn quốc nào để có
những số liệu chính xác, mang tính tổng thể về số lượng người khuyết tật nhìn,
những dạng khiếm thị, độ tuổi, giới tính, nguyên nhân, tâm lý, nhu cầu thông tin/tài
liệu/các dạng dịch vụ & sản phẩm thông tin mà những người khiếm thị quen sử
dụng... Con số vẫn thường được nhắc đến là khoảng 2 triệu người mù lòa, 1/3 trong
số đó là người nghèo không có tiền điều trị mang lại ánh sáng…
Sự gia tăng của chứng rối loạn tự kỷ cũng là một vấn đề đáng lưu tâm. Cách
đây khoảng 30 năm, người ta không nói đến dạng tật này và trong cuộc điều tra năm
2009 cũng không nhắc đến. Nhưng những năm gần đây, tình trạng trẻ tự kỷ có xu
hướng tăng nhanh đặt ra nhiều vấn đề phức tạp về cơ hội học tập, thụ hưởng các
chính sách ưu đãi của nhà nước…. Hiện, rối loạn tự kỷ đang được xếp trong nhóm
"khuyết tật khác" của Luật Người khuyết tật, tuy nhiên, theo cộng đồng người
khuyết tật nói chung và các hội, nhóm của cha mẹ trẻ khuyết tật nói riêng, trẻ tự kỷ
cần được đưa vào Luật với vị trí là một nhóm riêng thay vì gộp chung với các
khuyết tật khác vì những đặc điểm khu biệt của nhóm đối tượng này.
Số người khuyết tật tinh thần trước đây không được tính vào số người khuyết
tật nhưng theo phân loại mới trong Luật thì cần phải thống kê những người này.
Đây là một con số rất lớn. Đối tượng khuyết tật thần kinh, tâm thần bao hàm rất
rộng và việc xác nhận khuyết tật cũng không hề dễ dàng, điều này dẫn đến không ít
khó khăn trong công tác thống kê, phân loại.
Ngoài ra, vấn đề về số người khuyết tật hỗn hợp hiện nay đang gia tăng đáng
kể trong cộng đồng xã hội, vấn đề gia tăng dân số (trên 90 triệu người)… cũng
khiến cho các số liệu báo cáo không còn tính tuyệt đối mà chỉ là ước lượng dựa trên
kết quả điều tra năm 2009. Nếu phân tích các nhóm đối tượng như trên, tổng số
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay không chỉ dừng lại ở con số 6,1 triệu người
và 7,8% dân số. Nhìn vào cơ cấu dân số Việt Nam, chúng ta thấy số người khuyết
tật có thể lên tới 15 triệu người (13,35% dân số).
Cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 sử dụng khung phân loại quốc tế
về chức năng, khuyết tật và sức khỏe của Tổ chức Y tế thế giới để xác định tình
trạng sức khỏe và khuyết tật, sử dụng bộ câu hỏi ngắn trọng tâm về tình trạng
khuyết tật do nhóm Washington về thống kê khuyết tật xây dựng. Tuy nhiên, bộ câu
hỏi này không bao phủ tất cả các loại hình khuyết tật, do đó hạn chế trong việc đưa
ra một bức tranh toàn diện về tình trạng cũng như mức độ khuyết tật trong từng
cộng đồng.
Sau khi Luật người khuyết tật được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01-01-
2011, hàng loạt các Nghị định, Quyết định, thông tư, hướng dẫn thực hiện chính
sách liên quan đến người khuyết tật đã được ban hành và đi vào thực tiễn, nhưng
con số thống kê vẫn không hề thay đổi, thiếu sự thống nhất. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ tới việc triển khai có hiệu quả các chính sách pháp luật của Nhà nước
liên quan đến người khuyết tật, đặc biệt là việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch,
chương trình dài hạn, ngắn hạn hỗ trợ người khuyết tật, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong điều kiện đó, cần thiết phải tổ chức riêng một cuộc điều tra cụ thể về số
lượng, độ tuổi, giới tính, phân loại, phân dạng khuyết tật thật cụ thể, chi tiết để làm
cơ sở cho việc triển khai thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước.
Việc thiếu một hệ thống thông tin toàn diện về người khuyết tật đã gây nên
không ít khó khăn trong việc hỗ trợ nhóm đối tượng này thụ hưởng các chính sách
ưu đãi của Nhà nước cũng như hòa nhập cộng đồng. Việc cải tiến, xây dựng hệ
thống thông tin thống nhất và phù hợp là thực sự cần thiết.
3.2.1.9. Tăng cường xã hội hóa công tác đào tạo nghề, tạo việc làm cho người
khuyết tật
Để đảm bảo và chăm sóc cho người khuyết tật, Đảng, Nhà nước đã ban hành
nhiều Đề án, chính sách về an sinh xã hội, tạo việc làm, dạy nghề cho các đối tượng
này. Nhiều văn bản đã được ban hành như Bộ luật Lao động, Luật Người khuyết
tật... tạo cơ sở triển khai các chính sách đến người khuyết tật tại các địa phương.
Nhờ đó đến nay đã có nhiều địa phương thành lập và bố trí kinh phí từ Quỹ việc
làm cho người khuyết tật để hỗ trợ, tạo việc làm; đã có hơn 15.000 lao động là
người khuyết tật và hơn 16.000 lao động khuyết tật khác đang làm việc trong các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình hoặc được hỗ trợ từ Quỹ việc
làm. Trong số những người khuyết tật được hỗ trợ về dạy nghề, tạo việc làm có gần
41% người nhận được tư vấn về học nghề, tư vấn việc làm và giới thiệu việc làm,
gần 18% người được miễn, giảm học phí... Bên cạnh đó, số cơ sở dạy nghề ở Việt
Nam đã tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, đã có 156 cơ sở dạy nghề
tham gia dạy nghề cho người khuyết tật, trong đó 55 cơ sở dạy nghề chuyên biệt,
200 cơ sở tham gia dạy nghề cho người khuyết tật, trên 500 cơ sở sản xuất, kinh
doanh của người khuyết tật.
Các tổ chức của người khuyết tật cũng đóng góp tích cực vào việc gia tăng số
người khuyết tật học nghề, tạo việc làm hàng năm. Báo cáo của 63 tỉnh, thành phố
giai đoạn 2012-2017 cho thấy, mỗi năm các tổ chức này đã dạy nghề, hỗ trợ hàng
chục nghìn người khuyết tật có việc làm.
Tuy nhiên, công tác dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật vẫn còn nhiều
khó khăn, thách thức. Trong đó, việc đào tạo và hỗ trợ việc làm cho người khuyết
tật phần lớn là tư vấn, chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các trung tâm dịch vụ việc
làm với các doanh nghiệp, do đó rất ít người khuyết tật tìm được việc làm ổn định.
Việc tự tạo việc làm cho người khuyết tật đã, đang triển khai chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn. Tỷ lệ người khuyết tật có việc làm trong các cơ sở kinh doanh
thấp, khoảng trên dưới 10%, còn lại là lao động tự làm, lao động hộ gia đình, tham
gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh ở địa phương với các công việc chủ yếu
trong lĩnh vực nông nghiệp, bấp bênh, có thu nhập thấp.
Trong những năm tới, số lượng người khuyết tật sẽ tiếp tục gia tăng, đời sống
của người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật thuộc hộ nghèo, ở vùng thường
xuyên bị thiên tai, vùng sâu, vùng xa còn rất nhiều khó khăn. Do đó cần nhiều hơn
nữa quyết tâm, nỗ lực chung tay hành động của các cấp, các ngành, sự sẻ chia của
các tổ chức, cá nhân đối với người khuyết tật; cần nhiều hơn nữa "chiếc cầu" để
người khuyết tật có điều kiện, cơ hội được làm việc và ổn định cuộc sống; trong đó
đẩy mạnh xã hội hóa dạy nghề, tạo việc làm là yếu tố vô cùng quan trọng giúp
người khuyết tật có cơ hội có việc làm ổn định để hòa nhập với xã hội.
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể bảo đảm quyền làm việc của người khuyết
tật từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng và sự phối hợp
của chính quyền các cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bảo đảm quyền
làm việc cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố. Cấp ủy các cấp cần ban hành
văn bản chỉ đạo các đơn vị, địa phương xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai
thực hiện trợ giúp người khuyết tật hàng năm, đưa chỉ tiêu dạy nghề, tạo việc làm
cho người khuyết tật vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và xây
dựng cơ chế phối hợp liên ngành để thực hiện có hiệu quả mục tiêu, kế hoạch đã đề
ra.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người khuyết tật và các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật người khuyết tật đến các tầng lớp nhân dân trong toàn thành phố,
nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về người khuyết tật; tăng cường sự tham gia
của người dân, là người khuyết tật vào các hoạt động của Đề án trợ giúp người
khuyết tật, từ việc xác định đối tượng, lập kế hoạch, triển khai thực hiện ở Tổ dân
phố, khu vực, ấp, xã, phường, quận/huyện đến quản lý nguồn lực, giám sát và đánh
giá trong toàn thành phố.
Thứ ba, xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án dạy nghề - tạo
việc làm dành riêng cho người khuyết tật chứ không lổng ghép trong tổng thể
chương trình mục tiêu quốc gia về dạy nghề - tạo việc làm cho lao động nông thôn
như hiện nay. Cần gắn kết chính sách việc làm cho người khuyết tật với kế hoạch
tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội của địa phương và tập trung phát triển bền
vững.
Ngoài ra, thành phố cần có quy định ưu tiên, hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm
cho người khuyết tật. Trên cơ sở danh mục nghề đào tạo cho người khuyết tật, định
mức chi phí đào tạo cho từng nghề, các địa phương cần đa dạng hóa các hình thức
dạy nghề cho người khuyết tật như việc hỗ trợ thông qua cơ sở dạy nghề hoặc các tổ
chức người khuyết tật, tổ chức vì người khuyết tật, đặc biệt là các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ có sử dụng người khuyết tật.
Thứ tư, đề nghị các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu điều chỉnh định mức phân
bổ ngân sách cho chi đảm bảo xã hội từ bằng đến cao hơn các lĩnh vực khác.
Việc tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi dành cho người khuyết tật còn đang gặp
nhiều bất cập từ cả chính sách lẫn thực thi, do đó, cần có những chính sách hiệu quả
giúp người khuyết tật tham gia nhiều hơn vào thị trường vì lợi ích của mỗi người và
của toàn xã hội.
Hàng năm, cần đề xuất tăng cấp bổ sung vốn cho Quỹ quốc gia về việc làm;
xem xét bố trí nguồn vốn dành riêng cho vay ưu đãi đối với người khuyết tật và các
doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật trong Quỹ quốc gia về việc làm
hoặc ngân sách riêng dành cho người khuyết tật vay vốn. Bên cạnh đó, cần khuyến
khích các nguồn lực từ ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác ủy thác sang
Ngân hàng chính sách xã hội để cho vay đối với người khuyết tật. Chỉ đạo Ngân
hàng chính sách xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh rà soát lại việc thực hiện chính
sách này trên phạm vi toàn thành phố để đảm bảo tất cả địa phương đã, đang thực
hiện đúng chương trình vay vốn ưu đãi về giải quyết việc làm cho người lao động là
người khuyết tật, đối với địa phương chưa thực hiện thì cần có văn bản đôn đốc,
nhắc nhở thực hiện. Bên cạnh đó, Cấp ủy, chính quyền thành phố tiếp tục có sự
quan tâm bố trí nguồn lực từ ngân sách của thành phố và các nguồn vốn hợp pháp
khác ủy thác sang Ngân hàng Chính sách Xã hội để cho vay đối với người khuyết
tật trên địa bàn. Ngoài ra, có sự phối hợp chặt chẽ hơn để nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng chính sách; lồng ghép hiệu quả các chương trình với hoạt động tín
dụng chính sách.
Quan tâm tăng cường phổ biến chương trình vay vốn ưu đãi dành cho người
lao động là người khuyết tật giải quyết việc làm trên phạm vi cả nước thông qua các
hoạt động tuyên truyền trên loa, báo, đài, thông tin truyền thông, website, và phát tờ
rơi về cho từng hộ gia đình. Ngoài ra, cần liên kết phối hợp với cơ quan hành chính
quản lý lĩnh vực lao động, thương binh, xã hội cấp địa phương để chia sẻ thông tin
với tất cả người khuyết tật và gia đình họ về chương trình này.
Thứ năm, thúc đẩy triển khai các mô hình hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận giáo
dục, học nghề, tạo việc làm, tiếp cận giao thông, công trình xây dựng, phương tiện
thông tin và các mô hình sinh kế, mô hình tự lực...
Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ việc làm. Hoạt động của các trung tâm giới
thiệu việc làm cần chú trọng đến hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị
trường lao động. Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các trung tâm giới thiệu việc
làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động.
Thời gian tới, các trung tâm dịch vụ việc làm cần khảo sát nhu cầu tuyển dụng
của các doanh nghiệp, nhất là nhu cầu sử dụng lao động là người khuyết tật, trên cơ
sở đó xây dựng kế hoạch mở sàn giao dịch việc làm dành riêng để tư vấn, giới thiệu
việc làm cho người khuyết tật. Cùng với đó, cung cấp thông tin tuyển dụng, thị
trường lao động cho người khuyết tật và gia đình của họ. Trên cơ sở đó, định hướng
để người khuyết tật chọn nghề học, việc làm phù hợp. Các cơ sở dạy nghề sẽ mở
rộng và đa dạng các hình thức học nghề một cách linh động phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện của người khuyết tật; tổ chức dạy nghề lưu động tại các xã, liên kết đào
tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người khuyết tật.
Tổ chức các hoạt động Ngày hội việc làm lồng ghép cho người khuyết tật. Đó
là việc mở những gian hàng tuyển dụng lao động khuyết tật trong những phiên chợ
giao dịch việc làm do Trung tâm Dịch vụ việc làm phối hợp với các đơn vị, huyện,
thành phố tổ chức. Qua hoạt động này, nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến
người khuyết tật; trong đó có chính sách dạy nghề, tạo việc làm phù hợp với người
khuyết tật; hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng, năng lực của bản thân; tạo
điều kiện để người khuyết tật vươn lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động kinh
tế - xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã hội; tạo điều kiện cho người khuyết
tật được tư vấn nghề nghiệp phù hợp và có cơ hội việc làm tại các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh, tiếp cận thị trường lao động.
Ngoài ra, ngành chức năng sẽ triển khai chính sách ưu đãi trong hỗ trợ học
nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Hàng năm, giao chỉ tiêu cụ thể cho
từng cơ sở dạy nghề công lập trong việc dạy nghề cho người khuyết tật; tăng cường
hỗ trợ phương tiện đi lại cho người khuyết tật để họ dễ dàng di chuyển, tiếp cận với
các dịch vụ; phát triển mạng lưới tổ chức dịch vụ việc làm (giới thiệu việc làm,
hướng nghiệp, học nghề, giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật); tăng định mức
hỗ trợ cho các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật để thu hút người khuyết tật vào
học nghề; đối với nhóm người khuyết tật không tiếp cận được với trường lớp cần có
chương trình đào tạo phù hợp, mô hình sinh kế phù hợp tại gia đình, cộng đồng; tạo
cơ cơ chế chính sách thông thoáng về vốn để người khuyết tật và gia đình có thể dễ
dàng tiếp cận phát triển kinh tế; các cơ sở y tế liên quan đến chỉnh hình, phục hồi
chức năng cần trang bị kỹ thuật, đội ngũ nhân lực thực hiện tốt hoạt động phục hồi
chức năng cho người khuyết tật...
Phổ biến và triển khai các chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp khi nhận
người khuyết tật vào làm việc như: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, được vay vốn
ưu đãi, ưu tiên thuế đất…
Thứ sáu, cần đẩy mạnh việc nâng cao trình độ văn hóa cho người khuyết tật.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tạo cơ hội học nghề của người
khuyết tật bị hạn chế, cũng như việc người khuyết tật thường học các nghề đơn
giản, trình độ thấp dẫn đến công việc và thu nhập không ổn định là do trình độ văn
hóa của người khuyết tật còn thấp, ít người được tham gia học tập. Vì vậy, để nâng
cao việc dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật, đặc biệt là những ngành nghề
có trình độ chuyên môn và thu nhập cao thì cần phải nâng cao trình độ văn hóa của
người khuyết tật. Đây được xem là giải pháp có tính căn bản để giải quyết vấn đề
này.
Thành phố cần có chính sách hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho giáo
viên trực tiếp dạy trẻ khuyết tật trí tuệ, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn, khuyết
tật ngôn ngữ, tự kỷ; cung ứng các tài liệu học tập hỗ trợ cho học sinh khiếm thính,
sách chữ nổi cho học sinh khiếm thị, học sinh khuyết tật; giao Sở Giáo dục và Đào
tạo triển khai thực hiện tốt các chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập
và cho vay đối với sinh viên là người khuyết tật theo Nghị định 86/2015/NĐ-CP.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức của người
khuyết tật. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ
chức của người khuyết tật theo phương châm "Tăng cường đoàn kết, chủ động vươn
lên, bình đẳng, hòa nhập với cộng đồng". Đề cao trách nhiệm và sự chủ động của
các tổ chức của người khuyết tật trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ, các
phong trào, các cuộc vận động trong người khuyết tật. “Tạo điều kiện cho tổ chức
của người khuyết tật có đủ năng lực tham gia thực hiện các dịch vụ công của Nhà
nước” [2]. Thường xuyên giới thiệu, tuyên truyền để nhân rộng trong cả nước
những tấm gương tiêu biểu vượt khó vươn lên của người khuyết tật, những cách
làm hay trong hoạt động của các tổ chức của người khuyết tật.
Thứ tám, tăng cường vận động sự hỗ trợ từ các tổ chức trong nước cũng như
nước ngoài về các hoạt động trợ giúp người khuyết tật.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động tôn vinh Người lao động khuyết tật và
doanh nghiệp vì người khuyết tật, nhằm thúc đẩy vai trò chủ động, tích cực, tự tin
của người khuyết tật tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội, góp phần giảm bớt
khó khăn cho gia đình và xã hội; động viên, khích lệ kịp thời người khuyết tật có
tinh thần giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ vươn lên trong cuộc sống.
Tiếp tục khơi dậy truyền thống "Thương người như thể thương thân" của dân
tộc Việt Nam, đồng thời, vận động các tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội cùng
tham gia giúp đỡ để người khuyết tật có thêm động lực vượt qua khó khăn vươn lên
trong cuộc sống. Tạo cơ hội cho người khuyết tật, người bảo trợ tiêu biểu được giao
lưu, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau trong lao động, học tập và chăm sóc
người khuyết tật một cách tốt nhất.
Thứ chín, tăng cường công tác giám sát, đánh giá.
Thành phố cần xây dựng hệ thống bộ chỉ tiêu giám sát, đánh giá; định kỳ xây
dựng kế hoạch liên ngành kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các ngành, đơn vị,
địa phương và tổ chức sơ, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm.
Định kỳ 6 tháng, 1 năm; các ngành, hội, đoàn thể, địa phương báo cáo kết quả
hoạt động về Ủy ban nhân dân thành phố (thông qua Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội cơ quan thường trực để tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố được
biết để chỉ đạo kịp thời).
Thứ mười, xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật và công tác chăm sóc,
trợ giúp người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Sớm tổ chức các cuộc điều tra khảo sát thực trạng người khuyết tật và công tác
chăm sóc, trợ giúp người khuyết tật trên địa bàn thành phố làm cơ sở để đánh giá
kết quả đã đạt được; hoạch định các mục tiêu, chỉ tiêu trợ giúp người khuyết tật cho
phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương.
Triển khai thực hiện dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đối
tượng người khuyết tật. Đưa danh sách người khuyết tật lên cổng thông tin điện tử
của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở lý luận về bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật, từ thực
trạng bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, chương 3 luận văn đã phân tích, luận giải 8 phương hướng bảo đảm quyền
làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay. Đồng thời, luận văn cũng đã căn cứ vào các nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan của hạn chế bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay để đề xuất 9 nhóm giải pháp chung và
9 nhóm giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
KẾT LUẬN

Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo cuộc
sống và sự phát triển toàn diện. Quyền làm việc của mọi người trong đó có người
khuyết tật đã được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và đã được cụ thể hoá trong Bộ luật Lao động (2012, sửa đổi 2019), Luật
Người khuyết tật (2010) và các văn bản luật có liên quan. Việc làm, giải quyết việc
làm cho người lao động nói chung và người khuyết tật nói riêng là một trong những
ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng người khuyết tật sống nghèo
khổ, bị kỳ thị, coi thường... đó là do họ tạm thời hoặc vĩnh viễn không có việc làm,
nên không có nguồn thu nhập cần thiết để trang trải cuộc sống hàng ngày cho bản
thân. Bảo đảm quyền làm việc và thu nhập cho người khuyết tật sẽ giúp dần xóa bỏ
sự kỳ thị, thiếu tôn trọng đối với người khuyết tật trong xã hội.
Người khuyết tật cũng là một nguồn lao động chưa được khai thác đối với nền
kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia
và cam kết tuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là
việc nỗ lực hoàn thiện và thực thi hệ thống pháp luật về quyền con người, nguyên
tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử, đảm bảo và phát huy các quyền của con
người trong đó có quyền của người khuyết tật. Chính vì vậy, bảo đảm quyền làm
việc cho người khuyết tật có ý nghĩa xã hội rất to lớn.
Trong bối cảnh chung đó, thành phố Hồ Chí Minh đặt nội dung chăm lo giải
quyết việc làm cho người khuyết tật trở thành nhiệm vụ cơ bản và cấp bách, đòi hỏi
mỗi cấp, mỗi ngành và mỗi địa phương trên địa bàn thành phố phải quan tâm thực
hiện.
Trong thời gian qua, cấp uỷ chính quyền các cấp và các tổ chức chính trị xã
hội, đã và đang nỗ lực tìm cách hỗ trợ người khuyết tật, từ việc giải quyết chế độ trợ
cấp cho người khuyết tật nói chung, đặc biệt là chế độ việc làm đối với người
khuyết tật nhằm giải quyết việc làm cho người khuyết tật, giúp họ vượt qua những
rào cản, có những công việc phù hợp với trình độ và sức khỏe, để từng bước ổn
định cuộc sống. Bảo đảm việc làm và thu nhập cho người khuyết tật là cách cơ bản
nhất để người khuyết tật nhận ra những khả năng thực sự của mình, đồng thời
chứng minh được giá trị của bản thân mình trước mọi người. Ngoài ra, việc người
khuyết tật tham gia lao động, làm việc và có thu nhập nuôi sống được bản thân và
gia đình, mà còn giúp cho họ có được địa vị bình đẳng hơn trong gia đình và xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, bảo đảm quyền làm việc của người khuyết
tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập,
do đó cần xác định rõ phương hướng và thực hiện đồng bộ các giải pháp để bảo
đảm quyền làm việc của người khuyết tật trên địa bàn thành phố; góp phần tôn
trọng và bảo đảm quyền bình đẳng của người khuyết tật, thể hiện tính nhân văn, từ
đó góp phần phát triển kinh tế, xã hội của thành phố một cách bền vững trong bối
cảnh mới. Đặc biệt là trong bối cảnh do tác động tác động của già hóa dân số, ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu... dự báo trong những năm tới, số lượng người
khuyết tật sẽ tiếp tục gia tăng, đời sống của người khuyết tật, đặc biệt người khuyết
tật thuộc hộ nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh còn rất nhiều khó khăn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương (2018), Thông báo kết luận số 46-TB/TW ngày
06/02/2018 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010,
của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới, Hà
Nội.
2. Ban Bí thư Trung ương (2019), Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 1/11/2019,
của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
người khuyết tật. Hà Nội
3. Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD
(2010), Báo cáo thường niên năm về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật
Việt Nam, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: “Tình hình kinh tế xã hội Thành phố Hồ Chí
Minh tháng 12 và năm 2019, tại trang http://www.mpi.gov.vn [truy cập
ngày 02/02/2020].
6. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư (2005), Thông tư Liên tịch số 19/2005/TTLT/BLĐTBXH-BTC-
BKHĐT ngày 19/5/2005 về lao động là người tàn tật do Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban
hành, để hướng dẫn thi hành nghị định số 81/CP ngày 23/11/1995 và
nghị định số 116/2004/NĐ-CP ngày 23/4/2004 sửa đổi, bổ sung một số
điều của nghị định số 81/Cp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của bộ luật lao động về lao động là người tàn tật, Hà Nội.
7. Bộ Lao động Thương binh và xã hội (2016), Rà soát pháp luật Việt Nam
để tiến tới phê chuẩn Công ước số 159 về phục hồi chức năng lao động
và việc làm cho người khuyết tật, Hà Nội.
8. Hà Đình Bốn (2010), "Luật người khuyết tật", Tạp chí Luật học, (5).
9. Chính phủ (2012), Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Người khuyết tật, Hà Nội.
10. Chính phủ (2015), Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của
Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia
về việc làm, Hà Nội.
11. Chính phủ (2019), Nghị định 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019 của Chính
phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2015/NĐ-CP
ngày 09 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ
tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, Hà Nội.
12. Dương thị Chung (2012), Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật từ
thực tiễn Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
13. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2019), Niên giám thống kê năm
2019.
14. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2019), “Chuyên đề kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía nam, năm 2019”,
http://www.pso.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/ketquadieutra, cập nhập
ngày 24/4/2020.
15. Mạnh Dũng (2017), Tạo cuộc sống bền vững cho người khuyết tật, tại
trang http://giadinhvatreem.vn/LDTBXH/Tao-cuoc-song-ben-vung-cho-
nguoi-khuyet-tat-24957, [truy cập ngày 04/02/2020].
16. Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung
và Robert Leroy Bach (2005), Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi
ở Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
17. Trần Thái Dương (2018), Bảo đảm quyền lao động và việc làm của
người khuyết tật ở Việt Nam và việc gia nhập Công ước 159 của ILO, tại
trang http://www.nguoibaovequyenloi.com/User/Thong
Tin_ChiTiet.aspx?MaTT=93201865518865127&MaMT=23, [truy cập
ngày 12/4/2020].
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương Lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Ngọc Điệp (2015), Bảo đảm quyền lao động của người khuyết tật, tại
trang http://daibieunhandan.vn/ONA_BDT/NewsPrint.aspx?newsI
d=364, [truy cập ngày 12/4/2020].
21. Đinh Thị Cẩm Hà (2014), "Bảo đảm việc làm và thu nhập cho người
khuyết tật", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (21), tr.51.
22. Hoàng Kim Khuyên (2017), "Thực trạng các quy định về việc làm đối
với người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, (02), tr.49.
23. Trần Thuý Lâm (2013), "Việc làm đối với người khuyết tật - từ pháp luật
đến thực tiễn thực hiện", Tạp chí Luật học, (10).
24. Liên Hợp quốc (1948), Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền.
25. Liên Hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa
và xã hội.
26. Liên Hợp quốc (2006), Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật.
27. Liên Hợp quốc (2007), Công ước Quốc tế về các Quyền của Người
Khuyết tật.
28. Nguyễn Bích Ngọc (2016), Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật
Việt Nam hiện hành, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
29. Trần Thị Tuyết Nhung (2018), Quyền có việc làm của NLĐ - tiếp cận
dưới góc độ quyền con người, tại trang http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/
tintuc/Pages/xay-dung-phap luat.aspx?ItemID=182, [truy cập ngày
04/02/2020].
30. PV (2018), Chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp của thương binh và
người khuyết tật: Còn nhiều bất cập, tại trang http://hoanhap.vn/bai-
viet/chinh-sach-uu-dai-doi-voi-dn-cua-thuong-binh-va-nguoi-khuyet-tat-
-con-nhieu-bat-cap-26773, [truy cập ngay 12/4/2020].
31. Hoàng Thị Kim Quế (Chủ nhiệm) (2010), Hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, Đề tài nghiên cứu
khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Quế (2015), Quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Quốc hội (1959), Hiến pháp năm 1959, Hà Nội.
34. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980, Hà Nội.
35. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992, Hà Nội.
36. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
37. Quốc hội (2006), Luật Dạy nghề 2006, Hà Nội.
38. Quốc hội (2010), Luật Người Khuyết tật 2010, Hà Nội.
39. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động năm 2012, Hà Nội.
40. Quốc hội (2019), Bộ luật Lao động năm 2019 sửa đổi, Hà Nội.
41. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
42. Quốc hội (2013), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi 2013, Hà Nội.
43. Quỹ Dân số Liên Hợp quốc (2011), Báo cáo nghiên cứu người khuyết tật
ở Việt Nam, một số kết quả chủ yếu, Hà Nội.
44. Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh (2015),
Báo cáo số 1705/BC-SLĐTBXH ngày 21/7/2015 đánh giá 5 năm thực
hiện Luật Người khuyết tật và giữa kỳ đề án trợ giúp người khuyết tật
giai đoạn 2015 - 2019.
45. Sở Lao động Thương binh và xã hội thành phố Hồ Chí Minh (2019), Báo
cáo về kết quả thực hiện công tác người khuyết tật năm 2019 và kế
hoạch thực hiện nhiệm vụ năm 2020, .
46. Tạp chí Người bảo trợ (2016), Cơ sở dữ liệu về người khuyết tật - những
vấn đề còn bất cập, tại trang http://www.nguoibaotroonline.
vn/index.php/hoat-dong-hoi/nghien-cuu-trao-doi/10205-co-so-du-lieu-
ve-nguoi-khuyet-tat-nhung-van-de-con-bat-cap, [truy cập ngày
02/02/2020].
47. Trần Thế (2019), Thành phố Hồ Chí Minh: Bình quân một năm dân số
tăng bằng một quận, tại trang https://congthuong.vn/tp-ho-chi-minh-
binh-quan-mot-nam-dan-so-tang-bang-mot-quan-115743.html.
48. Tổ chức Lao động Quốc tế (1983), Công ước số 159 về phục hồi chức
năng và việc làm (người khuyết tật), Hà Nội.
49. Tổ chức Lao động Quốc tế (2010), Báo cáo khảo sát về Đào tạo nghề và
Việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam, Hà Nội.
50. Tổng cục Thống kê (2018), Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm
2018, Hà Nội.
51. Hồ Thị Trâm (2014), Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
52. Trung tâm từ điển học (1995), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
53. Mỹ Tú (2016), Vốn vay ưu đãi giúp người khuyết tật vươn lên, tại trang
http://www.quyhotronongdan.vn/sitepages/news/1126/47269/von-vay-uu-
dai-giup-nguoi-khuyet-tat-vuon-len, [truy cập ngày 12/4/2020].
54. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
55. UNFPA (2019), Người khuyết tật tại Việt Nam: Bằng chứng từ Tổng
điều tra dân số và Nhà ở năm 2019.
56. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2015), Kế hoạch số 43/KH-
UBND ngày 07/5/2014 kế hoạch trợ giúp người khuyết tật của thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2020, thành phố Hồ Chí Minh.
57. Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế (2010), Báo cáo khảo sát về Đào
tạo nghề và Việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam, Hà Nội.
58. Viện Khoa học xã hội, Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt (1992),
Nxb Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.

You might also like