You are on page 1of 45

Khoa Địạa lí́ – Địạa danh

học̣c
Bàì tập̣ cuốí kỳ

GVHD :Ths. HOÀǸNG THỊ̣ DIỆỤU

HUYỀN:̀N07CDL
SVTH : ĐẶṆNG THỊ̣ HÀ
LỚṔ
1. Giới thiệu tổng quan
Ngũ
về Hành
Đề tài :
Sơn.
2. Các tên gọi theo
-Tìm hiểu địa
gian.
thời
danh Ngũ Hành
3.Giới thiệu về 5 ngọn
Sơn.
- Mối liên hệ với làng núi
̀ Ngũ Hành
nghê đá Non
Sơn. 4. Mối liên hệ với làng
Nước.
Mỹ
đáNghệ Non
Nước.
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
VỀ DANH THẮNG NGŨ HÀNH SƠN
Nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng gần 10km về hướng
Đông Nam, quần thể di tích Ngũ Hành Sơn như hòn non bộ
khổng lồ sừng sững bên bờ biển đông giữa lòng thành phố năng
động, văn minh, hiện đại. Đây là điểm du lịch không thể bỏ qua
trên con đường di sản miền Trung, là biểu tượng vĩnh hằng trong
lòng mỗi người con quê hương Đà Nẵng, là điểm đến đầy tiềm
năng về thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, làng nghề, du lịch biển…
Năm 1980, Bộ Văn hóa (nay là Bộ VHTT&DL) đã xếp hạng khu
danh thắng này là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia.
Danh thắng này nằm trên một vùng cát trắng. Về phía đông
bắc có làng Hóa Khê, chính đông thuộc ấp Sơn Thủy, làng Quãng
Khái, huyện Hòa Vang, tỉnh Quãng Nam ( nay là phường Hòa Hải,
quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng ).
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
VỀ DANH THẮNG NGŨ HÀNH SƠN

Ngũ Hành Sơn, chiếm một vùng đất sát biển Đông Hải và
giữa thành phố Đà Nẵng – Hội An, cùng với dãi đất liền bán
đảo Sơn Trà, phía bắc là Hải Vân Quan, hướng nam là núi Trà
Kiệu, phía tây là dãy Trường Sơn.
Ngũ Hành Sơn gồm 5 ngọn núi do thiên nhiên xếp đặt một
cách huyền bí trên một bãi đất cát rộng mênh mông, chỉ cách
biển 100 thước.
Ngũ Hành Sơn, từ trên đỉnh, du khách phóng tầm mắt ra
bốn ph ương, hình ảnh một miền trù phú của xứ Ngũ Phụng
tề Phi, Tứ Kiệt, Tứ Tuyệt, Tứ Hùng, Tứ Hổ với cảng Tiên Sa
huyền thoại, đèo Hải Vân, núi Bà Nà hùng vĩ cùng những giòng
sông Thu Bồn, Cổ Cò, Cu Đê hiền hòa… quyện với nhau điểm
xuyết cho Ngũ Hành Sơn những phụ cảnh đầy chất thơ mộng.
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
VỀ DANH THẮNG NGŨ HÀNH
SƠN
Ngũ Hành Sơn vì thế, đã tô
điểm cho nước Việt Nam một
thắng tích kỳ vĩ thu hút hàng
triệu, triệu du khách tham quan
qua mấy thế kỷ cho đến ngày
nay, dòng người trẩy về đay
vẫn không dứt.
Ngũ Hành Sơn vì thế mà nay
tiêu biểu di sản văn hóa đậm
bản sắc dân–tộc
Đà thành
của thành
phố phố Lễ̃ hộiị Quan Thế́ Âm ở
ương loạ i I
Nẵ ng trungtrực
thuộc
của Việt Nam. Ngũ̃ Hn
à nhh Sơn
CÁĆC TÊN GỌỊI THEO THỜÌI
GIAN
Từ xưa, quần thể này được người trong và ngoài nước đặt
nhiều tên. Đây là bằng chứng sự quan tâm của người đời trước
cảnh trí hùng vĩ này.
Trước kia, người Việt đặt tên rất tượng hình; Ngũ Uẩn hay
Ngũ Chỉ. Năm ngọn núi như năm ngón tay.
Người Pháp gọi “ Les montagnes de marbre”, có nghĩa là Núi
Đá Hoa.
Ảnh hưởng truyện Tây Du Kí của người Tàu, người ta giải
thích na ná với truyện Tây Du Kí. Huyền thoại đức Phật Quan
Thế Âm đã dùng pháp khiến Tề Thiên Đại Thánh dù có sức cân
đảo vân hàng vạn dặm, vẫn không thoát khỏi bàn tay Đức Phật.
Phật Bà Quan Thế Âm còn lưu dấu đến ngày nay và tồn tại mãi.
Trong năm ngọn núi, Hỏa Sơn có hai ngọn âm, dương. Người
xưa bảo : “ chắc ngón trỏ ( ngón trỏ ứng hỏa ...) có tật ! Nên mới
xảy ra cớ sự như thế!”.
CÁĆC TÊN GỌỊI THEO THỜÌI
GIAN
Còn theo thuyết Chiêm Thành, Ngũ Hành Sơn do vỏ
trứng của Thần Kim Quy tạo nên. Từ dưới biển thần Kim
Quy lên bờ đẻ trứng. Quả trưng nở ra thành năm mảnh và
xuất hiện một người con gái rất đẹp còn vỏ trứng sau trở
thành Ngũ Uẩn !
Đó là truyền thuyết, là huyền thoại. Còn có nhà khảo cổ
sẽ tạo ra lý lẽ.
Trở lại với Ngũ Hành Sơn, cha ông ta không ít người đã
quan tâm đến Ngũ Hành Sơn.
Ngũ Hành Sơn còn có các tên gọi khác như : Non Nước,
Ngũ Uẩn Sơn (Núi năm chòm), Bạch Hoa Ngũ Chỉ (Năm
ngón tay), núi Cẩm Thạch.
CÁĆC TÊN GỌỊI THEO THỜÌI
BằngGIAN
vài một di tích được chạm khăć trên những hòn đá,
viên gạch rải rác đó đây trên đỉnh núi mà thỉnh thoảng ta thấy
được, tự nó cũng đã nói lên phần nào cung cách sinh hoạt
người Chiêm Thành dùng nơi sùng bái các vị thần mà họ tôn
thờ, song về mặt tâm linh, hầu như không ai cảm nhận sự
linh ứng toát ra từ một vài cổ vật bằng tượng do người Chăm
chạm khắc. Những cổ vật Chiêm Thành nơi đây bị tàn phá
nặng nề bởi đây là vùng biij ảnh hưởng liên tục của các cuộc
chiến tranh Nam tiến từ đời Trần đến thời Lê Thánh Tông,
khiến dân Chiêm Thành khổ sở, vất vả vì tính hiếu thắng của
vua quan. Họ phải rời bỏ Ngũ Hành Sơn di tản về phía
nam... Ngũ Hành Sơn từ đó được nhân dân ta lần hồi tôn tạo
nên thắng tích vừa là nơi tôn nghiêm, tín ngưỡng của thiện
nam tín nữ, không chỉ dành riêng cho mọi người trên cả
nước, nhất là những nguời mộ đạo Phật.
CÁĆC TÊN GỌỊI THEO THỜÌI
GIAN
Sự tôn tạo Ngũ Hành Sơn trãi qua bao thế kỷ mà thoạt đầu,
trước khi hồi kinh sau thành công Nam tiến 1471, vua Lê Thánh
Tông để lại người anh cùng cha khác mẹ là Trần Tấn Triều trấn
nhậm Ngũ Hành Sơn. Ông rất mộ đạo Phật nên thời gian nhậm
trị ở đây, ông có công lớn với địa phương này, nhất là với Ngũ
Hành Sơn. Lúc ông qua đời, con ông là Lê Công Triệu kế tục sự
nghiệp cha và cũng tạo được nhiều công đức.
Do vậy, ngày nay du khách viếng Ngũ Hành Sơn, được chiêm
ngưỡng “ thần Câu kê Lê Công Triệu” bằng hình tượng, an vị tại
chùa Tam Thai – nơi đây các vị trụ trì kế tục bảo quản nhiều sắc,
bằng do các vua triều Nguyễn ban về những thành tích công quả
do chùa đạt được”.
CÁĆC TÊN GỌỊI THEO THỜÌI
Điều đặc biệt là cả ông Lê Tấn Triều và Lê Công Triệu từng
GIAN
mời được các bặc chân tu, các cao tăng đến trụ trì Ngũ Hành
Sơn, lấy nơi đây làm nơi hoằng dương đạo pháp, phổ đôh chốn
sinh.
Tương truyền, chúa Nguyễn có lần thất trận tại Ngũ Hành
Sơn, được các nhà sư hạ sơn cứu ngài thoát nạn cùng một số
quân binh đáng kể. Vì thế, khi ngày lên ngôi vua, ngài liền ban
sắc phong cho Ngũ Hành Sơn, nhất là Hòn Thủy Sơn hưởng
được ân huệ đặc biệt trong việc hoằng dương đạo pháp.
Vaò thời Minh Mệnh, cảnh chùa ở Ngũ Hành Sơn đã có ảnh
hưởng lớn lao cho việc quy y của công chúa, em Minh Mệnh.
Điều này rất có ý nghĩa về uy tín của chùa đới với triều điều,
đối với nhân dân. Tâm nguyện của công chúa đã khiến nhà vua
cũng bằng lòng, không gây khó khăn nào cho việc tu hành của
công chúa.
CÁĆC TÊN GỌỊI THEO THỜÌI
Sinh thời, vua Minh Mệnh cũng thường vào hương khói, lễ
GIAN
phật tại Tam thai, cho tôn tạo khang trang chùa này và xây điện
Hoa Nghiêm, khắc và sơn lại những gì đã hư hỏng, mọt nát.
Ngài còn cho tu sửa lại các chùa cùng các, đúc chuông, đúc
tượng, xây cất hahf cung tại đây gọi là “Động Thiên Phước
Địa”. Đồng thời, ngài còn cho tu sữa lại các chùa, bị hư hại
dưới triều tây sơn, ân tứ rất nhiều cho các nhà chù cùng các vị
sư sãi tu hành tại đấy.
Từ hiều thế kỷ trước, các du khách xem Ngũ Hành Sơn là
bức tranh hài hòa giữa cảnh trí thiên nhiên với cái hồn thoát tục
để rồi lưu lại trên nhiều vách đá nhưng thi tứ trác tuyệt khen
ngợi. Ngày nay, tuy có những bài thơ đã bị nhòe theo thời gian
nhưng đó là những “chứng tích sống” gợi cho du khách cảm
nhận được giá trị của một danh thắng đã khác nhiều dấu ấn
vàng son trong tâm hồn du khách tham quan cảnh này.
CÁĆC TÊN GỌỊI THEO THỜÌI
GIAN
Nơi đây chỉ có lúc chiến tranh mới thưa khách hành
hương, mà ta có thể biết được qua sử sách trong thời nhân
dân Quãng Nam – Đà Nẵng, nhân dân cả nước ;ao vào cuộc
chiến bảo vệ Tổ quốc. Chính nơi đây cũng là nơi thuận lợi
cho các chí sĩ cách mạng xua và cận đại của QN – ĐN chống
đế quốc, thực dân Pháp, Mỹ trong thế kỷ XX. Trước kia có
các cụ hoạt động cho phong trào Nghĩa hội, phong trào duy
tân, đông du dưới sự lãnh đạo cảu các chí sĩ Nguyễn Duy
Hiệu , Phan Châu Trinh, Trần Cao Vân... được báo chí ca
ngợi chiến tích vì nước quên mình.
.
CÁĆC TÊN GỌỊI THEO THỜÌI
NgàyGIAN
nay, Ngũ hành Sơn là di sản văn hóa quốc gia được
nhà nước quan tâm bảo vệ, phát huy tiềm năng to lớn về
nghành du lịch tại đây để giới thiệu ra các nước trên thế giới
và thắng tích mang đậm bản sắc dân tộc – Ngũ Hành Sơn –
vừa do thiên nhiên, vừa do bàn tay bồi trúc của nhân dân QN-
ĐN, của chính quyền các cấp giữ nguyên cảnh đáng giữ, tu bổ
cái đáng tu bổ và tôn tạo cái đáng tôn tạo... khiến cho cảnh trí
nơi đây một danh thắng vô giá của nước Việt Nam, ngày càng
hoành tráng, thu hút khách thập phương, trong và ngoài nước
đổ về đây chiêm ngưỡng ngày càng đông.
GIỚÍI THIỆỤU VỀ̀ 5 ̣ NUÍ̉Í NGŨ̃ ̀ H
NGOṆN CUẢA HAǸN SƠN

Ngũ Hành Sơn là tên gọi chung của năm ngọn núi
thuộc Đà Nẵng.
Đây là nhóm núi đá (trong đó có cả đá cẩm thạch) nằm
kề với biển, liền sông được vua Minh Mạng đặt tên mỗi
ngọn núi tượng trưng cho các yếu tố cấu thành vũ trụ
(được chia làm 2 loại: Âm Hỏa sơn và Dương Hỏa sơn) va
Thổ sơn:
+ Thủy Sơn + Hỏa Sơn
+ Kim Sơn + Thổ
+ Mộc Sơn Sơn
GIỚÍI THIỆỤU VỀ̀ 5 NGOṆṆ NUÍÍ CUẢẢ NGŨ̃ HAǸǸ H
SƠN
Sở dĩ có những động, những hang được cư dân địa
phương ưu ái đặt tên hang, động ông Lê, Phủ Lê là do những
nơi này, trước kia cụ Lê Bá Trinh đỗ cưr nhân xong, không
chịu nhận lệnh bổ dụng của triều đình di Tri phủ, cùng với
các cụ Phan Châu Trinh, Trần Bá Cáp, Huỳnh Thúc Kháng tổ
chức phong trào Duy Tân.
Chính thời điểm ấy, cụ Lê Bá Trinh đã rời gia đình ở Hải
Châu – Đà Nẵng, vào đây ẩn mình hoạt động cho phong trào.
Việc làm đại nghĩa của cụ khiến nhân dân quanh vùng kính
trọng, đặt tên cho các hang động để lưu lại sự tích cho đời,
và đẻ tỏ lòng biết ơn cụ.
GIỚÍI THIỆỤU VỀ̀ 5 NGOṆṆ NUÍÍ CUẢẢ NGŨ̃
Kim
HAǸǸ sơn (Metall - metal) là H
hòn núi khiêm tốn nhất trong 5
SƠN
ngọn núi kéo dài từ đông sang tây, sông Trường nối dài ra sông
Đà Nẵng, có đò Bến ngự ngày xưa Vua chúa thường cập bến
nơi đây để ngọan cảnh, qua thời gian biển dâu biến thành
ruộng đồng, sông Trường có tên „Lộ Cảnh Giang là sông Cổ
Cò“, đã bị vùi lấp biến thành ruộng hoặc hồ nước còn dấu tích
của những đoạn sông chưa bị lấp kín
Mộc sơn (Holz - wood) phiá đông nam nằm song song với núi
Thủy sơn dù mang tên là mộc, nhưng cây cối mọc rất ít núi cũng
có hang động nhỏ, Mộc sơn có khối đá cẩm thạch trắng giống
hình người
GIỚÍI THIỆỤU VỀ̀ 5 NGOṆṆ NUÍÍ CUẢẢ NGŨ̃ HAǸǸ H
SƠNThuỷ sơn (Wasser - water) phiá đông bắc là núi đẹp nhất, du
khách thường đến ngoạn cảnh gọi là Chùa Non Nước, phong
cảnh hữu tình có thể nói núi Thủy sơn nằm dài từ đông sang tây
rộng 15 ha, có nhiều Chùa được xây cất lâu đời, có động Thạch
nhũ, có hai chùa đẹp chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng, đường lên
núi làm bằng từng cấp lót đá, trên đỉnh 3 ngọn núi mang tên

„Tam Thai“ bởi vì nó giống như „Sao Tam Thai“ tức là 3
ngôi sao làm thành cái đuôi của chùm sao Đại Hùng Tinh. Du
khách từ vùng biển muốn lên thăm Linh Ứng phải bước lên
khoảng 108 tầng cấp, nếu đến chùa Tam Thai nằm ở phiá nam
phải đi xa hơn những tầng cấp dài 156 bậc. Ngày nay phần lớn
du khách đến Thuỷ sơn bằng xe từ đường Huyền Trân, hai bên
đường là làng chuyên về nghề điêu khắc tạc tượng, bằng đá
cẩm thạch
GIỚÍI THIỆỤU VỀ̀ 5 NGOṆṆ NUÍÍ CUẢẢ NGŨ̃ HAǸǸ H
Hỏa sơn (Feuer - fire) ngọn núi hướng về phiá tây nam sườn
SƠN
núi hiểm dốc hang động hoàn toàn im lặng, đối diện với hòn Kim
Sơn, bên trái đường Sư Vạn Hạnh, trên dãy núi Hỏa sơn còn lại
những đống gạch vụn từng mảnh hay đôi khi nguyên vẹn, trong
những hố đá gạch sụp lở đó là di tích đền tháp của người Chiêm
Thành. Hoả sơn nơi người ta khai thác lấy đá cẩm thạch. Đá cẩm
thạch non nước có nhiều vân, sắc đẹp hồng, xám, trắng, những
loại đá khác nhau rất hữu ích cho công nghiệp, đá vụn để trãi
đường, tô tường nhà. Hỏa Sơn gồm có một hòn Âm và một hòn
Dương, nối liền với nhau bằng một đường đá thiên tạo nhô cao
hẳn lên.
Hòn Âm Hỏa Sơn nằm phía đông, gần đường Lê Văn Hiến,
chóp núi tròn nhô lên cao hơn. Sườn núi có nhiều thớ đá nằm
nghiêng và chạy nghiêng cắt ra từng đoạn, cây cối mọc ở các kẻ
đá, ở mỏm núi phía đông có một cái hang thông từ sườn phía nam
ra sườn phía bắc. Nhân dân địa phương thường đi theo đường
GIỚÍI THIỆỤU VỀ̀ 5 NGOṆṆ NUÍÍ CUẢẢ NGŨ̃ HAǸǸ H
SƠN Hòn Dương Hỏa Sơn nằm ở phía tây.
Ngày xưa, khi còn giao lưu được giữa Hội An và Đà
Nẵng bằng đường thủy, ở đây có một bến sông, ghe
thuyền đi về buôn bán vô cùng tấp nập.
Trên bờ sông, sát chân hòn Dương Hỏa Sơn có khu
miếu Ông Chài, hiện đã bị đổ nát. Tên dân dã "núi Ông
Chài" có thể bắt nguồn từ đó. Tại một điểm cao trên
sườn núi cheo leo, vách đá thẳng đứng, phía bắc Dương
Hỏa Sơn nhìn về phía Kim Sơn, có ba chữ Hán lớn, nhìn
từ xa rất rõ "Dương Hoả Sơn" và một dòng chữ nhỏ
phải đến gần mới thấy : "Sắc Minh mạng thập bát niên
thất nguyệt nhật cát lợi".
GIỚÍI THIỆỤU VỀ̀ 5 NGOṆṆ NUÍÍ CUẢẢ NGŨ̃ HAǸǸ H
SƠN Thổ sơn (Erde - earth) là núi thấp nằm chính giữa có
dạng vuông, cạnh không đều nhau, Thổ sơn không có
phong cảnh đẹp chỉ có đất sét đỏ và đá cát lẫn lộn.
Theo truyền thuyết Thổ sơn là nơi linh địa ngày xưa
người Chiêm Thành đồn trú nơi đây, còn tìm thấy những
nét về văn minh người Chiêm Thành điêu khắc vào đá
như một cứ điạ từ đó xuất phát đi cướp phá các vùng
biển có tàu buôn đi từ Trung hoa xuống đến vùng biển
Mã lai. Thổ sơn thấp bao quanh những ngọn núi cao
hơn.
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
Có lẽ không ai đến Ngũ Hành Sơn mà không ghé thăm làng
NƯỚĆC
mỹ nghệ Non Nước. Đó là một nơi sản xuất đồ mỹ nghệ
bằng đá cẩm thạch nổi tiếng khắp cả nước và cả nước
ngoài.
Làng đá mỹ nghệ Non Nước nằm ở phường Hòa Hải,
quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng là một trong số rất
ít làng nghề truyền thống còn lại trên địa bàn thành phố và
cũng là làng nghề có quy mô hoạt động lớn nhất và có tiềm
năng phát triển nhất hiện nay.

Mỗi lần
chế tác tượng,
những người thợ
đá Non Nước lại
người
nhớ đếnđầ u công
khai
ơn của tiên
nghề sáng làng
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC

Qua các nguồn tư liệu và theo nhân dân địa phương


cho biết thì nhiều làng cũ của phường Hoà Hải, quận Ngũ
Hành Sơn hiện nay, được thành lập vào khoảng cuối thế
kỷ XVII, một số ít làng có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ
16, khi Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ
Thuận
- Quảng, bắt đầu xây dựng cơ sở cát cứ và thực
hiện chính sách khai hoang lập làng. Gần đây qua tài liệu
văn bia mới phát hiện cho biết danh xưng Quán Khái xã
(làng Quán Khái), ra đời muộn nhất cũng vào nửa cuối thế
kỷ XVII, như văn bia chùa Phổ Khánh ở xã Đại Hoà,
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Văn bia được dựng vào
năm Mậu Ngọ, Vĩnh Trị thứ 3 (tức thời vua Lê Huy Tông -
1678)
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC
Nội dung bia nói về nhân dân làng Ái Nghĩa cúng ruộng
đất cho chùa, còn người thợ đá khắc bài văn trên bia, quê
quán ở tại Quán Khái xã. Như vậy, lúc bấy giờ đã có thợ điêu
khắc đá của làng Quán Khái đi vào Ái Nghĩa (nay thuộc
huyện Đại Lộc) để khắc bia cho làng này, điều đó cũng cho
thấy, ít ra thì làng Quán Khái đã thành lập trước đó một
khoảng thời gian khá lâu rồi.
Đến thế kỷ XVIII, làng Quán Khái được chia làm hai
làng, đó là làng Quán Khái Tây giáp và Quán Khái Đông giáp
như sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn còn ghi lại.
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC

Trong hai làng này thì chỉ có làng Quán Khái Đông
(hay Khái Đông), nhân dân ngoài làm ruộng, vẫn tiếp
tục làm nghề điêu khắc đá, còn nhân dân ở làng Quán
Khái Tây thì chỉ thuần nghề nông. Sau cách mạng
tháng Tám (1945), làng Khái Đông thuộc xã An Trung,
huyện Hoà Vang. Năm 1975 đến năm 1996 làng Khái
Đông thuộc xã Hoà Hải, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Từ năm 1997 đến nay thì gọi là Khối 5 Khái Đông,
thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng. Làng nằm cách chân núi Ngũ Hành Sơn
về phía Nam khoảng 2km.
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC

Làng Khái Đông ngày xưa rất rộng, diện tích ước
chừng hơn ngàn mẫu, có thể nói diện tích phường Hoà
Hải hiện nay phần lớn là đất của làng Khái Đông xưa.
Làng được chia làm 4 xóm: xóm Trung, xóm Tây, xóm Nam
và xóm Phước Hải. Về địa giới, phía Bắc làng Khái Đông
giáp với núi Ngũ Hành Sơn, lúc bấy giờ thuộc làng Khuê
Bắc (nay thuộc phường Hoà Hải), phía Tây giáp với làng
Quán Khái Tây (nay là phường Hoà Quý), phía Đông giáp
với làng Tân Lưu và biển Đông. Còn phía Nam giáp với
làng Tứ Câu, Cẩm Sa (nay thuộc xã Điện Ngọc, Điện
Nam, huyện Điện Bàn).
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC

Nằm chắn ngang phía bắc làng Khái Đông là núi


Ngũ Hành Sơn, thường gọi là núi Non Nước. Đây là
cụm núi đá vôi với năm ngọn gồm Thuỷ Sơn (núi Chùa),
Mộc Sơ (núi Mồng Gà), Kim Sơ (núi Đá Chồng), Thổ
Sơn (núi Ông Biền) và Hoả Sơn (núi Ông Chài). Trong
đó ngọn Thuỷ Sơn là cao nhất, khoảng 300m so với mặt
nước biển. Trong núi có nhiều hang động tự nhiên rất
đẹp. Với chất liệu đá cẩm thạch nhiều màu sắc và có độ
dẻo, nên núi Ngũ Hành Sơn chính là nguồn nguyên liệu
mà nhân dân làng Quán Khái Đông trong buổi đầu lập
nghiệp đã khai thác và chế tác thành những công cụ, vật
dụng phục vụ cho đời sống, sinh hoạt và sản xuất của
mình, dần dần hình thành nên làng nghề điêu khắc đá
nổi tiếng của xứ Quảng.
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC
Nhân dân Khái Đông từ nhiều thế kỷ trước, sau khi khai phá
đất đai lập làng, đã xây dựng đình làng để thờ thần Thành Hoàng
làng và các vị có công khai phá đất đai lập làng. Đình Quán Khái
Đông dài hơn 31m và rộng khoảng 20m. Cùng với việc xây dựng
đình, nhân dân còn xây dựng chùa Thái Bình, nhà thờ tổ nghề điêu
khắc đá, nhà thờ họ, đền miếu và chợ làng. Theo các cụ cao niên
trong làng kể lại, chợ Quán Khái Đông ngày trước còn có tên là chợ
đình (vì xây dựng gần đình) là chợ làng rất sầm uất, nằm bên bờ
sông Cổ Cò, nên thường ngày trên bến, dưới thuyền kẻ buôn,
người bán tấp nập. Chợ còn là đầu mối giao lưu buôn bán giữa Đà
Nẵng và Hội An cũng như nhiều vùng phụ cận khác. Trong kháng
chiến chống Pháp, đình làng Quán Khái Đông, chùa Thái Bình và
chợ Quán Khái Đông bị giặc đốt phá triệt hạ. Hiện nay đình Quán
Khái chỉ còn lại nền móng, còn chùa Thái Bình, nhà thờ Tổ nghề
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON NƯỚĆC

Ngày trước dân làng Quán Khái Đông chủ yếu sống bằng
nông nghiệp, còn nghề điêu khắc đá là nghề phụ trong những lúc
nông nhàn. Trong những năm chiến tranh, nhất là vào những năm
cuối thập niên 50 của thế kỷ XX, dân số làng Quán Khái Đông có
sự biến động. Một bộ phận nhân dân di tản ra định cư dưới chân
núi Ngũ Hành Sơn, thuộc ấp Đông Hải của làng Khuê Bắc, tiếp
tục sinh sống bằng nghề điêu khắc đá cổ truyền và dần hình
thành nên làng đá mỹ nghệ Non Nước ngày nay.
Khi tìm hiểu về sự ra đời của làng nghề điêu khắc đá truyền
thống Quán Khái Đông, người ta đã khảo sát và nghiên cứu về
nguồn tài liệu văn bia viết bằng chữ Hán - Nôm, bởi đây chính là
nguồn tư liệu quan trọng, vừa mang tính thời gian (niên đại), vừa
phản ánh tính nghề nghiệp, liên quan trực tiếp đến lịch sử hình
thành làng nghề điêu khắc đá.
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC

Hiện nay, trên đất Khái Đông nói riêng, phường Hoà
Hải nói chung còn lưu lại nhiều bia ký, bia mộ được làm
bằng đá cẩm thạch và sa thạch. Trên núi Thuỷ Sơn có bia
“Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” và bia “Ngũ Uẩn Sơn Cổ
Tích Phật Diệt Lạc”. Bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật”
được người thợ đá Quán Khái tạc trực tiếp vào vách động
Hoa Nghiêm, bia nói về nhân dân các làng xã ở chung quanh
núi Ngũ Hành Sơn và Hội An, trong đó có tên các thương nhân
người Nhật Bản và Trung Hoa đóng góp tiền của xây dựng
chùa Phổ Đà, bia được lập vào năm Canh Thìn (1640). Còn bia
“Ngũ Uẩn Sơn Cổ Tích Phật Diệt Lạc” được tạc vào vách
động Vân Thông, nội dung nói về sự tích đức phật, bia được
lạp vào năm Tân Tỵ (1641). Cả hai bia đều được chạm trổ và
trang trí đẹp, bài văn khắc giữa lòng bia là chữ Hán theo lối
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC
Cũng như nhiều làng xã Việt Nam cổ truyền khác, thuở mới lập
làng, dân Quán Khái chú tâm vào nghề nông, quanh năm suốt tháng
bám ruộng đồng, gian khổ với cuộc mưu sinh. Rồi những ngày mưa
gió hay khi việc đồng áng rảnh rỗi, với nguồn nguyên liệu đá sẵn
có từ núi Ngũ Hành Sơn, họ lại mang vác đồ nghề ra đục đẽo, tạo
ra các đồ dùng thiết yếu cho gia đình và chỉ vẽ cho con cháu cái
nghề của tổ tiên, cha ông để lại, nhắc nhở gốc gác quê hương và
dòng họ của mình. Buổi đầu nghề này chỉ được xem là nghề phụ,
phổ biến trong phạm vi gia đình, với tính chất cha truyền con nối.
Cả làng lúc bấy giờ chỉ có khoảng 5-6 gia đình làm nghề. Do kinh
tế tự cung, tự cấp, việc giao lưu buôn bán chưa phát triển, nên
người dân Quán Khái quanh năm chỉ làm ra những vật dụng như
bia mộ, bia ký, cối giã, chì lưới và các dụng cụ phục vụ cho trồng
trọt trong nông nghiệp...
Sang thế kỷ XVIII, khi có sự chia tách làng, thì chỉ người dân
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
Đầu thế kỷ XIX, khi nghề đá làng Quán Khái Đông có phát triển khá hơn,
cả làngNƯỚC
lúc nàýC có khoảng 10 đến 15 gia đình làm nghề, tập trung chủ yếu ở
xóm Trung, sau đó là xóm Tây và xóm Phước Hải, nhưng loại hình sản phẩm
vẫn chưa có sự đột biến gì lớn, chủ yếu vẫn là các sản phẩm dân dụng. Thế
rồi trong những thập niên tiếp theo, triều đình nhà Nguyễn tổ chức tuyển lính
thợ để phục vụ cho việc xây dựng lăng tẩm, cung điện ở kinh đô Phú Xuân,
trong số đó có người thợ đá Quán Khái Đông, tên là Huỳnh Bá Triêm (còn gọi là
ông Cửu Đàn).
Trong thời gian làm việc tại kinh đô, ông để ý thấy những người thợ đá
khắc chạm nhiều bộ ấm trà rất đẹp. Với tư chất thông minh, ham học hỏi, ông
đã xem xét cặn kẽ cách chế tác. Khi mãn hạn lính, ông trở về làng và nghiên
cứu chế tác thành công bộ ấm chén, khay trà bằng đá vân đỏ, mở đường cho
việc làm đồ đá mỹ nghệ, với kỹ thuật chế tác nhẹ nhàng, ít tốn nguyên liệu mà
sản phẩm lại đẹp, đa dạng về loại hình. Từ đây, người thợ đá Quán Khái Đông
đã toả ra, đi làm nghề tại nhiều địa phương khác. Vì vậy ngày nay dân làng vẫn
còn truyền tụng câu ca:
Lấy chồng thợ đá ăn chi
Mang ba mũi xó, xách đi,
xách về Em ơi, đừng nói mà quê
Lấy chồng thợ đá có nghề
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
Thợ đá làng Quán Khái Đông bắt đầu nhận lãnh toàn bộ việc làm
đá, như xây lăng
NƯỚC ́C mộ, làm các trụ biểu, bình phong, làm đá hoa lát nền,
làm mặt bàn, ghế, đồ thợ tự cho đình, chùa, miếu mạo và kể cả cho
các gia đình khá giả cần trang trí vườn tược, nhà cửa. Chính nhu cầu
ngày càng đòi hỏi nhân công nên nghề đá Quán Khái Đông ngày một
phát triển phát triển thêm lên.
Đến cuối thế kỷ XIX, cụ Hương Sum tên thật là Huỳnh Đàn, đã
tạc thành công tượng sư tử, sau khi cụ vào Sài Gòn xem xét, tìm hiểu
và về bắt chước làm theo. Sang đầu thế kỷ XX, do thị hiếu của du
khách và nhất là Bảo tàng Chăm được người Pháp xây dựng, trong đó
trưng bày rất nhiều tác phẩm nghệ thuật điêu khắc Chăm, nên các
nghệ nhân nghĩ đến việc phục chế lại và tạc tượng để bán cho
người Pháp. Để có nguồn nguyên liệu đá sa thạch cùng chất với
tượng Chăm, họ phải lăn lội vào vùng Đại Lộc, Duy Xuyên để tìm
nguồn đá. Người có công xây dựng các tác phẩm theo theo mô típ
tượng nghệ thuật Chăm lúc bấy giờ là cụ Nguyễn Chất, người đã
mở đường cho việc khắc chạm tượng người, tượng thú vật và làm
đồ mỹ nghệ để bán...
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON NƯỚĆC

Với mục đích tạo ra nhiều sản phẩm với các chủng loại
khác nhau, các thợ điêu khắc đã sáng tạo ra cách nhuộm đá,
tạo thêm những chiếc vòng đeo tay xinh xắn từ màu trắng
bạch nhuộm phơn phớt xanh, trông như những vòng ngọc
bích, hồng ngọc hay mã não...
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, do nhu cầu
về in ấn tài liệu, sách vở nên nghề in thạch bản xuất hiện.
người thợ đá Quán Khái Đông ngày đêm lo sản xuất những
phiến đá vừa trắng, vừa rộng, vừa đủ điều kiện cho kỹ
thuật in. Lúc bấy giờ nghề in thạch bản đã giải quyết nhu
cầu sách vở, tài liệu cho các trường học, công văn, giấy tờ
các loại cho các ngành quân, dân, chính của Liên khu 5.
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON NƯỚĆC
Bước vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, do hoàn
cảnh của cuộc chiến tranh, nhiều hộ làm đá ở Ấp Trung, Ấp
Tây... phải chuyển gia đình đến sinh sống dưới chân núi Ngũ
Hành Sơn thuộc làng Khuê Bắc và mặc dầu gánh chịu hậu quả
nặng nề của cuộc kháng chiến nhưng những người thợ đá Quán
Khái Đông vẫn kiên nhẫn duy trì nghề điêu khắc truyền thống để
vừa có thu nhập đảm bảo cho cuộc sống gia đình, vừa đóng góp
sức người, sức của cho kháng chiến. Để liên kết giúp đỡ nhau,
họ lập hiệp hội kỹ nghệ nghề đá, một tổ chức tự nguyện nhằm
mục đích bảo vệ, duy trì và phát triển nghề đá. Với việc lập hiệp
hội kỹ nghệ nghề đá, làng nghề đã có những bước phát triển
mới, đã sản xuất nhiều loại hình sản phẩm với trình độ kỹ thuật
chế tác cao hơn trước. Người dân làm nghề đá Quán Khái Đông
với bộ phận ra định cư tại làng Khuê Bắc đã lấy nghề đá làm
nghề sống chính, dần dần hình thành tại đây làng đá mỹ nghệ,
gọi là làng đá mỹ nghệ Non Nước.
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC
Sau năm 1975, khi đất nước hoà bình, thống nhất, hợp tác x
đá mỹ nghệ Non Nước được thành lập và hoạt động với 130 h
xã viên, trong đó thợ điêu khắc có 150 người, còn lại hầu hết là
la động phổ thông. Sản phẩm lúc bấy giờ chủ yếu là vật liệu x
dựng, nguyên liệu khai thác tại chỗ, sản xuất theo kinh nghiệ
truyền thống. Các sản phẩm mỹ nghệ lúc đó có kích thước nh
gọn, số lượng chưa nhiều, chủ yếu là hàng lưu
niệm chod khách trong nước và quốc tế khi đến tham quan khu
di tích dan thắng Ngũ Hành Sơn.
Trong quá trình chuyển đổinền kinh tế theo
cơ chế t trường, Hợp tác xã đá mỹ nghệ Non Nước do
không chuyển đ kịp với cơ chế mới nên thua lỗ và giải thể. Một
số hộ kinh doan cá thể do nhạy bén và thích nghi với cơ chế
mới nên phát triể mạnh cả về quy mô sản xuất lẫn cơ cấu mặt
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
NƯỚĆC

Như vây,̣ làng đá mỹ nghệ tại Non Nước - Ngũ Hành Sơn
là một trong những làng nghề truyền thống có giá trị văn hóa,
nghệ thuật cao, tồn tại và phát triển khoang̉ 400 năm, góp phần
làm nên diện mạo văn hóa đặc trưng tại Ngũ Hành Sơn và từ
lâu là sản phẩm du lịch độc đáo đối với khách hành hương,
du lịch.
Làng đá mỹ nghệ Non Nước ngày nay đã bước tiếp nối
của làng nghề điêu khắc đá truyền thống Quán Khái Đông
xưa, hiện phân bố dọc theo các tuyến đường chính của
phường Hoà Hải như đường Lê Văn Hiến, đường Huyền
Trân công chúa, đường 538, trên diện tích gần 3km, với 314
cơ sở sản xuất và buôn bán đồ đá mỹ nghệ, trong đó đường
Huyền Trân công chúa - tuyến đường chính cho du khách
MỐÍI LIÊN HỆ̣ VỚÍI LÀǸNG ĐÁ́ MỸ̃ NGHỆ̣ NON
Với bề dày truyền thống trên dưới 400 năm, kể từ ngày một bộ phận
dân cưNƯỚC
vùnǵCThanh - Nghệ theo bước đường “Nam tiến” mở nước của
nhà Lê đến vùng núi Ngũ Hành Sơn lập làng, lập nghiệp, các thế hệ nghệ
nhân làng đá mỹ nghệ Non Nước đã sáng tạo ra nhiều loại hình sản
phẩm mỹ nghệ độc đáo, không những chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt
vật chất mà còn đáp ứng nhu cầu thưởng thức các giá trị tinh thần. Từ
các sản phẩm thô sơ, giản dị với quy trình chế tác đơn giản chủ yếu làm
bằng tay.
Ngày nay các sản phẩm của làng nghề được chế tác với quy trình
phức tạp, nhiều công đoạn được thay thế bằng máy móc tinh vi, hiện đại,
đã góp phần làm ra nhiều sản phẩm có giá trị không những về mặt kinh
tế, mà còn mang cả những giá trị đặc sắc, tiêu biểu về mỹ thuật. Thông
qua bàn tay tài hoa và khối óc thông minh, đức tính lao động cần cù, bền bỉ
sáng tạo của các nghệ nhân, hiện nay các sản phẩm truyền thống của
làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước đã được du khách ở nhiều nước trên
thế giới biết đến, qua đó góp phần vào việc tuyên truyền, quảng bá những
giá trị đặc trưng của nền văn hoá dân tộc Việt Nam.
“…Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước đã vươn tới đỉnh cao nghệ thuật,
không chỉ điêu khắc văn bia mà còn tạo tác các tượng đài, tạo tác khá phong phú
Kết́t luận
Như vậy, vẻ đẹp của Ngũ Hành Sơn đã
được khăng định theo thời gian. Và sự ra đời
của làng nghề đá Non Nước găn liền với tên gọi
của địa danh này.
Hìnnhh an̉ h về̀
Ngũ̃ Haǹ h
Sơn

Cổng vào động Huyền Không


Hì nnhh an̉h về ̀ Ngũ̃
Haǹh Sơn
Vẻ̉ đep̣p̣ ̉ nuíí Ngũ̃ Hannh
Sơn
cuảa
Vẻ̉ đep̣p̣ ̉ nuíí Ngũ̃ Hannh
Sơn
cuảa
Làǹ g nghề̀ đá́ Non
Nươćć

Làng nghề dưới chân núi Thủy


Làǹ g nghề̀ đá́ Non
Nươćć

Tác phẩm nghệ thuật được làm bằng


Chu
́c cô
sức k
h
ỏe

You might also like