You are on page 1of 37

KỊCH BẢN NHÓM 04

THUYẾT MINH CHƯƠNG TRÌNH DU LỊCH

Đà Nẵng - Sơn Trà - Bà Nà- Rừng Dừa - Hội An - 4N3D

Ngày Buổi Nội dung thuyết minh Cung đường Người Thời
đảm gian
nhận

1. S Xin chào Quý Đoàn và toàn thể các anh chị, em là Minh Thái. Thay mặt cho quý công ty, hôm nay sân bay Tân Sơn Minh 4g00
TP HCM - em sẽ là người cùng đồng hành với Quý Đoàn mình trong chuyến hành trình 4 ngày 3 đêm, khởi hành Nhất - sân bay Thái
Đà Nẵng - từ TP HCM - TP ĐN. Đà Nẵng -
Bán đảo Bây giờ Quý Đoàn mình sẽ làm thủ tục trước khi lên tàu bay, em xin phép được điểm danh và thu DANACITI
Sơn Trà - giấy tờ tùy thân là CCCD hoặc VNEID của người lớn và giấy khai sinh của các bé đi cùng bố mẹ. Hotel
Chùa Linh
Phước Dạ sau đó chúng ta sẽ di chuyển lên tầng 2 để qua cửa kiểm soát an ninh

Chúng ta sẽ tập trung tại cửa số 4 để ra tàu bay ạ

Quý đoàn mình sau khi nhận hành lý ký gửi sẽ tập trung tại cửa ra vào số 1 để chúng ta sẽ lên xe và
khởi hành tới chuyến thăm quan TP Đà Nẵng 5g00

Dạ em xin phép được điểm danh đoàn nhà mình ạ


(Đoạn này thêm giới thiệu bác tài - xe và hướng dẫn viên giúp tao nhá)

Dạ ông bà ta thường nói “Có thực mới vực được đạo” nên điểm đến đầu tiên trong hành trình của
chúng ta sẽ không phải là một điểm tham quan mà chính là nhà hàng Trần - nơi chế biến ra món ăn
trứ danh đặc sản của Đà Nẵng đó là món Bánh tráng thịt heo 2 đầu da & Mỳ Quảng.

Nổi tiếng là đặc sản xứ Đà đã từ lâu, những quán ăn phục vụ món bánh tráng cuốn thịt heo tỏa lan
khắp thành phố. Từ quán sang trọng đến góc phố bình dân, đâu đâu người ta cũng có thể tự thưởng
cho mình một phần bánh tráng vừa với túi tiền mà thơm ngon tròn vị.
Điều đặc biệt làm nên món ăn này bên cạnh bánh tráng + thịt luộc và rau đó chính là loại mắm nêm
ăn kèm. Chính loại mắm này đã làm nên sự khác biệt của món ăn.

Dạ không biết “điểm đến đầu tiên” của chúng ta có làm quý đoàn nhà mình hài lòng không ạ.
….
Vạn sự khởi đầu nan
Dạ em hy vọng sự hài lòng này có thể build tinh thần của chúng ta có thể thỏa mái buông xõa hết
mình cho chuyến hành trình 4 ngày sắp tới ạ. Em mong quý đoàn mình đi du lịch có thật là nhiều trải
nghiệm mới và thật thư giãn. enjoy cái moment này được không ạ

Tiếp theo chúng ta sẽ di chuyển về khách sạn để làm thủ tục và nghỉ ngơi để tiếp tục những lịch trình
vào buổi chiều ạ - Danaciti Hotel

C Dạ em xin được giới thiệu với quý đoàn, vào buổi chiều ngày hôm nay sẽ có anh Mai Văn Thi - là DANACITI Mai Thi
HDV địa phương - anh sẽ là người đồng hành cùng chúng ta trong chuyến hành trình này ạ. Hotel-Sơn
( xin chào quý đoàn nhà mình. Em là hướng dẫn viên của chuyến tham quan hôm nay và rất vui được Trà-chùa Linh
chia sẻ những điều tuyệt vời về điểm đến của chúng ta. Để bắt đầu, cho phép em tự giới thiệu. Em tên ứng
là Mai Văn Thi, và sẽ là người hướng dẫn quý đoàn nhà mình qua hành trình đáng nhớ này. )

Chúng ta sẽ di chuyển quãng đường khoảng 15km trong khoảng 30’ để tới bán đảo sơn trà

Giới thiệu vài nét về TP Đà Nẵng (Trên xe)


– Đà Nẵng là vùng đất nằm về phía Nam của đèo Hải Vân – Thiên hạ Đệ nhất Hùng quan, cách Hà
Nội 764km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh (Sài gòn) 964 km về phía Nam. Phía Bắc
Đà Nẵng giáp với tỉnh Thừa Thiên Huế (cách di sản VHTG cố đô Huế 110km), phía Nam giáp với
tỉnh Quảng Nam (cách di sản VHTG Hội An 30km và Thánh địa Mỹ Sơn 60km).

– Đà Nẵng là vùng đất thuộc Châu Lý (một trong 02 châu Ô và châu Lý – là 02 vùng đất được Vua
Chăm (Chế Mân) dâng làm sính lễ cho vua Đại Việt để xin cưới Công chúa Trần Huyền Trân – 1306).

Tên là Đà Nẵng? Người ta cho rằng nó bắt nguồn từ tiếng Chăm là Danak có nghĩa là sông lớn, thời
Pháp thuộc có tên là Tourane. Sau năm 1975, Đà Nẵng là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà
Nẵng. Đến năm 1997, Đà Nẵng được tách ra trở thành thành phố trực thuộc trung ương. Hiện nay, Đà
Nẵng là thành phố cảng 1 lớn thứ 3 và là một trong 04 thành phố lớn trực thuộc Trung ương với diện
tích đất rộng gần 1.255,53km2, trong đó đất liền chiếm gần 951,40km2, dân số 806.744 người (số liệu
năm 2007), gồm 6 quận: Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Cẩm Lệ và 2
huyện: Hòa Vang và Hoàng Sa. (Quần đảo Hoàng Sa – Cát Vàng là quần đảo có diện tích 350km2
cách ĐN 320km) người TQ gọi là Tây Sa, dưới triều Nguyễn, Hoàng Sa thuộc chủ quyền VN, năm
1974 Hải quân TQ sau khi đánh 3 tuần dương hạm của quân đội Sài gòn đã đổ bộ và chiếm đảo
Hoàng Sa)
Tên con sông Hàn? Theo nhà nghiên cứu Quách Đại Lãnh: bởi vì khi đứng từ thượng nguồn nhìn theo
dòng sông ra biển thì nó bị bán đảo Sơn Trà chắn lại. Theo người dân địa phương thì con sông này khi
ra đến cửa mà đông thường phù sa bồi đắp cửa sông nên Hàn lại.

Giới thiệu về Sơn Trà (Trên xe)


Sơn Trà thắng cảnh bao la
Trước sông sau biển rừng kề một bên

A/ Đặc điểm – Điều kiện tự nhiên


Bán đảo Sơn Trà là một điểm chấm cuối cùng, kết thúc của dãy núi Trường Sơn (Bắc), đâm thẳng ra
biển Đông cùng với núi Hải Vân, Sơn Trà có đỉnh cao nhất là 696m, chiều dài từ Đông sang Tây là
15km, chỗ rộng nhất khoảng 6km, hẹp nhất 2km, chu vi khoảng 50km, diện tích 4439ha, là lá chắn
khổng lồ, là buồng phổi xanh của đô thị Đà Nẵng.
Hệ động thực vật của Sơn Trà khá phong phú, có trên 100 loài, đặc biệt là các loài linh trưởng : voọc
chà vá – chân nâu loài quý hiếm gần như bị tuyệt chủng trên thế giới mà ở đây còn hơn 300 con.
Chúng ta sẽ được ngắm loại động vật đã được ghi vào sách đỏ thế giới trong tuyến xuyên rừng ở Sơn
Trà. Bên cạnh đó, ở đây còn có các loài động vật quý khác như; khỉ đuôi dài, khỉ vàng, gà Tiền mặt
đỏ, trăn Gấm. Sơn Trà còn có rừng nguyên sinh, cây cối bao phủ xanh bát ngát, 289 loài thực vật bậc
cao thuộc 217 chi, 90 họ, 64 loài cây gỗ lớn, 107 loài cây thuốc và cây cảnh. Trong đó có những loài
cây đặc hữu của bán đảo Đông Dương mà ngày nay chỉ còn tìm thấy ở bán đảo Sơn Trà như Dầu lá
bóng, Chò chai, Chò chỉ, Chò đen, Sơn huyết, Bài lái, Trâm bầu, U xoáy, Cầm thị, Mắt ó, Lồng mứt,
Dẻ sạn… cùng nhiều loại cây ăn trái như Dâu hồng, Sim, Trâm… Do đặc điểm tự nhiên đó, năm
1980, bán đảo Sơn Trà được công nhận là Khu bảo tồn Rừng đặc dụng quốc gia, được bảo tồn nghiêm
ngặt với tên gọi “Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà”.

B/Lịch sử hình thành :


Thời xa xưa, Sơn Trà là một hòn đảo gồm 3 ngọn núi nhô cao. Ngọn phía Đông Nam trông như hình
con Nghê chồm ra biển nên gọi là ngọn Nghê, ngọn phía Tây hình dạng như cái mỏ con diều hâu nên
gọi là ngọn Mỏ Diều và ngọn phía Bắc vươn về phía cửa biển dài như cổ ngựa nên gọi là ngọn Cổ
Ngựa. Qua thời gian lâu dài, dòng nước biển chảy ven bờ đã tải phù sa bồi đắp dần hình thành doi đất
chạy từ đất liền ra đảo. Bán đảo Sơn Trà hình thành từ đó
– Bán đảo Sơn Trà còn có tên là núi Tiên Sa gắn liền với truyền thuyết cảnh đẹp nơi đây đã quyến rũ
các nàng tiên trên trời xuống đây để du chơi, thưởng ngoạn.

– Dân địa phương gọi là núi Sơn Trà hay Sơn Chà bởi họ nói rằng bán đảo này có nhiều loài chà vá
chân nâu. Trong kháng chiến 9 năm chống Pháp, Sơn Trà là căn cứ mật khu của Khu Đông (Đà Nẵng)
với mật hiệu là căn cứ Diên An.
– Đối với các nhà quân sự Sơn Trà có vị trí chiến lược hết sức quan trọng của VN nói riêng và Đông
Nam Á nói chung. Vì vậy mà không phải ngẫu nhiên 02 lần xâm lược VN thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ đều chọn Sơn Trà làm điểm tấn công đổ bộ đầu tiên. Đặc biệt Mỹ đã cho xây dựng nơi đây làm cơ
sở trọng yếu về mọi mặt
– Năm 1965, khi đặt trạm thông tin và ra đa trên núi, quân Mỹ đã gặp rất nhiều loài linh trưởng sống
từng bầy trên núi nên đặt tên là núi Khỉ (Monkey Mountain).
Từ đỉnh Sơn Trà, có thể nhìn bao quát toàn bộ Vịnh Đà Nẵng, vì thế mà ngay từ đầu thế kỷ XIX, các
vị vua triều Nguyễn đã cho lập pháo đồn phòng thủ, đài quan sát tiền tiêu ở đây.
Trong giai đoạn 1858 – 1975 thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nhận định rằng bán đảo Sơn Trà có vị trí
chiến lược quân sự, là bàn đạp tấn công vào Việt Nam. Tháng 8 năm 1858 hạm đội liên quân Pháp –
Tây Ban Nha gồm 16 tàu chiến với 2.450 quân được trang bị vũ khí hết sức hiện đại nhất lúc bấy giờ
đổ bộ vào vịnh Đà Nẵng với kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” chiếm xong Đà Nẵng vượt qua đèo
Hải Vân thẳng tiến ra Huế buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, nhằm nhanh chóng kết thúc chiến
tranh xâm lược Việt Nam. Sau nhiều lần tấn công Đà Nẵng với cụm thành An Hải – Điện Hải không
thành, người Pháp đã xây dựng trên Sơn Trà những khu căn cứ – hậu cần để nhắm mục đích đánh
chiếm lâu dài. Tuy nhiên chúng đã không thực hiện được ý đồ xâm lược của mình. Ngày 23/3/1860
quân Pháp tự tay đốt phá đồn lũy và rút quân chạy khỏi vùng biển ĐN, để lại nơi đây một khu vực
chôn cất hàng ngàn binh lính và sĩ quan Pháp – Tây Ban Nha tử trận.

Ngày nay nghĩa địa Pháp – Tây Ban Nha (nghĩa địa Y Pha Nho) là minh chứng lịch sử không thể
quên về sự xâm lược của các thế lực thực dân trong thời kỳ VN cận đại, thể hiện rõ sự thất bại rút lui
của các thế lực thực dân trong đau đớn dưới chân núi Cảng Tiên Sa – Sơn Trà.
Vòng quanh bán đảo Sơn Trà có rất nhiều các bãi cát đẹp như Bãi Bang, Cổ Ngựa, Bãi Xếp, Bãi Bụt,
Bãi Bắc, Bãi Nam, Bãi Rạng và cả bãi tắm nước ngọt Đá Đen lấy nước từ các suối trên sườn núi. Sơn
Trà không chỉ giúp cho Đà Nẵng trở thành một khu an toàn về hàng hải mà còn là đài thiên văn độc
đáo về thời tiết một cách tốt nhất cho người dân sở tại:
“Đời ông cho chí đời cha
Mây phủ Sơn Trà không gió thì mưa”
Thật vậy, khi nhìn lên đỉnh núi, kể cả những lúc trời yên bể lặng mà thấy những đám mây quần tụ và
bao quanh núi Sơn Trà, thì tất yếu sẽ có gió, hoặc mưa, thời tiết chuẩn bị thay đổi. Người dân xưa
(nhất là ngư dân) khi chưa có phương tiện dự báo thời tiết hiện đại, thì họ chỉ dựa vào đặc điểm mây
trên Sơn Trà mà xét đoán thời tiết để ra khơi, vào lộng, tránh được những rủi ro đáng tiếc.
Đến với tour du lịch Sơn Trà quý khách sẽ được chiêm ngưỡng thành phố Đà Nẵng ở những độ cao
khác nhau, mỗi độ cao sẽ mang lại một cách nhìn, cảm nhận riêng về thành phố Đà Nẵng, như mỗi
cung bậc trong tình cảm con người chúng ta vậy.
Chúng ta sẽ đi các điểm đến như thuộc bán đảo Sơn Trà như Đài phát sóng DRT, Đồi Vọng
Cảnh, Trạm rada T29, Sân bay Trực thăng, Đỉnh bàn Cờ.

Chùa Linh Ứng (Tại điểm)

Khởi công xây dựng từ năm 2004 do Thượng tọa Thích Thiện Nguyện vận đồng làm chùa. Toạ lạc
trên diện tích khoảng 12 ha. Linh Ứng – linh thiêng và ứng nghiệm tên này được Vua Thành Thái đặt
vào năm 1891. Cùng với Linh Ứng Non Nước, Linh Ứng Bà Nà, Linh Ứng Bãi Bụt tạo nên thế chân
Vạc vững vàng nơi thế giới tâm linh trong nhà Phật
Đặc biệt vào lúc 11h00 ngày 16/8/2008, trong khi thi công xây dựng Tượng Phật Bà thì thợ thi công
đã thấy ánh hào quang xuất hiện. Quý khách có thể thấy hình ảnh ánh hào quang ở khu vực nhà tiếp
đón của Chùa. Đây là hình ảnh chụp lại bằng máy ảnh thường không phải là máy ảnh kỹ thuật số, để
cho thấy sự linh thiêng của ngôi chùa này.
Ngôi chùa này ở thế dựa vào núi, trước mặt là biển, bên trái là dãy Trường Sơn là tả thanh long, bên
phải là Cù Lao Chàm là hữu bạch hổ.
Theo thiết kế Ngôi Chùa này sẽ xây dựng thêm các khu theo 4 giai đoạn của Phật : sinh ra, thành
phật, giảng thuyết, nhập niết bàn. Trước mắt quý khách là Khu thư viện của Chùa, tương lai nơi đây
sẽ là nơi đào tạo phật học của Đà Nẵng.
Người ta kể lại rằng, từ khi chùa được xây nên thì dường như cả Thành phố Đà Nẵng đều được chở
che, bảo vệ, những cơn bão dần ít đi, đời sống người dân cũng ngày càng tốt hơn, ấy thế nên người
dân Đà Nẵng tin tưởng vào Phật là vậy.

Hoạt động tiếp theo của chúng ta sẽ là tắm biển tại bãi biển Sơn Trà. Quý đoàn chúng ta có thể lựa
chọn ra biển hoặc tiếp tục nghỉ ngơi ở khách sạn.
Dạ khoảng 18g30 xe sẽ đón đoàn chúng ta để đi ăn tối ạ.

T Mai Thi

Dạ 7g00 sáng mai, Đoàn chúng ta sẽ sử dụng điểm tâm sáng tại khách sạn. 8g00 mình sẽ khởi hành
tới khu du lịch Bà Nà Hill. Em hy vọng rằng chúng ta đã có ngày đầu tiên thật tuyệt tại TP Đà Nẵng.
Em xin chúc Quý Đoàn sẽ nghỉ ngơi và ngủ ngon giấc để tái tạo năng lượng cho ngày thứ 2 với nhiều
hoạt động thú vị.
Trong chương trình hoạt động ngày mai chúng ta sẽ di chuyển khá nhiều, chúng ta có thể đem đồ để
thay hoặc mang những đôi dép vừa phải để di chuyển ạ
2 S Du khách sẽ dùng điểm tâm sáng DANACITI Bích 8g00
Đà Nẵng - Dạ em xin thông báo lịch trình của ngày hôm nay Đoàn chúng ta sẽ khởi hành đi Khởi hành đi khu du Hotel-Bà Nà Nương
Bà Nà Hills lịch Bà Nà Hill Hill

Khu du lịch Bà Nà Hill (Trên xe)


9g30
Dạ thưa quý khách với 1g15’ di chuyển với khoảng 38km chúng ta sẽ đến với khu du lịch cáp treo Bà
Nà Hills. Khi nói đến tên gọi “Bà Nà”, nhiều người sẽ thắc mắc và thậm chí là suy đoán theo nghĩa
đen của tên gọi này, Giải thích về tên gọi ”Bà Nà“, có 4 cách giải thích:

1. Có người cho rằng khi người Pháp đặt chân lần đầu lên đây, thấy núi có nhiều chuối nên đặt là
”banane”, lâu ngày người ta Việt hóa thành Bà Nà.
2. Còn theo nhà văn Nguyên Ngọc, Bà Nà là tiếng người Cơ Tu, có nghĩa là ”nhà của tôi”.
3. Ngoài ra, ”Bà Nà” còn do người dân địa phương đặt tên,”Bà” chỉ các con vật linh thiêng,”Nà”là
khu đất rộng ở trên các triền núi,
4. Có giả thuyết nói rằng Bà Nà là tên gọi tắc của thánh mẫu Y A Na hoặc bà Ponagar.
Bà Nà Hills thuộc huyện Hòa Vang, nằm cách trung tâm Đà Nẵng khoảng 25km về phía Tây Nam,
nằm ở độ cao 1487m so với mực nước biển. Bà Nà được ví von như Đà Lạt của miền trung hay ‘’lá
phổi xanh’’, ‘’hòn ngọc khí hậu’’ của Việt Nam.
Khí hậu quanh năm mát mẻ, nhiệt độ trung bình từ 17 độ C – 20 độ C. Điểm khác biệt ở Bà Nà so với
các điểm du lịch khác là một ngày có 4 mùa riêng biệt: Buổi sáng tiết xuân, buổi trưa vào hạ, buổi
chiều se se sang thu và đêm về lạnh giá như giữa Đông. Vì thế, Bà Nà đã trở thành địa điểm du lịch
tại Đà Nẵng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.Vì nằm ở vùng chuyển tiếp khí hậu của nước
ta, giữa miền Bắc với khí hậu một năm bốn mùa rõ rệt và miền Nam với khí hậu một năm hai mùa
mưa khô phân lập cho nên Bà Nà – Núi Chúa có hai kiểu rừng : một là kiểu rừng á nhiệt đới với các
loài cây á kim, hai là kiểu rừng nhiệt đới với các loài cây lá rộng.
Chính vì thế mà Bà Nà có hệ sinh thái phong phú với 544 loài thực vật, 266 loài động vật trong đó có
44 loài động vật và 6 loài thực vật có tên trong Sách đỏ Việt Nam như gà lôi lam mào trắng, trĩ, vượn,
hổ, cá chình hoa, trĩ sao, vượn má hồng, hổ… Trên đỉnh núi Bà Nà có cây thông qùy (thân cây cong
như qùy) khoảng gần trăm tuổi.
Vì thế năm 1986, Bà Nà đã được Chính phủ công nhận là khu dự trữ thiên nhiên, đối tượng bảo vệ là
là rừng nhiệt đới và nhiều loại động thực vật quý hiếm.
Nét đặc sắc đầu tiên của Bà Nà là bầu trời luôn thoáng đãng, mây quẩn quanh ở lưng chừng núi. Đặc
biệt khi cơn mưa xuất hiện, chúng ta được xem mưa rơi xung quanh sườn núi mà phần đỉnh vẫn luôn
khô ráo, vẫn trời mây quang tạnh, không khí thoáng đãng mát mẻ.

Bà Nà được người Pháp phát hiện vào tháng 4/1901 khi được lệnh toàn quyền Đông Dương Paul
Doumer tìm kiếm một điểm có khí hậu mát mẻ để xây dựng khu điều dưỡng cho người Pháp ở Trung
Kỳ. Sau năm 1930, hàng chục khu nhà nghỉ đã được xây dựng và trở thành khu du lịch, nghỉ mát lý
tưởng dành riêng cho các quan chức của chế độ thực dân Pháp. Sau này, Bà Nà nhanh chóng trở thành
một trong những nơi nghỉ mát nổi tiếng và lớn nhất Đông Dương, thu hút nhiều du khách ngang tầm
với Le Bockor (Campuchia), Cap Saint Jacques (Vũng Tàu), Tam Đảo, Sapa. Tuy nhiên, sau thời kỳ
chiến tranh và thiên tai, nhiều công trình như lâu đài và nhà nghỉ cổ xưa đã bị mất dần, chỉ còn lại
những phế tích. Cho đến năm 2000, Bà Nà mới được phục hồi và trở thành một thị trấn du lịch

Quần thể khu du lịch Bà Nà được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp thế kỷ XX cổ kính, với những mái
nhà hình chóp nón, nhọn hoắt. Phía trong nhà được trang trí theo kiểu châu âu trang nhã, sang trọng,
rất Tây. Ẩm thực phong phú và độc đáo với nhiều thực đơn cho bạn lựa chọn – thực đơn gọi món,
thực đơn nướng, thức ăn nhanh…Các khu nghỉ mát, các ngôi biệt thự, khách sạn Morin 3 sao, nhà
nghỉ, resort, khu làng Pháp,…sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo cho những ai đam mê khám phá kiến trúc cổ
châu Âu và mong muốn tận hưởng các dịch vụ đẳng cấp nhất
Hệ thống cáp treo Bà Nà bao gồm 5.042m dây cáp, 22 trụ, 94 cabin, và có khả năng phục vụ 1.500
khách/giờ. Đây là tuyến cáp treo hiện đại nhất được xây dựng theo tiêu chuẩn châu Âu và đã được
Guinness công nhận với hai kỷ lục thế giới: cáp treo dây dài nhất và chênh ga cao nhất thế giới
(1.291m).
Từ cáp treo hoặc từ đỉnh núi, bạn có thể tận hưởng toàn bộ cảnh quan với một bức tranh tuyệt đẹp,
nhìn ngắm những cánh rừng hoang sơ, cây cối rộng lớn, và những đàn bướm tung bay trong không
khí trong lành. Điều này tạo ra một trải nghiệm phiêu lưu thú vị, như một cuộc hành trình đến một thế
giới thần tiên.
Dạ Đoàn chúng ta đã đặt chân tới núi, chúng ta sẽ cùng chụp một ảnh lưu niệm tại đây ạ.

Dạ mình sẽ đi theo em để nhận vé và di chuyển tới ga Cáp treo ạ


Em xin nhắn nhủ đoàn mình một số lưu ý trước khi tham quan như sau ạ:
- Vé của đoàn mình đã bao gồm vé vào cửa, vé cáp treo Bà Nà, miễn phí hầu hết trò chơi ở khu
vui chơi Fantasy Park, tàu hoả leo núi, tham quan vườn hoa Le Jardin D’Amour’, hầm rượu
Debay, Cầu Vàng, Làng Pháp, khu Tâm linh
- Cáp treo là phương tiện duy nhất để di chuyển từ chân núi lên đỉnh Bà Nà và trong vé tham
quan đã bao gồm vé cáp treo 2 chiều nên khi đi cáp treo, quý khách vui lòng giữ vé để sử dụng
cho chiều về. Khi lên cáp treo, quý khách không được mang theo đồ ăn thức uống lên cabin ạ.
- Còn đây là vé buffet trưa nay. Quý khách sẽ dùng bữa trưa tại nhà hàng Buffet Club vào lúc
11g30 và 15g00 thì nhà hàng sẽ ngừng phục vụ nên quý khách lưu ý thời gian để chúng ta
nghỉ ngơi ăn trưa ạ. Và nếu quý khách làm mất vé ăn trưa này thì quý khách vui lòng tự mua
vé mới để dùng bữa giúp em ạ.
11g30

C Khách tiếp tục tự do tham quan


Dự kiến 16g00 đoàn chúng ta sẽ tập trung tại điểm tập trung ban đầu, để chúng ta sẽ xuống núi và 16g00
khởi hành lại về TP Đà Nẵng
Em xin phép được giới thiệu tới Quý Đoàn, cây cầu mà chúng ta chuẩn bị đi qua, một niềm tự hào Bà Nà Hill -
của nhân dân TP Đà Nẵng - đó là cầu sông Hàn DANACITI
ầu Sông Hàn được khởi công xây dựng ngày 2-9-1998 và khánh thành, đưa vào sử dụng đúng ngày Hotel
kỷ niệm 25 năm giải phóng thành phố Đà Nẵng 29-3-2000.

Đây cũng là năm kết thúc thiên niên kỷ thứ hai. So với nhiều cầu khác trong nước đã được xây dựng,
thì cầu Sông Hàn không có tầm vóc quy mô, bề thế như cầu Long Biên, cầu Thăng Long, hay cầu
Thanh Trì bắc qua sông Hồng ở thủ đô Hà Nội và cũng không mang vóc dáng hoành tráng, hiện đại
như cầu dây văng Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền, nhưng nó có những đặc điểm riêng mà các cây cầu
khác không có nên được nhiều người nói đến… Đã có hàng chục bài văn, bài thơ viết về cây cầu này.
Đây là cây cầy quay đầu tiên ở Việt Nam kỹ sư trong nước tự thiết kế và thi công với tốc độ xây dựng
nhanh kỷ lục theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Số tiền mà các tầng lớp nhân dân
đóng góp chiếm đến 30% kinh phí để xây cầu.

Giao thông phát triển thuận lợi đã khơi dậy những tiềm năng, mà trước mắt là dịch vụ và du lịch của
hai quận Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn nằm ở vị trí một bên là sông Hàn, một bên là biển Đông. Từ khi
có cây cầu nối liền đôi bờ, giá đất ở khu vực này tăng lên gấp hàng chục lần. Các doanh nhân từ nơi
khác, kể cả từ Hà Nội, Sài Gòn đổ về đây mua đất xây nhà, khách sạn, phát triển dịch vụ, du lịch. Nhờ
vậy, hàng ngàn thanh niên đã tìm được việc làm, có thu nhập cao. Sau năm năm kể từ ngày cầu Sông
Hàn được đưa vào sử dụng (2000 - 2005) hai quận Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn đã không còn hộ thiếu
đói. Những khu dân cư được quy hoạch lại, nhiều con đường được chỉnh sửa, mở rộng, những nhà
cao tầng, biệt thự, công sở, trường học chùa chiền, khách sạn mọc lên san sát. Không gian đô thị của
thành phố đang nới rộng về phía đông và phía nam với tốc độ nhanh.

Cầu Sông Hàn không chỉ góp phần thuận lợi cho giao thông đô thị và phát triển kinh tế của vùng đất
ở phía đông thành phố như đã nói ở trên, mà còn là một biểu tượng văn hóa khá độc đáo của một
thành phố nơi cửa biển. Dáng đứng của trụ cầu dây văng vút cao, đẹp một cách thanh nhã nổi bật trên
dòng sông Hàn lộng gió, in hình lên phông màu xanh đậm phía sau là cụm núi Sơn Trà. Nhiều thợ
nhiếp ảnh đã bám trụ trên cầu để hành nghề nhằm đáp ứng nhu cầu khách thập phương từng đến đây
muốn có một kỷ niệm về cảnh đất Hàn. Cũng cần nói thêm rằng chính sự chỉnh trang đầy sáng tạo của
đôi bờ sông nơi chiếc cầu bắc qua - bên này là đường Bạch Đằng, bên kia là đường Trần Hưng Đạo -
đã tạo nên một cái khung làm tôn thêm vẻ đẹp của bức tranh cầu sông Hàn.

T Về khách sạn nghỉ ngơi, ăn buffet tối 17g30


Dặn dò khách lịch trình vào ngày tiếp theo
Lưu ý: Trong ngày 3 chúng ta sẽ di chuyển đi bộ khá nhiều, du khách nên chuẩn bị giày bệt và hạn
chế đi dép cao gót hoặc có thể mang theo một đeo dép để dễ dàng di chuyển
3 S
Đà Nẵng - Cù Lao Chàm(Trên xe) Phan 8:00
Cù Lao Option1 Kim
Cù lao Chàm là một cụm đảo, về mặt hành chính trực thuộc xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh
Chàm -
Quảng Nam, nằm cách bờ biển Cửa Đại 15 km và đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh
Hội An Khách sạn -
quyển thế giới vào năm 2009. Cù lao Chàm bao gồm 8 đảo: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô
hoặc Hội An - Cù
mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông. Dân số trên các hòn đảo này gồm khoảng 3.000 người
Đà Nẵng - Lao Chàm -
tính đến 2015
Rừng dừa
Bảy Mẫu - Trong quá khứ, Cù Lao Chàm có nhiều tên gọi khác nhau: Ciam pullo, Pulociampello, Tiêm Bích La,
Hội An Chiêm Bất Lao.. Và từng là địa chỉ được đánh dấu đậm nét trên bản đồ hàng hải quốc tế ven biển
Đông, từng là điểm dừng chân quen thuộc của thương thuyền nhiều nước ở phương Đông cũng như
phương Tây trên các tuyến hải trình dọc theo các con đường hương liệu, tơ lụa, gốm sứ trên biển và
cũng là một địa chỉ nổi tiếng trong quá trình giao thương buôn bán của các nước trên Biển Đông và
được ghi chép lại qua các tư liệu lịch sử của các học giả trong và ngoài nước.
Từ những thế kỷ đầu Công nguyên, phương tiện đi lại trên biển rất thô sơ, những chuyến hải hành
liên quốc gia thường phải kéo dài trong nhiều tháng. Cũng trong thời gian đó, quan hệ thương mại
giữa Trung Quốc và Ấn Độ được thiết lập. Con đường hàng hải nối giữa Trung Quốc và Ấn Độ đi từ
phía Bắc Việt Nam, dọc theo bờ biển của bán đảo Đông Dương, qua bán đảo Mã Lai ở phần phía bắc
và tới Kancipura ở miền Nam Ấn Độ. Một con đường khác không cắt ngang qua bán đảo, nhưng đi
xuyên qua eo biển tới Malacca. Lúc này nhiều cảng thị hình thành trên bán đảo Đông Dương như:
Phù Nam, Lâm Ấp… Chúng không chỉ là những trạm, những hải cảng quan trọng trên con đường
hàng hải quốc tế, mà còn là nơi trú ngụ và điểm thu mua nhiều sản vật quý dùng để xuất khẩu như:
trầm hương, hồ tiêu, ngà voi, tơ lụa, đồi mồi… Trong đó Cù Lao Chàm là điểm tiền tiêu trên biển
thuộc vương quốc Champa, nó là hành lang nối giữa Trung Quốc với Ấn Độ, Ả Rập, Ba Tư, Ai Cập
và các nước Châu Âu. Cho nên, Cù Lao Chàm có vị trí trọng yếu trong tuyến hàng hải khu vực, là
điểm dừng chân rất thuận tiện để trao đổi hàng hóa, tích trữ lương thảo, nước ngọt của thương thuyền
các nước trong cuộc hành trình đi đến các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á và một số vùng
lân cận.
Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XII, con đường tơ lụa, hương liệu và gốm sứ được hình thành, hoạt
động hàng hải trên biển Thái Bình Dương rất nhộn nhịp. Tàu buôn từ Địa Trung Hải đến Trung Quốc
mang theo vàng bạc và kim loại khai thác được từ các mỏ Ba Tư và các vùng lân cận; cùng thủy tinh
và các đồ trang sức là những sản phẩm của Trung Đông sang các nước phương Đông và Trung Quốc
buôn bán, sau đó họ mua lại đồ gia dụng, tơ lụa, gốm sứ, lâm hải sản từ các nước này về. Trên chặng
đường dài đó, họ đã đi qua quần đảo Cù Lao Chàm, để đi sâu vào vùng biển phía nam Trung Quốc và
các hải cảng của Nhật.
Đặc biệt, cuối thế kỷ XV, các quốc gia ở phương Tây với nhiều đoàn thuyền khổng lồ ồ ạt tràn sang
phương Đông để tìm kiếm thị trường, làm cho hoạt động thương mại trên biển của khu vực châu Á –
Thái Bình Dương trở nên sôi động hơn, lần lượt lôi cuốn các nước phương Đông tham gia vào thị
trường khu vực và thế giới đang hình thành, Việt Nam là một trong những nước nằm bên con đường
thương mại quốc tế.
Vào thời điểm này ở Đàng Trong, Vương quốc Champa suy tàn, người Việt đã làm chủ một vùng đất
rộng lớn ở phía Nam. Dưới sự dẫn dắt của các chúa Nguyễn, người Việt kế thừa những thành quả khai
phá Chiêm cảng xưa của người Chăm và xây dựng Hội An trở thành một đô thị thương cảng sầm uất,
phát triển mạnh mẽ trong các thế kỷ XVII – XVIII. Cửa Đại Chiêm trở thành một trong những cảng
thị thuận lợi để tàu thuyền quốc tế cập bến, trao đổi mua bán hàng hóa. Thương thuyền của các nước
Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm La, Miến Điện, Malaysia, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan… đến Hội
An buôn bán, thường phải qua trạm kiểm soát và thu thuế ở Cù Lao Chàm.
Cù Lao Chàm trở thành một thương cảng sôi động ở khu vực Đông Nam Á trong nhiều thế kỷ và là
điểm dừng chân của các thuyền buôn trong nước cũng như quốc tế. Nguồn hàng hóa phong phú của
xứ Quảng cùng vị trí thuận lợi trong con đường tơ lụa trên biển của cửa Đại Chiêm và Cù Lao Chàm,
cộng với chính sách mở cửa của các chúa Nguyễn, đã nâng cao vai trò vùng đất Quảng Nam trong
quá trình phát triển của xứ Đàng Trong
Cù lao Chàm gồm 8 đảo nhỏ là: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá,
Hòn Tai, Hòn Ông. Trong đó, dân cư tập trung chủ yếu ở các thôn Bãi Làng, Bãi Hương, Xóm Cấm,
Bãi Ông của Hòn Lao.

Cù lao Chàm được thiên nhiên ưu ái có khí hậu quanh năm mát mẻ, cây cối bốn mùa phủ xanh trên
các hòn đảo. Với 1.549 héc-ta (ha) rừng tự nhiên và 6.716 ha mặt nước, Cù lao Chàm mang trong
mình một sự đa dạng sinh học vô cùng phong phú.
Khu bảo tồn thiên nhiên (Tại điểm)
GIỚI THIỆU

8:30
Nằm cuối dòng sông Thu Bồn thơ mộng, thành phố Hội An được thiên nhiên ưu ái ban tặng sự đa
dạng các hệ sinh thái vùng cửa sông, ven bờ và hải đảo. Các cồn cát, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển,
rạn san hô, quần cư rong biển, rừng tự nhiên trên đảo, cũng như cảnh quan trên cạn và dưới nước đã
và đang mang lại cho Hội An một sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên. Nơi đây cũng chính là một
vùng đất giàu có về tài nguyên văn hóa với các di tích văn hóa lịch sử, lối kiến trúc nghệ thuật, con
người chân tình đôn hậu, hiếu khách, là minh chứng cho sự giao thoa qua các thời kỳ văn hóa Sa
Huỳnh, Chăm Pa và Đại Việt.
Với những giá trị độc đáo, đặc trưng, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên với con người tại vùng đất
này, ngày 26/5/2009 Cù Lao Chàm – Hội An chính thức được UNESCO công nhận danh hiệu Khu dự
trữ sinh quyển thế giới, và là 1 trong mạng lưới 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam cho
đến thời điểm này.
Tuy chỉ có quy mô nhỏ nhưng nhà bảo tồn biển Cù Lao Chàm chứa đựng đầy đủ các di tích văn hóa
của đảo. Đây là nơi trưng bày hình ảnh trực quan sinh động về cuộc sống của người dân làng chài, về
thông điệp đặc trưng chỉ có ở hòn đảo này đó là: Không mang túi ni lông ra đảo để bảo vệ môi
trường, các loài động vật biển và hệ san hô.
Bảo tàng được chia thành 2 gian phòng chính. Gian thứ nhất đặt chiếc Sa Bàn, tái hiện lại toàn bộ cái
nhìn tổng quát nhất, gồm 8 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau (hay còn gọi là Hòn) với những tên gọi khác
nhau. Còn gian thứ hai là nơi trưng bày các mẫu sinh vật biển. Với sự đa dạng sinh học cao, cùng biển
Cù Lao Chàm đã được thống kê có tất cả 135 loài san hô với 35 giống, trong đó có 6 loại được tìm
thấy lần đầu tiên ở Việt Nam. 202 loài thủy sản và 4 loài tôm hùm. Du khách sẽ có dịp chiêm ngưỡng
nhiều mẫu sinh vật nằm trong danh sách cần được bảo tồn như rùa biển, cua đá, tôm hùm, ốc vú nàng,
rạng san hô…
Ngoài ra, tại khu bảo tồn này còn trưng bày các vật dụng đi biển của người dân địa phương từ xưa:
ghe, thuyền thúng, áo tơi,… Những hỉnh ảnh này cho bạn cái nhìn rõ nét về cuộc sống của ngư dân
làng chài tại Cù Lao Chàm.
Chùa Hải Tạng(Tại điểm)

Từ Bãi Làng trên đảo Hòn Lao, men theo những con đường nhỏ ngoằn ngoèo chừng 300m là đến 9:00
xóm Cốm, nơi có chùa Hải Tạng trầm mặc cổ kính.
Ấn tượng đầu tiên là cổng tam quan đầy rêu phong nhuộm màu thời gian. Tam quan với lối kiến trúc
xưa gồm 4 trụ biểu cao 5m, chóp trụ có khối hình hoa sen, rộng 1,5m. Tam quan được chia làm ba
cổng, với hai lối vào nhỏ và một lối vào lớn được thiết kế theo kiểu mái vòm, bờ nóc, bờ hồi đắp nổi
nhiều đường nét uốn lượn mềm mại, uyển chuyển và bên trên lợp ngói âm dương. Kết nối tam quan là
bức tường thành bằng đá bao bọc xung quanh trang nhã với những đường nét hoa văn gọn gàng bao
lấy khu vực và cả khuôn viên ngôi chùa.
Phía trước sân chùa là tượng Bồ Tát Quan Âm đứng trên đài sen giữa lòng hồ sen nhỏ, mặt hướng về
phía biển Đông như che chở cho cuộc sống an lành của những ngư dân nơi đây.
Chùa được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 19 (1758) ở vị trí cách nơi này khoản 200m về phía
bắc vì do bão làm hư hại nặng nề, để thuận tiện cho các tín đồ đến hành lễ Chùa được xây dựng vào
năm Cảnh Hưng thứ 19 (1758) ở vị trí cách nơi này khoảng 200m về hướng đông bắc, sau vì do bão
làm hư hại nặng và để thuận tiện cho các tín đồ đến hành lễ nên vào năm Tự Đức nguyên niên (1848)
Chùa được dời về vị trí hiện nay và tiếp tục được tôn tạo khang trang hơn. Đây là một công trình đẹp,
có quy mô lớn với kiến trúc kiểu “chồng rường giả thủ” chia 3 gian 2 lòng, có hậu tẩm, kết cấu vì kèo
gỗ và các chi tiết kiến trúc được chạm trổ công phu. Chùa tọa lạc sát chân núi phía Tây của đảo Hòn
Lao, thuộc xã Tân Hiệp (Hội An), phía sau tựa vào núi, mặt nhìn ra một thung lũng nhỏ là cánh đồng
lúa duy nhất của Cù Lao Chàm.
Chùa ở vào thế phong thủy lý tưởng, tọa lạc sát chân núi phía Tây của Hòn Lao thuộc Cù Lao Chàm,
lưng tựa núi vững chãi, mặt tiền xoay theo hướng Tây – Tây Nam nhìn thẳng vào núi Bà Mộc như thể
hòn xôi án ngữ. Đây là hướng nhìn lý tưởng, bởi có sự thông thoáng, tiền hậu, tả hữu phân minh.
Ngay dưới chân là đồng ruộng, khu dân cư và mờ xa về đất liền là Đô thị cổ Hội An. Phía Nam có
khoảng trống gió lùa trải dài qua Rừng Cấm (nay là Xóm Cấm) đưa hơi nước từ Hòn Nhờn lướt qua
trước mặt thổi lên khu dốc Chùa. Theo truyền thuyết, trước đây khu này rừng rậm có nhiều trăn, rắn
độc. Vì thế, để an toàn, tường thành bao bọc xung quanh chùa được xây bằng đá, cổng tam quan phía
trước gồm 3 lối vào, tam quan tạo dáng vòm, mái lợp ngói âm dương và đắp nhiều con giống. Toàn
bộ tam quan cao 5m, rộng nhất 1,5m, dài 6m. Kề ngay đấy là 4 trụ biểu, trên chóp trụ có khối hình
hoa sen cánh lật… Dù thiên nhiên khắc nghiệt, lại phải đương đầu với nhiều trận cuồng phong hàng
trăm năm qua nhưng đến nay, công trình chính vẫn vững vàng, bề thế. Tuy nhà Tây đã bị sập hoàn
toàn, nhà Đông còn lại phần kiến trúc chính nhưng toàn bộ di tích vẫn toát lên vẻ hào sảng uy nghiêm
hiếm thấy ở các di tích khác. Chính điện lợp ngói âm dương, bờ nóc, bờ hồi đắp nổi nhiều đường nét
uốn lượn mềm mại, uyển chuyển tạo cảm giác nhẹ nhàng.
Lùi vào mái hiên khoảng 2,5m là hệ thống cửa (thường khép kín), thượng song hạ bản, gồm 3 bộ, mỗi
bộ 4 cánh ngăn không gian bên ngoài với không gian nội thất. Toàn bộ nếp nhà chính này có hệ vì kèo
kết cấu kiểu “chồng rường giả thủ” chia làm 3 lòng. Việc mở rộng diện tích ở đây được sử dụng biện
pháp tăng thêm lòng nhà bằng cách tăng cường hệ liên kết các cây rường, cột cái, cột quân và giả thủ
trong thế đỡ thẳng lên đòn tay (hoành), lòng 3 của mái trước được ngăn cách bởi hệ thống cửa tạo
thành mái hiên. Với lối kiến trúc này, cộng với liên kết ngang gồm 4 vì (vài) chia làm 3 gian, tạo cho
không gian nội thất của chùa thông thoáng, vừa có chiều cao, vừa có chiều sâu và mở rộng.
Hệ thống hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, uy nghiêm, lớp lang huyền ảo thiêng liêng hài hòa
với cấu trúc tượng pháp thờ tự đa dạng. Nổi bật ở chánh điện là bộ Tam thế Phật. Kế đến là tượng
Thích Ca ngồi trên đài sen. Đặc biệt, trong chùa hiện vẫn còn lưu giữ đại hồng chung rất có giá trị về
mặt lịch sử và văn hóa. Trên chuông có một con rồng mang phong cách mỹ thuật Việt thời Lê sơ. Có
nhiều ý kiến cho rằng quả chuông ở chùa Hải Tạng được chú tạo trước cả thời điểm xây dựng chùa.
Chùa Hải Tạng thuộc thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, nhưng cách bố trí thờ tự ở đây có sự khác biệt
so với cách bố trí thờ tự của một số chùa thuộc Lâm Tế Chúc Thánh như chùa Vạn Đức, Chúc Thánh,
Phước Lâm. Ở đây vẫn giữ cách bố trí thờ tự của thời kỳ Tam giáo đồng nguyên. Phía trước Tam
quan đặt tượng Quan Âm Nam Hải được xây dựng gần đây. Tại Đại Hùng Bảo Điện thờ Tam thế Phật
ở tầng trên cùng, tiếp đến là Thích Ca Mâu Ni, tầng dưới cùng là Ngọc Hoàng. Hành lang phía Tây
chính điện bố trí tượng Long Thần, có người gọi là Già Lam Thánh Chúng và Địa Tạng. Hành lang
phía Đông chính điện bố trí tượng Hộ pháp, Tam thánh gồm Quan Công, Quan Bình và Châu Xương.
Trước đây chùa có thờ Thập Bát La Hán nhưng do chiến tranh tàn phá nên tượng bị vỡ và không còn
thờ tại chính điện nữa. Hậu điện thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và ký tự những người đã khuất.

Chùa có nhiều truyền thuyết nhưng cư dân ở đây vẫn tâm đắc nhất câu chuyện về việc xây chùa.
Tương truyền các cây cột được làm từ ngoài Bắc đem về làm một chùa nào đó trong Nam nhưng khi
về đến Cù Lao Chàm vì trời tối nên phải neo ghe nghỉ lại. Sáng ra, ghe kéo neo đi tiếp, nhưng thật lạ
lùng, biển tự dưng sống dậy, ghe cứ xà quần, tới lui lòng vòng không đi ra khỏi Lao. Sau có người
trong đoàn lên cúng xin keo mới biết dàn cột này phải để lại dựng chùa cho Cù Lao Chàm không
được đem đi. Vì thế chùa dựng lên lấy tên là Hải Tạng. Hải là biển, Tạng là kinh, ý nói Chùa là nơi
hội tụ kinh tạng mênh mông như biển. Một ý khác là Kinh Tạng của Nhà Phật đây được hội tụ từ mọi
con đường trên biển.
Chùa Hải Tạng trước đây có Sư trụ trì, nhưng hiện nay không còn, thay vào đó là Ban trị sự địa
phương quản lý và trông nom. Trưởng ban trị sự là ông Trần Duy Cảo, cùng hai Phó ban là ông Trần
Cau và ông Nguyễn Thông và đặt biệt là vợ chồng già lão Từ luôn túc trực trông nom hương khói.
Cũng như bao ngôi chùa khác, hàng năm ở đây thường tổ chức những ngày lễ lớn của Phật giáo như
ngày 15/1 cúng Cầu an, 15/4 lễ Phật đản, 15/7 lễ Vu Lan; vào các ngày 19/2, 19/6, 19/9 lễ vía Quan
thế âm. Còn sinh hoạt của Phật tử tại đây diễn ra vào chiều thứ 7 hàng tuần, mọi người đến đọc kinh
niệm phật và sinh hoạt. Hiện nay, chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật, tư liệu có giá trị như tượng cổ,
chuông đồng, bia đá, hoành phi…
Đảo Yến (Tại điểm)
Cù lao Chàm là nơi duy nhất của tỉnh Quảng Nam có loài chim Yến hàng – Collocalia Fuciphaga
Genmaini Oustalet, thuộc phân giống Yến hông xám (Swiftlets), giống Collocalia, họ Apodidac, bộ
Yến Apdiformes. Chim Yến có vóc dáng chỉ nhỏ bằng chim sẻ, hông và bụng màu xám, toàn thân nâu
đen; cánh dài (115-125mm), vút nhọn, bay rất khoẻ, đuôi ngắn, chẻ đôi; mỏ ngắn, dẹp, có thể há rất
rộng.
Hàng năm, vào cuối tháng 11 âm lịch, yến bắt đầu làm tổ theo một cách rất độc đáo: yến nhả nước bọt
thành những dải trắng lên những vách đá cheo leo của các hang động trên đảo. Dãi yến mới nhả ra có
màu trắng phớt hồng, gặp gió quánh lại, chuyển thành màu trắng đục.
10:00
Tổ chim yến thường được gọi là yến sào hay tai yến. Yến đẻ trứng, ấp trứng và nuôi cho đến khi chim
con đủ sức tự bay đi kiếm mồi. Tổ yến có hàm lượng dinh dưỡng rất cao, chiếm từ 36-52% protein và
là một nguồn dược liệu rất quý. Tổ yến giúp tăng sức đề kháng cho cơ thể, bổ khí huyết, tráng dương,
ổn định thần kinh, chống lão hoá, làm đẹp nước da và có thể ngăn ngừa, thậm chí chữa được nhiều
loại bệnh nan y như lao phổi, hen suyễn, viêm xương…Chính vì vậy, yến sào là loại hàng hoá hiếm
quý, đắt giá trên thị trường từ xưa đến nay.
Ở Hội An, một ông lão họ Trần tình cờ phát hiện ra tổ yến sau đó tổ chức khai thác và nộp thuế. Vì
thế, các chúa Nguyễn (từ thế kỷ 17) đã cho lập “Đội Thanh Châu”, thực chất là giao cho dân làng
Thanh Châu (Hội An) khai thác yến sào ở vùng đảo Cù lao Chàm và nộp thuế hàng năm cho nhà
nước. Sau này, mở rộng vào các tỉnh Bình Định, Khánh Hòa.
Khai thác yến sào phải leo lên các vách đá cheo leo, hiểm trở, bên dưới là mặt nước biển ăn sâu vào
hang sâu, nếu sơ sẩy, người thợ khai thác khó an toàn tính mạng.
Ở Cù lao Chàm, chim yến thường làm tổ trong các hang ở Hòn Khô (mẹ), Hòn Lao, Hòn Tai… Việc
khai thác yến sào ở Hội An hiện nay do Đội Khai thác Yến, trực thuộc UBND Thị xã phụ trách. Mỗi
năm, khai thác 2 kỳ (vào tháng 4 và tháng 8 dương lịch).
Miếu tổ nghề Yến (Tại điểm)
Miếu tổ nghề Yến nằm ở Bãi Hương – Hòn Lao – Cù Lao Chàm. Miếu Tổ nghề Yến được xây dựng
hoàn chỉnh vào khoảng đầu thế kỷ 19 để thờ Tổ nghề Yến và các vị thần bảo hộ nghề Yên. Hàng năm
vào ngày 10/3 âm lịch, cư dân và những người làm nghề khai thác yến tổ chức cúng rất linh đình để
chuẩn bị cho mùa vụ khai thác mới
Trên bàn thờ, ngoài các bài vị của những bậc tiền bối khai sáng nghề yến sào là các vị thần liên quan
đến sông biển. Trên tường bên hữu có tấm bia đá ghi công đức của các chư phái tộc và ca tụng vẻ núi
non kỳ vĩ của Cù Lao Chàm.
Chợ Tân Hiệp (Tại điểm)
Một khu chợ nhỏ, nằm ngay ở khu vực bến tàu. Chợ Tân Hiệp Cù Lao Chàm rất đặc biệt, không
giống với bất cứ khu chợ nào khác, không phải là rau thịt, cá tôm mà chủ yếu là hải sản, các đặc sản
10:30
rừng, quà lưu niệm. Mực một nắng là món mà bạn có thể mua về làm quà rất tuyệt vời, loại mực chỉ
được phơi duy nhất một nắng, nên vẫn giữ được tươi ngọt, dai ngon và đậm vị biển

Rừng Dừa Bảy Mẫu (Trên xe)


Tên thường gọi là Rừng Dừa Bảy Mẫu hoặc là Căn cứ địa Cách mạng Rừng Dừa Bảy Mẫu. Rừng dừa
Bảy Mẫu là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, được ví như “Miền tây trong lòng phố Hội” với không
gian xanh mát của bạt ngàn dừa nước, trải rộng tới tận Cửa Đại. Bằng
đường bộ có thể đến di tích theo cách: Từ trung tâm thị xã Hội An theo đường đường Cửa Đại đi về 11:00
phía đông khoảng 3km, gặp ngã 3 đường Cửa Đại- Đê ngăn mặn xã Cẩm Thanh rẽ phải theo đường
đê đi khoảng 2km qua 3 cống lớn, đến cống thứ 4 là địa phận khu di tích Rừng Dừa Bảy Mẫu.
Cho đến hôm nay, mặc dù các công trình phòng thủ, chiến đấu của ta ở Rừng dừa Bảy Mẫu không
còn nữa nhưng những cây dừa với sức sống mãnh liệt vẫn phát triển xanh tươi như hiện hữu, ghi dấu
những chiến tích hào hùng của quân và dân Hội An trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ. Rừng dừa Bảy Mẫu là nơi thể hiện trí thông minh, sáng tạo của quân và dân ta trong
Option2 việc lợi dụng địa hình, địa vật để xây dựng căn cứ địa cách mạng chiến đấu, chiến thắng kẻ thù, lập 10:00
nên những chiến công tiêu biểu cho phương châm đánh giặc: “Lấy yếu thắng mạnh, lấy ít thắng
nhiều”.
Khách sạn -
– Hiện nay vẫn còn một số ảnh tư liệu về các sự kiện lịch sử cách mạng ở Rừng Dừa Bảy Mẫu vẫn Rừng Dừa Bảy
đang được lưu giữ tại Trung Tâm Quản lý Bảo tồn Di tích và Ban Tuyên giáo Thị uỷ Hội An. Rừng Mẫu
dừa Bảy Mẫu là khu di tích có giá trị lịch sử đặc biệt. Bên cạnh đó, Rừng dừa Bảy Mẫu với hệ sinh
thái độc đáo là một rừng dừa ngập nước là nơi sinh sống của nhiều loại động thực vật làm cho di tích
trở thành một thắng cảnh tự nhiên đẹp, sông nước hữu tình. Trong thời gian đến, Rừng dừa Bảy Mẫu
sẽ được chính quyền Thị xã Hội An quy hoạch tôn tạo thành một điểm du lịch phục vụ cho du khách
xa gần muốn tham quan nghiên cứu.

C Giới thiệu về Hội An (Trên xe) Lê 17:30


Trang
Hội An là một thành phố nhỏ nằm trên đất Quảng Nam, là nơi chứng kiến hai cuộc giao thoa văn hóa
lớn trong lịch sử Việt. Lần thứ nhất là cách đây hơn 5 thế kỷ, khi nước Đại Việt tiến về phương nam
mở mang bờ cõi, và lần thứ hai là cách đây 2 thế kỷ, khi người Phương Tây theo các chiến thuyền và
thương thuyền đặt chân lên mảnh đất này với ý đồ truyền bá và thôn tính. Cả hai sự kiện đó đều kéo
theo tương tác văn hoá lớn lao và nền văn hóa việt đã vượt qua thử thách đồng hóa để tự cải biến và
tồn tại cùng thời cuộc.

Hội An không thể lẫn vào đâu được , đúng với cái tên gọi ” Phố Cổ” nhắc tới Hội An người ta liên
tưởng đến một bức tranh vừa gần gũi ,vừa quen thuộc vừa nên thơ .

Dưới thời vương quốc Chăm Pa (Thế kỷ 9-10), với tên gọi Lâm ấp Phố, Hội An đã từng là cảng thị
phát triển, thu hút nhiều thương thuyền Ả Rập, Ba Tư, Trung Quốc đến buôn bán, trao đổi vật phẩm.
Nhiều thư tịch cổ ghi nhận đã có một thời gian khá dài, Chiêm cảng - Lâm ấp Phố đóng một vai trò
quan trọng trong việc tạo nên sự hưng thịnh của kinh thành Trà Kiệu và khu di tích đền tháp Mỹ Sơn.
Với những phế tích móng tháp Chăm, giếng nước Chăm và những pho tượng Chăm (tượng vũ công
Thiên tiên Gandhara, tượng nam thần tài lộc Kubera, tượng voi thần...) cùng những mảnh gốm sứ
Trung Quốc, đại Việt, Trung Ðông thế kỷ 2-14 được lấy lên từ lòng đất càng làm sáng tỏ một giả thiết
từng có một Lâm ấp Phố (thời Chăm Pa) trước Hội An (thời Ðại Việt), từng tồn tại một Chiêm cảng
với sự phát triển phồn thịnh.

Cũng chính nhờ môi trường sông nước thuận lợi, cộng với nhiều yếu tố nội, ngoại sinh khác, từ thế kỷ
16 đến thế kỷ 19, đô thị - thương cảng Hội An lại được tái sinh và phát triển thịnh đạt. Do hấp lực của
cảng thị này, cùng với "con đường tơ lụa", "con đường gốm sứ" trên biển hình thành từ trước nên
thương thuyền các nước Trung, Nhật, Ấn Độ, Xiêm, Bồ, Hà, Anh, Pháp... tấp nập đến đây giao
thương mậu dịch.

Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh
Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam.Có khí hậu thuận lợi,
Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản,
Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và 18.

Trước thời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hay được nhắc đến
cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19, do giao thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện,
cảng thị Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho Đà Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội
An may mắn không bị tàn phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối
thế kỷ 20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội An dần được
giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của
Việt Nam.

Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á được
bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có
niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các
ngôi nhà phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành,
phát triển và cả suy tàn của đô thị. Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao
thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố
truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá
trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và
phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín
ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội An được xem
như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.

Tên gọi :

Tên gọi Hội An ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó có thể xác định
chính xác thời điểm ra đời của nó. Theo tác giả Dương Văn An trong cuốn sách Ô Châu cận lục, vào
năm 1553, huyện Điện Bàn có 66 xã, trong đó có các xã Hoài Phô, Cẩm Phô, Lai Nghi, nhưng chưa
thấy cái tên Hội An được ghi lại. Dưới thời Lê, tấm bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ in trong Thiên Nam
tứ chí lộ đồ có ghi lần đầu tiên các địa danh Hội An phố, Hội An đàm, Hội An kiều. Trên tấm bia Phổ
Đà Linh Sơn Trung Phật tại động Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên những người góp tiền xây
dựng chùa, tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, làng Minh Hương
được thành lập bên cạnh làng Hội An đã có trước đó. Căn cứ vào văn bản của dinh trấn Quảng Nam
thời Minh Mạng gửi trưởng bang Hoa kiều, Hội An phố gồm 6 làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai,
Đông An, Diêm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp Albert Sallet cho rằng làng Hội An là làng
quan trọng nhất trong năm làng tạo nên quần cư Hội An cổ, gồm Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên,
Minh Hương và An Thọ.

Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo. Xuất xứ của cái tên này ngày nay vẫn tồn
tại nhiều giả thuyết. Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes in tại Roma năm 1651,
chữ Hoài phô được định nghĩa: một làng trong xứ Cochinchine mà người Nhật ở và gọi là Faifo. Một
giả thuyết phổ biến cho rằng Faifo xuất phát từ tên Hội An phố, cái tên sử sách và địa chí Trung, Việt
đều nhắc tới. Theo một thuyết khác, sông Thu Bồn trước kia có tên là sông Hoài, nên Hội An còn
được gọi là Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, từ đó xuất hiện cái tên Faifo. Trong những
thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả phương Tây, những cái tên Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso,
Facfo… từng xuất hiện nhiều lần. Alexandre de Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng Trong và
Đàng Ngoài ấn hành năm 1651 có ghi rõ tên Haifo. Về sau, trên bản đồ chính thức của chính quyền
Đông Dương, người Pháp đều sử dụng tên Faifo để chỉ Hội An.

Chùa Cầu (Tại điểm)

Chùa Cầu là một trong những công trình di tích và biểu tượng của Hội An ngày nay, cho nên tất cả
những biểu tượng của Hội An người ta đều lấy hình ảnh là Chùa Cầu và đặc biệt Chùa Cầu là một
công trình tồn tại qua 4 thế kỷ ở khu đô thị cổ Hội An này. 18:00

Tương truyền Chùa Cầu này là người Nhật cho xây dựng trong thời người Nhật được nhà Nguyễn cho
phép giao thương buôn bán tại đây vì vậy chiếc cầu này còn có tên là Cầu Nhật Bản, ở phía ngoài có
một tấm hoành phi treo ở phía trước ngôi miếu này có ba chữ Hán tên là Lai Viễn Kiều được Chúa
Nguyễn ban cho chiếc cầu này trong một lần đi đến khu phố Hội An bởi vì Lai Viễn Kiều là cầu của
người phương xa dến xây dựng, kiến trúc của chiếc cầu này rất là đặc biết ở bến dưới của nó là phần
nên gạch nhô lên cao và ở phía trên là sàn gỗ, đây không phải là chiếc cầu bắt qua không mà phía trên
là một mái nhà che lợp ngói âm dương với đường cột chèo ở phía trên người ta dùng gỗ để người ta
chạm lọng nói khớp với nhau theo kiểu nhà rườm, người ta còn xây dựng nguyên dàng mái nâng lên
theo kiến trúc chòng trường dã thủ và phía trên là mái nhà, ở dưới là cái cầu nên gọi là thượng gia hạ
kiều.

Đây là một kiến trúc độc đáo mà được biết rằng người Nhật khi xưa đã cho xây dựng lên đầu tiên,
một thời gian sau người Hoa ở đây mới mở rộng ra một phần của cái mái để người ta xây dựng cái
miếu. Bên trong miếu thờ một vị thần của Đạo Giáo ảnh hưởng tín ngưỡng của Đạo Giáo Trung
Quốc, vị thần này có tên là Huyền Thiên Trấn Vũ hay gọi là Chân Võ Đại Đế hay gọi là Bắc Đế Trấn
Vũ. Vị thần này được người ta tin tưởng là vị thần có công năng khử tà diệt ma và Ông là một trong
những vị thần tối cao ở trong Đạo Giáo gọi là Bắc Đế Trấn Vũ, miếu này thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ
nên người Việt hay đi qua chiếc cầu này thấy cầu có cái miếu nên gọi là Chùa Cầu. Vì vậy tên tiếng
Việt gọi là Chùa Cầu còn khi xưa Chúa Nguyễn ban cho tên gọi là Lai Viễn Kiều hay Cầu Nhật Bản.
Chiếc cầu này được xây dựng qua con lạch nước thông ra dòng sông, thì dòng sông này là một nhánh
của sông Thu Bồn, khoảng 400 năm về trước cửa biển vào tận bên trong này và tàu thuyền có thể vào
tận ở cửa sông Hoài để giao thương buôn bán, cuối thế kỉ 18 khi phù sa bồi đắp dần thì tàu lớn không
vào được nữa, nếu tàu không thể vào được cửa sông thì không thể giao thương buôn bán được. Cho
nên tới thời vua Gia Long lên ngôi mới chuyển phố thị mua bán ra ngoài tiền cảng tức cảng sông Hàn,
thì phố Hội An không còn là giá trị phố cảng nữa cho nên vì vậy dòng sông này từng có tên gọi là
sông Hoài, đô thị trên sông Hoài nên người xưa mới gọi là Hoài Phố, từ chữ Hoài Phố này nguồn gốc
của phương Tây gọi là “Phai Phô”.

Hai bên đầu cầu có hai cái tượng con chó và con khỉ từ xưa khi người ta xây dựng đã có hai cái
tượng này rồi, thì có người cho rằng cầu được xây dựng từ năm Thân đến năm Tuất là hoàn thành cầu
trong 3 năm, nhưng có người cũng cho rằng đó là những linh vật ảnh hưởng của tín ngưỡng xưa nên
người ta mới tạt tượng để hai đầu cầu một cách trang trọng.
Kính thưa quý khách, hôm nay chúng ta sẽ tham quan Hội Quán Phúc Kiến – Một công trình kiến
trúc độc đáo theo kiểu Trung Hoa tại Hội An .

Hội quán Phúc Kiến (Tại điểm)

Kính thưa quý khách, hiện nay chúng ta đang đứng trước cổng chính của Hội quán Phúc Kiến trên
đường Trần Phú.

Sử Trung Hoa kể rằng, vào thế kỷ XVII, năm 1649, ở Trung Quốc, nhà Thanh diệt nhà Minh, lập ra 18:30
triều Mãn Thanh. Các tướng lĩnh triều Minh không thuần phục, nổi dậy phản Thanh phục Minh và đã
bị thất bại. Nhiều người trong số họ đã đưa gia đình lên tàu vượt biển đến xuống vùng Đông Nam Á,
trong đó có Hội An. Họ đã xin Chúa Nguyễn cho phép định cư ở Hội An, và thành lập ở đây làng
Minh Hương, đó là những người đến từ 5 bang chính: Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải
Nam, Haka hay còn gọi là Hẹ. Vì người Hoa cũng như người Việt sống mang tính cộng đồng rất cao,
để có thể đoàn kết cùng nhau buôn bán, tương trợ lẫn nhau khi hoạn nạn mỗi bang đã lập nên cho
mình một hội quán. Hội quán Phúc Kiến nổi tiếng bởi vẻ đẹp nguy nga, tráng lệ, uy nghiêm trong một
không gian rộng lớn, kiến trúc đặc sắc kiểu Trung Hoa và sự linh thiêng của nó.
Hội quán Phúc Kiến là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo hộ về sông nước, tiền
của, con cái, các vị tổ tiên và là nơi họp đồng hương và giúp đỡ lẫn nhau của người Phúc Kiến, những
người đến Hội An sớm nhất và đông nhất. Đây là công trình kiến trúc tiêu biểu tại Hội An được xây
dựng vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp của Hoa Kiều bang Hội Quán Phúc
Kiến càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An.
Trước kia nó được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ nhưng đến năm 1757 Hội Quán này được xây dựng
lại bằng gạch và mái ngói như quý khách đang thấy. So với các Hội Quán khác ở Hội An như Quảng
Đông, Triều Châu, Hải Nam ……Phúc Kiến có không gian rộng và sâu nhất, với lối kiến trúc xưa với
kiểu ” Nội công ngoại quốc”, và bộ vì kèo tiền điện theo kiểu “Chồng rường giả thủ”, cùng với nhiều
bức chạm lộng, chạm nổi hoa lá, điểu thú rất sinh động. Hội quán được công nhận là di tích loại 1 vào
ngày 19/3/1985. Tôi sẽ giới thiệu cho quý khách được rõ hơn khi chúng ta vào bên trong để tham
quan.
Bây giờ xin mời quý khách hay theo tôi vào tham quan Hội Quán.
Kính thưa quý khách bây giờ chúng ta đang đứng trước cổng tam quan, một công trình không thể
thiếu trong lối kiến trúc đình , chùa truyền thống. Công trình này được trùng tu vào năm 1975, toàn
bộ công trình được khảm bằng sành sứ, phía trên được lợp ngói âm dương với mái cong vút.. Lợp
ngói âm dương, thực ra là kiểu lợp ngói của người xưa bao gồm ngói dương và ngói âm. Ngói dương
giống như hình cái ống tách đôi, một đầu có chuôi thu nhỏ để luồn vào bên trong viên ngói khác khi
lợp nên thường gọi là ngói ống, mặt hướng ra ngoài được phủ men xanh hoặc vàng. Viên dưới cùng
dùng để khóa bộ mái, được đúc thêm một cái nắp hình tròn, thường được trang trí hoa văn chữ thọ
tròn, theo lối triện, gọi là câu đầu. Ngói âm có hình chữ nhật uốn cong, trong lòng phủ men một mặt.
Khi lợp tráng men hướng lên phía trên, cứ hai viên ngói âm thì có một viên ngói dương phủ lên hoặc
ngược lại, cứ hai viên ngói dương thì có một viên ngói âm phủ lên. Viên ngói âm dưới cùng của bộ
mái có gắn với một cái yếm, thường trang trí mắt hổ phù, gọi là trích thủy, liên kết với hai viên ngói
câu đầu, cùng có chức năng trang trí diềm mái và dùng để định hướng giọt nước mưa. Quý khách hãy
nhìn các đầu đao, chúng được bài trí hình con rồng đang uốn lượn, đây là biểu tượng của uy quyền.
Trên nóc có tích lưỡng long chầu bình hồ lô, bình này tích sinh khí của trời và đất để làm tăng sức
mạnh cho con người. Nhìn lên ở giữa cổng tam quan là 4 chữ hán màu đỏ ” Hội Quán Phúc Kiến”.
Còn 3 chữ trên đó là Kim Sơn Tự bởi vì trước kia Hội quán này còn có tên gọi là Kim Sơn Tự. Hai
vòng tròn hai bên là thờ ông Nhật và bà Nguyệt – Tượng trưng cho trời và đất, là sự hài hòa âm
dương trong vũ trụ.
Có 3 lối đi vào theo kiểu ” nam tả, nữ hữu”, 3 lối đi còn có ý nghĩa là “ Thiên, Địa, Nhân” cánh cửa ở
giữa rất ít khi được mở ra, nó chỉ được mở vào những ngày lễ lớn, ma chay, cưới hỏi…Bởi vì theo
quan niệm người xưa, nếu cổng chính giữa mở ra thì những sinh khí xấu sẽ đi vào bên trong.
Phía trước quý khách là hòn nam bộ với hình tượng cá chép hóa rồng hay còn gọi là cá chép vượt vũ
môn. Người Trung hoa có truyền thuyết về cá chép hóa rồng hay cá chép vượt vũ môn như thế này:
Một năm, trời hạn hán vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hòa cho khắp mọi nơi, Trời mới đặt
ra một kỳ thi kén các vật lên làm Rồng gọi là thi rồng.Khi chiếu trời ban xuống, vua Thủy Tề loan
báo cho các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kỳ. mỗi kỳ vượt qua một đợt
sóng. Con vật nào đủ sức đủ tài vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng.
Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thủy tộc đến thì đều bị loại cả. vì không con nào
vượt được cả ba đợt sóng. Sau đó cá Rô nhảy được một đợt nhưng đã bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy
qua được hai đợt, ruột ,gan, vây, vẩy, râu , đuôi đã gần hóa Rồng, nhưng đến lượt thứ ba thì đuối sức
ngã bổ xuống mà lưng đã còng lại. Đến lượt con cá chép vào thi thì gió thổi ào ào, mây kéo ầm trời.
Cá chép vượt luôn một hồi qua ba đợt sóng và lọt vào cửa Vũ Môn. Cá Chép đã hóa thành rồng phun
nước làm giá táp, mưa sa, muôn loài sung sướng, sự sống đã hồi sinh.
Vì vậy ở Trung Quốc, cá Chép thường xuất hiện ở các câu chúc tết như ” Niên niên hữu dư” nghĩa là
hi vọng năm nào cũng dư thừa ấm no. Cá chép còn là biểu tượng của sự kiên trì và bền chí.
Kính thưa quý khách, ở giữa này là phiên bản Vạn Lý Trường Thành. Còn phía bên kia là hình tích
của bốn con vật linh thiêng Long, Lân, Quy, Phụng, bên tay phải tôi là con Rồng, đối với các nước
phương Đông, con rồng là kiệt tác sáng tạo có lịch sử lâu đời .Nó có hình dạng kỳ lạ, đầu giống như
đầu đà, sừng giống như sừng nai, cổ giống như cổ rắn, bụng giống như bụng con giao, mắt giống như
mắt thỏ, tai giống như tai bò, chân giống như chân cọp, móng giống như móng chim ưng, vảy rồng
giống như vảy cá ly. Rồng là biểu tượng của uy quyền.Tiếp đến là con Lân, nó cũng là sản phẩm của
trí tưởng tượng, nó có hình như con hươu nhưng lại lớn hơn, mình có vảy, đuôi giống đuôi trâu, chân
giống chân ngựa, miệng rộng, mũi to, đầu có 1 sừng, lông trên lưng có 5 màu, lông dưới bụng chỉ có
màu vàng, tính rất hiền lành, không đạp lên cỏ tươi, không làm hại các sinh vật khác, nên được gọi là
Nhân thú, nghĩa là con thú có lòng nhân từ nó biểu hiện cho sự may mắn. Đây là con rùa, nó tượng
trưng cho sự tồn tại và bất diệt. Cuối cùng là hình con chim Phượng, đây là linh vật được biểu hiện
cho tầng trên, Phượng thường có mỏ vẹt, chân chim, cổ ngắn.
Bốn con vật này đều rất linh thiêng, mỗi khi có 1 trong 4 con xuất hiện thì nơi ấy ắt có điều lành xảy
đến, hoặc có thánh nhân ra đời.
Quý khách có thấy 2 Lân bằng tượng đá ở đây không? Chúng như là người canh giữ cho Hội Quán.
Bước qua cổng tam quan này chúng ta sẽ tham quan các công trình kiến trúc chính của Hội quán như:
Tiên đình, chính điện, hậu tẩm….
Kính thưa quý khách, chúng ta đang đứng trong tiền đình. Ở đây có một bộ bàn đá. Nó được dùng
làm nơi hội họp, bàn bạc làm ăn của các thương dân Phúc Kiến xưa kia. Quý khách có để ý những
vòng hương đang được treo dây không? Đây là một nét nổi bật của hội quán Phúc Kiến, Tương truyền
rằng, Hội Quán Phúc Kiến hay còn gọi là chùa Phúc Kiến rất linh thiêng nên khách hành hương
thường hay đến đây và thắp những vòng hương lớn này để cầu chúc sức khoẻ, tài lộc, cho gia đình,
bạn bè và cho bản thân. Những vòng hương này được bán ngay tại Hội Quán, nhưng không được
phép mang ra ngoài mà phải thắp ngay tại đây. Mỗi vòng hương như vậy cháy trong khoảng 30 ngày.
Nếu như có vòng hương nào tắt trước khi cháy hết thì những người trong Hội Quán sẽ thắp lại. Trên
các khoanh nhang người cúng thường hay viết một tờ giấy có ghi họ tên đầy đủ của cả gia đình, địa
chỉ… để mong muốn được bà phù hộ độ trì cho công ăn việc làm được thuật buồm xuôi gió. Và khi
vòng hương cháy hết thì người trong Hội Quán sẽ lấy những mảnh giấy này đốt thành tro. Như vậy
lời ước mới linh thiêng.
Xin mời quý khách nhìn về phía bên tay phải mình, đó là bức tranh bà Thiên Hậu Thánh Mẫu cùng
với người hầu của bà và một chiếc thuyền gặp nạn. Chúng ta sẽ tìm hiểu nó kỷ hơn khi chúng ta vào
bên trong chính điện.
Còn phía bên bên này là bức tranh miêu tả 6 vị lục Tướng Vương Gia, 6 vị này được thờ ở trong gian
hậu tẩm mà chút nữa chúng ta sẽ vào tham quan.
Bây giờ, tôi để cho quý khách một vài phút để chụp hình, sau đó chúng ta sẽ vào tham quan chính
điện.
Kính thưa quý khách, hiện nay chúng ta đang đứng trước bàn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và bà Thiên
Hậu Thánh Mẫu – Nữ thần biển ” Thiên Hậu Thánh Mẫu”. Người đã giúp họ tránh hoạn nạn, giông
bão trên bước đường phiêu bạt. Bà là vị thần được đặc biệt coi trọng không những ở nơi đây mà ở tất
cả các miếu của người Hoa ở Hội An và những nơi mà người Hoa sinh sống. Vì ngày xưa trên bước
đường lưu lạc tứ xứ, người Hoa thường đi bằng tàu thuyền mà theo tương truyền thì bà thiên Hậu là
người họ Lâm ở tỉnh Phúc Kiến, lúc nhỏ bà là một đứa bé bị câm. Năm lên tám tuổi bà được một ông
tiên cho theo học đạo và đến năm 16 tuổi Bà được ông tiên ban cho phép thần thông hô mưa, gọi gió.
Và ông ban cho Bà với điều kiện chỉ làm những việc thiện. Bà được gọi là nữ thần của biển cả, hay
nữ thần phù hộ cứu giúp những người đi biển. Người Hoa những khi có việc cầu xin bà phù hộ
thường mang lễ vật đến làm lễ dâng hương. Sau đó họ thường cúng cho bà những Khoanh Nhang Đại
và họ cũng cúng cho hội quán dầu hỏa để thắp đèn trên bàn thờ của Bà. Những Khoanh Nhang này
lớn lắm, có thể cháy đến một năm mới hết. Người trong coi hội quán sẽ lấy lần lượt các khoang đốt
dần, cái nào hết thì treo cái khác lên. Trên các khoanh nhang người ta thường hay viết một tờ giấy có
ghi họ tên đầy đủ của cả gia đình, địa chỉ… để mong muốn được bà phù hộ độ trì cho công việc được
làm ăn thuộc buồm xuôi gió. Hàng năm vào ngày 26 tháng 2 người Trung Hoa nói chung, và người
phúc kiến nói riêng tổ chức lễ vía của bà. Tại đây diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du
khách trong và ngoài nước đến tham gia.
Bên phải thờ thần Thiên Lý Nhãn tức là vị thần có tài nhìn xa vạn dặm, và bên phải thờ thần Thuận
Phong Nhĩ là vị thần có tài nghe xa nghìn dặm họ là 2 vị thần phụ tá cho bà Thiên Hậu Thánh Mẫu
phát hiện những người gặp nạn trên biển để bà cứu giúp.
Bên trái chính diện, người ta trưng bày mô hình chiếc thuyền của các thương nhân gặp nạn dùng để đi
biển trước đây có niên đại từ năm 1875 với nhiều chi tiết cụ thể. Điều đáng chú ý nhất trên chiếc
thuyền là đôi mắt. Người Hội An quan niệm rằng, con người, con vật đều có mắt để nhìn đời và nhìn
vào lòng mình thì các đồ vật gắn với vận mệnh của con người cũng phải có mắt. Chính vì thế, chiếc
thuyền này được vẽ 2 con mắt hai bên, to và rõ để nhìn thấy những tai ương trên biển khơi.
Bây giờ mời quý khách chúng ta cùng tham quan Hậu tẩm. Mời quý khách nhàn bàn thờ ở giữa, đây
là nơi thờ của 6 vị Lục Tánh Vương Gia, 6 vị này gồm Khâm Vương, Trương Vương, Thuấn Vương,
Chu Vương, Hoàng Vương và Thập Tam Vương. 6 vị tướng người Phúc Kiến này dẫn đầu trong
phong trào phản Thanh phục Minh, nhưng thất bại nên đã đưa con cháu mình theo đường biển đến
Hội An. Hằng năm ở đây có tổ chức ngày giỗ tổ cho 6 vị này vào ngày 16/2 âm lịch, nhưng trước đó
một ngày, nhiều người đã đến dâng hương. Hội quán cũng cúng chay , cầu quốc thái dân an, mưa
thuận gió hòa, người khỏe mạnh.

Bàn thờ bên phải là nơi thờ tượng lớn của Bà Chúa Sinh Thai, Bà là người nặn ra hình hài đứa trẻ.
Hai Bà phái dưới là một Bà khai sinh và một Bà khai tử. Ở dưới thấp là 12 Bà Mụ, mỗi Bà có nhiệm
vụ chăm sóc đứa trẻ mỗi tháng trong 12 tháng đầu đầu tiên. Vì thế khi đứa trẻ chưa đầy một năm tuổi,
khi chúng cười hay nói gì đó, người ta cho là các Bà dạy, hoặc khi chúng bị té ngã nhưng không bị
thương gì, người ta cho rằng có bà Mụ che chở. Chính vì vậy mà người ta thường hay tổ chức thôi nôi
hay đầy tháng để tỏ lòng biết ơn các Bà Mụ. Ngày xưa, trong buổi lễ người ta thường hay chuẩn bị 12
miếng trầu, 12 miếng cau để dâng cúng 12 Bà Mụ và có riêng một lá trầu và một quả cau cho Bà
Chúa Sinh Thai. Cũng chính vì sự linh thiêng này mà Hội Quán còn là nơi để cho những người hiếm
muộn về đường con cái đến đây cầu tự.
Còn phía bàn thờ bên trái là nơi thờ Thần Tài. Vị thần bên trái là Thần Tài Trắng hay còn gọi là Phúc
Thần, là vị thần ban của cải, phước lộc. Vị thần bên phải là Thần Tài Đen hay còn gọi là Pháp Thần,
là vị thần trừng phạt những người sử dụng tiền bạc không phù hợp với đạo lý. Đã có rất nhiều người
đến đây để thắp hương cầu tài, cầu lộc và rút xăm đầu năm.
Bây giờ, chúng ta sẽ dừng lại ở đây trong một vài phút để qu khách chụp hình, sau đó chúng ta sẽ rời
Hội Quán theo lối của hông của dãy nhà đông tây. Đó là nơi thờ các bài vị của những người thành lập
nên Hội Quán này và những người quyên góp tiền của xây và trùng tu Hội.

Sau đây là 1g00 chúng ta sẽ tự do tham quan phố cổ. Sau đó 5g00 em xin phép hẹn Đoàn mình tại đây
để chúng ta sẽ khởi hành về TP Đà Nẵng và sử dụng bữa tối ạ

T Hội An - Đà Phan
Nẵng Kim +
Em xin phép thông báo lịch trình ngày mai của chúng ta. Sáng mai 7g00 chúng ta sẽ sử dụng điểm Lê Trang
tâm tại khách sạn. Sau đó để thuận tiện khoảng 8g00 sẽ làm thủ tục checkout phòng. Sau khi làm thủ
tục checkout chúng ta sẽ di chuyển tới Ngũ Hành Sơn và sau đó khoảng 13g00 chúng ta sẽ di chuyển
tới sân bay để làm thủ tục lên tàu bay, chuyến bay khởi hành về TP HCM của chúng ta sẽ khởi hành
lúc 15g30 ạ
Em xin chúc quý anh/chị sẽ nghỉ ngơi thật tốt sau một ngày đầy năng lượng ạ.

S Dạ vậy là chúng ta đã tới ngày cuối cùng của hành trình nhưng những điểm đến vâ DANACITI Mai Thi
Hotel - Ngũ
Ngũ Hành Sơn (Trên xe) Hành Sơn - siêu
thị Đặc Sản
Thưa toàn thể quý đoàn nhà mình thì hiện nay bác tài đã đưa nhà mình tới điểm đến đầu tiên trong Miền Trung.
chuyến hành trình. Đó chính là khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn. Nói về Ngũ Hành Sơn, người
dân xứ Quảng đến nay vẫn luôn tự hào:

“Quê em có dải sông Hàn

Có Hòn Non Nước, có hang Sơn Trà

Quảng Nam có núi Ngũ Hành

Có sông Chợ Củi, có thành Đông Dương

Chiều chiều mây phủ Sơn Trà

Sấm rền Non Nước, trời đã đổ mưa”

Ngũ Hành Sơn có vị trí nằm ở phía đông nam thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố khoảng
8 km. Phía Đông giáp biển Đông, Phía Tây giáp sông Cổ Cò, Phía Nam giáp khu dân cư phường Hòa
Hải, Phía Bắc giáp khu dân cư phường Hòa Hải. Em có thể giúp đoàn nhà mình có thể nói gọn hơn là:
“ Phía Đông giáp Biển Đông, Phía Tây giáp sông Cổ Cò, Phía Nam và phía Bắc giáp khu dân cư
phường Hòa Hải”.

Khu danh thắng Ngũ Hành Sơn tại Đà Nẵng có vị trí địa lý hết sức thuận lợi, đó là một trong những
điểm đến của đa số đoàn khách trên con đường di sản Miền Trung: Cố Đô Huế – Ngũ Hành Sơn –
Phố cổ Hội An và Khu di tích đền tháp Mỹ Sơn, bên cạnh đó khu danh thắng còn có biển, có sông và
núi rất thuận lợi cho việc khai thác và phát triển du lịch đối với các du khách trong và ngoài nước.
Tên thường gọi: Danh thắng Ngũ Hành Sơn. Tên này có từ năm Minh Mạng thứ 18 (1837) khi vua
Minh Mạng dựa vào cấu tạo, vị trí tự nhiên của núi và thuyết âm dương ngũ hành đã đặt tên lần lượt
cho các ngọn núi là: Kim Sơn – Mộc Sơn – Thủy Sơn – Hỏa Sơn – Thổ Sơn (riêng Hỏa Sơn có 2
ngọn núi gần kề nên được gọi là Dương Hỏa Sơn và Âm Hỏa Sơn) và tên gọi chung cho quần thể là
Ngũ Hành Sơn.
Cho em xin phép được hỏi nhà mình một câu được không ạ? Sắp tới đây thì em chuẩn bị mang đến
cho đoàn nhà mình một sự tích liên quan đến Ngũ Hành Sơn thì câu hỏi em đặt ra cho quý đoàn nhà
mình là sự tích đó bắt nguồn từ câu chuyện về gì, quý đoàn nhà mình có vị nào đoán được không ạ?
Dạ vâng em vừa được nghe được từ con rồng rồi ạ. Rất đúng rồi ạ, truyền thuyết Ngũ Hành Sơn hay
còn gọi là Núi Nước Non bắt nguồn từ câu chuyện “con Rồng đẻ trứng vàng”. Truyền thuyết Ngũ
Hành Sơn-Núi Non Nước được kể rằng: Ngày xửa ngày xưa có một cụ già từ miền biển phía Bắc xa
xôi bơi thuyền đến cập vào bãi biển hoang sơ phía Đông dãy Trường Sơn Nam.

Thấy địa thế thuận lợi, gần sông, tựa núi, cụ dựng một túp lều cỏ và sống bằng nghề chài lưới. Một
ngày nọ, khi sửa soạn ra khơi đánh cá như thường lệ, cụ bỗng thấy trời bỗng nổi sấm, gió thổi vùn
vụt, mặt biển sôi động, từng đợt sóng cao xô vào bờ cuồn cuộn. Trong tiếng gầm rít của gió, tiếng gào
thét của sóng, cụ già thấy hiện ra một con rồng khổng lồ từ biển tiến vào. Biết cơ sự chẳng lành, điều
hung sắp đến, cụ hoảng hốt tìm nơi lẩn tránh. Từ nơi ẩn nấp, cụ nghe một tiếng sấm vang lên, tiếng
gầm thét dữ dội và từ dưới bụng con rồng lăn ra một quả trứng lớn nằm im trên mặt đất. Trời đất dần
sáng ra, con rồng mệt mỏi từ từ trườn về phía biển sâu. Chưa kịp hoàn hồn sau cơn kinh thiên động
địa, thì từ dưới biển, một con rùa vàng khổng lồ hiện lên, đến bên túp lều và nói với lão, giọng như
sóng gào, biển thét, âm vang như vực sâu núi thẳm:

“Ta là thần Kim Quy, ta muốn ngươi phải gắng sức bảo vệ giọt máu này của Long Quân.

Biết là thần linh hiển thị, cụ già than thở:

– Tôi tuổi già, sức yếu làm sao đủ sức đảm đương công việc hệ trọng này.

Thần Kim Quy liền trao cho cụ già một chiếc móng và nói:

– Ngươi đừng lo, hãy cầm lấy chiếc móng này và hễ có chuyện chẳng lành thì cứ đặt móng bên ta, ta
sẽ chỉ cách cho.

Cụ già nhận chiếc móng nhưng trong lòng không khỏi lo lắng. Đây là tinh huyết của thần Long
Vương. Thần đã chọn nơi này để gìn giữ, hẳn có lí do những vật báu nằm ở đây không khỏi thu hút
các loài thú dữ và thổ phỉ rừng núi, một mình lão làm sao chống lại được. Nhưng cơ trời đã định, đất
thiêng tất rồng ở, cụ ở nơi này đã lâu tất có cách gìn giữ vật báu này.

– Được, tôi xin cố hết sức. cụ già bình tĩnh đáp.

Xong việc, Thần Kim Quy liền quay ra biển và biến mất sau làn nước xanh. Từ đó, cụ già giữ gìn và
chăm nom quả trứng rất cẩn thận, không lúc nào lơ là.

Một hôm đang đang ngồi vá lưới, cụ già kinh hãi khi thấy một chiếc xe trâu từ đằng xa vùn vụt lao về
nơi chôn cất quả trứng, trên xe có đến hàng chục tên cướp mặt mày hung tợn, vũ khí lăm lăm trên tay.
Lo sợ chiếc xe trâu sẽ nghiền nát quả trứng, nhớ đến lời thần dặn, cụ già vội lấy chiếc móng rùa ra đặt
sát bên tai mình và cụ nghe một giọng nói dịu dàng vang lên: “Hãy nằm xuống, nằm xuống đi!”. Cụ
già liền làm theo, mới vừa nằm xuống, cụ liền hóa thành một con hổ to lớn móng vuốt sắc nhọn, ánh
mắt dữ dằn khiến cho bọn thổ phỉ kinh hồn bạt vía vội bẻ lái xe trâu chạy thụt mạng.

Sau đó, để bảo vệ quả trứng thiêng, cụ già dỡ cả túp lều của mình ở đến dựng ngay bên trên chỗ chôn
quả trứng Rồng. Cụ không ngờ trứng mỗi ngày một lớn và trồi dần lên khỏi mặt đất. Trứng cứ lớn
mãi, lớn mãi choáng gần hết căn nhà tranh bé nhỏ của cụ. Vỏ trứng lấp lánh như một hòn ngọc khổng
lồ.

Một đêm cụ già vừa nằm chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy lách tách, thì ra bọn cướp hôm nọ vì tức
giận đã quay lại phóng lửa đốt túp lều của cụ. Thấy thế cụ liền khấn xin thần Kim Quy cứu giúp. Vừa
khấn xong, cụ già liền thấy mình đang ở trong một hang đá long lanh cẩm thạch rộng rãi và mát mẻ,
trong góc hang lại có giường chiếu sẵn sàng. Không còn thấy túp lều đâu nữa. Từ trong chiếc trứng
thần, một bé gái xinh xắn bước ra. Đó chính là con gái – giọt máu thiêng của thần Long Quân.

Bước ra khỏi cửa hang cụ càng kinh ngạc hơn khi xung quanh có năm hòn núi cao xanh thắm, hoa
tươi đua nở, chim chóc véo von, muôn thú vây quần tựa như tiên cảnh. Kì lạ thay, cô bé có thể trò
chuyện với muôn thú như thể đã quen biết từ lâu.
Từ đó, hai ông cháu sống lặng lẽ trong hang thần cùng chim chóc và thú. Hằng ngày, từng đàn chim
thay nhau đi lấy sữa từ trong các mạch đá thần và hái trái cây quanh núi về nuôi cô bé. Chúng còn tha
bông vải từ các nơi về dệt nên những bộ quần áo xinh đẹp cho cô bé và ông cụ. Những ngư dân quanh
vùng tuy có kinh ngạc nhưng vô cùng yêu mến và giúp đỡ hai ông cháu. Ông lão còn hái thuốc giúp
người dân chữa bệnh, được mọi người hết sức cảm phục.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, cô bé giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời. Một hôm, có
chàng Hoàng tử con vua đi săn với đoàn tùy tùng đi lạc đến cửa hang dưới chân núi đã nhìn thấy cô
gái, quá si mê với vẻ đẹp kiều diễm, chàng đã trở về xin vua cha cho cưới nàng làm vợ. Ông lão vô
cùng buồn rầu nhưng vì hạnh phúc của đứa con của thần nên ngậm ngùi tiễn đưa cô về cung điện
cùng hoàng tử.

Khi đoàn tùy tùng vừa rời khỏi, mặt biển bỗng trở nên dữ dội, thần Kim Quy hiện lên, giọng vang
vang:

– Ngươi đã làm tròn bổn phận của mình, Long Vương rất cảm kích. Nay ngươi hãy cùng ta xuống
long cung để tận hưởng cuộc sống bất tử. Đó là phần thưởng xứng đáng của Long Vương ban tặng
cho ngươi.

Từ đó, người dân gọi nơi ông lão ở và năm ngọn núi là núi Non Nước, là sự kết hợp của trời và đất,
thần và người. Tên gọi Ngũ Hành Sơn cũng từ thuở ấy.

Ngũ Hành Sơn nằm giữa vùng cát trắng mịn từ biển Mỹ khê kéo dài đến bán đảo Tiên sạ Theo địa
chất học, người ta cho là các hòn đảo ở gần bờ biển do tác dụng của thủy triều phù sa bồi đắp, nối liền
với lục địa những núi này bị nước mưa và khí hậu tác dụng xói mòn tạo ra những hang động và hình
thù kỳ dị, làm cho núi có những sắc thái đặc thù.
Thuở xa xưa người Chiêm Thành, thờ thần linh theo tín ngưỡng của họ, ngày nay còn lưu lại di tích
qua những tượng thần bằng đá, những đền tháp và hình tượng khắc trong vách đá ở Chùa Linh Ứng,
trong động Huyền Không. Ngũ Hành Sơn bao gồm 5 ngọn Kim Sơn, Mộc Sơn, Thuỷ Sơn, Hoả Sơn,
Thổ Sơn.
Kim sơn (Metall – metal) là hòn núi khiêm tốn nhất trong 5 ngọn núi kéo dài từ đông sang tây, sông
Trường nối dài ra sông Đà Nẵng, có đò Bến ngự ngày xưa Vua chúa thường cập bến nơi đây để ngoạn
cảnh, qua thời gian biển dâu biến thành ruộng đồng, sông Trường có tên “Lộ Cảnh Giang là sông Cổ
Cò”, đã bị vùi lấp biến thành ruộng hoặc hồ nước còn dấu tích của những đoạn sông chưa bị lấp kín.

Thuỷ sơn (Wasser – water) phía đông bắc là núi đẹp nhất, du khách thường đến ngoạn cảnh gọi là
Chùa Non Nước, phong cảnh hữu tình có thể nói núi Thủy sơn nằm dài từ đông sang tây rộng 15 ha,
có nhiều Chùa được xây cất lâu đời, có động Thạch nhũ, có hai chùa đẹp chùa Tam Thai và chùa Linh
Ứng, đường lên núi làm bằng từng cấp lót đá, trên đỉnh 3 ngọn núi mang tên là “Tam Thai” bởi vì nó
giống như “Sao Tam Thai” tức là 3 ngôi sao làm thành cái đuôi của chùm sao Đại Hùng Tinh. Du
khách từ vùng biển muốn lên thăm Linh Ứng phải bước lên khoảng 108 tầng cấp, nếu đến chùa Tam
Thai nằm ở phía nam phải đi xa hơn những tầng cấp dài 156 bậc. Ngày nay phần lớn du khách đến
Thuỷ sơn bằng xe từ đường Huyền Trân, hai bên đường là làng chuyên về nghề điêu khắc tạc tượng,
bằng đá cẩm thạch.

Mộc sơn (Holz – wood) phía đông nam nằm song song với núi Thủy sơn dù mang tên là mộc, nhưng
cây cối mọc rất ít núi cũng có hang động nhỏ, Mộc sơn có khối đá cẩm thạch trắng giống hình người.

Hỏa sơn (Feuer – fire) ngọn núi hướng về phía tây nam sườn núi hiểm dốc hang động hoàn toàn im
lặng, giữa núi Kim sơn là cánh đồng của xóm Hoà Quế, trên dãy núi Hỏa sơn còn lại những đống
gạch vụn từng mảnh hay đôi khi nguyên vẹn, trong những hố đá gạch sạt lở đó là di tích đền tháp của
người Chiêm Thành. Hoả sơn nơi người ta khai thác lấy đá cẩm thạch. Đá cẩm thạch non nước có
nhiều vân, sắc đẹp hồng, xám, trắng, những loại đá khác nhau rất hữu ích cho công nghiệp, đá vụn để
rải đường, tô tường nhà.

Thổ sơn (Erde – earth) là núi thấp nằm chính giữa có dạng vuông, cạnh không đều nhau, Thổ sơn
không có phong cảnh đẹp chỉ có đất sét đỏ và đá cát lẫn lộn. Theo truyền thuyết Thổ sơn là nơi linh
địa ngày xưa người Chiêm Thành đồn trú nơi đây, còn tìm thấy những nét về văn minh người Chiêm
Thành điêu khắc vào đá như một cứ địa từ đó xuất phát đi cướp phá các vùng biển có tàu buôn đi từ
Trung hoa xuống đến vùng biển Mã lai. Thổ sơn thấp bao quanh những ngọn núi cao hơn.
Làng đá mỹ nghệ Non Nước (Tại điểm)
Kính thưa quý khách: Nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành
Sơn, thành phố Đà Nẵng, Làng nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước được coi là làng nghề lâu đời
nhất và nổi tiếng nhất Đà Nẵng. Trải qua gần bốn thế kỷ tồn tại, các sản phẩm đá mỹ nghệ Non Nước
mang đậm tính nghệ thuật đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường, vượt ra khỏi biên giới quốc
gia, vươn ra tầm thế giới, trở thành niềm tự hào và đem lại nguồn thu đáng kể cho làng nghề Non
Nước.
Theo phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn thì làng đá ngũ hành sơn đà nẵng trước đây có tên là: Quán
Khái Đông Giáp và Quán Khái Tây Giáp, được hình thành từ giữa thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18. .
Dựa theo văn bia của Tiền hiền họ Huỳnh có ghi: “Thạch tượng Quán Khái Đông Huỳnh Bá Công thỉ
khai” và “ Bổn xã Huỳnh Bá Tộc lập” cùng với sự kể lại của các cụ già ở đây thì nghề đá ở chân núi
Ngũ Hành có thể ra đời cùng với thời điểm lập làng. Ông tổ nghề là một người quê gốc Thanh Hóa,
tên là Huỳnh Bá Quát, người đã có công đem nghề đá từ xứ Thanh vào Đà Nẵng. Tại làng hiện nay
vẫn còn nhà thờ “Thạch Nghệ Tổ sư”; ngày mùng 6 tháng Giêng Âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ
của làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước.
Ban đầu, ở vùng này, số người biết nghề làm đá không nhiều; sản phẩm làm ra chủ yếu để phục vụ
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương, như các loại cối giã gạo, cối xay ngũ cốc
hoặc các bia mộ được khắc bằng đá. Đến khoảng đầu thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn cho xây dựng
nhiều cung điện, lăng tẩm, nghề đá ở đây có điều kiện phát triển, uy tín của làng nghề cũng nâng cao,
một số thợ giỏi được triều đình phong hàm Cửu phẩm, nhiều thợ của làng được mời đi làm nghề ở
khắp nơi.
Trước kia, đá nguyên liệu thường được khai thác tại chỗ – núi đá Ngũ Hành Sơn, chủ yếu là đá cẩm
thạch, có nhiều màu sắc, hoa văn đẹp như màu đỏ, đen, trắng, kết cấu mềm mịn, dễ đục. Tuy nhiên,
do nguồn nguyên liệu tại chỗ ngày càng cạn kiệt, từ năm 1990, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam –
Đà Nẵng ra quyết định không cho phép khai thác đá ở Ngũ Hành Sơn nữa, thợ làng nghề phải nhập đá
từ các nơi khác về.
Khi có nguyên liệu, thợ điêu khắc đá sẽ tạo hình sản phẩm ở dạng thô. Đó là công đoạn ra phôi. Quá
trình ra phôi được thực hiện bài bản gồm nhiều công đoạn như: tìm mặt phẳng để tạo chân đế, xác
định điểm chuẩn tạo hình, vẽ phác thảo trên giấy, sau đó vẽ lên mặt đá hoặc in trực tiếp lên tảng đá.
Với những sản phẩm khó, có giá trị nghệ thuật cao, người thợ phải vẽ phác thảo và làm phôi bằng đất
sét trước, khi đạt yêu cầu họ mới làm chính thức. Theo bản vẽ phác thảo, người thợ tiến hành đục
phôi, tạo hình sản phẩm.
Khi phôi hoàn thành, người thợ sẽ làm các chi tiết để hoàn thiện sản phẩm, như: chạm hình nét, trang
trí hoa văn, mài, đánh bóng sản phẩm. Với người thợ, ở công đoạn này, việc quan trọng nhất là chạm
hình nét và trang trí. Công đoạn thực hiện chi tiết thể hiện kỹ thuật chạm khắc đá và đôi tay vàng của
người thợ. Ngoài quy trình chung cho tất cả các sản phẩm, thì mỗi loại sản phẩm lại có yêu cầu kỹ
thuật cụ thể.
Để sản phẩm có màu sắc đẹp, đôi khi người thợ phải nhuộm đá bằng phẩm màu kết hợp với bã chè
xanh, xi đánh giày màu nâu, màu chàm… Bí quyết để có màu đẹp phụ thuộc vào việc pha màu, tạo
nhiệt độ và dùng độ đậm nhạt của màu. Sản phẩm hoàn thiện cần trải qua nhiều công đoạn, nhờ bàn
tay tài năng, kinh nghiệm của người thợ.
Tọa lạc trong vùng đất Ngũ Hành Sơn, ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Champa từ Thánh địa Mỹ Sơn,
làng đá mỹ nghệ là sự giao thoa một cách hài hòa của hai nền văn hóa Việt Cổ và Champa. Điều này
đã tạo nên dòng chảy phong phú cả về sự sáng tạo lẫn hình tượng nghệ thuật để mang đến những tác
phẩm đầy sức sống theo thời gian. Mỗi tác phẩm không chỉ được đục đẽo, mài gọt bằng bàn tay khéo
léo, đôi mắt tinh anh, mà ở đó, người nghệ nhân còn gửi gắm tình cảm và thổi hồn sức sống cho “đứa
con” của mình.
Du lịch Đà Nẵng đến làng đá, du khách sẽ được chìm đắm trong thế giới của vô vàn những dòng sản
phẩm khác nhau với vẻ đẹp tinh tế đến từng góc cạnh. Sản phẩm đá mỹ nghệ Non Nước – Ngũ Hành
Sơn hết sức đa dạng và phong phú. Du khách sẽ không thể cưỡng lại được trước những đường nét sắc
sảo, tinh tế của các tác phẩm điêu khắc, với độ bóng mịn của lớp đá cẩm thạch chỉ có ở núi Ngũ Hành
Sơn với những hình ảnh kiêu sa mà gợi tình của những cặp tình nhân, với sự hùng dũng nhưng không
kém phần lãng tử của những chúa tể sơn lâm; hay sự yên bình, trong lành, thanh khiết của những vị
Bồ Tát, Phật tổ; những chiếc vòng tay nhỏ bé, xinh xắn, trong suốt; những cây trâm cài tóc với các
hình dáng, kích thước khác nhau… Tất cả tạo nên một làng đá đa dạng, phong phú và độc đáo. Các
sản phẩm mỹ nghệ của làng đá Non Nước- Ngũ Hành Sơn là những vật kỷ niệm đầy ý nghĩa của danh
thắng đã theo chân các du khách có mặt ở nhiều nơi trên thế giới.
Năm 2014, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch chính thức công nhận Làng nghề đá mỹ nghệ Non
Nước (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Theo đó, Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước đã hội đủ 4 tiêu chí theo quy định của Luật Di sản Văn
hóa: Có tính đại diện, thể hiện bản sắc cộng đồng, địa phương; phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự
sáng tạo của con người, được kế tục qua nhiều thế hệ; có khả năng phục hồi và tồn tại lâu dài; được
cộng đồng đồng thuận, tự nguyện đề cử và cam kết bảo vệ.
Tiếp theo chúng ta sẽ di chuyển tới Siêu Thị Đặc Sản Miền Trung để mua sắm đặc sản cho người
thân. Quý đoàn chúng ta sẽ mua sắm trong khoảng 1g30 phút. Sau đó 11g00 chúng ta sẽ di chuyển tới
nhà hàng để sử dụng bữa trưa.

C Vậy là hành trình 4 ngày 3 đêm của chúng ta tại thành phố biển Đà Nẵng đã kết thúc. Mai Thi
cám ơn quý đoàn đã lựa chọn công ty chúng em cũng như đã lựa chọn Đà Nẵng là điểm đến để tham + Minh
quan, vui chơi, tìm hiểu. trong quá trình phục vụ đoàn có nhiều sai sót,Trong suốt chuyến đi nếu có Thái
những sơ xuất gì xảy ra khiến quý cô chú Anh Chị cảm thấy không hài lòng, cháu mong nhận được sự
góp ý chân thành để rút kinh nghiệm và là bài học để những chuyến công tác sau được tốt hơn.

Sau khi đã hành trình cùng cô chú anh chị hơn 4 ngày 3 đêm, đã đến lúc chia tay, cho phép em chúc
các cô chú sau chuyến đi tham quan này.
mọi người về nhà ,gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc, chúc cô chú ăn hơn cũ,ngủ hơn xưa,
đi lên núi thì chân cứng đá mềm, đi xuống biển thì thuận buồm xuôi gió,
khi mua đất hoa bèo nở rộ- lúc bán đất quốc lộ chạy qua.
Nói đối tác nghe, đe đối tác sợ và nợ ngân hàng không đòi, để chúng ta có tiền sang năm lại đi du
lịch tiếp.hi vọng được gặp lại cô chú trong thời gian sớm nhất.

Xe đang đưa đoàn chúng ta tới sân bay Đà Nẵng để làm những thủ tục trước khi lên tàu bay
T

You might also like