You are on page 1of 296

TƯ VẤN TÂM LÝ CĂN BẢN

LỜI GIỚI THIỆU

Tôi rất vui lòng viết lời giới thiệu cho cuốn sách TƯ VẤN TÂM
LÝ CĂN BẢN của Nguyễn Thơ Sinh. Tôi với Sinh quen nhau trên
mạng điện tử: biết tôi ở trong Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt
Nam (ở dưới gọi là Hội), Sinh gởi email cho tôi; tôi nhận thấy anh
quan tâm đến Tâm lý học và Giáo dục học nước nhà và chúng tôi đã
có nhiều cuộc trao đổi với nhau. Như vậy là cuộc làm quen có chủ
đích, chứ không phải ngẫu nhiên: hai người đều có lòng nhiệt tâm
với nền khoa học này của nước nhà. Cuối năm 2005 đầu năm 2006,
Hội có cuộc Hội thảo về Tư vấn tâm lý tổ chức ở thành phố Hồ Chí
Minh. Tôi báo tin này và mời Sinh về tham dự, anh nhận lời với cả
một báo cáo Khoa học dài đến hơn 20 trang giấy khổ A4.

… Sau đó tôi bảo anh: Nếu đúng là vấn đề anh quan tâm, và
nếu có điều kiện, anh nên viết một cuốn sách về tư vấn tâm lý. Kết
quả đến quá nhanh, hôm nay mới giữa tháng 8 năm 2006, tức là
trong có vài tháng, cuốn sách đã viết xong, dày tới gần 300 trang.
Theo tôi, đây là một cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Việt về tư vấn
tâm lý. Tất nhiên, mới là đề cập đến những vấn đề cơ bản. Nhưng
cũng có thể nói ngay rằng chữ “cơ bản” ở đây không phải chỉ là các
vấn đề lý luận cơ bản mà phần lớn lại là các (hay một số) vấn đề
thực hành cơ bản - đúng là cái chúng ta đang cần, cần biết cả lý
thuyết cơ bản nhưng rất cần biết những điều chỉ dẫn tiến hành công
việc tư vấn, từ mở đầu đến kết thúc một cuộc (có thể nhiều buổi) tư
vấn tâm lý.

Thật vậy, các bạn thấy tác giả đã trình bày sự vận dụng một
loạt học thuyết (lý thuyết) tâm lý vào công việc tư vấn tâm lý: từ
học thuyết Freud rồi Anna Freud (con gái của Freud); thuyết tâm lý
học phân cách của Adler, Roger, thuyết hiện sinh của May và Frankl
trong tâm lý học; tiếp theo là tâm lý học hành vi, tâm lý học hình
thái, thuyết nhận thức trị liệu, thuyết hệ thống gia đình của Bower,
v.v. Phần nhiều các lí thuyết này đã được giới thiệu ở ta, nhưng đều
ở tâm lý học đại cương, lịch sử tâm lý học, nhập môn tâm lý học.
Còn ở đây mỗi thuyết chỉ trình bày rất tóm tắt, có khi chỉ trong vài
dòng, phần lớn dành nói về lý thuyết này tiến hành công việc tư vấn
tâm lý như thế nào? Cuốn sách này thật sự có ý nghĩa rất thiết thực
cho những nhà tư vấn tâm lý, và cả các cán bộ giảng dạy, nghiên
cứu tâm lý xem cũng rất bổ ích.

Ý nghĩa thiết thực của cuốn sách còn được thể hiện rất rõ trong
tất cả các loại hình tư vấn tâm lý được đề cập ở trong sách, như tư
vấn tâm lý về sức khỏe tâm thần, các dạng bệnh lý, trong đó có
Stress khác: các vấn đề này ngày càng đi vào công nghiệp và hiện
đại càng nảy sinh nhiều; tư vấn hôn nhân mà hiện nay đang chiếm
tỷ trọng hàng đầu trong các cuộc tư vấn tâm lý ở ta; tư vấn gia đình
cũng là một phạm vi ngày càng bức xúc hơn; tư vấn nghề nghiệp,
tư vấn học đường… là những lĩnh vực rất cần quan tâm và phải mau
chóng tăng cường. Các bạn còn thấy có cả tư vấn tâm lý cho người
bị ma tuý nên làm những gì. Đúng là những cái chúng ta đang cần.

Trong tất cả các loại hình tư vấn tâm lí được đề cập trong cuốn
sách này đều nêu rất cụ thể các công việc mà người tư vấn phải
làm. Tôi đặc biệt thích thú với các mục giới thiệu kỹ năng tư vấn
như:

 Kỹ năng thuyết phục,

 Kỹ năng đồng cảm,

 Kỹ năng chia sẻ,


 Kỹ năng kịp thời,

 Kỹ năng hài hước,

 Kỹ năng hợp đồng, v.v…

Mặt khác, cuốn sách nói trong tư vấn tâm lý có 3 yếu tố quan
trọng là: (1) tính chuyên nghiệp, (2) sức thu hút thấp dẫn, (3) được
hỏi tên. Công việc gì đề cập trong sách đều đưa ra quy trình, từ làm
một bản hợp đồng như thế nào? cách giải quyết khó khăn, chẳng
hạn như thấy người hỏi lưỡng lự khi nghe tư vấn, cho đến việc đào
tạo, tự đào tạo… đều nêu rõ quy trình: một, hai, ba bốn… phải làm
gì, rõ ràng, rành mạch. Tất nhiên, từ chỗ đọc đến chỗ hiểu, tiếp thu
và vận dụng… nhất là vào từng trường hợp cụ thể, còn nhiều chuyện
phức tạp đòi hỏi người tư vấn phải rất linh hoạt, uyển chuyển, sáng
tạo… cho đến việc chấm dứt cuộc tư vấn cũng vậy, cuốn sách cũng
bày cách làm rất cụ thể, rất chi tiết.

Đọc cuốn sách này, chúng ta còn có dịp làm quen với một số
thông tin về tư vấn tâm lý ở Mỹ, tuy còn sơ sài nhưng cũng thấy
được chủ trương thúc đẩy công tác này là phù hợp với yêu cầu đào
tạo cán bộ tư vấn tâm lý ngày càng cao, chúng ta còn thiếu quá
nhiều, có lẽ tính đến nay từ mọi nguồn số cán bộ này ở ta chỉ đếm
được hàng chục (ở Mỹ đã lên đến hàng vạn và còn phân ngành Tư
vấn tâm lý chuyên sâu), như trong sách cho hay. Đặc biệt, sách này
còn cung cấp cho ta một vốn thuật ngữ Anh  Việt với khoảng 300
từ, với khoảng cách rất cần cho những ai tư vấn tâm lý.

Tóm lại, đây là một cuốn sách đọc rất dễ hiểu, cụ thể, nhiều
điều có thể đem áp dụng vào công việc rất thiết thực bổ ích.

Nhân dịp này tôi nhiệt liệt chúc mừng và bày tỏ lời cảm ơn
Thạc sĩ Nguyễn Thơ Sinh đã có tác phẩm đóng góp xây dựng và
phát triển khoa học Tâm lý nước nhà, nhấn mạnh hướng ứng dụng,
thực hành, phục vụ con người, phục vụ xã hội.

Chúc tác giả có những thành công mới trong nghiên cứu và
hành nghề Tâm lý học. Mong anh tiếp tục hợp tác nhiều hơn với các
bạn đồng nghiệp trong nước. Anh thật xứng đáng với câu “Tôi tự
hào là người Việt Nam” mà anh đã lấy câu đó làm tiêu đề trong máy
điện tử của mình.

Hà Nội 16.8.2006

GS.TSKH PHẠM MINH HẠC

Chủ tịch Hội các khoa học Tâm lý  Giáo dục Việt Nam

PHẦN MỘT
LỊCH SỬ NGÀNH TƯ VẤN VÀ NỀN TẢNG BAN ĐẦU

Chương 1
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ XU HƯỚNG CỦA NGÀNH TƯ VẤN

1. Dẫn nhập

Tư vấn, không giống những ngành phục vụ sức khoẻ tâm thần
khác ở chỗ, tư vấn bao gồm chức năng giúp thân chủ phát triển khả
năng thăng tiến của bản thân và chức năng trị liệu ở mức độ rối loạn
hệ thống tư duy.

Tư vấn viên làm việc với cá nhân, nhóm, gia đình, hoặc những
tổ chức với những nan đề ngắn hạn và những nan đề lâu dài. Công
tác tư vấn nhằm vào mục tiêu giáo dục (education) mang tính năng
phát triển đời sống lành mạnh, ngăn ngừa tệ nạn và điều trị những
rối loạn do thiếu khung tư duy trưởng thành, nên ngành này đã
đóng một vai trò quan trọng tích cực với an toàn và phát triển của
xã hội.

Tư vấn trong những bước khởi đầu lịch sử của ngành không có
tổ chức bài bản mà thường là những tập hợp rời rạc, thiếu đồng bộ.
Theo thời gian, ngành này không ngừng lớn mạnh và tự hoàn thiện
thêm. Tuy thế, nhiều người nhầm lẫn tư vấn với những loại hình
giúp đỡ và hướng dẫn khác. Vì thế, tư vấn là một công việc đã mang
trong nó nhiều danh xưng và cả những hiểu lầm không nhỏ, thành
ra người trong nghề và cả dư luận xã hội vẫn có vài ngộ nhận lẫn về
chức năng công tác nghiệp vụ.

Có chút kiến thức về lịch sử của ngành tư vấn sẽ giúp tư vấn


viên hiểu kỹ hơn về ngành nghề mà họ đảm trách.

2. Định nghĩa ngành Tư vấn

Nói theo truyền thống, tư vấn viên – là người lắng nghe và


giúp đỡ người khác giải quyết một nan đề. Tuy nhiên, nhiều chức
năng và danh xưng đã gây nên những hiểu lầm khi danh từ tư vấn
viên được gắn với những sản phẩm, dịch vụ, dẫn đến những lẫn lộn
vẫn thường nghe thấy như: tư vấn tài chính, tư vấn hôn nhân, tư
vấn tiêu dùng, tư vấn pháp luật, tư vấn du lịch, tư vấn mua sắm…

Tư vấn, tại các nước phát triển, bắt nguồn từ hệ thống hướng
dẫn, (guidance systems) và ngược hẳn với tâm lý liệu pháp
(psychotherapy). Đấy là chuyện cũ. Hôm may, tư vấn gần như có
mặt ở khắp nơi, được sử dụng trong những trung tâm có chức năng
lâm sàng và chức năng giáo dục sức khoẻ công cộng, các trung tâm
tư nhân và có sự hỗ trợ của Chính phủ, các hội đoàn, các tổ chức
kinh doanh có lãi, các trung tâm tôn giáo, hội từ thiện…
Ngành này không chỉ chú trọng đến quá trình thăng tiến và
phát triển lối sống lành mạnh, mà còn góp phần trong trị liệu với
sức khoẻ tâm thần. Để hiểu rõ hơn về chức năng tư vấn, thiết nghĩ
hiểu biết về hệ thống hướng dẫn trong nhà trường (guidance) và
tâm lý liệu pháp (psychotherapy) sẽ giúp chúng ta hiểu được về
ngành tư vấn một cách sáng tỏ hơn.

Hướng dẫn giáo dục trong học đường (Guidance): Là một


quá trình giúp đỡ người trẻ chọn ra một giải pháp thích hợp cho một
vấn đề cần được giải quyết bằng cách đề nghị những việc cần làm
rất cụ thể. Tính thiết yếu này đã đi vào hoạt động tư vấn qua ngả
tìm ra quyết định cụ thể cho một vấn đề. Tuy nhiên, cách giúp trong
hướng dẫn rất khác với cách giúp trong tư vấn. Điểm khác biệt căn
bản ở đây: hướng dẫn cho lời khuyên, còn tư vấn chỉ mang tính đề
nghị và gợi ý một giải pháp cho thân chủ.

Nói khác đi, hướng dẫn giúp người khác tìm ra một chọn lựa cụ
thể thích hợp bằng cách người được giúp đỡ sẽ nghe theo đề nghị
của người khuyên. Tư vấn, khác hơn và nhiệm vụ của nó là giúp
thân chủ tạo ra một sự thay đổi bằng chính khả năng của họ.

Hướng dẫn, thường gặp trong môi trường học đường (ở các
nước phương Tây phát triển), khi người trưởng thành làm công tác
hướng dẫn, giúp trẻ em chọn lựa giải pháp như chọn nghề, chọn
môn học. Quan hệ giữa hai bên là một quan hệ không đối xứng. Ở
đây, người có kinh nghiệm sẽ truyền đạt kinh nghiệm cho người
thiếu kinh nghiệm. Rất giống như trường hợp vai trò của cha mẹ,
người lớn trong gia đình hướng dẫn con cái những việc cần phải làm.

Vì thế, hướng dẫn là một hình thái giúp đỡ không bao giờ cũ
đi, nó cũng không biến mất trong lịch sử phát triển văn minh của
con người. Bất cứ ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng cần đến quá trình
chọn giải pháp cho những nan đề. Vì thế con người vẫn cần đến giúp
đỡ. Từ lâu là ngành có xuất thân từ hướng dẫn, nên nó chịu ảnh
hưởng từ hướng dẫn rất nhiều. Giống như hướng dẫn không bao giờ
cũ đi, tư vấn trong bối cảnh hôm nay đáp ứng những nhu cầu thiết
yếu của mọi người cũng không bao giờ trở thành già cỗi.

Tâm lý trị liệu (psychotherapy): Khác với tư vấn thông


thường, tâm lý trị liệu (còn gọi là tâm lý liệu pháp) được áp dụng với
những trường hợp nghiêm trọng hơn, liên quan đến những lĩnh vực
nội tâm, xung đột tư duy, trạng thái tâm thần, mà mục đích nhắm
đến là chữa lành hoặc làm giảm nhẹ những rối loạn thiên về thái cực
lâm sàng.

Tâm lý trị liệu tập trung nhiều vào những vấn đề nhức nhối
của quá khứ, những hành vi bệnh lý cần can thiệp bởi những
phương pháp chữa trị như thuốc men, chăm sóc y tế… Sự can thiệp
của chuyên viên như bác sĩ là cần thiết. Kỹ thuật chuyên môn của
chuyên viên tâm lý trị liệu cao, song họ thường không chú trọng
nhiều đến việc tìm hiểu và khám phá cảm xúc, tư duy, và hành vi
của thân chủ - họ thường thiên về những triệu chứng (symptoms)
của thân chủ.

Bác sĩ tâm thần học (psychiatrist) và tâm lý gia lâm sàng


(clinical psychologist) thường là những người có nhiều gắn bó với
tâm lý trị liệu.

Tuy nhiên, nhiều học thuyết trong tư vấn có nguồn gốc từ tâm
lý học, nên ứng dụng của chúng có thể được sử dụng cả trong môi
tường tư vấn lẫn môi trường tâm lý trị liệu.

Hai tiêu chuẩn đặc trưng giúp phân biệt sự khác nhau giữa tư
vấn và tâm lý trị liệu là:
1. Thời gian kéo dài của quá trình giúp đỡ. Với tâm lý trị liệu,
thời gian kéo dài hơn (20 - 40 cuộc hẹn, xấp xỉ từ 6 tháng đến 2
năm), tập trung vào việc thay đổi lại hệ thống tư duy, vốn dẫn đến
những rối loạn cá tính. Tư vấn cần ít thời gian hơn (8 đến 12 cuộc
hẹn, dưới sáu tháng), tập trung vào quá trình xử lý một vấn đề
mang tính tức thời trong sinh hoạt.

2. Địa điểm: tâm lý trị liệu xảy ra trong điều kiện nội trú (ở
bệnh viện có đội ngũ y tá, (bác sĩ chuyên môn), và tư vấn là ở môi
trường ngoại trú.

Tư vấn (counseling): Là một ngành chuyên môn vẫn đang gây


những bàn cãi về một định nghĩa chuẩn của nó. Tuy nhiên vài điểm
sau đây sẽ giúp cho trong quá trình tìm đến một định nghĩa đầy đủ,
dựa theo Gladding (2000).

- Tư vấn là một nghề chuyên nghiệp, đòi hỏi phải có đào tạo
bài bản, có trường lớp.

- Tư vấn tập trung vào trợ giúp về vấn đề sống lành mạnh,
thăng tiến đời sống quan hệ cá nhân, nghề nghiệp, và những quan
tâm thuộc lĩnh vực bệnh lý tinh thần.

- Tư vấn áp dụng với người có khả năng xử lý tốt và cả những


người có vấn đề về rồi loạn tâm thần dạng nhẹ.

- Tư vấn phải dựa trên hệ thống lý thuyết về tư vấn.

- Tư vấn là một quá trình phát triển trên bình diện ngăn ngừa
(prevention) và can thiệp (intervention).

Tư vấn bao gồm nhiều chuyên môn (specialty) khác nhau để


đáp ứng nhu cầu đa dạng của thân chủ.

3. Lịch sử ngành Tư vấn


Dựa vào lịch sử hiện có, ngành Tư vấn ở các nước phát triển là
một ngành tương đối trẻ. Trước những năm 1900, tư vấn chủ yếu là
cho ý kiến, tập trung vào việc cung cấp những phúc lợi nhân đạo
căn bản cho những người kém may mắn trong thời kỳ Cách mạng
Công nghiệp (Industrial Revolution).

Ban đầu, nó được dành riêng cho người trẻ, liên quan đến
những chương trình hướng nghiệp và những bài học đạo đức căn
bản, như làm điều đúng, sống tốt, tránh điều sai, xa lánh điều xấu.
Tư vấn thời gian đầu chủ yếu là cung cấp thông tin và hướng dẫn
giáo dục.

Cần biết, tư vấn và hoạt động của nó là một quá trình


(process) bao gồm những thao tác căn bản cần thiết, vì thế luôn có
những thay đổi, tự điều chỉnh, nhằm thích nghi với những yêu cần
căn bản của đời sống xã hội vốn luôn có những phát sinh biến
chuyển không ngừng.

Năm 19007, Jesse B. Davis là người đầu tiên thiết lập một cơ
sở hướng dẫn có hệ thống ở tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ. Frank
Parson, người cho xuất bản cuốn Chọn Nghề (1909), một năm sau
khi ông qua đời. Cứ thế, tư vấn từ từ phát triển, trở thành một nghề
có mặt khắp nơi, đóng góp những công việc thầm lặng của mình,
cống hiến cho xã hội những hy sinh âm thầm trong công việc giúp
đỡ những con người mệt mỏi và quá tải về mặt đời sống tinh thần.

Riêng ở Việt Nam, chưa có một thông tin cụ thể nào về điểm
khởi đầu hoạt động chính thức của ngành Tư vấn. Lịch sử phát triển
của ngành Tư vấn ở Việt Nam chưa có một tài liệu nào công bố rõ
ràng về từng bước, từng giai đoạn.

Ngày 18 tháng 2 năm 2006, Hội thảo khoa học quốc gia: Tư
vấn tâm lý - giáo dục lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển đã
được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Đây có thể nói là một hoạt
động tích cực, rất có ý nghĩa đối với những yêu cầu cơ bản, rất bức
xúc của đời sống xã hội hiện nay. Tất cả có hơn 60 bài tham luận
được gửi về đã trình bày rất nhiều ý kiến sôi động, phản ánh được
nhu cầu cấp bách của tư vấn trong bối cảnh bức tranh toàn cảnh.

Dựa vào báo cáo của Hội thảo khoa học quốc gia (2006), tư
vấn tâm lý - giáo dục đã được thực hiện trong nhiều năm gần đây,
trên các địa bàn, đặc biệt là ở các thành phố. (Đinh Phương Duy,
2006). Rồi con số các trung tâm tư vấn cứ lớn dần lên và việc có
một cuộc hội thảo cấp quốc gia như thế có thể nói là một bước nhảy
vọt rất đáng khích lệ.

Một điều đáng chú ý, tư vấn (hay còn gọi là tư vấn tâm lý) là
một ngành phục vụ, đối tượng chủ yếu là con người trong bối cảnh
phát triển của xã hội. Ngành Tư vấn luôn có mặt, bám sát với những
thay đổi và phát triển trên mọi bình diện của tất cả những hoạt
động của xã hội.

Đơn cử, theo kết quả nghiên cứu của TS.Trần Thị Giồng, Th.S
Đỗ Văn Bình và 11 đồng nghiệp, ở thành phố Hồ Chí Minh (2003) có
hơn 50 cơ sở tư vấn tâm lý, hoạt động trên các lĩnh vực: Tình yêu -
hôn nhân - gia đình, trẻ em và cha mẹ trong gia đình, sức khỏe,
HIV/AIDS, hướng nghiệp, trong đó hơn 60% do cơ quan Nhà nước
hay ban ngành thành lập, phần còn lại do các hội, tư nhân, tổ chức
tôn giáo… Điều này đã phản ánh được một thực tế: nhu cầu tư vấn
là một nhu cầu rất thực của xã hội Việt Nam ta.

Đây chỉ là một ví dụ lấy từ thực tiền được báo cáo. Còn chuyện
tư vấn ngoài luồng hoặc tư vấn nghiệp dư luôn tồn tại trong xã hội
là điều tất yếu. Vì tính chuyên môn cao của tư vấn, trong lúc điều
kiện đào tạo đội ngũ tư vấn chưa được phát triển ở Việt Nam, tình
trạng tư vấn mạnh ai nấy làm tất nhiên là khó tránh khỏi. Nhưng
không mấy ai nhận thức được rằng, tư vấn nếu làm sai, đôi khi gây
hại nhiều hơn làm lợi, có thể gây ra những tác hại hệ lụy lâu dài.

TS Đinh Phương Duy (2006) đã nêu lên những câu hỏi nóng
bỏng trong hội thảo là:

- Chuyên viên tư vấn và tham vấn có cần được đào tạo bài bản
hay chỉ cần có kinh nghiệm hay một tấm lòng vì người khác?

- Có cần xây dựng một hệ thống lý luận riêng cho tư vấn,


tham vấn tâm lý ở Việt Nam?

Đặc biệt với tổng kết của PGS, TS. Bùi Ngọc Oánh (2006),
những vấn đề được nêu ra đã tạo nên hướng suy nghĩ cho công tác
tư vấn nước nhà:

1. Xây dựng lý luận về công tác tư vấn, khái niệm tư vấn,


tham vấn, tâm lý trị liệu… và sự phối hợp giữa các hình thức trên.

2. Quy trình cơ bản của một ca tư vấn.

3. Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên viên tư vấn.

- Xây dựng các quy định về hoạt động tư vấn.

- Xây dựng các quy chế, quy định về việc thành lập các trung
tâm tư vấn.

- Biên soạn các tài liệu, giáo trình, tài liệu về tư vấn.

- Nghiên cứu việc quảng bá tuyên truyền cho hoạt động tư


vấn.

- Nghiên cứu việc định hướng, dự báo kế hoạch phát triển hoạt
động tư vấn trong tương lai, đặc biệt là tư vấn học đường.

Cho đến nay, ở Việt Nam hiện vẫn chưa có hệ thống đào tạo
và có bằng cấp (mang tính đồng bộ) và cấp giấp phép trong lĩnh vực
hoạt động tư vấn. Điều này cũng dễ hiểu, nhất là khi so sánh với
các nước âu Mỹ. Điển hình như ở Hoa Kỳ, mãi đến những năm giữa
thập ký 70 họ mới có hệ thống đào tạo có bằng cấp hoạt động của
tiểu bang.

Virginia là tiểu bang đầu tiên (1976) bắt buộc phải có giấy
phép hành nghề tư vấn. Đến năm 1981, ở Hoa Kỳ mới chính thức có
một hệ thống tiêu chuẩn đào tạo chuyên viên tư vấn có bài bản.
Điều này cho phép chúng ta lạc quan khi nhận định rằng ở Việt
Nam, vấn đề tổ chức và sắp xếp để tư vấn trở thành một ngành
chuyên nghiệp chỉ là vấn đề nhanh hay chậm của thời gian.

4. Những thử thách và xu hướng hiện thời của ngành Tư


vấn

Tư vấn là ngành không ngừng phát triển và tự điều chỉnh để


phù hợp với yêu cầu của xã hội. Hơn lúc nào hết, xã hội đang đối
diện với những thay đổi lớn lao, như tiến trình toàn cầu hóa, bùng
nổ các dịch vụ tư nhân, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đóng góp
và ảnh hưởng của kỹ nghệ thông tin, đời sống công nghiệp hóa, và
cả những vấn đề đạo đức và nhân sinh quan nóng bỏng khác của xã
hội, vốn khó phán đoán trước, chẳng hạn như đô thị hóa, dân số,
sức khỏe, lương bổng, và những nhu cầu khác ngày càng cao của xã
hội…

Theo GS, TS. Phạm Minh Hạc, Chủ tịch Hội Khoa học Tâm lý
giáo dục Việt Nam: “Giáo dục là phạm trù đi liền với lịch sử tồn tại
và phát triển của loài người, tâm lý nói riêng, tinh thần nói chung là
tiêu chí đặc trưng của từng con người và toàn nhân loại. Ngày nay,
nhất là mấy thập kỷ cuối thế kỷ trước giáo dục và tâm lí con người
được coi là hạ tầng xã hội - hai yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần
tạo nên sự tiến bộ xã hội”.

Như thế, đội ngũ tư vấn viên có thể nói đã nhìn ra được vai trò
của mình trong công cuộc xây dựng đất nước và xã hội. Nhất là khi
GS, TS Phạm Minh Hạc vạch ra: "Tư vấn tâm lý - giáo dục ở nước ta
có sứ mệnh vẻ vang là động viên mọi người và toàn xã hội, tạo nên
một vốn xã hội - vốn người tốt cùng nhau đoàn kết, bảo đảm an
sinh xã hội, ổn định xã hội, góp phần tiếp tục đổi mới đất nước, tạo
dựng nên một đất nước độc lập, phồn vinh, mọi người được hưởng
các quyền của con người, của mọi công dân."

5. Kết luận

Với trách nhiệm của một tư vấn viên; chúng ta, những con
người góp phần sức lực khiêm tốn của mình nhưng rất có ý nghĩa
với xã hội. Chỉ khi tìm được ý nghĩa cao cả của công việc hàng ngày
mà mình đang tìm, tư vấn vấn mới có thể bám trụ được với nghề
thầm lặng đầy khó khăn này. Hy vọng mỗi chúng ta sẽ làm tốt, làm
đúng, để xã hội càng ngày càng thêm tin tưởng nhiều hơn vào đóng
góp và tinh thần phục vụ của chúng ta - qua chất lượng huy chương
vàng của nghiệp vụ tư vấn với xã hội.

Xã hội luôn luôn có những vấn đề đặc trưng muôn thuở. Con
người là một sinh thể có liên đới mật thiết trong bức tranh tổng thể
quan hệ trong xã hội. Không ai sống một mình được. Hành vi của
một người luôn có ảnh hưởng đến người khác. Tất nhiên hành vi tiêu
cực sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực. Hành vi là kết quả của tư duy và
cảm xúc.

Tư vấn viên là người giúp đỡ thân chủ tìm ra chìa khóa trong
ứng xử lành mạnh, tìm đến những hành vi lành mạnh nhất. Chúng
ta được mời gọi vào tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, trong
nghiệp vụ tư vấn của mình, ở một thời điểm đất nước đang đối diện
với những thay đổi rất lớn trong bức tranh toàn cảnh của xã hội
toàn cầu.

Chương 2
MÔ HÌNH CỦA MỘT TƯ VẤN VIÊN LÀM VlỆC CÓ HIỆU QUẢ

Dẫn nhập

Trong tư vấn, yếu tố thành công và chất lượng của quá trình
trợ giúp nằm ở nơi bản thân tư vấn viên là việc rất lớn. Nói khác đi,
không có một tư vấn viên làm việc có hiệu quả, có trách nhiệm, dịch
vụ tư vấn sẽ chẳng đem lại bất cứ một tiến bộ khả quan nào.

Không chỉ hạn chế tác dụng hữu ích của tư vấn, một tư vấn
viên yếu nghiệp vụ có thể sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng, về
lâu dài cho thân chủ. Vì thế với người muốn bước vào nghề tư vấn
cần suy nghĩ xem nghề này có thật sự là chọn lựa đúng đắn cho
mình? Riêng với những tư vấn viên đã bước vào nghề, việc duy trì
để giữ mình mãi là một tư vấn viên có hiệu quả là một trong những
sứ mệnh đòi hỏi của nghề.

Để trở thành một tư vấn viên tốt, thiết nghĩ mình phải rõ ràng
với bản thân của mình. Theo TS. Trần Thị Giồng (2006): “Chúng ta
không thể cho những gì mình không có”. Cũng thế, tư vấn viên
không thể giúp cho thân chủ một cách có hiệu quả nếu họ không
chuẩn bị và được đào tạo cẩn thận.

1. Nhân cách và vốn sống của một tư vấn viên


Tư vấn là một nghề đòi hỏi phải thành tâm và có tấm lòng cao
cả. Nó thu hút những tâm hồn biết quan tâm, tâm tình cởi mở, thân
thiện và nhạy cảm với nhu cầu giúp đỡ con người. (Myrick, 1997).
Tuy nhiên động cơ và duyên may đến với nghề này của nhiều tư vấn
viên đang hành nghề trong xã hội rất khác nhau. Những ai muốn
gắn bó cuộc đời mình với công tác tư vấn phải tự hỏi nếu họ có đủ
tố chất và đam mê; đủ vững mạnh để đối diện với thử thách rất
thực tế của nghề này.

Tóm lại, để trở thành một tư vấn viên tốt, những yêu cầu sau
đây thường được nhắc đến, theo Gladding (2000):

- Nhân cách và vốn sống.

- Giáo dục căn bản của tư vấn viên.

- Học thuyết áp dụng và kiến thức về hệ thống tư duy được sử


dụng trong công tác tư vấn.

- Khả năng tham gia vào những hoạt động liên quan đến công
tác tư vấn (như tham gia hội thảo, diễn đàn, là ủng hộ viên đắc lực
cho ngành, tham gia đào tạo thế hệ tư vấn viên mới, và không
ngừng tiếp tục bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ) - không ngừng tiếp
tục học hỏi.

Theo Carkhuff (1969) tư vấn viên và quá trình tư vấn có ảnh


hưởng mạnh mẽ đến một cá nhân, vì thế nếu tư vấn không hiệu
quả, tất sẽ có ảnh hưởng tai hại lâu dài đến thân chủ.

Gladding (2000) đã nói đến nhân cách của một tư vấn viên.
Theo ông, chúng ta nên nhắm đến những tiêu chí căn bản từ một tư
vấn viên: (1) Trưởng thành (2) Biết thông cảm (3) Cởi mở (4)
Thành thực (5) Điềm đạm, không dễ nổi nóng.
Tất nhiên không phải ai cũng có những đức tính này. Vì thế tư
vấn không phải là nghề giành cho tất cả mọi người.

2. Những động cơ tiêu cực lôi kéo người ta vào nghề Tư


vấn

Nhiều người muốn trở thành tư vấn viên với động cơ không
lành mạnh. Họ không hẳn là người xấu, tuy nhiên quyết định đi vào
nghề của họ có ảnh hưởng tiêu cực đến thân chủ và xã hội. Witmer
và Young (1996) nêu ra những động cơ tiêu cực hoặc sai lệch của
một tư vấn viên đã mắc phải trong quá trình muốn trở thành một tư
vấn viên:

- Có vấn đề trục trặc về mặt tình cảm. Khi họ có những khúc


mắc tình cảm chưa được giải quyết từ thời thơ ấu hay trong quá
khứ.

- Họ cô đơn và sống thiếu liên đới với xã hội. Họ không có bạn


bè và thường mượn quá trình tư vấn như một thay thế cho nhu cầu
có bạn bè.

- Tham vọng có quyền lực. Họ là người không thành công


trong cuộc sống (không nhất thiết phải chỉ có nhiều tiền mới là có
thành công), vì thế họ mong được kiểm soát người khác.

- Có nhu cầu tình yêu. Họ là những người quá yêu bản thân, có
thái độ tự hào thái quá, tin tưởng rằng mọi khó khăn đều có thể giải
quyết được bằng tình yêu và do chính khả năng của họ. Đây là hội
chứng muốn mình là anh hùng cứu vớt được cả thế giới.

- Họ có thái độ vùng vằng, muốn chống đối cuộc đời một cách
gián tiếp. Họ là người có vấn đề về quan hệ cá nhân nào đó, giải
quyết không thoả đáng, nay muốn đem ra để áp đặt lên thân chủ
trong quá trình tư vấn.

- Tìm đến sự an nhàn. Họ nghĩ rằng nghề tư vấn là nghề chỉ


ngồi văn phòng nói chuyện và đếm tiền.

- Tìm danh vọng. Họ tin rằng, làm nghề Tư vấn được xếp vào
một danh mục nghề nghiệp quan trọng, cao quý, lịch sự.

Hiểu sai như thế sẽ hoàn toàn thất hại. Đơn giản vì trở thành
tư vấn nên sẽ không đáp ứng được những khát khao của họ như vừa
nêu trên. Trái lại, tác hại của sự thất vọng sẽ trở thành chất độc,
phá huỷ cuộc sống chỉ vì họ có chọn lựa sai lầm. Vì thế, tư vấn cần
được coi như là một tiếng gọi (calling) nhiều hơn là một hứa hẹn vật
chất, địa vị, hay cho những phần thưởng tinh thần, xã hội.

Trước khi quyết định chọn vào nghề Tư vấn, nhiều bạn trẻ đã
băn khoăn nếu như mình có đủ những điều kiện tố chất để vào
nghề. Thật khó xác định cụ thể được điều này. Song, một điều căn
bản là bạn có đặt tiêu chí muốn giúp người khác làm tiêu chí hàng
đầu hay không? Nếu bạn chọn nó vì nghề này cũng hay hay, lúc ấy
bạn nên cân nhắc kỹ hơn.

Con người luôn phát triển qua kinh nghiệm sống nên tư duy
thay đổi là lẽ tất nhiên. Không hẳn là nhân cách (personality) của
chúng ta là bất biến. Nhân quan (personal view) và quan niệm về
quan hệ giữa người với người sẽ thay đổi khi chúng ta sống nhiều
hơn. Tuy nhiên, nhân tố bẩm sinh muốn giúp người vẫn là điều đáng
quý nhất.

Nếu hiểu ở một góc cạnh trong tinh thần nhân văn, chúng ta
có thể tin rằng cụ Nguyễn Du đã rất có lý khi nêu lên quan điểm của
ông: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Truyện Kiều). Nói thế, ta đủ
thấy tầm quan trọng của ý nghĩa nhân văn trong nghề tư vấn.
Dưới đây là những đặc tính cần có của một tư vấn viên hiệu
quả, dựa theo Foster (1996) và Guy (1987):

- Hiếu kỳ (curiosity and inquisitiveness): bộc lộ tinh thần quan


tâm một cách tự nhiên đối với người khác.

- Khả năng biết lắng nghe (ability to listen): biết tập trung
theo dõi một cách sát sao, chú ý đến người khác. Đây là một vốn
quý hết sức cần thiết, vì nó kích thích thân chủ trong việc tham gia
tích cực vào quá trình tư vấn. Thân chủ sẽ chán nản khi tư vấn viên
không có khả năng lắng nghe tốt.

- Tự nhiên với đối thoại (comfort with conversation): khả năng


tạo sự cởi mở thoải mái, giúp thân chủ tự tin và giảm thiểu căng
thẳng vốn ảnh hưởng đến chất lượng tư vấn.

- Đồng cảm và hiểu biết (empathy and understanding): khả


năng liên hệ mình vào hoàn cảnh của người khác, ngay cả chuyện
thân chủ là người khác phái, khác văn hóa, khác biệt về điều kiện
sống, hoàn cảnh sống.

- Hiểu biết về tình cảm (emotional insightfulness): khả năng


kiềm chế bản thân, có thể đối diện một cách tự tin với những mức
độ cảm xúc khác nhau từ quá trình tư vấn, trưởng thành vững vàng
về mặt cảm xúc.

- Phản tỉnh táo nội tâm (introspection): khả năng tĩnh tâm để
tự đánh giá bản thân, suy xét nội tâm, từ đó có thể tự phục thiện,
hoàn thiện bản thân.

- Khả năng biết quên mình (capacity for self-denial): nghĩ đến
lợi ích của người khác trước, ngay cả trường hợp lợi ích người khác
ảnh hưởng đến lợi ích của bản thân mình.
- Không sa ngã trong tình cảm (tolerance of intimacy): khả
năng kiềm chế trong khi tư vấn với thân chủ khác phái, tránh những
cảm xúc thiên về nhục thể thiếu lành mạnh.

- An tâm với năng lực của thân chủ (comfort with power): khả
năng chấp nhận năng lực của thân chủ ở một giới hạn nào đó khi
không tiếp cận trực tiếp. Tư vấn viên sẽ không lạm dụng vị trí của
mình để lấn lướt, chỉ thị, hướng dẫn sai lệch.

- Khả năng biết cười (ability to laugh): cần có tính khôi hài
trong những huống trạng éo le của cuộc sống, biết lạc quan và
không quá gò bó. Ứng dụng tính khôi hài để giảm căng thẳng và
khơi dậy tinh thần lạc quan trong cuộc sống.

Ngoài ra, một tư vấn viên làm việc có hiệu quả cũng cần đến
những khả năng ứng dụng các khám phá khoa học kỹ thuật trong
công tác của mình. Họ cần có kiến thức để duy trì cho mình một sự
quân bình về tình cảm. Chính sự cân bằng trong cuộc sống ấy sẽ
giúp họ trở thành tư vấn viên làm việc tốt. Cũng dễ hiểu, một tư vấn
viên không có cuộc sống ổn định, anh ta sẽ không thể công tác tốt
trong quá trình tư vấn với thân chủ. Cormiers (1989) đề xuất những
tiêu chuẩn rất cần thiết của một tư vấn viên làm việc có hiệu quả
như sau.

- Năng lực thông minh (intellecture competence): khả năng và


tinh thần ham học hỏi, lối suy nghĩ nhanh chóng, nhạy bén, sáng
tạo.

- Sức làm việc (energy): khả năng duy trì hoạt động một cách
nhanh nhẹn, tỉnh táo trong suốt các ca tư vấn và với cơ quan mình
công tác.

- Khả năng co giãn (flexibility): có thể điều tiết và học hỏi khi
công tác tư vấn yêu cầu.
- Tinh thần động viên (support): khả năng giúp đỡ, động viên
thân chủ trong việc họ tự quyết định và tin tưởng, hy vọng vào cuộc
sống.

- Lòng thiện (goodwill): luôn muốn làm việc vì lợi ích của thân
chủ, với tinh thần xây dựng, nhằm giúp thân chủ trong việc duy trì
khả năng độc lập.

- Tinh thần cảnh giác (self-awareness): kiến thức về bản thân,


bao gồm thái độ với cuộc sống, nghề nghiệp, cảm xúc và khả năng
phân biệt là kiểm soát được những nhân tố có ảnh hưởng tiêu cực
trên bản thân.

Tất nhiên tư vấn viên còn cần có những đức tính khác, tuy nhỏ
bé hơn như trung thành với những tiêu chuẩn cơ bản của phép xử
thế. Song, đế trở thành một tư vấn viên có hiệu quả, bạn cần liên
tục và không ngừng hoàn thiện bản thân. Can đảm nhìn nhận những
mặt yếu kém để khắc phục. Ý thức được những giới hạn của bản
thân cũng là một đặc trưng quan trọng của một tư vấn viên có trách
nhiệm. Vì khi ta nhận thức được hạn chế, ta sẽ dễ dàng hơn trong
tiến trình tự hoàn thiện, gạt bỏ những thiếu sót chủ quan hạn hẹp
của mình.

3. Duy trì để giữ mình là một tư vấn viên làm việc có


hiệu quả

Một tư vấn viên luôn có những khó khăn đời thường như tất cả
mọi người trong xã hội. Họ có những trăn trở, đôi khi rất bức xúc và
nan giải. Cuộc sống của họ không hẳn là một cuộc sống bằng
phẳng. Họ cũng vật lộn với những vấn đề gay cấn như: bệnh tật:
cuộc sống, nghề nghiệp, tình cảm, tài chính, gia đình…
Tất nhiên những nan đề này, khôi hài một chút, lại là chất liệu
giúp một tư vấn viên xây dựng khả năng đồng cảm với thân chủ tốt
hơn. Nói khác đi, kinh nghiệm song sẽ giúp họ đồng cảm hơn với
những nan đề trong cuộc đời của những thân chủ. Nói thế, không có
nghĩa là kinh nghiệm xử lý của tư vấn viên sẽ áp dụng được cho mọi
cá nhân khác. Nên nhớ, kinh nghiệm của tư vấn viên chỉ mang tính
chia sẻ, tham khảo, hoàn toàn không phải là cơ sở cho lời khuyên
hay cung cấp giải pháp cho thân chủ.

Một tư vấn viên tốt luôn đón nhận những khó khăn trong cuộc
sống như bài học kinh nghiệm. Họ giữ vững lập trường, sống khách
quan và đối diện khó khăn với tinh thần trách nhiệm. Với họ, thất
bại và thành công đều có tính giáo dục trong đó. Vì thế họ có thể
nhìn thấy, đồng cảm và giúp thân chủ tìm ra những giá trị tích cực
trong cuộc sống.

Một bạn trẻ muốn trở thành một tư vấn viên, trước hết bạn
cần phải hiểu rõ bạn cần từ bỏ và đón nhận một cách có chọn lọc để
giữ cho bản thân được trong sáng, trung lập.

Với tư vấn viên, thân chủ hoàn toàn có lý do riêng của họ về


những hành vi và ứng xử. Tư vấn viên có nhiệm vụ chí rõ ra những
hành vi và ứng xứ của thân chủ sẽ có những ảnh hưởng nào đến
người khác. Như thế, thân chủ sẽ nhìn thấy hành vi và ứng xử của
họ cần được thay đổi để họ biết chấp nhận bản thân họ và tiếp cận
với người khác một cách có hiệu quả hơn.

Để giữ cho mình luôn cân bằng, những biện pháp phòng ngừa
xem ra rất cần thiết. Tình trạng quá tải thường (overload) là một
vấn đề phổ biến. Tình trạng quá tải có thể hiểu rằng như những mệt
mỏi về cả mặt tinh thần và thể xác. Khi quá tải, tư vấn viên sẽ
không còn tỉnh táo và minh mẫn trong công tác nữa. Để tránh tình
trạng này, tư vấn viên cần có những thú vui trong sáng lành mạnh
khác ngoài phạm vi nghề nghiệp của mình. Tìm cho mình những giải
trí lành mạnh. Các tác giả Bay và Pine (1980), Pines và Aronson
(1989), Savicki và Cooley (1982), Watkins (1983) có vài gợi ý dưới
đây giúp tư vấn viên tránh tình trạng quá tải:

- Quan hệ với những cá nhân khác (bạn bè, đồng nghiệp…) có


đời sống lành mạnh.

- Công tác và quan hệ với những cơ quan tổ chức có tiêu chí


làm việc tích cực.

- Luôn giữ chừng mực tương đối với những học thuyết trong tư
vấn mình áp dụng. Tránh lún ngập quá sâu trong lý thuyết.

- Tận dụng tập thể dục để giảm căng thẳng (chạy bộ, tập
yoga, dưỡng sinh…).

- Cố gắng điều tiết bản thân sao cho phù hợp với môi trường
gây ra căng thẳng, tránh những môi trường gây ra căng thẳng.

- Tự đánh giá bản thân, nhằm tìm nguồn tác nhân gây ra
những căng thẳng, để có biện pháp thích hợp.

- Thường xuyên đánh giá lại quan điểm nghiệp vụ, vai trò
nghiệp vụ, mong đợi của chính mình, niềm tin và triết lý của mình
trong quá trình theo nghề.

- Tìm đến tư vấn viên khác, nếu có nhu cầu.

- Giữ gìn khoảng cách, không nên liên hệ quá sâu với nan đề
của thân chủ, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của tư vấn
viên. Tránh đem nan đề của thân chủ về nhà.

- Luôn giữ thái độ lạc quan, yêu mến cuộc sống.


Một tư vấn viên hiệu quả sẽ giữ cho hệ tình cảm của mình
được ổn định, cân bằng, và khách quan. Họ cần cảnh giác và luôn
sống với những mặt mạnh và cả những hạn chế của mình một cách
thực tế. Đó là lời khuyên của Auvenshine và Noffsinger (1984).

4. Đào tạo căn bản cho một tư vấn viên

Ta vẫn thấy nhiều tư vấn viên làm việc có hiệu quả mà không
qua đào tạo trường lớp kiến thức về quá trình phát triển của con
người và kiến thức về tư vấn. Để quyết định xem mức độ cần thiết
về đào tạo như thế nào là đủ, thiết nghĩ nên xem đến mức độ quan
hệ giữa hai người trong quá trình tư vấn.

Tạm thời, ba cấp độ của quan hệ trợ giúp gồm: không chuyên
- bán chuyên nghiệp - chuyên nghiệp. Mỗi cấp độ đòi hỏi một trình
độ đào tạo khác nhau.

Với cấp độ chuyên nghiệp, ca tư vấn thường được hẹn trước,


chủ yếu là tìm giải pháp cho nan đề. Thân chủ trong tư vấn chuyên
nghiệp rõ ràng mong đợi kết quả từ quá trình tư vấn.

Với cấp độ không chuyên, ca tư vấn thường không có giờ hẹn


nhất định, quan hệ tư vấn chỉ là quan hệ phụ, thân chủ thường
không có mong đợi kết quả cụ thể. Nói chung tư vấn theo kiểu tiện
đâu làm đó.

Cấp độ bán chuyên, các điểm vừa nêu trên nằm ở khoảng
giữa.

Không chuyên: ở cấp độ không chuyên, người cung cấp tư


vấn thường là bạn bè, đồng nghiệp, những người không qua đào tạo
căn bản trường lớp, những người thiện nguyện, hoặc những người
có lòng vì người khác. Họ cũng có những kiến thức và kinh nghiệm
nhất định - nhưng thiếu hẳn kinh nghiệm tư vấn và kiến thức tư
vấn. Cần biết có kinh nghiệm sống và khả năng tư vấn là hai lĩnh
vực rất khác nhau.

Bán chuyên nghiệp: Ở cấp độ này, người cung cấp tư vấn có


những kiến thức được huấn luyện về đặc điểm tính năng trong quan
hệ giữa con người. Họ là những người làm việc như cảnh sát, y tá,
thầy cô giáo, nam nữ tu sĩ… Họ thường làm việc như: một bộ phận
liên ngành, không hoạt động riêng biệt, hoặc độc lập như một tư
vấn viên. Họ thường làm việc trong những môi trường có liên hệ đến
dịch vụ tư vấn, song họ làm việc dưới sự giám sát bởi chuyên viên
cao hơn.

Chuyên nghiệp: Ở cấp này, chuyên viên được đào tạo chuyên
môn về cả hướng dẫn đề phòng và can thiệp trị liệu. Họ là những
người có chuyên môn và học vị tùy theo chuyên ngành. Họ là bác sĩ
tâm thần, tâm lý gia, chuyên viên tâm lý nhân viên cộng đồng, linh
mục, sư ni… Thông thường trong quá trình đào tạo, những chuyên
gia này trải qua thời gian thực tập sinh hoặc có kinh nghiệm thu
thập được trong lĩnh vực chuyên môn của họ.

Những chuyên môn riêng trong tư vấn

Mỗi chuyên ngành trong xã hội đều có riêng những chương


trình đào tạo chuyên biệt. Tư vấn là một ngành độc lập cũng có
những đào tạo nhằm giúp các tư vấn viên trao đổi, liên lạc, và cộng
tác trên bình diện phục vụ mục đích chung trong ngành. Thường thì
tư vấn viên liên hệ nhiều nhất với bác sĩ tâm lý học, tâm lý gia, và
nhân viên cộng đồng.

Bác sĩ tâm thần học (psychiatrist): Là người có học vị bác sĩ,


họ trải qua đào tạo có thực tập trong bệnh viện tại khoa tâm thần
học. Họ làm việc với những bệnh nhân có vấn đề tâm lý nghiêm
trọng. Họ có quyền ghi toa thuốc và thực hiện những phương pháp
trị liệu trong bệnh viện. Thân chủ của họ được gọi là bệnh nhân. Ở
Hoa Kỳ, họ phải có giấy phép hành nghề của quốc gia và tiểu bang.

Tâm lý gia (psychologist): Hay còn gọi nhà tâm lý, họ tốt
nghiệp với học vị tiến sĩ (Ph.D). Quá trình đào tạo với chương trình
thực tập có thể ở nhưng trung tâm trị liệu, trường học, hay những
trung tâm trị liệu ngoại trú. Ở Hoa Kỳ, mỗi tiểu bang có những quy
chê riêng đối với việc cấp giấy phép hành nghề cao tâm lý gia.
Trong quá trình đào tạo, chương trình học chú trọng đến những khối
môn học: khoa học cơ bản, đạo đức nghề nghiệp, nghiên cứu,
phương pháp, thống kê, tâm lý thử nghiệm, sinh học trong hành vi,
hành vi với tư duy – cảm xúc, hành vi từ xã hội, hành vi cá nhân,
căn nguyên bệnh lý, những vấn đề liên quan.

Nhân viên cộng đồng xã hội (social worker): Thường tốt


nghiệp cao học (Master's Degree), hoặc cử nhân (Bachelor). Họ thực
tập chủ yếu ở những trung tâm cộng đồng xã hội. Một số làm việc
tại những trung tâm của ban ngành trực thuộc nhà nước. Phần còn
lại, họ công tác như những tư vấn viên.

Giáo dục bắt buộc trong tư vấn chuyên nghiệp

Để trở thành một tư vấn viên chuyên nghiệp, những sinh viên
ở Hoa Kỳ phải hoàn tất chương trình cao học 2 năm với ít nhất 48
tín chỉ (semester hours). Nhân viên tư vấn sức khỏe tâm thần được
yêu cầu hoàn thành 60 tín chỉ, cũng giống như các tư vấn chuyên
môn khác như, tư vấn hôn nhân gia đình, tư vấn cho người nghiện…

Theo ủy ban tiêu chuẩn đào tạo cho tư vấn và giáo dục Hoa Kỳ
(CACREP, 1994), giáo dục đào tạo bắt buộc cho tư vấn viên bao
gồm:
1. Chương trình học cho cao học (master's degreee) tư vấn bắt
buộc gồm 8 khối môn học:

(1) Tiến trình phát triển của con người.

(2) Căn bản về văn hóa và xã hội.

(3) Quan hệ trong tư vấn.

(4) Tư vấn cho nhóm.

(5) Thúc đẩy lối sống lành mạnh và tư vấn nghề nghiệp.

(6) Đánh giá chất lượng chương trình.

(7) Nghiên cứu và thẩm định chương trình.

(8) Căn bản chuyên nghiệp trong nghề Tư vấn.

2. Thực tập (practicum) trong môi trường có giám sát trực tiếp
1 giờ trên tuần và 1.5 giờ với giáo sư, tổng cộng 100 giờ.

3. Thực tập sinh (internship) yêu cầu 600 giờ dưới sự giám sát
của chuyên viên, ngay sau khi hoàn tất thực tập 100 giờ
(practicum), như nêu ở trên.

4. Mỗi trường đại học cung cấp đào tạo tư vấn viên cần có ít
nhất 3 giáo sư thường trực tại Ban tư vấn giáo dục khoa Tư vấn.

5. Lý thuyết và hệ thống căn bản áp dụng bởi tư vấn


viên

Học thuyết (theory), theo định nghĩa, là một mô hình, giải


thích cặn kẽ nghiệp vụ và thao tác của một tư vấn viên trong quá
trình đặt giả thiết về nguồn gốc của một vấn đề và từ đó có giải
pháp cho vấn đề đó. Nói chung học thuyết trong tư vấn sẽ giúp tư
vấn viên liên hệ được nan đề của thân chủ trong bối cảnh đa diện
của cuộc sống.
Một tư vấn viên làm việc hiệu quả sẽ trang bị cho mình một
học thuyết cơ bản, như một sườn chính (main frame) trong quá
trình đào tạo. Sau đó, học thuyết sẽ trở thành kim chỉ nam và triết
lý nghiệp vụ cho công tác tư vấn sau này. Học thuyết cũng sẽ giúp
tư vấn viên xác định được nhu cầu của thân chủ.

Tương tự, một hệ thống khung tư duy căn bản (basic thinking
system) cũng không kém phần quan trọng. Tư vấn viên cần tập
trung cho mình một hệ thống căn bản bao gồm những tư tưởng,
nguyên tắc, và hành vi phù hợp với nghiệp vụ tư vấn. Hệ thống tư
duy căn bản này giúp tư vấn viên áp dụng hoàn cảnh cụ thể của
thân chủ vào học thuyết mà tư vấn viên đã sử dụng, nhằm xây
dựng những kế hoạch tư vấn mục tiêu và quá trình tư vấn cho thân
chủ.

Học thuyết được thành lập bởi những chuyên viên ưu việt,
người đã xây dựng tư tưởng dựa trên kinh nghiệm làm việc của họ.
Các nhà sáng lập học thuyết liên tục theo dõi tính thực tế và khả thi
của những tư tưởng mà họ sử dụng để xây dựng học thuyết của
mình. Tuy nhiên, những nhà học thuyết đều công nhận rằng không
có một học thuyết nào có thể áp dụng và đáp ứng được nhu cầu đa
dạng và phức tạp của thân chủ. Tất nhiên có những học thuyết được
xây dựng kỹ lưỡng và đầy đủ hơn những học thuyết khác.

Tính chất đặc trưng của một học thuyết

Một học thuyết tốt bao gồm 5 đặc tính sau, theo Hansen,
Stevic, và Waner (1986):

1. Rõ ràng, dễ hiểu và có thể trao đổi được với mọi người. Đấy
là một tổng thể hợp nhất và không có các điểm mâu thuẫn trong
cùng một học thuyết.
2. Toàn diện, đặc tính này cho phép học thuyết có thể áp dụng
được vào tất cả những hiện tượng khả dĩ có thể xảy ra trong thực
tế.

3. Thiết thực, có tính được khám phá, dựa trên mẫu thiết kế
của học thuyết, áp dụng và thể nghiệm được.

4. Cụ thể trong liên hệ với kết quả mong đợi, vì học thuyết cho
phép người sử dụng để tìm ra kết quả khá quan trong quá trình áp
dụng. Tính khả thi và ứng dụng của học thuyết.

5. Hữu ích cho người sử dụng, cung cấp hướng dẫn cần thiết
cho người muốn kiểm nghiệm và áp dụng.

Ngoài ra, một học thuyết tốt cần phải phù hợp với triết lý sống
và nhân sinh quan của một cá nhân. Shertzer và Stone (1974) đề
nghị một tư vấn viên nên thật sự thoải mái với một học thuyết như
chuyện mặc quần áo vừa vặn. Giống như quần áo, nó có thể sửa
đổi, cát xén sao cho thật vừa vặn. Họ khuyến cáo tư vấn viên nên
sử dụng học thuyết một cách uyển chuyển, linh động.

Auvenshine và Noffsirger (1984) cũng khuyên, một tư vấn viên


làm việc hiệu quả là người biết tổng hợp, chọn lọc, áp dụng nhiều
học thuyết khác nhau một cách thích hợp với những trường hợp
khác nhau, tuy nhiên cần tôn trọng những đường lối căn bản của
những học thuyết đang được sử dụng.

Tầm quan trọng của học thuyết

Học thuyết là nền tảng quan trọng cho tư vấn có hiệu quả. Nó
mời gọi tư vấn viên trong việc tận dụng một cách có quan tâm và
sáng tạo ở khuôn khổ của học thuyết, giúp thăng tiến mối quan hệ
trong tư vấn, phát triển hướng giải quyết và thông cảm giữa hai
bên.
Học thuyết còn cung cấp phương tiện cho quan hệ hai bên
được nảy nở. Nó cũng giúp để những nan đề của thân chủ được phơi
bày. Nó còn giúp tư vấn viên trung thành với đạo đức nghiệp vụ và
xác định được vị trí của tư vấn viên trong bức tranh toàn cảnh,
trong suốt quá trình tư vấn.

Học thuyết cũng giúp giải thích những gì đang xảy ra trong
quan hệ tư vấn. Vì thế, tư vấn viên có thể dự đoán, đánh giá, điều
chỉnh, nhằm tăng tính hiệu quả của kết quả tư vấn. Học thuyết cho
phép ứng dụng khoa học được áp dụng trong tư vấn. Nó cho phép
tư vấn viên quan sát. Học thuyết cũng tạo cơ hội cho tư vấn viên áp
dụng những tư tưởng mới của mình vào hệ thống tư tưởng của học
thuyết, tạo nên tính năng động trong sáng tạo. Vì thế học thuyết
giúp giải thích và đem lại sự hòa hợp giữa những gì tư vấn viên
quan sát từ thực tế và hệ tư tưởng trong học thuyết.

Nói khác đi, học thuyết giải thích tại sao về những thao tác của
khách hàng, vì thế trong quá trình giúp đỡ, tư vấn viên sẽ biết làm
như thế nào khi trợ giúp thân chủ.

Price và Boy (1983) đã nêu ra tại sao một học thuyết tốt sẽ
hữu ích cho một tư vấn viên:

1. Học thuyết giúp tư vấn viên liên hệ và nắm bắt được tính đa
dạng của những nan đề trong cuộc sống.

2. Học thuyết yêu cầu tư vấn viên giám sát quan hệ trong tư
vấn như một nhắc nhở bắt buộc.

3. Học thuyết cung cấp tư vấn viên những hướng dẫn xử lý


tình huống để họ có cơ sở đánh giá quá trình phát triển khả năng
chuyên nghiệp của mình.
4. Học thuyết giúp tư vấn viên nắm bắt dữ kiện, và vì thế có
thể biết trước loại dữ kiện nào cần tìm, chủ động hơn trong tác
nghiệp.

5. Học thuyết giúp tư vấn viên làm việc hiệu quả hơn với thân
chủ trong quá trình điều chỉnh những hành vi tiêu cực

6. Học thuyết giúp tư vấn viên đánh giá lối tiếp cận cũ và mới
trong quá trình tư duy. Nói khác đi, một học thuyết tốt sẽ cung cấp
nền tảng cho những lối tiếp cận mới với nan đề trong quá trình tư
vấn.

6. Học thuyết nguyên thủy và tổng hợp các học thuyết

Ban đầu, trong tư vấn, những học thuyết được sử đụng dưới
hình thái nguyên dạng, và tư vấn viên được yêu cầu phải trung
thành với một học thuyết. Tuy nhiên, càng gần về sau, ý tưởng vận
dụng một cách có chọn lọc và áp dụng các học thuyết khác nhau
đang trở nên càng phổ thông hơn.

Lazareus và Beuler (1993) cho biết hiện nay ở Hoa Kỳ, từ 60 -


70 phần trăm các tư vấn viên tự nhận họ thuộc phái tổng hợp học
thuyết (eclectism). Họ chủ trương sử dụng nhiều học thuyết và áp
dụng nhiều kỹ năng khác nhau để áp dụng sao cho phù hợp với từng
nhu cầu cá biệt của mỗi thân chủ. Một điều cần lưu ý khi sử dụng
những học thuyết khác nhau, tư vấn viên cần sử dụng học thuyết
sao cho gần gũi và phù hợp với khả năng tiếp nhận và sự lĩnh hội
của thân chủ nhất.

Một trở ngại lớn cho những tư vấn viên mới vào nghề là
chuyện họ không nắm vững các thao tác của mỗi học thuyết. Để
tránh tình trạng trên, tư vấn viên cần kiên nhẫn với một vài học
thuyết căn bản trước, sau đó từ từ triển khai áp dụng sang những
học thuyết khác.

7. Hệ thống khung tư duy trong tư vấn

Hệ thống khung tư duy (thinking system) trong tư vấn được


quy định dựa trên hai cơ sở chính: (1) Tập trung vào tiêu chí của tư
vấn là phát triển đời sống lành mạnh; (2) Mục tiêu của tư vấn là tập
trung vào can thiệp, trị liệu đối với rối loạn tâm lý và rối loạn chức
năng.

Để có hiệu quả, tư vấn viên cần đứng ở vị trí trung lập giữa hai
hệ khung tư tưởng trong tư vấn vừa kể ra. Đây là việc rất cần, giống
như việc họ cần trung thành với một học thuyết (đã nêu ở phần
trên). Nói rõ hơn, hiệu quả tư vấn tùy thuộc vào mức độ tập trung
của một tư vấn viên đối với quá trình áp dụng thao tác nghiệp vụ
vào hệ thống khung tư tưởng trong tư vấn - đảm bảo thường xuyên
tính trung lập của mình - nghĩa là tránh có thành kiến với lối suy
nghĩ của người khác.

Thiếu hệ thống khung tư duy tư vấn: Nhiều tư vấn viên


không đi theo một hệ thống khung tư duy trong tư vấn thường lạc
lối và hiệu quả tư vấn, chất lượng tư vấn cũng không cao. Họ giống
người cỡi ngựa chạy lang thang trên cánh đồng, không có định
hướng.

Hệ thống tư duy tư vấn phát triển / đời sống lành mạnh:


Tư vấn viên đi theo hệ thống tư duy này thường tin tưởng vào kinh
nghiệm sống và sự phát triển của con người trong bối cảnh của
những ứng xử và hành động. Với họ, những nan đề trong cuộc sống
là vấn đề thuộc về mức độ phát triển của một giai đoạn trong tiến
trình phát triển của con người. Và như thế, hành vi của cá nhân ở
một thời điểm có thể sẽ không phù hợp ở một thời điểm khác.
Nhiệm vụ của tư vấn viên là giúp thân chủ có hành vi thích hợp với
giai đoạn phát triển phù hợp với tuổi tác của cá nhân.

Vì thế, khi phỏng vấn lần đầu (initial interview), tư vấn viên
cần xem xét nếu thân chủ đã phát triển đến giai đoạn nào và như
thế những biện pháp ứng dụng sẽ phù hợp với giai đoạn phát triển
của thân chủ.

Với hệ thống tư duy nhắm đến phát triển thăng tiến đời sống
lành mạnh, tư vấn viên phải ý thức được rằng con người vốn sẵn có
bản năng tích cực. Nhiệm vụ của họ là khơi dậy trong thân chủ
những nhân tố tích cực, khả năng sống tốt, và các mặt mạnh của
họ. Như thế thân chủ sẽ có thêm niềm tin vào bản thân cũng như
niềm tin vào cuộc sống. Sau đó thân chủ sẽ tự tin hơn và có thể tự
giải quyết được những vấn đề của bản thân. Nan đề không còn là
điều bí hiểm khó hiểu, song đó là vấn đề cần được khắc phục.

Với hệ thống tư duy con người phát triển: Thân chủ được
hướng dẫn để hiểu rõ vấn đề trong hoàn cảnh hiện tại. Họ được
cung cấp những kỹ năng cần thiết để xử lý những vấn đề đó. Kết
quả nhắm tới là họ không chỉ giải quyết vướng mắc trong hiện tại,
nhưng có cả khả năng đối phó với những vấn đề tương tự trong
tương lai.

Tóm lại, hệ thống tư duy tư vấn phát triển đời sống lành mạnh
mang tính ngăn chặn đề phòng, mang tính giáo dục. Tư vấn viên
giúp thân chủ hiểu được những mảng liên quan của đời sống con
người. Thân chủ vì thế sẽ chủ động hơn nhiều trong quá trình tư
vấn, nhất là khi họ xác định được tai trò hoàn cảnh của họ nằm ở
đâu trong bức tranh toàn cảnh của cuộc sống.
Hệ thống tư duy tư vấn theo mô hình y học / bệnh lý:
Đối ngược với hệ thống tư tưởng phát triển/ đời sống lành mạnh, hệ
thống mô hình y học/ bệnh lý yêu cầu thân chủ phải được điều trị
dựa trên chẩn đoán lâm sàng. (Dựa vào bảng phân loại: Diagnostic
anh Statistical manual 4th edition DSM IV. Đây là một cẩm nang
chỉ rõ tiêu chuẩn chẩn đoán những rối loạn tâm thần.

Nhiều học giả vẫn có nhiều ý kiến khác nhau mặc dù DSM IV
là một cẩm nang được sư dụng rất rộng rãi. Theo họ, cuốn cẩm
nang trên không dựa vào một học thuyết nào, chỉ nhắm vào những
chẩn đoán cá nhân, hoàn toàn bỏ qua những mảng quan hệ khác
của đời sống con người, như văn hóa, xã hội, môi trường…

Một lợi thế của DSM IV là, nó cho phép tư vấn viên ghi nhận
một cách cụ thể hiện trạng của thân chủ. Nhất là lối chẩn đoán 5
trục (axis) bao gồm những khu vực chức năng hoạt động và tên gọi
của rối loạn tâm thần của thân chủ, điều đó cho phép các chuyên
gia khác nắm bắt được tình trạng hiện thời của một thân chủ một
cách có hệ thống, mỗi khi họ có nhu cầu thảo luận và trao đổi về
bệnh án của thân chủ.

Tư vấn theo hệ thống tư tưởng này dễ rơi vào tình trạng gào
tên bệnh cho thân chủ. Tất nhiên, một khi đã được chẩn đoán, nhất
là chẩn đoán về một rối loạn tâm lý nào đó, thân chủ sẽ chịu một
ảnh hưởng tâm lý khó tránh khỏi do việc mình đã bị/ được chẩn
đoán và bị gán cho là có bệnh tâm thần. Đây là điều hoàn toàn nên
tránh, chỉ áp dụng khi thật cần thiết mà thôi.

8. Tham gia những hoạt động liên quan đến tư vấn


chuyên nghiệp
Trở thành tư vấn viên là một quá trình phát triển tiếp diễn gắn
liền với đời sống và nghiệp vụ, không dừng lại sau khi tốt nghiệp
khóa đào tạo. Được cấp chứng chỉ, đấy mới là khởi đầu của một
hành trình phấn đấu không ngừng trong nghề nghiệp. Tư vấn viên
bắt buộc phải tham gia những chương trình giáo dục tiếp diễn
(continuing education). Thiết nghĩ một hệ thống như thế sẽ giúp tư
vấn viên có được những đơn vị giờ học (tối thiểu để giúp cho nghề
này được bảo đảm cập nhật), từ những chương trình giáo dục tiếp
diễn. Tư vấn viên cần được yêu cầu giám sát. Việc này sẽ giúp tư
vấn viên cập nhật hóa, đồng thời bảo đảm tính chuyên môn của
ngành Tư vấn cũng như tăng thêm chất lượng phục vụ cho thân
chủ.

Giáo dục tiếp diễn: Một bắt buộc cho tất cả tư vấn viên hành
nghề ở Hoa Kỳ. Lý do chính là vì ý tưởng và ứng dụng trong phương
pháp điều trị luôn thay đổi và biến hóa. Tư vấn viên không chịu đọc,
tham khảo, tham gia những chương trình hội thảo sẽ chóng bị lạc
hậu về mặt kiến thức chuyên môn. Vì thế tham gia giáo dục tiếp
diễn sẽ giúp tư vấn viên nhạy bén với những bổ sung trong nghề và
hiệu quả hơn trong công tác; tránh tình trạng tụt hậu.

Vai trò của giám sát: Là tiến trình người có kinh nghiệm
giám sát và giúp người ít kinh nghiệm hơn về những mặt liên quan
đến hoạt động tư vấn. Người giám sát không chỉ cung cấp những
chia sẻ mang tính giáo dục mà cả những kinh nghiệm rút ra từ thực
tiễn công tác và cuộc sống. Hầu hết những trường đại học có
chương trình đào tạo tư vấn tâm lý cần chú trọng đến công tác giám
sát. Đây là cách tốt nhất để đào tạo những thế hệ tư vấn tâm lý có
chuyên môn và kỹ năng vững vàng để phục vụ. Các tư vấn viên
được cấp chứng chỉ cần nỗ lực và hăng hái trong việc nhận thực tập
sinh mới. Đây cần được xem như là một nghĩa vụ cao cả chứ không
nên là một chọn lựa, càng không phải là một ơn huệ, giành cho
những thực tập sinh đang cần có thêm kinh nghiệm.

Ủng hộ viên: Là những hoạt động tư vấn viên giành thời gian
cho công cuộc tư vấn ở cấp địa phương cũng như cấp liên tỉnh, cấp
quốc gia. Điều này không chỉ có tác động tích cực cho ngành Tư vấn
mà còn có lợi ích cho xã hội nói chung. Ủng hộ có nhiều hình thức
như: mua sách báo liên quan đến ngành, tham gia viết bài chia sẻ
kinh nghiệm của mình, đóng góp và tham gia các chương trình phúc
lợi công cộng, nhằm tạo một hình ảnh tích cực của dịch vụ tư vấn
với xã hội.

9. Kết luận

Tóm lại, một tư vấn viên làm việc có hiệu quả là một nhân tố
then chốt trong công tác tư vấn. Ngoài những đức tính thiên phú
sẵn có, họ còn phải trang bị cho mình kiến thức và được đào tạo hẳn
hoi. Họ cần tiếp tục quá trình giáo dục và phát triển nghề nghiệp. Tư
vấn viên cần trang bị cho mình một học thuyết và sử dụng một hệ
thống tư vấn căn bản.

Điều quan trọng nhất mà một tư vấn viên cần ghi nhớ là đào
tạo công tác tư vấn không kết thúc sau khi tốt nghiệp và nhận việc.
Trái lại, đấy chính là khởi đầu của một quá trình lao động nghiêm
túc với một nghề cao quý. Tư vấn viên có kinh nghiệm cần giúp đỡ
giám sát những thực tập viên, vì đây không phải là một việc làm
dựa trên cơ sở thích thì làm.

Tư vấn là một ngành giúp đỡ thật sự. Người yêu nghề nhất
định không thể ngồi im để thấy ngành phục vụ của mình không phát
triển. Giám sát thực tập sinh là nghĩa vụ của tư vấn viên.
Chương 3
ĐẠO ĐỨC VÀ TÍNH PHÁP LÝ TRONG TƯ VẤN

1. Dẫn nhập

Đạo đức trong nghề nghiệp là làm đúng, làm có trách nhiệm,
làm hết mình vì công việc. Đạo đức trong nghề nghiệp là không tạo
ra những dịch vụ và sản phẩm có hại cho người tiêu dùng. Trong
nghề tư vấn, tính đạo đức cũng thế, nó đòi hỏi người tư vấn viên
phải luôn chú ý đến nghiệp vụ của mình, sử dụng mọi kỹ năng và
kinh nghiệm cần thiết để bảo đảm tính đạo đức trong nghiệp vụ tư
vấn.

Theo TS.Trần Thị Giồng (2006): lĩnh vực công việc nào cũng
đều có những đòi hỏi của đạo đức nghề nghiệp, làm việc với “con
người”, một sinh linh quý giá nhất, chúng ta lại càng phải trân trọng
tối đa. Để giúp cho những ai đang phải mang trách nhiệm giúp đỡ
những con người đang có vấn đề, nghĩa là họ đang ở trong giai đoạn
mong manh yếu mềm, thì chúng ta lại cần sự hướng dẫn hơn cả.
"Đạo đức trong Tư Vấn là Trị Liệu" chính là những điều giúp chúng
ta thực hiện công tác phục vụ “con người’”" một cách hữu hiệu?

Từ tinh thần đó, tư vấn viên cần suy nghĩ và lĩnh hội được cái
chất nhân văn trong nghề, để từ đó mỗi khi tư vấn cho thân chủ, họ
cần nghiêm túc cân nhắc xem những trợ giúp của mình có thật sự
đem lại lợi ích cho họ không? Đây không chỉ đơn thuần là nghiệp vụ
mà đó là trách nhiệm của chúng ta, những người đã tình nguyện
đến với nghề Tư vấn.

2. Khái niệm về đạo đức trong tư vấn


Đối với một quan hệ tư vấn, tính đạo đức trong quá trình tư
vấn là một điều quan trọng hàng đầu không thể thiếu được. Nguyên
tắc của tư vấn là trợ giúp và giải quyết một vấn đề. Đây là điểm
then chốt không thể lơ là đối tới bất cứ một tư vấn viên nào. Để
giúp tư vấn viên có một khái niệm rõ hơn về tính đạo đức trong tư
vấn, khái niệm tính đạo đức được giới thiệu dưới đây như một tham
khảo cần thiết.

Đạo đức (ethics): Trong tư vấn là thước đo quyết định xem


hành vi của tư vấn viên trong quá trình tư vấn có đúng, có tốt, có
làm sai, làm hại đến thân chủ hay không. Nói khác đi, trong quan hệ
tư vấn tâm lý, người nhận dịch vụ tư vấn tâm lý có được đối xử công
bằng và hợp lý hay không? Họ có đạt được hiệu quả trị liệu hay
không?

Một tư vấn viên có kỹ năng và kiến thức chuyên môn, song


anh ta không có tính đạo đức trong công việc. Với một tư vấn viên
như thế, chúng ta không thể không dừng lại để hỏi một câu: Anh ta
sẽ làm được gì chứ? Tính đạo đức trong tư vấn, một lần nữa, tinh
thần của cụ Nguyễn Du trở nên rất cần thiết để chúng ta suy gẫm:
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Truyện Kiều). Không có tâm, kỹ
thuật (tài) có khi gây ra tác hại khôn lường, vì thế cụ còn dạy thêm:

Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

(Truyện Kiều)

Đạo đức trong tư vấn khác hơn đạo đức thông thường. Tính
đạo đức trong tư vấn đi xa hơn. Có thể nói, nó không chỉ ngừng lại
không làm điều xấu cho thân chủ mà câu hỏi được đặt ra ở đây cho
tư vấn viên đã làm hết sức vì lợi ích của thân chủ hay chưa?
Tính bảo mật (confidentiality): Trước hết tư vấn viên phải
được xác định rõ tư vấn là một ngành dịch vụ rất đặc trưng. Thông
tin được trao đổi giữa tư vấn viên và thân chủ là một vấn đề hết sức
tế nhị, và cần được giữ đến độ bảo mật tối đa trong những khuôn
khổ cho phép. TS.Trần Thị Giồng (2006) nhận định rằng, bí mật là
nguyên tắc trong tư vấn.

Tư vấn viên luôn đặt an toàn và lợi ích của thân chủ lên mức
quan trọng hàng đầu. Thân chủ hoàn toàn có quyền được biết mọi
dự tính và kế hoạch ứng xử của tư vấn viên trong những tình huống
khi luật pháp xảy ra và quyền lợi của thân chủ có mâu thuẫn, đối
ngược với yêu cầu của luật pháp.

Trong trường hợp thân chủ phạm pháp, tư vấn viên phải tôn
trọng quyền của thân chủ trước. Không chần chừ, tư vấn viên phải
thông báo cho thân chủ biết rằng giải pháp hữu hiệu nhất là cộng
tác với cơ quan có trách nhiệm. Điều này cần được xúc tiến trong
tinh thần đầy trách nhiệm của tư vấn viên. Tư vấn viên phải nêu cao
tinh thần tự giác. Thân chủ cần được tư vấn viên giúp để nhận thức
được tinh thần tôn trọng công lý. Tư vấn viên cần làm cho thân chủ
nhìn rõ rằng tự giác là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân.

Nguy hiểm đến tính mạng thân chủ và tính mạng người
khác (risk and danger to self and others): Đôi khi thân chủ tiết lộ
những ý tưởng và kế hoạch hành động gây hại đến sức khỏe và tính
mạng của mình (và người khác), tư vấn viên có nhiệm vụ cất tiếng
với những cơ quan hữu trách. Tốt nhất, ngay buổi đầu của quá trình
tư vấn (initial interview), tư vấn viên cần giải thích rõ đây là nhiệm
vụ nghề nghiệp, nhằm bảo vệ sức khỏe và tính mạng của thân chủ
và người khác.
Quan hệ riêng tư (intimacy): Đôi lúc vấn đề trở nên thật tế
nhị và rắc rối khi tư vấn viên rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.
Vấn đề càng trở nên gay cấn và căng thẳng hơn khi thân chủ và tư
vấn viên đã có những liên hệ gần gũi, do quá trình tư vấn đã được
xây dựng sau một khoảng thời gian nhất định nào đó. Quan hệ tình
cảm giữa tư vấn viên và thân chủ là một vi phạm đạo đức trong dịch
vụ tư vấn. Vì nó có ảnh hưởng tiêu cực, thiếu lành mạnh đến hiệu
quả tư vấn. Đây là vấn đề được nghiêm cấm trong dịch vụ tư vấn ở
Hoa Kỳ.

Với tư vấn nhóm (group works): Vấn đề đạo đức trong tư


vấn nhóm là một vấn đề rất tế nhị. Vẫn biết khi tư vấn nhóm, việc
giữ cho thông tin và chia sẻ trong quá trình tư vấn ở một nhóm là
một điều gần như bất khả kháng. Tuy nhiên, tư vấn viên trong
trường hợp tư vấn nhóm, tư vấn viên có thể rõ ràng trình bày ngay
buổi họp nhóm đầu tiên về vấn đề tế nhị này. Hai người nói chuyện
trao đổi với nhau đôi khi đã khó giữ kín thông tin. Với nhiều người
tham gia, nội dung chuyển sẽ càng khó giữ. Vấn đề nhiều người ở
một nhóm chia sẻ, trong quá trình tư vấn, nhất định khó tránh khói
xác xuất cao hơn khi thông tin bị rò rỉ, lọt ra khỏi nhóm.

Những hành vi thiếu tính đạo đức trong tư vấn xảy ra dưới
nhiều hình thức khác nhau. Nói chung, ngoài xã hội có những khó
khăn thử thách nào, đội ngũ tư vấn viên đều vấp phải những thử
thách cám dỗ ấy. Có người vượt qua được, có người không kiềm chế
được những yếu đuối cố hữu của bản thân, cuối cùng sa ngã, tự
đánh mất mình.

Tư vấn viên cũng là một con người như bao nhiêu cá nhân
khác. Họ cũng có những nhu cầu, nguyện vọng, (và tham vọng).
Hoàn cảnh cuộc sống đôi lúc vẫn bày ra những cám dỗ trước mặt tư
vấn viên, chăng hạn như những rung cảm có thể chuyển sang vụ lợi
trong tình cảm. Nhiều tư vấn viên có những hành vi gây ra bóng gió
xa gần của dư luận có hại. Nhất là những những nguồn tin được sử
dụng ngoài mục đích lương thiện, nhằm phục vụ cho những mưu
toan phi đạo đức của những nhóm viên.

Quan hệ sai tuyến (dual relationship): Là một vấn đề thuộc


lĩnh vực cần quan tâm. Dịch vụ tư vấn là dịch vụ có tính quan hệ trị
liệu (therapeutic relationship). Vì thế bất cứ quan hệ nào không dựa
trên căn bản quan hệ trị liệu sẽ có ảnh hưởng đến chất lượng phục
vụ. Tư vấn viên cần tránh những quan hệ ngoài tuyến như: trao đổi
hai chiều các dịch vụ, quan hệ tình cảm trái nguyên tắc (dù không
phạm pháp) song lại phạm đến tính đạo đức nghề nghiệp. Tư vấn
viên sẽ không làm tư vấn cho người nhà, hay tư vấn cho thân chủ
có quan hệ làm ăn ngoài xã hội với người nhà của mình. Tư vấn viên
không được tư vấn cho bạn bè của mình.

Nhiều hành vi phi đạo đức trong tư vấn tâm lý rất xấu và tồi
tệ. Nhiều hành vi phạm lỗi nhẹ nhàng kín đáo hơn. Dưới đây là một
vài ví dụ của những hành vi phi đạo đức điển hình do Levenson
(1986), Pope và Vetter (1992), và Swanson (1983) đã vạch ra:

- Vi phạm quyền kín đáo, lộ bí mật thông tin của thân chủ.

- Nhận những ca tư vấn vượt ngoài khả năng tư vấn của mình.

- Cẩu thả và vô trách nhiệm đối với thân chủ.

- Quảng bá liều lĩnh, quáng cáo sai nội dung, tự đánh bóng
chuyên môn của mình.

- Gán ghép và chèo kéo thân chủ tin theo giá trị và triết lý
sống riêng của tư vấn viên.

- Cố tình tạo điều kiện để thân chủ phải lệ thuộc vào tư vấn
viên.
- Không tận tình giúp thân chủ giải quyết nan đề, câu giờ, kéo
dài quá trình tư vấn không cần thiết, mong kiếm thêm thu nhập.

- Có hành vi và quan hệ tình cảm trái pháp luật với thân chủ,
như ngủ chung chẳng hạn.

- Rủ rê và mê hoặc thân chủ vào những phiêu lưu tình cảm,


ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả tư vấn, đề nghị những hành
vi thiếu lành mạnh.

- Vấn đề mâu thuẫn trong lợi ích, khi quan hệ tư vấn đi sai
tuyến.

- Phí tư vấn quá cao.

3. Nội quy và tiêu chuẩn đạo đức đối với tư vấn chuyên
nghiệp

Thật sự rất cần thiết khi chúng ta phải có một bản điều lệ
(codes of conduct) trong đó những nội quy và tiêu chuẩn đạo đức
cần được ghi ra thật rõ. Bản điều lệ này phải được đưa vào chương
trình đào tạo, được đưa ra trong các kỳ thi tốt nghiệp cấp chứng chỉ.
Bản điều lệ nên được khuyến khích rộng rãi, phải được cả tư vấn
viên và công chúng dư luận cùng đọc. Đây là tài liệu nên được mọi
giới tiếp cận. Tính công khai của bản điều lệ sẽ giúp tư vấn viên
theo sát hơn. Thân chủ cũng an tâm hơn và tinh thần cộng tác sẽ
cao hơn.

Kottler và Van Hoose (1985) đề nghị một bảng điều lệ như thế
sẽ giúp ngành Tư vấn, thân chủ và tư vấn viên trên các mặt sau:

- Bản điều lệ xây dựng ngành Tư vấn trở thành một ngành có
tổ chức.
- Bản điều lệ sẽ cung cấp hướng dẫn cần thiết khi nội bộ
ngành sử dụng như một hướng dẫn khi xử lý những vụ vi phạm.

- Giúp bảo vệ tư vấn viên vì họ biết đến những phạm trù nào
có thể và không có thể phạm đến.

- Giúp bảo vệ thân chủ vì tư vấn viên sẽ cảnh giác hơn khi họ
có một bản điều lệ.

- Giúp thân chủ đánh giá khả năng của một tư vấn viên, vì họ
dựa vào bảng điều lệ.

Hướng dẫn của bản điều lệ được xây dựng và xuất phát từ
nhiều nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau. Tư vấn viên
trước phải hết tuân thủ những điều lệ nói trên một cách triệt để, vì
nó là bản đồ, là kim chỉ nam, là những hướng dẫn cần thiết giúp họ
không sa ngã, vấp váp vào những sai phạm đáng tiếc trong nghiệp
vụ tư vấn. Tư vấn viên không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ bản điều
lệ, họ cần tự hào và quý trọng bản điều lệ đó, vì đó là văn bản chính
thức giúp bản thân và những đồng nghiệp khác làm tốt trách nhiệm
của một tư vấn viên tốt.

Những gợi ý của một bản điều lệ nên tập trung vào những tiêu
chuẩn sau:

- Tư cách nghề nghiệp và lợi ích của thân chủ.

- Trách nhiệm của tư vấn viên, những hành vi được làm và


những điều cấm.

- Cân nhắc về quyền giữ kín thông tin giữa thân chủ và tư vấn
viên.

- Những quyền của thân chủ được bảo vệ trong quá trình tư
vấn.
- Quan hệ trong tư vấn, những nền tảng quan hệ cho phép và
không cho phép.

- Quyền của những chức năng ban ngành khác, có liên quan
đến thân chủ (như cảnh sát, tư pháp, ban ngành khác).

- Vấn đề các bộ thử nghiệm (test, battery) dùng trong đánh


giá, trong quá trình tư vấn.

- Vấn đề liên quan đến đào tạo căn bản và những yêu cầu cần
thiết từ tư vấn viên (chứng chỉ, giấy phép hành nghề, văn bằng…).

- Vấn đề liên quan đến nghiên cứu, đào tạo, giám sát

- Thủ tục giải quyết những tranh chấp giữa tư vấn viên, thân
chủ, và những bộ phận thứ ba có liên quan khác.

4. Những giới hạn của của bản điều lệ

Như bao nhiêu hệ thống luật lệ và những quy tắc hướng dẫn
khác, một bản điều lệ luôn luôn có những ngoại lệ, xuất phát từ
những trường hợp đặc biệt nằm ngoài tầm kiểm soát, từ nguyên
nhân chủ quan lẫn khách quan.

Trong nhiều trường hợp, bản điều lệ đóng vai trò như một
hướng dẫn chung, do đó khó có thể trả lời được những câu hỏi, nảy
sinh từ những trường hợp cá biệt. Rất nhiều lúc, tư vấn viên sẽ vấp
phải những tình huống không nằm trong bản điều lệ. Hoặc đôi lúc
một tư vấn viên phải lưỡng lự trước hai chọn lựa gay cấn, hóc búa…

Beymer (1971), Corey và Callanan (1988), Mabe và Rollin


(1986) Tallbutt (1981) đã liệt ra dưới đây là những trường hợp đặc
biệt khi bản điều lệ không thể hoặc khó áp dụng được trong quá
trình tư vấn:
- Những trường hợp không thể giải quyết bằng bản điều lệ.

- Quá khó khăn khi áp dụng bản điều lệ.

- Mâu thuẫn giữa hai điều lệ trong một bản điều lệ với một ca
tư vấn đặc biệt.

- Bản điều lệ không liệt kê nhưng trường hợp hi hữu.

- Luật pháp thay đổi nhưng bản điều lệ vẫn chưa sửa đổi kịp.

- Thiếu những điều luật cho nhiều trường hợp có thể xảy ra.

- Khó có thể dung hòa, hoặc đáp ứng nguyện vọng của nhiều
bên có liên quan.

- Điều khoản mập mờ, không rõ ràng.

Tất nhiên bản điều lệ là một hướng dẫn căn bản và tư vấn viên
đôi lúc sẽ phải tự quyết định trong những trường hợp mơ hồ hoặc
không rõ ràng vì tính chất đặc biệt của một ca tư vấn.

Thật không dễ khi phải đi đến một quyết định về mặt đạo đức
trong tư vấn cho những ca đặc biệt, hi hữu. Đây là một trong những
phạm trù nhức đầu của nghề tư vấn. Điều này thường liên quan đến
tư cách đạo đức, tính quả cảm liêm chính, lòng can đảm của từng cá
nhân một. Ví dụ, cùng một vụ việc, nhiều tư vấn viên sẽ có nhiều
quyết định, cắt nghĩa khác nhau, và sẽ có những lối xử lý, cách tiếp
cận khác nhau.

Để giúp tư vấn viên tránh được những đau đầu không cần
thiết, dưới đây là vài gợi ý của Tennyson và Strom (1 986) khi đi
đến một quyết định là đối diện với nhưng ngã ba khó xử này:

- Lợi ích cho thân chủ (beneficence): làm điều ích và ngăn
chặn điều có hại.

- Không làm hại (nonmaleficence): không cố ý gây hại.


- Tự giác (autonomy): tôn trọng tự do lựa chọn và phương
châm sống của thân chủ.

- Công bằng (justice): công bằng, bình đẳng, hợp pháp luật.

- Tin cậy (fidelity): tin cậy và trung thành với những cam kết
của mình.

Như thế, tư vấn viên nên nhớ rằng mình có nhiệm vụ không
chỉ tránh những điều có hại mà còn phải chủ động trong việc ngăn
chặn những tác hại, không cho chúng xảy ra trong tương lai với thân
chủ.

Trước khi bắt tay vào quá trình tư vấn, tư vấn viên cần thông
báo cho thân chủ biết rằng, trong trường hợp thông tin cung cấp bởi
thân chủ, tiết lộ cho thấy nguy hiểm sẽ xảy ra đối với một nhân vật
thứ ba nào đó. Trường hợp này, tư vấn viên sẽ thông báo đến
những cơ quan có chức năng nhằm bảo vệ người có khả năng sắp bị
hại bởi thân chủ.

Trong nhiều trường hợp, nếu đồng nghiệp làm sai, tư vấn viên
có nhiệm vụ ngăn chặn đồng nghiệp bằng cách động viên tư vấn
viên đồng nghiệp hãy tự giác giải quyết, xử lý nội vụ một cách thỏa
đáng. Một tư vấn viên có trách nhiệm sẽ luôn nhắc nhở đồng nghiệp
hãy tôn trọng an toàn và lợi ích của thân chủ trước tiên.

Ngoài những điều lệ ghi rõ trong bản điều lệ, những gợi ý sau
đây giúp tư vấn viên hướng những cố gắng để xác định được bước
phải làm khi gặp phải những ca tư vấn hóc búa. Tiêu chí căn bản ở
đây vẫn là tính kỷ luật với bản thân và của nguyên tắc làm việc phải
thật thà. Tư vấn viên cần:

- Trung thực tìm đến với đồng nghiệp, vì họ sẽ giúp ta tháo gỡ


những khó khăn.
- Thao tác với tiêu chí lợi ích của thân chủ là trên hết.

- Tránh lợi dụng cho bản thân hoặc gây hại cho người khác.

- Công bằng trong mọi ứng xử.

Giáo dục và đào tạo tư vấn viên về tính đạo đức trong tư
vấn, giáo dục về tính đạo đức là một khâu then chốt đối với các
trung tâm đào tạo tư vấn viên. Có thể nói đây là cách quảng bá tinh
thần đạo đức trong nghiệp vụ tư vấn có hiệu quả nhất đối với đội
ngũ tư vấn viên.

Việc sử dụng những hoạt cảnh (vignette) hoặc những ca tư


vấn hóc búa như những tư liệu giảng dạy trong lớp để học sinh thảo
luận sẽ có tác dụng như những lần thực tập thực tế có ý nghĩa. Nhất
là đóng kịch từ những hoạt cảnh (role playing) hóc búa.

Mỗi tư vấn viên cũng nên biết rằng nơi mỗi cá nhân, quá trình
phát triển tư duy đạo đức là một nhân tố có ảnh hưởng đáng kể vào
những quyết định mang tính đạo đức. Van Hoose và Paradise (1979)
đã đề cập đến quá trình phát triển tư duy đạo đức qua 5 giai đoạn:

1. Sự trừng phạt (punishement orientation): giai đoạn này, tư


vấn viên tin rằng họ và thân chủ nếu vi phạm luật xã hội sẽ bị trừng
phạt.

2. Luật phục vụ cơ quan (institusional orientation): tư vấn viên


tin rằng luật trong cơ quan là bất biến, và anh sẽ triệt để tuân thủ
theo luật của cơ quan anh làm việc.

3. Luật phục vụ xã hội (societal orientiation): giai đoạn này, tư


vấn viên coi luật của xã hội là quan trọng. Khi đứng giữa xã hội và
thân chủ, tư vấn viên sẽ chọn giải pháp phù hợp với luật xã hội.
4. Luật phục vụ cá nhân (individual orientation): tư vấn viên
dù vẫn quan tâm đến luật xã hội nhưng anh ta đặt lợi ích của cá
nhân (thân chủ, hoặc tư vấn viên) lên trên luật xã hội.

5. Luật phục vụ lương tâm (principle [conscience] orientation):


tư vấn viên tin rằng giải pháp trong hệ thống tư duy (tư tưởng) của
họ quan trọng hơn luật xã hội.

Đây là một điểm cần chú ý, vì quá trình tư duy đạo đức này có
thể dẫn đến những chủ quan trong quá trình tư vấn. Và vì thế, có
thể sẽ gây ra những sai sót đáng tiếc, rất có thể xảy ra trong nghiệp
vụ. Khi cảnh giác được tiến trình phát triển trên, tư vấn viên có thể
sẽ tự điều tiết hoặc bản thân hoặc để cảnh giác với đồng nghiệp.

Vài câu hỏi sau đây sẽ giúp tránh được những sai sót không
cần thiết:

- Tại sao tôi chọn quyết định ấy?

- Ai sẽ bị ảnh hưởng bởi quyết định ấy của tôi?

- Cái gì đã khiến tôi chọn giải pháp ấy?

- Giải pháp ấy ảnh hưởng đến ca tư vấn ra sao?

- Tôi đã tận dụng các nguồn giải pháp chưa?

- Khi nào là lúc thuận tiện thực hiện giải pháp?

Welfel (1998) đã đề nghị chín bước dẫn đến quyết định đạo
đức trong tư vấn như sau:

1. Thiết lập hệ thống nhạy cảm về tính đạo đức trong tư vấn
(tinh thần cảnh giác).

2. Vạch rõ chân dung nan đề và những giải pháp khả thi nhất.

3. Tìm trợ giúp trong tiểu chuẩn chuyền nghiệp, hay từ bản
điều lệ.
4. Tìm thêm dữ liệu về đạo đức trong nguồn học vấn, thư viện,
sách vở, đồng nghiệp.

5. Áp dụng tiêu chuẩn đạo đức vào trường hợp cụ thể, có cân
nhắc.

6. Tham khảo với người có nhiều kinh nghiệm trong nghiệp vụ


tư vấn (nếu là thực tập sinh)

7. Suy nghĩ, cân nhắc, sau đó quyết định cẩn thận.

8. Thông báo cho người giám thị của mình (nếu là thực tập
sinh), thực hiện quyết định; lưu lại báo cáo.

9. Suy nghĩ và lưu trữ quá trình xử lý như một kinh nghiệm
nghề nghiệp.

Những trường hợp cá biệt trong tư vấn liên quan đến đạo đức
thường xảy ra trong những môi trường sau:

Trường học (tư vấn viên học đường bênh vực quyền cho nhà
trường, thay vì bênh vực cho học sinh).

Máy vi tính (khi thông tin về thân chủ có thể bị người khác đọc
được).

Hôn nhân - gia đình (khi vợ chồng có mâu thuẫn về mục đích
và động cơ trong quá trình tìm giải pháp - tư vấn viên sẽ dễ thiên
vị, đánh mất tính vô tư và vai trò trung lập của mình).

Với nhóm đối tượng thân chủ đặc biệt (người già, người
nghiện, người tàn tật… vốn không có nhiều uy tín trước mặt mọi
người, nhàm chán, lú lẫn).

5. Quan hệ ngoài tuyến (dual relationship)


Đây là một điều rất tai hại và là một tập quán không phải hiếm
trong nhiều ca tư vấn khi tư vấn viên và thân chủ không tuân thủ
những quy định lành mạnh trong việc không xác định được một
quan hệ thuần tuý lành mạnh và chuyên nghiệp trong quá trình tư
vấn.

Quan hệ ngoài tuyến có thể coi như là một hoạt động thiếu
tính đạo đức trong đó quan hệ giữa tư vấn viên và thân chủ không
chỉ dừng lại ở giới hạn chuyên môn mà đi xa, lan lấn qua những
quan hệ khác. Dù được hai bên thoả thuận và không nhất thiết là
phạm pháp - quan hệ ngoài tuyến sẽ giảm thiểu danh dự và uy tín
của tư vấn viên rất nhiều.

Vấn đề được đặt ra, nếu hai bên đã thỏa thuận; có gì là không
ổn khi họ tự nguyện, hoàn toàn không gây ảnh hưởng gì đến người
khác? Đúng - quan hệ ngoài tuyến không ảnh hưởng đến người
khác, nhưng có ảnh hưởng tiêu cực đến tiên trình tư vấn. Vì thế sẽ
có tác hại đối với thân chủ.

Tuy thế, khi xem xét kỹ, ta nhận thấy tác dụng của tư vấn là
tìm ra giải pháp. Ta biết, những quan hệ ngoài tuyến không dính
dáng, liên quan gì đến quá trình tư vấn có thể ảnh hưởng đến quan
hệ chính trong tư vấn.

Nhiều khi, quá trình tư vấn tìm giải pháp chưa đạt kết quả,
việc quan hệ ngoài tuyến sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tiến trình tìm
ra giải pháp hiệu quả cho vấn đề. Nhiều lúc, tác hại của quan hệ
ngoài tuyến còn gây tác hại ảnh hưởng về lâu về dài. Tư vấn viên sẽ
quen với lối làm việc không hiệu quả, thiếu tôn trọng thân chủ, lỏng
lẻo với kỷ luật bản thân. Phía thân chủ thì họ mất niềm tin nơi dịch
vụ tư vấn.
Vì thế, một quan hệ trong quá trình tư vấn, trước hết phải là
một quan hệ hết sức chuyên nghiệp (professional). Hoàn toàn dựa
trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Không thể là một quan hệ chồng
chéo, sai tuyến, lệch lạc, vặn vẹo, khúc xạ.

Quan hệ ngoài tuyến có thể xuất hiện dưới nhiều hình thái. Đôi
khi nhìn vào, những quan hệ này tưởng như rất vô hại: bình thường,
chẳng hạn như trao đổi hai chiều hay quan hệ giữa trai đơn gái
chiếc, không ràng buộc bởi luật hôn nhân gia đình - hoàn toàn hợp
pháp nhé.

Khi quan hệ trong quá trình tư vấn không còn thuần túy dựa
trên căn bản trợ giúp và mục đích hoạt động không còn chú trọng
đến việc tìm ra giải pháp cho nan đề. Phần nhiều, những quan hệ
ngoài tuyến thường là quan hệ tình cảm nam nữ giữa tư vấn viên và
thân chủ. Ngoài ra những quan hệ khác như vừa tư vấn vừa trở
thành bạn bè, làm ăn chung, trao đổi dịch vụ, giới thiệu tư vấn viên
với gia đình (hoặc ngược lại)…

Nhiều người cho rằng những quan hệ ngoài tuyến có vẻ vô hại,


hoặc tệ hại hơn, người ta cho rằng những qua lại nho nhỏ ấy có thể
tăng thêm tinh thần gắn bó giữa hai bên. Đấy thật ra là những sai
lầm nghiêm trọng, mặc dầu bên ngoài là có vẻ vô hại, nhưng bên
trong, quá trình tư vấn đã bị ảnh hưởng, ở một mức độ rất sâu, khó
nhận ra.

6. Làm việc với đồng nghiệp có những dấu hiệu không


đạo đức

Khi một tư vấn viên phát hiện ra đồng nghiệp có những biểu
hiện không lành mạnh, thiếu đạo đức trong chuyên môn nhiệm vụ
của tư vấn viên là tiếp cận đồng nghiệp và yêu cầu họ có những
hành động cụ thể xoá bỏ và chấm dứt ngay những hành vi không
phù hợp với tiêu chí nghiệp vụ tư vấn.

Tại sao phải hành động như thế? Thứ nhất, nếu tư vấn viên
làm ngơ với đồng nghiệp, tự động tư vấn viên ấy đã để cho kỷ luật
nghề nghiệp của họ những cơ hội bị xói mòn. Và từ đó họ càng dễ
dãi với những hành vi của đồng nghiệp trong tương lai. Hơn nữa, tư
cách của một tư vấn viên thường được phản ảnh qua đồng nghiệp.
Chúng ta có trách nhiệm lên tiếng, bảo vệ đồng nghiệp trước khi họ
đi quá xa. Chưa kể những trường hợp đồng nghiệp không có những
kiến thức căn bản về tính đạo đức trong nghiệp vụ tư vấn. Hoặc
nhiều lúc vô ý, đồng nghiệp không nhìn thấy việc họ làm là vi phạm
tính đạo đức. Vì thế, ta càng cần nên có trách nhiệm giúp đỡ bạn
đồng nghiệp nhiều hơn.

Sau đây là vài gợi ý khi tiếp cận với đồng nghiệp có biểu hiện
sai lạc trong tư cách đạo đức.

1. Cẩn thận thu gom đầy đủ dữ kiện một cách kín đáo, tế nhị.

2. Trao đổi với đồng nghiệp một cách khách quan những gì
bạn thấy, nghĩ.

3. Sử dụng những văn bản hiện hành để giới thiệu cho đồng
nghiệp về những sai phạm.

4. Luôn thể hiện tinh thần tôn trọng và mối quan tâm thật sự.

5. Bình tĩnh, từ tốn, những dứt khoát trong quan điểm đạo đức
nghề nghiệp.

6. Để ý, quan sát nếu như bạn đồng nghiệp có những biểu


hiện cải thiện - khích lệ họ khi những biến chuyển tích cực xảy ra.

7. Có biện pháp hành động tùy theo phản ứng của bạn đồng
nghiệp.
7. Kết luận

Tính đạo đức trong tư vấn là một yếu tố quan trọng, then chốt
trong công tác tư vấn. Có thể nói, đạo đức trong tư vấn là kim chỉ
nam cho mọi hoạt động của một tư vấn viên. Thân chủ không ngẫu
nhiên tìm đến dịch vụ tư vấn, họ là những người gặp khó khăn thật
sự, vì thế, không giúp đỡ họ tận tình đã là một thiếu sót. Lợi dụng
họ hoặc làm điều có hại lại càng là một sai phạm lớn hơn.

Tất nhiên những thử thách và cám dỗ không hẳn là không tấn
công đội ngũ tư vấn viên, vì thế, chúng ta cần cảnh giác với những
cám dỗ ấy, có hành động ngăn chặn kịp thời và chủ động. Và sau
cùng, quan tâm đến đồng nghiệp là một điều chúng ta nên cố gắng.
Vì chúng ta không đến với xã hội bằng mỗi cá nhân, mà chúng ta
làm việc với một đội ngũ những tư vấn viên.

Bảo vệ tính đạo đức trong ngành Tư vấn không chỉ là trách
nhiệm, mà còn là nghĩa vụ. Một nghĩa vụ không thể sao nhãng, lơi
lỏng được.

Chương 4
TƯ VẤN TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI PHONG PHÚ

1. Dẫn nhập

Con người luôn có những đòi hỏi liên đới mật thiết với những
cá nhân khác trong xã hội. Không phải cứ sống trong một xã hội đa
chủng như Hoa Kỳ hay nước Úc chúng ta mới trải nghiệm được
những khác biệt rất đa dạng của cuộc sống đa văn hoá.
Trong bất cứ xã hội nào, tính đa văn hoá cũng tồn tại và phát
triển. Chúng ta sẽ luôn thấy có những đại diện khác nhau trong một
xã hội. Đây cũng chính là tính đa dạng và phong phú của xã hội. Với
Việt Nam, một đất nước trải dài 3620 km bờ biển và 1650 km đường
chim bay từ cực bắc đến cực nam; có những phong tục tập quán rất
khác biệt giữa vùng cao và vùng xuôi, miền Nam, Trung, Bắc, nhiều
sắc dân. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện tại, nước nhà mở cửa ra
với thế giới, những giá trị văn hoá khác du nhập vào, càng làm cho
tính đa văn hoá trở nên phong phú, muôn màu sắc.

Công tác tư vấn là một công tác đem dịch vụ trợ giúp đến xã
hội, thông qua làm việc với từng cá nhân riêng biệt. Điều này cho
chúng ta thấy, tư vấn viên tất nhiên phải tiếp cận với xã hội, đòi hỏi
họ phải có một não trạng và chuẩn bị sẵn sàng làm việc với từng cá
nhân, hoặc nhóm riêng biệt. Tất nhiên trong bối cảnh xã hội phong
phú, tư vấn viên cần chủ động trên mặt trận văn hóa trong công tác
tư vấn đối với từng cá nhân, nhóm có hoàn cảnh văn hóa xã hội
khác nhau - vì phần lớn những ứng xứ và nhận thức của con người
đến từ văn hóa..

Xã hội luôn có những nhóm người và họ thuộc những tầng lớp


khác nhau. Từ đó, một tư vấn viên cần có những khái niệm căn bản
về tính đa dạng ở mặt văn hoá của xã hội là điều không thể xem
nhẹ.

Thiết tưởng khái niệm văn hóa rất cần được thảo luận rõ ràng.

2. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là một khái niệm có thể định nghĩa qua nhiều khía
cạnh khác nhau. Nó bao gồm những đại lượng thuộc về chủng học,
như nhân học, dân tộc học, tôn giáo, ngôn ngữ, phong tục. Những
đại lượng thuộc nhân khẩu học, như tuổi tác giới tính, nơi sống.
Ngoài ra còn có những đại lượng xã hội, như nghề nghiệp, trình độ
giáo dục, sức khỏe, thu nhập kinh tế…

Định Nghĩa: Từ đó, một định nghĩa thật rộng về một nền văn
hóa, có thể được gọi là: Bất cứ một nhóm những cá nhân liên kết
với nhau, có chung một bối cảnh xã hội, chung mục đích, và cùng có
chung những nhu cầu tương tự.

Ngoài ra trong một xã hội sẽ có những nhóm văn hóa đem


theo những kinh nghiệm rất đặc trưng rất khác nhau của những con
người trong các nhóm này như: niềm tin, triết lý sống, nhân sinh
quan, giá trị sống. Ví dụ, một người thuộc giới dân cư lao động
nghèo sẽ có những não trạng rất khác với một người thuộc nhóm
trong giới trí thức, quân đội, kinh doanh thương mại, hay giới công
nhân viên chức.

Đa văn hóa: Vì tính đa dạng nhiều mặt của văn hóa, từ ngữ
đa văn hoá trở thành một từ khá phổ biến trong thuật ngữ xã hội
học hiện đại. Khó có một khái niệm thống nhất về đa văn hoá. Và có
thể hiểu, đa văn hoá là nhiều nhóm văn hoá nhỏ cùng tồn lại song
song với nhau trong một nền văn hoá của một dân tộc, đất nước.

Một tư vấn viên, nếu không có não trạng cần thiết về khái
niệm đa văn hoá, anh ta sẽ dễ rơi vào lúng túng khi tiếp cận với
những thân chủ có quá nhiều điểm khác biệt với tư vấn viên; xét
trên bình diện văn hóa.

Ý thức sâu sắc được mỗi cá nhân sẽ thuộc về một nhóm văn
hóa nhất định trong xã hội (gồm nhiều thành phần - đa văn hóa) sẽ
giúp tư vấn viên cảnh giác khi tiếp cận những thân chủ. Như thế quá
trình tư vấn sẽ đạt được những hiệu quả thiết thực và đáp ứng được
chính xác nhu cầu tư vấn của từng thân chủ.
Với kiến thức về đa văn hoá, tư vấn viên có thể mạnh dạn
thẩm định khả năng của mình trong việc đem đến những dịch vụ tư
vấn bổ ích cho thân chủ. Như đã trình bày trong chương 3 về tính
đạo đức trong tư vấn, một tư vấn viên phải chú trọng đến lợi ích của
thân chủ, không được làm hại đến thân chủ. Nên biết, khác biệt về
văn hóa có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ và chất lượng tư
vấn. Đôi khi có ảnh hưởng của đối chọi trong hệ văn hoá tư tưởng
sẽ có những phản tác dụng với mục tiêu tư vấn.

Ví dụ, nếu như một tư vấn viên hoàn toàn có thành kiến với
quan niệm đồng tình luyến ái. (Dù đây là một điều hoàn toàn có thể
chấp nhận được trong não trạng của mình), tư vấn viên này nhất
định không nên cung cấp dịch vụ tư vấn cho thân chủ đã trình bày
rõ ràng anh ta là người đồng tình luyến ái.

Một thân chủ sẽ mạnh dạn tự nhiên hơn khi tư vấn viên có
cùng một hoàn cảnh văn hoá như họ. Điều này sẽ giúp tư vấn viên
ứng xử sao để sự đồng cảm có thể đạt hiệu quả cao nhất.

Tư vấn viên cần chủ động trong mảng văn hoá khi thực hiện tư
vấn. Hoàn toàn có thể chấp nhận được, nếu tư vấn viên từ chối làm
việc với một thân chủ vì lý do khác nhau về văn hóa tư tưởng.
Nhiệm vụ của tư vấn viên là mạnh dạn trình bày quan điểm của
mình về vấn đề tế nhị này. Nếu thân chủ vẫn yêu cầu tiếp tục được
tư vấn, tư vấn viên có thể thử một lần. Tuy nhiên, khi phát hiện ra
hiệu quả không đạt được, tư vấn viên sẽ giới thiệu thân chủ với một
tư vấn viên khác, thích hợp với thân chủ hơn.

3. Những khó khăn trong công tác tư vấn đa văn hoá


Một vấn đề nóng bỏng đến từ hiện thực đa văn hoá là tư vấn
viên đánh giá không chính xác về điều kiện cụ thể và não trạng của
thân chủ đến từ những hoàn cảnh xã hội khác nhau.

Con người vốn hay có một lối đánh giá chung hay có thành
kiến (stereotype). Ví dụ, họ nghĩ người giàu sẽ keo kiệt và người
nghèo sẽ tiêu hoang khi họ có tiền. Hay là phụ nữ thì nhiều chuyện
và đàn ông thì thích hảo ngọt. Điều này hoàn toàn không hẳn như
thế. Chính vì vậy, thành kiến với những đặc điểm bên ngoài về mặt
văn hóa xã hội dễ dẫn đến những hiểu lầm chủ quan, vốn rất dễ xảy
ra. Những sai sót này, nếu như tư vấn viên được trang bị và có cảnh
giác trong quá trình tư vấn, họ có thể tránh được.

Ngôn ngữ là một khó khăn không nhỏ. Ta biết, mỗi một nhóm
người trong xã hội có một nhóm từ vựng ngôn ngữ riêng. Đôi lúc ta
vẫn nghe thấy người ta bảo:

Ông ấy ăn nói nghe chính trị lắm.

Bà ấy nói chuyện sặc mùi tiền.

Anh ta dân võ biền, ăn nói chắc như đinh đóng cột.

Cậu phải để ý, họ dùng toàn thuật ngữ chuyên môn…

Như thế, tuy rằng ngôn ngữ chung là tiếng Việt, nhưng ngôn
ngữ văn hóa của một nhóm nào đó lại có những từ vựng và não
trạng riêng. Nắm bắt được điều này, tư vấn viên sẽ điều chỉnh sao
cho phù hợp, để những chia sẻ trong quá sinh tư vấn sẽ vận hành
nhịp nhàng thuận lợi, tạo ra những hiểu biết cần thiết.

Đối xử phân biệt với thân chủ (discrimination): Là một


thách thức nhức nhối đối với những người làm công tác tư vấn.
Nhiều lúc chúng ta bắt gặp những đối tượng thân chủ hoàn toàn
không hợp với cảm giác làm việc; thật đáng buồn, do chủ yếu chỉ vì
họ không được giống như chúng ta.

Tư vấn viên không đối xứ với thân chủ một cách bình đẳng,
không có tôn trọng là phạm đến lỗi đối xử phân biệt với khách.
Chẳng hạn, khi tiếp một thân chủ nghèo, cao tuổi, chậm chạp, nếu
không có cái tâm, tận tụy với nghề, nhiều tư vấn viên sẽ lộ vẻ
không hào hứng, ngán ngẩm ra mặt, điều này sẽ ảnh hưởng đến
hiệu quả tư vấn; như chuyện họ sẽ tư vấn cho xong, gay gắt, thiếu
thân thiện, dè bỉu.

Một điểm khác cần quan tâm đến là quá trình hội nhập của
một cá nhân trong xã hội. Ví dụ, một thân chủ gốc miền Bắc, sau
một thời gian sống ở miền Nam, rất có thể não trạng của anh đã
miền Nam hóa. Nếu tư vấn viên cẩn thận, khéo léo thăm dò, sẽ
tránh được những hiểu lầm, đôi khi không đáng xảy ra. Đừng vì
giọng anh ta nói nghe Bắc quá rồi đóng kịch cho Bắc hóa là thiếu
tôn trọng. Văn hóa trong tư vấn phải chân thành, trung thực, hợp
với tinh thần tôn trọng tối thiểu.

4. Vấn đề cần chú ý trong tư vấn đa văn hóa

Một vấn đề thường gặp với tư vấn viên là họ luôn coi mọi đối
tượng thân chủ đều giống nhau. Từ đó những khuôn mẫu được áp
dụng cho mọi đối tượng. Tư vấn vì thế mà công thức, sáo và tẻ
ngắt. Điều này sẽ tạo ra những hạn chế nhất định. Khi thân chủ
không nhận ra sự đồng cảm nơi tư vấn viên, họ sẽ không nhiệt tình
cộng tác. Như thế hiệu quả tư vấn sẽ không cao.

Nên nhớ, chất lượng tư vấn chủ yếu phụ thuộc vào sự cộng tác
của thân chủ. Nói khác đi, không có sự cộng tác của thân chủ, tư
vấn viên sẽ không thật sự sử dụng hết khả năng tư vấn của họ
được. Tư vấn phải là một nỗ lực cộng tác hai chiều.

Quá nhạy cảm (oversensitive) một cách không cần thiết cũng
là một vấn đề trong tư vấn đa văn hóa. Khi thân chủ hiểu lầm thiện
ý của tư vấn, có thể họ sẽ khựng lại vì ngộ nhận tư vấn viên đã có
một thái độ vồ vập. Thông thường các thân chủ muốn mình được
tiếp đón, đối xử một cách công bằng. Họ không muốn được đối xử
gần như được thương hại. Vì thế, tư vấn viên rất cần quan tâm đến
khía cạnh tế nhị này.

Trang bị kiến thức về đa văn hóa, tư vấn viên sử dụng nó như


dụng cụ sẽ giúp họ công tác hiệu quả hơn. Tất nhiên thân chủ
không nhất thiết phủ nhận ra điều này nơi tư vấn viên. Kiến thức về
đa văn hóa trong tư vấn phải được áp dụng khéo léo, vì tính chất tế
nhị của vấn đề.

Để thật sự tạo ra sự đồng cảm với một thân chủ về những


khác biệt trong văn hóa, Peterson (1977) đã đề nghị một tư vấn
viên chỉ nên đi vào những mảng văn hóa sau khi đã thăm dò một
thân chủ về những điểm sau:

- Nhắc lại nan đề của thân chủ bằng ngôn ngữ văn hóa của
thân chủ.

- Thăm dò xem thân chủ có phản ứng tiêu cực nào không?

- Nếu thân chủ không tỏ thái độ bảo vệ quan điểm văn hóa.

- Rút tỉa kinh nghiệm với thân chủ, tùy theo phản ứng của
thân chủ.

Tư vấn viên cũng nên luôn cảnh giác những tín hiệu thuộc
phạm trù văn hóa, được gửi đi bởi thân chủ. Những tín hiệu này có
thể là tín hiệu thăm dò mà thân chủ thường dùng để xác định năng
lực chuyên môn của tư vấn viên. Vì thế, thái độ khách quan và
trung lập luôn là lựa chọn an toàn, thích hợp. Nhất là những vấn đề
thuộc phạm trù luân lý, tín lý, tôn giáo, đạo đức…

Nwachula và Ivey (1991) đề cao việc tư vấn viên nên có một


kiến thức cơ bản về tập tục (customs) văn hóa của thân chủ. Những
kiến thức này sẽ hỗ trợ sự liên kết khi tư vấn viên và thân chủ cùng
ngồi xuống. Sự gần gũi đôi khi nảy sinh một cách thuận lợi khi thân
chủ biết tư vấn viên có một kinh nghiệm cá nhân với những gì họ đã
trải nghiệm. Hai tác giả này đề nghị tư vấn viên, nếu có thể, nên
xem qua những tư liệu về quê hương, tập tục của thân chủ. Điều
này sẽ giúp thân chủ và tư vấn viên có được những nhịp cầu gần
gũi.

Ví dụ khi tư vấn viên nói: Ô! Quê anh ở gần chùa Hương à. Tôi
đã đến đấy. Một kỷ niệm thật là khó quên. Tôi thích lắm, nhất là đi
vào thăm động Hương Tích. Sau khi nghe thế, thân chủ nhất định sẽ
cảm thấy gần gũi hơn.

Tuy nhiên những vấn đề khác, tế nhị như việc bình luận về
một trận đấu bóng, bình phẩm về một cuốn phim, khen chê về một
ca sĩ nổi tiếng nào đó… tư vấn viên cần đứng ở vị trí trung lập, tránh
hăng say quá đà, vô tình sẽ tạo ra một chân dung thích bè phái…
Tất nhiên đứng về phía thân chủ trong việc ủng hộ một đội bóng
không phải là sai, nhưng tránh quá khích, dễ để cho cảm xúc lèo lái
đến những nơi không cần thiết

Học tập từ đồng nghiệp (colleague): Một điểm cần bàn là


trách nhiệm học tập về những nhóm văn hóa khác nhau từ những
đồng nghiệp có kinh nghiệm. Cố gắng tham khảo với những đồng
nghiệp có kinh nghiệm. Họ sẽ cung cấp cho những tư vấn viên trẻ
những lời khuyên bổ ích. Nên nhớ, đôi khi, chỉ năm mười phút tham
khảo, một tư vấn viên có thể có được những thông tin cần thiết,
tương đương với kết quả đọc hẳn một cuốn sách 300 trang.

Một tư vấn viên muốn có những kiến thức nhất định về một
tập tục sinh hoạt của một nhóm thân chủ cần có những tham khảo
cụ thể. Để làm tốt điều này, các tư vấn viên nên tạo được một mạng
lưới, để khi cần thiết, những tham khảo ấy sẽ cung cấp cho họ
những kiến thức có thể áp dụng nhanh chóng, tiết kiệm được thời
gian. Cần biết, trong nghiệp vụ tư vấn, thói quen có mạng lưới đội
ngũ tư vấn viên để tham khảo là một điều không thể xem nhẹ được.

Sue (1978) đã đề nghị 5 hướng dẫn khi làm việc với thân chủ
từ các nhóm văn hóa khác:

1. Tư vấn viên cần xác định được giá trị văn hóa và nhân sinh
quan của mình. Chỉ áp dụng những tình cảm và hành vi chấp nhận
được bởi xã hội và sử dụng chúng một cách thích hợp trong những
tình huống đặc biệt. Nên giữ thái độ trung lập.

2. Tư vấn viên cần quan tâm đến tính phổ thông của những
học thuyết và kỹ thuật tư vấn. Nên nhớ, không một học thuyết hay
kỹ thuật tư vấn nào an toàn tuyệt đối khi tiếp cận với vấn đề văn
hóa trong tư vấn.

3. Tư vấn viên cần nắm bắt những diễn biến xã hội có ảnh
hưởng đến nhóm xã hội của thân chủ, vì con người là sản phẩm của
những diễn biến xảy ra trong một xã hội. Tránh chủ quan và thành
kiến cứng nhắc.

4. Tư vấn viên cần có thái độ tôn trọng, nếu như họ không có


quan điểm đồng nhất với thế giới quan của thân chủ, không nhất
thiết phải chất vấn về thế giới quan của thân chủ.
5. Tư vấn viên cần sử dụng tính tổng hợp (eclectic) trong kỹ
năng tư vấn để đáp ứng nhu cầu văn hóa lớn rộng của toàn bộ các
nhóm đối tượng thân chủ.

Nhiều tư vấn viên xuất thân từ những nhóm văn hóa xã hội
thiểu số khác, có thể không được trang bị hoặc thiếu những trải
nghiệm cá nhân về nền văn hóa chung. Điều này cần được các tư
vấn viên quán triệt. Như thế, họ sẽ không có lý do để dễ dãi với
mình. Cần biết, nỗ lực học hỏi về văn hóa là một yêu cầu với tư vấn
viên có trách nhiệm.

Cần biết, làm một tư vấn viên trung bình không khó. Rất dễ
dàng nếu hành nghề như một tư vấn viên yếu nghiệp vụ, cẩu thả,
bừa bãi. Để trở thành một tư vấn viên có chuyên môn nghiệp vụ
cao, có tinh thần trách nhiệm, am tường về văn hóa xã hội mới là
một việc làm khó khăn hơn rất nhiều.

5. Những đề nghị cho ca tư vấn với nhóm đối tượng đặc


biệt

Vừa nêu trên là những nhóm xã hội tương đối chung. Tư vấn
viên nên ý thức rằng, còn có những thân chủ trong một nhóm xã hội
nào đó, có những nhu cầu còn khác biệt hơn vì hoàn cảnh đặc trưng
của nan đề cũng như điều kiện của thân chủ. Vì thế, mỗi tư vấn viên
phải cảnh giác rằng mỗi thân chủ là một cá nhân độc nhất, và mỗi
ca tư vấn đều đặc biệt.

Đôi khi, có thể ngạc nhiên, khác biệt bên trong một nhóm xã
hội còn lớn hơn khác biệt giữa các nhóm xã hội khác. Vì thế, tiếp
cận mỗi thân chủ như một cá nhân đặc biệt là điều cần được quan
tâm, chú trọng. Hay nói khác đi, một xã hội đa văn hóa sẽ có nhiều
nhóm xã hội văn hóa khác nhau. Trong mỗi nhóm văn hóa ấy, là tập
hợp những cá nhân rất khác nhau.

Với người già: Nhóm thân chủ vào tuổi về hưu, tư vấn viên
cần chú ý đến kinh nghiệm sống, đóng góp của họ trong xã hội. Tư
vấn viên cần có những kiến thức căn bản về quá trình phát triển của
người già. Những tâm tư và khát vọng, những nhu cầu bức xúc. Tư
vấn viên cũng nên bỏ chút thời gian trong việc tìm hiểu về điều kiện
sinh hoạt của họ, như tình trạng gia đình về vợ chồng, con cháu…
Yếu tố văn hoá trong tư vấn với người già vẫn phải được chú trọng
một cách thoả đáng.

Cần biết, với người già, bệnh tật và tình trạng sức khỏe, đối
diện với cái chết, luôn là những vấn đề tế nhị, những bức xúc… Vì
thế tư vấn viên cần tham khảo kỹ và luôn đánh giá những vấn đề
này trong một bối cảnh thích hợp, nhằm cung cấp những gợi ý chính
xác, có ích với người già.

Cũng nên nhớ, tư vấn viên tránh đối xử thiếu ý thức như coi
việc phản ứng chậm của thân chủ lớn tuổi như là những dấu hiệu
của lão hóa. Tất nhiên càng lớn tuổi, những ứng xứ của con người có
chậm hơn, song họ vẫn hoàn toàn có thể xử lý được những vấn đề
trong cuộc sống nếu như họ có đủ thời gian. Vì thế, khi làm việc với
thân chủ nhiều tuổi, tư vấn viên cần kiên nhẫn, giải thích rõ ràng,
chậm, cẩn thận, để thân chủ lớn tuổi có thể nắm bắt được những
thông tin cần thiết.

Với thân chủ khác giới: Phụ nữ và nam giới là những cá thể
chịu ảnh trưởng bởi điều kiện và áp lực của xã hội khác nhau, vì họ
có những chức năng và vai trò khác phau trong xã hội. Từ đó cảm
nghiệm và não trạng của họ cũng rất khác nhau.
Tư vấn viên nghèo nàn kiến thức về giới tính thường rơi vào
những sai lầm về quan điểm giới tính, sẽ dễ dẫn đến những phân
biệt trong đối xử, có thành kiến sai lạc, ưa đòi hỏi vô lý, áp đặt thiếu
cơ sở, kỳ vọng thiếu thực tế… những điều này sẽ có ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng tư vấn.

Một điều cần chú ý khi tư vấn cho phụ nữ và nam giới là ở mỗi
phái, quá trình phát triển cơ thể và khả năng nhận thức rất khác
nhau. Phụ nữ thường có nhu cầu nội tâm nhiều hơn nam giới. Một số
chị em vẫn sống thụ động và ngần ngại với những thay đổi mang
tính bước ngoặt.

Cũng nên biết, phụ nữ thường có nhu cầu tư vấn cao hơn nam
giới. Điều này không nên coi như một lẽ tất nhiên đơn giản, khai
thác bừa bãi. Trái lại, tư vấn viên phải tôn trọng nhu cầu này ở nơi
họ. Luôn cố gắng phấn đấu trong nghiệp vụ để đem đến cho họ
những dịch vụ tư vấn có chất lượng. Vai trò của phụ nữ trong xã hội
rất lớn. Tư vấn viên nên thông qua họ để những đóng góp tích cực
của họ sẽ đến với sinh hoạt xã hội.

Xét về những phương diện sinh hoạt, nhất là trong điều kiện
công nghiệp hóa hiện tại, chị em phụ nữ hiện nay, ngoài những vai
trò truyền thống đối với gia đình và xã hội như làm vợ, làm mẹ, họ
còn có những nhiệm vụ và trọng trách mới trong xã hội. Điều này
không chỉ đặt ra cho họ những khó khăn mới, mà còn là một thử
thách cho đội ngũ tư vấn trong quá trình tìm ra những tháo gỡ hiệu
quả với những vấn đề mang tính thời sự nêu trên với chị em phụ nữ.

Một điều cần biết, phụ nữ có nhu cầu và các mối quan hệ rất
cao. Vì thế, những vấn đề liên quan đến quan hệ tình cảm, gia đình,
công tác, nghề nghiệp…luôn là những yêu cầu bức xúc. Tư vấn viên
nên mạnh dạn và khách quan khi đề cập đến vấn đề quan hệ.
Không nói lời dễ nghe khi thân chủ nữ muốn nghe. Tư vấn viên cần
trung thực. Luôn cố gắng tạo ra những suy nghĩ lành mạnh tích cực,
để chị em tìm thấy sự cân bằng thực tiễn và có những quyết định
phù hợp với hoàn cảnh đặc biệt của họ.

Vai trò của phụ nữ toàn cầu nói chung, và phụ nữ Việt Nam nói
riêng, đang càng ngày càng thay đổi. Rất tiếc, nhiều tư vấn viên vẫn
chưa theo kịp với đà tiến hóa này, vẫn chậm chạp, tụt hậu. Đây là
một vấn đề cần được khắc phục. Hình ảnh người phụ nữ hôm nay đã
khác hình ảnh người phụ nữ trong quá khứ. Tư vấn viên vì thế cũng
phải nắm bắt được vai trò mới của họ trong xã hội.

Với nam giới, tư vấn viên cần biết là họ không nhiệt tình lắm
trong quá trình tìm đến dịch vụ tư vấn. Nam giới thường tìm ra giải
pháp bằng chính nỗ lực của bản thân họ.

Riêng với nam giới, họ có những bức xúc về làn sóng vai trò
của phụ nữ đang có những thay đổi lớn lao trong bức tranh toàn cục
xã hội. Vai trò truyền thống của nam giới là người đem cơm về nhà
đã không còn chiếm vị trí quan trọng độc tôn như xưa. Họ hiện nay
phải đối phó cạnh tranh nghề nghiệp với phụ nữ gần như trong mọi
ngành nghề. Bình đẳng trong xã hội giữa hai phái nam và nữ đã có
những ảnh hưởng lớn lao đến não trạng của nam giới.

Đặc biệt với nam giới, họ gặp trở ngại không nhỏ khi đề cập
đến những vấn đề thuộc phạm trù nội tâm. Hình như với nam giới,
nhìn nhận hoặc nói đến những khó khăn nan đề là dấu hiệu của suy
yếu và thiếu năng lực. Vì thế, tư vấn viên cần hết sức khéo léo, tế
nhị trong vấn đề. Để khắc phục tình trạng này, tư vấn viên phải tạo
ra một môi trường thật an toàn, thoải mái, để nam giới an tâm hơn
trong quá trình cộng tác với tư vấn viên.
Scher (1981) đã đưa ra vài gợi ý khi làm việc với thân chủ
nam giới, như:

1. Nhấn mạnh đến những thay đổi mà người đàn ông trải qua -
cả vi mô lẫn vĩ mô.

2. Những gai góc trong vấn đề thành kiến về vai trò trong gia
đình và xã hội.

3. Tầm quan trọng của việc đề nghị những giải pháp tháo gỡ.

4. Sự cần thiết trong quá trình xác định rõ vai trò của họ trong
gia đình và công việc.

Đặc biệt, tư vấn nhóm với nam giới sẽ có khó khăn hơn vì họ
thường không đề cập đến những nan đề thực. Nên nhớ, nam giới
thường nói nhiều và nói rất dễ dàng với những vấn đề ngoài lề,
nhưng khi đối diện với những vấn đề gai góc, họ thường không có
khả năng nói chuyện và chuyển tải một cách có hiệu quả.

Nhiều thân chủ nam giới không hoàn toàn tự giác hoặc tự
nguyện đến với tư vấn. Họ đến tư vấn với một thái độ dè chừng,
thăm dò, đôi khi hoài nghi. Tư vấn viên, nắm bắt được vấn đề này,
cần kiên nhẫn với họ.

Lối sống (lifestyle): Những vấn đề khác như đồng tính luyến
ái, sống thử, ly dị, tình yêu phóng khoáng… luôn là những vấn đề tế
nhị. Đòi hỏi phải có kinh nghiệm và kiến thức. Tư vấn viên khi đối
diện với những vấn đề trên, cần mạnh dạn trình bày quan điểm và
khả năng nghiệp vụ của họ. Luôn tôn trọng thân chủ đã cho tư vấn
viên cơ hội làm việc với họ. Đánh giá cao những kinh nghiệm trong
quá trình tư vấn. Nếu cần, săn sàng giới thiệu thân chủ đến những
tư vấn viên có kinh nghiệm hơn trong những vấn đề nêu trên.
Vấn đề tâm linh (spirituality): Với mảng đời sống tâm linh, tư
vấn viên cần để tâm đến vấn đề hết sức tế nhị nói trên. Thái độ
trung lập là một thái độ cần thiết. Đời sống tâm linh và tôn giáo
luôn là những vấn đề nóng, dễ có những phát sinh ngoài dự đoán,
đôi khi có ảnh hưởng không có lợi đến chất lượng tư vấn.

Thái độ khôn ngoan nhất vẫn là tôn trọng suy nghĩ và chủ kiến
chọn lựa của thân chủ. Không phải là vuốt đuôi, song tư vấn viên
nên lắng nghe để hiểu kỹ ảnh hưởng của tôn giáo hay đời sống tâm
linh đã ảnh hưởng đến thân chủ như thế nào.

Tuyệt đối không chất vấn, đôi co, hơn thua trong lĩnh vực tôn
giáo. Tư vấn viên có thái độ điềm tĩnh trong vấn đề này thường
được coi là đức tính trưởng thành. Thái độ vô tư là cần thiết. Cần
nhớ, trong tôn giáo, không có xấu tốt đúng sai. Chỉ có sự khác biệt
và tất cả đều được tôn trọng một cách xứng đáng.

6. Kết luận

Tư vấn là một dịch vụ phục vụ lợi ích con người. Như thế, nó là
dịch vụ phải đến đúng người, mổ xẻ đúng vấn đề, tìm ra giải pháp
thích hợp đúng đắn nhất. Để làm được điều đó tư vấn viên cần hiểu
rõ đối tượng thân chủ và hoàn cảnh văn hóa xã hội của họ.

Vì tính chất rộng lớn và bao quát của khái niệm văn hóa xã
hội, tư vấn viên phải coi việc thu thập và trang bị những kỹ năng và
kiến thức văn hóa xã hội là nhiệm vụ cơ bản. Chất lượng tư vấn luôn
đến trực tiếp từ sự cộng tác nhiệt tình của thân chủ, vì thế hiểu rõ
được hoàn cảnh văn hóa xã hội của thân chủ sẽ giúp tư vấn viên
phát huy hết khả năng tư vấn của mình.

Nên nhớ, thành kiến là một cái bẫy đã gây ra không biết bao
nhiêu là bất ngờ đôi khi dẫn đến những sai lầm hết sức đáng tiếc.
Cảnh giác về nhưng khác biệt văn hóa sẽ giúp cho quan hệ giữa tư
vấn viên và thân chủ tránh được những cọ xát va vấp không cần
thiết. Vì thế, tư vấn viên cần đầu tư thỏa đáng để hiểu được thân
chủ của mình - có như thế, chất lượng tư vấn mới cao và thân chủ
sẽ tìm được những kết quả tích cực từ dịch vụ tư vấn.

PHẦN HAI
TIẾN TRÌNH TƯ VẤN VÀ NHỮNG HỌC THUYẾT ÁP DỤNgG

Chương 5
XÂY DỰNG QUAN HỆ TÍCH CỰC TRONG TƯ VẤN

1. Dẫn nhập

Quá trình tư vấn cần thiết được xác định rõ từng bước để đạt
được hiệu quả tư vấn tối ưu. Tư vấn viên không thể xem nhẹ công
tác này vì tiến trình tư vấn với những bước cụ thể sẽ giúp cho tư vấn
viên thẩm định được quá trình tư vấn. Như một lịch trình cụ thể,
từng giai đoạn của quá trình tư vấn giúp tư vấn viên xem xét mục
tiêu của quá trình tư vấn đã đặt ra có đạt những tiến bộ cần thiết.
Từ đó, tư vấn viên sẽ áp dụng vai trò của mình một cách triệt để
vào việc xây dựng một quan hệ lành mạnh với thân chủ.

Việc có một tiến trình được phân chia rõ từng giai đoạn sẽ như
một bản đồ, một hệ thống bảng chỉ đường, giúp tư vấn viên thao
tác dễ dàng và làm việc có hiệu quả hơn. Tư vấn viên vì thế có thể
chủ động và thân chủ có thể nhận ra những tiến bộ trong tư vấn.
Mô hình các giai đoạn trong quá trình tư vấn không khiến cho
quá trình tư vấn trở nên công thức, gò bó. Trái lại tiến trình này sẽ
giúp cho tư vấn viên an tâm hơn khi họ đi đúng hướng. Hơn nữa,
tiến trình tư vấn sẽ trở thành có bài bản, đáp ứng được tính có tổ
chức trong nghiệp vụ tư vấn.

Nếu như các yếu tố như địa điểm thoải mái, giờ giấc thuận lợi,
kỹ năng của tư vấn viên xuất sắc, và sự cộng tác của thân chủ có
quyết định đến chất lượng tư vấn; cũng như thế, mối quan hệ giữa
tư vấn viên và thân chủ là một trong những quyết định có tính chiến
lược trong nghiệp vụ tư vấn khi và chỉ khi quan hệ ấy có một lịch
làm việc cụ thể.

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiến trình tư vấn

Những vấn đề căn bản có ảnh hưởng thiết yếu trong tiến trình
tư vấn bao gồm:

- Cấu trúc thiết kế quan hệ giữa hai phía.

- Sự chủ động của tư vấn viên.

- Cơ sở hạ tầng.

- Khả năng tham gia đóng góp và nhận thức của thân chủ.

- Kỹ thuật và năng lực của tư vấn viên.

Cấu trúc thiết kế (structural design): Hay còn gọi là bản hợp
đồng (contract) là sườn hoạt động cho toàn bộ quá trình tư vấn.
Thông thường thân chủ và tư vấn viên trường không nhìn thấy trước
mắt cùng một mục đích (same goal) của tư vấn cũng như cùng kết
quả (same result) của quá trình tư vấn.
Có thể nói, tìm đến dịch vụ tư vấn là chọn lựa sau cùng của
thân chủ, sau khi đã tận dụng những nguồn trợ giúp khác từ gia
đình, bạn bè… nên nhiều thân chủ hết sức hoang mang, đắn đo, có
người kỳ vọng quá nhiều, có người không dám đặt nhiều hy vọng
vào dịch vụ tư vấn. Tư vấn viên lại chưa hiểu rõ hoàn cảnh và khả
năng thân chủ. Hai bên vì thế rất cần có một nhịp cầu để hai phía
hiểu nhau.

Một cách cụ thể, bản hợp đồng cấu trúc thiết kế, theo Day và
Sparacio (1980) là một sự hiểu biết từ hai phía về tính chất đặc
trưng của dịch vụ tư vấn, những điều kiện được áp dụng cho hai
phía, các thủ tục thao tác, và những vấn đề nảy sinh xung quanh
quá trình tư vấn.

Cấu trúc thiết kế (bản hợp đồng) trong tư vấn sẽ giúp:

- Giải thích rõ, cụ thể về quan hệ giữa tư vấn viên và thân chủ.

- Vai trò của mỗi bên.

- Hướng làm việc.

- Bảo vệ quyền lợi của hai bên.

- Những yêu cầu về trách nhiệm của mỗi bên trong suốt quá
trình tư vấn.

Vì thế, nó có quyết định then chốt trong quá trình xác định
thành công hay thất bại của tư vấn. Một cách khác, không có bản
hợp đồng cấu trúc thiết kế, quá trình tư vấn có thể nói không thể
thực hiện được.

Bản hợp đồng phải ghi ra thật rõ ràng cụ thể. Ví dụ, thời gian
cho mỗi ca tư vấn là 50 phút, hành vi của hai bên phải có giới hạn,
ngôn ngữ phải trong sáng, lịch sự, và những yêu cầu mà thân chủ
phải tuân thủ. Nói khác đi, bản hợp đồng cấu trúc thiết kế là những
hướng dẫn cụ thể cho từng khâu, từng bộ phận trong suốt quá trình
tư vấn hoạt động có tổ chức, có trật tự.

Cấu trúc thiết kế quan có một tầm quan trọng trong mọi giai
đoạn của suốt quá trình tư vấn, tuy nhiên nó quan trọng nhất trong
buổi phỏng vấn đầu tiên (initial interview). Tại sao, theo Dorn
(1984) thân chủ đến với tư vấn khi họ gặp những nan đề và đang
trong tình trạng hỗn mang. Vì thế cấu trúc thiết kế cho họ một cảm
giác là họ đã phần nào tìm ra cái họ đang cần. Họ tìm thấy ý nghĩa
của hướng đi. Ồ! Thì ra họ có một kế hoạch và một chiến lược hẳn
hoi.

Cần biết, nếu quá cẩn thận và quá đặt nặng vào bản hợp
đồng, quá nhiều yêu cầu trong cấu trúc thiết kế, có thể có những
hậu quả ngược lại mong muốn vì thân chủ có thể sẽ bị ngộp. Hay
nhất là nên điểm qua những điểm mấu chốt, sau đó đưa những tài
liệu in sẵn (printout) để thân chủ đem về đọc thêm ở nhà.

Cấu trúc thiết kế trong tư vấn rất cần thiết trong trường hợp
những thân chủ có những kỳ vọng quá lớn, không tưởng. Nhờ cấu
trúc thiết kế, tư vấn viên có thể trình bày trực tiếp với thân chủ về
lề lối, cách thức làm việc, những thao tác cần được tuân thủ, những
khả năng giới hạn của quá trình tư vấn, kết quả nhất định, hợp đồng
ký kết trên tinh thần cộng tác… Như thế, nói khác đi, cấu trúc thiết
kế được nêu ra rõ ràng trong bản hợp đồng, được ký bởi hai bên.

Một trung tâm tư vấn, dù qua điện thoại, trên mạng online,
hay trong văn phòng, nhất định bước đầu tiên là bản hợp đồng
(contract) được đọc kỹ, hiểu rõ, và có chữ ký của hai bên.

Một bản hợp đồng cơ bản sẽ bao gồm những nội dung thiết
yếu như:

- Địa chỉ của văn phòng trung tâm tư vấn, số điện thoại.
- Giới thiệu ngắn gọn về mục đích của bản hợp đồng.

- Kinh nghiệm và chức năng của tư vấn viên.

- Hình thức vận hành và các bước thao tác trong suốt quá trình
tư vấn.

- Điều kiện để trở thành thân chủ trong quá trình tư vấn.

- Trách nhiệm và quyền lợi của thân chủ.

- Giờ giấc hẹn và địa điểm ca tư vấn. (Lịch hẹn ca tư vấn hàng
tuần hay mỗi nửa tháng).

- Thời gian của suốt quá trình tư vấn. (3 tháng hay 6 tháng).

- Thủ tục giới thiệu tư vấn viên mới hay dịch vụ khác nếu cần
thiết.

- Giá biểu và phương thức thanh toán.

- Hồ sơ thân chủ và việc quản lý hồ sơ thân chủ.

- Vấn đề bảo mật tin tức.

- Trường hợp nguy hiểm xảy ra với sức khỏe của thân chủ và
của người khác.

- Những điều ngoài ý muốn có thế xảy ra như kết quả không
đạt được.

- Thủ tục khiếu nại, nếu có.

- Phải có chữ ký của hai bên.

Yếu tố chủ động của thân chủ (initiality): Là một nhân tố


quyết định trong quá trình tư vấn tâm lý. Một thân chủ không có
thiện chí sẽ không có kết quả khả quan trong quá trình tư vấn.

Tư vấn viên cần hiểu rằng, không phải thân chủ nào cũng
hăng hái cộng tác. Nhiều thân chủ trái lại rất thụ động, đắn đo và
lưỡng lự trong việc cộng tác với tư vấn viên. Trong những trường
hợp thân chủ không quyết đoán lắm về mục đích của tư vấn. Vì thế,
tư vấn viên sẽ gặp khó khăn trong việc xác định được kết quả đặt ra
và những bước thực hiện cần nhắm đến. Điều này có ảnh hưởng tiêu
cực đến tiến trình tư vấn, nếu không muốn nói là sớm muộn gì quan
hệ tư vấn sẽ kết thúc non.

Nhiều thân chủ lưỡng lự, có thân chủ chống lại, nếu như đây là
trường hợp bị gia đình ép buộc đến với dịch vụ tư vấn. Tư vấn viên
có thể tạm thời đánh giá nếu thân chủ không có tinh thần hợp tác.
Theo Otani (1989) họ sẽ có biểu hiện dưới đây nếu họ chưa có tinh
thần cộng tác:

- Nói ít và có dấu hiệu không muốn nói chuyện, nói rời rạc,
chia trí.

- Nội dung của những đối thoại, có vẻ chống đối, bài xích,
thiếu hợp tác.

- Kiểu đối thoại nhát gừng, không tập trung.

- Thái độ tiêu cực đối với tư vấn viên.

Tuy nhiên, một tư vấn viên có kinh nghiệp sẽ xử lý bằng cách:

- Nhập cuộc với thân chủ, mặc dầu thân chủ khó chịu, nóng
nảy, bất nhã.

- Luôn coi đây là những phản ứng tự nhiên của thân chủ, nên
có thể giữ được thái độ điềm tĩnh.

- Bày tỏ thái độ thông cảm, chấp nhận, sẽ gây được thiện cảm
trong tương lai.

- Khéo léo thuyết phục, tuy nhiên tư vấn viên phải chủ động
và bình tĩnh.
- Thẳng thắn nêu lên sự cần thiết của tư vấn trong điều kiện
của thân chủ. Cần bình tĩnh và thành thật.

Để thuyết phục thân chủ, tư vấn viên tránh những lời nói khiêu
khích, tỏ thái độ bất cần, hoặc có ý xem nhẹ hoặc hạ thấp họ. Điều
này rất tai hại, vì nó trực tiếp đẩy xa thân chủ của mình.

Hạ tầng cơ sở (physical settings): Là trung tâm tư vấn hoặc


địa điểm nơi phần lớn mọi hoạt động tư vấn diễn ra, như phòng ốc,
ánh sáng, nhiệt độ căn phòng, ngăn kéo có khóa để bảo vệ hồ sơ…
Tư vấn có thể xảy ra ở hầu hết bất cứ địa điểm nào được thỏa thuận
trước, nhưng những điểm sau đây cần được cân nhắc kỹ như:

- Phòng phải yên lặng, đèn mờ vừa phải, ánh sáng dễ chịu.

- Không có tiếng động ồn ào, không quá nóng, quá lạnh.

- Tạo không khí thoải mái, trang trí ấm áp, nhưng không quá
lòe loẹt.

- Tường đủ dày để âm thanh không nghe thấu qua được.

- Phòng không nên có những pha quấy rối cắt ngang như điện
thoại reo, hoặc gõ cửa bởi đồng nghiệp.

Nên nhớ, một khi thân chủ đã đến với một ca tư vấn, nhiệm vụ
của tư vấn viên là chứng minh cho thân chủ biết là họ giành 100%
thời gian cho thân chủ. Tắt điện thoại di động, đóng cửa văn
phòng… Có thể nói, một ca tư vấn là một cuộc họp cao cấp, tránh
tất cả những hoạt động khác từ bên ngoài.

Ấn tượng ban đầu (first impression): Thiện cảm của thân


chủ, cũng là một nhân tố tích cực trong chất lượng tư vấn ấn tượng
ban đầu rất quan trọng. Phần lớn chúng ta đánh giá người đối tác
qua lần đầu tiên gặp gỡ. Đối với những tư vấn viên không có ngoại
hình tốt, không hẳn là một cái gì xấu hay đáng ngại. Bạn cần chú ý
thêm về những nỗ lực để tạo ra một ấn tượng tốt. Thông thường
thân chủ sẽ dễ chấp nhận một tư vấn viên trẻ, đẹp, nói chuyện thu
hút, có kiến thức và nhìn có vẻ thành công.

Tuy nhiên, với một nét mặt tự tin, một nụ cười thông cảm,
thành thật, một cái bắt tay thân thiện, một câu chào lịch sự, tôn
trọng, ánh mắt quan tâm trìu mến, những cái gật đầu cần thiết, sẽ
tạo nên một ấn tượng khó quên. Những kỹ năng này sẽ tạo nên một
nét chào đón chủ động, không bao giờ thừa thãi.

Khi một thân chủ có thiện cảm với tư vấn viên, mức độ tham
gia vào quá trình tư vấn của khách hàng cũng sẽ trở nên tích cực,
năng động hơn. Điều đó có thể nói như một bước thắng lợi quan
trọng, như câu tục ngữ Việt ta: Đầu xuôi đuôi lọt.

Tư vấn viên có thể dựa vào những phản ứng của thân chủ như
là thước đo về ấn tượng ban đầu về mình qua những cử chỉ như: thế
ngồi, ánh mắt, nét mặt, giọng nói. Ngay cả nội dung câu nói cũng
cần được đánh giá. Nên nhớ, ngay cả chuyện một thân chủ bày tỏ
thiện cảm, tư vấn viên vẫn luôn luôn giữ thái độ tôn trọng và
nghiêm túc. Không nên có thái độ bằng lòng tự toại. Cần biết, thân
chủ sẽ tinh ý nhận ra, và ấn tượng ban đầu sẽ mất hết, nếu như tư
vấn viên ngủ quên trên chiến thắng quá sớm. Luôn coi việc tiếp cận
thân chủ là một trách nhiệm thuộc về phạm trù chất lượng, không
nên đơn giản coi đó là chuyện chinh phục người mới; đạt được rồi
thì thôi.

Ngược lại, khi tư vấn viên tiếp đón một thân chủ không có nét
thu hút hấp dẫn, hoặc có những khiếm khuyết, bất lợi về ngoại
hình, hạn chế về khả năng giao tiếp. Tư vấn viên vẫn phải cố gắng
với nỗ lực tạo ấn tượng chào đón và coi họ là những người bình
thường. Khi tư vấn viên có thiện chí như thế, thân chủ sẽ nhìn ra
thái độ nghiêm túc và tư cách phục vụ của tư vấn viên. Điều này sẽ
có lợi trong quá trình tư vấn sau này.

Tư cách và ngoại diện của tư vấn viên rất quan trọng trong
việc thiết kế một ấn tượng ban đầu tốt. Kỹ năng và chuyên môn
nghiệp vu, tâm huyết với nghề là điều tốt, cần có. Song một bề
ngoài không được chăm sóc, hoặc bỏ bê nhìn vào quá lôi thôi nhếch
nhác sẽ phần nào gửi nhầm đi tín hiệu trên thân chủ rằng tư vấn
viên đã thật sự không chú ý và chẳng nghiêm túc trong công việc.

Trang phục và tác phong thể hiện được cá tính và phong cách
làm việc. Quá xuề xòa, dễ dãi với bản thân của tư vấn viên sẽ làm
cho thân chủ dễ cụt hứng, đôi khi tỏ vẻ thất vọng. Điều này sẽ có
tác hại lớn đến quan hệ tư vấn, nếu không nói đến sự kết thúc tư
vấn non.

Strong (1968) nêu ra ba yếu tố quan trọng khi tư vấn viên tiếp
cận thân chủ. Theo tác giả, đó là:

1. Tính chuyên nghiệp (khi tư vấn viên tỏ ra tự tin với phong


thái khoan thái, điềm tĩnh, có bằng cấp gắn trên tường, văn phòng
thiết kế trang nhã, lịch sự).

2. Sức thu hút (khi tư vấn viên ăn nói nhã nhặn, lịch sự, đứng
đắn, tôn trọng, cởi mở).

3. Tạo niềm tin (không vồ vập, bỗ bã, tư vấn viên duy trì thái
độ trung dung, không chê bai hoặc nêu những nhận định tiêu cực,
không nói to, không xoi mói, chất vấn, hạch sách quá đáng).

Điều quan trọng tư vấn viên cần nhớ là hãy tạo mọi điều kiện
để thân chủ tự do phát biểu trong lần gặp gỡ. Nếu thân chủ càng
cảm thấy thoải mái, điều đó cho ta cơ hội tin nhiều hơn rằng họ sẽ
an tâm và tín nhiệm nơi người tư vấn viên. Như thế, mối quan hệ sẽ
trở nên êm ả, thuận lơi hơn.
3. Các phương pháp phỏng vấn lần đầu

Phỏng vấn lần đầu (initial interview): Là một công tác rất
quan trọng, có thể nói đây là ca phỏng vấn chứ không phải là ca tư
vấn.

Lần đầu gặp gỡ này, cả tư vấn viên và thân chủ sẽ xoay quanh
việc có dữ kiện để quyết định xem tư vấn có nên tiếp tục hay không.
Trong lần gặp gỡ này, tư vấn viên sẽ có một cái nhìn khái quát về
vấn đề từ đó phác thảo ra một chương trình làm việc khả thi với
thân chủ. Trong lần gặp gỡ quyết định này, thân chủ cũng có thể
quyết định xem tư vấn viên có thể giúp họ xử lý nan đề. Nếu nan đề
vượt ngoài khả năng của tư vấn viên. Lúc ấy tư vấn viên sẽ giới
thiệu thân chủ đến một tư vấn viên khác có năng lực hơn.

Phỏng vấn lần đầu do thân chủ chủ động tìm đến và yêu cầu
dịch vụ tư vấn: Tư vấn viên phải chú ý lắng nghe thật tốt. Họ cần
tập trung để biết được tâm nguyện và mong đợi của thân chủ. Trong
trường hợp này tư vấn viên cần tỉnh táo, thu thập mọi dữ kiện cần
thiết, từ đó sẽ có một chương trình hành động thích hợp.

Thông thường một thân chủ đến dịch vụ tư vấn, họ luôn có


những lo lắng nhất định nào đó. Vì thế tư vấn viên cố gắng trao đổi
với thân chủ về khả năng chuyên môn và năng lực của mình. Tư vấn
viên có thể giới thiệu với thân chủ qua những cách khác nhau về cơ
quan nơi họ làm việc, như nói chuyện, gửi họ băng CD, tài liệu in
sẵn, trang web… để giúp thân chủ có niềm tin vào nghiệp vụ của
dịch vụ tư vấn.

Mục đích của phỏng vấn lần đầu là tìm thông tin khi tư vấn
viên đạt được hai mục đích (1) thu thập dữ kiện và (2) có một ý
niệm về quan hệ tư vấn (counseling relationship) ngay lần đầu. Để
làm tốt nhiệm vụ này, tư vấn viên cần có kỹ năng thăm dò bằng
cách đặt câu hỏi sao cho thân chủ có cơ hội trả lời để cung cấp thật
nhiều thông tin. Có hai loại câu hỏi là câu hỏi mở (opening question)
và câu hỏi đóng (close question), ví dụ tư vấn viên sẽ hỏi:

Câu hỏi mở:

Kể tôi nghe bạn khó chịu khi gặp anh ta như thế nào?

Bạn muốn nói thêm về anh ta à, hãy kể tôi nghe, nếu bạn
muốn?

Tôi nghĩ bạn muốn nói thêm về chuyện ấy?

Ai khiến bạn bực thế?

Cái gì làm bạn bực dọc vậy?

Ở những đâu cho bạn cảm giác khó chịu ấy?

Tại sao bạn nghĩ thế?

Chuyện ấy có tác động như thế nào đến bạn?

Những câu hỏi bắt đầu bằng cụm từ cái gì đã, sẽ (what), kể
cho tôi nghe xem (tell me of), ai đã (who, whom), có ảnh hưởng/
tác động như thế nào đến bạn (how…), tôi nghĩ là có thể… (I think
may be…) là những câu hỏi tạo điều kiện cho thân chủ cung cấp dữ
kiện.

Thay vì những câu hỏi đóng (close question), giới hạn khả
năng cung cấp thông tin, thường kết thúc câu bằng ngữ phải không,
như:

Câu hỏi đóng:

Bạn khó chịu khi gặp anh ta phải không?

Bạn muốn kể về anh ta phải không?


Bạn muốn nói về chuyện ấy phải không?

Chồng khiến chị bực phải không?

Anh ấy về khuya khiến chị bực dọc phải không?

Đi thăm mẹ chồng cho chị cảm giác khó chịu phải không?

Bạn nghĩ anh ta xem thường bạn phải không?

Những câu hỏi mở cho thân chủ cơ hội trình bày thêm dữ kiện
cần thiết nhưng những câu hỏi đóng (close question) thường dẫn
đến câu trả lời của thân chủ bằng cách trả lời không hoặc có. Trong
tư vấn, nhưng câu hỏi đóng (close question) thường cần được hạn
chế đến mức tối đa.

Một lối dò hỏi để làm sáng tỏ hơn một vấn đề là: Xin nói cho
tôi biết thêm về… Và thân chủ sẽ có cơ hội trình bày suy nghĩ và
cảm xúc của họ.

Thường thì, một buổi phỏng vấn đầu tiên nên tập trung vào
nhưng loại thông tin như sau:

- Lý lịch thân chủ: tên, tuổi, địa chỉ, điện thoại, tuổi, giới
tính, nghề nghiệp, trình độ, gia đình.

- Vấn đề nan giải: xảy ra bao lâu, nguyên do, ảnh hưởng của
vấn đề, nặng hơn hay có phần thuyên giảm, tại sao thân chủ tìm
đến dịch vụ tư vấn.

- An toàn: thân chủ có an toàn không, có ý định tự tử, gây


hại đến bản thân và người khác, cuộc sống hiện tại, giải trí…

- Lịch sử gia đình: thông tin về cha mẹ, nếu họ ly dị, lịch sử
bệnh tâm thần của người thân, những dữ kiện quan trọng về gia
đình.
- Thông tin về thân chủ: lịch sử bệnh tâm thần, bệnh tật,
nghề nghiệp, giáo dục, tình cảm và hôn nhân, đã bao giờ có kinh
nghiệm tư vấn, kế hoạch trong cuộc sống, hiện có nghiện ma túy,
sử dụng các loại thuốc tây, sử dụng chất có men…

- Kết luận: những ý niệm căn bản của quá trình tư vấn viên
về thân chủ, dưới dạng báo cáo sơ bộ.

- Thảo luận về bản hợp đồng: điểm qua những điểm chính
trong bản hợp đồng.

4. Thực hiện một cuộc phỏng vấn

Không có một bài bản nào nhất định, tuy nhiên các chuyên gia
thống nhất với nhau rằng phỏng vấn lần đầu rất quan trọng khi tư
vấn viên tạo được không khí thoải mái, cởi mở giữa tư vấn viên với
thân chủ.

Tư vấn viên phải gác lại hết những chuyện khác, giành trọn
vẹn thời gian cho thân chủ, qua việc lắng nghe chăm chú câu
chuyện của thân chủ.

Sau đây là vài khái niệm trong quá trình phỏng vấn, giới thiệu
của Hackney và Corminer (1994), sẽ giúp rất nhiều cho tư vấn viên
thu thập dữ kiện:

- Nhắc lại: chủ yếu tìm đến sự xác quyết những gì đã được
nói, được nghe.

- Phản tỉnh cảm xúc: có thể bằng lời nói hay bằng cử chỉ
quan tâm. Tỏ vẻ theo dõi, quan tâm.

- Tổng kết lại cảm xúc: tư vấn viên khéo léo trình bày các
cảm xúc của thân chủ bằng cách nhắc lại những ghi nhận, theo cách
nhìn của mình - tìm dữ kiện một cách trung lập, chính xác.
- Chỉ ra những cử chỉ của thân chủ: hỏi xem có phải những
cử chỉ, hành vi của thân chủ là do những nguyên nhân nào. Có phải
những cử chỉ này là dấu hiệu của những ưu tư trăn trở khác. (Vặn
người, lắc đầu, cắn răng, trợn mắt, khóc, im lặng…)

Tư vấn viên cần tạo bầu không khí cởi mở: kể cho tôi nghe
tại sao bạn đến đây được không? Bạn có vẻ bất bình, chuyện gì đã
xảy ra thế? Bạn có vẻ rất bức xúc, có thể kể ra cho tôi được cùng
chia sẻ không?

Vấn đề then chốt ở đây là tư vấn viên tạo cho thân chủ một
cảm giác tin tưởng, gần gũi, và lượng thông tin họ tạo ra sẽ rất cần
thiết cho quá trình tư vấn sau này.

Đồng cảm: là một khái niệm tối cần thiết trong nghiệp vụ tư
vấn. Trong lúc phỏng vấn, kỹ năng này càng quan trọng hơn.
Rogers (1961) đã định nghĩa đồng cảm có nghĩa là “bạn sẽ đi vào
thế giới của thân chủ và cảm nghiệm, nhưng vẫn giữ được tính
không đổi sau khi bạn rời thế giới của thân chủ”.

Đồng cảm thường được trình bày qua cử chỉ nhiều hơn là lời
nói. Những gật đầu, lắc đầu, nét mặt, tiếng thở, mỉm cười… và
những tiếng Ô, thế sao, vậy à… thường có tác dụng rất cao, nhất là
khi thân chủ đang bộc bạch nỗi lòng. Hơn nữa cảm xúc thường
không hiệu quả lắm khi chỉ dùng đến ngôn ngữ lời nói không mà
thôi.

Lời nói cũng thể hiện được đồng cảm nhưng không nên quá
dài. Chỉ nên kiệm lời, chẳng hạn: Tôi nghĩ thế! Cực vậy sao? Nhất
định là bạn đã thất vọng!... nói chung là những câu cảm thán.

Cử chỉ điệu bộ chuyển tải được đồng cảm khi tư vấn viên tỏ
thái độ quan tâm, theo dõi. Lắng nghe, mắt tập trung vừa phải,
không xoi mói, nhắm mắt để cảm nhận, nghiêng người về phía trước
bày tỏ sự quan tâm, lắc đầu phản đối, gật đầu đồng ý… những động
tác này phải trở thành một phản xạ do tư vấn viên đã thấm nhuần
và sử dụng một cách khéo léo.

Tuy nhiên, tư vấn viên cũng nên cảnh giác, nhất là những lúc
thân chủ quá xúc động. Nên có khăn giấy để cho thân chủ lau nước
mắt. Tránh đụng chạm. Và đôi khi im lặng cũng là một thái độ biểu
cảm rất có ý nghĩa. Cần để cho cảm xúc của thân chủ lắng xuống
mỗi khí có cao trào xúc động.

Ngoài những việc cần làm, tư vấn viên cũng cần biết có những
sai phạm họ cần phải tránh xa. Bởi lẽ những hành động này sẽ gây
cho thân chủ những cảm giác khó chịu, cụt hứng. Và họ nhất định
giảm niềm tin nơi những tư vấn viên. Welfel (1994) đã khuyên tư
vấn viên nên tránh ngăn cản quá trình chia sẻ giữa thân chủ và tư
vấn viên, như:

- Cho lời khuyên ngay lập tức.

- Lên lớp, hoặc giảng dạy.

- Hỏi quá nhiều nhưng câu hỏi không liên quan, ngoài lề.

- Kể chuyện cá nhân, đời riêng của tư vấn viên.

Nên nhớ, lần gặp gỡ đầu tiên để phỏng vấn chứ không phải để
tư vấn!

Dưới đây là những thao tác cần tránh khi phỏng vấn:

Ngắt câu thân chủ.

Trông ngang, trông ngửa.

Cho lời khuyên.

Ngồi quá xa.

Dạy đời.
Hắt, xỉ mũi.

Vuốt đuôi.

Liếc mắt, xếch mé.

Chê bai.

Nhăn mặt.

Đùa giỡn khiếm nhã.

Mắng mỏ.

Vào hùa.

Cắn môi.

Xăm xoi, quá nhiều câu: tại sao.

Chỉ trỏ không ngớt.

Ra lệnh, cửa quyền.

Trả lời điện thoại.

Ra truyện người ban ơn.

Cắn hạt dưa.

Nghĩ quá xa, đọc quá sâu ý người khác.

Dùng tiếng lóng.

Ngáp vặt.

Đi lạc đề, huyên thuyên.

Nhắm mắt.

Ra điều mình thông minh, uyên bác.

Làm ra vẻ hối hả.

Phân tích quá mức cần thiết.


Kể chuyện bản thân quá nhiều.

Xem nhẹ hoặc gạt bừa chuyện của thân chủ.

5. Đề ra những giải pháp khả thi cho nan đề

Phần cuối của quá trình xây dựng một quan hệ tốt trong tư
vấn là cùng nhau phác họa ra những giải pháp khả thi. Đây phải là
một nỗ lực chung giữa tư vấn viên và thân chủ. Nỗ lực chung này
phải là một nỗ lực đòi hỏi cả hai bên phải tôn trọng lẫn nhau.

Đây là quá trình giúp hai bên đề ra kế hoạch và mục đích của
tiến trình tư vấn. Không cần giải thích nhiều, tư vấn mà không có
mục đích xem ra không phải là hành động lãng phí và vô lý hay
chăng? Tư vấn viên sau khi lắng nghe và ghi nhận những yếu tố liên
quan đến nan đề, sau đó đề ra những kế hoạch và mục đích. Tất
nhiên cần phải đề nghị đầy đủ tất cả những giải pháp khá dĩ
(possible solutions) để thân chủ chọn lựa ra một giải pháp khả thi
phù hợp nhất (most appropriate solution).

Mục tiêu đề ra phải khả thi. Một mục tiêu thiếu thực tế
(unrealistic) không những không thực hiện được còn ảnh hưởng đến
tín nhiệm của thân chủ vào tư vấn viên, hoặc tư vấn viên sẽ không
đáp ứng được yêu cầu của thân chủ. Những hứa hẹn quá tay như
mọi ưu phiền sẽ biến mất, hạnh phúc tuyệt đỉnh vào tháng sau, bạn
sẽ vui vẻ trong tuần tới… là những ví dụ cần tránh.

Mục tiêu khi đặt ra một chiều đơn phương cũng không đem lại
hiệu quả trong công tác tư vấn. Chẳng hạn, mục tiêu đặt ra bởi tư
vấn viên khi thân chủ không ủng hộ hoặc thân chủ bỏ ngang mục
tiêu của hai người. Hoặc chuyện tư vấn viên đã đặt ra mục tiêu
nhưng thân chủ có những thay đổi trong quá trình tư vấn.
Để tránh những tình trạng trên, khi đề ra mục tiêu của quá
trình tư vấn, chúng ta nên cân nhắc và tuân thủ những đề nghị sau
đây, dựa theo Dyer và Vriend (1971):

- Mục tiêu phải có sự thoả thuận từ hai phía.

- Mục tiêu phải cụ thể, rõ ràng, mạch lạc.

- Mục tiêu đem lại tính trị liệu cao nhất.

- Mục tiêu phản ánh được thành quả sẽ đạt được, có tính thành
công.

- Mục tiêu có thể đánh giá được, cảm nhận rõ ràng, kết quả cụ
thể, đo được.

- Mục tiêu đưa đến những hành vi và có thể quan sát được.

- Mục tiêu dễ hiểu với thân chủ và họ có thể nhắc lại được quá
trình thực hiện tư vấn.

Tầm quan trọng của quá trình đặt ra mục tiêu rất lớn. Nên cần
phải có đủ thời gian và rõ ràng để thân chủ hiểu được cố gắng của
tư vấn viên, và phần họ cũng cần có những đóng góp tích cực đáng
kể. Vì thế, khi đề ra mục tiêu, nên tránh:

Bàn quá nhanh.

Quá sơ lược.

Quá khẩn trương.

Quá quan trọng hóa vấn đề.

Hoặc quá hời hợt, thiếu quyết tâm, thiện chí.

6. Kết luận
Xây dựng một mối quan hệ tốt trong tư vấn là một khâu quan
trọng then chốt. Nói một cách so sánh, thân chủ và tư vấn viên là
hai ốc đảo. Nếu không có một quan hệ tốt, đóng vai trò như cây
cầu, thông tin và trách nhiệm giữa hai bên không thể trao đổi được.
Vấn đề không phải chỉ có một cây cầu, mà phải là một cây cầu tốt.

Một quan hệ tốt không tự nhiên mà có, đó phải là một quá


trình kiến tạo, đòi hỏi tinh thần nghiệp vụ nghiêm túc. Mặc dù đòi
hỏi những cố gắng, nhưng khi một quan hệ tốt được thành lập, nó
sẽ giúp tiết kiệm được thời gian và công sức trong quá trình tư vấn
lâu dài.

Có thể nói, thành công của quá trình tư vấn xây nền tảng trên
quan hệ giữa thân chủ và tư vấn viên. Thiết nghĩ, đầu tư vào khâu
này là một quyết định quan trọng, phải làm. Và để đạt được những
yêu cầu trên, tư vấn viên nhất định phải có một bản hợp đồng thật
tốt, thật đầy đủ, ghi rõ các điều kiện cần thiết - cũng như phải biết
cách tiếp cận với thân chủ. Có như thế, tư vấn viên và thân chủ mới
hoạt động cùng một vận tốc, và đây chính là điều cực kỳ quan trọng
trong tiến trình tư vấn.

Chương 6
XÂY DỰNG QUAN HỆ TRONG TƯ VẤN

1. Dẫn nhập

Thành công trong quá trình tư vấn phần lớn dựa vào sự cộng
tác từ hai phía giữa thân chủ và tư vấn viên. Đây phải được coi như
là một cố gắng mang tính đồng đội (team work) rất cao. Nói khác
đi, hai bên phải hòa hợp và cố gắng, như hai chiếc đũa phải so
thẳng và đều, sử dụng nhịp nhàng để gắp được thức ăn.
Những cố gắng đơn phương của tư vấn viên sẽ không đem lại
hiệu quả nếu như thân chủ không ủng hộ và cộng tác, hay ngược
lại. Quan hệ giữa hai bên phải là một quan hệ bình đẳng hai chiều.

Khi đã thiết lập một quan hệ, điều kế tiếp là bồi dưỡng và phát
triển để quan hệ ấy ngày càng được thăng tiến và phát triển. Giống
như xây cầu xong, người ta phải bảo trì và chăm sóc cầu. Y như thế,
tư vấn viên phải nỗ lực trong khả năng nghiệp vụ của mình để mời
gọi thân chủ cùng đóng góp nhất là trong phạm trù cùng nhau tích
cực bồi dưỡng quan hệ. Nói khác đi, họ rất cần đi sát với bản hợp
đồng mà hai bên đã ký.

2. Kỹ năng của tư vấn viên trong giai đoạn tìm hiểu và


các giai đoạn hành động

Tư vấn viên phải năng động trong việc giúp thân chủ thay đổi.
Sau khi đã có niềm tin và tự nguyện cộng tác của thân chủ, bước kế
tiếp tư vấn viên cần thực hiện là: giúp thân chủ có một cái nhìn mới
về đời sống của họ, lối tư duy mới, cách nghĩ mới, cảm xúc mới, từ
đó dẫn đến hành vi mới, lành mạnh và tích cực.

Thay đổi cách nhìn (new view): Là một bước thay đổi lớn đối
với thân chủ. Trước khi đến với dịch vụ tư vấn, họ thường không có
một cái nhìn rõ ràng. Họ thường có cái nhìn cố định, thiếu tính uyển
chuyển. Họ nhìn đời qua lăng kính đã bị khúc xạ, nên thế giới quan
(world view) của họ không phản ánh được thực tế cuộc sống
(reality). Qua việc thay đổi cách nhìn, thân chủ sẽ nhìn thấy cuộc
sống bằng nhãn quan mới. Một tư vấn viên có hiệu quả sẽ giúp thân
chủ xây dựng lại hệ thống cấu trúc khung tư duy (thinking system)
mới và những trật tự mới cho cuộc sống.
Thay đổi cách nhìn thường bắt đầu trong quá trình thiết kế lại
khung tư duy. Đây là một quá trình thay đổi cách nhìn. Những suy
nghĩ và hành vi trong quá khứ thường được coi như là một phản ứng
tiêu cực, nặng về phần cảm tính, đến từ những bức xúc dễ dãi của
thân chủ. Tư vấn viên sẽ giúp thân chủ nhìn lại vấn đề một cách tích
cực, xác định những suy nghĩ và hành vi mới, bình tĩnh trưởng thành
và có trách nhiệm hơn.

Thân chủ sẽ có cơ hội nhìn thấy thực tế cuộc sống (reality) qua
một lăng kính mới (new lenses), trong đó những suy nghĩ và hành vi
của họ thật sự có thay đổi, ảnh hưởng tích cực đến đời sống cá nhân
của mình. Từ đó, thân chủ sẽ có thêm tự tin và chủ động hơn cho
việc xử lý những nan đề tương tự trong cuộc sống.

Tất nhiên quá trình thiết kế (construct) lại khung tư duy không
phải là một quá trình phủi tay, đổ thừa hoàn cảnh. Đây là quá trình
vạch rõ cho thân chủ thấy được những suy nghĩ cũ, dẫn đến hành vi
cũ của họ đã đem lại những hệ quả tiêu cực trong cuộc sống.

Khi nhận ra những suy nghĩ và hành vi cũ, thiếu lành mạnh
(unhealthy) của mình đã tạo nên những hệ quả tiêu cực (negative)
trong sinh hoạt cá nhân, thân chủ được khuyến khích thay đổi hành
vi và suy nghĩ, từ đó những tư duy mới (new thinking system) được
hình thành.

Thiết kế khung tư duy là một mô hình mà hầu hết các tư vấn


viên sẽ sử dụng đối với thân chủ của họ trong tư vấn.

Thuyết phục thân chủ (persuasiveness): Hay còn gọi là dẫn


đường - một khâu quan trọng trong quá trình thiết kế lại khung tư
duy. Quá trình thuyết phục bao gồm những hướng dẫn có chọn lọc,
có trọng tâm, và những điều cần làm, nên làm. Nếu thao tác khéo
léo, có kỹ thuật: tư vấn viên sẽ đóng hai vai trò cùng lúc như một
người huấn luyện viên (coach) và như một người bạn song hành
(friend).

Mục đích của thuyết phục thân chủ không phải là áp đặt những
tư duy của tư vấn viên. Thuyết phục ở đây có ý nghĩa khác, nó có
tác dụng như việc kích thích (simulate) và động viên (encourage)
thân chủ làm theo những thao tác đúng hướng trên hành trình thiết
kế lại không tít duy cũ (om thinking system). Nói khác đi, quá trình
thuyết phục là quá trình động viên làm chuyện nên làm, và gạt bỏ
những thói quen trong tư duy và hành vi cũ trong quá khứ.

Tất nhiên liều lượng thuyết phục nên tăng dần, bắt đầu chỉ là
những động viên nho nhỏ, sau tăng dần thành những đối chiếu
nghiêm túc hơn. Sở dĩ cần làm thế vì thân chủ cần có thời gian để
thích nghi với hoàn cảnh và lịch hoạt động (new schedule) mới.
Thân chủ cần lĩnh hội được những hướng dẫn. Vì thế khâu này
không thể hấp tấp, nôn nóng, vội vàng được.

Sau đây là những kỹ năng trong khâu thuyết phục:

- Im lặng: khi thân chủ làm tốt.

- Chấp nhận: khi thân chủ có biểu hiện đúng hướng.

- Nhắc lại: khi thân chủ có vẻ bán tín, bán nghi, chưa xác
quyết về một hành vi đúng đắn.

- Nhấn mạnh: nhắc lại những gì thân chủ đã làm đúng.

- Đồng ý: bật đèn xanh cho những tư tưởng lành mạnh.

- Nhắc nhở thông thường: động viên thân chủ tiếp tục sửa
đổi.

- Cắt nghĩa: giúp thân chủ hiểu được những căn nguyên tâm
lý dẫn đến tư duy và hành vi trong một khoảnh khắc nhất thời.
- Phản đối: ngăn cản thân chủ khi họ có những suy nghĩ
không phù hợp với tiến trình thiết kế lại khung tư duy.

- Trấn an: động viên thân chủ rằng tư duy và hành vi của họ
đang đi đúng hướng.

- Giới thiệu ý tưởng mới: cấy xen vào trong hệ tư duy của
thân chủ những ý tưởng mới mẻ, tích cực.

- Phản hồi nhiều mặt (feedback): là một trong những kỹ


năng cần thiết. Con người có 5 giác quan và những thông tin luôn
được con người tiếp nhận qua những kênh giác quan khác nhau này.
Ở một số thân chủ, một số kênh giác quan này hoạt động mạnh hơn
những thân chủ khác. Nói khác đi, các cá nhân tiếp thu và lĩnh hội
qua những kênh giác quan khác nhau ở mức độ và vận tốc khác
nhau. Có người học nhanh hơn qua cách nghe, người tiếp thu nhanh
qua cách nhìn, có người tự đọc tài liệu… Nắm được điểm này, tư vấn
viên sẽ tận dụng mọi thế mạnh, tìm ra chìa khóa, giúp thân chủ
thăng tiến. Cần biết, con người sẽ tiếp thu nhanh hơn, nhớ lâu hơn,
nếu như cùng một khối lượng thông tin được học qua nhiều kênh
giác quan khác nhau trong cùng một lúc.

Đồng cảm chính xác (empathy): Là một yếu tố thành công


mà hầu hết các chuyên gia công nhận. Một điều quan trọng cần biết
khi sử dụng đồng cảm là chuyện tư vấn viên đi vào thế giới của thân
chủ, nhưng vẫn có thể bước ra mà không bị xốc (ảnh hưởng). Nói
khác đi, tư vấn viên chỉ liên hệ (relate) mình vào hoàn cảnh của
đương sự, hoàn toàn không bị câu chuyện của đương sự cuốn lấy
(affected), và kéo xuống.

Nói thế, có nghĩa tư vấn viên cần có khả năng phản ánh một
cách trung thực những gì họ cảm nhận được nơi thân chủ. Ví dụ
như:
Thân chủ: Tôi không thiết gì nữa, tôi chán cả sống. Bỏ hết mọi
sự.

Tư vấn viên: Có vẻ như bạn đang rất mệt mỏi.

Đôi khi lời nói không đi đôi với cử chỉ, với những trường hợp
này, lúc ấy tư vấn viên nên tìm thêm dữ kiện trước khi bắt tay vào
việc đồng cảm với thân chủ. Chẳng hạn khi:

Thân chủ (cười sằng sặc): Tôi ghét mọi thứ trên đời.

Tư vấn viên: Xin lỗi, sao bạn lại cười. Tôi không theo kịp bạn.

Đồng cảm chính xác phải là một quá trình thao tác có chọn lọc.
Nên nhớ, tư vấn viên không thể đồng cảm với thân chủ trong mọi
cảm xúc. Chỉ có những cảm xúc tích cực, phục vụ cho tiến trình thiết
kế lại khung tư duy là nên được đồng cảm. Như thế, thân chủ sẽ
càng bộc lộ những cảm xúc tích cực mà họ biết tư vấn viên sẽ ủng
hộ. Như thế một hướng đi tích cực sẽ được dần dần thiết lập.

Chia sẻ kinh nghiệm (self-disclosure): Là một kỹ năng đòi


hỏi phải được sử dụng một cách rất có chọn lọc và cẩn thận. Đây là
thủ thuật do tư vấn viên sử dụng để chia sẻ những thông tin cá
nhân của tư vấn viên. Khi những thông tin này liên hệ với hoàn cảnh
hiện tại của thân chủ. Đây là một cách thường được sử dụng trong
quá trình tạo sự gần gũi.

Chia sẻ kinh nghiệm, theo Egan (1998) phục vụ hai tiêu chí:
(1) tạo sườn mẫu tích cực và (2) giúp kiến tạo nên cách nghĩ mới.
Điều này xảy ra khi tư vấn viên liên hệ hoàn cảnh hiện tại của thân
chủ với kinh nghiệm quá khứ của tư vấn viên. Trong đó, tư vấn viên
kể lại cách thức họ đã đối phó và xử lý hoàn cảnh đó một cách có
hiệu quả như thế nào.
Tuy nhiên, nếu không sử dụng khéo léo và lạm dụng, thao tác
này sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực ngược lại. Nhất là khi tư vấn
viên sử dụng quá nhiều chia sẻ kinh nghiệm (overshare), điều này
sẽ dẫn đến hiểu lầm khi thân chủ ngộ nhận rằng tư vấn viên không
nghiêm túc và xem nhẹ vấn đề của họ.

Thân chủ có thể lầm tưởng rằng tư vấn viên đang huênh
hoang, nên thiện cảm có thể bị tổn thương. Tưởng ổng giúp mình. Ai
dè bỏ tiền ra nghe chuyện của ổng! Nên nhớ, trong suốt quá trình tư
vấn, mục tiêu của tư vấn là tất cả vì thân chủ thân yêu. Vì thế tư
vấn viên luôn giành thời gian thỏa đáng cho thân chủ. Nói quá nhiều
về tư vấn viên trong một ca tư vấn là điều không nên lạm dụng.

Nắm hắt kịp thời (immediacy): Là một kỹ năng cần thiết


trong tư vấn. Điều này cho thân tư vấn viên luôn quan tâm đến từng
diễn biến của những vấn đề liên quan đến thân chủ trong suốt quá
trình tư vấn. Thân chủ luôn kỳ vọng tư vấn viên trong khả năng
nắm bắt kịp thời những thảo luận về nan đề của thân chủ. Sẽ là một
thiếu sót nếu tư vấn viên không đáp ứng được nhu cầu này.

Để đảm bảo tính hiệu quả của kỹ năng này, Turock (1980) đã
nhấn mạnh rằng, tư vấn viên cần:

- Nắm bắt kịp thời và phải bao quát được bức tranh toàn cảnh,
tổng quát, chúng từ đang ở đâu và tiến trình tư vấn đang phát triển
như thế nào?

- Nắm bắt kịp thời phải có tính tập trung ở thời điểm tức thì,
chuyện gì chúng ta tập trung vào mổ xẻ ngay trong lúc này, chúng
ta đang làng gì.

- Phản ảnh được diễn biến của những bước ngoặt mang tính trị
liệu, giúp thân chủ dễ dàng nhận ra những điểm mấu chốt trong quá
trình tư vấn. À đến nay chúng ta đã đạt được những thu hoạch sau
đây, chúng ta đã đạt được điều gì?

Tất nhiên rất nhiều tư vấn viên sẽ không sử dụng kỹ thuật


nắm bắt kịp thời (immediacy) vì họ sợ nhận định của họ có thể
không đúng lúc, hoặc họ sợ nhầm lẫn, họ tránh định vị sai sự kiện
này không quan trọng bằng sự kiện khác. Trong hệ tư duy của thân
chủ, giá trị và sức nặng của một sự kiện có thể sẽ khác với tư vấn
viên. Hơn nữa kỹ năng này thường đem lại những kết quả khó kiểm
soát, vì vậy, ít được sử dụng bởi những tư vấn viên thiếu kinh
nghiệm nghiệp vụ.

Tính hài hước (humor): Là một kỹ năng tương đối phổ thông.
Tác dụng chính của nó là tạo nên nhịp cầu thông cảm khi tư vấn
viên cảm thấy là cần thiết để giảm thiểu những tình huống căng
thẳng. Tính hài hước trong tư vấn giúp sửa chữa những sơ xuất nho
nhỏ trong quá trình xử lý những vấn đề gai góc và tế nhị.

Nên nhớ, dù ngay cả trong những ca tư vấn có quan hệ tốt


đẹp, những đối đầu và nhưng mổ xẻ nghiêm túc rất có thể đưa đến
những căng thẳng. Chính kỹ năng hài hước sẽ được áp dụng vào
những tình huống trên như một thứ dầu bôi trơn cần thiết để giảm
lực ma sát trong quá trình tư vấn.

Hài hước còn có tác dụng giúp cho ánh sáng tạo thể hiện bởi
tính năng căn bản đặc trưng về tinh thần lạc quan trong yếu tố hài
hước, vốn rất cần thiết cho quá trình kiến tạo khung tư duy mới.
Tuy nhiên, tư vấn viên nên tránh sử dụng kỹ năng hài hước trong
những vấn đề có chủ ý nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự, hoặc đánh
mất vẻ đẹp của cuộc sống. Làm thế kỹ năng hài hước đã không bảo
đảm được tính năng hiệu quả của nó.
Chất vấn trong tinh thần xây dựng (constructive
confrontation): Trong tư vấn là một kỹ năng khó khăn thực hiện
nhưng cần thiết. Kỹ năng này nếu sử dụng đúng sẽ giúp thân chủ có
can đảm nhìn lại, phản tỉnh, hiểu được những tư duy, hành vi cũ của
họ là sai tuyến và không lành mạnh. Chất vấn và đối đầu trong tinh
thần xây dựng giúp thân chủ nhìn rõ hơn những gì đang xảy ra
trong bức tranh lớn, họ có cơ hội hiểu được rõ hơn về hậu quả của
những hành vi trật đường ray (off-trail) của họ.

Kỹ năng chất vấn khi sử dụng tốt sẽ gửi đến thân chủ những
thông điệp rằng những hành vi và tư duy không lành mạnh cần
được sửa đổi và khắc phục. Đôi khi kỹ năng này còn thể hiện được
sự quan tâm (chung) của tư vấn viên qua lối suy nghĩ thuốc đắng dã
tật. Khi tư vấn viên sử dụng kỹ năng này, điều này cũng góp phần
phản ánh được mối quan hệ giữa tư vấn viên và thân chủ.

Kỹ năng này nên được sử dụng như một lời mời. Ngôn ngữ
phải khách quan (objective language) và thái độ (attitude) của tư
vấn viên phải bình tĩnh, tránh không để cho cảm xúc lấn át, nhất là
trong những trường hợp tư vấn viên phải đối diện với những cảm
xúc vượt ngoài khả năng kiềm chế của họ.

Kỹ năng này nên được sử dụng chỉ khi nào những tư duy và
hành động có mâu thuẫn với kế hoạch và mục tiêu đề ra trong tiến
trình tư vấn. Như thế, thân chủ sẽ thấy được tính liên đới và chủ ý
của tư vấn viên. Chất vấn cần được sử dụng như một hệ thống bảng
chỉ dẫn đi đường mà thôi.

Vì kỹ năng này cũng có những hạn chế nếu không được áp


dụng một cách đúng đắn. Nên nhiều khi nó bị hiểu lầm như là một
sự tấn công, xem thường, hạ thấp vai trò đóng góp của thân chủ.
Nhất là khi chất vấn trong tinh thần xây dựng bị hiểu sai như là một
van xả mà thân chủ nghĩ rằng tư vấn viên đã sử dụng họ để băm
vằm một cách thiếu tôn trọng. Lại bực bội với công việc rồi trút hết
lên đầu tôi hay sao vậy cha nội? Nhất là khi tư vấn viên đụng đâu là
chất vấn đó, điều này rất dễ gây ra những ngộ nhận tai hại không
cần thiết.

Hợp đồng (contract): Trong tư vấn là một kỹ năng phục vụ


đắc lực trong tiến trình tìm ra giải pháp cho nan đề. Hợp đồng có
nhiệm vụ giúp cho tiến trình tư vấn đi đứng hướng nhằm thẳng mục
tiêu cần đạt được. Tư vấn nên sử dụng kỹ năng này như một nền
tảng căn bản (template) cho những cảm xúc, tư duy, hành vi của
thân chủ được thể nghiệm và thực tập trong quá trình đạt được
nhận thức.

Nói một cách khác, quá trình tuân thủ kỹ năng hợp đồng giúp
cả hai bên cùng tập trung vào những đề mục nằm trong khuôn khổ
kế hoạch được đặt ra. Nhiều lúc, kỹ năng này còn giúp tăng cường
sự gắn kết của quan hệ trong tư vấn. Điều này dễ hiểu vì đơn giản
là các quan hệ đều được xây dựng trên tinh thần tôn trọng một bản
hợp đồng chung, vì trách nhiệm cũng được phân chia rõ ràng, cụ
thể, minh bạch. Nói khác đi, tư vấn viên và thân chủ sẽ tôn trọng
nhau qua một hình thức thoả thuận đồng ý (agreement).

Thomas và Ezell (1972) liệt kê những thuận lợi của hợp đồng
như:

- Bản hợp đồng kết ra với cam kết trách nhiệm của cả hai bên.

- Thân chủ sẽ tránh ỷ lại vì hợp đồng phục vụ như một thời
khóa biểu.

- Bản hợp đồng có thể phân ra làm nhiêu tiểu bộ phận, giúp
thân chủ theo dõi và thực hiện phần trách nhiệm của họ mà cách
khít khao, kịp thời.
- Hợp đồng quy trách nhiệm cụ thể cho mỗi bên.

- Hợp đồng sẽ lập ra một thời khóa biểu, giúp tiến trình tư vấn
có kế hoạch và nâng cao tính khả thi của kế hoạch đã đề ra.

Vài gợi ý sau đây do Goodyear và Bradley (1980) cho thấy tại
sao hợp đồng là cần thiết:

- Thân chủ có trách nhiệm như quá trình tư vấn là một quá
trình làm việc nghiêm túc.

- Thân chủ sẽ thay đổi tốt hơn, khác với tình trạng tiêu cực
hiện thời, vì hợp đồng chú trọng đến hành vi cụ thể cần thiết được
xúc tiến.

- Liệt kê những hành động để thân chủ có trách nhiệm tham


gia đóng góp cụ thể vào nỗ lực tư vấn.

- Có thời hạn nhất định như một thời khóa biểu.

- Liệt kê cụ thể những thay đổi đã tiến bộ, tốt hơn mà thân
chủ mong muốn nay đã đạt được.

- Hợp đồng tập trung vào mục tiêu của tiến trình tư vấn là
thay đổi tình trạng hiện thời. Ví dụ: Chúng ta sẽ bỏ hẳn hút thuốc lá
trong vòng ba tuần nữa.

Một vấn đề cần chú ý là tư vấn viên cần theo dõi và luôn cổ
động thân chủ gắn bó với hợp đồng. Nếu không, mục đích và ý
nghĩa của hợp đồng coi như lãng phí, vô bổ.

Một ứng dụng quan trọng khác của hợp đồng khi thân chủ có ý
định tự tử. Trong bản hợp đồng này, tư vấn viên sẽ có hợp đồng
miệng (verbal contract) hay hợp đồng viết có chữ ký (written
contract), trong đó thân chủ sẽ cam kết không được làm bất cứ
hành động nào trước khi liên lạc với tư vấn viên. Làm gì thì làm, anh
phải nói chuyện với tôi trước.
Nhắc lại tiến trình (rehearsal): Là một kỹ năng mỗi tư vấn
viên cần thực hiện trong một chu kỳ lịch trình. Việc làm này giúp hai
phía tiếp tục đáp ứng những yêu cầu mà bản hợp đồng đã ghi rõ ra.
Kỹ năng này cho phép tư vấn viên huấn luyện thân chủ nói ra
những điều ghi trong hợp đồng, vì thế, giúp thân chủ sẽ có thêm
quyết tâm, đi sát với kế hoạch thực hiện mục tiêu đã ghi ra trong
bản hợp đồng (contract).

Hơn nữa, chuyện nhắc lại về hợp đồng sẽ giúp thân chủ có một
ý tường rằng họ đã đạt được những tiến bộ nào trong toàn bộ tiến
trình tư vấn. À mình đã bỏ được cái thói cằn nhằn ông xã được hai
tuần rồi!

Đặc biệt là với những bài tập (homework) yêu cầu sử dụng
ngôn ngữ, tư vấn viên cần áp dụng kỹ năng ôn lại (rehearsal) nhiều
hơn đối với thân chủ. Ví dụ trường hợp một cô gái cần mạnh dạn
phát biểu trước đám đông (như nghề của cô yêu cầu). Quá trình ôn
lại sẽ giúp cô tự tin nhiều hơn trong việc mạnh dạn khi trực tiếp đối
diện với công việc của mình.

Thuận lợi của kỹ năng nhắc lại đến trình này giúp thân chủ:

- Tập trung vào những hành vi thích ứng liên quan, cần được
thực hiện giữa các ca tư vấn. Mình đã thảo luận về việc phải giữ im
lặng khi ông xã bạn gắt lên trong vòng hai mươi giây.

- Giúp họ nhìn rõ những tiến bộ của quá trình tư vấn. À, mình


đã dám gọi di động cho thủ trưởng rồi.

- Động viên họ nhiều hơn trong việc cải sửa những hành vi cần
thay đổi. Bạn đã làm rất tốt công tác là tránh dồn việc cho mỗi cuối
tuần.
- Giúp họ đánh giá và sửa đổi những hoạt động cho phù hợp.
Bạn phải gặp thẳng giám đốc, thay vì nhét thư qua gầm cửa văn
phòng.

- Khuyến khích họ chuyên cần và có trách nhiệm với những


hành vi, liệt kê trong hợp đồng. Bạn đã quên rằng mỗi tuần bạn nên
bỏ vào quỹ hai trăm ngàn rồi sao? Chúng ta đã thỏa thuận như thế
kia mà.

- Giúp họ phấn khởi hơn mỗi khi họ vượt qua một giai đoạn
được đặt ra trong tiến trình tư vấn. Ồ! Bạn đã làm được chuyện mà
cách đây 3 tháng bạn đã không có can đảm để làm.

3. Một quan hệ đúng nghĩa trong tư vấn

Chúng ta đã mổ xẻ những kỹ năng cần thiết trong quá trình tư


vấn. Trong đó những kỹ năng này phục vụ như là những thao tác
nhằm củng cố quan hệ giữa thân chủ và tư vấn viên. Khi những kỹ
năng này áp dụng đúng, quan hệ giữa thân chủ và tư vấn viên sẽ
trở thành một quan hệ hai chiều, tạo ra một kinh nghiệm đồng đội
rất có ý nghĩa.

Một quan hệ tư vấn đúng nghĩa (real relationship) là một quan


hệ có tổ chức, có tinh thần tôn trọng, và có tính trung thực xuất
phát từ cả hai phía: tư vấn viên thực sự muốn giúp và tận tâm với
trách nhiệm. Đáp lại tinh thần trách nhiệm đó, thân chủ cũng thật
sự đóng góp vào tiến trình tư vấn một cách tích cực và thiết thực.
Thế mạnh của một quan hệ tư vấn đúng nghĩa bao gồm những thao
tác đi sát với hợp đồng, luôn gặt hái và đạt được mục tiêu đề ra, đáp
ứng yêu cầu xử lý nan đề một cách có hiệu quả.

Tuy nhiên, có hạn chế, là nhiều lúc một quan hệ đúng nghĩa,
song khi mức độ gắn kết giữa thân chủ và tư vấn viên quá sâu,
cứng chắc, có thể sẽ tạo ra những hiệu ứng không lành mạnh. Nhất
là trong tương lai khi quá trình tư vấn sắp kết thúc, nhiều tư vấn
viên và thân chủ sẽ phải đối diện với cảm giác khó tách ra. Tất
nhiên đây không phải là một điều tích cực, mặc dù điều này có vẻ
rất tự nhiên với bản năng cảm xúc của con người. Tuy nhiên đây
cũng là mặt trái của nghề này.

4. Kết luận

Trong tư vấn, một quan hệ tốt giữa thân chủ và tư vấn viên
sau khi được thiết lập, bước kế tiếp là đưa quan hệ ấy vào hoạt
động nhằm thúc đẩy quá trình sửa đổi và cải tiến hệ tư duy và hành
vi của thân chủ. Trong tiến trình tư vấn, cốt lõi chủ yếu là đạt được
mục tiêu đề ra trong kế hoạch.

Con đường đưa từ điểm thân chủ cần sửa chữa đến điểm thân
chủ bằng lòng với kết quả trị liệu – đạt được nếp suy nghĩ lành
mạnh, có những biểu hiện hành vi tích cực trong cuộc sống – là một
quá trình phấn đấu. Quá trình phấn đấu ấy không thể đạt được kết
quả nếu giữa tư vấn viên và thân chủ không biết duy trì quan hệ ấy
để có những xử lý thích hợp.

Trong toàn bộ quá trình tư vấn, những thao tác (kỹ năng)
được áp dụng với từng giai đoạn một cách thoả đáng sẽ đem đến
những thành công quyết định. Nếu áp dụng có hiệu quả, quan hệ
giữa thân chủ và tư vấn viên sẽ trở thành một quan hệ đúng nghĩa,
đây là một quan hệ lý tưởng mà mỗi tư vấn viên cần suy nghĩ, coi
đó như một mô hình tích cực để họ nhắm đến; mỗi khi họ tiếp nhận
một thân chủ mới.
Chương 7
KẾT THÚC MỘT QUAN HỆ TƯ VẤN

1. Dẫn nhập

Burke (1989) định nghĩ việc kết thúc một quá trình tư vấn là
một quyết định, có thể là đơn phương, từ phía thân chủ hay từ phía
tư vấn viên. Hoặc đây là một quyết định có sự đồng ý của hai bên.

Không phải bất cứ sự kết thúc của một quá trình tư vấn nào
cũng diễn ra một cách tự nhiên. Trái lại, có rất nhiều lý do khác
nhau dẫn đến kết thúc dịch vụ tư vấn. Nhiều lúc cuộc tư vấn kết
thúc đem lại sự mãn nguyện, bằng lòng cho hai phía. Tất nhiên,
không phải trường hợp nào cũng được may mắn như thế.

Ngay cả trong những trường hợp kết thúc một ca tư vấn khi
nan đề đã được giải quyết thoả đáng, thân chủ đã tìm ra giải pháp;
ta vẫn thấy có cảm giác buồn khi chia tay sau bao nhiêu ngày tháng
cộng tác với những nỗ lực vượt khó giữa hai phía. Với những tình
trạng này, không thể chối được một thực tế rằng đây là một cảm
giác pha trộn giữa những lấn cấn và lo lắng. Phần nhiều những thân
chủ sẽ có những băn khoăn nếu họ có thể tự giải quyết được những
nan đề trong thời gian tới do một mình họ.

Tình cảm đồng đội (team work) phát triển, trở thành gắn bó sẽ
gây ra những bịn rịn khi chia tay. Ảnh hưởng của việc kết thúc một
quá trình tư vấn không chỉ ảnh hưởng đến thân chủ, mà nó còn ảnh
hưởng đến tư vấn viên. Từ đó, tham khảo về vấn đề này là một điều
cần thiết cho mỗi tư vấn viên, những người thường xuyên đối diện
với cảm giác chia tay này.
2. Chức năng khi chấm dứt một dịch vụ tư vấn

Giống như bao nhiêu dịch vụ khác, khi giải pháp và điều kiện
thỏa thuận bởi hai bên đã đạt được, những đối tác liên quan đến
dịch vụ đó sẽ đi đến kết thúc. Dịch vụ tư vấn cũng không phải là
một ngoại lệ. Khi thân chủ đã tự giải quyết được nan đề, bước kế
tiếp là chuyện kết thúc dịch vụ tư vấn.

Kết thúc dịch vụ tư vấn phục vụ ba chức năng chính: (1) báo
hiệu dịch vụ tư vấn đã kết thúc; (2) thời điểm một thân chủ tự điều
tiết và duy trì khả năng làm chú hành đi của mình; (3) khẳng định
được khả năng xử lý nan đề chuẩn xác của thân chủ, sau khi đã
được trang bị bằng một khung tư duy mới.

Mặc dù ở bước khởi điểm, cả thân chủ lẫn tư vấn viên rất
mong đến giây phút cả hai bằng lòng với kết quả, khi thân chủ
chính thức đạt được những thay đổi (hoặc ít nhất đã có thể tự giải
quyết một nan đề). Tuy nhiên khi gần đến thời điểm ấy, bịn rịn là
một cảm giác hết sức phổ thông, nếu không nói là khó tránh khỏi.

Với trường hợp thân chủ chưa được trang bị đầy đủ, khi chấm
dứt dịch vụ tư vấn, thân chủ đó có khả năng sẽ đánh mất những gì
đã học được. Vì kết quả tư vấn chỉ thật sự có ý nghĩa khi thân chủ
chính thức vượt qua được cái ải tự bản thân họ giải quyết được
những xung đột từ một nan đề nhất định, và khả năng áp dụng với
những nan đề trong tương lai.

Với một số dịch vụ tư vấn, bằng nhiều lý do khách quan và chủ


quan, vấn đề thông báo về chấm đứt dịch vụ với thân chủ đã không
được tư vấn viên đề cập đến, vì thế, thân chủ có thể nói là bị rơi vào
tình trạng lệ thuộc vào sự quyết định của tư vấn viên. Đây là một lối
thực hành rất thiếu tinh thần đạo đức nghề nghiệp, vì tư vấn viên đã
ăn cắp của thân chủ một cơ hội được sống độc lập một mình.
Xuất phát từ những vấn đề vừa nêu, việc kết thúc dịch vụ tư
vấn khi cần thiết là điều bất cứ một tư vấn viên nào cũng cần thông
báo cho thân chủ của mình. Vấn đề then chốt còn lại là khi nào
(when) mới là thời điểm thích hợp khi cả hai bên cùng thỏa thuận.
Những tư vấn viên có kinh nghiệm thường nhận ra thời điểm thích
hợp để ngừng dịch vụ tư vấn. Song, những tư vấn viên còn mới
trong nghiệp vụ thường gặp những trở ngại trong vấn đề này.
Hackney và Cormier (1994) đã nêu ra thời điểm thích hợp để kết
thúc một dịch vụ tư vấn khi:

- Thân chủ đã đạt được những mục tiêu về tư duy, cảm xúc và
hành vi liệt kê rõ trong bản hợp đồng đã được thỏa thuận trước bởi
hai phía.

- Khi thân chủ có thể chỉ rõ ra những tiến bộ mà họ phấn đấu


và thật sự mãn nguyện với những tiến bộ ấy.

- Nếu như quan hệ giữa thân chủ và tư vấn viên thật sự không
có hiệu quả và thân chủ đã không gặt hái được những thành quả
nhất định - trong trường hợp này - chấm dứt dịch vụ tư vấn là hiển
nhiên.

- Những thay đổi mới nhất (phát sinh ngoài dự đoán) ảnh
hưởng đến hợp đồng ban đầu - vượt khả năng nghiệp vụ của tư vấn
viên.

3. Những vấn đề liên quan đến kết thúc dịch vụ tư vấn

Chấm dứt một ca hẹn tư vấn (termination sessions): Là điều


khoản thường ghi rõ trong hợp đồng, trong đó thân chủ và tư vấn
viên sẽ tự động chấm dứt khi thời gian ấn định cho mỗi ca tư vấn,
chẳng hạn như 45, 50 phút. Vì thế, tư vấn viên cần chú ý đến yếu tố
thời gian, ít nhất là 10 phút trước khi thời gian ngưng ca tư vấn, tư
vấn viên nên chuẩn bị, khéo léo (nhưng tránh hấp tấp), trong việc
kết thúc ca tư vấn. Quy định thời gian cụ thể sẽ tránh được những
trường hợp một ca tư vấn quá ngắn (30 phút) hoặc quá lâu (90
phút). Trong cả hai trường hợp, hiệu quả tư vấn sẽ không cao.

Cần biết, rất quan trọng nếu như thân chủ không cảm thấy tư
vấn viên hấp táp, muốn đẩy họ ra khỏi văn phòng. Để tránh điều
này tư vấn viên cần tế nhị, khéo léo, tránh không để thân chủ có
cam giác bị tổn thương: bị tống ra khỏi văn phòng.

Một điều cần lưu ý là khi chấm dứt ca tư vấn, thân chủ luôn
được nhắc nhở và được lấy hẹn cho ca tư vấn đợt tới.

Chấm dứt quan hệ tư vấn (termination counseling): Là kết


thúc dịch vụ tư vấn. Điều này rất khác nhau giữa những dịch vụ tư
vấn nơi những cá nhân khác nhau. Có khi ở một dịch vụ kết thúc
đến sớm, có khi đúng thời điểm, và có khi quá chậm. Một điều đáng
nhớ là sau một thời gian chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân và cả
những tâm tư sâu kín nhất, cảm giác buồn bởi phải chia tay là điều
xảy ra rất tự nhiên và dễ hiểu.

Lý tưởng nhất khi chấm dứt tư vấn là lúc cả hai bên đều nhận
ra ý nghĩa tích cực của nó và đồng ý chấm dứt tư vấn vì họ bằng
lòng với kết quả thu lượm được trong quá trình tư vấn. Hackney và
Cormier (1994) khuyên: sau khi tư vấn đã thực hiện được 3 - 4
tháng, đó là lúc hai bên cần bàn thảo đến vấn đề kết thúc dịch vụ tư
vấn. Điều này sẽ có tác dụng tích cực khi cả hai bên cùng có thời
gian để thích hợp quen dần với cảm giác chia tay này.

Maholick và Turner (1979) đề nghị những điểm cần lưu ý khi


hai bên quyết định đi đến chấm dứt dịch vụ tư vấn:

- Nên kiểm tra nếu vấn đề cần tháo gỡ đã được xử lý hay đã


được kiểm soát.
- Những nhân tố gây căng thẳng cho đời sống cá nhân của
thân chủ đã được xóa hẳn.

- Kiểm tra xem nếu khả năng sinh hoạt độc lập của thân chủ
và khả năng hòa nhập vào đời sống đã đạt đến mức khả quan cần
thiết.

- Thẩm định xem nếu thân chủ có thể ứng xử tốt, có khả năng
duy trì tình cảm trong đời sống hàng ngày.

- Kiểm tra xem nếu thân chủ có thể độc lập để tính toán, dự
định và có kế hoạch làm việc một mình.

- Thẩm định xem nếu thân chủ có thể tìm thấy ý nghĩa trong
cuộc sống (vui chơi và giải trí) lành mạnh.

Nói khác đi, tư vấn viên khi quyết định chấm dứt một quá trình
tư vấn, cần trả lời những câu hỏi được đặt ra: Nếu như thân chủ có
thể sống và sinh hoạt độc lập, bình thường, mà không cần đến sự
trợ giúp của một tư vấn viên.

Một hình thức chấm dứt khác gọi là nhạt dần đi (fading away),
với hình thức này, thân chủ càng ngày càng cảm thấy không nhất
thiết phải cần đến tư vấn viên nữa. Các cuộc hẹn thưa dần và đến
một lúc nào đó hai bên không còn gặp nhau nữa. Đây không hẳn là
một cách kết thúc tư vấn tích cực, song nhiều lúc nó vẫn xảy ra như
thế.

Trong các dịch vụ tư vấn, thân chủ thường có tư tưởng lo lắng


về vấn đề kết thúc dịch vụ tư vấn. Họ thường không nhận thức rằng
mục tiêu chính trong việc kết thúc tư vấn là tạo cơ hội cho thân chủ
có những cơ hội (opportunity) áp dụng những kỹ năng xử lý nan đề
qua việc sử dụng khung tư duy mới với những nan đề tương tự xảy
ra trong tương lai.
Điều này không dễ dàng với nhiều thân chủ, nhưng với sự cổ
vũ của tư vấn viên, đồng thời với việc có một chương trình chăm
sóc, quan sát sau khi kết thúc dịch vụ tư vấn (follow-up) sẽ có nhiều
cơ hội hơn để thân chủ thật sự an tâm, sẵn sàng làm chủ cuộc sống
của họ.

4. Những cản trở thường gặp trong quá trình kết thúc
dịch vụ tư vấn

Thân chủ không muốn chấm dứt (resistance from client):


Thường xảy ra ở mỗi cuối ca tư vấn và sau khi mục tiêu đã hoàn
thành, họ vẫn tiếp tục kì kèo, năn nỉ thêm những cuộc hẹn, tiếp tục
mong được duy trì dịch vụ tư vấn tâm lý. Càng xa hơn, có người còn
cố tình tạo ra những nan đề và khó khăn mới, nhằm giữ chân tư vấn
viên để họ tiếp tục giúp mình.

Mặc dù xuất phát với bất cứ động cơ và chiến lược nào của
thân chủ, điều nên làm đối với tư vấn viên là quyết tâm chấm dứt
dịch vụ tư vấn vì lợi ích của thân chủ. Tất nhiên với những thân chủ
quá lệ thuộc (attached); điều này nên thực hiện chậm, và đều.
Tránh quá gấp, như thế sẽ tạo những cảm giác hẫng, phanh gấp,
không có lợi cho thân chủ.

Vickio (1990) đã đề nghị vài cách giúp quá trình chấm dứt dịch
vụ tư vấn một cách êm ái, nhẹ nhàng:

- Tìm cách lái dịch vụ tư vấn chuyển sang hướng giảm dần về
cả mặt thao tác và nội dung tư vấn.

- Giúp thân chủ tìm ra những hành động giải trí lành mạnh
khác trong cuộc sống để họ từ từ hòa nhập vào cuộc sống sinh hoạt
bình thường.
- Mô tả và giúp thân chủ hiểu được chấm dứt tư vấn là một
bước phát triển tốt, thành công.

- Giúp thân chủ biết trân quý những gì họ đã thâu lượm, sẵn
sàng tiếp tục nhắm về tương lai phía trước. Tư vấn không thể là một
quá trình hãm chân mà phải là một quá trình ứng dụng những kỹ
năng học được.

- Vạch ra và nhấn mạnh đến những máng khác của đời sống,
cần được khai thác và tận hưởng bởi thân chủ - không nên chỉ chú
tâm quá nhiều đến nan đề.

Và tư vấn viên giúp thân chủ tránh những hành vi thụ động,
tiêu cực sau đây:

- Đừng quá chủ quan xem chuyện mất mát sau khi chấm dứt
dịch vụ tư vấn là không có. Tất nhiên là sẽ buồn khi phải ngưng làm
việc với nhau. Đây là một cảm xúc rất tự nhiên, khó tránh, nhưng
hoàn toàn bình thường.

- Đừng xem dịch vụ tư vấn là một quan hệ quá lý tưởng, ầm ĩ


hóa quan hệ tư vấn. Đây là quan hệ làm việc mang tính trị liệu
thuần túy. Cuộc sống vẫn cứ phải tiếp diễn.

- Đừng bôi xấu, bôi nhọ sau khi chấm dứt dịch vụ tâm lý. Vì
chấm dứt quan hệ tư vấn là một điều tốt, đáng quý, đáng ghi nhớ.

- Đừng tránh né suy nghĩ đến chuyện chia tay. Hãy đối diện
với nó trong tinh thần chủ động và trưởng thành.

- Đừng buông tay, bỏ cuộc tất cả những hành vi lành mạnh,


thu hoạch được từ dịch vụ tâm lý. Hãy tiếp tục ứng dụng để tìm ra
những kinh nghiệm mới mẻ, lành mạnh.

Leners (1983) nêu ra rằng, thân chủ không muốn chấm dứt
dịch vụ tư vấn vì họ sợ phải đối diện với thay đổi. Đây là một cảm
giác rất thật, đáng được cảm thông. Tâm lý này không tiêu cực,
song cũng không lành mạnh xảy ra khi họ lo lắng vào khả năng xử
lý của họ. Thân chủ thường hoài nghi khả năng sinh hoạt của họ
trong môi trường một khi quan hệ tư vấn được chấm dứt. Tư vấn
viên cần trấn an và khơi dậy tinh thần lạc quan của họ.

Tư vấn viên không muốn kết thúc (resistance from


counselor) trong việc chấm dứt dịch vụ tư vấn là có thực. Mặc dù họ
đã vạch rõ chương trình kế hoạch tư vấn và mục tiêu đề ra đã đạt
được cho thân chủ, nhiều tư vấn viên vẫn cảm thấy khó khăn, lúng
túng trong việc kết thúc quá trình tư vấn. Goodyear (1981) đã liệt
kê ra những khó khăn sẽ đến với tư vấn viên, như sau:

- Khi tư vấn viên có những băn khoăn quan ngại về khả năng
sinh hoạt độc lập của thân chủ.

- Khi tư vấn viên có mặc cảm vì mình đã chưa hết mình với
thân chủ.

- Khi tự ái nghề nghiệp nổi dậy, trường hợp thân chủ bước đi
quá vội vàng. Vậy mà đi như không biết mang ơn là gì? Tệ thiệt.

- Khi việc chấm dứt dịch vụ tư vấn lấy đi từ tư vấn viên những
kinh nghiệm họ đang có được từ quá trình tư vấn với thân chủ. Mình
học hỏi ở cô ấy nhiều quá.

- Khi những kinh nghiệm gián tiếp liên quan đến đời sống thân
chủ không còn nữa. Đây là một suy nghĩ rất ích kỷ.

- Khi chia tay trong chấm dứt tư vấn gợi lại những vết thương
tình cảm cũ trong cuộc sống quá khứ của tư vấn viên.

- Khi mâu thuẫn cá nhân đến với tư vấn viên. Tại sao phải
ngưng dịch vụ này vậy?
Cần nhớ, chia tay với thân chủ là một vấn đề thuộc phạm trù
tình cảm, rất phổ thông. Song nó cũng là vấn đề thuộc phạm trù
đạo đức trong tư vấn. Tư vấn viên cần sáng suốt cảnh giác rằng, sẽ
có nhiều thân chủ rất khó khăn khi chấm dứt dịch vụ tư vấn.

Trong trường hợp tư vấn viên có những vấn đề dính líu đến ký
ức chia tay đau khổ trong quá khứ, họ cần tìm đến những tư vấn
viên khác, xử lý những vấn đề riêng của mình cho thỏa đáng. Bởi lẽ,
sớm muộn gì họ cũng phải ngưng dịch vụ tư vấn với thân chủ.

5. Ngưng tư vấn nửa chừng bởi thân chủ

Không thể nói được là trong bao nhiêu cuộc hẹn về các ca tư
vấn, sau đó dịch vụ tư vấn bị cắt ngang bởi thân chủ là có quá vội
vã hay không?

Nên nhớ, cắt ngang dịch vụ tư vấn tâm lý có thể xảy ra từ hai
phía. Thân chủ có thể tự động cắt ngang. Tuy nhiên, nếu dịch vụ tư
vấn cắt ngang từ phía tư vấn viên, thủ tục chăm sóc sau kết thúc
dịch vụ tư vấn (follow-up) sẽ khác đi vì liên quan đến nghiệp vụ.
Trường hợp thân chủ ngưng ngang dịch vụ tư vấn, việc áp dụng
chăm sóc sau tư vấn (follow-up) thường là rất khó khăn.

Nhiều thân chủ tự giác và chủ động ngưng dịch vụ tư vấn khi
họ đạt được mục tiêu.

Khi thân chủ không quay lại với cuộc hẹn với tư vấn viên.
Trách nhiệm của tư vấn viên là liên lạc với họ. Nếu như thân chủ có
chủ ý ngưng dịch vụ tư vấn; họ nên được tư vấn viên mời đến, làm
một cuộc phỏng vấn tổng kết trước khi ngưng tư vấn (exit
interview), Ward (1984) đã nêu ra tầm quan trọng của một cuộc
phỏng vấn trước khi ngưng tư vấn:
- Giúp giải tỏa những căng thẳng, hiểu lầm trong quá trình tư
vấn giữa hai phía.

- Tiếp tục dịch vụ tư vấn, nếu thân chủ ý thức được họ chưa
trưởng thành và chủ động trong việc xử lý nan đề trong thời gian
này.

- Đề nghị phương pháp trị liệu mới, hoặc tư vấn viên mới được
giới thiệu, thu xếp thỏa đáng.

- Đề nghị thân chủ, trong tương lai, khi cần dịch vụ tư vấn họ
sẽ luôn được hoan nghênh trở lại.

Cavanagh (1990) vạch ra, khi tư vấn bị cắt ngang do thân chủ,
tư vấn viên thường tự khiển trách nghiệp vụ của mình hoặc do thừa
cho thái độ thiếu trưởng thành của thân chủ. Dù là quy trách nhiệm
về phía mình hay cho thân chủ, tư vấn viên đều khó tránh được tính
tiêu cực trong quan hệ bị cắt ngang này. Vì thế, thái độ không quy
trách nhiệm cho bất cứ ai là thái độ lành mạnh nhất. Nhiều tư vấn
viên có thái độ bất cần, cho rằng sẽ là thiệt hại cho thân chủ nếu họ
tự ý cắt ngang tư vấn. Đây cũng không phải là một biện hộ tốt. Tác
giả Cavanagh (1990) đề nghị tư vấn viên nên xem xét có phải thân
chủ đã quyết định ngưng tư vấn vì:

- Tư vấn viên không quan tâm đủ đến nan đề của họ.

- Thân chủ không tiếp thu được những tư tưởng tích cực của tư
vấn viên.

- Thân chủ muốn trả đũa và phá tư vấn viên do tư tưởng thiếu
trưởng thành.

- Thân chủ tránh cảm giác như lo lắng khi phải đối diện nan
đề, đôi khi bị phanh phui bởi tư vấn viên - được diễn ra trong tiến
trình tư vấn.
- Thân chủ đã tìm ra một cách giải quyết nan đề mới, hữu hiệu
hơn.

- Thân chủ đã lĩnh hội được những tư tưởng cần được hấp thụ
và cảm thấy họ tự xử lý được vấn đề một mình.

Cần lưu ý, tư vấn viên nên chủ động chấp nhận chuyện sẽ có
một số thân chủ tự ý cắt ngang dịch vụ tư vấn. Khi nắm bắt được
thực tế này, tư vấn viên sẽ tránh được những băn khoăn, bức xúc
không cần thiết. Tại sao họ bỏ tư vấn ngang, hay là mình tư vấn dở
quá! Vấn đề không hoàn toàn bởi nghiệp vụ yếu hay họ không có
duyên may với nghề. Ngay cả những tư vấn viên giỏi, tận tâm, có
trách nhiệm, đôi lúc vẫn vấp những trường hợp này. Nói khác đi,
đây là một mặt trái, rất bình thường của nghề tư vấn.

Tuy nhiên, nếu như tỷ lệ thân chủ cắt ngang quá nhiều, tư vấn
viên cần bỏ chút thời gian để phản tỉnh xem xét đâu đó trong quá
trình tư vấn họ đã làm thiếu, làm sai một khâu then chốt nào đó.
Rồi từ đó tìm cách khắc phục và phát huy.

Có tâm lý chuẩn bị về chuyện một số thân chủ sẽ cắt ngang


dịch vụ tư vấn, sẽ giúp cho tư vấn viên đối diện với nghề một cách
thực tế hơn, lành mạnh hơn trong cách suy nghĩ, một khi những vấn
đề bất ngờ ấy xảy ra.

Nhiều thân chủ phát huy sớm những kỹ năng đối phó với nan
đề do tư vấn viên cung cấp, nên chuyện ngưng dịch vụ tư vấn có
thể được coi là cần thiết này không hẳn là cắt ngang không có lợi.

Tư vấn viên không thể kiểm soát toàn bộ những tác nhân ảnh
hưởng đến việc thân chủ cắt ngang dịch vụ tư vấn. Tuy nhiên,
Young (1918) có vài đề nghị khuyên tư vấn viên nên điều chỉnh:
- Có khoảng cách giữa các cuộc hẹn, càng xa, càng thưa, thân
chủ càng dễ lỡ hẹn. Chờ lâu quá nên họ quên, hoặc làm biếng, nản
lòng.

- Nên cắt nghĩa và giải thích cặn kẽ về quá trình tư vấn. Thân
chủ càng hiểu về cách thức và tác dụng tư vấn, họ sẽ thiết tha hơn
với việc giữ các cuộc hẹn.

- Tư vấn viên trọn gói (whole pack) từ đầu đến cuối, không
nên để thân chủ gặp nhiều tư vấn viên khác nhau, trường hợp này
hay thấy trong những trung tâm tư vấn công cộng, miễn phí. Ủa sao
tui gặp toàn là tư vấn viên mới không là sao vậy?

- Nhắc nhở thân chủ hãy giữ những cuộc hẹn bằng các cuộc
điện thoại, email… động viên họ giữ hẹn, vì đây là một điều cần
thiết.

6. Ngưng tư vấn bởi tư vấn viên

Ngược với cắt ngang tư vấn bởi thân chủ, kết thúc dịch vụ tư
vấn bởi tư vấn viên thường là một việc làm đúng hướng trong dịch
vụ tư vấn. Tuy nhiên, một vài trường hợp bất khả kháng xảy ra, khi
tư vấn viên buộc phải ngưng làm việc hoặc rời nghiệp vụ tư vấn
(nghỉ việc) với nhiều lý do khác nhau, đây là những điều đáng tiếc
đã xảy ra, tuy có thể chấp nhận được. Đây là điều ngoài ý muốn của
tất cả mọi người.

Tất nhiên, có lúc tư vấn viên chấm dứt tư vấn vì thân chủ quá
nhàm chán, chậm thiếp thu, thiếu cộng tác, hoặc tư vấn viên nóng
náy, bực dọc, sốt ruột, mất kiên nhẫn… Nếu cắt ngang tư vấn như
thế, thân chủ sẽ có cảm giác bị xem thường, bị hất hủi. Cavanagh
(1990) khuyên, mặc dù có những cảm giác không lành mạnh với
thân chủ, tư vấn viên vẫn có thể thảo luận với thân chủ để tạo thêm
thông cảm và ủng hộ. Nhiều lúc, thân chủ đã không ý thức được họ
cần phải công tác, nên khi ý thức được vai trò của mình, họ sẽ trở
nên chủ động hơn.

Khi chuẩn bị rời nghề, tư vấn viên nên có sự chuẩn bị, càng
chu đáo càng tốt trong việc giúp thân chủ hiểu được phương pháp
vận hành trong tư vấn. Thân chủ cần được thông báo và giải thích
về những sự cố bất ngờ xảy ra với tư vấn viên khi họ nghỉ việc. Họ
cần hiểu rằng việc thay đổi tư vấn viên sẽ không gây quá nhiều tác
hại (vì những tư vấn viên khác sẽ cung cấp những dịch vụ tư vấn có
chất lượng giống như của tư vấn viên nghỉ việc) và đây là điều ngoài
ý muốn.

Lý tưởng nhất, trước khi chia tay, tư vấn viên nên có một đánh
giá xem thân chủ đang ở giai đoạn phát triển nào trong tiến trình tư
vấn. Tình hình của thân chủ đã có phát triển khả quan hay chưa gặt
hái nhiều, và đã gặt hái được bao nhiêu. Tư vấn viên cần lên những
kế hoạch hành động cho sau này, nếu cần thiết; được vạch ra và
bàn bạc cụ thể. Những cảm xúc chân thành (tích cực lẫn tiêu cực)
cần được ghi nhận và tư vấn viên cần cảm ơn thân chủ về kinh
nghiệm tích cực được làm việc chung với nhau.

Khi thân chủ hoàn toàn thông cảm và hiểu được nguyên do
của việc chấm dứt dịch vụ tư vấn, điều này sẽ có ảnh hưởng thuận
lợi đến tiến trình tư vấn. Họ tôn trọng và tin tưởng vào dịch vụ tư
vấn nhiều hơn. Có thể nói, không giống những dịch vụ khác, dịch vụ
tư vấn là một dịch vụ đòi hỏi người cung cấp dịch vụ phải đặt lợi ích
của thân chủ lên hàng đầu. Những bước kế hoạch lo cho thân chủ
qua việc thu xếp tiếp tục tư vấn (với một tư vấn viên mới) cần được
bàn thảo rõ ràng. Tuyệt đối tránh tình trạng đem con bỏ chợ, gây
những khó khăn đến cho thân chủ.
7. Kết thúc dịch vụ tư vấn với ấn tượng tốt

Quá trình chấm dứt tư vấn cần được coi như một việc làm cần
được quan tâm thích đáng. Đây là khâu chuẩn bị quan trọng. Nên
nhớ, kết thúc dịch vụ tư vấn không nên chỉ hiểu một cách đơn giản
như kết thúc một quá trình làm việc dẫn đến những thay đổi và giác
ngộ. Giống như đi máy bay vậy, kết thúc dịch vụ tư vấn chính là quá
trình hạ cánh - đòi hỏi phải được bảo đảm tuyệt đối an toàn.

Chấm dứt hoạt động tư vấn với một thân chủ cần phải được coi
như một bước mở đầu sang một giai đoạn mới của thân chủ - giai
đoạn áp dụng những kinh nghiệm họ đã thu thập được vào đời sống
thực tế. Vì thế phải có chuẩn bị và họ cần được hướng dẫn những
việc cần làm sau khi dịch vụ tư vấn kết thúc.

Cần nhất, nếu có thể được, kết thúc dịch vụ tư vấn khi hai bên
cùng thỏa thuận và nhất trí. Những kinh nghiệm tích cực được ghi
nhận, cả hai đều đồng ý rằng họ đã đạt được những mục tiêu đề ra
trong hợp đồng. Nếu những cuộc tư vấn đã kết thúc trong lạc quan
như mong muốn, điều tư vấn viên nên làm, dựa theo Patterson và
Welfel (1994) là:

- Vạch rõ và ghi nhận nhu cầu của thân chủ và những mong
muốn của họ đã đạt được.

- Ghi nhận rằng quan hệ tư vấn là quan hệ hai chiều, phù hợp
với nhu cầu và nguyện vọng của cả hai bên, khi kết thúc, cả hai
phía đều mãn nguyện.

- Chia sẻ rằng tư vấn viên thật ra cũng có những xúc cảm hỉ,
nộ, ái, ố.
- Mời gọi thân chủ cùng chia sẻ kinh nghiệm cộng tác và cảm
xúc chia tay.

- Chia sẻ kinh nghiệm của tư vấn viên với thân chủ.

- Ôn và điểm lại những khúc quanh, vận dụng những giác ngộ
và kỹ năng mới vào thực tế.

- Chỉ rõ những thành tựu cá nhân thân chủ đã đạt được.

- Động viên thân chủ tiếp tục phát huy và phấn đấu trong thời
gian tới.

8. Chăm sóc nhắc nhở sau kết thúc và thủ tục giới thiệu
tư vấn mới nếu cần

Một tư vấn viên có trách nhiệm sẽ không phủi tay, giũ bỏ tất
cả quan tâm sau khi quan hệ tư vấn đã được chấm dứt. Việc tiếp tục
nâng đỡ thân chủ phải là một phần quan trọng trong quá trình tư
vấn, nó được xem như là quá trình kiểm tra xem thân chủ có thực
sự tiếp tục áp dụng những kỹ năng học hỏi được vào đời sống hiện
tại. Nó thể hiện được sự quan tâm của tư vấn viên đối với thân chủ.
Ngoài ra nó cũng là một dụng cụ giám sát hữu hiệu. Nói khác đi,
quá trình tư vấn là học hỏi. Hành động theo dõi để nâng đỡ thân chủ
là việc đánh giá kết quả của quá trình học hỏi đó xem có hiệu quả
không?

Kế hoạch chăm sóc sau dịch vụ (follow-up): là kiểm tra sau


khi tư vấn chấm dứt được sau 3 đến 6 tháng, tính từ khi tư vấn viên
hoàn tất cuộc hẹn sau cùng với thân chủ. Coemiers (1998) giới
thiệu 4 cách chăm sóc nhắc nhở sau kết thúc tư vấn qua cách:

1. Mời thân chủ đến để thảo luận về những tiến bộ áp dụng


sau khi đã kết thúc quá trình tư vấn.
2. Gọi điện thoại, tuy nhiên cách này chỉ cho phép nói chuyện,
sẽ có hạn chế nhất định vì tư vấn viên không nhìn thấy hết bức
tranh toàn cảnh (nhìn xem thân chủ có vui vẻ không, cách ăn
mặc…)

3. Viết thư, hỏi thăm về hiện trạng sinh hoạt và những tiến bộ
mà thân chủ đạt được.

4. Gửi bản trắc nghiệm đến thân chủ, hỏi về những vấn đề liên
quan, tuy cách này dường như không có vẻ gần gũi cho lắm.

Dù bằng cách nào cũng thế, việc chăm sóc nhắc nhở (follow-
up) sau khi kết thúc dịch vụ tư vấn sẽ giúp thân chủ kiểm chứng
xem họ có thật sự tiến bộ hay không. Đây là một việc làm rất có ý
nghĩa, vì thân chủ có được cơ hội đối chiếu và phản tỉnh. Thân chủ
cung cấp những thông tin sẽ giúp tư vấn viên có thêm nhiều khái
niệm tích cực của quá trình tư vấn. Và tư vấn viên sẽ sử dụng
những kinh nghiệm này trong tương lai với những thân chủ khác.

Giới thiệu tư vấn viên mới (refer client to new counselor):


Khi cần là một việc làm không thể xem nhẹ. Đây là một việc làm thể
hiện tinh thần có trách nhiệm của một tự vấn viên. Có thể việc làm
này ngay sau buổi phỏng vấn đầu tiên (initial interview), nhưng nó
cũng có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau này trong suốt quá trình tư
vấn, bởi vì khi tác dụng trị liệu của tư vấn không đạt được, tư vấn
viên cần giới thiệu thân chủ với một tư vấn viên mới.

Việc giới thiệu tư vấn mới này được thực hiện bởi những lý do
chính sau đây, dựa theo Goldstein (1971):

- Thân chủ có những nan đề mà tư vấn viên không có cách giải


quyết thỏa đáng.

- Tư vấn viên không có kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh


vực thân chủ cần.
- Tư vấn viên biết về một tư vấn viên khác có chuyên môn
nghiệp vụ cao hơn.

- Thân chủ và tư vấn viên có quá nhiều điểm khác biệt về nhân
cách, cá tính, văn hóa xã hội.

- Quan hệ giữa hai bên bế tắc, không phát triển ngay trong lần
đầu tư vấn.

Việc giới thiệu thân chủ với tư vấn viên mới cần chú trọng đến
hai yếu tố then chốt: (1) giới thiệu như thế nào và (2) giới thiệu khi
nào. Yếu tố giới thiệu như thế nào là việc tư vấn viên phải trình bày
được lý do cần thiết của quyết định này, xuất phát từ quan điểm và
tính đạo đức trong nghề. Như thế, thân chủ sẽ dễ chấp nhận và việc
giới thiệu sẽ giúp họ có một ý tưởng tích cực giành cho những tư
vấn viên đồng nghiệp trong tương lai.

Yếu tố giới thiệu khi nào được thực hiện một cách cẩn thận
[không căn cứ dựa vào thời gian lâu hay mau trong quan hệ tư vấn
giữa hai bên]. Khi tư vấn viên cảm thấy quá trình giới thiệu thân chủ
với tư vấn viên mới là cần thiết, anh ta nên xúc tiến ngay. Tuy nhiên
anh ta cần cân nhắc vài điều.

Quan hệ tư vấn càng lâu, thân chủ càng gặp phải những cảm
xúc lưỡng lự, thiếu dứt khoát. Nên nhớ, vì mục đích của giới thiệu tư
vấn mới dựa trên nền tảng tư lợi ích của thân chủ, nên đây là việc
cần làm, kể từ khi tư vấn viên nhận ra khả năng không phù hợp của
mình. Song, với những thân chủ đã có một thời gian làm việc chung,
tư vấn viên nên thu xếp một khoảng thời gian để thân chủ quen dần
với bước ngoặt này trong kinh nghiệm tiến trình tư vấn. Tránh họ
không bị sốc hay bất ngờ.

Ngoài ra, khi tư vấn viên có đủ bằng chứng kết luận rằng quan
hệ tư vấn và tiến độ tư vấn không phát triển, hoặc phát triển quá
chậm chạp, hai bên cần ngồi xuống, cùng tìm ra những lỗ hổng. Sau
đó những phương hướng thực hiện khắc phục được soạn thảo và kế
hoạch thực hiện những bước sẽ đề ra sau đó. Nếu cố gắng thứ hai
vẫn không có kết quả, nhất định giới thiệu thân chủ với tư vấn viên
mới là rất cần thiết.

9. Kết luận

Giống như bao nhiêu tiến trình khác, tư vấn là một tiến trình
có mở đầu và có kết thúc. Song, không giống những tiến trình khác,
tiến trình tư vấn có những kết thúc nhanh hoặc chậm, bởi nhiều lý
do, vì nhiều hoàn cảnh rất khác nhau. Đây cũng là một nét đặc
trưng của nghề Tư vấn. Từ tính đa dạng của vấn đề, tư vấn viên cần
có những kỹ năng và hành động thỏa đáng đối với từng trường hợp
cụ thể.

Trong tư vấn, kết thúc một quan hệ giữa thân chủ và tư vấn
viên luôn đặt ra những cảm xúc gai góc. Tuy nhiên, vì lợi ích của
thân chủ, tư vấn viên có trách nhiệm cần cẩn thận, khéo léo, nhưng
cương quyết thực hiện để việc kết thúc một quá trình tư vấn đem lại
hiệu quả cao nhất, cho cá nhân tư vấn viên và cho cả thân chủ các
thân chủ. Chăm sóc nhắc nhở cho thân chủ là một khâu quan trọng
không thể xem nhẹ - đây là khâu sẽ giúp tư vấn viên xác định xem
thân chủ có áp dụng được kỹ năng mới trong cuộc sống.

Kết thúc dịch vụ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, từ cả hai phía.
Dù với hình thức nào đi chăng nữa, vì trách nhiệm nghề nghiệp, tư
vấn viên cần động viên thân chủ hãy áp dụng những kỹ năng vào
đời sống. Thân chủ cần được nhắc nhở rằng, kinh nghiệm học được
trong tư vấn phải là một kinh nghiệm được sử dụng bởi thân chủ
cho cuộc đời sắp tới của họ.
PHẦN BA
CÁC HỌC THUYẾT ỨNG DỤNG TRONG TƯ VẤN

Chương 8
THUYẾT PHÂN TÍCH TÂM LÝ VÀ

THUYẾT ADLERIAN TRONG TƯ VẤN

1. Dẫn nhập

Tư vấn, theo Patterson (1995) là một quan hệ giao tiếp trợ


giúp giữa hai cá nhân. Điều này cần đến sự tin tưởng và tín thác; vì
thân chủ không chia sẻ những nan đề của họ cho bất cứ ai họ quen
biết trong cuộc sống.

Bốn nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng tư vấn bao
gồm: (1) bản thân nhà tư vấn, (2) thân chủ, (3) môi trường / hạ
tầng cơ sở tư vấn, và (4) học thuyết áp dụng trong tư vấn.

Để làm tốt nghiệp vụ tư vấn, một tư vấn viên cần đánh giá
những giá trị sống, áp dụng triết lý và nhân sinh quan của mình để
chọn lựa một học thuyết phù hợp, nhằm ủng hộ trong quá trình tư
vấn với thân chủ. Vì mỗi học thuyết có một hệ thống bao gồm
những nhãn quan (view) đặc trưng riêng, vì thế khi áp dụng một
học thuyết vào tư vấn, tư vấn viên cần cân nhắc đến khả năng lĩnh
hội và xử lý những hệ tư duy mới trong quá trình tư vấn của thân
chủ.

Nói khác đi, một học thuyết có thể hữu dụng cho người này
nhưng lại không có lợi ích nhiều cho người khác.
Cho đến năm 1994, trên thế giới đã có đến hơn 400 hệ thống
tư tưởng trong tư vấn (Corsilli, 1995). Điều này cho thấy việc sử
dụng các học thuyết khác nhau là một tất yếu. Phần nhiều những tư
vấn viên đi theo bốn nhánh học thuyết chính là:

Phân tích tâm lý (psychoanalytic).

Cảm xúc (affective).

Tư duy nhận thức (cognitive).

Hành vi (behavioral).

Ngoài ra còn những học thuyết khác không dược chú ý lắm
hoặc là một sự pha trộn (eclectism) có chọn lọc các học thuyết
khác, ứng dụng vào tư vấn. Những năm gần đây, sự kết hợp hai học
thuyết tư duy nhận thức và hành vi gộp lại (cognitive- behavioral)
trở thành một học thuyết mới, được đón nhận và sử dụng một cách
rộng rãi.

Chương 8, tập trung vào phân tích tâm lý và những hệ thống


học thuyết khác sẽ được bàn kỹ hơn trong ba chương 9, 10, 11 kế
tiếp.

2. Thuyết phân tích tâm lý cổ điển

Phân tích tâm lý (Psychoanalytic) là hệ thống học thuyết đầu


tiên gây được chú ý trong giới tâm lý. Sigmund Freud là cha đẻ của
học thuyết này. Những nhà tâm lý tiên phong khác như Adler Alfred:
Carl Jung, Albert Ellis, Rolo May, Fritz Perl… đã chịu ảnh hưởng của
Freud. Vì thế, là một tư vấn viên không được trang bị những kiến
thức về khối học thuyết phân tích tâm lý này, có thể coi như là một
tư vấn viên đã thực sự không qua đào tạo có căn bản.
Học thuyết phân tích tâm lý của Freud Sigmund được coi là
học thuyết cổ điển.

Quan điểm về con người của học thuyết này dựa chủ yếu
trên ba khái niệm của hệ thống hoạt động tâm lý trong mỗi con
người bao gồm: ý thức (conscious) tiền ý thức (preconscious), và vô
thức (unconscious). Có thể hiểu:

Ý thức: Là trạng thái tỉnh táo, hoạt động, có thể quản lý và xử


lý tốt môi trường xung quanh. Như việc bạn đang đọc cuốn sách này
là một ví dụ.

Tiền ý thức: Nơi những kỷ niệm trong quá khứ, những kinh
nghiệm đã quên, lẩn quất trong hệ thống tư duy, được gợi lại khi
con người tiếp cận với những kích thích, hoàn cảnh, điều kiện trong
cuộc sống, trung gian giữa ý thức và tiềm thức. Như việc bạn hầu
như quên một món ăn, cho đến một hôm nhìn thấy bà hàng bún,
thế là kỷ niệm chợt ùa về. Hay là khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ
được gợi lại những kinh nghiệm trong đâu đó.

Vô thức: là thành phần (ít được hiểu biết nhất) đóng vai trò
chủ yếu trong việc chi phối những ham muốn, thuộc bản năng, bị
dồn nén, ảnh hưởng đến nhân cách con người. Ví dụ, ai cũng thích
ngồi chơi, ăn sung sướng vậy.

Cũng theo Freud, nhân cách bao gồm 3 thành phần: xung
động vô thức (id), cái tôi, còn gọi cá tính hay là bản ngã (ego), và
siêu ngã (superego). Có thể hiểu tóm tắt:

Xung động vô thức: Thuộc vô thức, thuộc bản năng, chú


trọng vào khoái cảm, chi phối những ham muốn của con người, ngại
khó, chiều xác thịt.

Siêu ngã: Thuộc những phạm trù lý tưởng, lương tâm, điều
thiện, hoàn hảo, tốt tuyệt đối, thánh thiện.
Cái tôi: Trung gian, điều tiết hai thái cực đối lập là xung động
vô thức và tiêu ngã. Giúp cân bằng và quân bình cuộc sống, không
quá dung tục và cũng không quá thánh thiện.

Một khái niệm trong thuyết Freud nhắc đến là những giai đoạn
phát triển tâm - tính dục (psychosexua/ developments stages) của
con người. Tóm tắt những giai đoạn ấy, gồm:

Thời kỳ miệng (Oral stages): Chú trọng đến miệng, như bú,
khóc, liếm, nói - trung tâm điểm với trẻ 1 tuổi.

Thời kỳ hậu môn (Anal stages): Chú trọng đến đi cầu kiết,
bón - trung tâm điểm từ đến 2 tuổi.

Thời kỳ bộ phận sinh dục nam (Phallic stages): Chú trọng


đến việc nhận định giới tính - từ 3 đến 5 tuổi, trong thời kỳ này, hội
chứng ghét bố và thích mẹ nơi trẻ nam (Oedipus complex) và hội
chứng thích có dương vật nơi các trẻ em nữ (Electra complex)
thường xảy ra.

Thời kỳ tiềm tàng (Latency stages): Tập trung vào bạn bè


xung quanh, tính dục không có những tập trung gắt gao - từ 6 đến
12 tuổi. Trẻ tập trung vào học tập, kết bạn, kỹ năng học tập.

Thời kỳ bộ phận sinh dục (Genital stages): ở thanh niên - tỏ


thái độ và thích quan hệ tính dục với người khác. Từ tuổi dậy thì trở
đi đến hết phần cuộc đời còn lai.

Theo Freud, mỗi thời kỳ cần được phát triển hoàn thiện mới
qua thời kỳ khác, cao hơn. Nếu không tuân theo tiến trình nhịp
nhàng, một cá nhân sẽ vấp phải tình trạng liệt, dẫm chân (fixated);
một trạng thái bức bí, có ảnh hưởng đến hình thành nhân cách. Khi
lớn lên các cá nhân ấy phải vận dụng những cơ chế tự vệ (defense
mechanism) trong thời điểm họ trưởng thành. Phần nhiều, những cơ
chế tự vệ này là không lành mạnh.
Với Freud, những biểu hiện hành vi bất bình thường (abnormal
behavior) của một cá nhân là do việc họ sử dụng những cơ chế tự
vệ như những van xả trong sinh hoạt hàng ngày. Một điều đáng
buồn là những cơ chế tự vệ này gây ra những khó khăn trong sinh
hoạt cá nhân và ảnh hưởng đến quan hệ giữa con người với nhau
(ảnh hưởng đến người xung quanh)..

Cơ chế tự vệ là hậu quả khi cá nhân còn bé đã gặp trở ngại


trong quá trình phát triển bình thường các thời kỳ phát triển tâm -
tính dục (nêu trên). Dưới đây là những cơ chế tự vệ được Anna
Freud (1936) đưa ra:

- Ức chế (repression): Nguồn gốc căn bản (làm nền móng) để


những cơ chế tự vệ khác phát triển, Cá nhân tập trung vào việc đẩy
hoặc cố tình chôn giấu những cảm xúc, kinh nghiệm đau thương vào
hệ tư duy kín, không dám dối diện với chúng. Chôn chặt nỗi đau vào
lòng.

- Gạt/ gán cho người (projection): Cá nhân gán cho người


khác những cảm xúc mà cá nhân đang thực sự có. Ví dụ. Tớ ghét
chủ, nhưng nghĩ là chủ ghét mình.

- Tạo phản ứng ngược lại (reaction formation): Cá nhân từ


chối cảm xúc tiêu cực, khó chịu đang có, và cố hành xử với cảm giác
ngược lại, như có vẻ tích cực, dễ chịu với hiện tại. Ví dụ, ghét ăn
khoai nhưng lại nói thích khoai, thích anh A nhưng lại chối rằng
mình không thích anh A này lắm.

- Hoán vị (displacement): Cá nhân có thói quen giận cá chém


thớt, bực người này đổ cho người khác, ghét việc này bỏ việc khác.
Ví dụ: Bực bội với chủ, về đánh chửi con cái ở nhà.
- Thoái lùi (regression): cá nhân thích quay về quá khứ, hoài
cổ, ngại tiến về phía trước. Ví dụ, cứ gặp khó khăn ở phố thị là lại
muốn dọn về quê để sống.

- Biện hộ, hay còn gọi hợp lý hóa (rationalization): Cá nhân


tìm cách hợp lý hóa những việc làm vô lý. Ví dụ: Mượn rượu để giải
sầu. Thực ra là để trốn tránh thực tế, đánh đề như chuyện thử thời
vận may mắn.

- Phủ nhận (denial): Cá nhân không chịu nhìn nhận thực tế.
Ví dụ, vợ chồng ly dị nhưng không chịu thừa nhận họ đã hết thương
nhau, nghèo nhưng vẫn xài sang, cố tình không chấp nhận hoàn
cảnh khó khăn, thích giữ kẽ.

- Sắm vai (identification or sublimation)): Cá nhân áp đụng


những cái hay, tích cực của người khác với mình để bỏ đi cảm giác
sợ hãi họ. Ví dụ, trẻ ghét thầy giáo, nhưng vẫn chịu khó học, để
tránh bị phạt. Người thích bạo lực, nên chọn nghề đấu võ đài chuyên
nghiệp.

Theo Freud, tư duy và hành xử của cá nhân là sản phẩm của


tác động qua lại giữa ý thức và vô thức, giữa xung động vô thức và
siêu ngã. Những trục trặc trong giai đoạn phát triển tâm - tính dục
là nguyên do nảy sinh những hành vi trái ngược, lập dị xảy ra.

Vì thế tư vấn viên sử dụng học thuyết của Freud cần có một
chuyên môn nghiệp vụ rất cao. Họ khai thác kỷ niệm thời thơ ấu và
thường sử dụng ghế sô-pha, văn phòng đèn mờ, thân chủ nằm
nhắm mắt, kể ra tất cả những gì họ suy nghĩ, nhiệm vụ của tư vấn
viên là ghi chép những mục đề có nội dung liên hệ quan trọng; được
đánh giá như là những dấu hiệu dẫn đến những hành vi khác thường
(abnormal behavior) của thân chủ. Vai trò của tư vấn viên là để cắt
nghĩa những nội dung đáng lưu ý trong quá trình nói chuyện tự do
ấy (free association).

Mục tiêu của phân tích tâm lý là đưa đến những thay đổi
những hành vi bằng việc chế ngự những xung động bản năng. Thân
chủ được lý giải về nguyên nhân của những trục trặc trong quá khứ,
từ đó họ hiểu được căn nguyên, tuy không sống lại được quá khứ,
họ có thể sửa đổi nó, vẫn có thế thu lượm những điều bổ ích cần
thiết khi nguyên do của vấn đề đã được giải thích.

Kỹ thuật chủ yếu bao gồm:

Nói tự do (free association): Thân chủ nói tự do về mọi sự, tư


vấn viên ghi chép, sau đó lý giải và phân tích các nội dung với thân
chủ. Thân chủ được khích lệ nói chuyện lan man về tất cả những gì
đến trong đầu.

Phân tích giấc mơ (dream analysis): Thân chủ sẽ kể cho tư


vấn viên nghe về những giấc mơ. Tư vấn viên sẽ giải thích nội dung
giấc mơ cho thân chủ. Bởi một lý do đơn giản, những ai theo Freud
đều nghĩ rằng giấc mơ đến từ vô thức, nên giấc mơ rất quan trọng
với tư vấn viên trong quá trình giúp đỡ thân chủ. Họ chú trọng đến
nội dung giấc mơ, hình ảnh thường gặp trong mơ, mơ thấy ai, thấy
cái gì, thấy mình làm gì, và tính lập đi lập lại của những giấc mơ có
quan hệ.

Phân tích sắm vai (analysis of transference): Thân chủ nói


chuyện với tư vấn viên như thể tư vấn viên là một người thân trong
gia đình của thân chủ, (hay bất cứ một người nào đó) có dính líu
đến những trục trặc trong quá khứ. Từ đó tư vấn viên sẽ tìm ra mấu
chốt của những nguyên cớ.

Phân tích những chống đối (analysis of resistance): Khi tự


thân chủ tỏ thái độ bất hợp tác, như bỏ hẹn, từ chối kể về giấc mơ,
cãi lại, phá bĩnh, lớn tiếng… tư vấn viên cần khai thác những hành vi
này, để tìm ra những cội rễ của bức xúc.

Cắt nghĩa (interpretation): Là một kỹ thuật quan trọng. Tư


vấn viên sử dụng kỹ thuật này để tạo ra sự liên kết giữa những sự
kiện trong quá khứ và hiện tại. Liên hệ giữa mầm mống của những
hành vi và biểu hiện khác thường sẽ được giải thích. Tư vấn viên sẽ
vạch ra tại sao thân chủ ứng xử theo một lối nhất định nào đó.

Thuyết phân tích tâm lý (psychoanalytic) mặc dù có những


đóng góp lớn cho kho tàng tâm lý, song tính phổ thông trong ứng
dụng trong tư vấn của nó ngày càng có ít người thực hiện. Cơ bản vì
nó mất quá nhiều thời gian và đòi hỏi tư vấn viên phải thật sự có
kinh nghiệm chuyên môn. Trong khi đó xu hướng hôm nay người ta
đặt tư vấn vào quan hệ văn hóa xã hội nhiều hơn: một điều mà
thuyết phân tích tâm lý đã không đào sâu.

3. Tư vấn theo phái Adlerian

Quan điểm về con người của học thuyết Adlerian nhấn mạnh
rằng: Con người luôn được cử động bằng những quan tâm trong xã
hội (social interest) trong đó con người có nhu cầu muốn trở thành
một thành viên có ý nghĩa trong xã hội và vì thế họ có nguyện vọng
đóng góp cho xã hội.

Mỗi cá nhân, theo quan điểm của nhóm Adlerian luôn có nhu
cầu và xu hướng thăng tiến để trở thành hoàn thiện hơn (need to be
perfect). Nếu không được đáp ứng, cá nhân sẽ trở nên nhụt và mắc
phải những hội chứng cảm thấy mình lép vế, vô dụng. Trong đời
sống đã có nhiều người đặt ra yêu cầu thăng tiến quá cao, họ
thường vấp phải hội chứng muốn trở thành siêu nhân. Trong đó,
theo Alder cá nhân đã tiểu thuyết hóa (fictionalize) mục tiêu cuộc
sống đến độ trở thành bệnh lý (neurotic fiction).

Adler tin rằng hành vi và động cơ của con người chịu ảnh
hưởng của cả quá khứ (past) và tương lai (future). Ông cũng nhấn
mạnh phần lớn cá tính của một con người phụ thuộc rất nhiều vào
thứ tự sinh ra trong gia đình (birth order). Theo ông thì ai cũng nằm
một trong những nhóm đại diện: con đầu lòng, con thứ hai, các con
giữa, con út, và con độc nhất.

Sau đây là đặc tính của những đứa con sinh ra tùy theo thứ tự,
dựa theo Adler:

Con đầu lòng (first born): Giống như hoàng tử, nhận được
nhiều chăm sóc của cha mẹ. Họ thành công, thành đạt, có óc dẫn
đầu, hài lòng, nguyên tắc. Tuy nhiên, họ cảm nhận được nỗi đau khi
đứa trẻ thứ hai ra đời, vì bị xuống ngôi (dethroned).

Con thứ hai (secondborns): Vật lộn với người anh chị sinh ra
trước, thường trái ngược với anh, chị cả về đủ mọi đức tính. Họ dễ
cởi mở, dễ dãi, và nhất là không lo đến nỗi đau bị thay thế (truất
phế).

Con thứ (middle children): Thường có cảm giác bị nhồi nhét,


mắc kẹt (squeezed) vào gia đình, họ cảm thấy lép vế, cần phấn
đấu, họ khéo léo trong thương lượng, vì nhu cầu sinh tồn, mong tìm
được cái họ cần.

Con út (youngest child): Là trẻ sinh ra sau cùng, được mọi


người quan tâm, dễ bị làm hư vì được chiều chuộng. Một số cá nhân
muốn thoát khỏi cảm giác mãi mãi là bé nhất, khi họ không muốn là
trẻ con nữa. Điều này có thể gây ra những khó chịu không lành
mạnh.
Con một (only child): Trẻ không có anh em hoặc trẻ sinh ra
cách anh chị khác 7 năm được coi thuộc diện này. Họ hưởng những
đặc lợi như con đầu lòng và của con út. Không phải tranh giành. Họ
có trí tưởng tượng phong phú, do phải chơi một mình. Họ rất thoải
mái với người lớn. Nhiều em được nuông chiều quá, có thể khi lớn
lên khó hòa nhập trong xã hội.

Môi trường sống thơ ấu (living environment): Adler cũng


nhấn mạnh môi trường sống trong 5 năm đầu tiên của trẻ có ảnh
hưởng rất lớn đến cá tính và nhân cách của cá nhân. Vì thế môi
trường gia đình không tốt sẽ rất có nguy hại đến tinh thần lành
mạnh của một cá nhân, chẳng hạn như môi trường độc quyền, đàn
áp, hằn học, tranh giành, cãi vã. Nếu trẻ may mắn lớn lên trong gia
đình có hòa khí, yêu thương, quan tâm, đùm bọc… em sẽ trở thành
một thành viên tốt trong xã hội khi lớn lên.

Tiểu thuyết cuộc đời (life script): Theo phái Adlerian, hành vi
và ứng xử của cá nhân thường bị chi phối bởi những tiểu thuyết
chính họ viết về họ, dựa trên những đánh giá về bản thân và môi
trường xung quanh họ đang sống. Mosak (1995) đã kê ra 5 hình
thái tiểu thuyết cuộc đời, là:

Ba phải (overgenalizing): thái độ coi mọi hoàn cảnh cuộc sống


đều giống nhau. Cố gắng cũng chẳng ăn thua gì. Trên thực tế đây là
không đúng. Thái độ phấn đấu và nỗ lực cá nhân sẽ cải thiện được
hoàn cảnh.

Mục tiêu không thể đạt và mục tiêu ảo (False or impossible


goals of security). Họ cố gắng bằng mọi giá, sống, để làm đẹp lòng
mọi người vì muốn được ăn toàn. Trên thực tế, điều này không có.
Con người cần có tinh thần xây dựng thông cảm, nhưng cần có thái
độ yêu ghét rõ ràng. Anh không thể luồn cúi mãi được và không thể
làm vừa lòng 2 hay nhiều người trong cùng một lúc.

Quan điểm sai lệch về cuộc sống và nhu cầu của cuộc
sống (Misperceptions of life and life's demands): Tin rằng cuộc sống
không bao giờ cho phép họ giải lao. Trên thực tế, làm gì, là ai,
chúng ta không thể mãi vận hành như cỗ máy không nghỉ ngơi. Họ
tham việc và sợ vui chơi giải trí. Cuộc sống vì thế mà mất đi sự
quân bình.

Xem nhẹ hoặc không có tự tin về khả năng của bản thân
(minimization or denial of one’s worth): Họ tin rằng phấn đấu của
con người không bao giờ đạt kết quả. Trên thực tế, cuộc sống luôn
mỉm cười với bất cứ ai không bỏ cuộc, chăm chỉ, yêu lao động và có
tự tin. Nhiều người bao giờ cũng nghĩ rằng mình sẽ chẳng bao giờ
thành công cả.

Giá trị sai lệch (faulty values): Cho rằng họ luôn là người
quan trọng trước nhất, bằng mọi giá. Trên thực tế, nhiều lúc con
người cần vui vẻ với trách nhiệm và vai trò của họ, bất kể trách
nhiệm và vai trò ấy đặt chúng ta ở những địa vị khác nhau nào
trong xã hội. Họ tin rằng cứ phải xuất sắc mới là tốt. Trên thực tế,
làm tốt chính là có trách nhiệm, hoàn thành bổn phận và chu toàn
công việc của mình.

Vai trò của tư vấn viên với lối tiếp cận Adlerian khá phong phú,
họ giống như người chẩn đoán, thầy giáo, bạn hữu, và những vai trò
trợ giúp khác, với mục tiêu chủ yếu là góp nhặt những dữ kiện về
thân chủ, tìm ra những lỗ hổng trong sai phạm, từ đó cùng với thân
chủ làm việc để khắc phục những lỗ hổng ấy.

Bài tập (homework): Là những yêu cầu từ nơi tư vấn viên,


giành cho thân chủ như là một công cụ phản tỉnh suy nghĩ và tập áp
dụng kỹ năng mới. Trong những bài tập này, thân chủ sẽ học cách
nhìn đời bằng cách khám phá những thay đổi khi họ làm khác đi
(new ways to behave).

Nếu như (as if): Là một bài tập có tính khái niệm, nó giúp
thân chủ khám phá ra cuộc sống không duy nhất chỉ có một cách cư
xử cứng nhắc. Tư vấn viên sẽ giúp họ chắt lọc lấy giải pháp hữu
hiệu nhất. Ví dụ, thân chủ sẽ tập hỏi mình:

Nếu như… thì đã sao nào?

Nếu như thế… có gì khác hơn chứ?

Nếu như thế… tại sao mình lại không…

Mục tiêu của tư vấn theo phái Adlerian: Giúp người ta phát
triển đời sống lành mạnh và sống một cuộc sống toàn diện. Thân
chủ được giáo dục để từ bỏ những tư duy sai lệch như tư tướng
không tin vào cuộc sống, không tín thác vào bản thân, và như thế
sẽ dẫn đến như khả năng nội tại nơi cá nhân. Tư vấn viên phái
Adlerian cổ động thân chủ sống lành mạnh và có trách nhiệm với
bản thân họ và với xã hội.

Tư vấn viên Adlerian, theo Dreikurs (1967) vạch ra, họ cần:

- Cần tạo ra và duy trì quan hệ bình đẳng trong quan hệ tư


vấn với thân chủ.

- Giúp thân chủ phân tích đời sống và lối sống của họ.

- Cắt nghĩa lối sống của thân chủ, từ đó giới thiệu những áp
dụng lành mạnh.

- Cải tạo và giáo dục thân chủ, song song với những hành
động lành mạnh cụ thể - đưa lý thuyết áp dụng vào thực hành.
Kỹ thuật sử dụng chính trong tư vấn theo phái Adlerian
bao gồm:

- Chất vấn/đối đầu trong tinh thần xây dựng


(confrontation): Tư vấn viên giúp thân chủ có được cơ hội phản tỉnh
và suy nghĩ kỹ hơn về hệ tư duy cũ của họ. Và từ đó thân chủ sẽ
tránh bỏ những tư tưởng lệch lạc.

- Hỏi câu quan trọng (asking "the question"): Tư vấn viên


tranh thủ mọi lúc để hỏi thân chủ: Nếu bạn làm khác đi và điều đó
làm bạn vui vẻ, đó là điều gì? Câu hỏi này sẽ giúp thân chủ nhận ra
chân lý từ những quan sát trong quá trình phản tỉnh (feedback).

- Cổ động thân chủ (encouragement): Cho thân chủ thấy


rằng họ cần có mềm tin vào bản thân và với xã hội. Đây là nét chính
trong tư vấn, kiến tạo và xây dựng khung tư duy lưới, đây là bước
quan trọng trong việc hướng tới thay đổi đời sống.

- Hành động “nếu như” (acting “as if”): Cho thân chủ cơ hội
được đối chất giữa con người thực và con người siêu thực, để họ
nhận ra sự khác biệt. Từ đó rút ra chân giá trị của cuộc sống bình
dị, nhưng vui vẻ.

- Tẩy chay việc làm sai của thân chủ (Spitting in the
client’s soup): Tư vấn viên vạch rõ những hành vi sai lạc có ảnh
hưởng đến tiến trình kiến tạo đời sống hiệu quả khi thân chủ cố đi
tìm ý nghĩa cao đẹp trong cuộc sống. Nghĩa đen là nhổ vào bát súp
đang ăn của thân chủ. Anh ẹ lắm cơ!

- Biết dừng lại (catching oneself): Tư vấn viên giúp thân chủ
tự biết kiềm chế, hãm phanh, từ bỏ những hành vi có hại, ban đầu
là lý thuyết, nhưng sau đó là những thực hành cụ thể.
- Đặt ra việc cần làm (task setting): Thân chủ được khuyến
khích những điều tốt cần làm, bắt đầu từ những việc nhỏ dễ làm,
sau chuyển sang những việc to tát, phức tạp khó làm hơn.

- Bấm nút (push button): Thân chủ được khuyến khích tận
dụng mọi điều kiện, hoàn cảnh, sau đó với cảm xúc thành thật,
nhiệt tình, xây dựng tinh thần cố gắng để biến tất cả những điều
kiện, cơ hội và hoàn cảnh trong cuộc sống để thăng tiến đời sống
của mình.

Thuyết Adlerian nhấn mạnh đến tính xã hội và tinh thần vươn
lên của cá nhân. Theo ông, con người tự thân đã có ý thức vươn lên.
Song vài tư tưởng lệch lạc, khúc xạ cần được điều chỉnh lại. Thuyết
này được coi là quá chung chung, nói chuyện huề vốn. Và đôi khi
thân chủ nghĩ rằng thuyết này quá đơn giản.

4. Kết luận

Trong chương này, hai thuyết phân tích tâm lý hàng đầu của
Freud và Adlerian được giải thích và trình bày. Tất nhiên, khi áp
dụng vào nghiệp vụ tư vấn; tư vấn viên cần chọn lọc để tìm được
thân chủ thích hợp với hai học thuyết này là điều quan trọng. Vì
không phải ai cùng lĩnh hội và nắm bắt được những tư tưởng và
hướng dẫn, đôi khi trừu tượng, xa xôi hơn với những sinh hoạt hàng
ngày.

Tư vấn viên cần thiết giới thiệu sơ sơ một cách khái quát về
những giá trị và thủ pháp của từng học thuyết mà tư vấn viên cảm
thấy thích hợp với thân chủ. Khi thân chủ có một khái niệm về
những gì đang xảy ra, họ sẽ chủ động hơn trong việc cộng tác với tư
vấn viên.
Cần nhắc, chất lượng tư vấn phải là nỗ lực chung - một phần
rất lớn của chất lượng tư vấn đến từ cố gắng của thân chủ. Hơn thế
nữa, thân chủ có quyền được biết về thủ pháp trong quá trình trợ
giúp mà họ đang tìm đến. Vì thế tư vấn viên cần giải thích cho thân
chủ biết về học thuyết mình sử dụng - như thế thân chủ sẽ có nhiều
nỗ lực đóng góp hơn.

Chương 9
THUYẾT TƯ VẤN TẬP TRUNG - CON NGƯỜI THUYẾT HIỆN
SINH VÀ THUYẾT TÂM LÝ HỌC HÌNH THÁI

1. Dẫn nhập

Trong Chương 8, chúng ta đã đề cập đến thuyết phân tích tâm


lý và thuyết Adlerial trong nghiệp vụ tư vấn. Trong chương này,
chúng ta sẽ đề cập đến 3 thuyết đại diện cho nhóm học thuyết chủ
trương làm việc với thân chủ trên mặt xúc cảm (affective).

Theo nhóm này, cảm xúc (tình cảm) là những tác nhân quan
trọng có ảnh hưởng đến tư duy nhận thức và hành động của một cá
nhân. Không ai dám quả quyết chính xác rằng tư duy nhận thức đưa
đến cảm xúc hay cảm xúc là khởi nguồn của tư duy nhận thức. Tất
nhiên qua thời gian, nhóm học thuyết cảm xúc đã thâu lượm được
những gặt hái rất đáng kể.

Vì thế Chương 9 sẽ cung cấp cho tư tấn viên những tham khảo
như một cố gắng thiết thực, nhất là trong bối cảnh tư vấn đa dạng,
phục vụ con người - những sinh thể có nhu cầu rất lớn về cảm xúc
và những vấn đề xoay quanh cảm xúc.
Nhóm tư vấn viên với thuyết cảm xúc này tin rằng, khi cảm
xúc của thân chủ được thay đổi, họ sẽ dễ dàng bắt tay vào xây dựng
cuộc đời họ nhiều hơn. Họ tin tưởng cảm xúc tích cực khi nhìn vào
cuộc sống sẽ có ảnh hưởng tích cực đến hành vi con người. Tuy
nhiên cần chú ý, thuyết cảm xúc cũng có những hạn chế nhất định,
vì thế khi ứng dụng, cần phải chọn thân chủ phù hợp với những học
thuyết này.

2. Thuyết tư vấn tập trung - con người

Quan điểm con người: Người khai sáng cho thuyết này là
Carl Rogers. Theo ông, con người về căn bản là tốt, có lòng thiện.
Chính xác hơn, họ là những cá nhân "tích cực, có óc hướng tới, có
tinh thần xây dựng, thực tiễn, đáng tin cậy". Họ có khả năng thăng
tiến và trở nên hoàn thiện. Ông đề xướng con người ngay từ nhỏ đã
có những đức tính sau:

- Trẻ ấu thơ nhìn thấy cuộc sống như thực tế và cách chúng
nhìn vào cuộc sống là một quá trình nội tâm, ít có người chú ý đến.

- Tất cả trẻ ấu thơ được sinh ra với xu hướng hoàn thiện, và sẽ


đạt được khi có hướng dẫn bằng những hành động cụ thể của người
lớn.

- Trẻ ấu thơ tiếp cận với cuộc sống như một tổng thể, toàn
diện, mọi ứng xứ của trẻ là những tác động hỗ tương nội tại phong
phú.

- Kinh nghiệm của trẻ ấu thơ về tính hướng thiện tùy thuộc
vào mức độ ảnh hưởng của những hành động hướng đất. Ở thời kỳ
còn bé, trở thành một kinh nghiệm tích cực hay tiêu cực.
- Trẻ ấu thơ giữ kinh nghiệm hướng thiện và tránh những tư
tưởng khác.

Theo Rogers, tính hướng đến hoàn thiện là động cơ thúc đẩy
cá nhân con người tồn tại, nó giúp con người kiểm soát tất cả những
hành vi của họ để trở thành con người toàn diện.

Cũng theo ông, điều quan trọng nhất với một cá nhân là vũ trụ
quan (world view) của họ với những hiện tượng cuộc sống. Những
sự kiện và tự bản thân chúng thật ra không quan trọng lắm - con
người mới là yếu tố quan trọng. Ông nhấn mạnh đến khái niệm bản
thân (self). Khái niệm bản thân là kết quả của những cảm nghiệm
và trải nghiệm thu lượm được bởi những cá nhân.

Khái niệm bản thân (self): Được lớn lên và phát triển theo
chiều hướng tốt đẹp, nó cần đến những tác động tích cực như, tình
thương yêu, sự chào đón ấm áp, thái độ quan tâm, lòng tôn trọng,
và sự đón nhận chân thành. Trẻ em và cả người lớn rất cần đến
nhưng tác động tích cực này. Song, trên thực tế, những tác động
tích cực này thường được cho đi một cách có điều kiện. Nghĩa là cá
nhân phải phấn đấu để đạt được tình thương, được chấp nhận.

Khái niệm bản thân lý tưởng (ideal self): Là con người lý


tưởng mà mọi cá nhân khao khát muốn vươn đến. Đây là khái niệm
khác với khái niệm bản thân đời thực (real self) là con người bình
thường vẫn gặp trong cuộc sống.

Vai trò của tư vấn viên: Theo Rogers là tạo được một môi
trường thật tốt để niềm tin của thân chủ vào cuộc sống được bén rễ.
Đây cũng là một việc làm đầy thử thách, vì đối diện với cuộc sống
hiện tại, những gì tư vấn viên khởi xướng xem ra quá lý tưởng, khó
lòng đạt được. Vì thế, nhiệm vụ chủ yếu của tư vấn viên là người gợi
ý chứ không đóng vai trò chỉ đạo. Nói khác đi, họ là người đồng
hành. Thân chủ mới là người quyết định trong tiến trình tự khám
phá mình, dựa trên những gợi ý của tư vấn viên.

Mục tiêu của tư vấn: Theo hướng đi của Rogers nhắm đến là
tập trung vào tổng thể con người. Hành vi của cá nhân không là
trung tâm của quá trình tư vấn. Tư vấn viên phải tin rằng khi con
người có đầu óc và tư duy lành mạnh, hành vi của anh ta tất nhiên
sẽ trở nên lành mạnh. Để làm được việc này, thân chủ được khuyến
khích tránh sử dụng những cơ chế tự vệ (defense mechanisms - đã
bàn trong Chương 8). Họ cần ý thức được quá trình nhìn vào bản
thân, khám phá bản thân, và thăng tiến bản thân là công tác quan
trọng.

Kỹ năng sử dụng trong tư vấn tập trung vào con người thay
đổi theo lịch sử của thuyết này.

Những năm 1940 - 1950, thuyết có chủ trương không lôi kéo -
mà chỉ thuyết phục có lý lẽ, cố tình tạo ra một môi trường đón nhận
(accepting environment), một quan hệ thân thiện và sử dụng chủ
yếu là giải thích và cắt nghĩa.

Thời điểm 1950 - 1957, tư vấn viên tiếp tục duy trì quan hệ tốt
với thân chủ, tập trung vào phản ảnh những cảm xúc và cảm giác
của thân chủ, nhắm tới tính trị liệu, không chỉ đơn thuần là môi
trường đón nhận (accepting environment) như thập kỷ trước.

Giai đoạn 1957 - 1980 giới thiệu thêm tính đồng cảm
(empathy) với thân chủ, tinh thần quan tâm tích cực, và cả thái độ
chân thành (không phân biệt vai trò tư vấn viên hay thân chủ).

Từ năm 1980 đến nay, phần lớn trong quan hệ tư vấn theo
thuyết này cần có:

- Hai bên xây dựng quan hệ trong bối cảnh trị liệu tâm lý.
- Thân chủ, là người bình thường, đang gặp khó và rất lo lắng.

- Tư vấn viên phải thành thật, hăng hái, thiết tha muốn trợ
giúp, có chuyên môn.

- Tư vấn viên phải giành tất cả những quan tâm, thật tích cực,
không điều kiện (unconditional). Thân chủ trong mắt tư vấn viên
luôn luôn là người tốt.

- Tư vấn viên phải đồng cảm (empathy) được với nội tâm của
thân chủ, sau đó truyền tải cảm nghiệm của tư vấn viên đến với
thân chủ.

- Những thảo luận phải là quan hệ hai chiều.

- Quan tâm tích cực không điều kiện (uncondition) được khai
thác triệt để, thường xuyên. Bất luận hành vi của thân chủ như thế
nào.

3. Tư vấn với thuyết hiện sinh

Người dẫn đầu thuyết này là Rolo May và Victor Frankl.

Quan điểm về con người: Thuyết hiện sinh chủ trương con
người tạo nên cách sống của mình dựa trên những chọn lựa
(choices). Thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào quyết tâm
xem con người có dốc hết sức để đeo đuổi lựa chọn do mình đã đặt
ra không.

Yếu tố quyết tâm (desire) trong theo đuổi lựa chọn của mình
rất cao trong thuyết hiện sinh. Thuyết này tôn trọng chọn lựa cá
nhân (personal choice). Họ quan niệm con người chính là tác giả
(author) cuốn sách của cuộc đời họ.
Họ khẳng định con người hoàn toàn có khả năng ý thức được
trách nhiệm của những chọn lựa. Tất nhiên trong cuộc sống, có
những chọn lựa không được lành mạnh như những chọn lựa khác.
Tư vấn viên theo thuyết này tin tưởng con người vốn có tính sáng
tạo (creative), tận tụy đến lợi ích của người khác (caring), thân
thiện (warm), và có tính hướng thiện (actualization).

Thuyết hiện sinh, theo Frankl (1962), ý nghĩa cuộc sống luôn
thay đổi - nhưng không biến mất hoàn toàn (change but not
ehminate). Đời sống có nghĩa còn vượt qua cả giới cảnh hoàn thiện.
Con người được mời gọi trong ba cấp độ tồn tại (1) trong một trật tự
ở quy luật vận hành của vũ trụ, (2) với ý nghĩa của giây phút tức
thời trong một bối cảnh đặc biệt, và (3) trong ý nghĩa của cuộc sống
bình thường hàng ngày.

Das (1998) nêu ra rằng ý nghĩa cuộc đời có thể khám phá theo
ba cách:

- Làm một việc có ý nghĩa: đạt thành tựu ở một lĩnh vực nào
đó, chạy maratông, viết một cuốn sách, đi du lịch châu Phi…

- Kinh qua một giá trị lớn: trong tình yêu, gương cuộc sống,
văn hóa, kỳ quan thiên nhiên.

- Trải qua đau khổ: đối diện với những mất mát không thể cứu
vãn được.

Vai trò của tư vấn viên trong thuyết hiện sinh: Chủ yếu
ghi nhận rằng mỗi một thân chủ là một cá nhân đặc biệt, vì thế
không có một tiêu chuẩn nào cố định. Vì thế tư vấn viên cần nhạy
cảm với tất cả những tình huống khả dĩ có thể xảy ra. Tư vấn viên
cần trung thực với thân chủ ở mức tối đa. Các chia sẻ cảm nhận cá
nhân được khuyến khích để tăng cường tính khắn khít trong mối
quan hệ, nhất là khi thân chủ đang gặp những trở ngại lớn ở cuộc
sống.

Buhler và Allen (1972) khuyến khích tư vấn viên sử dụng


thuyết hiện sinh cần tập trung đầu tư nhiều cố gắng vào quan hệ
giữa hai bên, để tăng thêm tính hỗ tương, nhắm đến mục tiêu tiến
bộ, và phát triển tính nhất quán trong tư vấn.

Das (1998) chủ trương tư vấn viên cần làm gương để thân chủ
có thể tìm được cảm nhận riêng cho họ, tìm được khả năng xử lý, để
họ áp dụng những khám phá mới.

Mục đích của thuyết hiện sinh: Giúp thân chủ tìm thấy giá
trị của ý nghĩa cuộc sống - có tinh thần trách nhiệm - cảnh giác và
năng động - tự do cá nhân trong chọn lựa khả năng nội tại và vốn
quý trong mỗi cá nhân.

Trung tâm của tư vấn sử dụng thuyết hiện sinh nằm trong ước
muốn rằng thân chủ sẽ tìm thấy ý nghĩa của trách nhiệm - với bản
thân họ và với xã hội xung quanh. Thân chủ được mời gọi trong tiến
trình nhận ra ý nghĩa của giá trị tồn tại trong cuộc sống. Họ được
giải phóng khỏi những quan sát và kỳ vọng của người khác
(expectation of others), hoàn toàn có khả năng tồn tại và làm việc,
đóng góp và quan tâm đến chính họ và xung quanh.

Tính chủ động và tinh thần trách nhiệm được thân chủ rút ra
từ quá trình tư vấn có sự đóng góp lớn của tư vấn viên. Thân chủ sẽ
ý thức được giá trị của bản thân. Bước kế tiếp xa hơn là khuyến
khích thân chủ hãy tận dụng khả năng và đóng góp những đức tính
cá nhân trong việc giúp đỡ xã hội. Đây là một điểm mạnh, cần thiết,
vì công việc có ích cho xã hội luôn đem lại những phần thưởng tích
cực (positive rewards) cho những ai quan tâm cộng tác.
Kỹ thuật tư vấn trong thuyết hiện sinh: Rất đơn giản, so
với những thuyết khác. Đây, dù ngạc nhiên, lại là mặt mạnh, vì nó
thúc đẩy tư vấn viên trong việc vay mượn có chọn lọc kỹ thuật từ
những mô hình tư vấn khác. Họ sợ một mô hình kỹ thuật cứng nhắc
có thể gây phương hại đến tiêu chí của thuyết hiện sinh.

Tư vấn viên được kêu mời trong việc tích cực vạch ra những
nhu cầu bức xúc của thân chủ trong bối cảnh đa dạng, nhiều mặt
của cuộc sống phong phú. Sau đó tập trung trong bối cảnh riêng với
cá nhân, giúp thân chủ rút ra kinh nghiệm cá nhân. Tư vấn viên cần
chú ý đến khả năng nhận thức của từng thân chủ một, để có những
vận dụng thích hợp.

Nhắc nhở thân chủ rằng, trong đời sống cá nhân và đời sống
chung ở xã hội luôn có những điều tốt, đáng yêu, đáng trân trọng,
mang tính nhân văn căn bản. Đi tìm ý nghĩa cuộc sống và chân lý
đòi hỏi nỗ lực và cố gắng. Để làm tốt việc này, tư vấn viên cần
mạnh dạn chia sẻ và thổ lộ lòng mình (self-disclosure), như một ví
dụ làm gương (model) cho thân chủ, trong việc thẩm định và đánh
giá kinh nghiệm bản thân họ.

Tư vấn viên cần làm sáng tỏ về những điểm mâu thuẫn với
tiến trình chữa lành (healing process). Thân chủ cần luôn được nhắc
nhở họ có trách nhiệm sống tốt. Đó không phải là một lựa chọn đơn
thuần mà là một lựa chọn có tính mệnh lệnh - một nghĩa vụ, mọi
người được mời gọi tìm được ý nghĩa sung mãn trong cuộc sống.

4. Thuyết tâm lý hình thái trong tư vấn

Thuyết hình thái (gestalt theory): Có khởi điểm từ tâm lý


hình thái chú trọng đến tính hoàn thiện và tính nhất quán trong tư
duy và hành vi. Hình thái (gestalt) ở đây có nghĩa là một tổng thể
hoàn chỉnh. Fritz Perls là người tiên phong cho học thuyết này.

Quan niệm chính của thuyết hình thái là mọi ứng xử và hành vi
của con người đều xuất phát từ tổng thể cuộc sống của họ (bao gồm
toàn diện những khía cạnh chủ quan và khách quan). Thân chủ cần
được giải thích rằng thái độ và cư xử của họ nên được hiểu trong bối
cảnh bức tranh lớn của cuộc sống cá nhân.

Quan điểm về con người của thuyết hình thái: Con người
sống và làm việc vì mục đích muốn trở nên hoàn thiện và tìm thấy
tính nhất quán trong đời sống của họ. Mỗi cá nhân sẵn có tính
hướng đến hoàn thiện được hình thành từ quá trình sống, tiếp cận
với môi trường xung quanh, đồng loạt xảy ra với việc khám phá
chính bản thân.

Với thuyết này, tính hoàn thiện nằm trong thời điểm hiện tại
(here and now), chứ không là một quá trình phấn đấu (striving
process) để đạt tới. Thuyết này đề cao tính thông minh khôn ngoan
nằm sẵn trong hệ tư duy của mỗi cá nhân. Vì thế, cá nhân có thể sử
dụng vốn quý của mình, sống có tiếp cận chủ động với mọi khía
cạnh của cuộc đời, nhằm tạo ra những hiệu quả thiết thực, tìm thấy
ý nghĩa hoàn thiện ngay từng thời điểm sống.

Như thế, cá nhân không nên phân tích và chia ra thành những
mặt mạnh hoặc mặt yếu nhỏ. Mỗi cá nhân nên được nhìn vào như
một tổng thể, có tốt có xấu, tác động hỗ tương lên nhau. Cá nhân
được mời gọi ứng xử trong tinh thần tôn trọng, trân quý và phát huy
cái hay cái đẹp, nhìn nhận và hiểu được những cái xấu, như một
phần tất yếu của cuộc sống.

Cuộc sống là một quà tặng. Đây cũng chính là quan điểm của
thuyết này, nếu nói một cách tóm lại. Như thế cá nhân phải là người
có tinh thần chủ động, chứ không phải là người thụ động, chỉ biết
phản ứng trước những diễn biến trong xã hội. Vì thế, trong mọi lúc,
họ luôn đối phó và xử lý cuộc sống một cách chủ động, tích cực, kịp
thời.

Nan đề xảy ra khi cá nhân ỷ lại vào người khác và không có


tinh thần sử dụng sự hiểu biết và khả năng xử lý của mình. Cá nhân
vì không sử dụng khả năng hoặc chưa nhìn thấy khả năng của mình,
về mặt tình cảm và phán đoán kém, nên họ tự hạn chế mình trong
những hòa nhập với cuộc sống sôi động.

Theo thuyết hình thái, cá nhân gặp những nan đề trong cuộc
sống thông thường vì những nguyên do như:

- Mất liên lạc với môi trường và những nguồn cung cấp.

- Quá bận rộn với môi trường đến độ không còn thời gian cho
bản thân mình.

- Không thể gạt được những việc chưa hoàn tất qua một bên,
nên bị đắp mô, nghẽn tắc, bối rối.

- Mất hướng và lạc lối vì quá nhiều sự kiện xảy ra cùng một
lúc.

- Bị kẹt giữa cái họ nghĩ mình phải làm (topdog) và cái họ


muốn làm (underdog).

- Có khó khăn trong xử lý những vấn đề với hai vế (như tình


yêu và căm ghét, từ thiện và độc ác, thật thà và xảo trá…) Nên họ
bị tắc nghẽn.

Vai trò của tư vấn viên trong tư vấn hình thái: Là tạo ra
một môi trường để thân chủ phát hiện ra đâu là mặt yếu để họ khắc
phục. Để làm tốt, tư vấn viên cần nghiêm túc và thật nhiệt tình với
vai trò của mình. Tư vấn viên phải thể hiện được tính năng động,
xốc vác, hăm hở, não trạng luôn tập trung vào thời điểm tức thời,
nghĩa là năng lượng chỉ dồn vào việc xử lý nan đề. Giải quyết từng
việc một, tránh lo lắng mình sẽ không đủ thời gian giải quyết mọi
việc.

Levitsky và Perls (1970) đề ra vài nguyên tắc cho tư vấn viên


thuyết hình thái, gồm:

- Nguyên tắc hiện tại (the principle of now): Chỉ sử dụng


cách nói tập trung vào hiện tại.

- Xưng hô cụ thể (I and You): Gọi và xưng hô, tôi và bạn,


tránh nhắc đến người thứ ba, cần cụ thể trong xưng hô. Ví dụ, sẽ
nói: Tôi buồn. Không nói: Cô ấy làm tôi khó chịu.

- Nhấn mạnh đại từ nhân xưng tôi (The use of I): Sử dụng
đại từ tôi trong mọi trường hợp. Ví dụ không nói bụng đau, mà nói:
Tôi thấy đau bụng. Hoặc không nói trời nóng quá, mà nói: Tôi thấy
nóng bức.

- Tập trung vào quá trình giác ngộ (the use of an


awareness continuum): Không chú trọng đến tại sao chuyện xảy ra;
nhưng tập trung vào cái gì bị ảnh hưởng, và bị ảnh hưởng như thế
nào. Vì tại sao (why) là phạm trù thuộc về quá khứ, trong khi cái gì
(what) và như thế nào (how) là những phạm trù của hiện tại.

- Hoán đổi câu hỏi thành câu nhận định (conversion of


questions): Yêu cầu thân chủ đổi câu hỏi sang câu nhận định. Ví dụ:
Tôi có thể ăn cái bánh này? - được đổi thành: Tôi muốn ăn cái bánh
này. Thể hiện chính xác tính hiện tại trong tiêu chí của thuyết hình
thái.

Mục đích của thuyết hình thái: Tập trung vào khái niệm chỗ
này và ngay bây giờ (here and now) và tính nóng bỏng của kinh
nghiệm tức thời (immediacy of experience) trong bối cảnh trực tiếp
với môi trường. Cá nhân sẽ được giúp đỡ để hoàn thiện phát triển trí
tuệ, tính kết hợp các cảm xúc, tư duy nhận thức, và hành vi có trách
nhiệm trong bức tranh toàn cảnh của điêu kiện hiện tại, từ đó cách
nhìn vào thực tế được thiết lập.

Công thức tóm tắt: Hiện tại = Kinh nghiệm = Ý thức = Thực tế
được sử dụng để tóm tắt mục đích của thuyết hình thái.

Perls (1970) nêu ra trong mỗi cá nhân có 5 lớp vỏ, là:

- Lớp vỏ giả tạo (phony layer): cá nhân không nói thật, đùa
tếu, pha trò, thiếu nghiêm túc.

- Lớp vỏ lo sợ (phobic layer): Không muốn bị nhận diện với


những điều mình không muốn, vì thế sợ đối diện với người khác khi
họ nhìn thấy chân tướng sự việc.

- Lớp bế tắc (inlpasse layer): Lo lắng không biết họ có hội


nhập được với cuộc sống.

- Lớp nổ vào (implosive layer): Cá nhân vấp vào tình trạng


sầu muộn lo âu, chán nản - tự gây khó cho bản thân.

- Lớp nổ tung ra (explosive layer): Cá nhân phá vỡ được lớp


nổ vào trở bên bừng sức sống, vui vẻ, tràn ra những cảm xúc buồn,
lo, đau khổ, vì thế mà họ trở nên thực tế và thành thực hơn.

Kỹ thuật trong tư vấn hình thái: Chủ yếu là bài tập và thí
nghiệm (experiment). Bài tập thường là những hoạt cảnh đã được
biên soạn. Tư vấn viên và thân chủ sẽ thay phiên nhau sắm vai. Từ
những đối thoại qua lại, dựa trên những hoạt cảnh nói trên, thân
chủ và tư vấn viên sẽ tìm ra được ý nghĩa để thiết lập nhưng kinh
nghiệm cá nhân. Ngoài ra còn có những thí nghiệm không được
soạn sẵn; thường là những kinh nghiệm tình cờ trong giao tiếp giữa
thân chủ và tư vấn viên. Những kinh nghiệm này đến bất ngờ,
nhưng được ghi nhận và thảo luận, trở thành thí nghiệm.

Giấc mơ của thân chủ được thảo luận nhưng không có sự cắt
nghĩa giống như thuyết phân tích tâm lý. Giấc mơ chỉ cung cấp dữ
liệu, nếu như có liên hệ quá rõ ràng với nan đề. Quá nhiều giấc mơ
về một đề tài, cho thấy, đề tài đó có thể đã nói rõ hơn về hiện trạng
của nan đề.

Một kỹ năng khác là cái ghế trống (empty chair), trong đó có


hai cái ghế, một để trống, thân chủ sẽ sắm hai vai, một đại diện cho
mặt tốt (tích cực) và một cho mặt xấu (tiêu cực), sau đó anh ta sẽ
thay đổi ghế; một cái ghế cho vai kẻ xấu và một cái ghế cho vai
người tốt. Những đối thoại, tất nhiên thường là người tốt thắng
cuộc, như thế thân chủ sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm
rất tốt. Một hạn chế là thân chủ phải được khích lệ thật nhiều. Vì
đây là một cách làm bài tập có vẻ rất khác người.

5. Kết luận

Trong Chương 8, phân tích tâm lý được khai thác, áp dụng


trong tư vấn, đem so sánh với 3 thuyết tập trung vào cảm xúc và
kinh nghiệm sống: thuyết về tập trung - con người, thuyết hiện sinh
và thuyết hình thái, ta thấy ngay sự khác biệt.

Phân tích tâm lý và Adlerian nhấn mạnh đến thiết kế lại những
tư duy, trong khi 3 thuyết về con người, hiện sinh, và hình thái tập
trung vào yếu tố cảm xúc, với những ảnh hưởng của cảm xúc trong
tư duy và hành vi, thông qua kinh nghiệm họ được giác ngộ trong
quá trình tư vấn.

Ba thuyết vừa nói trên đòi hỏi tư vấn viên phải luôn nhiệt tình,
gắn bó với thân chủ, coi họ là những nhân vật có những tiềm ẩn tích
cực, như có xu hướng hoàn thiện, khả năng sống tốt, và những ưu
điểm khác. Họ rất cần được khơi dậy, nhận ra, và vận dụng những
mặt mạnh ấy trong bối cảnh xã hội hiện tại.

Tuy những thuyết này không đề ra một hệ thống kỹ năng nào


rõ ràng, ngoại trừ một nét chung là ba học thuyết này đề cao đến
bài tập. Điều này có nghĩa kinh nghiệm là một quá trình tiếp cận
thường xuyên. Nên nhớ, đây chỉ là những học thuyết. Là tư vấn
viên, chúng ta cần ý thức mình có trách nhiệm chọn một học thuyết
hay tổng hợp một cách có chọn lọc từ nhiều học thuyết khác nhau.
Cần nhớ, tư vấn viên phải chọn học thuyết phù hợp với khả năng
tiếp thu của thân chủ; như thế hiệu quả tư vấn đạt được mới cao.

Chương 10
THUYẾT HÀNH VI – TÌNH CẢM – HỢP LÝ VÀ THUYẾT PHÂN
TÍCH THỎA HIỆP

1. Dẫn nhập

Khác với tư vấn liệu pháp sử dụng thuyết phân tích tâm lý,
thuyết Adlerian, thuyết tập trung- con người, thuyết hiện sinh, và
thuyết hình thái; trong Chương 10 này, thuyết Hành vi- Tình cảm
hợp lý và thuyết Phân tích Thoả hiệp là hai học thuyết áp dụng
trong tâm lý sẽ được bàn thảo.

Nhận thức (cognitive) là suy nghĩ, niềm tin và những hình ảnh
lưu lại trong hệ thống tư duy của cá nhân trong quá trình tiếp cận
với cuộc sống. Xuất phát từ niềm tin: cái nhìn đối với thực tế xã hội
được ảnh hưởng bởi đúc kết trí tuệ qua kinh nghiệm, hai thuyết
Hành vi- Tình cảm- Hợp lý và thuyết Phân tích Thoả hiệp tập trung
chủ yếu vào tiến trình xây dựng và giúp cá nhân có một trí tuệ lành
mạnh.

2. Thuyết Hành vi - Tình cảm - Hợp lý

Một điều mà nhóm học thuyết trí tuệ, tinh thần quyết tâm
nhắm đến là chuỗi phản ứng mà họ rất tin tưởng rằng:

Nhận thức  Cảm xúc  Hành vi

Và như thế, theo Burns (1980) nói, mọi cảm xúc tiêu cực đều
bắt nguồn từ nhận thức sai lệch. Họ rất tâm đắc với câu nói của
Shakespeare trong vở kịch Hamlet: “Không có chuyện xấu hay tốt
nhưng chỉ có suy nghĩ khiến mọi chuyện trở thành xấu hay tốt.”

Vài nét chung của tư vấn dựa trên nền tảng nhận thức

Trước hết, theo Hackney và Cormier (1996), thân chủ có thể


được áp dụng trong tư vấn nhận thức (cognitive) tối thiểu phải có:

- Trí thông minh từ trung bình trở lên.

- Họ phải có một nan đề tương đối phức tạp, nan giải, nhất là
một hành vi không lành mạnh.

- Họ có khả năng xác định và xử lý, và áp các ý tưởng và cảm


tưởng.

- Họ không có những triệu chứng tâm lý lâm sàng


(psychotics).

- Họ có thiện chí và khả năng làm bài tập (yêu cầu của tư vấn
viên homework) có hệ thống và đòi hỏi khả năng tư duy, lý luận.

- Họ có khả năng khéo léo trong xử thế và đối đáp.

- Họ có thể xử lý thông tin ở cấp độ nghe nhìn bình thường.


Tư vấn nhận thức (cognitive counseling): Cho rằng sửa đổi là
quá trình điều chỉnh hệ thống suy nghĩ của cá nhân, được phân ra
làm ba loại: (a) nhận thức lạnh, (b) nhận thức ẩm, và (c) nhận thức
nóng. Để dễ liên tưởng so sánh, ví dụ sau đây cố gắng minh họa:
Một người vừa bị thất nghiệp. Sau đây là 3 đại diện nhận thức vừa
được đề cập:

- Nhận thức lạnh: Tôi mất việc! Đã sao nào.

- Nhận thức ấm: Mình mất việc. Chắc phải đi kiếm một việc
làm mới.

- Nhận thức nóng: Á! Không thể như thế. Mất việc chỗ ấy ư.
Ta sẽ tìm một việc y như thế hoặc hơn ở những chỗ khác. Cứ tưởng
là báu lắm đấy!

Vì tư vấn nhận thức đòi hỏi những thao tác phức tạp, một
chiến lược trong quá trình tư vấn cần được chú trọng đến. Theo
Burns (1989) và Schuyler (1991), chiến lược đó cần được xây dựng
nhằm giúp thân chủ thay đổi cách nghĩ, cần có:

- Sử dụng một hướng dẫn chuẩn xác để cá nhân tự liệt kê ra


những hành vi cụ thể trong cuộc sống.

- Ghi chép hoặc phản ảnh suy nghĩ của cá nhân về những sự
kiện trong cuộc sống một cách chính xác rõ ràng.

- Tìm một cách giúp cá nhân dễ nhận ra những suy nghĩ vặn
vẹo, sai lạc. Cá nhân cần có khả năng hình tượng hóa những khái
niệm trừu tượng.

- Giúp cá nhân áp dụng những cách suy nghĩ mới sát với thực
tế và có hiệu quả. Chú trọng đến áp dụng vào hành động.

3. Nhận thức trị liệu của Beck


Do Aaron Beck khởi xướng, theo ông, cá nhân có những suy
nghĩ bệnh hoạn (dysfunctional thoughts) là những người thiếu thực
tế (unrealistic) và sống không có hiệu quả (unproductive life). Theo
Beck, tư vấn viên cần tập trung vào 6 loại hình nhận thức bị khúc xạ
(cognitive distortions), gồm:

- Suy luận một chiều (arbitrary inferences): Gò bó trong tư


duy, cứng nhắc trong cách nghĩ, mọi công việc sẽ không có giải
pháp nào khác.

- Chọn lọc lầm lẫn (selective abstractions): Có những ý


tưởng trừu tượng không phù hợp thực tế, luôn đánh giá những diễn
biến cuộc sống một cách thiếu thực tế.

- Mọi chuyện đều thế cả (overgeneralization): Sẽ không có


cơ hội tốt hơn, ai cũng là người xấu cả, đi đâu cũng thất bại cả.

- Thổi phồng hoá (magnification and minimization): Coi


chuyện xấu là quá lớn, và chuyện tốt lại quá nhỏ. Dẫn đến những
đánh giá sai lạc về bản thân và người khác - tôi kém quá, chẳng có
gì đặc biệt.

- Tự làm khó mình (personalization): Cho rằng mọi chuyện


tiêu cực xảy ra đều do lỗi của cá nhân, cho mình là nguyên nhân
của mọi chuyện khó chịu và những thất bại trong cuộc sống.

- Suy nghĩ lưỡng cực (dichotomous thinking): Gò bó trong


tuy duy, nếu không tốt sẽ tự động xấu, nếu không lỗi ở họ ắt lỗi
mình. Không thành công có nghĩa là thất bại.

4. Trị liệu qua hành vi tình cảm hợp lý (Rational Emotive


Behavioral)

Đây là cách trị liệu được khởi xướng bởi Albert Ellis.
Quan điểm về con người của thuyết này: Chủ trương con
người vốn có thể suy nghĩ hợp lý và bất hợp lý; họ có thể tỉnh táo và
sai lệch. Hai trạng thái này tồn tại song song và hành động của cá
nhân thường phản ánh điều kiện môi trường. Môi trường thuận lợi,
con người suy nghĩ rất minh mẫn. Khi môi trường xấu, tư tưởng của
họ trở nên hạn chế cứng ngắc. Chỉ khi một khung tư duy mới được
nhận thức rõ ràng, con người mới có thể xử lý mọi tình huống một
cách hợp lý, tỉnh táo.

Niềm tin phi lý (irrational beliefs): Dẫn đến những ý tưởng


bực bội và khó chịu, gây khó cho cá nhân. Theo Ellis, niềm tin bất
hợp lý (phi lý) có dính líu đến 3 trạng trái khó chịu trong cảm xúc.

- Tôi phải làm tốt mọi việc, vì người thân kỳ vọng tôi như
thế - trong khi tôi không thể làm được vì tôi có quá nhiều hạn chế
và việc ấy ngoài khả năng. Kết quả là: cảm giác lo lắng, chán nản,
buồn phiền, hèn kém, càng dẫn đến những bế tắc khác.

- Người thân phải đối xử tốt với tôi - nếu không làm thế,
họ là những con người xấu, ích kỷ, nhỏ mọn… Kết quả là: cảm giác
giận dữ, bất bình, tôi phải trả đũa, giận cá chém thớt.

- Tôi phải sống đàng hoàng tử tế - nếu không, thật đáng


sợ, đời chẳng đáng sống, tôi bị đối xử không công bằng - ai cũng
muốn tôi phải là con người gương mẫu. Kết quả: khó chấp nhận
cuộc sống, dễ nổi quạu, cáu bẳn, xa lánh mọi người.

Ellis không đề cập đến giai đoạn phát triển nơi con người,
nhưng ông tin rằng trẻ con rất dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường xung
quanh, ông tin rằng con người vốn cả tin và dễ bị lung lạc, và cũng
dễ có xung động. Trong mỗi cá nhân đều có những khả năng kiểm
soát cảm tưởng, suy nghĩ, và hành vi. Theo ông ý thức và nhận thức
là những yếu tố quan trọng trong hệ thống tư duy (thinking
system), có ảnh hưởng trực tiếp đến biểu hiện của mỗi cá nhân.

Vai trò của tư vấn viên: Trong thuyết của Ellis yêu cầu phải
năng động và có tinh thần chỉ đạo. Họ là những thầy giáo, hướng
dẫn thân chủ trong việc thay đổi những suy nghĩ sai lạc. Thân chủ
thường có những phát biểu với nội dung (content) phản ánh suy
nghĩ sai lạc, nên tư vấn viên phải biết lắng nghe để ghi chép những
phát biểu ấy, sử dụng chúng như những tư liệu cho các bài tập sau
này.

Ellis (1980) đề nghị một tư vấn viên áp dụng theo thuyết này
cần có những đức tính sau: Thông minh - có kiến thức biết đồng
cảm - biết tôn trọng - thành thật - cụ thể - có quyết tâm - có đầu óc
khoa học - hứng thú trong việc giúp đỡ người khác - tận tâm với
nghề.

Vì thân chủ trong liệu pháp nhận thức đòi hỏi phải có một tình
trạng ổn định về sức khỏe tâm thần, và một mức độ trí tuệ nhất
định, tư vấn viên vì thế cũng cần có kiến thức về chẩn đoán và thẩm
định, đánh giá khả năng của một thân chủ.

Mục tiêu của tư vấn nhận thức: Theo Ellis, giúp thân chủ
hiểu rõ rằng họ có thể sống lành mạnh hơn qua việc suy nghĩ hợp
lý, và vì thế cuộc sống của họ sẽ sung mãn, trọn vẹn, đầy đủ ý
nghĩa hơn. Nói khác đi, tư vấn nhận thức giúp thân chủ điều chỉnh
lại tư duy lệch lạc, vốn dẫn đến những cảm xúc tiêu cực và hành vi
sai quấy.

Giống như Epictetus, ở thế kỷ thứ I đã nói: "Con người không


phiền muộn vì sự việc ở đời, họ phiền muộn vì cách họ nhìn chúng".
Theo Ellis, con người tự biến mình trở thành nạn nhân bằng cách
nghiêm trọng hóa, thần tượng hóa, lý tưởng hóa cuộc sống qua các
cụm suy nghĩ như:

Tôi phải thế này…

Tôi nên thế kia…

Ông ta đáng lẽ phải…

Bà ấy phải…

Họ nhất định cần phải…

Những cụm tư duy sai lạc này biến những nhu cầu bình thường
trở thành những đòi hỏi gay gắt - thiếu thực tế. Sau đó nhưng việc
bình thường trớ thành quá xấu, không đủ tốt tôi thất bại, họ quá
quắt… Thế là con người trở thành yếu thế, chán nản, bực dọc, bức
xúc… Họ bị nhiễm hội chứng PHẢI (must syndrome), một hội chứng
đã vặn xoắn hệ tư duy trở thành lệch lạc, bệnh hoạn.

Vì thế, mục tiêu chính của tư vấn nhận thức là giúp cá nhân
sửa đổi, chấn chỉnh lại những cụm tư duy sai lệch, đưa họ trở về với
những lối suy nghĩ chuẩn xác, lành mạnh.

Nhiều chuyên gia đã thống nhất với nhau rằng suy nghĩ sẽ dẫn
đến cảm xúc. Suy nghĩ về những kinh nghiệm có thể được phân loại
ra làm 4 nhóm: tích cực - tiêu cực - trung lập - và trộn lẫn. Như thế:

- Suy nghĩ tích cực dẫn đến cảm xúc tích cực.

- Suy nghĩ tiêu cực dẫn đến cảm xúc tiêu cực.

- Suy nghĩ trung lập dẫn đến cảm xúc trung lập.

- Suy nghĩ lẫn lộn dẫn đến cảm xúc lẫn lộn.

Mô hình biểu diễn quan hệ sự kiện có tác động lên tư duy và


tình cảm của con người:

Sự kiện xảy ra  Quá trình tư duy  Hệ quả tình cảm


Mô hình này cho chúng ta thấy tóm tắt về quá trình tại sao sự
kiện trong cuộc sống có thể trở thành những cảm xúc khác nhau.
Những sự kiện xảy ra trong cuộc sống luôn đi vào hệ tư duy của con
người. Hệ tư duy sẽ xử lý những thông tin vừa được thu nạp được. Ở
đây có hai trường hợp, nếu bộ xử lý tư duy đúng đắn, lành mạnh,
cảm giác được sinh ra sẽ đúng đắn, lành mạnh, và ngược lại. Dưới
đây là mô hình trình bày hai hệ xử lý tư tuy khác nhau:

Sự kiện  Bộ xử lý tư duy tốt  Cảm xúc tốt

Sự kiện  Bộ xử lý tư duy xấu  Cảm xúc xấu

Đến lượt cảm xúc tốt sẽ dẫn đến hành vi tốt. Mô hình có thể
được miêu tả, như sau:

Sự kiện  Xử lý tốt  Cảm xúc tốt  Làm tốt

Sự kiện  Xử lý kém  Cảm xúc xấu  Làm không tốt

Kỹ thuật trong tư vấn nhận thức chủ yếu là dạy (hướng


dẫn) và tranh luận. Trước khi bắt tay vào tư vấn, thân chủ cần được
giải thích và hiểu cặn kẽ về từng khâu, từng bước trong cả quá
trình. Họ phải được giải thích sự liên hệ giữa suy nghĩ tốt sẽ dẫn đến
cảm xúc tốt, và sau đó là hành vi tốt. Đây là liệu pháp có tính giáo
dục và tính chỉ đạo rất cao. Vì thế thân chủ cần phải tập trung cao
độ và thật sự có tinh thần cộng tác, thực hiện tất cả những đề nghị
của tư vấn viên một cách triệt để.

Tranh luận về nhận thức là quá trình tư vấn viên hỏi thẳng
(ask directly) để đánh giá những trả lời của thân chủ. Một hình thức
câu hỏi rất hiệu nghiệm là hỏi: Tại sao (why), ví dụ:

Tại sao anh nghĩ thế?

Tại sao anh phải trốn tránh nói chuyện với con trai?

Tại sao họ cần sự trợ giúp của anh?


Tại sao anh sợ vợ của mình?

Nhờ thế, tư vấn viên sẽ đánh giá được tiến độ điều chỉnh hệ
thống tư duy của thân chủ khi họ đưa ra những lý do tại vì
(because) cho những câu hỏi tại sao (why). Tư vấn viên sẽ phân tích
từng lý do tại vì của thân chủ một cách cụ thể. Chọn lọc những lý do
tại vì tốt. Còn những lý do tại vì sai, lệch lạc, sẽ được thay thế bởi
những tại sao không nên làm khác đi, chẳng hạn như… Đây là quá
trình thiết kế lại khung tư duy (thinking system).

Có thể sử dụng suy diễn (syllogisms) để giúp thân chủ nhận ra


chân lý, ví dụ như:

Thân chủ: Tôi ghét làm việc với người nước ngoài.

Tư vấn viên: Họ cũng là người chứ, anh có nghĩ thế không?

Thân chủ: Nhưng họ khác lắm.

Tư vấn viên: Tôi cũng đã làm việc với người nước ngoài, khi tôi
còn là sinh viên.

Thân chủ: Rồi sao nữa?

Tư vấn viên: Tôi đã làm việc với họ. Họ cũng là người. Và tôi
nghĩ họ có thể hiểu và thông cảm được. Chỉ cần anh cho họ và tự
cho mình chút thời gian.

Có thể sử dụng tranh luận về hành vi (behavioral


disputation): Trong trường hợp thân chủ có hành vi khó chấp nhận
được. Điều này có thể thực hiện được khá thuận lợi khi hai người
đang thực tập đóng kịch, dựa trên những hoạt cảnh đã được soạn
sẵn.

Chất vấn trong tinh thần xây dựng (confrontation): Và cổ


động thân chủ cũng rất hữu hiệu. Trong quá trình tái thiết lại hệ tư
duy (lối suy nghĩ), khi thân chủ có những hệ tư duy không lành
mạnh, tư vấn viên cần sử dụng chất vấn trong tinh thần xây dựng,
cho đến khi tư duy thích hợp (appropriate thinking) được thân chủ
nắm bắt. Trong trường hợp, thân chủ có tư duy tốt, tư vấn viên nên
cổ động và ủng hộ họ, như thế thân chủ sẽ hứng thú hơn trong tư
vấn, và họ sẽ sử dụng nó nhiều hơn, điều này sẽ trở thành một thói
quen tích cực.

Bài tập (homework): Là những câu chuyện có hoạt cảnh


(theme) do tư vấn viên đề xuất. Thân chủ sẽ đem về nhà, suy nghĩ
kỹ, cân nhắc, chọn lựa giải pháp tối ưu, sau đó hai bên ngồi xuống,
đối chiếu và đánh giá những mẩu xử lý của thân chủ. Thao tác này
sẽ giúp thân chủ có thêm những kinh nghiệm mới, điều này có
những tác động tích cực trong việc điều chỉnh lại khung tư duy của
họ.

5. Thuyết phân tích thỏa hiệp trong tư vấn


(Transactional Analysis)

Khởi xướng bởi Eric Berne, là một thuyết xây dựng trên nền
tảng tư duy nhận thức. Theo thuyết này, quan hệ trong cuộc sống
giống như một cuộc đối thoại. Vì thế thái độ của những người trong
cuộc đối thoại sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự lành mạnh của
quan hệ ấy.

Quan điểm về con người của thuyết phân tích thỏa hiệp
nhắm vào tính lạc quan trong cuộc sống. Họ tin rằng con người có
thể phục hồi một quá khứ, bất kể tình trạng của quá khứ ấy như thế
nào. Họ cho rằng con người có quyền lựa chọn. Những lựa chọn này
có thể được sửa đổi, nếu có nhu cầu. Thuyết này ủng hộ việc mỗi cá
nhân đều bình đẳng và có thể tín thác nơi bản thân họ, suy nghĩ độc
lập cho riêng họ, quyết định cho họ, và có quyền phát biểu cảm
tưởng của mình.

Có bốn phương pháp sử dụng trong thuyết phân tích thỏa hiệp,
là:

- Phân tích hệ cấu trúc (structural analysis): Tìm hiểu những


gì đang diễn ra trong thế giới nội tâm của thân chủ.

- Phân tích sự giao tiếp (transactional analysis): Mô tả chính


xác những gì đang xảy ra giữa hai người.

- Phân tích những bông đùa (game analysis): Tìm hiểu


những giao dịch giữa hai bên dẫn đến những cảm xúc tiêu cực vì
lạm dụng những câu nói đùa.

- Phân tích kịch bản cuộc đời (script analysis): Tìm hiểu kế
hoạch cuộc đời mà thân chủ đang sống.

Với phân tích hệ cấu trúc: Berne cho rằng cái tôi là một quá
trình lưu trữ một cách cố định với những cảm xúc và kinh nghiệm có
liên hệ khắng khít với hành vi. Theo ông, mỗi cá nhân được coi như
mang trong họ 3 cái tôi:

- Cái tôi trẻ con (child ego): Cá tính non nớt, hiếu kỳ, muốn
được chiều, ích kỷ, ác ý, thích đùa, hay dỗi, thích vòi vĩnh.

- Cái tôi phụ huynh (parent ego): Có tính ra lệnh, lo xa quá


mức, quan tâm quá mức cần thiết, thích lên lớp, hay chỉ trích.

- Cái tôi người lớn (adult ego): Cá tính trung dung, khách
quan, xử lý trên bình diện thu thập tư liệu, dữ kiện, tôn trọng, hòa
đồng, trưởng thành.

Trong cuộc sống, nếu chúng ta biết sử dụng cái tôi thích hợp
đúng lúc, đúng trường hợp, đúng đối tượng, quan hệ giữa hai cá
nhân, với những người khác sẽ diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Tất nhiên
đây không phải là trường hợp khả thi trong mọi tình huống, với mọi
cá nhân. Rất nhiều lúc cá nhân đã sử dụng sai cái tôi của mình và
sử dụng cái tôi không thích hợp. Điều này đưa đến những căng
thẳng trong cuộc sống, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.

Với phân tích giao tiếp: có 3 hình thái giao tiếp là:

- Giao tiếp có bổ sung (complementary transaction): Trong


trường hợp này, hai cá nhân trong quan hệ tiếp cận nhau trong
cương vị tương đồng, bình đẳng, như:

- Cái tôi trẻ con gặp cái tôi trẻ con: vui vẻ hòa nhã, dễ dãi,
thoải mái.

- Cái tôi trưởng thành gặp cái tôi trưởng thành: nghiêm túc tôn
trọng, công việc.

- Cái tôi phụ huynh gặp cái tôi phụ huynh: có thể xây dựng và
có thể chỉ trích. Tùy theo quan hệ và nội dung trọng quan hệ.

Tất nhiên những giao tiếp theo hệ này thường dẫn đến những
diễn biến có thể tiên đoán trước được.

- Giao tiếp chéo (crossed transaction): Gây khó chịu cho hai
phía vì đây là thể loại giao tiếp không thích hợp, thiếu bình đẳng,
tôn trọng, dẫn đến:

- Cái tôi trẻ con gặp cái tôi trưởng thành: phải mất nhiều thời
gian để giải thích, vì không đồng nhất về quan điểm, cách nghĩ.

- Cái tôi trẻ con gặp cái tôi phụ huynh: có thể gây ra những
trái ngược về yêu cầu, kỳ vọng, và quan điểm, mục đích (giống như
giữa cha mẹ và con cái).

Nói khác đi, những quan hệ này luôn gặp những căng thẳng và
trở ngại do tính hòa hợp thấp, thiếu sự cân đối nhịp nhàng giữa hai
đối tác.
- Giao tiếp hiểu ngầm (ulterior transaction): Khi hai đối tác
hoàn toàn có thể tin tưởng, gần gũi vì họ đã hiểu ngầm với nhau
rằng: chúng ta giống nhau, nên có thể làm việc với nhau dễ dàng,
thường là chỉ có hai hình thái:

- Cái tôi trẻ con gặp trẻ con: chúng ta sẽ chơi chung, làm theo
lối trẻ.

- Cái tôi trưởng thành gặp cái tôi trưởng thành: tôi hy vọng
rằng chúng ta sẽ hợp tác trên tinh thần hai bên cùng có lợi.

Còn trường hợp 2 bên đều là cái tôi phụ huynh, có thể sẽ có
những chỉ trích, bảo thủ… (giống như hai vợ chồng ngoài đời thực).

Phân tích những bông đùa: Nhằm tìm hiểu và phân tích
những giao tiếp vui vẻ bề mặt, nên nếu có những lấn cấn ngầm,
quan hệ không được xử lý sẽ trở thành xấu đi. Nếu không được điều
chỉnh kịp thời, tất sẽ dẫn đến những hậu quả khó chịu trong tương
lai. Bông đùa (playing) giúp con người tránh được những căng thẳng
trong chốt lát và để đạt được những mong muốn, tìm sự an toàn,
trốn tránh trách nhiệm… Về lâu dài, tất nhiên không ai muốn mình
thiệt thòi, mâu thuẫn vì thế khó tránh khỏi. Bông đùa có 3 cấp cộ
là:

- Cấp độ vô thưởng vô phạt: Những bông đùa xã giao, vô


thưởng vô phạt, với mọi người, tác hại nhẹ. Mất mặt, giận, bực, nghỉ
chơi…

- Cấp độ vừa: Xảy ra với những người thân, bạn bè, và sự


kiện ở mức trung bình, tác hại có thể từ đáng kể đến nghiêm trọng.
Không muốn nói chuyện, giận lắm.

- Cấp độ nghiêm trọng: Xảy ra với người thân, bạn bè khi sự


kiện liên quan đến những phạm trù nghiêm túc, tác hại từ nghiêm
trọng đến nguy hiểm. Bực bội, điên loạn, căm hận, trả thù…
Phân tích kịch bản cuộc đời: Berne tin tưởng rằng mỗi cá
nhân xây dựng cho mình một kịch bản cuộc đời từ khi còn rất trẻ,
khoảng 5 tuổi. Trẻ sử dụng kịch bản này để tiếp cận với xã hội, dựa
trên nhãn quan chúng thu thập từ môi trường sống thực tế. Nên
những thông điệp tích cực (positive message) từ người lớn hay
những thông điệp tiêu cực (negative message) sẽ có những ảnh
hưởng lên tư tưởng của trẻ. Cần biết, những thông điệp tiêu cực
thường có tác dụng lớn hơn. Ví dụ, nghe mắng sẽ nhớ lâu hơn là
được khen. Bài học cho mỗi chúng ta, khen ba lần chỉ bằng chê một
lần.

Một khái niệm khác trong tư vấn trên nền tảng giao tiếp gọi là
vuốt (stroke) là những lời khen và những ủng hộ (vuốt tích cực).
Chê trách hay phản đối cũng là một dạng vuốt (vuốt tiêu cực). Nên
nhớ, vuốt tiêu cực (negative stroke) sẽ vẫn hơn là không có bất cứ
một dạng vuốt nào. Vì như thế sẽ dẫn đến trạng thái dồn nén.
Berne gọi đấy là nhưng con tem (stamps) giống như của người sưu
tầm tem. Để đến một lúc nào đó, khi bị dồn nén quá mức, cá nhân
sẽ quay ra phá bĩnh, suy sụp, có biếu hiện tiêu cực thái quá.

Dưới đây là những xu hướng viết sai kịch bản (kế hoạch dự
định cho cuộc đời):

- Không bao giờ cả (never script): Cá nhân không bao giờ có


cố gắng vì không tin vào bản thân, họ bị ngăn cản, không có ai ủng
hộ, điều kiện sống quá thiếu thốn, hạn chế. Mẹ bảo mình chẳng thể
nào lấy chồng được, mẹ nói đúng đấy.

- Chờ đến khi (until script): Là kịch bản cá nhân chờ đến một
thời điểm thuận lợi, điều đáng buồn là thời điểm thuận lợi ấy hình
như chẳng bao giờ đến cả. Mình cứ đợi đến 35, hãy có chồng.
- Bao giờ chẳng thế (always script): Là kịch bản cá nhân
thuyết phục mình không nên thay đổi, cứ bằng lòng với điều kiện
hoàn cảnh hiện tại. Lấy chồng làm gì vội. Có cố cũng không ăn thua.
Đàng nào cũng khổ cả.

- Rồi sẽ có ngày (after script): Là kịch bản cá nhân tin rằng


sẽ có những biến cố xấu, tai họa, bất lợi sẽ xảy ra ở một giai đoạn
nào đó. Rồi lấy chồng được mấy năm sau mình sẽ sinh con, xấu xí,
già đi, có khi còn bị ung thư ngực nữa.

- Mở rồi đóng (open-ended script): Cá nhân bị tắc, không biết


mình phải làm gì, kế tiếp. Ồ. Mình đã 38 rồi, chưa có chồng, làm sao
đây? Chán thật!

Vai trò của tư vấn viên trong phân tích thỏa hiệp: Chủ
yếu giống như một thầy giáo, vì họ cần phải giải thích những khái
niệm tương đối dễ nhầm lẫn, như 3 khái niệm cái tôi khái niệm giao
tiếp, vuốt, kịch bản… Tư vấn viên còn cần khéo léo trong việc thiết
lập nên những hợp đồng và lịch làm việc để thân chủ có cơ hội thực
hành càng nhiều hoạt cảnh (role playing) để giúp họ hình thành
những hệ thống và xu hướng xử lý trong quá trình giao tiếp.

Nhiệm vụ chính của tư vấn viên là cung cấp đầy đủ những


công cụ cần thiết, như bài tập, thời gian, và những đánh giá, nhận
xét kịp thời về tiến trình tiếp thu những kỹ năng và việc họ có thể
áp dụng những kỹ năng mới mà thân chủ đã học hỏi được.

Mục tiêu của tư vấn phân tích thỏa hiệp: Là quá trình thay
đổi cá nhân từ tiêu cực thụ động chuyển sang lành mạnh, tích cực,
hoạt bát. Tư vấn viên giúp thân chủ nhận ra những cái tôi của họ,
sử dụng chúng đúng, thích hợp trong những bối cảnh đặc biệt, từ đó
họ sẽ tìm thấy những đồng điệu, thuận lợi, hòa hợp với những đối
tác và đối tượng trong đời sống.
Kỹ thuật sử dụng trong tư vấn phân tích thỏa hiệp phần
lớn là sử dụng 4 loại hình phân tích đã nêu ở phần trên. Tuy nhiên
những kỹ thuật dưới đây cần được giới thiệu và tham khảo:

Hợp đồng trị liệu (treatment contract): Ghi rõ, cụ thể về


trách nhiệm từ hai phía.

Đặt câu hỏi (interrogation): Cho đến khi thân chủ thành thạo
vai trò cái tôi trưởng thành (adult ego) của họ.

Cụ thể và chính xác (specification): Vạch rõ cho thân chủ


thấy từng loại cái tôi mà họ đang sắm vai trong những bài tập thực
hành giữa hai bên.

Chất vấn (confrontation): Vạch ra những mâu thuẫn, không


ăn khớp trong lời nói của thân chủ ở quá trình làm bài tập thực hành
với tư vấn viên.

Giải thích (explanation): Cung cấp đầy đủ thông tin để thân


chủ có thể nắm bắt được các khái niệm và cách thức tư vấn.

Minh họa (illustration): Có những ví dụ, cần khôi hài để giảm


căng thẳng, như những phần thưởng khích lệ nho nhỏ cho thân chủ.

Khẳng định lại (confirmation): Nhắc lại những điểm đã làm


đúng, cho đến khi thân chủ thật sự thuần thục với kỹ năng đang
được huấn luyện.

Cắt nghĩa (interpretation): Giải thích tại sao cái tôi trẻ con
luôn dẫn đến những khó khăn trong giao tiếp và cái tôi trưởng thành
là cái tôi cần được phát huy.

Tập trung vào giao tiếp tích cực (crystallization): Tiếp tục
thường xuyên cho đến khi thân chủ quán triệt và vững vàng trong
mô hình quan hệ giao tiếp sử dụng cái tôi trưởng thành trong mọi
trường hợp có thể.
Những câu hỏi dưới đây thường được tư vấn viên hỏi:

- Những gì tốt nhất/ xấu nhất bố mẹ đã nói về bạn?

- Chuyện gì bạn còn nhớ rõ từ độ tuổi sớm nhất?

- Gia đình kể về sự sinh ra của bạn như thể nào?

- Bài hát, chuyện cổ tích, câu chuyện nào thời còn bé bạn thích
nhất?

- Bạn miêu tả về bố và mẹ như thế nào?

- Bạn nghĩ rằng mình sẽ sống đến bao lâu đây?

Ngoài ra, tư vấn viên cần khéo léo tìm ra động cơ (motive) của
thân chủ tại sao họ sử dụng cái tôi không thích hợp, từ đó những
động cơ lành mạnh (healthy motive) có thể được thảo luận. Cá nhân
thường có khả năng và sẵn lòng thay đổi khi họ nhìn thấy những lựa
chọn khả thi khác trong cuộc sống.

6. Kết luận

Rõ ràng hai thuyết vừa được trình bày đã tập trung nhiều vào
tiến trình thay đổi nhận thức và tư duy của cá nhân. Một điều cần
chú ý là thân chủ cho những liệu pháp dựa trên cơ sở nhận thức
phải có những tiêu chuẩn thông minh nhất định như khả năng xử lý
và hấp thụ những khái niệm nhầm lẫn và cấu trúc tư vấn khá phức
tạp.

Cần biết, khi thân chủ hoàn thành tư vấn dựa trên căn bản
nhận thức và tư duy sẽ có cơ hội sống rất hiệu quả. Nói khác đi, sau
khi thay đổi và điều chỉnh (adjust) khung tư duy của mình, thân chủ
sẽ áp dụng những kỹ năng và kinh nghiệm của mình vào những
trường hợp trong tương lai mà họ đà gặp tương tự trong quá khứ.
Tư vấn viên cần tập trung vào kỹ năng khi tư vấn cho thân chủ
qua liệu pháp nhận thức, vì đây là khâu quan trọng then chốt.
Chẳng hạn là, nếu thân chủ có quyết tâm, có thiện chí, song kỹ
năng áp dụng không đúng, không chính xác, hiệu quả tất nhiên sẽ
không cao, nếu không nói là không có những gặt hái nào.

Chương 11
LIỆU PHÁP HÀNH VI, LIỆU PHÁP NHẬN THỨC HÀNH VI VÀ
LIỆU PHÁP THỰC TIỄN

1. Dẫn nhập

Như tên gọi, nhóm liệu pháp trong Chương 11 này tập trung
vào hành vi của con người. Mục tiêu của tư vấn viên theo lối liệu
pháp hành vi cố gắng giúp thân chủ thay đổi hành vi của họ, sửa đổi
những hành vi không lành mạnh, xóa bỏ những hành vi xấu hoặc
những hành vi mà thân chủ muốn từ bỏ. Như thế, những hành vi
tiêu cực sẽ được thay thế bằng những hành vi tích cực.

Từ tính đặc trưng của nó, liệu pháp hành vi thường được áp
dụng cho những trung tâm cải huấn, trung tâm cai nghiện, trường
dạy nghề, những lớp, khóa thực hành để từ bỏ một hành vi không
được xã hội và cá nhân thân chủ chấp nhận.

Từ những chương trước, hành vi là kết quả của những mảng


rộng lớn hơn như: ý tưởng, thực hành, và lý thuyết. Nó được coi như
sản phẩm sau cùng của mỗi một cá nhân trong xã hội. Cá nhân có
thể có nhận thức, hệ tư duy, có kinh nghiệm, có khả năng xử lý…
nhưng hành vi của họ mới thật sự có tác động đến người xung
quanh.
Đấy là lý do tại sao người ta vẫn nói: hành động thật sự quan
trọng hơn lời nói. Và trong trường hợp này, hành động là biểu hiện,
là tiếng nói quan trọng nhất.

Ban đầu, người theo phái hành vi chỉ tập trung vào việc điều
chỉnh và sửa đổi những hành vi có thể nhìn thấy, quan sát được. Xu
hướng gần đây cho thấy, Watson đã chứng minh được ngay cả
những thói quen thuộc phạm trù tình cảm cũng có thể tập và sửa
đổi được.

Dựa vào phần lớn công cuộc nghiên cứu đầy giá trị của Pavlov
với những thí nghiệm về lĩnh vực phản xạ có điều kiện, những khoa
học gia sau này đã phát huy; những kiến thức và hiểu biết về động
cơ hành vi của con người càng ngày càng được khám phá.

Theo Hackney và Cormier (1996), những thân chủ sau sẽ có


cơ hội thành công cao khi áp dụng trị liệu trên cơ sở hành vi:

- Là người có tinh thần theo đuổi mục đích, muốn thấy hiệu
quả và thành tích đạt được.

- Là người hiếu động, luôn cần, thích làm một cái gì đó.

- Có hứng thú trong việc thay đổi cả những ứng xử riêng biệt
và những hành vi phụ khác, có liên quan đến những hành vi chủ
yếu.

2. Thuyết hành vi

B. F. Skinner là người có công nhiều nhất với thuyết hành vi.


Niềm tin của ông vào khả năng thay đổi của con người dựa vào
phần thường (rewards) từ những hành vi. Với thuyết này, cội rễ của
những hành vi không hoàn toàn nằm trong, và chịu ảnh hưởng của
hệ tư duy và cảm xúc lành mạnh. Theo họ, cá nhân ứng xử, hành
động chủ yếu là vì hành vi của họ sẽ đem lại những kết quả (có cả
tốt lẫn xấu). Vì thế, họ sẽ hành xử làm sao có thể đem lại nhiều gặt
hái nhất.

Tư vấn viên và quan điểm về con người của thuyết hành


vi: Có những đặc tính căn bản sau, dựa theo Rimm và Cunningham
(1985), gồm:

- Tư vấn viên chú trọng đến tiến trình thay đổi hành vi, và
những hành vi này có thể quan sát, đánh giá được qua kiểm chứng,
đo đạc.

- Tư vấn viên tập trung vào hành vi hiện tại để làm điểm tựa
cho việc thay đổi, điều chỉnh những hành vi muốn bỏ trong quá khứ.

- Họ tin rằng hành vi có được do học hỏi, bất kể nếu như hành
vi đó tốt hay xấu.

- Họ muốn thiết lập một kế hoạch trị liệu cụ thể, không mập
mờ, hành vi muốn bỏ phải bỏ được. Không nói suông, phải thực hiện
kế hoạch. Bắt tay vào làm.

- Họ phản đối quan niệm nhân cách được tạo nên bởi những
yếu tố thiên bẩm bất biến. Xấu tốt đều do học hỏi mà ra.

- Họ chú trọng đến tính khoa học và thực nghiệm, với họ cứ


liệu và bằng chứng mới thật sự quan trọng, kỹ thuật áp dụng phải
mang tính khoa học, có tổ chức chặt chẽ. Họ không lí luận suông.

Tóm lại, trong một tiêu chí rõ nhất, thuyết hành vi tin rằng con
người học tập (learn) một hành vi nào đó, và hoàn toàn có thể xoá
(unlearn) những gì đã học trước đó.

Mô hình kích thích - phản ứng (stimulation-reaction model):


Sử dụng trong hành vi trị liệu, được rút ra từ thí nghiệm phản xạ có
điều kiện, còn được gọi là mô hình học cách phản ứng (respondent
learning). Đây là mô hình dựa trên khám phá của nhà bác học Nga
nổi tiếng Pavlov. Có thể tóm tắt thí nghiệm của ông với con chó
trong phòng thí nghiệm như sau:

1. Chuông reo suông, chó không chảy nước miếng.

2. Thức ăn, chó chảy nước miếng - Phản xạ không điều kiện.

3. Chuông reo + thức ăn (trong một thời gian nhất định).

4. Chuông reo suông, chó chảy nước miếng - Phản xạ có điều


kiện.

5. Chuông reo suông, không có thức ăn (trong một khoảng


thời gian nhất định).

6. Chuông reo suông, chó không chảy nước miếng nữa.

Từ thí nghiệm này, có thể nhìn thấy quá trình chó học tiếng
chuông (learn) khi kích thích (stimulation) có điều kiện (tiếng
chuông) đi kèm với kích thích không điều kiện (thức ăn), chó học
(learn) rằng tiếng chuông đi kèm với thức ăn. Nhưng nếu nghe tiếng
chuông mà không thấy thức ăn mãi, chó sẽ quên tiếng chuông
(unlearn). Suy diễn từ thí nghiệm này, ta có thể nhận ra một cách
khái quát, hành vi (chảy nước miếng) được học và có thể bị xóa, tùy
thuộc vào phần thưởng (thức ăn). Mô hình thí nghiệm này được áp
dụng vào động cơ và hành vi của con người.

Phân tích hành vi áp dụng (applied behavior): Dựa vào


thuyết của Skinner. Theo đó, để hành vi phản ứng có chọn lọc, con
người phải là một chủ thể chủ động trong tiến trình học tập hành vi
đó. Ở đây, hai kết quả là được phần thưởng (rewards) và bị trừng
phạt (punishment), hai nguồn động cơ quan trọng của tiến trình học
hỏi. Lẽ tự nhiên, cá nhân sẽ có những hành vi để tăng thêm phần
thưởng và giảm thiểu sự trừng phạt. Vì thế, những hành động tạo ra
những kết quả có lợi chính là động lực thúc đẩy con người theo đuổi
một hành vi nào đó có lợi cho bản thân.

Thuyết nhận thức - xã hội (social cognitive): Chủ trương


những hành vi nhất định của một cá nhân là do quá trình quan sát
và bắt chước từ xã hội xung quanh của cá nhân đó. Theo Bandura
(1986) thì tiến trình học hỏi từ xã hội của một cá nhân phụ thuộc
vào ba yếu tố tách rời, nhưng có quan hệ hỗ tương rất lớn với nhau,
là:

- Kích thích bên ngoài (external stimuli): Những sự kiện


trong cuộc sống.

- Áp dụng bên ngoài (external reinforcement): Phần thưởng


hay trừng phạt của những hành vi này.

- Quá trình điều tiết nhận thức (cognitive mediational


process): Xử lý thỏa đáng những hậu quả đến từ hành vi và động cơ
của hành vi, dẫn đến quyết định học tập một hành vi mới hoặc quên
đi một hành vi không có lợi đã học từ trước

Vai trò của tư vấn viên: Là người chủ động trong những ca
tư vấn, họ là người cung cấp những công cụ cần thiết như ý nghĩa
giá trí của từng đại lượng kết quả do hành vi đem lại. Động cơ của
hành vi đối với thân chủ thôi vẫn không đủ, tư vấn viên cần vạch ra
lợi ích của hành vi đem đến cho thân chủ phải có ý nghĩa với bản
thán cá nhân và tới xã hội xung quanh. Vì con người vốn là một sinh
thể có nhu cầu xã hội rất cao. Nếu đem lại thật nhiều lợi ích, nhưng
sống cô độc, không liên đới với người khác, việc lợi ích đem đến
những lợi ích cho cá nhân thật ra không còn thật sự có ý nghĩa nữa.

Tư vấn viên cần nhấn mạnh đến tính liên đới trong xã hội và
trách nhiệm của mỗi cá nhân. Hành vi của một người luôn có ảnh
hưởng tác động lên những cá nhân khác, chính vì thế, đặt trọng tâm
hành vi của cá nhân trong bối cảnh xã hội là điều cần thiết.

Mục tiêu của hành vi liệu pháp: Trong tư vấn với thân chủ
nhằm giúp họ thay đổi, điều chỉnh những hành vi để họ hòa nhập,
thích nghi với điều kiện hoàn cảnh, từ đó tăng cường những quan hệ
lành mạnh, có ý nghĩa trong sáng. Tất nhiên khâu giúp thân chủ dẹp
bỏ những hành vi tiêu cực là một vấn đề cần nhắm tới. Để đạt được
mục tiêu, từng bước được đề ra, gồm:

- Xác định được nan đề: cần cụ thể về nội dung, thời gian,
nơi chốn, mức độ nặng nhẹ…

- Xem xét quá trình phát triển: thân chủ đã xử lý nan đề


trong quá khứ như thế nào?

- Xác định mục tiêu cụ thể: chia mục tiêu thành những mục
nhỏ, dễ thực hiện hơn, nên nhưng bước cần thực hiện có thể được
học một cách dễ dàng hơn.

- Đề ra phương pháp sửa đổi hữu hiệu nhất: chọn phương


pháp khả thi nhất, cần có phương án hai, nếu phương án một không
hữu hiệu như ý muốn thì phương án phụ sẽ được áp dụng.

Kỹ thuật trong hành vi liệu pháp: Có thể tìm thấy qua


những kỹ năng:

- Sử dụng áp dụng tích cực (use of positive reinforcement):


Phần thưởng, khích lệ một hành vi mới.

- Sử dụng áp dụng tiêu cực (reinforce of negative


reinforcement): Lấy đi những phần thưởng, nhằm kích thích những
hành vi thích hợp, để duy trì phần thưởng vẫn được hưởng.
- Lịch áp dụng những phần thưởng và hình phạt (schedule
of reinforcement): Phải đảm bảo tính kịp thời mới mong đạt hiệu
quả cao.

- Tập dần (shaping): Là quá trình từ từ đưa một hành vi mới


học vào thực tập trong đời sống thực tế một cách chậm, nhưng
chắc.

- Ứng dụng ra môi trường (generalization): Giúp thân chủ


áp dụng hành vi mới học vào đời sống thực tế.

- Duy trì (maintenance): Yêu cầu thân chủ tự thực hiện các
thao tác áp dụng hành vi mới một mình, không cần đến sự trợ giúp
của tư vấn viên.

- Triệt tiêu (Extinction): Gạt bỏ những hành vi không muốn


giữ.

- Hình phạt (punishment): Nhằm hạn chế, làm giảm những


lành vi bằng cách giới thiệu những hậu quả khó chịu.

3. Thuyết Nhận thức - Hành vi

Đây là một phái mới đang thu hút đông đảo dư luận. Thuyết
này chủ yếu nhắm vào liên hệ giữa nhận thức và hành vi. Phần lớn
những mô hình trong học thuyết tổng hợp này có thể được tìm thấy
cả ở hai thuyết hành vi và nhận thức.

Với thuyết này, việc xây dựng lại khung tư duy (nhận thức) là
cần thiết, thân chủ được huấn luyện để tự xác định và đánh giá
được những tư duy sai lệch đã dẫn đến những hành vi thiếu trưởng
thành, lập dị, không được chấp nhận bởi cá nhân, cũng như bởi xã
hội.
Thân chủ cần được hướng dẫn để họ cảnh giác khi dấu hiệu
của những tư tưởng không lành mạnh nảy sinh trong đầu. Bằng
cách liên tục tự nhắc nhở mình, thân chủ có thể ngăn chặn được
những tư tưởng tiêu cực này.

Chủng ngừa căng thẳng (stress inoculation): Là quá trình


phòng ngừa, giúp thân chủ thiết lập một thói quen lành mạnh, xử lý
những căng thẳng khi chúng vừa chớm, tạo được thế chủ động.
Trong đó, thân chủ được giáo dục về tính chất và tính năng của sự
căng thẳng (characters of stress), sau đó họ được huấn luyện các kỹ
năng xử lý căng thẳng, sau cùng là bắt tay vào thực hiện những kỹ
thuật xử lý đã được học tập.

Chặn đứng luồng tư tưởng (thought stopping): Là quá trình


thân chủ sẽ ngưng lại những suy nghĩ về những hành vi trong quá
khứ, những tư tưởng khúc xạ. Điều này giúp họ tập trung vào những
nỗ lực hiện tại, nhắm tới đời sống lành mạnh, tích cực trong tương
lai. Về cơ bản, đây là một kỹ năng giúp thân chủ đoạn tuyệt với quá
khứ tiêu cực. Nói khác đi - kỹ năng này giúp thân chủ tránh được
bất cứ luồng tư tưởng tiêu cực khi chúng mới vừa khởi xướng.

4. Thuyết Thực tiễn

Liệu pháp thực tiễn: Chú trọng vào lựa chọn của cá nhân
trong cuộc sống. Theo Wubbolding (1998), liệu pháp này tập trung
vào 2 điểm then chốt: (a) môi trường tư vấn - và (b) thủ tục trong
liệu pháp. Họ chủ trương mọi tiến trình chỉ có thể xảy ra khi cá nhân
cảm thấy an toàn trong một môi trường được bảo vệ. Hiểu rõ là, liệu
pháp thực tế có một hình thái uyển chuyển, thân thiện, cởi mở,
nhưng cũng kiên định trong những hoạt động tư vấn.
Đây là liệu pháp tiên phong bởi William Glasser. Liệu pháp này
nhấn mạnh đến ý thức của con người, họ tin rằng con người hoạt
động độc lập, xử lý các tình huống một cách có ý thức; không bị lệ
thuộc bởi những xung động vô thức (như trong thuyết phân tích tâm
lý của Freud).

Glasser (1988) cũng nêu ra niềm tin rằng con người tự thân có
khả năng vươn lên và phát triển, cả về mặt thể lý và mặt tâm lý.
Ông đưa ra hai khái niệm rất thú vị, như:

Óc cũ (old brain): hành vi xuất phát từ nhu cầu thể lý, như
cơm áo, thuốc men, nghỉ ngơi…

Óc mới (new brain): Hành vi xuất phát từ những nhu cầu tâm
lý cao hơn, trong xã hội hiện đại; như an toàn, được yêu, địa vị
trong xã hội, ý nghĩa và mục đích cuộc sống…

Theo ông, nhu cầu tâm lý gồm:

- Được thuộc về (belonging): Được quan tâm và được chấp


nhận bởi người thân, bạn bè, được yêu thương…

- Có quyền lực (power): Được công nhận, được thi thố, có


niềm tin, tự tin…

- Có tự do (freedom): Nhu cầu được tự do trong chọn lựa và


quyết định…

- Vui chơi, giải trí (fun): nhu cầu vui chơi, cười đùa, học tập,
giải trí…

Cũng theo ông, con người rất cần đến một nhận dạng định vị
trong xã hội (identity) - một yếu tố tâm lý giúp khẳng định giá trị
bản thân (self). Vì mọi cá nhân, trong bất cứ tầng lớp xã hội nào
cũng cần đến nhu cầu được hòa nhập, trở thành một thành viên của
một nhóm nào đó có một ấn tượng đặc trưng riêng đại diện cho
nhóm ấy. Con người không thể tồn tại, nếu họ không thuộc vào một
nhóm đặc trưng nào đó.

Khi cá nhân hòa hợp với mọi người, anh ta có thể đã có một
khuôn mặt ấn tượng thành công (successful identity). Tuy nhiên,
nếu một nhân vật không hòa hợp với mọi người, chán nản, xa lánh,
bất cần, anh ta có thể được coi là có một khuôn mặt ấn tượng thất
bại (failure identity).

Vai trò của tư vấn viên: Như là một thầy giáo hướng dẫn,
đón nhận thân chủ với một thái độ ân cần, cởi mở. Quan hệ tư vấn
cần được xây dựng trên cơ sở thân thiện, kiên định, và công bằng
thỏa đáng. Tư vấn viên sử dụng những buổi tư vấn để tăng cường
tính tích cực và tính xây dựng trong hành vi.

Thân chủ cần được nhắc nhở rằng họ có quyền lựa chọn và
hoàn toàn chịu trách nhiệm về những lựa chọn đó. Điều này giúp họ
có tinh thần trách nhiệm hơn với cuộc sống của mình. Tư vấn viên
sử dụng liệu pháp thực tiễn không đào sâu vào quá khứ của thân
chủ. Trái lại, họ tập trung nhiều vào những nan đề trong hiện tại. Từ
đó những giải pháp tháo gỡ luôn được xử lý trong bối cảnh hiện tại,
đảm bảo được tính thực tế trong quá trình tư vấn.

Mục tiêu của thực tiễn liệu pháp: Là giúp thân chủ ý thức
được rằng họ cần trưởng thành về mặt tâm lý, hợp lý và thực tế
trong những chọn lựa có trách nhiệm đối với xã hội. Như thế, khi
trưởng thành, họ sẽ trở nên tự chủ, năng động, tích cực hòa nhập
vào đời sống phong phú của xã hội. Sau đó, họ sẽ trở nên có trách
nhiệm, sống lành mạnh, biết tôn trọng người khác, hòa hợp, đạt
được hạnh phúc.

Theo Glasser (1976) những biểu hiện sau đây được coi là
những hành xử lành mạnh:
- Hành vi không tranh giành, chụp giựt.

- Hành vi đơn giản, không mất quá nhiều công sức, thời gian
để hoàn tất.

- Hành vi có thể hoàn tất bởi chính cá nhân, không cần đến
người khác.

- Hành vi có giá trị ý nghĩa với cá nhân và với xã hội.

- Hành vi khiến cá nhân tin rằng họ sẽ thăng tiến nếu họ thực


hiện chúng.

- Cá nhân có thể thực hiện hành vi mà không cảm thấy cắn


rứt, khó chịu.

Tóm lại, mục tiêu của thực tiễn liệu pháp là giúp thân chủ xây
dựng cho mình một kế hoạch hành động thực tế nhằm đạt được
những nguyện vọng cá nhân. Bởi lẽ, nhiều lúc không xác định được
hướng đi, không biết mình phải làm gì sẽ dẫn đến những bế tắc và
khó khăn cản trở trong tiến trình sống tốt, sống khỏe, sống sung
mãn.

Kỹ thuật sử dụng trong thực tiễn liệu pháp: Dựa trên nền
tảng hành động để thân chủ ý thức được họ có quyền lựa chọn. Liệu
pháp này, giống như những liệu pháp khác, sử dụng các kỹ năng
như: khai thác tính khôi hài - hướng dẫn - chất vấn nếu cần - đóng
kịch - phân tích những trao đổi qua lại - xây kế hoạch trị liệu cụ thể
- triệt để thực hiện hợp đồng đã được thỏa thuận bởi hai bên.

Glasser (1980) cũng khuyên rằng tư vấn viên không nên chán
nản khi thân chủ không đạt được kế hoạch đề ra. Hơn thế nữa, tư
vấn viên càng phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong quá trình tìm hiểu
xem điều gì đã không làm đúng. Điều này sẽ cho cả thân chủ và tư
vấn viên những cơ hội được làm lại từ đầu từ khâu họ làm chưa hiệu
quả.

5. Kết luận

Như đã trình bày, thuyết hành vi, nhận thức-hành vi, và thực
tiễn liệu pháp nhắm đến hành vi trong đó cá nhân có đóng góp quan
trọng trong quá trình điều tiết, để chế ngự những hành vi không tốt,
và phát huy những hành vi đáng khích lệ. Một nét chung của những
thuyết này là đề cập đến môi trường xã hội. Điều này giúp khẳng
định được tầm quan trọng của hành vi cá nhân trong bức tranh xã
hội.

Nên nhớ, con người luôn tồn tại trong bối cảnh liên đới với môi
trường xung quanh. Tư vấn viên vì thế có nhiệm vụ mời gọi thân
chủ hãy nên có những hành vi với tinh thần trách nhiệm.

Động cơ trong hành vi được điều khiển bởi kết quả của hành
vi. Tư vấn viên là những người đầu tiên có cơ hội giải thích để thân
chủ nhìn thấy giá trị thực sự (hạnh phúc hay tiền tài vật chất) của
kết quả hành động.

Tất nhiên, cùng trong một dữ kiện kích thích từ cuộc sống, sẽ
có nhiều cách phản ứng, hành xử khác nhau. Nhiệm vụ của chúng
ta, tư vấn viên và thân chủ là chọn ra giải pháp ứng xử tối ưu, đáp
ứng được nguyện vọng của cá nhân trong mối tương quan phù hợp
với đời sống xã hội, môi trường xung quanh.

PHẦN BỐN
KỸ NĂNG VÀ CHUYÊN NGÀNH TRONG NGHIỆP VỤ TƯ VẤN
Chương 12
TƯ VẤN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH: THUYẾT HỆ THỐNG

1. Dẫn nhập

Hôn nhân và gia đình hiện diện và tồn tại từ những ngày đầu
của lịch sử con người, tuy nhiên mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau,
quan hệ những cá nhân gắn bó trong gia đình, ở những góc độ nào
đó, có những khác biệt. Bắt nguồn từ nền tảng tôn giáo hay không
có, hôn nhân là một giao kèo chung sống với nhau dựa trên nền
tảng căn bản là sinh sản con cái và yêu thương vợ chồng. Nói khác
đi, hôn nhân là nền tảng gia đình.

Theo định nghĩa, thông thường, gia đình là một đơn vị xã hội,
gồm từ hai người trở liên, kết hôn, hoặc được sinh ra, sống chung
trong một hộ khẩu.

Với những thay đổi cơ bản về nhiều mặt, từ kinh tế đến đời
sống, từ văn hóa xã hội đến gia đình, môi trường và điều kiện làm
việc, giáo dục và y tế, truyền thống và hiện đại, vai trò của giới tính
thay đổi…, hôn nhân và gia đình đang đứng trước những thử thách
lớn lao.

Tất nhiên, con người có lúc không theo kịp đà phát triển xã
hội, nhiều người không xoay xở kịp dẫn đến tụt hậu, lúng túng. Xuất
phát từ những bức xúc ấy, tư vấn hôn nhân và gia đình trở thành
một nhu cầu thiết thực, nóng bỏng.

2.Thuyết hệ thống căn bản (general system theory)

Được sáng lập bởi Ludwig von Bertalanffy (1968), căn bản dựa
trên lý luận: gia đình, giống như bất cứ một sinh thể sống nào
(living organism), gồm những bộ phận có những tác động hỗ tương,
ảnh hưởng đến trạng thái lành mạnh hoặc ảnh hưởng xấu đến
những bộ phận khác. Nét đặc trưng của học thuyết hệ thống căn
bản ứng dụng cho tư vấn tập trung vào ba khái niệm:

- Nguyên nhân gây ra những khó khăn (causality) không


phải đến từ một phía, nó là kết quả (result) của tác động qua lại từ
hai phía.

- Hệ thống tâm lý - xã hội (socio-psychology) được hiểu như


là những khuynh hướng tư duy và ứng xử cá nhân lặp đi lặp lại
(repetitions) giữa những người trong một mối quan hệ, ví dụ chồng
nóng tính.

- Những hành vi có vấn đề (problematic behaviors) phải


được đặt trong bối cảnh liên quan đến mọi đối tượng trong một tổ
chức quan hệ. Ví dụ chồng nóng tính phải có nguyên nhân từ anh
ta, từ vợ, hoặc từ các con nữa.

Vì thế, thuyết hệ thống căn bản luôn cố gắng đi tìm những sự


cố, cắt nghĩa nguyên nhân sự cố, và đề nghị giải pháp cho sự cố; tất
cả đều dựa trên nền tảng quan-hệ-liên-quan (related relationship)
đến tất cả mọi thành viên trong gia đình. Theo thuyết này, vấn đề
của một người cũng là vấn đề của cả nhà. Nói khác đi, một người có
sự cố, điều đó có nghĩa cả nhà có sự cố. Đây là một khái niệm rất
nổi cộm trong thuyết này.

Một khái niệm khác mà thuyết này đề nghị là nguyên nhân


vòng tròn (circular causality) là nguyên nhân của những bất hòa chứ
không phải là đường suy nghĩ thẳng (linear thinking); vốn được coi
như lối giải thích cũ cho rằng nguyên nhân bất hòa đến từ một
thành viên. Để giải thích kỹ hơn, ta có thể hiểu:
Nguyên nhân dạng vòng tròn (circular causality): Là mô
hình cho thấy những vấn đề căng thẳng là do hai phía. Ban đầu một
người có ý kiến, người thứ hai phản hồi, nếu không thỏa đáng, nhất
định sẽ có thêm những giải thích, dẫn đến tấn công, buộc tội….Cứ
thế, hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại từ hai phía, giống như cãi
nhau, nhìn tổng quát, ta có thể minh họa câu tục ngữ: Tại anh, tại
ả, tại cả đôi bên; là rất chính xác với mô hình này.

Suy nghĩ đường thẳng (linear thinking): Trái lại, thông


thường theo lối cũ, người ta nhìn vào những vấn đề gay cấn trong
gia đình thường do một người gây ra (identified patient). Tại anh ta
tất cả. Bỏ bê vợ con nhà cửa. Tất nhiên chúng ta thường có thói
quen bênh vực nạn nhân (victim), tuy nhiên, nhiều lúc người có vẻ
là nạn nhân lại là nguyên nhân gây khổ cho họ và cho người khác.
Thành ra suy nghĩ đường thẳng (linear thinking) đã không giải thích
bức tranh một cách khách quan, thường là với suy nghĩ đường
thẳng, một thành viên trong quan hệ sẽ là người bị khép tội
(Scapegoating).

Những gia đình mắc hội chứng tâm thần phân liệt
(Schizophrenia families - nghĩa bóng): Trong gia đình có những biểu
hiện, được đông đảo chuyên gia nghiên cứu và đi đến những khái
niệm thống nhất như: mang tính bệnh lý được giải thích dưới đây:

- Mù mờ cả hai phía (double blind): Khi một phía nhận được


một thông điệp có 2 nghĩa nên không biết phải theo lối nào? Ví dụ
dưới đây:

Chồng: Ly dị không phải là giải pháp tệ!

Vợ: Anh ấy đề cập đến ly dị - và còn bảo không là giải pháp tệ.
Có nghĩa là sao?
- Gá tạm vào nhau (pseudomutuality): Bằng mặt nhưng
không bằng lòng. Bên ngoài vẫn vui cười bình thường, bên trong rạn
nứt, chia rẽ ngấm ngầm.

- Xung đột gia đình (marital schism): Hai hay nhiều phía có
những xung đột gay gắt, lộ liễu, công khai, không giấu giếm. Nhà
ấy hết phúc rồi. Đánh nhau suốt ngày.

- Kẻ cầm quyền (marital skewness): Khi một người lấn lướt


chèn ép, lợi dụng, áp bức người còn lại. Chồng chúa vợ tôi. Sợ vợ
một vành…

Nichols (1983) đã nhấn mạnh, với đời sống vợ chồng, gia đình,
đó là một QUAN HỆ chứ không phải là TẬP HỢP NHỮNG CÁ NHÂN
lại. Vì thế những biểu hiện không lành mạnh của một cá nhân trong
gia đình phải là kết quả chung của nhiều người - chứ không phải
duy nhất là lỗi của một người.

Càng ngày, quá trình đô thị hóa càng ồ ạt, lấy chồng, lấy vợ
người ngoại quốc,… những điều này buộc chúng ta phải suy nghĩ
đến những cặp vợ chồng có hoàn cảnh lý lịch rất khác nhau, trên
nhiều bình diện như: kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì thế, yếu tố đa văn
hóa (multicultural) trong tư vấn hôn nhân gia đình là không thể xem
nhẹ.

3. Tuổi thọ của một gia đình và các chu kỳ trong tuổi thọ
của một gia đình

Tuổi thọ gia đình (family life): Là giai đoạn khởi điểm từ lúc
hai, hay nhiều người gắn bó với nhau về mặt pháp luật hay do sinh
sản cho đến khi họ chính thức không còn sống chung với nhau nữa.
Chu kỳ tuổi thọ gia đình (family life cycle): Bao gồm những
thời kỳ phát triển, tiến hóa của một gia đình trong nhiều năm chung
sống, gắn bó. Becvars (1996) đã giới thiệu 9 thời kỳ phát triển của
một gia đình như sau:

1. Còn độc thân - mọi người khác lạ với những người độc thân
khác trong xã hội.

2. Mới cưới - có những thay đổi căn bản để thích nghi với đời
sống vợ chồng.

3. Sinh con - có thêm nỗi lo, nhà thêm người, có thế hệ khác
nhau, ông, cha, cháu.

4. Con sắp đi học - phải lo nhiều hơn, tốn thời gian, vợ chồng
mất đi sự riêng tư, bận, đối phó với trẻ.

5. Con đi học - liên hệ với những mảng khác trong xã hội, bận
hơn, lo nhiều khoản, phải chia thời gian giữa con cái và bạn đời.

6. Con cái tuổi dậy thì - lo lắng về những phát sinh mới, đối
diện với cá tính của con cái, xung đột, chi phí, sức ép công việc,
trọng trách với xã hội, gia đình.

7. Con cái lớn lên rời xa nhà - con đi học, đi làm, lấy vợ, đối
diện với những ưu tư về con cái, sắp về già, công việc, chuyện chăn
gối, mâu thuẫn về những dự định chưa thực hiện được.

8. Trung niên - lo chăm sóc cho mình, đón nhận dâu rể, quan
tâm đến cha mẹ bây giờ đã già, lo lắng về cuộc sống sắp về hưu,
những việc thực hiện dở dang.

9. Về hưu - đối diện với cái chết của cha mẹ, anh em, bạn bè,
lo cho con và cháu, sống vì nghĩa, sao nhãng chuyện chăn gối.

Với những gia đình thành công, việc đáp ứng và xử lý những
đòi hỏi của từng thời kỳ thường uyển chuyển nhịp nhàng, song
nhiều gia đình không được may mắn như thế, họ va vấp với những
thứ thách và không giải quyết được, vì thế đã có những khó khăn
nảy sinh.

Cần biết, dù gia đình thành công hay khó khăn, họ đều trải
qua kinh nghiệm gắn bó gia đình (family cohesion). Những gia đình
thành công thường: hạnh phúc - vận hành nhịp nhàng - vững vàng -
ổn định, họ còn: quyết tâm - đánh giá cao những thành viên khác -
giành thời gian cho nhau - đối thoại tốt – sốt sắng trong đời sống
tâm linh - biết xử lý những xung đột một cách có hiệu quả. Đây là
khái niệm được gọi là khả năng thích ứng của từng cá nhân trong
gia đình (adaptability).

Một mô hình dựa trên mức độ gắn bó trong gia đình (family
cohesion) và khả năng thích ứng (adaptability) cho thấy cấu trúc
của gia đình lỏng lẻo hay thắt chặt:

A. Khả năng thích ứng của từng cá nhân thấp + và tính gắn bó
thấp.

 gia đình mạnh ai nấy làm - xa cách - gia đình thiếu tính
đoàn kết, ít quan tâm đến nhau.

B. Khả năng thích ứng từng người cao + nhưng tính gắn bó
thấp.

 gia đình có thể lộn xộn - xa cách - không gắn bó - không ai


đụng chạm đến nhau - sống rời rạc.

C. Khả năng thích ứng của từng người thấp + tính gắn bó cao.

 các thành viên lệ thuộc vào nhau quá nhiều - quan tâm đến
nhau quá nhiều - cấu trúc gia đình có thể cứng nhắc, thụ động,
thiếu linh hoạt.

D. Khả năng thích ứng từng người cao + tính gắn bó cao.
 có thể dẫn đến lệ thuộc thái quá - quan tâm nhiều đến nhau
- hoặc ở mức độ nhẹ, tạo nên một gia đình có những liên hệ ràng
buộc lẫn nhau, có trách nhiệm với nhau.

E. Khả năng thích ứng của từng người trung bình + tính gắn bó
vừa phải.

 Gia đình gắn bó có quy củ - họ gắn bó với nhau trong một


thể chế có co giãn - họ có khoảng cách không gian vừa phải giữa
những cá nhân - họ giữ một khoảng cách uyển chuyển nhất định.

Lý tưởng nhất là những gia đình không rơi vào thái cực mà chỉ
ở mức trung dung (trường hợp F). Họ không quá xa cách nhưng
cũng không quá vồ vập lệ thuộc lẫn nhau. Họ quan tâm và giành
cho nhau một cách vừa phải.

Wilcoxon (1985) khuyên các tư vấn viên hôn nhân gia đình
nên tìm hiểu xem thân chủ của họ đang trong thời kỳ phát triển nào
của 9 chu kỳ đời sống gia đình, từ đó những đồng cảm và liên hệ
đến công tác tư vấn sẽ đảm bảo được tính thời sự, đáp ứng được
những nhu cầu của thân chủ. Tất nhiên không phải gia đình nào
cũng trải qua đủ 9 thời kỳ, như những gia đình vô sinh, gia đình chỉ
có một cha hoặc mẹ, gia đình ly dị. Vì thế tư vấn viên cần quan tâm
đến từng hoàn cảnh của thân chủ một cách cụ thể.

Bowen (1978) giới thiệu vài khái niệm mô tả tác động qua lại
hỗ tương trong quan hệ gia đình, cho thấy nếu một gia đình hoạt
động không nhịp nhàng lành mạnh là gia đình có những bất ổn, lộn
xộn:

- Kẹt trong lưới (enmeshment): là mô hình một gia đình mà


những thành viên lệ thuộc và dựa vào nhau quá nhiều và hầu như
họ dẫm chân nhau trong những vai trò đáng ra phải được phân chia
rõ ràng, cụ thể. Cá mè một lứa. Cá đối bằng đầu.
- Kéo bè kết cánh (triangulation): xảy ra khi một hay hai
thành viên của gia đình cấu kết lại, với mục đích tạo ra đồng minh,
gây thế mạnh đối lập với một hay những thành viên khác. Vào hùa,
kéo bè.

4. Tư vấn hôn nhân gia đình đối chiếu với tư vấn cá


nhân/ tư vấn nhóm

Mặc dầu có nhiều điểm giống nhau cơ bản về học thuyết và kỹ


năng áp dụng trong tư vấn hôn nhân gia đình và những thình thái tư
vấn khác; tuy thế, tư vấn viên có thể dễ dàng nhận ra sự khác biệt
là tính hệ thống và tính quan hệ trong tư vấn hôn nhân gia đình.

Mục đích của tư vấn cá nhân/ tư vấn nhóm là đem đến sự


thay đổi của cá nhân trong bối cảnh thân chủ đối diện với chính họ
và với thế giới trực hệ là những người xung quanh. Mục đích của tư
vấn hôn nhân gia đình có điểm khác hơn mục tiêu đặt ra là giúp
thân chủ thay đổi bối cảnh đặc biệt khi họ cần phải có những nỗ lực
dung hòa với chính họ, với thế giới, và cả với đối tác của họ trong
một quan hệ rất đặc biệt - quan hệ gia đình, vợ chồng.

Hôn nhân là một quan hệ đặc biệt nhất, trong đó hai con người
đi vào đời sống của nhau, lệ thuộc vào nhau quá nhiều, quá sâu.
Nên tư vấn viên cần ý thức sâu sắc rằng họ đang làm việc với một
quan hệ rất đặc biệt. Vì thế họ cần nhạy cảm, tinh tế.

Trong tư vấn cá nhân/ nhóm, thân chủ được đề nghị sống có


trách nhiệm trực tiếp với bản thân và có trách nhiệm gián tiếp với
thế giới. Với tư vấn hôn nhân gia đình, thân chủ được yêu cầu sống
có trách nhiệm trực tiếp với bản thân, trực tiếp với đối tác khác
(chồng, vợ, con cái). Đây là điều mà thân chủ phải được giải thích rõ
trong suốt quá trình tư vấn.
Tư vấn cá nhân/ tư vấn nhóm, thân chủ cần nỗ lực làm việc,
tìm giải pháp mang tính cá nhân. Ngược lại, thân chủ trong tư vấn
hôn nhân gia đình phải làm việc, tìm giải pháp cho nan đề trên tình
thần cộng tác với đối tác của mình. Vì thế đây là cố gắng và nỗ lực
chung của cả hai người. Đây là một việc làm tương đối khó khăn,
nhất là trong điều kiện căng thẳng. Cứ tưởng tượng, nếu tình huống
không quá xấu, họ đã không tìm đến dịch vụ tư vấn (!) Và nhiều khi
phía nào cũng có vẻ có lý cả.

Bối cảnh tư vấn hôn nhân gia đình cần được mổ xẻ và thảo
luận nhiều hơn trong tư vấn cá nhân. Dù tư vấn hôn nhân gia đình
nhìn bề ngoài giống như tư vấn cho nhóm, chúng ta vẫn nhận ra sự
khác biệt về vai trò của những thành phần cá nhân trong gia đình,
như cha mẹ, con cái vợ chồng, anh em… Họ đúng là nhóm, song là
một nhóm rất đặc biệt.

Sau cùng, đặc tính suy nghĩ đường thẳng (linear thinking)
trong tư vấn cá nhân/ tư vấn nhóm thể hiện khá rõ. Nhưng trong tư
vấn hôn nhân gia đình, đặc tính hỗ tương vòng tròn của nguyên
nhân (circular causality) lại là mũi nhọn cần phân tích.

Resnikoff (1981) yêu cầu tư vấn viên hãy đặt cho mình những
câu hỏi tự để thẩm định xem họ hiểu về thân chủ của họ ở mức độ
nào, qua những câu hỏi dưới đây:

- Gia đình thân chủ xuất hiện có vẻ bề ngoài như thế nào? Gắn
bó hay xa cách?

- Những hành vi dễ gây ra tiêu cực nào xuất hiện nhiều nhất?
Nói to, cãi vã, đổ lỗi…?

- Cảm giác không khí chung căn bản của gia đình? Ai là người
phát biểu nhiều nhất? Phát ngôn viên của cả nhà có phản ánh được
cảm giác chung của mọi thành viên trong gia đình?
- Những vai trò cá nhân của người gây ra chống đối trong gia
đình? Biểu hiện nào thường xuyên nhất cho thấy gia đình có sự đối
đầu, bảo thủ?

- Các thành viên trong gia đình có khác biệt hay na ná như
nhau? Nếu có bè phái, nhóm, cá tính của nhóm ấy?

- Gia đình thân chủ đang trong thời kỳ phát triển nào (trong
chu kỳ 9 giai đoạn)?

- Phương pháp tháo gỡ nào xem ra khả thi nhất đối với gia
đình thân chủ?

5. Tư vấn hôn nhân vợ chồng

Khác với tư vấn hôn nhân gia đình (thường liên quan đến con
cái, ông bà…), tư vấn hôn nhân vợ chồng chủ yếu có đối tượng là
hai vợ chồng; có thể lý do họ tìm đến dịch vụ tư vấn là vì con cái,
ông bà, nhưng vấn đề căng thẳng chủ yếu chính là hai vợ chồng.

Bất luận ai là người khởi xướng dịch vụ tư vấn, một tư vấn


viên khéo léo phải sắp xếp, thiết kế một môi trường trong đó hai
người đều có trách nhiệm trong câu chuyện đau đầu, và nhấn mạnh
rằng: nếu cả hai người có thiện chí, thành quả gặt hái được sẽ có lợi
ích cho cả hai người. Nếu tư vấn viên không thiết kế được một môi
trường như thế, nhất định cả hai người (vợ và chồng) đều không có
một cái nhìn tích cực nơi tư vấn viên.

Tư vấn viên đặc biệt tránh tư vấn hai người một cách riêng rẽ
bằng những ca tư vấn khác nhau, làm thế, nhất định sẽ tạo ra
những hiểu lầm không cần thiết, dẫn đến hoài nghi và cả những thái
độ bất hợp tác rất có thể sẽ xảy ra. Nhất là tư vấn hôn nhân vợ
chồng là để đem họ lại gần nhau hơn.
Khi một đôi vợ chồng đến với tư vấn viên, họ cần được giải
thích rõ chuyện tư vấn riêng rẽ là điều không có lợi cho tiến trình tư
vấn. Họ cần hiểu về những khả năng rủi ro sẽ có thể xảy ra vì điều
kiện khách quan (thông thường như thế), vấn đề tế nhị sẽ rất dễ
đưa đến hiểu lầm.

Về mặt chủ quan (khi một thành viên kể về quan hệ mà họ chỉ


sở hữu 50% và dữ kiện và được nhìn từ một phía), từ đó những cảm
giác một chiều, chụp mũ, tố khổ có thể sẽ gây ra nhiều rắc rối, có
hại nhiều hơn là lợi ích – và khi phải nghe câu chuyện từ 2 phía như
thế, tư vấn viên có thể bị lẫn lộn.

Một điều cần biết, một trong hai người (thường là phụ nữ) có
vẻ hăm hở với tư vấn và người còn lại (thường là nam giới) không
hồ hởi trong lúc đầu. Tư vấn viên nên tránh đốc thúc người thứ hai.
Có thể, nếu đủ khéo léo, tư vấn viên sẽ hãm (slow) người nhiệt tình
lại để người chậm chạp kia theo kịp. Vận tốc của hai người phải
đồng đều, như thế hiệu quả tư vấn mới cao được.

Sau khi đôi vợ chồng đã thống nhất và đồng ý với dịch vụ tư


vấn họ có thể chọn lựa một trong 5 lối tiếp cận tư vấn được liệt kê
sau đây:

Thuyết Phân tích tâm lý (psychoanalytic theory): Trong đó


những gút mắc thường được quy về cho thân nhân của vợ (hoặc
chồng) hoặc cả hai nguồn trong quá khứ đã tác động lên đời sống
tình cảm hiện tại của họ. Có thể chồng hoặc vợ đã luôn coi người
phối ngẫu (transference) là hình ảnh của ai đó trong thời thơ ấu, nơi
những xung đột và kinh nghiệm khó chịu đã xảy ra. Vì thế, những
kinh nghiệm đau thương trong quá khứ chưa được xử lý, nay quay
trở lại gây khó khăn cho quan hệ hiện tại. Những giấc mơ được kể
cho tư vấn viên nghe, để từ đó cả ba người, sẽ tìm ra căn nguyên
của những lấn cấn, rất có thể đã xảy ra. Theo Baruth và Huber
(1984), giải pháp tốt nhất là van xả (catharsis) để cả hai được trút
ra những bức xúc dồn nén lâu nay.

Thuyết Nhận thức - xã hội (social-cognitive theory): Nhấn


mạnh đến chủ nghĩa hành vi (behaviorism) trong đó thân chủ đã
học được từ môi trường. Gút mắc được xem là kết quả một người
học hỏi từ những hôn nhân khuôn mẫu khác quá nhanh, nhận thức
quá sâu, suy diễn quá xa; trong khi đó người vợ (hoặc chồng) học
chậm hơn, nhận thức không sâu nên đã không theo kịp người bạn
đời. Khi đối thoại được nêu ra, có thể điểm xuất phát là chân thành,
nhưng quá trình trao đổi sẽ có những khúc quanh phát sinh sai lạc,
hiểu lầm có thể xảy ra. Nếu đôi vợ chồng không xử lý kịp, vấn đề sẽ
nảy sinh và phát triển đến một lúc nào đó khiến quan hệ của họ gặp
phải lúng túng, lún sâu, sa lầy. Công cụ được áp dụng cho tháo gỡ
là tập trung vào đối thoại trong bối cảnh hiện tại, tránh đào sâu quá
khứ, thực hiện nhiều bài tập (homework) để tạo một xu hướng hành
vi mới, và đóng kịch (role playing) để hai bên có những cách chọn
lựa mới, tích cực hơn trong việc xử lý những điểm nóng trong đời
sống gia đình. Mục tiêu là giáo dục để cả hai cùng có vận tốc và
những mong đợi thực tế - phù hợp với điều kiện hiện tại của hai
người.

Thuyết hệ thống gia đình theo Bowen (Bowen family


systems theory): Chủ trương mỗi thân chủ cần tách cảm xúc
(emotions) ra khỏi suy nghĩ (thought); tách bản thân ra khỏi người
phối ngẫu, ông gọi đây là quá trình phân biệt (differentiation). Sự
chênh lệch về mức độ trưởng thành cảm xúc (emotional maturity)
của hai người là mấu chốt của khó khăn. Khi cọ xát và căng thẳng
xảy ra, người không có đủ trưởng thành cảm xúc sẽ có những phản
ứng như sau:
- Vón cục (fusion): nôi gộp lại một cách thiếu cân nhắc, cái gì
cũng dính líu đến một cảm xúc cứng nhắc, gò bó, quạu cọ bức xúc…

- Đóng chặt, cắt đứt (cut off): họ tránh né, co cụm, ít nói,
lảng tránh.

- Kết bè với người khác (triangulation): họ tìm đến với người


thứ ba, có thể là người thân, con cái, anh em… để tạo đồng minh.

Hướng giải quyết tập trung vào việc tách thân chủ ra khỏi
những quan hệ gia đình với anh em, bà con, người thân, sau đó tập
trung vào việc ổn định tình cảm, lấy thế cân bằng, tự tin. Nhận thức
mới cần được xây dựng bằng cách trả lời những câu hỏi có nội dung
về quan hệ gia đình được thảo luận để thân chủ có một cách nhìn,
cách nghĩ mới. Trưởng thành về mặt tư tưởng sẽ dẫn đến trưởng
thành về mặt cảm xúc.

Thuyết Xây dựng - Chiến lược (structural-strategic theory):


Thuyết này tin rằng những khó khăn bấp bênh trong đời sống gia
đình bắt đầu từ những phản ứng thụ động, xử lý kém khi vợ chồng
trải qua những thời kỳ phát triển của chu kỳ đời sống gia đình. Khó
khăn trong đời sống vợ chồng là nguyên nhân những khục khặc, nực
cười, đó cũng là cái gắn họ lại trong một cố gắng chống đỡ. Tư vấn
viên cần thuyết phục đôi vợ chồng thay đổi hành vi của họ vì những
hành vi cố gắng trong quá khứ đã chứng minh là không có hiệu quả.

Vì thế một chiến lược nhắm tới những cải tổ, nhắm thẳng vào
những mảng cần sửa đổi (problematic areas) là điều cần thiết. Để
làm tốt, tư vấn viên phải năng động, hướng dẫn, chỉ lối, khéo léo
trong việc tạo ra một kế hoạch cụ thể với từng bước nhỏ, giúp vợ
chồng thân chủ đi đúng với kế hoạch được đề ra:

- Đặt tên (relabeling) lại những hành vi cần cải thiện với tên
gọi tích cực hơn.
- Gây xốc (pardoxing) để kích thích vợ chồng thân chủ làm
điều ngược lại, và những việc làm này phục vụ cho tiến trình chữa
lành.

- Liệt kê ra những triệu chứng (prescribing the symptoms)


là việc gợi ra những hành vi tiêu cực trong quá khứ (đánh nhau,
lăng mạ…) để hai người có cơ hội thay đổi lại những hành vi bằng
cách tập những hành vi mới thông qua bài tập (homeworks).

Thuyết Hành vi - Tình cảm hợp lý (rational emotive


behavior theory): chú trọng đến những tư duy bất hợp lý là nguyên
nhân dẫn đến những trục trặc trong đời sống lứa đôi. Họ bức xúc vì
cách họ nhìn vào những sự kiện trong cuộc sống, chứ không phải
bản thân những sự kiện ấy làm cho họ khó chịu. Thông thường thân
chủ hay có thói quen: thổi phồng - ứng xử cứng nhắc quá mức cần
thiết, vô lý, và trở thành người theo chủ nghĩa tuyệt đối. Họ cứng
nhắc trong cách nhìn, cố tình kéo căng, nghiêm trọng hóa, nguy
hiểm hóa mọi tình huống bình thường, đã dẫn đến những bế tắc tai
hại. Tư vấn viên cần làm việc về những vấn đề cá nhân trước, khi cả
hai đã đả thông tư tướng, bước kế đến là họ sẽ bắt tay vào giải
quyết chuyện hôn nhân, sau khi mỗi đối tác đã có một khung tư duy
mới.

6. Tư vấn gia đình

Gia đình thường tìm đến dịch vụ tư vấn bằng nhiều lý do khác
nhau. Tuy thế, điểm chung vẫn là trong mọi gia đình luôn có một kẻ
bị bệnh (identified patient), có vấn đề cần được chữa trị.

Phần nhiều người ta quy tội cho một người. Không ai chịu nhìn
người bị bệnh kia là vấn đề chung của cả gia đình. Họ không thấy
mọi người trong nhà đều chia chung trách nhiệm của vấn đề.
Vì thế tư vấn viên cần giúp gia đình cải tổ lại cấu trúc và tái
thiết lại quan hệ giữa các thành viên đế họ uyển chuyển hơn trong
tư duy, hành xử, có sự tôn trọng đối với các thành viên khác trong
gia đình. Tư vấn gia đình tập trung vào khái niệm nguyên nhân của
nan đề trong gia từng dưới dạng vòng tròn (circular casuality) trong
đó mọi thành viên đều có trách nhiệm chia chung những triệu chứng
(symptoms) của nan đề.

Những khái niệm sau đây được sử dụng rộng rãi trong tư vấn
gia đình:

- Tính tổng thể (nonsummativity): nhấn mạnh đến sức mạnh


đoàn kết một khối của cả nhà sẽ mạnh hơn sức mạnh riêng rẽ của
từng người cộng lại.

- Kết quả mơ hồ (equifinality): một sự kiện có thể dẫn đến


nhiều kết quả, cũng như một hành vi xuất hiện sẽ có nhiều động cơ
khác nhau.

- Đối thoại (communication): những HÀNH VI của mỗi thành


viên là cách để họ NÓI CHUYỆN, chứ không phải là HÀNH ĐỘNG
thuần tuý.

- Luật gia đình (rule of family): trong gia đình luôn tồn tại hai
hệ thống luật: (a) luật được nói cụ thể ra và (b) luật hiểu ngầm.

- Cách xử lý trong nhà (morphogenis): khả năng của gia


đình điều tiết chức năng để đối phó với những khó khăn trong gia
đình. Ta vẫn hay gọi là nếp nhà.

- Hằng định nội môi (homeostasis): là trạng thái hòa hợp, ổn


định, cân bằng, vốn được xem là trạng thái lý tưởng cho mỗi gia
đình.
Tư vấn viên làm việc với gia đình phải biết đặt những triệu
chứng trong gia đình vào bối cảnh toàn cục, mời gọi mọi người cộng
tác trong tinh thần trách nhiệm. Không quy trách nhiệm, cần coi
triệu chứng của một người là của cả gia đình. Nói khác đi, chính mỗi
thành viên trong gia đình, bằng cách nào đó đã trở thành nguyên
nhân góp phần tạo ra những xung đột trong gia đình. Tránh đổ lỗi
cho một người.

Năng lực tâm lý (psychodynamic): do Ackerman (1966) phá


vỡ quan niệm truyền thống, cho rằng cá nhân là trung tâm của nan
đề trong gia đình. Ông chủ trương những vấn đề tiêu cực nảy sinh
từ quá trình bó chặt trong hệ nội tại đến độ trở thành bệnh lý
(interlocking pathology); trong đó thân chủ vô ý đã có những hành
xử không lành mạnh.

Ông giới thiệu liệu pháp năng lực tâm lý để giúp từng cá nhân
trong gia đình sử dụng năng lực và năng lượng của họ trong tiến
trình tìm hiểu và thông cảm chấp nhận những thành viên khác trong
gia đình. Ông chủ trương những gút mắc thời thơ ấu (object
relations) đã ảnh hưởng đến quan hệ hiện tại, nên cần được giải tỏa
và quên đi. Mục tiêu của thuyết này hướng đến việc:

- Giúp gia đình xóa đi những kỷ niệm đau đớn trong quá khứ
bằng những nhận thức mới mẻ, lành mạnh, tập trung vào hiện tại
với tinh thần chấp nhận, thông cảm.

- Giúp gia đình dẹp bớt những tư tưởng, hình ảnh vốn đã bị
bóp méo, khúc xạ.

- Giúp gia đình tái thiết lại cấu trúc vận hành của gia đình
(trách nhiệm và vai trò, đóng góp của mỗi cá nhân, trách nhiệm
chung và riêng).
- Ủng hộ tiến trình thăng tiến của mỗi cá nhân như một đóng
góp và tiến trình phát triển chung của cả nhà.

Liệu pháp kinh nghiệm gia đình (Experiential family): Tập


trung vào từng cá nhân trong bối cảnh lớn của tổng thể gia đình. Tư
vấn viên sử dụng thói quen không lành mạnh (maladaptive
behavior) của gia đình như chất liệu để họ làm việc với gia đình. Tư
vấn viên sẽ nhìn vào nan đề xảy ra trong gia đình có nguồn gốc từ
những cá nhân không có khả năng biểu lộ cảm tình với những người
nhà khác, và thiếu tính chủ động độc lập.

Các thành viên trong nhà không chỉ tránh né với chính họ và
cả với những người khác trong gia đình. Vì thế, họ là những người
đã thật sự chết về mặt cảm xúc (emotionally dead). Tư vấn viên có
nhiệm vụ giúp họ cởi mở hơn, từ đó tiếp cận với những tư tưởng
mới, rồi rút ra những kinh nghiệm mới mẻ. Tư vấn viên phải giúp
các thành viên gắn bó với gia đình hơn. Satir (1972) cho rằng khi
đối diện với căng thẳng, những thành viên trong gia đình đã phản
ứng qua bốn cách có hại sau:

- Lấy lòng người khác (placater).

- Chỉ trích và cửa quyền, gia trưởng (blamer).

- Xem thường, lơ là, tỏ vẻ bất cần, ra ý mình thông minh


(responsible analyzer)

- Đánh trống lảng, tránh né sang vấn đề khác (distractor).

Satir (1972) chủ trương mỗi thành viên trong gia đình nên sử
dụng cảm xúc của họ một cách rõ ràng, có trách nhiệm. Bà khuyến
khích mọi người nên cho nhau những phản tỉnh, trả lời chân thành
(sincere feedback) cũng như tích cực thương thảo để đạt được
những thỏa hiệp lành mạnh.
Whietaker (1989) khuyến khích các thành viên nên tập trung
vào những kinh nghiệm tích cực, nhằm xây dựng những quan hệ có
ý nghĩa giữa các thành viên trong gia đình với nhau.

Hành vi liệu pháp trong tư vấn gia đình (behavioral family


counseling): Không chú trọng đến tính năng hệ thống trong gia
đình. Họ chủ trương mỗi thành viên cần phải học hỏi và thực hành
để có những bài học kinh nghiệm. Họ nhấn mạnh đến cấu trúc của
gia đình và những kỹ năng đối xử, tiếp cận, trao đổi giữa các thành
viên trong gia đình. Họ nhắm tới mục tiêu rõ ràng, cụ thể, có thể
quan sát và kiểm chứng được. Họ tin rằng thay đổi trong gia đình
phải bắt đầu từ việc tăng cường những hành vi có ích (useful
deeds), có ý nghĩa, lành mạnh; và xóa bỏ những hành vi vô ích,
không hiệu quả, thiếu lành mạnh của các thành viên trong nhà.

Tái thiết cơ cấu trong tư vấn gia đình (structural family


counseling): Được sáng lập bởi Salvador Minuchin (1974) và ông
định nghĩa cấu trúc gia đình là những cách thức bình thường hàng
ngày (formal ways) mà gia đình vận dụng để sắp xếp lại trật tự gia
đình. Họ chủ trương thay đổi cơ cấu trong những gia đình có những
dấu hiệu trục trặc qua việc xúc tiến những thay đổi trong cách cư xử
giao tiếp với nhau. Ông chủ trương gia đình nên có những giới hạn
cụ thể rõ ràng (clear boundaries) giữa các thành viên. Người nào
nhiệm vụ nấy. Họ muốn vạch ra những đường hướng sai phạm đã
trở thành thói quen, từ đó phá vỡ những thói quen này. Tư vấn viên
sẽ tận dụng những cơ hội một thành viên có những hành vi không
lành mạnh, sau đó một môi trường cởi mở được thiết lập để cá nhân
đó có cơ hội sửa chữa hành vi không lành mạnh đó.

Chiến lược liệu pháp trong tư vấn (strategic family


counseling): Do Jay Haley (1973) và Cloe Macdanes (1991) khai
thác. Họ chủ trương trị liệu thật mau. Không cần giác ngộ. Theo họ,
học những kỹ năng căn bản và áp dụng là được họ không chú trọng
đến hành vi, nhưng lại quan tâm đến quá trình của hành vi nhiều
hơn. Họ thích liệt kê ra triệu chứng không lành mạnh (prescribing
the sympyoms) một cách cụ thể và cả nhà sẽ lần lượt sử dụng
nhưng triệu chứng tiêu cực này, dưới sự giám sát của tư vấn viên,
(như những triệu chứng tiêu cực xảy ra tự nhiên trong hàng ngày),
sau đó toàn thể gia đình sẽ tẩy chay những hành vi tiêu cực nói
trên. Vì thế những thành viên sẽ trải qua những đau đớn (ordeal)
khi phải chịu sự phản đối của cả nhà. Nhóm này còn chủ trương ra
thật nhiều bài tập (homework) xen kẽ giữa những ca tư vấn để gia
đình có cơ hội thực tập. Tóm lại, liệu pháp này rất có tính thực
dụng.

Tập trung vào giải pháp (solution-focused family


counseling): Là liệu pháp biến thể của liệu pháp chiến lược. Phần lớn
liệu pháp này từ Milton Erickson (1954) với khái niệm sử dụng
nguyên tắc gia đình (utilization principle) trong đó những nan đề và
hành vi tiêu cực xảy ra trong những ca tư vấn được sử dụng triệt để
như gợi ý cho giải pháp. Ông tin rằng trong mỗi cá nhân, luôn ẩn
chứa một khả năng tự chữa lành và vươn lên. Ông khuyến khích
những hành động nho nhỏ sẽ dẫn đến những hành động có ý nghĩa
hơn.

f(hành vi) = (Việc nhỏ) x (n) = VIỆC LỚN

Điểm son của liệu pháp này là nan đề xuất phát từ cách nhìn
của cá nhân với người thân. Ông đề nghị giúp đỡ thân chủ thay đổi
cái nhìn với người thân trong bối cảnh những giải pháp trong các ca
tư vấn cần được thực hiện với tinh thần nghiêm túc.

Liệu pháp kể chuyện (narrative family counse]ing): Là liệu


pháp gia đình trẻ nhất, do Michael White và David Epston (1990).
Họ áp dụng triệt để khả năng hỏi những câu hỏi có ý nghĩa, phục vụ
tiến trình thay đổi đối với thân chủ. Thuyết này chủ trương con
người sống bằng những câu chuyện họ kể. Vì thế những mấu
chuyện có ý nghĩa, trong sáng, lành mạnh, sống động sẽ giúp hình
thành một lối sống tích cực trong thực tế. Họ ủng hộ nhiều câu
chuyện tích cực được kể ra để từ đó có những lựa chọn tốt nhất và
những chiến lược tích cực được áp dụng, từ đó cá nhân sẽ kết lại câu
chuyện cuộc đời (rewrite new stories) như một tác giả có tinh thần
lạc quan (optimistic author), nhằm tạo tính trị liệu cho những nan
đề trong cuộc sống. Họ chủ trương mọi thành viên trong gia đình
hãy tách hành vi ra khỏi con người (externalize problem), như thế
vấn đề sẽ được tập trung để mổ xẻ, thay vì cứ tập trung vào con
người. Đây là một nét tích cực. Như là ta nói: ăn cắp là một việc làm
xấu và con người chưa hẳn tất cả là xấu khi ăn cắp. Tính tích cực,
nhân văn vẫn là thế.

7. Kết luận

Tư vấn viên khi làm việc với gia đình, hôn nhân gia đình, hôn
nhân vợ chồng… đang đứng trước những yêu cầu rất nghiêm túc khi
cơ cấu gia đình trong mọi xã hội đang thay đổi rất nhanh.

Môi trường có tác động trực tiếp lên sinh hoạt của mọi gia
đình. Mỗi gia đình lại có những điều kiện và hoàn cảnh rất đặc biệt.
Vì thế, tư vấn viên cần xác định được hoàn cảnh cụ thể của từng gia
đình để quá trình can thiệp sẽ đạt được hiệu quả cao nhất. Cần biết,
tư vấn gia đình, hôn nhân, vợ chồng là một hình thái đặc trưng
trong đó quan hệ giữa họ là một quan hệ vòng tròn, nghĩa là không
có ai sai, chỉ có những sự khác biệt cần được điều chỉnh cân bằng để
những hành vi lành mạnh được nảy mầm, bén rễ và phát triển.
Những khó khăn của các thành viên trong gia đình gặp phải
thường là những hệ lụy trong quá trình tác động hỗ tương giữa
những thành viên khác nhau trong gia đình. Như thế, tư vấn viên sẽ
luôn tranh thủ mọi cơ hội để đưa những thành viên của gia đình xích
lại gần nhau hơn. Đó cũng là tiêu chí cao nhất của tư vấn trong hôn
nhân và gia đình.

Chương 13
TƯ VẤN NHÓM

1. Dẫn nhập

Mặc dù mỗi cá nhân là một sinh thể rất đặc biệt, song vì sống
chung trong một xã hội vốn có những khó khăn khách quan giống
nhau, nên nhiều người sẽ có cùng một loại nan đề tương tự. Vả lại,
con người là sinh thể có tính xã hội cao, nên ít nhiều họ cũng chia
chung những trăn trở, bức xúc, nhức nhối như những người khác
trong xã hội.

Nhiều diễn biến khi xảy ra sẽ có tác động lớn lên xã hội, ảnh
hưởng đến nhiều người trong xã hội, ví dụ thiên tai, kinh tế đi
xuống, dịch cúm gà, trào lưu văn hóa, tiến trình công nghiệp hóa…
Những sự kiện vừa đơn cử trên vô tình tạo ra những nan đề rất
chung, vì thế tư vấn nhóm là một nhu cầu rất thực. Hơn nữa kinh
nghiệm làm người cho thấy nhiều lúc trong xã hội rộng lớn kia, sẽ
có nhiều người trải nghiệm qua những vấn đề rất chung (common
concerns) trong cuộc sống như bệnh tật, ly dị, vỡ nợ… Vì thế tư vấn
nhóm càng có cơ sở để được thảo luận.
Tại sao tư vấn nhóm? Lý do đơn giản là tư vấn nhóm sẽ tiết
kiệm tiền bạc của thân chủ, công sức và thời gian, vốn quy ra thành
những đại lượng kinh tế khác không nên lãng phí.

Riêng với Việt Nam, trong tổng số 67 bài tham luận trong kỷ
yếu Tư vấn Tâm lý - Giáo dục, không có bài nào viết qua về tư vấn
nhóm. Chỉ có TS. Huỳnh Văn Sơn đã viết về “Hiệu ứng lan tỏa từ
chương trình tư vấn trên sóng phát thanh” - có đề cập đến cảm giác
tán thành hoan nghênh của bạn nghe đài khi một vấn đề được mổ
xẻ ngoài phạm vi hai người: tư vấn viên và thân chủ. Tất nhiên tư
vấn nhóm, theo tiêu chuẩn được thực hiện ở Hoa Kỳ lại khác hẳn.

Điểm quan trọng mà tư vấn nhóm đem đến xã hội như một
đáp ứng có ý nghĩa vì nó cho các thân chủ một cơ hội được trải
nghiệm sự quan tâm từ các thân chủ khác. Họ sẽ cảm thấy mình
bình thường hơn, vì những vấn đề bức xúc của họ cũng là những
vấn đề bức xúc của bao người khác.

Có vài ngộ nhận cho rằng:

- Tư vấn nhóm không thật, chỉ là huyên thuyên bề nổi, không


đạt hiệu quả…

- Nan đề không được coi nặng, chỉ là một hình thức trị liệu cấp
hai.

- Họ xem nhẹ cá nhân, mọi người bị lột trần truồng trên bình
diện tâm lý.

- Thân chủ bị lột áo và buộc phải trải lòng mình ra.

- Tư vấn viên xốc nổi, chất vấn, nóng nảy, gần như một cuộc
tẩy não tập thể.
Thực tế chứng minh ngược lại. Trong chương này tư vấn nhóm
sẽ được đề cập và mổ xẻ kỹ hơn như một tham khảo cần thiết, dựa
trên kinh nghiệm giáo dục tâm lý ở Hoa Kỳ.

2. Vị trí của tư vấn nhóm trong nghiệp vụ tư vấn

Một nhóm được định nghĩa là từ 2 người hoặc hơn trở lên,
trao đổi với nhau vì có cùng mục đích và nhu cầu chung. Trong sinh
hoạt hằng ngày, ai cũng có kinh nghiệm với nhóm, nhà trường, sở
làm, hàng xóm, vui chơi nhóm, đi du lịch…

Giao tiếp là nhu cầu của con người. Chưa kể đến có những
công việc đòi hỏi phải có nhiều người mới thực hiện được. Thế thì
tạo sao lại không tư vấn theo nhóm chứ?

Tất nhiên không phải loại nan đề nào, thân chủ nào cũng thích
hợp cho tiến trình tư vấn nhóm. Công việc của một tư vấn viên khi
nghĩ đến tư vấn nhóm là phải cẩn thận trả lời những câu hỏi: ai là
thân chủ thích hợp, nan đề gì, khi nào, như thế nào, tại sao tư vấn
nhóm. Cũng như vài trường hợp, tư vấn nhóm không thể thực hiện
được, chẳng hạn như tư vấn nhóm cho một số học trò có thái độ và
hành vi phá phách. Gom các em lại, chúng ta không khác nào tự hại
mình và tự hại các em!

Tư vấn nhóm, xét về mặt căn bản, khác tư vấn cá nhân về (a)
mục đích, (b) khâu tổ chức, (c) thời gian kéo dài của một ca tư vấn,
(d) về kỹ thuật. Tuy nhiên tính làm việc (work) trong tư vấn nhóm
rất cao - trong suốt một ca tư vấn lúc nào cũng có tác động và tiếp
cận xảy ra giữa các nhóm viên.

Gazda (1989) đã đánh giá cao rằng tư vấn nhóm với đặc trưng
sôi nổi, sống động đã giúp thân chủ ngăn chặn những tư tưởng tiêu
cực, sửa chữa, và thăng tiến cả về phương diện cá nhân lẫn cả ích
lợi cho cả nhóm trong những giao tiếp rất thực tế, vì các nhóm viên
cung cấp những chia sẻ từ nhiều góc nhìn khác nhau.

Những thuận lợi của tư vấn nhóm đem đến cho cá nhân khi họ
tìm thấy đồng cảm trong quan hệ với những cá nhân có cùng cảnh
ngộ. Qua tác động với những cá nhân khác, họ học hỏi được những
bài học kinh nghiệm trong sự tương quan xã hội. Họ có cơ hội được
tiếp cận với những kinh nghiệm phong phú từ những thế giới quan
khác nhau, và ngược lại họ cũng có cơ hội thể nghiệm và tích lũy
được nhiều thông tin và dữ kiện hơn.

Thân chủ sẽ có dịp bộc lộ nhiều phương pháp xử thế, giải pháp
cho cùng một vấn đề. Sau cùng, tư vấn nhóm khuyến khích thân
chủ vì họ học hỏi một cách gián tiếp những kỹ năng phong phú, chia
sẻ bởi những thân chủ khác. Những nghiên cứu gần đây cho thấy tư
vấn nhóm rất hữu hiệu cho:

- Tư vấn học đường khối lớp 9, 10 (cho các em nhút nhát, có


khó khăn trong các kỹ năng giáo tiếp xã hội). (Hutchinson:
Freeman, Quick, 1996).

- Học hỏi từ tư vấn nhóm dẫn đến chia sẻ cộng tác kinh
nghiệm giữa các thân chủ nhằm đạt đến mục tiêu kế hoạch trong
nhóm cao hơn, theo Avasthi (1990).

- Hỗ trợ trong tư vấn nhóm rất hữu ích cho những thân chủ nữ
sau ly dị (Blatter và Jacobsen, 1993).

Ngoài ra tư vấn nhóm không thể thiếu được trong nhưng


trường hợp cai nghiện, nạn nhân chiến tranh, người bị bạo hành… vì
tính giáo dục trong tư vấn nhóm rất cao.

Tuy nhiên, tư vấn nhóm cung có những hạn chế và nhược


điểm như:
- Nó không phù hợp cho những thân chủ có nhu cầu về nan đề
thuộc nhân cách và cá tính.

- Vấn đề sâu xa của thân chủ đôi lúc không được mổ xẻ, khai
thác triệt để trong môi trường nhóm.

- Tư vấn nhóm có thể gây sức ép, buộc tư vấn chia sẻ khi họ
chưa sẵn sàng.

- Tư duy theo hùa (groupthinking) đôi khi có thể dẫn đến


những thành kiến, khuôn sáo, bảo thủ, bế tắc trong tiến trình tư vấn
có ảnh hưởng tiêu cực.

- Tính bè phái có thể xảy ra, mục tiêu và tác dụng của tư vấn
nhóm có thể bị ảnh hưởng.

- Nhiều thân chủ không có tinh thần cộng tác, chỉ mượn tư vấn
nhóm cho những hành vi và mục đích cá nhân.

- Vấn đề thời gian và địa điểm luôn là một trở ngại rất phổ
biến.

- Nếu nhóm không xử lý và đạt mục tiêu đề ra, tất sẽ không


tránh khỏi những xung đột, hành vi thiếu tôn trọng, có hại, như thế
ảnh hưởng tiêu cực sẽ lớn hơn.

3. Các loại tư vấn nhóm

Tư vấn nhóm có nhiều hình thái, vì nhóm cần được thiết kế để


đáp ứng những nhu cầu rất riêng, phù hợp với yêu cầu chung nhất
định của một nhóm đặc biệt. Thân chủ đến với tư vấn nhóm thật ra
vẫn có những nhu cầu về mảng tâm lý, nhu cầu được người khác
chấp nhận, muốn thăng tiến, và các vấn đề cá nhân khác.
Giáo dục/ hướng dẫn cho nhóm: Theo Brown (1998) chủ
yếu mang tính giáo dục và xây dựng về những vấn đề gay cấn
chung của xã hội như nghiện ngập ma tuý, quan hệ tình dục tiền
hôn nhân, HIV, AIDS, các giai đoạn phát triển của tuổi dậy thì và
thanh niên mới lớn. Đây không phải là tư vấn nhóm. Vì tác động và
đóng góp của các thành viên tham gia rất hạn chế, chỉ có ban tổ
chức đưa ra thông tin là chủ yếu.

Với người lớn tuổi: Những chương trình giáo dục này giúp
trong các lĩnh vực như đối diện với tuổi già, cá nhân người thân vừa
ra đi, vấn đề sức khỏe, phúc lợi, lợi ích cộng đồng. Ngoài ra các
nhóm như phụ nữ, thanh niên, công nhân… luôn có những nhu cầu
giáo dục và thông tin, tư vấn nhóm vì thế sẽ hữu ích. Có người cho
rằng đây là tư vấn cộng đồng, song thuật ngữ này cần được hiểu
trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

Với trẻ em: Tư vấn nhóm giúp các em phát triển những kỹ
năng xã hội. Đặc biệt với sinh viên và lớp trẻ, tư vấn nhóm cho họ
để tìm đến những thông tin và giải pháp liên quan đế những vấn đề
quan trọng, nóng bỏng, như kiềm chế nóng giận, quan hệ tình dục
lành mạnh, kỹ năng học tập, vấn đề hướng nghiệp, lao động…

Tư vấn nhóm trong giải quyết các vấn đề cá nhân: Giúp


thân chủ giải quyết những xung đột và bế tắc trong quan hệ hàng
ngày; không chỉ với những vấn đề gai góc của hiện tại mà cả những
kỹ năng cần thiết để giải quyết những trường hợp tương tự trong
tương lai. Theo Gazda (1989) tư vấn nhóm khác với chương trình
giáo dục hướng dẫn ở chỗ:

- Tư vấn nhóm tập trung vào vấn đề tức thời, có nội dung
trọng tâm xoáy vào thân chủ, - trong khi đó chương trình giáo dục
hướng dẫn tập trung vào những vấn đề không đổi hoặc có ảnh
hưởng chung đến mọi người.

- Tư vấn nhóm có tính chỉ đạo cao, giúp thân chủ giải quyết
vấn đề thuộc phạm trù hành vi và nhận thức; nên mang tính cải tổ
nhận thức cho thân chủ nhiều hơn, điều này không có trong giáo
dục hướng dẫn.

- Tư vấn nhóm gói gọn trong khuôn khổ nhỏ hơn, gần gũi hơn,
trong khi đó giáo dục hướng dẫn mở rộng ra với công chúng, môi
trường giống như lớp học, giảng đường vậy.

Tất nhiên, nhìn kỹ, tư vấn nhóm (nếu được tổ chức và kết thúc
nhanh chóng), sẽ không khác hướng dẫn giáo dục mấy. Vì nhanh
quá, tính cải thiện nhận thức và sửa đổi hành vi không có điều kiện
phát triển với môi trường tư vấn nhóm. Đây chính là điểm đặc thù
then chốt để tư vấn nhóm khác với giáo dục/ hướng dẫn.

Liệu pháp tâm lý/ nhân cách cho nhóm: Được soạn ra
nhằm giúp thân chủ xử lý các vấn đề thuộc phạm trù rối loạn về
tâm lý. Vì thế, tư vấn nhóm trong khuôn khổ này tập trung vào việc
giúp từng cá nhân một - kiến tạo và điều chỉnh lại hệ thống tâm lý
sao cho lành mạnh, hiệu quả hơn - trong tương tác bối cảnh tư vấn
nhóm.

Giống tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm trong lĩnh vực tâm lý có


nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên điểm nóng của tư vấn nhóm tâm
lý xoay quanh vấn đề khung tâm lý của nhiều người, một mảng liên
quan đến tình cảm và cách nghĩ, mang tính chất hệ thống, vì thế
thường kéo dài với con số các cuộc hẹn tư vấn (sessions) nhiều hơn.

Vì tính chất tinh thần của tư vấn liệu pháp tâm lý, loại liệu
pháp này thường được tổ chức trong nhưng trung tâm y tế bệnh
viện tâm thần… với những thân chủ đang điều trị. Tuy nhiên, với
nhóm giải quyết nhu cầu cá nhân thì sẽ được tổ chức ở những địa
điểm ngoại trú bình thường.

Nhiệm vụ đặc biệt cho nhóm: Được thiết kế nhằm giúp cá


nhân áp dụng những nguyên tắc và quá trình vận hành (liên quan
đến cả một nhóm người) vào một công tác nhất định. Con người là
yếu tố rất cần thiết cho những cơ quan, tổ chức, đơn vị, khi hoạt
động của tập thể có ảnh hưởng tác động hỗ tương trong việc sản
xuất hoặc tạo ra những sản phẩm. Tư vấn viên trong bối cảnh này
nên tập trung vào giải quyết những vấn đề nội bộ cơ quan và cả bên
ngoài, vận động mọi người tham gia đóng góp ý kiến; để tiến trình
áp dụng và thao tác giữa các bộ phận trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
đạt được hiệu quả và công việc chung được thúc đẩy.

Ngoài ra còn có những hoạt động nhóm cho các cá nhân với
những mục đích khác như nhóm tổ chức về lịch sử khu vực, nhóm
sinh hoạt văn hóa truyền thống, hiệp hội, ban ngành, huấn luyện. Ở
Hoa Kỳ nhóm T (T-group) là nhóm tập trung vào việc hướng dẫn
nghiệp vụ.

Ngoài ra còn có cả nhóm có tiêu chí phục vụ cho những nhu


cầu đặc trưng khác, đến từ cuộc sống phong phú và đa dạng. Trong
đó các nhóm viên tự nhóm họp, tự tổ chức, tập trung giải quyết
những vấn đề có liên quan đến sở thích, tâm nguyện, và nhu cầu
riêng. Ví dụ như hội nuôi chim, nhóm nhạc, nhóm săn bắn, nhóm
thể dục…

4. Các thời kỳ trong quá trình nhóm làm việc

Giống như những cơ quan sinh thể (living organism) khác


nhóm cũng có tuổi thọ bao gồm những thời kỳ phát triển rất đặc
trưng. Khác với tư vấn cá nhân, làm việc với nhóm cần chú trọng
đến từng thời kỳ một. Đây cũng là nét đặc trưng của quá trình làm
việc với nhóm. Mặc dù cả hai hình thái trợ giúp đều có một lịch kế
hoạch, tuy nhiên trong làm việc với nhóm, tính đi sát lịch kế hoạch
(work schedule) thể hiện rất cao. Nhiều trường hợp, mọi người đến
với nhóm và cùng hoạt động với nhóm. Vì thế tư vấn viên cần có
những kinh nghiệm và kiến thức căn bản về các thời kỳ của nhóm,
điều này sẽ giúp nhóm hoạt động thuận lợi, nhịp nhàng, và đạt hiệu
quả cao hơn.

Những tranh cãi về nội dung hoạt động (content) và thời gian
(time length) và thời điểm bắt đầu và kết thúc (when) cho từng thời
kỳ vẫn đang được thảo luận. Tuckman (1965) đã giới thiệu một mô
hình 4 thời kỳ trong thời gian hoạt động của nhóm bao gồm: (1) tạo
nhóm, (2) bão táp/ luật chung, (3) giải quyết, (4) kết thúc. Bốn thời
kỳ này sẽ được bàn kỹ hơn dưới đây:

Thời kỳ I: Tạo nhóm (forming): là thời kỳ đầu tiên, điểm nóng


bao gồm cơ cấu làm việc, nội dung cần giải quyết ai sẽ là người
thích hợp để ở lại, hoặc sẽ phải rời nhóm, những luật định và
nguyên tắc căn bản áp dụng cho mọi thách viên của nhóm, thông
tin và giải đáp về các câu hỏi liên quan đến nhóm. Thường thì tâm
trạng của thành viên là lo lắng, băn khoăn, họ không biết nhiều lắm
về nhóm và vì thế kỳ vọng của các cá nhân thường rất khác nhau.
Thời kỳ này, các cá nhân thường nói về những vấn đề ngoài lề. Tư
vấn viên cần tạo ra một bầu không khí tư nhiên, cởi mở. Mời gọi mọi
người cộng tác trong tinh thần tôn trọng và lắng nghe. Mỗi cá nhân
được yêu cầu cung cấp một số thông tin cá nhân cơ bản như lý lịch
bản thân, vấn đề cần tháo gỡ, nguyện vọng và nhu cầu của họ trong
kinh nghiệm làm việc nhóm lần này và những gì họ mong đợi thu
hoạch được từ nhóm.
Thời kỳ II: Bão táp/ luật chung (storming / norming): là giai
đoạn căng thẳng nhất. Có thể nói đây là giai đoạn những mâu thuẫn
gay gắt và những xáo trộn không thể tránh khỏi. Thường các cá
nhân có những tranh cãi về mức độ tác động qua lại với các cá nhân
khác. Họ đùn đẩy và chọn lựa trách nhiệm chung và riêng của mỗi
cá nhân trong tương quan vai trò trong nhóm. Họ đôi co về tính độc
lập. Có người cố gắng tìm vị trí quan trọng cao nhất trong nhóm.
Vấn đề lo lắng và ưu tư về kết quả trị liệu của nhóm có thể bị hoài
nghi. Nhiều lúc tư vấn viên có thể bị các cá nhân đồng thanh họp lại
tấn công. Tư vấn viên trong giai đoạn này cần bình tĩnh, khách
quan, kiên nhẫn… Họ cần giữ vai trò là người điều tiết để giữ cho
nhóm không đi vào cao trào xung động, có thể vượt quá mức an
toàn, dẫn đến việc nhóm bị tổn thương không còn cách cứu vãn.
Cũng trong thời kỳ này, tính luật chung (norming) của nhóm; giống
như sau cơn bão sẽ trở lại bình thường. Lúc này các thành viên sẽ
nhìn ra sự gắn bó sau khi trưởng thành sau trận bão (storming). Vì
thế những mục đích và kế hoạch sẽ được đặt ra. Họ chuẩn bị cho
những bước hoạt động kế tiếp.

Thời kỳ III: Làm việc (working): là giai đoạn quan trọng nhất
của nhóm. Có thể nói đây là điểm mấu chốt của mục đích hiện diện
và tồn tại của nhóm. Lúc này các nhóm viên đã hiểu nhau, tin nhau,
và có một khái niệm tương đối định hình về các cá nhân khác. Năng
lượng (energy) và tâm trí không còn bị chi phối bởi chuyện tranh
thủ đạt được những vị trí trong nhóm, họ có nhiều thời gian hơn cho
việc tập trung vào giải quyết các vấn đề trọng tâm của từng nhóm
viên. Nhiệm vụ của tư vấn viên là sắp xếp để cho mỗi nhóm viên
cùng tham gia cộng tác. Không thể tránh khỏi chuyện có nhiều
nhóm viên hoạt động hăng hái nhiệt tình hơn những nhóm viên
khác, vì thế tư vấn viên cần nhắm vào việc điều chỉnh, khéo léo
động viên để mức độ cộng tác của mọi nhóm viên bằng nhau, bình
đẳng.

Thời kỳ IV: Kết thúc nhóm (terminating): như tên gọi, giai
đoạn này là giai đoạn chuẩn bị cho việc kết thúc. Giống như bao
nhiêu kinh nghiệm chia tay khác, chuẩn bị cho kế hoạch tốt nghiệp
(graduation) cho các nhóm viên là một công tác đầy cảm xúc và
không dễ dàng. Nhiều nhóm viên đã tạo được một sự gắn bó
(bonding) với những nhóm viên khác. Họ gần như là bạn bè hay
chiến hữu trong những trận đánh tấn công vào những vấn đề cá
nhân. Nhiều người mang cảm giác trân quý, biết ơn với những nhóm
viên đã có những kiến nghị, ý tưởng, giúp họ tìm ra giải pháp chọn
nan đề của họ: Trong thời gian này, 15% thời gian được sử dụng
vào việc điểm lại nội dung hoạt động, tiến trình đạt được trong kinh
nghiệm làm việc với nhóm. Tư vấn viên sử dụng thời gian này như
một cơ hội để các nhóm viên lập lại (review) những nan đề, cách
suy nghĩ cũ và lối suy nghĩ mới, những cảm nghiệm và những giải
pháp hữu ích cho họ. Tư vấn viên cũng cần khuyến khích động viên,
trấn an từng nhóm viên rằng họ sẽ bước vào cuộc sống với những
kinh nghiệm có ý nghĩa với nhóm. Một điều quan trọng nữa là tư
vấn viên cần chúc mừng (congratulate) các nhóm viên về việc họ đã
thành công và tư vấn viên phải tỏ được cảm xúc tự hào thực sự.

5. Những vấn đề trong các nhóm

Để vận hành một nhóm sao cho có hiệu quả, những vấn đề
căn bản về nhóm cần được tuân thủ chặt chẽ, vì những vấn đề này
sẽ có một quyết định quan trọng trong suốt quá trình hoạt động của
nhóm qua từng khâu, từng bước, từng giai đoạn. Trước khi thành
lập nhóm, tư vấn viên phải trả lời được những câu hỏi:
Tại sao phải có nhóm này?

Nội dung hoạt động và chiến lược cho nhóm?

Mục tiêu chính của nhóm?

Ai là người thích hợp cho nhóm?

Chuẩn bị thành lập nhóm: Là giai đoạn các ứng viên của
nhóm được chọn lọc dựa trên những tiêu chuẩn cần thiết. Đây là
khâu rất quan trọng vì không thực hiện đúng, sự chênh lệch giữa
các nhóm viên sẽ là một cản trở rất lớn cho toàn nhóm sau này
(nhóm viên không thâu lượm được kết quả và sẽ có những ảnh
hưởng tai hại về mặt tâm lý). Tư vấn viên cần phỏng vấn (interview)
để chọn lọc những ứng cử viên thích hợp cho nhóm. Những nhóm
viên tương lai của nhóm cần hội đủ những yêu cầu căn bản:

- Cùng mức độ thông minh và có kiến thức tương đương.

- Nội dung vấn đề mức độ khó khăn của những nan đề có gần
nhau hay không?

- Quan điểm và khả năng giao tiếp xã hội có quá chênh lệch.

- Kinh nghiệm sống và trình độ, cũng như hoàn cảnh văn hóa
xã hội hiện tại.

- Thái độ sẵn sàng với nhóm và khả năng thích nghi với cường
độ làm việc của nhóm.

Tư vấn viên cần giải thích rõ về quá trình làm việc của nhóm,
những điều sẽ xảy ra trong quá trình làm việc của nhóm. Nhóm viên
tương lai cần được nhắc nhở về tính đồng nhất trong nhóm là cần
thiết. Sự bất đồng ý kiến và mâu thuẫn bước đầu (khó tránh khỏi)
cần được thông báo. Tính đón nhận mạo hiểm trong làm việc với
nhóm là cực kỳ quan trọng, nên nhóm viên cần có sự chuẩn bị tinh
thần trước.
Nhóm viên cần được giải thích kỹ trước khi tham gia nhóm về
những yêu cầu của nhóm như, theo Corey (1995), những giải thích
đó bao gồm:

- Mục đích cơ bản của nhóm (nhắm đến những kết quả cụ thể
nào).

- Một văn bản mô tả rõ về điều lệ, quá trình làm việc, và công
thức tập hợp nhóm.

- Văn bản về trình độ và tư cách nghiệp vụ của tư vấn

- Quá trình chọn lọc nhóm viên thích hợp cho nhóm.

- Tính mạo hiểm trong việc chia sẻ nội tâm với nhóm (thông
tin có thể bị rò rỉ), những trách nhiệm và quyền lợi của nhóm viên.

- Những thảo luận căn bản về hạn chế trong việc giữ kín thông
tin (confidentiality) của cả nhóm.

Số nhóm viên và tuổi thọ của nhóm: Là điều cần được chú
ý đến. Lý tưởng nhất là nhóm có từ 6 đến 8 người (Gazda, 1989).
Nếu nhiều quá, hoạt động của nhóm sẽ cồng kềnh và những điểm
nóng của từng nhóm viên sẽ bị lẫn và khó tập trung. Với trẻ em,
nhóm nên nhỏ hơn, từ 4 đến 6 em. Thời gian cho mỗi ca nhóm là 90
phút (với trẻ em thời gian nên ngắn hơn - 50 phút). Để nhóm hoạt
động tốt, một khoảng thời gian chừng 6 tháng, họp hàng tuần là
thích hợp. Tuy nhiên không nhất thiết. Điều này phụ thuộc tình hình
hoạt động của nhóm, số người trong nhóm, và tốc độ làm việc của
từng nhóm riêng biệt. Cần có sự thống nhất chung về thời gian làm
việc của nhóm. Tính đồng tâm rất cần thiết cho hoạt động tư vấn
của nhóm.

Nhóm đóng hay mở: nhóm đóng (closed group): Là nhóm


tính từ lúc bắt đầu đến lúc nhóm kết thúc chỉ bao gồm những nhóm
viên cố định, không kết nạp thêm nhóm viên mới. Ngược lại, nhóm
mở (open group) là nhóm mở ra và luôn luôn có thành viên mới
tham gia. Trong nhóm mở, khi nhóm viên cảm thấy mình trưởng
thành họ có thể tự động tách nhóm. Hạn chế của nhóm mở là người
mới và người cũ luôn tạo ra những chi phối khó tránh khỏi. Trong
trường hợp một nhóm viên rời nhóm, những người còn lại thường rơi
vào những xáo trộn về tâm lý. Nhưng điều tích cực của nhóm mở là
cho phép nhóm viên có cơ hội được ở lại lâu hơn để xử lý vấn đề của
mình một cách triệt để.

Vấn đề giữ kín (confidentiality): Là vấn đề nóng bỏng và tế


nhị. Đây là nét đặc trưng nổi cộm trong tư vấn. Một yếu tố then
chốt, có tính quyết định trong công tác tư vấn. Theo TS. Trần Thị
Giồng (2006), giữ bí mật là nguyên tắc trong tư vấn, để chứng tỏ sự
tôn trọng và tạo lòng tin của thân chủ vào tư vấn viên. Với tư vấn
nhóm, đây là một điều cần phải được nhắc nhở (emphasize) thường
xuyên.

Cần thiết trong buổi phỏng vấn và lần nhóm mặt đầu tiên
(initial session), nhóm viên được nghe giải thích về tính bí mật
thông tin của những hoạt động lên đến nhóm. Tư vấn viên cần nhấn
mạnh đây là phạm trù đạo đức mang tính bắt buộc. Nhóm viên được
mời gọi tham gia một cách trưởng thành trong xử thế mang tính văn
hóa và thể hiện tinh thần tôn trọng những bí mật riêng tư của thân
chủ. Tuy nhiên, nhóm viên cũng nên hiểu rằng đây là vấn đề phức
tạp và có những hạn chế chủ quan nhất định, nên họ có thể chấp
nhận tính tương đối của vấn đề giữ bí mật.

Hạ tầng cơ sở (physical structure): Là địa điểm để nhóm viên


và người hướng dẫn thực hiện các buổi làm việc. Nơi này cần có bầu
không khí thân thiện, lành mạnh, chuyên nghiệp. Một địa điểm sơ
sài quá sẽ không tạo ấn tượng, từ đó sẽ ảnh hưởng đến niềm tin và
đóng góp của các nhóm viên. Địa điểm cần cố định, tránh thay đổi
cho khi không thật sự cần thiết. Địa điểm cần là nơi trung tâm,
tránh quá xa nơi các nhóm viên đang sinh hoạt. Địa điểm phải tạo
được những tiện nghi căn bản để khuyến khích nhóm viên tham gia
đầy đủ, thường xuyên.

Người nhóm trưởng thứ hai (co-leaders): Là người nhóm


trưởng cùng làm việc với nhóm trưởng khác trong tư vấn nhóm. Tuy
không nhất thiết phải có hai nhóm trưởng. Tư vấn viên có thể hoạt
động độc lập như nhóm trưởng, tuy nhiên trong vài trường hợp, sự
xuất hiện của nhóm trưởng thứ hai là cần thiết, nhất là khi một
nhóm trưởng làm việc với nhóm, người thứ hai sẽ quan sát và ghi
chép phản ứng của nhóm. Nhiều tác giả đồng ý rằng, trường hợp
nhóm trưởng tay nghề yếu nên tham gia học hỏi với cương vị nhóm
trưởng thực tập với một tư vấn viên có kinh nghiệm, trước khi họ
bắt tay vào thực hiện làm việc với nhóm một mình. Dinkmeyer và
Muro (1979) đã đề nghị hai nhóm trưởng, lý tưởng nhất, nên có:

- Chung triết lý nghiệp vụ và thống nhất trong cách xử lý


nhóm.

- Cùng kinh nghiệm và năng lực nghiệp vụ.

- Xây dựng được nền tảng căn bản lành mạnh trong quan hệ
con người (làm gương).

- Ý thức được và khéo léo trong xử lý, khi các nhóm viên ủng
hộ một người và chống đối một người.

- Đồng ý với nhau về mục tiêu và quá trình vận hành nhóm để
đạt được hiệu quả trị liệu cho thân chủ.

Chia sẻ cảm xúc (self-disclosure): Được định nghĩa như việc


thổ lộ cảm xúc, thái độ, và niềm tin trong thời điểm hiện tại của các
nhóm viên cũng như của tư vấn viên. Điều này phụ thuộc vào sự
gắn bó của từng nhóm viên. Đây là hiện tượng đặc biệt, có tác dụng
đưa mọi người xích lại gần nhau. Trong thời kỳ đầu, rất ít nhóm viên
chịu chia sẻ; vì thế tư vấn viên cần khơi dậy trong nhóm viên nét
tích cực này. Chia sẻ cảm xúc sẽ kích thích tinh thần đồng đội nên
thường được nhắc nhở bởi nhóm trưởng, giúp mọi người có tinh thần
trách nhiệm với nhóm hơn. Tuy cần điều chỉnh để mọi người có cơ
hội; vì nhiều nhóm viên có xu hướng thích kể về mình.

Ý kiến phản hồi (feedback): Là những chia sẻ của các nhóm


viên sau khi suy nghĩ và cân nhắc để giúp các nhóm viên khác có
được những ý kiến từ góc nhìn khác về vấn đề của cá nhân họ. Đây
là những thông điệp mang tính hết sức chủ quan, vì thế ý kiến phản
hồi có thể có ích nếu chân thành và có tính xây dựng. Tuy nhiên,
nếu vận dụng sai lệch, nó sẽ là những châm chọc, báng bổ, khả dĩ
có thể đem đến những tai hại khó lường. Corey (1995) phân biệt ý
kiến phản hồi trong các ca tư vấn riêng rẽ (in sessions) (có thể rất
căng thẳng) và trong thời kỳ chuẩn bị kết thúc (termination)
(thường chân thành). Theo đó, tư vấn viên cần chọn lọc trong việc
xử lý những ý kiến phản hồi, sao cho kết quả đem lại giúp cho các
nhóm viên nhiều nhất. Để biết chắc nếu những ý kiến phản hồi có
hiệu quả hay không, Hoffman, Splete, và Pietrofesa (1984) đề nghị
chúng phải:

- Phục vụ có ích cho người nghe, không phải cho người nói.

- Sử dụng qua diễn tả cụ thể, sát với nội dung hành động,
tránh vòng vo, xách mé.

- Sử dụng đúng lúc, ý kiến phản hồi tích cực (nói tốt) có ảnh
hưởng tốt hơn ý kiến phản hồi tiêu cực (nói xấu) trong giai đoạn đầu
mới thành lập nhóm.
- Được đưa ra ngay thức thời, gần thời gian với hành vi của
người nghe. Tránh một thời gian sau mới nhắc lại.

- Chân thành và trên tinh thần xây dựng, tránh dùng với mục
đích gây hại.

Chăm sóc nhắc nhở sau tốt nghiệp (follow-up): Là một việc
làm có tính đạo đức nghề nghiệp. Nó thể hiện được tinh thần trách
nhiệm của tư vấn viên. Điều này giúp các nhóm viên tiếp tục vận
dụng những kinh nghiệm họ thu thập được vì sự nhắc nhở của nhóm
trưởng. Hơn nữa, việc làm này sẽ giúp nhóm trưởng có thêm những
kinh nghiệm cho những lần làm việc nhóm sau này. Theo Corey
(1995), việc làm chăm sóc nhắc nhở sau tốt nghiệp (after
termination) nên được tiến hành ngay 3 tháng sau khi tốt nghiệp tư
vấn nhóm. Vì thế trong buổi sau cùng của hoạt động nhóm, các
thành viên cần được biết về một buổi nhóm họp sau 3 tháng, như
thế họ sẽ sẵn sàng và đáp ứng nhanh chóng khi thời điểm cuộc hẹn
được tổ chức.

Một nhóm trưởng hiệu quả cần có những đức tính thích
hợp: Tất nhiên sự đóng góp tham gia của nhóm viên có ảnh hưởng
đến chất lượng của cả nhóm và cho cá nhân họ, một nhóm trưởng
hiệu quả cũng sẽ có những đóng góp tích cực không kém. Một nhóm
trưởng cửa quyền, tính tình hung hăng, thích chất vấn, và không
trưởng thành về mặt cảm xúc sẽ khiến cho nhóm viên bị tổn
thương, dẫn đến bỏ nhóm. Yalom (1995) đã nêu ra những phẩm
chất tốt của một nhóm trưởng có hiệu quả:

- Có sự quan tâm đến lợi ích của nhóm viên (càng nhiều càng
tốt).
- Có những đóng góp quan trọng trong việc giải thích, vạch rõ
những điểm cần tập trung, cung cấp chất liệu và công cụ cho tiến
trình tái thiết khung tư duy cho các nhóm viên.

- Nguồn cảm hứng cảm xúc, khả năng tạo nên những hoạt
động gắn bó với nhóm, tạo ra cơ hội mời gọi trong mạo hiểm, đón
nhận thử thách, và cả những chia sẻ cảm xúc trong quá trình làm
việc với nhóm.

- Có chức năng chỉ đạo, giúp nhóm viên theo sát thủ tục vận
hành, tuân theo qui định và cộng tác với cơ cấu của nhóm.

Tư vấn viên làm việc hiệu quả: Là luôn trung lập, tránh kéo
bè gây phái, mặc dù quan điểm của mình có mâu thuẫn với một số
nhóm viên khác. Kottler (1994) nhận xét một tư vấn viên làm việc
hiệu quả sẽ nhận ra những xung lực có tính trị liệu (therapeutic
forces) và những xung lực có hại (destructive forces). Vì thế nhiệm
vụ của họ như một dụng cụ chọn lọc, giúp điều tiết những xung lực
có ích cho nhóm. Ngoài ra nhóm trưởng cần tích cực và có tâm
huyết với nhóm mới là nhóm trưởng có hiệu quả (Yalom, 1995).

Corey (1995) cho rằng một nhóm trưởng có hiệu quả cần có:
tinh thần trách nhiệm, thái độ luôn có mặt với nhóm, khả năng thúc
đẩy người khác, can đảm, biết tự chất vấn với chính mình, thành
thật, trung thực, nhiệt tình, có óc sáng tạo.

Quan trọng hơn cả, một nhóm trưởng phải là người có kinh
nghiệm. Họ có được đào tạo chuyên môn, có kiến thức về vận hành
nhóm, song song với những kiên thức tư vấn khác. Họ cần có lòng
tự tin và am tường những giai đoạn phát triển của nhóm, khả năng
xử lý những phát sinh không nằm trong kế hoạch.

6. Kết luận
Tư vấn nhóm hay còn gọi là làm việc với nhóm (group work) là
một bộ phận của tư vấn. Đây là một hoạt động phong phú, có hiệu
quả thiết thực với một số đông trong xã hội. Tất nhiên môi trường
nhóm có lợi cho một số trường hợp và có hại cho một số trường hợp
khác.

Chất lượng hoạt động của nhóm tùy thuộc vào một số điểm
then chốt như bản thân các nhóm viên, sự chọn lọc kỹ càng trước
khi thành lập nhóm, và từ hiệu năng của một nhóm trưởng.

Hoạt động nhóm có những nguyên tắc của nó, điều này cần
được thực hiện một cách có chuyên môn, càng không thể xem nhẹ.
Những vấn đề trong hoạt động nhóm cần được các thân chủ hiểu
thấu đáo và nắm rõ, để từ đó những xử lý cần thiết được áp dụng
trong tinh thần hợp tác, sâu sát, và đạt hiệu quả cao.

Nhu cầu hoạt động nhóm trong thực tế xã hội sẽ trở thành nhu
cầu ngày càng cao, trách nhiệm của đội ngũ tư vấn viên là tạo ra
những sinh hoạt nhóm có ý nghĩa, có chất lượng, nhằm góp phần
kiến tạo những kinh nghiệm tốt trong lòng những người tìm đến dịch
vụ tư vấn qua hoạt động nhóm.

Chương 14
TƯ VẤN NGHỀ NGHIỆP TRONG SUỐT HÀNH TRÌNH ĐỜI
NGƯỜI

1. Dẫn nhập

Chọn nghề là một hoạt động mang tính xã hội đã có từ rất sớm
trong lịch sử xã hội con người. Hẳn chúng ta đã nghe trong tục ngữ
Việt Nam ta đã có câu: Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương, đây
là một ví dụ cho thấy ngay từ thời xưa bức xúc trong việc chọn nghề
đã có. Xã hội càng phát triển, nhu cầu chọn nghề càng trở nên cấp
thiết hơn.

Thuật ngữ tư vấn hướng nghiệp được sử dụng rộng rãi. Nhưng
nó có vẻ giành riêng cho học sinh sinh viên. Hẳn nhiên học sinh và
sinh viên rất cần đến hướng nghiệp. Song, trong hoàn cảnh xã hội
hiện tại, những người đã trưởng thành cần tìm cho mình một nghề
mới không phải là hiếm, từ đó thuật ngữ tư vấn nghề nghiệp được
sử dụng trong chương này không khác về ý nghĩa, chỉ là bao quát
hơn, tránh gạt bỏ những người lớn tuổi ra khỏi bức tranh tư vấn liên
quan đến nhu cấu tìm việc làm thích hợp của mọi giới.

Ngày nay, nghề nghiệp không còn đơn thuần là phương tiện
kiếm sống. Nghề nghiệp hôm nay được đặt vào một bối cảnh rộng
lớn hơn, chịu ảnh hưởng của những áp lực đến từ những nhu cầu xã
hội khác như giải trí, giờ giấc, phúc lợi, khả năng tiến thân, môi
trường làm việc, ý nghĩa của công việc, và những cảm xúc tâm lý
khác. Vì thế nghề nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến đời sống thể lý
mà còn đến cả đời sống tâm lý xã hội nữa.

Quá trình chọn nghề ở mỗi cá nhân có khác nhau, dựa trên
những cá tính của người đó, như: nhân cách, lối sống, lý lịch bản
thân và gia đình, giới tính, trình độ giáo dục, điều kiện sống, điều
kiện môi trường xung quanh… Vì thế thu cầu tư vấn đối với cá nhân
không chỉ xảy ra ở cấp độ sinh hoạt nhóm mà nó có thể được áp
dụng với từng cá nhân một.

Trong các trường phổ thông trung học và đại học nước ngoài
luôn có những văn phòng hoặc trung tâm tư vấn nghề nghiệp. Các
tổ chức ban ngành phúc lợi công cộng cũng vậy. Điều này không
phải ngẫu nhiên, mà rõ ràng là một thực tế quan trọng đối với là
những người có quan tâm đến xã hội.

Nhất là trong bối cảnh tiến trình toàn cầu hóa, nhu cầu và cơ
hội phát triển nghề nghiệp càng trở nên đa dạng và phong phú.
Chuẩn bị cho một nghề nghiệp liên quan đến đầu tư vào giáo dục, vì
thế chọn đúng nghề không phải là một lựa chọn đơn thuần, mà là
một quyết định cần được cân nhắc kỹ lưỡng.

Thiết nghĩ, tư vấn nghề nghiệp không thể xem nhẹ, vì nó là


một công cụ quan trọng trong quá trình điều tiết, giúp cá nhân tìm
được ý nghĩa cuộc sống thông qua việc chọn đúng nghề, làm đúng
việc, hợp với khả năng và còn giúp ổn định trật tự kinh tế xã hội.

2. Tầm quan trọng của tư vấn nghề nghiệp

Crites (1981) đã đề ra những điểm căn bản tại sao tư vấn


nghề nghiệp là quan trọng:

- Tư vấn nghề nghiệp tập trung cả vào thế giới nội tâm và cả
thế giới bên ngoài của cuộc đời, trong khi tư vấn những mảng khác
thường tập trung nhiều hơn vào khung tư duy và hệ thống bên
trong cá nhân con người.

- Kinh nghiệm thu gặt được từ tư vấn nghề nghiệp cho cá nhân
một cảm giác tự tin vì họ thật sự hiểu được con người họ trong bối
cảnh xã hội, từ đó họ an tâm và thoải mái hơn, vì đóng góp của họ
cho cuộc đời là đóng góp có ý nghĩa. Riêng bản thân, họ tìm được
những giá trị có ý nghĩa cho cá nhân mình. Krumboltz (1994) nhận
định rằng tư vấn nghề nghiệp đề cập đến nhiều khía cạnh, tương tự
như trong tư vấn cá nhân khác, song bối cảnh xã hội được giới thiệu
vào quá trình tư vấn nghề nghiệp, nên nó là một hình thức tư vấn
toàn diện.
- Tư vấn nghề nghiệp có ích cho thân chủ vì nó không chỉ đề
cập đến nhân cách, mơ ước, sở thích, nguyện vọng, mà thân chủ
còn được biết đến những đại lượng khác trong bức tranh nghề
nghiệp rộng lớn, từ đó họ hiểu thêm về xã hội họ đang sống. Nhất là
tư vấn nghề nghiệp cho họ một cái nhìn "từ bên trong" và họ có cơ
hội chọn lựa, an tâm với chính mình, giành hết năng lực và công sức
của bản thân một khi đã chọn ra một nghề thích hợp cho mình.

3. Phạm vi tư vấn nghề nghiệp và các ngành nghề

Trên thực tế, một tư vấn viên hướng nghiệp cần có kiến thức
chuyên môn phong phú, nhưng vị trí của họ trong xã hội thường
không nổi cộm, mà chỉ là những cống hiến thầm lặng. Họ giống như
người chọn áo, hóa trang cho diễn viên, âm thầm làm việc bên
trong cánh gà sân khấu.

Họ là những người phân tích kỹ trường hợp thân chủ, gạn lọc
cẩn thận, sau cùng đem đến những gợi ý và thông tin chính xác,
giúp thân chủ tìm ra một chọn lựa thích hợp, mang tính quyết định
lâu dài cho đời sống của mình.

MacDaniels (1984) giới thiệu khái niệm giải trí vào bức tranh
nghề nghiệp với đẳng thức mới:

Nghề nghiệp = Làm việc + Giải trí

Theo ông, trong tương lai. Con người sẽ không chỉ làm việc mà
họ còn có nhu cầu hưởng thụ cuộc sống. Vì thế, đây là một khái
niệm không chỉ đáp ứng được yêu cầu cuộc sống hiện tại mà còn
chuẩn bị cho tư vấn viên một não trạng tốt, sẵn sàng làm việc với
tương lai.
Mọi học thuyết đề cập trong các chương 8, 9, 10, 11 đều áp
dụng được trong tư vấn nghề nghiệp, tùy thuộc vào từng trường
hợp, hoàn cảnh cụ thể của khách hàng.

4. Thông tin nghề nghiệp

Ở những nước đã phát triển, thông tin nghề nghiệp thật dễ


tìm, dễ có. Chính phủ và các ngành xã hội luôn có những tài liệu,
đôi khi phát miễn phí hoặc cho mượn. Các hệ thống thư viện luôn
đầy ắp tài liệu và sách vở cho bạn đọc về thông tin nghề nghiệp.

Riêng ở Việt Nam, thông tin nghề nghiệp rất hạn chế. Nhiều
trường cao đẳng về những ngành nghề không được học sinh biết
đến. Học trò của những trường này thường là con cháu, bạn bè,
hàng xóm của những người trong nghề, biết được sự hiện diện của
trường, và nhận thấy đó cũng là nghề kiếm sống được, thế là họ
nộp đơn, ghi danh, dự thi, vào học… tốt nghiệp rồi đi làm.

Nhiều người đọc quảng cáo chiêu sinh, song những phương
tiện này chỉ rộng rãi ở thành phố, còn những tỉnh với vùng sâu,
vùng xa, mảng thông tin thường không được cập nhật hoặc trưng
dẫn một cách hình thức, từ đó dẫn đến tình trạng có làm nhưng
không gặt hái được nhiều.

Sau đây là vài kiến nghị, dựa theo kinh nghiệm tư vấn nghề
nghiệp của Hoa Kỳ, thông tin nghề nghiệp cần được phổ biến trong
những dịp:

- Hội chợ nghề nghiệp định kỳ (career fair), thường xuyên mời
được đông đảo các đơn vị kinh doanh, tổ chức kinh tế, xí nghiệp,
nhà máy, các trường đại học, bệnh viện, sở ban… tham dự.
- Hệ thống thư viện được trang bị những thông tin nghề nghiệp
để mọi người có điều kiện tiếp cận với thông tin cập nhật.

- Kêu gọi các cơ quan hãy tạo những nỗ lực chiêu sinh, tuyển
việc đến gần hơn nữa với giới lao động và các học sinh, sinh viên.

- Xây dựng những hệ thống máy vi tính có lưu trữ những phần
mềm có nội dung liên quan đến nghề nghiệp.

- Có những buổi nói chuyện chuyên đề bởi những chuyên viên


trong nghề trên tivi, đài, báo… về ngành nghề, mặt trái và mặt phải.

Học thuyết của Holland (1997) được coi là học thuyết được
thiết kế với mục đích phục vụ công tác chọn nghề. Đây là một
thuyết được dựa trên cơ sở phân tích rất chặt chẽ, tính áp dụng cao.
Dưới đây là giải thích sơ lược về học thuyết này. Sáu khái niệm cá
tính trong thuyết chọn nghề của ông, gồm 6 loại, nên cũng thường
gọi là “lục giác cá tính”:

1. Thực tế (R - realistic): là người chuộng kỹ năng, có óc kỹ


thuật, thích cụ thể, cơ khí (thích hợp với công việc kỹ sư, thợ máy,
nông dân, công nhân).

2. Thám tử (I - investigative): thích phân tích, trừu tượng, có


óc khoa học (thích hợp làm nhà nghiên cứu, lập trình viên, nhân
viên phòng thí nghiệm, địa chất, hải dương học, bác sĩ, dược sĩ…).

3. Nghệ thuật (A - artistic): có óc tưởng tượng phong phú, rất


sáng tạo, có khiếu thẩm mỹ (thích hợp với việc như nhạc sĩ, nhà
thơ, viết lách, họa sĩ, nhà thiết kế, nhiếp ảnh…).

4. Hoạt động xã hội (S - social): có nguyện vọng phục vụ, yêu


cái đẹp hoạt bát, quý trọng giá trị giáo dục (thích hợp với ngành
giáo dục, xã hội học, từ thiện, đi tu, bác sĩ, y tá…).
5. Kinh doanh (E - enterprising): có khiếu thuyết phục, ngoại
giao, ăn nói lưu loát, năng động, xông xáo (thích hợp với tiếp thị,
quản lý, nhà kinh doanh, làm chủ doanh nghiệp…).

6. Nghiêm túc (C - conventional): có tổ chức, ngăn nắp, thực


dụng, nguyên tắc (thích hợp với việc kế toán, nhân viên chức, nhân
viên nhà băng, thâu ngân…).

Holland đề nghị sắp xếp 6 nhân cách này theo thứ tự: R-I-A-S-
E-C

Thứ tự RIASEC này sau đó được chia ra làm sáu nhóm:

RIA: tốt nhất là nhà nghiên cứu (I) - sau đó là lựa chọn 2 để
trở thành kỹ sư (R), hoặc nghệ sĩ (A).

IAS: tốt nhất là nghệ sĩ (A), kế đến là nhà nghiên cứu (I) hoặc
cô giáo (S).

ASE: tốt nhất là cô giáo (S), sau là nghệ sĩ (A) hoặc nhà kinh
doanh (E).

SEC: tốt nhất là nhà kinh doanh (E), sau là cô giáo (S) và
nhân viên chức (C).

ECR: tốt nhất là nhân viên chức (C), sau đó là nhà kinh doanh
(E) và kỹ sư (R).

CRI: tốt nhất là kỹ sư (R), sau là nhà nghiên cứu (I) và nhân
viên chức (C).

Những tư vấn viên nghề nghiệp theo thuyết này còn đặt cho
nó cái tên là thuyết yếu tố cá tính (trait-factor). Đầu tiên, thân chủ
được đưa cho một bản trắc nghiệm về cá tính, sau đó họ được đưa
cho một danh mục bao gồm tất cả những ngành nghề, với những
yêu cầu đào tạo khác nhau và đòi hỏi những kỹ năng căn bản nào
đó.
Ví dụ trong ngành y, có nhiều nghề, tuy cùng làm trong bệnh
viện, song chức năng và đào tạo có khác biệt rất lớn. Chẳng hạn từ
thấp lên cao như: trừ điều dưỡng, y tá dược tá, y sỹ, bác sĩ, chuyên
khoa trưởng… Vì thế, một thân chủ sẽ dựa vào khả năng của mình
để chọn một hướng giải quyết của mình phù hợp với điều kiện bản
thân. Họ có thể có một vài quyết định như thi vào trung cấp, nhắm
đến đại học tại chức sau này, hoặc bỏ ra 1 năm luyện thi thật chăm
chỉ…

5. Tư vấn nghề nghiệp với những nhóm đối tượng khác


nhau

Như đã trình bày, đối tượng có nhu cầu tìm việc, học nghề đến
từ mọi lứa tuổi, bao gồm học sinh phổ thông, cán bộ chuyển ngành,
bộ đội về hưu, lý do sức khỏe, giải thể, muốn thay đổi điều kiện
sống, tăng thu nhập, giảm biên chế, về hưu… Vì thế tư vấn viên
nghề nghiệp cần đầu tư chút thời gian để hiểu sơ qua về những nét
căn bản của từng nhóm đối tượng vừa kể trên.

Với trẻ em: Xin đừng cười, trẻ em đã có ý thức nghề nghiệp
từ rất sớm. Các em biết người lớn xung quanh mình đi làm và làm gì
vì nghe cha mẹ, anh chị kể về việc làm. Chính những câu chuyện
nghề nghiệp nhất định ấy đã có ảnh hưởng đến các em. Tuy nhiên,
các em rất cần đến một bức tranh toàn diện về các ngành nghề
trong xã hội. Vì thế, nhà trường và những người có trách nhiệm cần
tố chức những cuộc dã ngoại, tham quan (field trip), giới thiệu với
các em về những ngành nghề khác nhau, điều này mang tính giáo
dục rất cao. Những kinh nghiệm với các hình thái công việc khác
nhau sẽ cho các em những suy nghĩ, giúp các em củng cố nhiều hơn
nữa về những quyết định nghề nghiệp sau này. Một đề nghị là
trường học nên tổ chức những buổi tham quan do các đơn vị có tâm
huyết bảo trợ, hoặc mời những công nhân viên có tinh thần, thiện
nguyện (volunteer) đến trường kể chuyện về nghề nghiệp và việc
làm của mình cho các em nghe.

Với tuổi dậy thì: Giúp trẻ em sắp bước vào thế giới trưởng
thành xác định được điều các em cần biết, nên biết; có liên quan
đến nghề nghiệp. Không như quá khứ, nhiều nghề cha truyền con
nối và không đòi hỏi văn bằng, chứng chỉ; xã hội hôm nay rất cần
đến đào tạo chuyên môn và chứng nhận tốt nghiệp. Vì thế, các em
cần được hướng dẫn cụ thể, xác định được nghề mình thích, sau đó
sẽ có hướng chuẩn bị thích hợp, đáp ứng tốt yêu cầu tuyển sinh cho
các khóa đào tạo phù hợp với ngành nghề các em yêu thích.

Ngoài việc được hướng dẫn bởi một tư vấn hướng nghiệp có
chuyên môn, các em cần được đề nghị thám hiểm về đề tài nghề
nghiệp: các em được khuyến khích sẽ trực tiếp gặp gỡ 5 đến 10
người lớn trong gia đình, hàng xóm, bạn bè của cha mẹ, anh chị với
những ngành nghề khác nhau, từ đó các em sẽ có một khái niệm
hoàn chỉnh, đầy đủ hơn về bức tranh nghề nghiệp.

Bloch (1989) đề xuất những hướng dẫn cho một chương trình
tư vấn, đặc biệt giành cho các em đang có nguy cơ bỏ học vì những
điều kiện khác nhau:

- Các em cần hiểu biết về bức tranh hiện tại và bức tranh
trong tương lai giữa có nghề và không có nghề. Một kế hoạch phù
hợp với từng cá nhân học sinh, với sự quan tâm thành thực, thể hiện
được tinh thần quan tâm đến các em.

- Chương trình này nên có quan hệ với những đơn vị sản xuất,
đề nghị họ tạo điều kiện giúp đỡ các em.
- Giới thiệu những chương trình huấn nghệ có cấp chứng chỉ
học nghề cho các em, và những chương trình giáo dục thường
xuyên, bổ túc, học ban đêm…

Với sinh viên: Nhiều người sau khi vào đại học, với nhiều lý
do khác nhau, đã biết mình không còn hứng thú với môn học, ngành
học do có nhiều phát sinh mới ngoài dự đoán. Trong những trường
hợp này, các sinh viên rất lúng túng, lấn cấn với những băn khoăn
giữa đi tiếp hay chuyển hướng. Dù sao họ cũng đã đầu tư công sức
và tiền bạc. Bỏ thì vương, thương thì tội. Tư vấn viên cần giúp sinh
viên hiểu:

- Trực giác chọn nghề lần đầu tiên thường là tốt, nếu họ đã
suy nghĩ chín chắn trong chọn nghề lần trước.

- Nhiều người có khuynh hướng dễ dao động và các em cần


xem xét lại có phải đó là động lực đổi nghề.

- Nghề nào cũng có thế mạnh, điểm yếu, thuận lợi và khó
khăn, dù bề ngoài trông có vẻ không như thế, có vẻ như nghề này
hát mặt hơn nghề khác.

- Nên dứt khoát, nếu ở lại ngành học cũ, quên hẳn những mời
gọi khác. Nếu chuyển ngành học, nhất định không nuối tiếc ngành
học cũ nữa.

- Giúp các sinh viên liên hệ xem chương trình học cũ có áp


dụng được với ngành học mới, có thể đốt ngắn thời gian đào tạo ở
ngành mới, tránh lãng phí công sức, tiền bạc.

- Giúp các bạn có kỹ năng xử lý giải quyết, tránh những vấp


phạm tương tự trong tương lai.

- Giới thiệu những kỹ năng học tập, nhiều bạn muốn chuyển
ngành học vì chương trình học quá nặng, khó khăn. Trong trường
hợp này tư vấn viên nên cho các bạn sinh viên biết là thành quả của
việc phấn đấu không chỉ có ý nghĩa với bản thân mà còn giúp họ
trưởng thành, chín chắn hơn

Với người trưởng thành: Nhiều cá nhân do nhiều lý do, làm


đủ các việc, cuối cùng lại muốn thay đổi. Tất nhiên nhu cầu của họ
phải được coi là chính đáng, cần thiết. Tư vấn viên phải ghi nhận cố
gắng của họ, tránh xem thường, hạ thấp, cho rằng họ có vấn đề
trục trặc về chuyện có quyết định với bản thân. Thông thường, đối
tượng tìm đến tư vấn việc làm ở độ tuổi đã lớn thường gặp rất nhiều
khó khăn. Vì thế, họ cần được trung tâm tư vấn trợ giúp trong mọi
khả năng có thể, như cần có sự phối hợp với bên xã hội, thương
binh lao động, các chương trình hỗ trợ…

Tư vấn viên cần hiểu những cố gắng săn việc của thân chủ là
một cố gắng trong việc tìm ra những giải pháp giúp ổn định cho
cuộc sống của họ. Tư vấn viên có nhiệm vụ giúp cá nhân điểm lại
kinh nghiệm lao động trong quá khứ, giúp họ hệ thống hóa lại
những kinh nghiệm và kỹ năng sẵn có. Việc này giúp họ soạn ra
một bản lịch sử kinh nghiệm lao động (resumé), vốn không chỉ giúp
họ nhìn nhận ra giá trị đóng góp cho xã hội mà còn giúp họ tự tin
hơn trong công tác đi tìm một công việc mới, thích nghi với hoàn
cảnh hiện tại.

Tư vấn viên cần có một danh sách những ngành nghề tạo ra cơ
hội để thân chủ có thể lựa chọn và tự làm chủ doanh nghiệp.

Những thủ tục cần thiết để huy động vốn, những nguồn tài trợ,
giúp đỡ của Chính phủ cũng như từ nhiều nguồn khác nhau. Tất
nhiên tư vấn viên cần tham khảo với những chuyên viên có kinh
nghiệm nghiệp vụ về nhiều lĩnh vực khác như tài chính, luật pháp,
xã hội… Đây là cơ hội tốt nhất để tư vấn viên có tham vấn với các
ngành khác.

Cần nhớ, ngoài những kiến thức về phát triển tâm- sinh- lý của
con người, những kỹ năng cần thiết, một tư vấn viên nghề nghiệp có
trách nhiệm, làm việc có hiệu quả rất cần đến những kiến thức liên
ngành, nhằm đem đến cho thân chủ những thông tin cần thiết trong
một khoảng thời gian ngắn nhất. Nên biết, khi thân chủ đến với tư
vấn viên, dịch vụ tư vấn gần như là cánh cửa sau cùng.

Với những nhóm đối tượng khác: Như phụ nữ, dân tộc
thiểu số, người tàn tật nhưng vẫn có khả năng lao động, và những
người có hạn chế về giới tính, ngoại hình… tư vấn viên cần tế nhị,
tránh tỏ vẻ thương hại, lo lắng. Tư vấn viên không đến với họ bằng
lòng trắc ẩn. Chúng ta cần cung cấp những dữ kiện có liên quan đến
hoàn cảnh cụ thể.

Quá nhạy cảm (oversensitive) và có những biểu hiện quan


ngại là không đúng. Những nhóm đối tượng này vẫn được coi như
bình thường. Tất nhiên việc đồng cảm với những khó khăn họ gặp
phải là có thể hiểu được. Luôn nhắm tới để khôi phục tinh thần lạc
quan, tuy không quá xa rời thực tế. Bày tỏ ủng hộ với những trăn
trở của họ qua việc vạch ra rằng toàn bộ xã hội đều thế, ai cũng có
những nan đề cần giải quyết. Nhiệm vụ của họ là có niềm tin vào
cuộc sống. Ít nhất với thái độ này, họ sẽ có thêm tự tin lạc quan. Tự
tin và lạc quan luôn là vốn quý xã hội rất cần đến.

6. Kết luận

Nghề nghiệp là một phần của đời sống con người. Ý thức và
phát triển nghề nghiệp có từ rất sớm. Không chỉ dừng lại ở một độ
tuổi nào đó, nhu cầu hướng nghiệp, tìm việc làm mới là một nhu cầu
rất thực, của toàn xã hội, không phân biệt tuổi tác.

Nhà trường và đội ngũ tư vấn viên cần ý thức được rằng đây là
một bức xúc chung của xã hội, song không phải là nan đề có thể áp
dụng chung với mọi người. Vấn đề nghề nghiệp đối với từng cá nhân
có những khác biệt rất lớn, phần nhiều tùy thuộc vào cá tính, hoàn
cảnh, điều kiện, và môi trường sống của thân chủ.

Xã hội đang thay đổi, cơ cấu nghề nghiệp và lao động trong xã
hội cũng khác. Nhu cầu sống và giải trí của con người đang có
những thay đổi về mặt cơ bản, đây cũng là một thách thức cho đội
ngũ tư vấn viên khi họ làm việc với những thân chủ thuộc nhiều
nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội (đa văn hóa). Hy vọng rằng
với sự quan tâm và hỗ trợ đến từ nhiều ban ngành khác, đội ngũ tư
vấn viên sẽ làm tốt hơn, góp phần ổn định xã hội qua việc giảm
thiểu những căng thẳng, nhất là về lĩnh vực hướng đạo nghề nghiệp
cho xã hội.

Chương 15
TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG:
BẬC TIỂU HỌC - TRUNG HỌC CƠ SỞ - TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG

1. Dẫn nhập

Nhu cầu tư vấn học đường ở cả ba cấp là thiết thực, nếu không
muốn nói là không thể thiếu được.

Theo kinh nghiệm các nước phát triển, trẻ em khác nhau ở hai
khía cạnh: môi trường sống và khả năng của bản thân mỗi em.
Môi trường sống có thể là nơi cung cấp những hướng dẫn tốt
đẹp tích cực ban đầu, song không phải em nào cũng may mắn được
thế. Môi trường các em sống sẽ có ảnh hưởng, rồi những ảnh hưởng
ấy sẽ theo các em vào lớp học, tác động không nhỏ đến quá trình
học tập, tư cách đạo đức, và những hành vi biểu hiện trong sân
trường.

Khả năng bản thân của mỗi em cũng là một nhân tố quyết
định đến quá trình tiếp thu và hòa nhập vào môi trường học đường.
Tuy cùng một độ tuổi phần nhiều các em phát triển bình thường,
song cũng có một số em kém may mắn hơn, điều này có nhiều
nguyên nhân khác nhau, nhưng ảnh hưởng của nó rất rõ: các em có
hoàn cành không bình thường sẽ không đáp ứng được nhu cầu
chung như các em khác.

Từ hai mảng môi trường sống và khả năng bản thân, có ảnh
hưởng đến quá trình học của các em. Thiết nghĩ tư vấn học đường là
thiết thực, nếu như chúng ta thật sự tin rằng: mọi học sinh đều
được hướng dẫn, nâng đỡ để các em trở thành công dân có ích cho
tương lai đất nước.

2. Tư vấn học đường và hướng dẫn học tiểu học

Tư vấn viên học đường bậc tiểu học là những người chiến sĩ
bảo vệ đầu tiên, rất quan trọng đối với các em học sinh. Họ là
những người nhận ra những biểu hiện phát triển (development) về
tâm- sinh- lý của các em. Tất nhiên ở Việt Nam, không phải trường
học nào cũng được trang bị một đội ngũ tư vấn học đường.

Những điều lỗi, sai phạm, học kém… bình thường được giao
cho giáo viên lớp xử lý (nếu nhẹ). Nặng hơn thì Ban giám hiệu xử lý.
Tất nhiên những nhân sự này đã cố gắng hết mình trong khả năng
có thể của họ, song vấn đề chỉ được giải quyết ở phần cắt- cái- ngọn
chứ không được xử lý đào- tận- gốc. Vì thế tư vấn học đường ở Việt
Nam cần được quan tâm như một nỗ lực đồng bộ, áp dụng đồng
nhất trên toàn lãnh thổ đất nước.

Cố gắng xóa dần khoảng cách giữa thành phố và nông hôn
luôn gặp những khó khăn cố hữu. Điều này không phải là ngoại lệ
với những nước đang phát triển. Ngay cả với những nước đã phát
triển, đây vẫn là một bài toán đang rất cần có đáp án thỏa đáng.
Chúng ta hy vọng, và làm tất cả trong khả năng, tận dụng mọi điều
kiện sẵn có, cố gắng trong mọi trường hợp. Chúng ta cần trang bị
với một suy nghĩ: xã hội sẽ khác đi nếu xã hội ấy có thêm một
thành viên tốt, và xã hội cũng sẽ khác đi nếu chúng ta có thêm một
thành viên không tốt. Suy nghĩ đó sẽ giúp chúng ta cố gắng hơn
trong mọi khả năng có thể.

Gysbers và Henderson (1994) đã đề xuất tư vấn viên học


đường cần nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công cuộc góp phần
xây dựng chất lượng học tập của học sinh tiểu học bằng cách:

- Thúc đẩy áp dụng hướng dẫn trong môi trường lớp học.

- Cung cấp tư vấn nhóm cho các em, nhất là cho các em có
nhu cầu, hoàn cảnh bất thường.

- Giúp các em nhận ra khả năng và năng khiếu của bản thân.

- Làm việc với các em có những nhu cầu đặc biệt (trẻ chưa
ngoan - tránh từ trẻ hư).

- Làm trung gian giữa nhà trường với các đơn vị tài trợ và cơ
quan địa phương, trong vai trò tham vấn viên.

- Đề xướng những chuyến tham quan nghề nghiệp (tại các xí


nghiệp, cơ quan).
- Tham vấn với thầy cô và các chuyên môn khác (bác sĩ gia
đình, cảnh sát khu vực).

- Liên lạc với gia đình và phụ huynh, trong vai trò tham vấn.

- Là một thành viên trong hội đồng kỷ luật của trường, đại
diện như một tiếng nói đứng về phía học sinh, đại diện cho quyền lợi
của các em.

Qua kinh nghiệm được chia sẻ của hai tác giả trên, ta có thể
nhận ra ngay rằng tư vấn viên học đường phải là một nhân viên làm
việc thường trực, độc lập, và nhất định là nên qua một khóa đào tạo
có căn bản, có hệ thống, để mô hình hoạt động trong các trường
tiểu học mang tính đồng bộ và thống nhất.

Nên biết, những tư vấn viên tham gia đội ngũ tư vấn học
đường được mời gọi làm việc như những đại diện cho học sinh. Họ
không làm việc chỉ đơn giản vì đồng lương mà vì trách nhiệm và tình
thương mến họ giành cho các em. Cho nên, trong mọi trường hợp
họ cần trình bày trước những bộ phận chức năng khác về hiện trạng
của một học sinh cá biệt trong bối cảnh bức tranh nhiều mặt để mọi
biện pháp áp dụng sẽ đem lại hiệu quả cao nhất cho em học sinh
đó.

Nhiệm vụ của tư vấn viên học đường bậc tiểu học là có những
hoạt động mang tính ngăn chặn và sửa chữa. Một nhận định thú vị,
nhưng rất thực tế là 1 đồng bỏ ra để đầu tư vào biện pháp phòng
ngừa sẽ tiết kiệm được 3 đồng trong tương lai khi nan đề thực sự
xảy ra.

Hoạt động phòng ngừa (prevention) là hoạt động mà tư vấn


viên cần quan tâm. Họ làm việc với các bộ phận khác, khoanh vùng
những em có biểu hiện cần sự giúp đỡ, từ đó họ có những can thiệp
thỏa đáng, kịp thời, trước khi vấn đề trở nên vượt quá khuôn khổ
cho phép, trở thành phức tạp hơn. Với tư thế chủ động và sớm phát
hiện, vụ việc thường dễ xử lý hơn, nhanh chóng hơn, đỡ tốn kém và
bớt lãng phí hơn.

Hoạt động sửa chữa (remediation) là dạng hoạt động sau khi
vấn đề đã được khoanh vùng và cần đến một giải pháp thích hợp.
Như trường hợp học sinh đánh nhau quá nhiều lần áp dụng biện
pháp sửa chữa là hoạt động có tính hệ thống, sử dụng những
chuyên môn nghiệp vụ, liên kết với những bộ phận khác, tạo ra một
mặt trận nhiều mũi, tạo thế mạnh tổng hợp giúp đỡ một học sinh.
Trong trường hợp này, tư vấn viên sẽ song song tiến hành công tác
tư vấn với học sinh và áp dụng những hỗ trợ từ giáo viên phụ trách
và phụ huynh của các em.

Tư vấn viên có thể sử dụng trò chơi liệu pháp (play therapy)
qua đó học sinh sẽ bộc lộ cảm xúc và hành vi của mình với những
món đồ chơi hay trò chơi, từ đó tư vấn viên sẽ tìm ra mấu chốt của
những căn nguyên gây ra bức xúc, và hướng giải quyết sẽ được xây
dựng.

Một liệu pháp khác là đọc sách liệu pháp (bibliotherapy) trong
đó sách viết về những câu chuyện có những nội dung gần gũi với
hành vi của trẻ, sau đó tư vấn viên sẽ cùng trẻ đọc những sách này,
mục tiêu chính là để cung cấp cho trẻ những kiến thức giác ngộ tích
cực. Giúp trẻ hướng đấu những hành vi tích cực lành mạnh hơn.

3. Tư vấn học đường và hướng dẫn cho bậc trung học cơ


sở

Ở độ tuổi này, trẻ em thường có những bức xúc và nhu cầu rất
đặc trưng. Phần lớn ngoài chương trình học, các em còn phải đối
phó với những áp lực đến từ gia đình, cộng đồng, cả thay đổi của cơ
thể, và áp lực từ phía bạn bè trang lứa. Phương tiện truyền thông
đại chúng cũng là một nhân tố không thể xem nhẹ. Ảnh hưởng của
truyền thông rất lớn, nó ảnh hưởng không chỉ đến người lớn mà cả
với các em nữa.

Với độ tuổi từ 10 đến 14, các em bắt đầu có những nhận thức
cơ bản về vị trí của các em trong bức tranh cuộc sống, tuy chưa hẳn
là đầy đủ. Tất nhiên điều này đôi lúc gây cho các em những khó
khăn trong việc định vị lại giá trị bản thân.

Thornburg (1986) đã đề xuất những đóng góp, giúp chúng ta


hiểu được những thay đổi về 3 mặt: thể lý, trí tuệ, và giao tiếp xã
hội mà trẻ thời gian này đã phát triển, là:

- Các em đã ý thức được về những phát triển thể lý trên cơ


thể.

- Khả năng tổ chức và áp dụng nhận thức trong khâu xử lý các


khó khăn hàng ngày.

- Khả năng chuyển đổi, liên hệ, xử lý những khái niệm cụ thể
(concrete) và những khái niệm trừu tượng (abstract) và ngược lại.

- Các em đã học được những xử thế xã giao và nhận thức về


vai trò giới tính của mình. Tuy một số ít vẫn gặp trở ngại (vẫn chưa
biết mình thật sự là trai hay gái).

- Đã tự nhận ra mình thuộc vào một nhóm bạn đặc trưng nhất
định.

- Phát triển và xây dựng tình bạn.

- Bắt đầu phát triển tinh thần trách nhiệm.

Elkind (1986) còn nhắc đến khả năng của trẻ trong việc có khả
năng xử lý ba loại căng thẳng (stress):
- Căng thẳng loại A (type A): có thể nhìn thấy và đoán trước
được (không học thuộc bài - thi kiểm tra không làm được).

- Căng thẳng loại B (type B): không thể thấy và không dự


đoán được (tai nạn từ nhà đến trường học).

- Căng thẳng loại C (type C): thấy được nhưng tránh không
được (không hiểu bài nhưng vẫn phải làm bài kiểm tra).

Matthew và Burnett (1989) cho rằng trẻ ở cấp trung học cơ sở


chịu nhiều áp lực hơn trẻ bậc tiểu học và trẻ ở bậc phổ thông trung
học. Vì đây là giai đoạn phát triển nhanh về nhiều mặt, trẻ rất dễ bị
tổn thương nếu như bất cứ sai lạc nào ảnh hưởng đến trẻ. Để làm
tốt công tác tư vấn viên học đường trong giai đoạn này, với kinh
nghiệm của Schmidt (1999), tư vấn viên cần:

- Làm việc với trẻ qua cách cá nhân hay theo nhóm, tuỳ theo
tính chất/ nội dung của vấn đề.

- Làm việc với giáo viên và ban giám hiệu trong vai trò tham
vấn viên.

- Làm việc với các bộ phận khác trong khuôn khổ liên hệ cần
thiết trong vai trò tham vấn viên.

- Liên lạc với gia đình, phụ huynh, nêu rõ những vấn đề cần
giải quyết.

Tương tự như ở bậc tiểu học, hoạt động của tư vấn viên học
đường bao gồm phòng ngừa và sửa chữa. Ở mảng phòng ngừa,
trong thời khóa biểu, nên thu xếp một tiết học cho tư vấn viên đề
cập đến nhưng mối quan tâm, giới thiệu dịch vụ tư vấn để các em
biết rõ khi cần đến giúp đỡ, các em sẽ luôn được hoan nghênh.
Điểm quan trọng ở đây là các em cần được nhắc nhở rằng mọi vấn
đề, dù ở mức độ nặng nhẹ, đều có thể giải quyết được. Các em cần
được động viên để hiểu nhiệm vụ của các em là học tốt, mọi vấn đề
khác sẽ tự chúng vận hành theo lẽ tự nhiên. Tư vấn viên học đường
phải hòa nhã, thân thiện, tạo ấn tượng tốt với các em.

Ở mảng sửa chữa, mặc dù tốt nhất là kết hợp với mảng phòng
ngừa, tuy nhiên trong giai đoạn này, các em cần được đối xử như
một cá nhân với mức độ tôn trọng thích hợp. Tuổi dậy thì vốn có
những xung động khó kiểm soát và khó tiên đoán, nên thái độ mềm
mỏng là rất cần thiết. Nên nhớ, trong giai đoạn này, các em rất dễ
có những phản ứng bốc nóng nhanh. Tư vấn viên cần luôn tạo cho
các em có một van xả nhất định. Tránh không để các em có cảm
giác mình bị dồn vào ngõ cụt.

4. Tư vấn học đường và hướng dẫn cho bậc trung học


phổ thông

Vào cấp ba, trẻ ở giai đoạn phát triển mạnh nhất ở lứa tuổi dậy
thì. Đây là giai đoạn đặc biệt của đời người. Lúc này sức ép căng
thẳng trong quan hệ với gia đình trở nên rất bức xúc. Đối thoại giữa
trẻ với gia đình, nhất là với phụ huynh trong nhiều gia đình trở nên
tắc nghẽn. Trẻ bị áp lực vì bị ảnh hưởng bởi bè bạn xung quanh. Trẻ
còn chịu nhiều áp lực phát triển của cơ thể.

Nhất là với học sinh lớp cuối cấp, nhiều cảm xúc và lo lắng vì
những bận rộn luyện thi, có tình cảm với bạn khác phái, sắp sửa
bước vào đời, lưỡng lự đắn đo trước những quyết định chọn trường,
chọn ngành học… Nhu cầu tư vấn không chỉ còn giới hạn trong sách
vở học đường mà cả những như cầu khác như tư vấn giới tính, sức
khỏe, tình yêu…

Gladding (2000) đề nghị, vai trò của tư vấn học đường giai
đoạn này tập trung vào những chuyên mục:
- Cung cấp dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm. (Tùy theo
mức độ và thể thức hành vi).

- Cung cấp những hướng dẫn giáo dục cho phụ huynh rất cần
thiết.

- Cung cấp dịch vụ tư vấn hoặc tham vấn với thầy cô và ban
giám hiệu.

- Trung gian với những ban ngành ngoài hệ thống trường học,
phục vụ những nhu cầu đặc biệt của trẻ; vai trò tham vấn.

- Khuyến cáo và hướng dẫn trong lĩnh vực giáo dục khi cần
thiết.

- Tư vấn nghề nghiệp.

Hoạt động chính vẫn là ngăn ngừa và can thiệp. Riêng ở giai
đoạn này, nhiều em dễ rơi vào trầm uất và chán nản (depression),
nhất là khi các em mất phương hướng hoặc không có những biểu
hiện tốt và khả năng vào đời không thuận lợi.

Nhiều trường hợp đặc biệt như kiến thức về sinh hoạt tình dục,
AIDS và HIV, nghiện hút… là những vấn đề nóng cần được đề cập
trong những tiết học giành riêng cho tư vấn viên học đường được
đứng lớp. Vấn đề dinh dưỡng cũng cần được quan tâm đối với những
em lười ăn hoặc ăn quá nhiều, vì cả hai thái cực đều không có lợi
cho các em.

Giai đoạn này là giai đoạn mà nhiều trẻ trải nghiệm qua hội
chứng nổi loạn (rebellion syndrome). Tình cảm trở nên phức tạp, tuy
bên ngoài có vẻ trong sáng, nhưng thật sự những đợt sóng ngầm
luôn diễn ra bên trong ở lứa tuổi này. Các em luôn sống trong trạng
thái xúc cảm lẫn lộn. Nhìn đời qua lăng kính màu hồng nên những
lời khuyên thực dụng thường gây cho các em cảm giác khó chấp
nhận. Tư vấn viên cần trấn an các em rằng, những xung động trong
quan hệ (gia đình) sẽ là những kinh nghiệm khó quên của một thời
sôi động của tuổi mới lớn - và tình thương của gia đình là bất biến.

Tư vấn viên cần tìm hiểu từng trường hợp cụ thể xem những
biểu hiện không lành mạnh xuất phát từ nguyên nhân chủ quan (nơi
trẻ) hay từ khách quan (gia đình, nhà trường, bạn bè). Nếu như
nguyên nhân từ mất căn bản trong học hành hay từ những cú xốc
đến từ chuyện tình cảm, quan hệ gia đình; trong mọi trường hợp,
trẻ cần được đối xứ như người trưởng thành, tự ái của các em tương
đối cao, và khả năng đón nhận lời khuyên, dù trong tinh thần xây
dựng và quan tâm, vẫn có thể bị các em hiểu lầm.

Ở Việt Nam, theo những con số của tác giả Lê Thị Ngọc Dung
(2006) cung cấp: năm 2000 ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 2 điểm,
nhưng đến tháng 1 năm 2005 con số đã tăng lên 31 điểm cho cả ba
cấp, đây là một dấu hiện khởi sắc đáng khích lệ.

Tác giả này cũng đã vạch ra một hiện thực bức xúc và cho
biết: "Đội ngũ tư vấn tâm lý chưa đồng đều về nghiệp vụ chuyên
môn, một số người chưa từng qua một khóa đào tạo nào về tâm lý
mà tác nghiệp chỉ dựa chủ yếu vào kinh nghiệm. [Họ] Chưa nhận
thức được sâu sắc vai trò, tầm quan trọng, trách nhiệm và nghĩa vụ
của người làm nghề tư vấn tâm lý".

5. Kết luận

Hệ thống tư vấn học đường còn rất mới mẻ ở Việt Nam, tuy
nhiều trường đã có những tư vấn viên học đường như một số trường
ở thành phố Hồ Chí Minh (Nguyễn Phúc Ân, 2006) và rải rác ở
những nơi khác.
Chứng minh từ những nước phát triển cho thấy, vai trò của tư
vấn học đường là không thể thiếu được. Một lẽ đơn giản là chất
lượng giáo dục đến từ hai phía: thầy cô và học sinh. Nếu chúng ta
chú trọng đến đào tạo thầy cô và có giáo trình, tài liệu tốt nhưng
khả năng hấp thụ và đón nhận của học sinh không hiệu quả, nhất
định chất lượng giáo dục sẽ bị ảnh hưởng.

Đội ngũ tư vấn học đường, có thể nói là nhịp cầu quan trọng
(important liaison) giữa thầy cô và học sinh. Họ có chức năng trình
bày tâm tư, chia sẻ, đại diện cho tiếng nói của học sinh, vì thế giáo
viên sẽ dễ đi vào não trạng của học sinh tốt hơn.

Tư vấn học đường tự nó sẽ là một sự phát triển với nỗ lực lớn,


đáp ứng được những bức xúc của điều kiện giáo dục hiện tại. Chúng
ta có quyền hy vọng rằng tư vấn học đường, một ngày không xa, sẽ
đóng một vai trò quan trọng trong trường học như một phát triển
tất yếu - đứng về phía quyền lực chính đáng của các em.

Chương 16
TƯ VẤN ĐẠI HỌC VÀ PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG SINH VIÊN NHỮNG
GỢI Ý SUY NGHĨ

1. Dẫn nhập

Sinh viên các trường đại học và cao đẳng là rường cột của đất
nước, họ là đội ngũ công dân có chất xám, được đào tạo nhằm góp
phần xây dựng đất nước. Với cá nhân họ, đây là một khoảng thời
gian phải có nhiều nỗ lực và cố gắng. Ngoài những lo lắng chuyện
bài vở và chương trình học, họ còn có bao ưu tư về những mảng
khác rất đời thường, môn luôn luôn là những trăn trở khó khăn của
đời sống sinh viên.
Nhất là đối với những sinh viên phải sống xa nhà, xa quê, lặn
lộn đến từ những làng quê, không dễ dàng thích nghi ngay với đời
sống thành phố lạ lẫm. Rất nhiều sinh viên này phải làm thêm, kiếm
tiền để trang trải học phí cho đời sống và tiêu pha. Vì thế họ càng
đối diện nhiều hơn với những khó khăn trước mắt.

Nhiều sinh viên học sinh cao đẳng còn gặp những chuyện bức
xúc sau khi tốt nghiệp, khó kiếm việc, làm việc sai ngành, ngược
tuyến. Họ gặp những trở ngại trong việc tiếp tục sinh hoạt sau tốt
nghiệp, lúng túng trong việc có kế hoạch đối phó.

Từ những bức xúc nêu trên, tư vấn cho sinh viên ở trường đại
học và cao đẳng là một việc làm thiết yếu bức xúc. Nhiều sinh viên
có học lực song nếu khâu tổ chức yếu, hoặc chỉ đơn giản là thiếu
nâng đỡ, các bạn sẽ dễ rơi vào những sai phạm đôi khi có ảnh
hưởng lớn đến tiệc tiếp tục học. Hoàn cảnh và lý do khiến họ gặp
những khó khăn trong cuộc cũng rất đa dạng, nhưng nỗi bức xúc là
rất chung: họ muốn tốt nghiệp, muốn đi làm và có những niềm vui
đáng có của một thời là sinh viên.

Là tư vấn viên, chúng ta không thể không suy nghĩ đến tư vấn
phục vụ đời sống sinh viên.

2. Cần có tư vấn đại học và phục vụ đời sống cho sinh


viên, học sinh

Với sự bùng bổ của các trường đại học và cao đẳng, nhu cầu
nâng cao kiến thức đào tạo chuyên môn, lượng sinh viên, học sinh
đã tăng đáng kế từ những năm gần đây. Hệ thống đại học dân lập,
bán công đã góp phần tạo ra những cơ hội được vào đại học của học
sinh phổ thông. Đây là một phát triển tất yếu, song kéo theo nó là
những nan giải khiến nhiều giới hữu trách, người có quan tâm phải
nghĩ đến nhu cầu chăm lo cho đời sống của sinh viên, học sinh.

Theo TS. Hồ Văn Liên (2006) Trưởng khoa Tâm lí - Giáo dục
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, nhu cầu tư vấn của học
sinh, sinh viên nói riêng đã đặt ra những vấn đề bức thiết. Phần lớn
những chuyên ngành ứng dụng tâm lý học vào tư vấn tâm lý của
trường đều đề cập đến những mặt khác của xã hội như tâm lý sư
phạm, tâm lý xã hội, tâm lý phát triển, tâm lý pháp luật, tâm lý giáo
dục, tâm lý lâm sàng… song tư vấn cho học sinh, sinh viên chưa
thấy đề cập đến.

Có lẽ đây là điều dễ hiểu, tâm lý học không mới với đất nước
ta, nhưng ứng dụng của tâm lý học (nhất là trong ngành Tư vấn tâm
lý) xem ra chưa nhanh đủ. Vì thế, ngành Tâm lý, nhất là ứng dụng
của nó là ngành Tư vấn cần phải quan tâm đến những mảng đề tài
nóng trước. Sau đó từ từ sẽ mở rộng ra những phạm trù khác của
đời sống xã hội.

Với hy vọng rằng tư vấn đại học một ngày nào đó ra đời sẽ sẵn
sàng cung cấp những dịch vụ tư vấn bổ ích cho giới sinh viên, học
sinh; thiết nghĩ rằng tham khảo và bàn luận về vấn đề này sẽ là
một bước đi phù hợp với xu thế phát triển.

Giống như tư vấn học đường, tư vấn đại học cũng có hai tập
trung là ngăn ngừa và can thiệp. Tuy nhiên tính hướng dẫn cao hơn
vì tinh thần tự giác của sinh viên đã trưởng thành hơn thời phổ
thông rất nhiều.

Tuy không hẳn là giống tham vấn (consultation) [vốn có cấu


trúc quan hệ bình đẳng giữa hai bên; rất khác với tư vấn
(counseling) khi chuyên môn của tư vấn viên là yếu tố quyết định
trong quan hệ tư vấn], tư vấn đại học gần như là đứng giữa tham
vấn và tư vấn.

Theo Cowger (1982) tư vấn đại học tập trung vào những mặt
sau:

- Tư vấn mang tính chất chương trình học (academic) và tính


chất giáo dục, hướng dẫn (education).

- Tư vấn hướng nghiệp (vocational counseling).

- Tư vấn nghề nghiệp (cateer counseling).

- Tư vấn cá nhân (personal counseling).

- Dịch vụ trắc nghiệm (testing).

- Giám sát và huấn luyện (supervision & training).

- Nghiên cứu (research).

- Dạy học (teaching).

- Phát triển chuyên môn (professional development).

- Dịch vụ phục vụ (administration).

Trong đó 4 chuyên đề tư vấn giáo dục, tư vấn cá nhân, và tư


vấn hướng nghiệp, tư vấn nghề nghiệp chiếm 50% các hoạt động
liệt kê ở phần trên.

Theo kinh nghiệm tư vấn đại học của Hoa Kỳ, thách thức lớn
nhất với tư vấn đại học là sự thay đổi từ cơ cấu và đặc tính văn hóa
thay đổi từ phía sinh viên. Vấn đề thái độ và quan điểm văn hóa xã
hội của mỗi thế hệ rất khác nhau.

Ở Việt Nam, điều này có lẽ cũng là một phát triển tương tự.
Não trạng sinh viên Việt Nam hôm nay rất khác với thế hệ sinh viên
cha anh. Điều này như những tín hiệu gửi đến chúng ta một lời
nhắn: khi tư vấn cho sinh viên, học sinh, tư vấn viên phải giữ cho
mình luôn luôn kịp thời với những thay đổi trong não trạng đời sống
sinh viên.

Anton và Reed (1991) đề ra một bản trắc nghiệm, bao gồm 9


điểm rất thực tế với hầu hết các quốc gia, giúp đánh giá căng thẳng
tâm lý rất chung, như:

- Lo lắng (anxiety).

- Trầm uất (depression).

- Ý định tự tử (suicidal ideation).

- Nghiện ngập (substance abuse).

- Vấn đề tự tin (self-esteem problem).

- Vấn đề quan hệ cá nhân (interpersonal problem).

- Vấn đề gia đình (family problem).

- Vấn đề chương trình học (academic problem).

- Vấn đề nghề nghiệp (career problem).

Ragle và Krone (1985) nêu ra lợi ích của việc sinh viên nên tìm
đến tư vấn nghiệp dư từ nơi bạn bè (peer counselors). Theo hai tác
giả này đến với tư vấn nghề nghiệp dư sinh viên sẽ tìm thấy những
lời khuyên hữu ích khi họ đều cùng là sinh viên, trải qua những kinh
nghiệm khó khăn tương tự, vả lại họ lại là người dễ đồng cảm trong
tinh thần cùng hội cùng thuyền.

Tư vấn viên đại học cần liên hệ với các hiệp hội sinh viên, tổ
chức đoàn, các nhóm sinh viên như là những nguồn cộng tác hữu
hiệu. Một điều đáng quý ở môi trường đại học, cao đẳng là các sinh
viên học sinh luôn tỏ ra quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau.

Các chuyên ngành khác, các đoàn thể, cơ quan đơn vị trong xã
hội cũng có thể là những địa chỉ quen thuộc của tư vấn viên đại học.
họ cần tạo ra một hệ thống mạng lưới trong việc tăng cường những
thông tin, có sẵn trong tay, hoặc giới thiệu sinh viên, học sinh đến
thẳng những địa chỉ ấy. Ví dụ những trung tâm cai nghiện nhất định
sẽ có những tư liệu về lạm dụng rượu và các loại thuốc gây nghiện,
nếu sinh viên có vấn đề về chất gây nghiện, họ nhất định sẽ tìm
được nhiều lời khuyên bổ ích ở những nơi như thế.

Vai trò tham vấn của tư vấn viên với sinh viên là rất lớn. Hãy
giúp họ. Đó là trách nhiệm của tất cả những tư vấn viên chúng ta.

3. Phục vụ đời sống sinh viên, học sinh

Đây là một nhu cầu bức xúc, ít nhất là đối với những sinh viên
xa nhà. Buổi đầu họ hội nhập với đời sống thành phố, mọi chi tiêu
không thế tránh trong một khuôn khổ ngân sách chi tiêu có hạn. Tất
nhiên họ khó tránh khỏi những lo lắng và băn khoăn. Lạ lẫm với
phương tiện giao thông công cộng, bỡ ngỡ với mọi sinh hoạt ở phố
xá, họ nhớ nhà, nhớ nếp sống quen thuộc. Hơn lúc nào hết, họ rất
cần đến sự giúp đỡ của người khác.

Không giống như những nước phát triển, khi là sinh viên có thể
vay tiền đi học, còn sinh viên Việt Nam phải tự túc là chính và rất ít
chỉ dựa vào chút tiền học bổng, nhưng không phải ai cũng có may
mắn này. Vấn đề tài chính luôn là một bức xúc, họ phải đi làm, kiếm
tiền phụ thêm bằng đủ thứ nghề, vặt vãnh. Thời gian giành cho việc
học bị thu hẹp, nhiều bạn không còn chút thời gian cho riêng mình.

Sức ép từ nhiều phía đã khiến cho nhiều sinh viên rơi vào cảnh
buồn chán, lo lắng. Chính vì thế, nhu cầu tư vấn đại học đôi khi chỉ
là người đồng cảm, khơi dậy trong lòng họ những ngọn lửa nhiệt
tình để vượt khó khăn mà còn là những đáp ứng nhu cầu lắng nghe
là rất cần thiết.
Con người có nhu cầu cần được quan tâm. Sự có mặt của tư
vấn đại học đôi khi là một van xả hữu hiệu. Khi làm tốt, tiếng lành
đồn xa, các sinh viên có nhu cầu sẽ tìm đến dịch vụ tư vấn đại học.
Thiết nghĩ mỗi trường đại học nên có vài tư vấn đại học ăn lương
biên chế hẳn sẽ không phải là một ao ước xa xỉ phung phí (!)

Khi tình trạng tinh thần căng thẳng đến một mức độ nào đó,
suy nghĩ và ứng xứ của con người sẽ bị hạn chế, bị ảnh hưởng, dẫn
đến những phán quyết và hành vi không được cân nhắc. Nhiều hành
vi và quyết định có thể lệch lạc, dẫn đến những lần sa chân trước
cám dỗ, trước là bỏ học, sau là chạy theo những mời gọi nguy hiểm.
Nếu như có một đội tư vấn tâm lý được trang bị sẵn, chỉ cần đôi ba
lần tư vấn cõi lòng trĩu nặng được trút ra, tâm thần trở nên nhẹ
nhàng, sinh viên có thể suy nghĩ tỉnh táo hơn, họ sẽ vượt qua được
khó khăn. Họ tận tụy và sẽ tốt nghiệp đại học.

Nói khác đi, phục vụ đời sống sinh viên là một việc làm thiết
yếu, có ý nghĩa đối với xã hội. Như đã nói, 1 đồng đầu tư vào phát
triển và đề phòng trước sẽ tiết kiệm được 3 đồng để sửa lại những
nan đề trong tương lai. Chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến đời
sống sinh viên vì đây là một dạng đầu tư rất có ý nghĩa, nhất là với
sinh viên nói riêng và xã hội nói chung.

Ở nước ngoài luôn có những Hội cựu sinh viên (alumni


association), những người đã tốt nghiệp, đã thành công trong cuộc
sống, sự đóng góp của họ cho trường cũ là một nét văn hóa đẹp bởi
sự quan tâm đến thế hệ sau, tri ân với ngôi trường đã đào tạo ra họ.
Ta thử liên lạc với họ, đề nghị cùng họ, với tinh thần đùm bọc giúp
đỡ lẫn nhau, ít nhất những đóng góp ấy sẽ giúp trường có một văn
phòng tư vấn cho sinh viên.
4. Kết luận

Mặc dầu tư vấn đại học, cao đẳng cho sinh viên, còn là một
khái niệm mới mẻ, ít nhất khi bàn thảo về nó sẽ là những gợi ý thiết
thực trong hoàn cảnh hiện tại. Kinh nghiệm tư vấn đại học ở nước
ngoài là một kinh nghiệm thành công, và chúng ta nên học hỏi kinh
nghiệm ở họ.

Nhu cầu của sinh viên Việt Nam không nhỏ hơn nhu cầu của
học sinh, sinh viên nước ngoài. Sinh viên Việt Nam không có nhiều
thuận lợi (như vay tiền học, việc làm từ trường do Chính phủ tài trợ
(work study) như học sinh nước ngoài). Học sinh nước ngoài thường
có lựa chọn học tại quê nhà nên chi phí có thể dựa vào gia đình.
Sinh viên chúng ta vất vả hơn, hoàn toàn không có những may mắn
như vừa liệt kê ở trên.

Ở đây, những khó khăn nhìn theo khía cạnh tích cực sẽ là một
thứ thách để họ trưởng thành hơn. Song, kéo giãn quá mỏng, nhất
định họ sẽ rạn, rách hoặc đứt đôi. Tất nhiên chúng ta không muốn
nhìn thấy những người có trình độ và chất xám sẽ rơi vào những
trường hợp khó khăn như thế.

Chương 17
TƯ VẤN SỨC KHỎE TÂM THẦN TƯ VẤN CHO NGƯỜI NGHIỆN -
TƯ VẤN PHỤC HỒI LAO ĐỘNG

1. Dẫn nhập

Tư vấn sức khỏe tâm thần, nhất là tư vấn người nghiện, và tư


vấn phục hồi lao động là một hình thái tư vấn thông thường bắt
buộc (mandatory) đối với thân chủ, có thể họ không muốn nhưng vì
sự bắt buộc, bị thuyết phục từ gia đình, người thân, hay các cơ quan
hữu trách đã yêu cầu nên sự có mặt của họ trong những ca tư vấn
là miễn cưỡng. Tất nhiên là vẫn có cá nhân có can đảm và giác ngộ;
tự giác đến với dịch vụ tư vấn để được giúp đỡ, đây là những trường
hợp rất đáng khích lệ, đáng biểu dương.

Nét đặc trưng của tư vấn sức khỏe tâm thần, tư vấn cho người
nghiện, và tư vấn phục hồi lao động có 3 tính năng lớn là can thiệp
(intervention), giáo dục (didactic) và tính liệu pháp (therapeutic).

Nhìn chung, tư vấn viên làm việc trong những môi trường này
được sự quan tâm của xã hội cũng như các ban ngành của Chính
phủ vì việc làm của họ là thiết thực. Họ công tác và có đóng góp
trực tiếp với những phần tử rất được xã hội quan tâm đến.

Tác giá Nguyễn Hữu Chùy (2006), Giám đốc Trung tâm Nghiên
cứu hỗ trợ, tư vấn giáo dục cho người khuyết tật, đã mạnh dạn đề
nghị: “Trẻ khuyết tật cũng có nhu cầu tư vấn tâm lý như vậy. Chỉ
tiếc là số người nắm vững đặc điển tâm sinh lý và phương pháp giáo
dục còn rất ít, nhưng không được ngành Giáo dục và Đào tạo trọng
dụng. Vì vậy hạn chế đến hoạt động tư vấn, giúp người khuyết tật
hòa nhập với cộng đồng”.

Tài liệu về tư vấn sức khỏe tâm thần, tư vấn cho người nghiện,
tư vấn phục hồi lao động không có nhiều trong hội thảo Tư vấn Tâm
lý - giáo dục tháng 2 năm 2006 ở Việt Nam. Mặc dù ba loại tư vấn
này có liên hệ rất chặt với tư vấn tâm lý. Chỉ có báo cáo của nhóm
nghiên cứu của TS. Trần Thị Giồng viết: “Đối tượng phục vụ của các
cơ sở tư vấn tâm lý rất đa dạng nhưng nhiều nhất là tham vấn cho
mọi người có nhu cầu, tham vấn cho người nghiện, người sống với
HIV/ AIDS”.
Có lẽ đâu đó rải rác vẫn có những tài liệu tư vấn về 3 nhóm
đối tượng này, song những tư liệu về tư vấn cho họ vẫn còn là ấp ủ
của những người có quan tâm. Chia sẻ trong chương này như một
đóng góp để cùng nhau học tập, tham khảo.

2. Tư vấn sức khỏe tâm thần (mental health counseling)

Đây là hình thái tư vấn không nằm trong khuôn khổ giáo dục
mà được tách ra ở một phạm trù riêng, tập trung vào sức khỏe tâm
thần, thường tổ chức trong bệnh viện hoặc những địa điểm cộng
đồng. Tư vấn thể loại này thiên về chữa trị (treatment) nên đào tạo
có phần kỹ hơn, phải đủ 60 tín chỉ (semester hours) theo hệ thống
đào tạo ở hoa Kỳ; thay vì chỉ cần 48 tín chỉ với những tư vấn viên cá
nhân bình thường. 12 tín chỉ yêu cầu thêm, tương đương với nửa
năm theo học toàn thời gian ở một trường đại học ở Hoa Kỳ.

Theo Spruill và Fong (1990), tư vấn viên sức khỏe tâm thần
cần được trang bị kỹ năng và kiến thức chuyên môn. Họ có một vai
trò quan trọng vì tư vấn sức khỏe tâm thần là một hoạt động liên
ngành, có quan hệ rất nhiều đến những lĩnh vực chuyên môn khác
nhau.

Tư vấn viên sức khỏe tâm thần có cả kinh nghiệm và kỹ năng


của một tư vấn viên và những kiến thức cả chuyên môn, liên quan
đến những mảng khác về toàn bộ hoạt động tâm lý, sinh lý, thể lý
của con người. Xa hơn nữa, Hiệp hội tư vấn sức khỏe tâm thần Hoa
Kỳ (The American Mental Health Counselor Association AMHCA) còn
yêu cầu các tư vấn viên sức khỏe tâm thần của họ học thêm về
thương mại, kinh tế, tâm lý người già và quá trình phát triển nơi
người lớn, các liệu pháp áp dụng cho những rối loạn tâm thần.
AMHCA còn ra yêu cầu cấp chứng chỉ (certificate) cho những
tư vấn viên sức khỏe tâm thần cho những ai muốn thực hiện tư vấn
sức khỏe tân thần lâm sàng (clinical counselor).

Về mặt kỹ thuật và học thuyết, tư vấn viên sức khỏe tâm thần
sử dụng từ nhiều nguồn học thuyết khác nhau. Họ thường áp dụng
nhiều học thuyết vì làm việc trong nhiều hoàn cảnh đa dạng, tiếp
cận nhiều đối tượng thân chủ trong những môi trường khác nhau.

Triết lý làm việc của họ với mục tiêu chính là ngăn ngừa chủ
yếu (primary prevention) và khuyến khích sức khỏe tâm thần
(promoting mental health). Theo định nghĩa, ngăn ngừa chủ yếu là
ngăn chặn trước khi vấn đề xảy ra, có tính phòng chống, chính vì
thế họ luôn gắn liền hoạt động của họ với khuyến khích sức khỏe
tâm thần. Với tiêu chí này, tư vấn viên sức khỏe tâm thần nhắm vào
khẩu hiệu: Sống lành mạnh sẽ tránh được điều phiền não.

Thân chủ của tư vấn sức khỏe tâm thần thường là đối tượng
đông đảo quần chúng với nhóm hoặc nhiều người (có tính đại trà),
thay vì tư vấn cá nhân riêng tư. Tính ngăn ngừa chủ yếu trong tư
vấn sức khỏe tâm thần chủ yếu nằm ở chỗ chống lại nạn tự tử -
nguyên nhân thứ 9 giết nhiều người nhất ở Hoa Kỳ. Diễn đạt dễ
hiểu, sức khỏe tâm thần chủ trương cổ súy lối sống lành mạnh, tinh
thần sảng khoái, biết yêu đời.

Heath (1980) đề ra những điểm chủ yếu tư vấn viên sức khoẻ
tâm thần cần nhắm tới, giúp thân chủ của họ đạt tới trạng thái tinh
thần lành mạnh:

- Động viên thân chủ tiếp tục ôn lại những thay đổi (kinh
nghiệm lành mạnh học được) áp dụng vào sinh hoạt hàng ngày để
đạt được đời sống lành mạnh.
- Khuyến khích cá nhân áp dụng kinh nghiệm kết quả hành
động vào quyết định của họ.

- Đánh giá cao cuộc sống và sức mạnh kiên định của thân chủ.
Những khen thưởng tích cực sẽ thúc đẩy tiến trình hành động và học
tập của thân chủ. Khi được đánh giá cao, họ sẽ tự tin hơn, sẵn sàng
nhập cuộc, hào hứng hơn trong việc học hỏi những điều mới mẻ.

Tập trung vào môi trường sống của thân chủ là một trong
những quan tâm chính của tư vấn sức khỏe tâm thần. Nhiều môi
trường sống không được trong sáng, lành mạnh. Sự gò bó tù túng,
ngột ngạt của môi trường sống sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc
sống. Huber (1983) nêu ra những việc tư vấn viên cần làm để giúp
thân chủ, là:

- Xác định được những vấn đề gai góc, khó chịu trong những
bối cảnh môi trường. Nhiều môi trường thật sự có những nhân tố
ảnh hưởng kìm hãm con người sống thoái mái, dẫn đến kết quả làm
ra những hành vi tiêu cực nhất định.

- Tạo sự chấp nhận đồng cảm giữa thân chủ và người thân của
họ rằng vấn đề gai góc chính là ở môi trường chứ không phải từ
thân chủ, cá nhân có nhiệm vụ điều chỉnh để phù hợp với môi
trường.

- Đánh giá môi trường sống của thân chủ, xác định xem môi
trường đã có tác động lên nhu cầu và nguyện vọng của thân chủ
như thế nào.

- Giới thiệu những thay đòi quan hệ xã hội. Giúp thân chủ áp
dụng tính khoa học vào quá trình cái thiện môi trường sống.

- Đánh giá được những thành quả cố gắng.


- Thân chủ phải đề xuất được những đặc điểm của môi trường
tốt nhất, từ đó sẽ có những mốc hướng tới hành động để đạt được
một môi trường thuận lợi nhất.

- Xử lý những rối loạn và những ứng xử thiếu lành mạnh.

Số người cần đến tư vấn sức khỏe tâm thần luôn nhiều hơn
khả năng đáp ứng của đội ngũ tư vấn viên. Ngăn chặn thứ yếu
(secondary prevention) là dạng ngăn ngừa khi mầm mống sự cố đã
bộc lộ nhưng chưa biến chứng. Ngăn chặn cấp ba (tertiary
prevention) là lối ngăn chặn mang tính can thiệp trị liệu nhiều nhất,
trực tiếp xử lý những ca nghiêm trọng đã xảy ra, nguy hiểm đến
tính mạng của thân chủ. Có thể giải thích qua những ví dụ, như:

- Ngăn ngừa chủ yếu (primary prevention): giáo dục về


nguyên nhân và tác hại của trầm uất, và một trong những biến
chứng của nó là tự tử.

- Ngăn ngừa thứ yếu (seconđary prevention): giúp cá nhân


trong giai đoạn bị trầm uất, có dấu hiệu không muốn duy trì cuộc
sống, tư vấn viên giúp đỡ họ chủ yếu là môi trường ngoại trú.

- Ngăn ngừa cấp ba (tertiary prevention): giúp cá nhân được


đưa vào cấp cứu môi trường bệnh viện) vì họ đã thật sự tự tử và
được phát hiện kịp thời.

Những rối loạn và ứng xử không lành mạnh là kết quả của đời
sống thiếu tinh thần trong sáng, thiếu đầu óc minh mẫn, tinh thần
không lành mạnh. Vì thế tư vấn viên sức khoẻ tâm thần cần chú
tâm, chuyên cần đến việc quảng bá thay đổi cách sống để tâm trí
thân chủ đạt được những trạng thái hoạt động rộng thoáng, không
tù tùng bế tắc.
3. Tư vấn cho người nghiện

Đây là một vấn đề đau đầu xảy ra với tất cả mọi xã hội. Con
người thường đi tìm những giải pháp khác nhau cho vấn đề cuộc
sống của mình, tất nhiên nhiều giải pháp không lành mạnh dẫn đến
con đường nguy hại; nghiện ngập là một trong những giải pháp
thiếu cân nhắc ấy. Trường hợp mượn rượu giải sầu là một ví dụ.
Uống mãi thành nghiện, nghiện rồi sẽ khó gỡ và càng lún sâu. Vấn
đề cái vòng luẩn quẩn nảy sinh ra cũng từ chỗ đó.

Nghiện là quá trình sử dụng sai và khai thác chất gây nghiện
một cách thiếu trách nhiệm. Nghiện ở đây được hiểu trong bối cảnh
rộng lớn như nghiện rượu, chất kích thích, và những loại thuốc
phiện, hoặc những chất được nghiêm cấm bởi xã hội và luật pháp.

Nghiện có tác hại phá hủy con người cả về thể lý, tâm lý, về
mặt tình cảm và cả những chức năng xã hội khác cũng như đời sống
tinh thần. Nghiện ngập không có mắt và không chừa ai cả. Nó tấn
công vào mọi tầng lớp trong xã hội, không phân biệt giới tính, dân
tộc, tuổi tác, tôn giáo, nghề nghiệp, hoàn cảnh địa lý…

Nghiện ngập được định nghĩa thói quen sử dụng đến độ nghiện
(không có không được) chất có men, thuốc tây (bao gồm những
chất kích thích, gây nên trạng thái trầm uất, hoặc gây ảo giác), và
thuốc lá, chất caffeine. Người nghiện không thể tự sinh hoạt bình
thường khi nồng độ chất gây nghiện trong máu giảm xuống thấp.
Họ trở thành vật vã, yếu đuối hạn chế tất cả những chức năng hoạt
động.

Nhìn vào, người nghiện tưởng như chỉ nghiện một thứ nào đó,
song trên thực tế, nhiều người có thể nghiện hai ba thứ hoặc nhiều
hơn nữa trong cùng một lúc. Chẳng hạn nghiện rượu, nghiện thuốc,
nghiện cà phê. Trường hợp này đòi hỏi tư vấn viên phải phân tích và
điều trị các chất đã gây ra những tác hại nghiện nhiều nhất đối với
cá nhân, sau đó xử lý đến những chất khác. Nếu ý thức của cá nhân
cao và có sự nhiệt tình đáng tin cậy, họ có thể bắt đầu cai nghiện
hoàn toàn các chất gây nghiện.

Nghiện ngập không phải là vấn đề của một cá nhân, nó có ảnh


hưởng tiêu cực đến cả những người thân xung quanh người nghiện
nữa. Nó không chỉ hành xác cá nhân mà có những tác động tiêu cực
đến tinh thần rất lớn với gia đình người nghiện.

Trong nhiều trường hợp, người nhà vô tình là một trong những
nguyên nhân thúc đẩy cá nhân người nghiện lún sâu hơn. Vì thế sức
khỏe tâm thần trong điều trị cai nghiện cần đặt mọi đối tác trong
một liên hệ xã hội có tác động và ảnh hưởng qua lại. Sự đóng góp
của gia đình với thân chủ cai nghiện là một đóng góp rất to lớn.

Nghiện là giai đoạn bệnh lý của quá trình lạm dụng chất gây
nghiện. Nhiều người mặc dù đã vào giai đoạn này, song họ vẫn từ
chối (denial) tình cảnh hiện thực và luôn tìm mọi lý do
(rationalization) để biện bạch. Bản thân não trạng họ đã là người
bình thường. Họ càng nỗ lực nhiều hơn trong việc bình thường hóa
tình trạng hiện tại, tư vấn viên cho người nghiện vì thế cần sử dụng
nhiều kỹ năng một cách khéo léo, có thể là chất vấn, đồng cảm,
nhượng bộ, nói một cách thẳng thắn mạnh mẽ… tất cả đều tùy
thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể của từng thân chủ.

Đánh giá một cá nhân đã nghiện hay chưa là biểu hiện khi cá
nhân đó bỏ mặc những trách nhiệm xã hội với bản thân và với gia
đình. Họ đặt nhu cầu cần có chất gây nghiện lên hàng đầu. Họ bỏ
nhiều thời gian, công sức, tiền của vào việc có được chất gây nghiện
và để sử dụng chúng. Nói khác đi, cá nhân thật sự nghiện khi họ
không thể hoạt động khi thiếu chất gây nghiện.
Ngoài ra người bị nghiện còn được coi là khả năng chống lại
chất nghiện của cá nhân đã mất, họ biết mình sai khi sử dụng chất
gây nghiện, song không đủ can đảm để khước từ chất gây nghiện.
Với trường hợp này, việc khôi phục lại khung tư duy để có những
cảm xúc hy vọng mới là cần thiết.

Song làm thế vẫn chưa đủ, cá nhân cần được hỗ trợ bởi những
nguồn trợ lực khác. Tư vấn viên cần đặt ra câu hỏi: Ta cần gì để
giúp họ lấp đầy những khoảng trống vốn đã bị chất gây nghiện gây
ra. Thật khó mà giúp được người nghiện đi cai nếu như không có
những hoạt động hữu ích giúp họ chống lại khoảng trống vắng trong
lúc cai và sau khi cai.

Ngăn ngừa lạm dụng chất gây nghiện: Là một hoạt động
rất hiệu quả trên mặt trận chống tệ nạn xã hội. Thường thì các công
ty sản xuất chất gây nghiện luôn quảng cáo lôi kéo khách hàng. Môi
trường tiếp xúc với chất gây nghiện, ngay cả với những chất ma túy
nghiêm cấm bởi pháp luật cũng không phải là khó tìm kiếm.

Đây là tình hình chung của mọi xã hội, điều ấy đã dễ dẫn dắt
những cá nhân sa chân vào con đường nghiện ngập. Có thể nói, bất
cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân của nghiện ngập, vì thế ngăn
ngừa nghiện ngập là biện pháp áp dụng lên toàn xã hội. Nhất là đối
với những người có tính chủ quan. Vì khoảng cách từ quá chủ quan
đến nghiện ngập đôi khi chỉ là một lần tiếp xúc tưởng như hoàn toàn
vô hại.

Giai đoạn ngăn ngừa chủ yếu (primary prevention): Xã hội


cần quan tâm đến việc truyền bá rộng rãi những kiến thức căn bản
về mọi chất gây nghiện, tác hại và hậu quả của nó. Vai trò của tư
vấn viên nghiện không chỉ giới hạn ở việc can thiệp khi đã xảy ra
tình trạng nghiện ngập. Trái lại, tư vấn viên người nghiện phải là
người hết sức tiên phong trong mặt trận ngăn ngừa. Nói khác đi, tư
vấn viên và người nghiện phải quan niệm rõ rằng: Mục đích tối ưu là
không ai mắc nghiện chứ không phải ai cũng cai được nghiện.

Xuất phát từ suy nghĩ tích cực và chủ động như thế, đội ngũ tư
vấn viên cần hợp tác với những ban ngành giáo dục - xã hội khác,
tích cực tổ chức những buổi truyền bá thông tin, hội thảo, đứng lớp,
nói chuyện chuyên đề, từ cấp học sinh phổ thông đến mọi tầng lớp
trong xã hội. Làm được thế, xã hội sẽ hạn chế rất nhiều những tệ
nạn nghiện ngập. Giống như chiến dịch chống muỗi, việc đầu tiên là
triệt để lấp ao tù đọng nước và khai thoáng các bụi bờ. Ngăn chặn
tệ nạn nghiện ngập cũng giống y như thế!

Điều trị lạm dụng chất gây nghiện: Chiếm khoảng 25%
các ca tư vấn ở Hoa Kỳ. Nói thế, ta thấy hai điểm quan trọng cần
nhắc đến là mức gây hại của tệ nạn này và cũng là quan tâm của
công tác tư vấn đối với người bị nghiện. Phần nhiều tư vấn cho
người nghiện xuất phát từ những cơ quan chủ quản; họ thuê mướn
hoặc quản lý người nghiện, yêu cầu nhân viên của mình đi cai
nghiện. Người bị nghiện có thể sợ mất việc, tránh ly dị, muốn giữ lại
sự êm ấm của gia đình, nên nhiều cá nhân đã chủ động tìm đến tư
vấn cai nghiện.

Dù với động cơ nào, khi đến với tư vấn, họ đều được coi như là
có thiện chí. Tư vấn viên cần đánh giá cao và cổ vũ họ: Các bạn đã
thành công được một nửa, đã dũng cảm và có trách nhiệm chọn ra
cho mình một hành động có ý nghĩa với bản thân, gia đình và xã
hội.

Cũng nên biết, tư vấn viên không hứa hẹn về bất cứ một điều
đơn giản dễ dãi nào trong tiến trình cai nghiện. Cá nhân cần được
biết rằng quá trình cai nghiện là một quá trình làm việc nghiêm túc,
đầy mồ hôi và nước mắt. Tuy nhiên, tính lạc quan cần được nhắc
đến và cổ vũ. Nhất là trong việc kiến tạo một viễn cảnh lành mạnh
của một đời sống tự do, không còn bị ràng buộc bởi chất gây
nghiện.

Riêng với điều trị nghiện rượu, ở Hoa Kỳ có một tổ chức giúp
người nghiện với lịch sử thời gian hoạt động lâu đời nhất là Người
nghiện vô danh (Alcoholics Anonymous) từ những thập niên 1930.
Đây là một tổ chức áp dụng những tính năng tôn giáo và đời sống
tinh thần vào sự giúp đỡ để thân chủ tự nhận mình là người có
những điểm hèn yếu nhu nhược, để từ đó có thêm sức mạnh từ ơn
tha thứ của Thượng Đế đã cải hóa họ.

Mặc dù có nhiều yếu tố tôn giáo, tổ chức này vẫn thu hút được
đông đảo cá nhân. Tính trị liệu của việc tham gia AA rất cao. Một
điều ít ai chịu khó để ý là thành viên của AA rất quan tâm đến nhau.
Một giả thiết cho rằng tính trị liệu cao của nhóm này xuất phát từ
tính năng tình cảm tương trợ lẫn nhau của các thành viên trong
nhóm. Một hạn chế của nhóm này với chủ trương: Một khi đã
nghiện, anh sẽ là người nghiện suốt đời và điều này không thật sự
phản ánh được tinh thần cải tạo con người.

Điều trị người nghiện ma tuý: Thông thường diễn ra tại


những trại cải huấn, nơi các thành viên được điều trị theo khuôn khổ
tập trung, nằm trong những nỗ lực trong sạch hóa và bài trừ tệ nạn
trong đời sống xã hội.

Tác hại lây lan của ma túy quá lớn, đến độ nó đã trở thành nỗi
lo ám ảnh không chỉ với phụ huynh mà còn toàn thể xã hội. Người
nghiện ma túy không có một chút lý do nào tự biện bạch. Ma túy
gây ra biết bao nhiêu tệ nạn, tàn phá gia đình, ảnh hưởng xấu đến
xã hội, biến nhiều người vô tội lương thiện thành những nạn nhân
một cách trực tiếp hay gián tiếp.

Xã hội lên án ma túy gay gắt và vì thế sức ép từ phía xã hội đã


là một trở ngại cho tiến trình xóa bỏ mặc cảm cho người nghiện. Họ
lo lắng về cơ hội làm lại từ đầu, họ không tin mình có được cơ hội
thứ hai, thứ ba. Nhiệm vụ của tư vấn viên trong những hoàn cảnh
này cần tập trung vào việc động viên rằng họ có quyền làm lại từ
đầu, có quyền quyết định sống lành mạnh. Chính điều này đã thúc
đẩy quyết tâm trở về của con nghiện.

Lệ thuộc vào ma túy là nô lệ. Khó khăn trong quá trình cai
nghiện là thực tế, song với quyết tâm và tinh thần không đầu hàng,
con người nhất định có thể thay đổi được vận mệnh của mình. Giống
như những quá trình điều trị khác, tư vấn viên phải giúp cá nhân tìm
ra được những hoạt động lành mạnh thay thế cho những khoảng
trống mà quá trình gây nghiện đã gây ra.

Gia đình trong quan hệ với người nghiện: Là một yếu tố


không thể tách rời trong quá trình điều trị nghiện. Một điều cần nhớ,
gia đình là một động lực không thể xem nhẹ. Sự quan tâm hay xa
lánh của gia đình có một ảnh hưởng rất lớn đến quyết định thành
công hay thất bại của người nghiện. Nói khác đi, người nghiện
không thể, hoặc có rất ít khả năng chiến đấu một mình. Vì thế họ
cần đến sự hỗ trợ và động viên của gia đình.

Chính xác hơn, thái độ đón nhận và cổ vũ của người thân là


một nhân tố quan trọng. Tư vấn viên cần khai thác thế mạnh này.
Nhiệt tình và giác ngộ trong nhiều trường hợp không đến từ bản
thân, song lại đến từ sự quan tâm của những người xung quanh. Để
làm tốt công tác này, tư vấn viên cần ngồi xuống với gia đình để có
sự thống nhất. Với một thiện chí xây dựng, những đồng cảm và
được mời gọi sau đó gia đình được khuyến khích trở thành một đồng
minh tốt của cá nhân trên mặt trận cai nghiện.

Làm việc với người nghiện: Là một công việc khó khăn
nhưng rất có ý nghĩa, chúng ta đang nói đến chuyện cứu vãn tương
lai một con người. Cần biết, các biện pháp lâm sàng, hoặc cưỡng
chế nhằm đưa cá nhân từ tình trạng nghiện sang giai đoạn "không
có thuốc" trong một thời gian ngắn, trước khi bất cứ hoạt động tư
vấn nào được áp dụng. Với một khoảng thời gian "không có thuốc"
trong vòng 30 ngày, cá nhân sẽ có một cơ thể tương đối sạch và
đầu óc họ cũng minh mẫn thoáng hơn để tiếp thu dịch vụ tư vấn.

Robinson (1995) đã đề nghị những hướng dẫn cơ bản khi làm


việc với người nghiện:

- Giúp cá nhân hiểu được họ cần chậm lại vận tốc sống cố
gắng bắt đầu mọi việc một cách chậm nhưng chắc, và phải bảo đảm
được tính chủ động chọn lọc.

- Hướng dẫn cho họ những phương pháp thư giãn như phương
pháp thiền, phương pháp hít thở đều đặn, đọc sách tinh thần, vệ
sinh cá nhân.

- Giúp cá nhân đánh giá tình trạng gia đình của họ, xem xét
những ảnh hưởng của họ và nguyện vọng của người thân, mong
muốn của cá nhân với gia đình họ.

- Nhấn mạnh đến ý nghĩa của những ngày lễ tết, giỗ kỵ, kỷ
niệm của gia đình vì những hoạt động này sẽ liên kết mọi thành
viên trong gia đình, như thế sẽ tạo nên tình đoàn kết vốn rất cần
thiết trong quá trình trị liệu.

- Giúp họ trở lại với đời sống xã hội, như đã biết, mặc cảm với
xã hội của người nghiện là rất lớn, tư vấn viên cần giúp họ có những
kỹ năng hòa nhập với đời sống xã hội, cần hiểu rằng cô đơn và bị xã
hội xa lánh đã là một cách trực tiếp đẩy xa người nghiện trượt dài
trên con đường nghiện ngập.

- Đề cập đến cố gắng sống trong hiện tại, giúp cá nhân biết
quý trọng giá trị của đời sống hiện thời - hãy tận hưởng những niềm
vui nho nhỏ trong cuộc sống, tránh những dằn vặt, ưu tư về những
trăn trở thuộc về tương lai.

- Cổ vũ người nghiện ăn uống điều độ. Đây là một quan tâm


thích ứng vì người nghiện thường bỏ mặc bản thân, nên họ dễ mệt
mỏi và chán nản, tìm đến chất gây nghiện là một hành động tìm
đến cân bằng, như thế họ càng lún sâu vào nghiện ngập.

- Giúp cá nhân có cơ hội nhìn lại những kinh nghiệm đau


thương trong thời gian quá khứ, cùng họ trải nghiệm và quyết định
từ giã những cảm xúc đau thương ấy, cảm thông và đứng về phía
thân chủ, cám ơn về kinh nghiệm của họ và cơ hội được cộng tác.

- Cung cấp thông tin về những tổ chức khác luôn sẵn sàng hỗ
trợ người cai nghiện và những trợ giúp cần thiết về mặt tinh thần
cũng như những giáo dục căn bản về vấn đề nghiện.

4. Tư vấn phục hồi lao động

Theo định nghĩa, thân chủ nhóm đối tượng này là những người
có những hạn chế về khả năng làm việc như người bị thương tật,
người bị tai nạn lao động, hay những tai nạn khác, người có bệnh
sau này chứ không phải do bẩm sinh, thương binh, nhóm đối tượng
này có những bức xúc và nan đề khác, chồng chất lên những trăn
trở của đời sống bình thường. Tư vấn phục hồi lao động nhắm đến
việc giáo dục những cá nhân trước đây đã từng sống độc lập, có đầy
đủ các chức năng sinh hoạt như người bình thường.
Cần phân biệt rõ ràng giữa mất khả năng lao động do tai nạn
khác hẳn với rất khả năng lao động của người khuyết tật, mặc dù
đối tượng của hai nhóm trên có cùng một điểm chung giống nhau là
khả năng lao động và làm việc bị hạn chế. Người bị tai nạn đã từng
có một thời gian hoạt động độc lập trong khi người khuyết tật luôn
luôn sống với những hạn chế từ nhỏ (bẩm sinh).

Ví dụ điếc bẩm sinh và điếc do tai nạn là hai dạng điếc khác
nhau và kinh nghiệm về điếc cũng rất khác nhau. Một người chưa
bao giờ biết đến âm thanh, một người thì đã được nghe những âm
thanh trong một thời gian dài. Cảm nhận về điếc và thái độ đón
nhận của hai người này khác nhau vì thế tư vấn viên cần chú trọng
đến khía cạnh này khi tư vấn cho người bị tai nạn lao động và người
khuyết tật.

Tư vấn viên phục hồi lao động cần có một kiến thức căn
bản thường thức y học về các loại chấn thương, phương pháp điều
trị, cách chẩn đoán, cách chăm sóc,… Đơn giản là vì những cá nhân
đến với tư vấn phục hồi lao động đều đã trải qua nhưng kinh nghiệm
trị liệu trong bệnh viện hoặc bởi những bác sĩ chuyên môn.

Chính những kiến thức này sẽ tạo ra mối quan hệ tốt, giúp
củng cố niềm tin của cá nhân vào khả năng nghiệp vụ của tư vấn
viên. Có lẽ vì thế mà người xưa đã có câu vô tri bất mộ. Đấy cũng là
lẽ căn bản, không am tường làm sao hứng thú được. Thân chủ sẽ
ngờ vực hoặc không thật sự tin tưởng vào khả năng của tư vấn viên
khi kiến thức căn bản về tai nạn và chữa trị của tư vấn viên ấy rất
nghèo nàn.

Cần biết, vai trò của tư vấn viên phục hồi lao động cần phải
chuyên nghiệp và có tính chuyên môn cao. Tuyệt nhiên không nên
có thái độ thương hại hoặc lấy làm tiếc. Ngoài kiến thức căn bản về
tai nạn và điều trị, tư vấn viên cần có kiến thức về phúc lợi, việc
làm: quyền lợi của thân chủ… Bộ Lao động Hoa Kỳ đã liệt ra 12 chức
năng tiêu chuẩn của một tư vấn viên phục hồi lao động:

1. Tư vấn cá nhân (personal counseling) giúp xử lý những vấn


đề khó khăn với đời sống mới.

2. Lập hồ sơ ca (case finding) với những ban ngành có chức


năng giúp cá nhân bị nạn.

3. Thẩm định mức độ thương tật (eligibility determination) để


hưởng trợ cấp.

4. Huấn luyện (training) nghề nghiệp.

5. Cung cấp dụng cụ trợ giúp (provision of restoration) máy trợ


tim, máy điếc, nạng gỗ…

6. Dịch vụ nâng đỡ (support service) lãnh hộ thuốc men.

7. Tìm việc hộ (job placement) nơi những cơ quan thu nhận


người sau tai nạn.

8. Giúp lên kế hoạch hoạt động (planning) cho tương lai.

9. Đánh giá bản thân (evaluation) giúp cá nhân học hỏi thêm
về những khía cạnh khác của đời sống và của bản thân, ghi nhận,
đánh giá chúng trong bối cảnh mới.

10. Tham vấn với những chức năng khác (agencies


consultation) nhằm giúp cá nhân trong mọi nhu cầu cần thiết trong
khả năng cho phép.

11. Tiếp cận với xã hội (public relations) nhằm hướng mọi
người vào việc giúp đỡ và ủng hộ người bị tai nạn.

12. Đồng hành (follow-along) với các cá nhân và ban ngành


khác trong nỗ lực chung giúp đỡ cho thân chủ.
5. Kết luận

Tư vấn sức khỏe tâm thần, tư vấn cho người nghiện, và tư vấn
cho người phục hồi lao động là một ngành phục vụ xã hội rất bức
thiết. Tính ngăn ngừa trong tư vấn sức khỏe tâm thần được nhấn
mạnh nhiều nhất. Tính trị liệu rất quan trọng, song can thiệp với
thân chủ trong tư vấn sức khỏe tâm thân chủ yếu vẫn là cố gắng
đạt được mục đích sống khỏe. Môi trường là điều kiện quan trọng
của tư vấn sức khỏe môi trường, nên thân chủ được mời gọi trong
việc cải thiện môi trường họ đang sống.

Tư vấn người nghiện cần chú ý đến mảng gia đình, vì gia đình
có một vai trò quan trọng trong quá trình trị liệu. Thân chủ cần được
quan tâm, nhất là trong môi trường họ sống.

Tư vấn phục hồi lao động cần chú ý đến tính đặc biệt của các
loại thương tật, có kiến thức về thương tật và cách chữa trị, điều
chỉnh và chăm sóc sức khỏe đối với người bị thương tật.

Trong cuộc sống, đôi lúc có những khúc quanh bất ngờ, chủ
quan và khách quan, ảnh hưởng đến sinh hoạt của con người. Lâm
vào cảnh chán đời, bị nghiện mà không biết.

Một tai nạn nghề nghiệp, hẳn nhiên không ai trong chúng ta
muốn những điều ấy xảy ra cho bản thân và gia đình. Vết thương có
thể được chữa lành nhưng ảnh hưởng của nó lên người bị tai nạn là
rất lớn. Và cuộc sống vẫn có những điều ngoài ý muốn đau lòng ấy.

Tư vấn viên sức khỏe tâm thần, tư vấn viên cho người nghiện,
tư vấn viên phục hồi lao động chính là những anh hùng, hoạt động
âm thầm, tận tụy trong việc chữa lành những vết thương trong cuộc
sống.
Chương 18
THAM VẤN

1. Dẫn nhập

Tham vấn là một khái niệm tương đối mới và được các tư vấn
viên thường sử dụng trong bối cảnh nghề nghiệp. Tuy nhiên vì tính
chất mới mẻ của ứng dụng trong nghề tư vấn nên khái niệm tham
vấn khiến nhiều người vẫn còn lung túng trong cách hiểu, cách sử
dụng khái niệm này.

Đây cũng là một điểm nóng trong hội thảo Tư vấn Tâm lý -
Giáo dục ở thành phố Hồ Chí Minh đầu năm 2006. Trong kỷ yếu tại
hội thảo, TS. Đinh Phương Duy đã thay mặt rất nhiều người nêu lên
trăn trở này với câu hỏi: “Nên dùng thuật ngữ tư vấn hay tham vấn
trong lĩnh vực tâm lý - giáo dục, làm thế nào để phân biệt tư vấn và
tham vấn, các mức độ để tư vấn hoặc tham vấn?”

Không chỉ ở Việt Nam, ở nước ngoài, đội ngũ tư vấn viên cũng
gặp khó khăn tương tự. Nhằm tiến đến trả lời cho câu hỏi này; thiết
nghĩ thững thảo luận trong chương này về tư vấn là một việc làm
nhằm cung cấp đôi điều để đội ngũ tư vấn viên chúng ta tham khảo.

Tham vấn thật ra là một hoạt động rất đa diện. Để tận dụng
nó tối đa, quán triệt về nó thiết tưởng là điều rất cần thiết.

2. Mấy vấn đề về từ ngữ học

Theo định nghĩa (Gladding, 2000), tham vấn là quá trình một
chuyên viên có kinh nghiệm chuyên môn đặc biệt nào đó, chia sẻ
với người nhận những chia sẻ đó.
Xét trên phương diện từ vựng học, dựa theo tiếng Anh, ta thấy
sự khác biệt về tên gọi như trình bày dưới đây:

Tư vấn: (counseling)

Tham vấn: (consultation)

Tư vấn viên (counselor)

Tham vấn viên (consultant)

Thân chủ trong tư vấn (client)

Người nhận dịch vụ tham vấn (consultee/ client)

Tuy nhiên định nghĩa và quá trình làm việc lại được mô tả rất
giống nhau, được thực hiện bởi các nhà tư vấn, thành ra vấn đề khi
nào được gọi là tư vấn viên hay tham vấn viên thật ra cần phải được
đặt trong một bối cảnh cụ thể. Cho đến lúc này, hiện vẫn chưa có
một định nghĩa thống nhất chính thức nào cho tất cả mọi người. Đại
khái, vẫn phải còn chờ. Và người ta chỉ hiểu nó trong bối cảnh đặc
biệt (context) của quá trình giúp đỡ.

Theo Caplan (1970) tham vấn là một quá trình diễn ra giữa hai
người đều cỏ chuyên môn nghiệp vụ, người tham vấn, là một
chuyên gia, người nhận dịch vụ tham vấn có yêu cầu giúp đỡ từ
tham vấn viên, vấn đề cần xử lý liên quan đến công việc.

Nếu lấy tiêu chuẩn hai người đều có chuyên môn nghiệp vụ và
xử lý liên quan đến công việc, ta thấy tham vấn có khác với tư vấn,
theo định nghĩa của Hiệp hội Tư vấn Hoa Kỳ (ACA). Theo tổ chức
này, tư vấn là: "ứng dụng sức khỏe tâm thần, tâm lý và những
nguyên tắc trong quá trình phát triển con người, thông qua những
can thiệp về nhận thức, cảm xúc, và hành vi, có hệ thống và chiến
lược, nhằm hướng đến đời sống lành mạnh, phát triển cá nhân, phát
triển nghề nghiệp, và trị liệu những rối loạn." Nguyên văn: (The
application of menltal health, psychological or human development
principle, through cognitive, affective, behavior, or system
interventions, strategies that address wellness, personal growth, or
career development, as well as pathology.) (Xin xem
www.counseling.com). Ở đây ta thấy trong tư vấn mang rõ tính chất
trị liệu.

Cũng theo ACA, định nghĩa về tham vấn là: “Quan hệ tự


nguyện giữa một chuyên viên và một cá nhân, nhóm, hay đơn vị xã
hội cần sự trợ giúp từ tham vấn viên để xác định nan đề tìm hướng
giải quyết có liên hệ đến công việc, hoặc những nan đề có thể xảy
ra với thân chủ hay hệ thống thân chủ”. Nguyên văn: (A voluntary
relationship between a professional helper and help-needing
individual, group, or social unit in which the consultant is providing
help to the client(s) in defining and solving a work-related problem
or potential problem with client or client system). Ở đây ta thấy rõ
tính giải quyết vấn đề.

Tạm hiểu, tham vấn là quá trình trợ giúp giữa hai cá nhân có
chuyên môn nghiệp vụ về một vấn đề liên quan đến công việc. Thiết
nghĩ, tuy hai chuyên môn của họ không hẳn là giống nhau, song có
những liên hệ công việc căn bản nào đó. Vì một chuyên viên chỉ tìm
đến tham vấn khi họ biết những lời khuyên trong tham vấn phải gần
gũi với nan đề, sẽ được áp dụng vào công việc mà họ đang gặp khó
khăn. Trong khi đó tư vấn là qui trình trợ giúp giữa một người có
chuyên môn nghiệp vụ với cá nhân có vấn đề (song thân chủ thường
có chút ít hoặc không có chuyên môn đặc biệt về vấn đề đó

3. Ví dụ minh họa
Ví dụ một: An là một học sinh cấp ba, có thai, em tìm đến tư
vấn viên học đường để biết thêm những chỉ dẫn. An rất yêu Dũng,
mặc dù cả hai còn đi học. An nhất quyết muốn giữ lại đứa con. An
muốn biết giữ lại con thì cô sẽ có những trợ giúp nào, nhất là trong
trường hợp vừa tốt nghiệp cấp ba, chưa đi làm và còn trẻ. Tư vấn
viên của An là cô Vi. Không thể trả lời chắc chắn những câu hỏi của
An, cô Vi quyết định tìm đến Hội phụ nữ Thành phố. Tại đây, chị
Thanh là cán bộ phụ nữ, tiếp cô Vi và đã trả lời tất cả những câu hỏi
liên quan đến trường hợp của An.

Phân tích ví dụ:

Quan hệ tư vấn:

Thân chủ: là An có nhu cầu tư vấn cá nhân, không có chuyên


môn.

Tư vấn viên: Cô Vi là người có chuyên môn (nhưng giới hạn).

Chị Thanh là cán bộ phụ nữ, có chuyên môn. Không có vai trò
liên quan nào.

Để giúp trường hợp của An, có liên quan đến trách nhiệm công
tác nghiệp vụ tư vấn của mình (liên quan đến công việc), cô Vi đã
đến gặp chị Thanh.

Quan hệ tham vấn:

Người có nhu cầu tham vấn: Cô Vi là người có nhu cầu tham


vấn, có chuyên môn.

Tham vấn viên: Chị Thanh là người có nghiệp vụ chuyên môn.

Họ gặp gỡ để có thêm ý kiến chuyên nghiệp các nguồn trợ


giúp cho bà mẹ trẻ để cùng tháo gỡ vấn đề có liên quan đến công
việc (nghiệp vụ tư vấn của cô Vi không thể giúp học sinh An).
Ví dụ hai: Thu mất việc, rất buồn. Lại bị chồng xem thường,
anh ta lại có bạn gái mới. Qua lời khuyên, Thu tìm đến dịch vụ tư
vấn và gặp cô Nga là tư vấn viên. Sau bốn cuộc hẹn tư vấn, Nga
biết chị Vân là một chuyên viên giỏi về tâm lý hôn nhân, nên đề
nghị Thu qua bên đây. Thu ngại, muốn được giữ quan hệ tư vấn với
Nga. Nga hứa sẽ thu thập thêm dữ kiện để cùng tháo gỡ với Thu.
Qua quá trình gặp gỡ Vân, cả Nga và Vân là hai tư vấn viên đều
phát hiện ra vấn đề sinh lý của Thu là then chốt. Để học hỏi kinh
nghiệm, cả hai quyết định gặp bác sĩ phụ khoa tên Hải để có thêm
dữ kiện nhằm giúp đỡ trường hợp của Thu.

Phân tích ví dụ:

Quan hệ tư vấn:

Thu là thân chủ.

Nga là tư vấn viên.

Quan hệ tham vấn A:

Nga là người có nhu cầu tham vấn.

Vân đóng vai trò tham vấn viên.

Quan hệ tham vấn B:

Cả Nga và Vân là người có nhu cầu tham vấn.

Bác sĩ Hải là người đóng vai trò tham vấn viên.

Trong trường hợp này: làm việc với Nga, chị Vân là tham vấn
viên, song vị trí này thay đổi khi Vân và Nga gặp gỡ bác sĩ Hải. Lúc
ấy chị Vân trở thành người có nhu cầu tham gia tư vấn. Như thế,
một tham vấn viên có thể trở thành người tìm ý kiến trong quan hệ
tham vấn với một chuyên gia khác.
Ví dụ ba: Đặt trường hợp Nga thuyết phục được Thu đi gặp
chị Vân. Và Thu đồng ý. Như thế, sau này khi Nga có nhu cầu đến
gặp chị Vân về vấn đề của một thân chủ khác. Thu bây giờ đã
ngưng dịch vụ tư vấn với Nga và đang có dịch vụ tư vấn với chị Vân.
Lúc ấy,

Quan hệ tư vấn:

Thân chủ là Thu.

Tư vấn viên là chị Vân.

Quan hệ tham vấn:

Người có nhu cầu tham vấn là Nga.

Tham vấn viên cũng là chị Vân.

Như thế: một tư vấn viên có thể là một tham vấn viên. Điều
này phụ thuộc vào phía người nhận dịch vụ trợ giúp (helping
services).

Gallessich (1985), Kurpius và Fuqua (1993), và Newman


(1993) đề ra những tiếp cận trong công tác tham vấn bao gồm:
Tham vấn phải dựa trên nội dung chuyên môn cụ thể (consultation
is content based).

- Tham vấn phải có mục tiêu cụ thể, có một phạm vi, thường
là liên hệ đến công việc (goal oriented, has an object, often a work-
related).

- Tham vấn được quyết định bởi vị trí vai trò của đối tác và
quy tắc trong quan hệ (is governed by variable roles and
relationship rlues).

- Tham vấn có tính quá trình, chú ý đến thu thập dữ kiện, đề
nghị cấp giải pháp, và cung cấp những hỗ trợ cần thiết (is process
oriented, involves gathering data, recommending silutions, and
offering support).

- Tham vấn có tính chất ba đối tác (is triadic): thân chủ - tư
vấn viên - tham vấn viên.

- Tham vấn dựa trên cơ sở tư tưởng học, hệ giá trị, và đạo đức
(is based on ideologies, value systems, and ethics). Đặc biệt Kurpius
(1988) nhấn mạnh rằng tham vấn nên áp dụng vào những điều kiện
bối cảnh có hệ thống.

Ví dụ bốn: Hiệu trưởng trường A, học sinh chưa ngoan, tỉ lệ


thi rớt tốt nghiệp cao, nhiệt tình dạy học giáo viên thấp; đến gặp
hiệu trường trường B, học sinh có tư cách đạo đức tỉ lệ thi đậu tốt
nghiệp rất cao, tinh thần giảng dạy và học ở trường B rất hăng hái.
Quá trình hiệu trưởng trường A đến gặp hiệu trưởng trường B để hỏi
về giải pháp nhằm áp dụng cải tiến trường của mình.

Đây là mô hình tham vấn được mô phỏng theo Kurpius (1988).

4. Tham vấn khác tư vấn ở chỗ nào?

Theo Schmidt và Osborne (1981) thì hiện tại vẫn rất khó trong
việc phân biệt giữa tư vấn và tham vấn. Theo hai tác giả trên thì
nguyên tắc và quá trình hoạt động rất giống nhau.

Tuy nhiên Stum (1982) đã đưa ra một phân biệt, theo tác giả,
sự khác biệt đó là:

- Trong tham vấn: nội dung của vấn đề (problem content)


trong tham vấn không thuộc hệ tư duy của người có nhu cầu tham
vấn, nội dung vấn đề trong tham vấn là một đơn vị độc lập nằm bên
ngoài hệ thống cá nhân của người tìm đến dịch vụ tham vấn. Khác
với tư vấn, những vấn đề là một phần lớn từ hệ tư duy khung hoặc
là một bộ phận có quan hệ với thân chủ.

- Địa điểm tham vấn: thường xảy ra nơi làm việc của người xin
ý kiến trong tham vấn, vì mục đích của tham vấn là liên quan đến
công việc, cho nên tham vấn viên đến tại cơ quan của người xin
tham vấn để quan sát và thu thập dữ kiện. Đây là một việc làm dễ
hiểu.

Như vậy trong ví dụ bốn ở phần nên, ta thấy, để cung cấp dịch
vụ tham vấn, hiệu trưởng trường B sẽ phải đích thân đến tận trường
A để tận mắt chứng kiến, thu thập dữ liệu: từ đó ông sẽ đề xuất
hướng giải quyết, và cung cấp hỗ trợ. Nên cần, các bạn cứ sang bên
tôi quan sát!

Cân nhắc, vấn đề của trường A không phải là vấn đề nằm


trong hệ tư duy hay là bộ phận thuộc về hiệu trưởng trường A. Vấn
đề là những khó khăn tại nơi ông ta đang làm việc.

Nelson và Shifron (1985) vạch ra rằng, tham vấn là quá trình


xác ra sau khi một hệ thống cơ cấu đang đi xuống, rơi vào khủng
hoảng. Trong khi đó với tư vấn, người tìm đến dịch vụ tư vấn có hai
động cơ: (1) để điều trị - khi nan đề đã xảy ra, và (2) để ngăn chặn
nan đề trước khi chúng xảy ra.

Động cơ thứ hai (để ngăn chặn nan đề) này trong tư vấn sẽ
không khá thi trong tham vấn. Là vì một tổ chức đang hoạt động
bình thường thì không cần đến tham vấn để cải thiện nó. Hơn nữa,
nếu có nhu cầu cải tiến, tổ chức ấy không thể tìm ra được một tham
vấn viên, nhất định người ta sẽ nói: Các anh không có vấn đề gì?
Tại sao cần đến tham vấn, vốn là một quan hệ giúp đỡ để cải tiến
một hệ thống? Hóa chẳng phải công việc không có vấn đề, nhưng
anh lại nghĩ là nó có vấn đề, như thế, có khác nào vấn đề là nan đề
của cá nhân anh hay không (?)

Vẫn theo Kurpius (1988) và Schdmit (1999) thì điểm khác biệt
giữa tư vấn và tham vấn nằm ở chỗ trọng tâm của tham vấn là
nhằm vào nội dung (content) có quan hệ với công việc; trong khi đó
tư vấn chú ý đến cả nội dung (content), cảm xúc (emtions), cảm
giác (feelings) và nhiều mảng phụ khác có quan hệ tới thân chủ
trong quá trình làm việc.

Ta có thể tóm tắt:

Tham vấn = Nội dung (công việc) + Hệ thống thao tác

Tư vấn = Nội dung (hệ tư duy) + Cảm xúc + Cảm giác + hành
vi + f (môi trường)

Các mô hình trong tham vấn:

Mô hình chuyên viên (expert) hay còn gọi mô hình cung cấp
(provision): Tham vấn viên cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người có
nhu cầu vì họ không có thời gian, ít hứng thú, hoặc không có kỹ
năng xử lý trong một nan đề.

Mô hình bác sĩ - bệnh nhân (doctor-patient) hay còn gọi mô


hình toa thuốc (prescription): Tham vấn viên khuyến cáo những
điều sai (wrong) với đối tác thứ ba và đề nghị người cần tham vấn
nên làm những gì. Giống như bác sĩ ghi toa thuốc vậy.

Mô hình trung gian (mediation): Tham vấn viên giúp như vai
trò trung gian, hòa giải, xử lý một vấn đề có quan hệ đến nhiều
người khác nhau bằng cách (a) thông qua dịch vụ tham vấn có đàm
phán, hoặc (b) tạo ra một kế hoạch khác đã được các bên tham gia
thỏa thuận.
Mô hình quá trình tham vấn (process consultation) hay còn
gọi mô hình hợp tác (collaboration): Tham vấn viên có vai trò như
một người điều khiển quá trình giải quyết vấn đề. Rất giống trường
hợp tư vấn viên học đường và học sinh, với cha mẹ các em, cùng
bàn thảo đến vấn đề trong trường học.

5. Cấp độ trong tham vấn

Tham vấn cá nhân: Tham vấn viên thường làm gương hoặc
ghi ra những giải pháp, yêu cầu cá nhân phải thực hiện.

Tham vấn nhóm: Được áp dụng khi vài hoặc nhiều người có
chung một bức xúc (trường hợp đông đảo hoặc một nhóm công
nhân). Kurpius (1986) nhắc đến 2 vấn đề trong các bức xúc của
nhóm: (a) vấn đề thuộc về một cá nhân, (b) vấn đề quan hệ tới
công việc. Khi vấn đề liên hệ đến cá nhân, tham vấn viên sẽ giúp
nhóm xây dựng tinh thần đồng đội, thông cảm và mở rộng đón
nhận. Trong trường hợp vấn đề quan hệ đến công việc, tham vấn
viên sẽ điều khiển để mọi người tìm ra cách tháo gỡ.

Nhóm C: Chúng có tên bắt đầu bằng các chữ c: cộng tác - cần
tham vấn - cắt nghĩa - chất vấn lẫn nhau - chú ý đến nhau - cẩn
thận về thông tin - cố gắng với công việc chung. Những nhóm có
nhu cầu bắt đầu bằng chữ c nêu trên sẽ trở thành tham vấn nhóm.

Tham vấn cộng đồng/ cơ quan: Vì tính hoành tráng và tầm


quan trọng của tham vấn trong cộng đồng/ cơ quan, tham vấn phải
là một quá trình có chuẩn bị kiến từ thức toàn diện. Tính tổ chức và
trang trọng cần được chú ý. Tính chuyên môn phải cao vì đặc tính
hoành tráng, không để qua loa, sơ sài được.

Các giai đoạn trong tham vấn:


1. Thủ tục trước hợp đồng (precontrac): Tham vấn viên phải
trình bày chuyên môn nghiệp vụ và tư cách hoạt động hợp pháp của
mình.

2. Hợp đồng và khám phá quan hệ (contract and exploration of


relationship): Tham vấn viên thảo luận với thân chủ một cách
nghiêm túc, sau đó thân chủ sẽ cho biết nếu như mình đã sẵn sàng
với dịch vụ tham vấn.

3. Chính thức hợp đồng (contracting): Thỏa thuận giữa hai bên
về những gì bao gồm trong gói dịch vụ và thủ tục dịch vụ tham vấn.

4. Xác định vấn đề (identifying problem): Cả hai phía cùng


tham gia định nghĩa của vấn đề.

5. Phân tích vấn đề (problem analysis): Tập trung vào dữ kiện


có liên quan và đề xuất hướng giải quyết.

6. Ý hiến phản hồi và lên kế hoạch (feedback and planning):


Một kế hoạch được đề ra. Cũng cần có kế hoạch khác (kế hoạch B)
sau khi giải pháp khả thi nhất được cân nhắc dựa trên điều kiện
thực tế. Kế hoạch được chọn sẽ được đưa vào thực hiện.

7. Thực hiện kế hoạch (implementation of the plan): Thân chủ


sẽ bắt tay thực hiện kế hoạch.

8. Đánh giá kế hoạch (evaluation of the plan): Hai phía cùng


đánh giá xem kế hoạch đã thực hiện như thế nào, vấn đề đã được
giải quyết đến đâu - có đi đúng hướng hay không?

9. Kết luận và ngưng quan hệ tham vấn (Conclusion and


termination of relationship): Hai bên sẽ điểm lại những gì đã xảy ra
đề ra kế hoạch kiểm tra chất lượng sau khi chấm dứt dịch vụ.

6. Những lĩnh vực hữu ích với tham vấn


Mặc dù trên thực tế và trên lý thuyết, tham vấn có thể xảy ra
bất cứ với ai và bất cứ môi trường nào, tuy nhiên vài môi trường sẽ
có nhiều ích lợi hơn trong quá trình tìm đến dịch vụ tham vấn.

Tham vấn trong học đường: thông thường tư vấn viên học
đường rất tuyệt vời trong vai trò tham dân viên. Họ thường là nhân
viên có liên hệ gần gũi với ban giám hiệu và có chức năng như trực
thuộc giới hạn của một nhân viên. Họ thường có nhiều kinh nghiệm
vời những ban ngành, tổ chức trong địa bàn. Với tính chất quan hệ
rộng rãi, quen biết nhiều như thế, họ có thể hoạt động với vai trò
như tham vấn viên - là nguồn cung cấp và là cán sự liên đới với bên
ngoài về những chương trình mang tính hệ thống phục vụ cho
trường.

Với các trung tâm sức khỏe tâm thần cộng đồng: các tư
vấn viên cũng có vai trò tương tự. Đối tượng của sức khỏe tâm thần
là cộng đồng trong xã hòi. Nhiều ngành liên quan và có chung
những ưu tư chăm lo đến lợi ích công cộng sự là những địa chi quen
thuộc với họ. Tư vấn sức khỏe tâm thần cần có một kiến thức bao
quát, việc liên hệ với những ngành phục vụ phúc lợi khác là hoạt
động có ích; nhằm đáp ứng được như cần đa dạng của thân chủ. Tất
nhiên vai trò của họ như những tham vấn viên sẽ đem lại hiệu quả
rất cao cho mọi người trong cộng đồng.

7. Kết luận

Tham vấn về mặt căn bản có chung những điểm rất gần với tư
vấn. Phần nhiều các tư vấn viên trong những trường hợp nhất định
đã trở thành tham vấn viên. Mục đích của tham vấn và tư vấn nhiều
khi gối lên nhau, điều này đã gây ra rất nhiều lúng túng trong cách
chúng ta trao đổi nói chuyện hàng ngày. Vì thế, thuật ngữ sẽ trở
nên dễ nhầm lẫn.

Mong là khi sử dụng trong bối cảnh cụ thể - tham vấn hay tư
vấn - khái niệm cụ thể về sự khác biệt sẽ trở thành sáng tỏ hơn.

Tham vấn là một phát sinh khi nhu cầu tư vấn đang trở nên đa
dạng hơn, tiếp cận với những chuyên môn, lĩnh vực khác, phong phú
và đa dạng hơn. Trong khi chờ đợi có một định nghĩa cụ thể hơn,
thiết nghĩ trong công tác, nhất là những lúc thuật ngữ gây trở ngại,
sự linh hoạt uyển chuyển trong lối suy nghĩ sẽ trở thành cần thiết.

Như thế chúng ta có thay vì lãng phí những năng lượng vào
việc đánh vật với thuật ngữ, chúng ta có thế an tâm chuyển tải
năng lượng ấy vào những công việc khác có ích cho công tác chuyên
môn của mình.

PHỤ LỤC

TƯ VẤN TÂM LÝ Ở HOA KỲ

Bài viết tham gia kỷ yếu Hội thảo Tư vấn Tâm lý giáo dục

thành phố Hồ Chí Minh 18/02/2006

GIỚI THIỆU

Tư vấn tâm lý là một ngành chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ


hướng dẫn tâm lý rất phát triển, rất thịnh hành ở những nước công
nghiệp như Hoa Kỳ. Với quá trình phát triển của ngành phục vụ tâm
lý này, nhu cầu tìm đến những cố vấn tâm lý chuyên nghiệp đã trở
thành một thói quen phổ thông cho một số rất đông trong xã hội
Hoa Kỳ. Văn hoá và tư duy Hoa Kỳ còn là một trong những động lực
quan trọng then chốt trong việc thúc đẩy ngành khoa học xã hội này
có được một vị trí quan trọng trong những sinh hoạt hàng ngày của
nhiều tầng lớp khác nhau.

Đặc trưng của tư vấn tâm lý là ở tính đa năng và đa dạng của


nó. Tư vấn tâm lý đóng vai trò như một nhịp cầu nối liền giữa các
ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh đó ngành Tư
vấn tâm lý còn có những quan hệ hữu cơ với những bộ phận khác,
có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tâm lý phức tạp của con người,
chẳng hạn như nghệ thuật, giáo dục, tư tưởng, phát triển tư duy,
tôn giáo. Nói khác đi, tư vấn tâm lý là một trục giao thông cho
những quan hệ hữu tương rất phong phú của xã hội được nối kết với
nhau. Với những khám phá và nhưng nghiên cứu quan trọng của
ngành tâm lý học, tư vấn tâm lý có thể nói đã được thừa hưởng
những ứng dụng rất hữu ích khả dĩ có thể giúp cho dịch vụ này được
phát huy cả về bề sâu lẫn bề rộng. Tuy nhiên tư vấn tâm lý vẫn còn
gặp phải những thử thách trước mắt khi sự thay đổi và đà tiến hóa
của xã hội ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Vì dịch vụ tư
vấn tâm lý trực tiếp làm việc với con người, nên dịch vụ này có
nhiều điểm rất giống những dịch vụ xã hội khác. Ngay cả những
người làm công tác cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý ở Hoa Kỳ cũng
dễ bị nhầm lẫn giữa tư vấn tâm lý (counseling psychology) và tâm
lý lâm sàng (clinical psychology) cùng với những phục vụ công ích
xã hội khác.

ĐÔI NÉT LỊCH SỬ

Tư vấn tâm lý thật ra đã xuất hiện tri ra sum trong hầu hết
mọi nền văn hóa khác nhau trên thế giới dưới hình thức đơn giản khi
một cá nhân tìm kiếm những hướng dẫn từ một người khác. Tư vấn
tâm lý trong bối cảnh hiện nay thật ra là một nghề chuyên nghiệp,
và như thế tiền thân của nó bắt nguồn từ những giao lưu qua lại
giữa những cá nhân trong cùng một môi trường chứ không phải từ
ngành Y như tâm lý lâm sàng (clinical psychology). Tư vấn tâm lý vì
thế tập trung chu yếu vào việc cung cấp những dịch vụ hướng dẫn
và những lời chuyên nhằm giúp giải quyết những khó khăn bất đồng
hoặc những hiểu lầm trong các quan hệ hàng ngày tại sở làm,
trường học, và trong sinh hoạt gia đình. Những người làm công tác
tư vấn tâm lý gọi người được giúp là “khách hàng” (client) trong khi
bên tâm lý lâm sàng gọi người được giúp là "bệnh nhân" (patient).

Xuất phát từ bối cảnh này, người làm công tác cố vấn tâm lý
đóng vai như là một "người giải quyết những khúc mắc", chuyên
môn cung cấp những lời khuyên trực tiếp cũng như những hướng
dẫn gián tiếp nhằm giúp "khách hàng" của mình để họ có được
những quyết định thỏa đáng cho những khó khăn của họ. Khác với
tư vấn tâm lý, tâm lý lâm sàng trực tiếp làm việc với "bệnh nhân"
(patient) và thường thì những bệnh nhân này đòi hỏi thời gian điều
trị dài hơn những "khách hàng" bên tư vấn tâm lý. Một điểm khác
nhau giữa tư vấn tâm lý với tâm lý lâm sàng là bên tâm lý lâm sàng
thường có quan hệ với một đội ngũ bác sĩ và y tá trong việc cung
cấp dịch vụ sức khỏe tâm thần cho bệnh nhân.

Ở Hoa Kỳ, tư vấn tâm lý ban đầu được giới thiệu ngay sau Đệ
nhị thế chiến khi Bộ cựu chiến binh Hoa Kỳ sử dụng khái niệm tư
vấn tâm lý nhằm hướng dẫn cho những cựu quân nhân khi họ yêu
cầu được bồi thường cho những thương tật và những khả năng lao
động đã bị ảnh hưởng sau chiến tranh. Và từ đó Bộ cựu chiến binh
đã chính thức đưa dịch vụ tư vấn tâm lý vào những văn phòng khu
vực và những nhà thương trực thuộc Bộ cựu chiến binh Hoa Kỳ
nhằm cung cấp cho những cựu quân nhân sớm khôi phục lại khả
năng lao động và trở về với đời sống dân sự. Sau đó các trường đại
học ở Hoa Kỳ cũng bắt đầu đưa vào trong khuôn viên chương trình
đào tạo những dịch vụ tư vấn tâm lý nhằm giúp những sinh viên xác
định được những chuyên ngành mà họ cảm thấy phù hợp với khả
năng và sở thích của họ trong việc chọn nghề trong tương lai.

Theo thời gian, dịch vụ cung cấp tư vấn tâm lý càng ngày càng
phát triển và hoàn thiện. Những chương trình đào tạo đội ngũ tư
vấn tâm lý chuyên nghiệp được xây dựng chuẩn bị cho những người
theo học ngành này có đủ kiến thức và chuyên môn để được cấp
bằng hành nghề đã được ra đời. Ngành Tư vấn tâm lý đã trở thành
một ngành có hệ thống rõ ràng, giống như ngành Tâm lý lâm sàng
trong việc những người muốn hành nghề tư vấn tâm lý cần phải có
giấp phép (license) hành nghề.

Vào năm 1976 thì tiểu bang Virginia là tiểu bang đầu tiên ban
hành luật yêu cầu những ai làm công tác tư vấn tâm lý trong tiểu
bang này phải được cấp bằng (hay là giấy phép) hành nghề. Đến
năm 1979 thì tiểu bang Arkansas yêu cầu những ai hành nghề Tư
vấn tâm lý phải có giấy phép của tiểu bang. Gân đây nhất là tiểu
bang Hawaii bắt đầu yêu cầu người cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý
phải có giấy phép hành nghề của tiểu bang. Trong tổng số năm
mươi tiểu bang và những hạt trực thuộc Hoa Kỳ, hiện nay chỉ có tiểu
bang California và tiểu bang Nevada là vẫn không yêu cầu người
hành nghề Tư vấn tâm lý phải có giấy phép (license) của tiểu bang.

Năm 1952 bốn tổ chức độc lập có tên là: the National
Vocational Guidance Association (NVGA), the National Association of
Guidance and Counselor Trainer (NAGCT), the Student Personnel
Association for Teacher Education (SPATD), và the American College
Personnel Association (ACPA) sát nhập lại nhằm mạch đích tạo một
tiếng nói có tầm quan trọng hơn trong lãnh vục chuyên môn này. Tổ
chức mới ấy vào năm 1983 lấy tên mới là American Personnel and
Guidance Association (APGA). Đến năm 1992, tổ chức này lại đối
tên một lần nữa gọi là Hiệp hội cố vấn Hoa Kỳ - American
Counseling Association (ACA) cho đến bây giờ. Tổ chức này cung
cấp rất nhiều cho tất cả cố vấn tâm lý trên toàn Hoa Kỳ và ở năm
mươi quốc gia khác nhau bao gồm cả châu Âu, châu Mỹ La Tinh, Phi
Luật Tân và Virgin Island. ACA tập hợp gồm mười tám khu vực
(division) và năm mươi sáu phân ngành chuyên môn (branch). ACA
có nhiệm vụ chủ yếu là tạo ra một mạng lưới có hệ thống giúp các
thành viên của ACA có điều kiện giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm và
thông tin thông qua những hội thảo chuyên đề, các chương trình bổ
túc và nâng cao trình độ nghiệp vụ, cũng như việc phổ biến báo cáo
nghiên cứu và những tài liệu chuyên ngành. ACA còn hoạt động với
những nỗ lực như liên lạc với những tổ chức chính quyền khác với
mục đích bảo vệ và ủng hộ những người làm công tác tư vấn tâm lý.

Năm 1982 một tổ chức độc lập và chức vô vị lợi có tên là Ban
cấp chứng nhân cố vấn Quốc gia – National Board for Certified
Counselor (NBCC) được thành lập với mục đích cung cấp những dịch
vụ liên quan đến việc cấp chứng nhận cho những ai muốn có giấy
chứng nhận mình là tư vấn tâm lý cấp quốc gia. Tuy nhiên giấy
chứng nhận nói trên sẽ không bảo đảm cho người được cấp giấy
chứng nhận được phép hành nghề cung cấp dịch vụ cố vấn tâm lý ở
những tiểu bang. Mỗi một tiểu bang ở Hoa Kỳ có một ban đặc trách
về việc cung cấp giấy phép (license) cho những ai đã đáp ứng được
yêu cầu của các kỳ thi của những tiểu bang này. Nhiều tiểu bang đã
sử dụng hoặc công nhận giấy chứng nhân được cấp bởi NBCC như là
giấy phép hành nghề của tiểu bang học. Một vài tiểu bang yêu cầu
cố vấn tâm lý xin đăng ký dự thi lấy giấy phép tiểu bang phải có
giấy chứng nhận của NBCC trước. Nói tóm lại, chứng nhận của NBCC
không phải sẽ được công nhận ở mọi tiểu bang. Nhiệm vụ của người
muốn làm công tác tư vấn tâm lý ở từng tiểu bang là phải liên lạc
với tiểu bang của họ về vấn đề giấp phép (license) hành nghề của
tiểu bang, mặc dù họ đã có giấy chứng nhận (certification) của
NBCC.

Vài dữ kiện thống kê gần đây nhầm nêu rõ hơn về vị trí của
ngành Cố vấn tâm lý ở Hoa Kỳ, những tư liệu thống kê dưới đây
được giới thiệu để bạn đọc có được một cái nhìn khái quát về nhu
cầu của xã hội Hoa Kỳ về dịch vụ tư vấn tâm lý.

- Hơn 50% các cuộc hôn nhân ở Hoa Kỳ sẽ dẫn đến ly dị. Hoa
Kỳ có tỷ lệ ly dị cao nhất trên thế giới và hiện có khoảng 19 triệu
người ly dị.

- Nghiên cứu đã kết luận cố vấn tâm lý trước hôn nhân giúp
giảm tỷ lệ ly dị. Ly dị có tác hại đến trẻ em về mặt phát triển tâm
lý, bỏ học, và tự sát.

- Trẻ em sinh trưởng trong những gia đình bạo lực có 72%,
cao hơn về tội phạm.

- Hàng năm Hoa Kỳ tiêu khoảng 3 đến 5 tỷ mỹ kim cho hậu


quả liên quan đến bạo lực trong gia đình.

- Vào khoảng 4 đến 6 triệu vụ bạo lực tay chân trong các quan
hệ tình cảm ở Hoa Kỳ.

- 50% các cặp vợ chồng bảo vệ được hôn nhân sau khi tìm đến
dịch vụ cố vấn tâm lý.

- 3 đến 8% dân số Hoa Kỳ hiện đang đối diện với những lo


lắng chung.
- 35 đến 40 triệu người dân Hoa Kỳ hiện nay sẽ mắc chứng
bệnh chán nản toàn phần trong một lúc nào đó của cuộc đời của họ.

- 30 triệu đàn ông Hòa Kỳ hiện đang sống với chứng yếu sinh
lý (sexual dysfunction).

- Một người dân Hoa Kỳ trung bình mắc nợ thẻ tín dụng với
khoản 5.800 mỹ kim và nếu trả nhỏ giọt kéo dài sẽ mất 30 năm với
số tiền lời là 15.000 mỹ kim.

- 96% dân số Hoa Kỳ khi về hưu sẽ phụ thuộc tài chính vào
Chính phủ, gia đình và những tổ chức khác nhau.

- Hiện nay trẻ em Hoa Kỳ chứng kiến vào khoảng 12.000 cảnh
giết người trước khi các em bước vào tuổi dậy thì.

- 1 trong 6 người mắc bệnh SIDA hoặc nhiễm vi rút HIV dương
tính sống ở thành phố New York.

- Hoa Kỳ là quốc gia có tỷ lệ trẻ em nữ có thai cao nhất trong


khu vực những nước công nghiệp phát triển phương Tây và tiêu vào
ngân quỹ Hoa Kỳ hàng năm khoảng 7 tỷ mỹ kim.

- Các bà mẹ vị thành niên có nguy cơ không tốt nghiệp phổ


thông trung học (chỉ có 33% các em này tốt nghiệp PTTH) và rất ít
các em theo đuổi đại học (1.5% theo học đại học ở tuổi 30).

- 80% các bà mẹ vị thành niên phải dựa vào hệ thống phúc lợi
công cộng. Gần 900.000 các em nữ vị thành niên có thai hàng năm
và gần 35% các phụ nữ trẻ có thai trước khi họ được 20 tuổi.

- 5% tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ tính đến tháng 8 năm 2005.

- 3.2 triệu trẻ em là nạn nhân của ngược đãi trong gia đình về
mặt thể lý, tâm lý, tình cảm, và bị hắt hủi.
- Chuyên viên nghề nghiệp ở Hoa Kỳ đề nghị xu hướng một
người dân Hoa Kỳ trung bình sẽ thay đổi nghề nghiệp ít nhất là 7 lần
trong đời.

- Thống kê cho biết 1 trong 3 người vô gia cư ở Hoa Kỳ là cựu


quân nhân trong năm 1995 theo tổ chức GAO (General Accounting
Office).

- Tư vấn tâm lý cho người nghiện ngập giúp nâng tỷ lệ có việc


làm cao hơn 60%.

Khoảng 10% dân số Hoa Kỳ mắc chứng nghiện ngập thuốc


phiện hoặc uống rượu và tệ nạn này lãng phí khoảng 300 tỷ mỹ kim
trực tiếp cũng như gián tiếp.

- 1 trong 5 trẻ em có triệu chứng đủ để xếp các em vào diện


trẻ có bệnh tâm thần (năm 2000).

- 90% các vụ tự sát trong lứa tuổi vị thành niên có liên hệ đến
chứng bệnh chán nản (depression).

- Theo AARP (American Association of Retired Person) hiện có


1 triệu người dân Hoa Kỳ bước vào tuổi 60 cứ mỗi tháng là - 50%
các cá nhân về hưu không được rõ ràng về dịch vụ cố vấn tâm lý.

Chỉ có 3% cá nhân về hưu được nhận dịch vụ cố vấn tâm lý và


tâm lý lâm sàng.

- 45% dân số Hoa Kỳ sẽ là người già vào năm 2015.

- 2004 là năm chủ tịch ACA (American Counseling Association)


được bầu là người đồng tính luyến ái công khai.

Việc đưa ra những con số cụ thể về những thống kê nhằm tạo


nên nột bức tranh phản ánh tình hình xã hội hiện thực ở Hoa Kỳ. Nói
khác đi những dữ kiện trên là những kêu gọi đánh thức tất cả những
ai có trách nhiệm cần phải suy nghĩ. Đội ngũ các người làm công tác
cố vấn tâm lý và những người trẻ có nhiệt tình quan tâm đến những
khó khăn trong xã hội sẽ nhanh chóng đóng góp những cố gắng của
mình. họ là những người nhận thấy trách nhiệm cũng như ảnh
hưởng của họ trong việc đóng góp vào những cố gắng giám thiếu
những khó khăn nhức nhối của xã hội luôn thay đổi rất đa dạng và
phức tạp.

THÀNH PHẦN ĐỘI NGŨ NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG TRONG


LĨNH VỰC TƯ VẤN TÂM LÝ

Tập thể những người làm công tác tư vấn tâm lý có hoàn cảnh
lý lịch rất đa dạng. Hầu như trong đội ngũ những người hoạt động
trong lĩnh vực này bao gồm đủ mọi màu da và tuổi tác. Họ là những
người có tâm huyết với nghề và rất tự hào về những việc họ đã làm.
Những người làm công tác cố vấn tâm lý được liệt vào ngành giúp
đỡ chuyên nghiệp (helping profession). Người ta có thể bắt gặp
những người làm công tác tư vấn tâm lý trong rất nhiều môi trường
khác nhau, như trong các trường học, từ cấp tiểu học cho đến cấp
đại học, trong bệnh viện, trong những trung tâm phục vụ phúc lợi
công cộng của các cấp từ cấp thành phố cho đến cấp tiểu bang,
trong những trung tâm của những tổ chức vô vị lợi, những trung
tâm cộng đồng (community).

Vai trò của một tư vấn tâm lý rất đa dạng đối với một khách
hàng. Với tư tưởng lợi ích của khách hàng là trên hết, người làm
công tác tư vấn tâm lý thường đặt mình vào nhiều cương vị khác
nhau như: một thầy giáo, một y tá, một người bạn, một người thân
trong gia đình, một cố vấn, một người bịện hộ, một người mẹ, một
người cha, một người hàng xóm. Nói tóm lại người cung cấp dịch vụ
tâm lý phải linh động trong việc đáp ứng được những nhu cầu phức
tạp khác nhau của từng khách hàng một.

Theo NBCC (National Board for Certified Counselors) thì hiện


nay ở Hoa Kỳ có vào khoảng:

Tổng cộng những người được cấp chứng nhận NCC gồm:
39.805

Số được cấp chứng nhận cố vấn lâm sàng: 1.287

Số được cấp chứng nhận cố vấn nghề nghiệp: 695

Số được cấp chứng nhận cố vấn người nghiện: 685

Số được cấp chứng nhận cố vấn trong trường học: 2.036

Số được cấp chứng nhận cố vấn giành cho người già: 185

Theo ACA (American Counseling Association) thì hiện nay tố


chức này có khoảng 52.000 thành viên hoạt động trên 50 quốc gia
khác nhau.

NHỮNG YÊU CẦU CĂN BẢN ĐÀO TẠO MỘT TƯ VẤN TÂM LÝ

Vì lợi ích của khách hàng cũng như để nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn của ngành Tư vấn tâm lý, người muốn tham gia đội ngũ
tư vấn tâm lý ở Hoa Kỳ được yêu cầu trải qua khóa đào tạo và phải
có sự chuẩn bị cẩn thận. Những trường đại học có mở khóa đào tạo
bốn năm hoặc có chương trình đào tạo cử nhân sáu năm (Master's
degree) thường đều có chương trình đào tạo tư vấn tâm lý. Trong
bài viết này những yêu cầu căn bản đế được cấp giấy chứng nhận
cấp quốc gia NCC (National Certified Counselor) do NBCC cấp hoặc
giấy phép hành nghề được cấp bởi tiểu bang (license) sẽ được giới
thiệu dưới đây. Người muốn nộp đơn xin được cấp chứng nhận bởi
NBCC hoặc xin bằng hành nghề cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý phải
có bằng cử nhân đại học sáu năm (Master'degree) với các bộ môn
bắt buộc phải có như sau:

a. Chương trình học bao gồm tám lĩnh vực:

1. Quá trình sinh trưởng và phát triển của con người (Human
Growth and Development).

2. Kiến thức nền tảng về xã hội và văn hóa (Social and


Cultural Foundationa).

3. Quan hệ giữa người cung cấp và người nhận dịch vụ cố vấn


tâm lý (Helping Relationtionships).

4. Cố vấn cho nhóm (Group Works).

5. Kiến thức quá trình phát triển về nghề nghiệp và đời sống
(Career and Lifetsyle Development).

6. Đánh giá (Apraisal).

7. Nghiên cứu và đánh giá những chương trình cố vấn tâm lý


(Research and Program Evaluation).

8. Tính chuyên nghiệp và đạo đức trong công tác cố vấn tâm lý
(Professional Orientation and Ethics).

b. Chương trình học bao gồm năm nhóm hoạt động trong
công tác chuyên ngành:

1. Tư vấn căn bản (Fundamentals of Counseling).

2. Đánh giá và tư vấn nghề nghiệp (Assessment and Career


Counseling).

3. Cố vấn cho nhóm (Group counseling).


4. Các chương trình và can thiệp lâm sàng (Programmatic and
Clinical Intervention).

5. Những vấn đề trong thực hành chuyên nghiệp (Professional


Practice Issues).

Thông thường thì chương trình đào tạo gồm bốn năm đại học
và thêm hai năm hậu đại học. Cộng thêm hai năm thực tập dưới sự
giám sát của những người có kinh nghiệm. Tất cả trước sau một
người muốn theo học để trở thành tư vấn tâm lý sẽ mất tám năm
đào tạo. Bài thi do NBCC cung cấp để cấp chứng nhận bao gồm 200
câu hỏi trắc nghiệm với thời gian làm bài là bốn giờ đồng hồ. Người
dự thi nếu có yêu cầu đặc biệt vì những lý do hạn chế khác nhau sẽ
được giúp đỡ, chẳng hạn như sử dụng tự điển hoặc xin kéo dài thời
gian làm bài.

Nhiều tiểu bang sử dụng kết quả của NBCC như kết quả chính
thức trong việc cấp giấy phép hành nghề (license).

TRÁCH NHIỆM VÀ HƯỚNG DẪN CHUNG

Vì tầm quan trọng của quan hệ giữa người cung cấp và người
nhận dịch vụ cố vấn tâm lý, Hiệp hội tư vấn Hoa Kỳ (ACA) và Ban
cấp chứng nhận tư vấn Quốc Gia (NBCC) đều có riêng một bản điều
lệ (Codes of ethics) nhằm cung cấp những hướng dẫn cơ bản cho
đội ngũ nhân viên chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý. Vì bản
điều lệ của hai tổ chức nói trên đều có những điểm chung với khá
nhiều phần gối lên nhau, bản điều lệ của NBCC sẽ được chọn trình
bày như một tài liệu tham khảo trong bài viết này. Bản điều lệ của
NBCC được soạn ra nhằm nâng cao chất lượng của ngành và thúc
đẩy đội ngũ cố vấn tâm lý trong việc duy trì giá trị của ngành. Bản
điều lệ cũng cung cấp cho xã hội những bảo đảm về chất lượng của
ngành. Bản điều lệ mong rằng sẽ giúp nâng cao tính chuyên nghiệp
của ngành tư vấn tâm lý và khuyến khích tính năng động trong
cương vị lãnh đạo của các thành viên trong ngành tư vấn tâm lý.

PHẦN A
NHỮNG HƯỚNG DẪN CHUNG

- Mọi thành viên phải luôn cố gắng cập nhật nghiệp vụ của
mình.

- Có trách nhiệm nghề nghiệp với khách hàng cũng như với cơ
quan chủ quản của mình. Trong trường hợp có sự bất đồng quan
điểm với cơ quan chủ quản nên xin thuyên chuyển hoặc nghỉ việc.

- Tinh thần đạo đức nghề nghiệp được đề cao trong mọi hoàn
cảnh và mọi lúc.

- Không cung cấp dịch vụ ngoài luồng hoặc trao đổi dịch vụ cố
vấn tâm lý với những dịch vụ khác cung cấp bởi khách hàng.

- Giá biểu dịch vụ nên hợp lý và phù hợp với những hoàn cảnh
đặc biệt.

- Chỉ cung cấp dịch vụ tâm lý nằm trong chuyên môn mà mình
được đào tạo.

- Có trách nhiệm về việc thu thập những tin tốt cập nhật liên
quan đến ngành.

- Luôn cảnh giác về những quan hệ tình cảm nam nữ với khách
hàng.

- Không được quan hệ tình cảm với khách hàng, nếu cảm thấy
cần thiết, nên liên lạc với những cố vấn tâm lý khác để giải quyết
dứt điểm về vấn đề này.
- Quan hệ tình cảm nam nữ chỉ được phép thiết lập sau khi
chấm dứt cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý cho khách hàng ít nhất là
hai năm.

- Không được ủng hộ hoặc tham gia vào những vụ sách nhiễu
tình dục.

- Không được có những thiên kiến, phân biệt trong cách đối xử
với những khách hàng về màu da, giới tính, tôn giáo, tuổi tác, quốc
tịch, khả năng lao động.

- Luôn chịu trách nhiệm về tất cả những hành động trong và


ngoài nghề nghiệp của mình.

- Luôn giữ kín mọi thông tin của khách hàng và giới truyền
thông và tất cả những người khác khi khách hàng không đồng ý
hoặc chưa cho phép.

- Tự giác thôi nghề nếu cảm thấy mình không đủ khả năng
chuyên môn nghiệp vụ.

PHẦN B
QUAN HỆ TRONG DỊCH VỤ TƯ VẤN TÂM LÝ

- Tôn trọng và luôn đặt lợi ích cửa khách hàng lên hàng đầu.

- Tôn trọng và cộng tác với những thành viên tư vấn khác,
tránh trường hợp một khách hàng nhận dịch vụ cố vấn tâm lý từ hai
thành viên khác nhau.

- Khi một thành viên chủ động muốn thảo luận nghiệp vụ với
một thành viên khác, khách hàng phải được thông báo về vấn đề
này nếu cuộc thảo luận có liên quan đến khách hàng.
- Khi thành viên tư vấn biết sẽ có những nguy hiểm xảy ra cho
khách hàng hoặc cho bất cứ ai, thành viên có trách nhiệm báo cáo
với cơ quan chức năng có thẩm quyền.

- Thành viên có trách nhiệm thông báo cho khách hàng về


trách nhiệm của những hành động của cá nhân họ.

- Những thông tin về dịch tư cố vấn tâm lý dưới mọi hình thức
(giấy tờ, băng hình, băng ghi âm, báo cáo) đều phải được bảo quản
cẩn thận và chỉ những ai có trách nhiệm mới được tiếp cận, đồng
thời những thông tin phải chính xác. Khi tòa án có yêu cầu giao nộp
những tài liệu liên quan đến khách hàng, thành viên có trách nhiệm
phải tận dụng mọi phương tiện để tránh gửi tài liệu đi hoặc kéo dài
thời gian nộp tài liệu, trong khi đó thành viên sẽ thông báo cho
khách hàng biết với thời gian ngắn nhất. Tài liệu phải được bảo quản
trong thời hạn năm năm sau khi chấm dứt cung cấp dịch vụ cố vấn,
kể cả trường hợp khi khách hàng bị chết.

- Tài liệu lưu trữ trong máy vi tính hoặc băng hình, băng ghi
âm phải được báo quản cẩn thận. Khi tài liệu đã không còn được sử
dụng phải được hủy bỏ.

- Tài liệu của một khách hàng nếu được sử dụng như tư liệu
giảng dạy phải được thay đổi để danh tánh của khách hàng không
được nhận diện. Nếu không thay đổi được, khách hàng sẽ là người
có quyền cho phép tư liệu đó được sử dụng hay không.

- Khách hàng có quyền được biết về mục đích tư vấn, kế hoạch


tư vấn, kỹ thuật tư vấn, thủ tục tư vấn, những hạn chế và những
tác hại có thể xảy ra cũng như lợi ích ủa dịch vụ tư vấn tâm lý.
Khách hàng có quyền được nghe giải thích về những thủ tục đánh
giá xét nghiệm cũng như báo cáo của những đánh giá xét nghiệm
này. Thành viên có trách nhiệm thông báo cho khách hàng biết về
mô hình ung cấp dịch vụ và những cảnh báo cần thiết về an toàn ho
khách hàng.

- Thành viên có nhiệm vụ giải thích về lịch trả lệ phí cũng như
hình thức trả lệ phí.

- Thành viên sẽ không cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý cho thực
tập sinh tư vấn, trừ những trường hợp đặc biệt vì không có dịch vụ
tư vấn tâm lý nào gần đó.

- Khi thành viên nhận thấy mình không đủ điều kiện giúp đỡ
một khách hàng trong công tác tư vấn, thành viên sẽ giải thích và
đề nghị với khách hàng về những phương án khác, trước khi thành
viên tự động chấm dứt cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý cho khách
hàng. Thành viên phải có kiến thức về thủ tục giới thiệu khách hàng
đến những dịch vụ tư vấn khác để quá trình chuyển tiếp sẽ đạt hiệu
quả cao hơn. Khi khách hàng từ chối thuyên chuyển dịch vụ, thành
viên không bắt buộc phải duy trì cung cấp dịch vụ tâm lý.

- Khi dịch vụ tâm lý chỉ yêu cầu thời gian ngắn hạn để xử lý,
thành viên sẽ có trách nhiệm cung cấp và giới thiệu trợ giúp chuyên
nghiệp sẵn sàng với lệ phí phải chăng khi khách hàng có nhu cầu
cần dịch vụ tư vấn trong tương lai.

- Thành viên sẽ cung cấp cho khách hàng những thông tin về
địa điểm văn phòng của mình nếu như việc cung cấp dịch vụ tâm lý
sử dụng phương tiện điện thoại hoặc điện tử.

- Thành viên phải có đầy đủ giấy tờ liên quan cho phép mình
cung cấp dịch vụ cố vấn qua điện thoại và điện tử.

- Khi sử dụng máy vi tính trong công tác cung cấp dịch vụ tư
vấn tâm lý, thành viên phải nắm vững những quy tắc bảo vệ tài liệu
cũng như chỉ sử dụng những chương trình ứng dụng phù hợp với
điều kiện của khách hàng. Các bộ đánh giá (measurement
instrument) hoặc những phương tiện đánh giá phải phù hợp với trình
độ và khả năng của khách hàng.

- Khi thành viên có những chương trình ứng dụng riêng cho
máy vi tính, thành viên phải có những sổ tay hướng dẫn thích hợp
cho việc sử dụng những chương trình ứng dụng này.

- Khi cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý cho nhóm, thành viên cần
nhấn mạnh với mọi khách hàng trong nhóm về việc giữ kín những
thông tin được trao đổi với khả năng cao nhất của từng nhóm viên.
Thành viên không thể bảo đảm cho những thông tin được giữ kín
giữa những nhóm viên, nhưng thành viên có thể bảo đảm thông tin
sẽ được giữ kín trong trách nhiệm của thành viên tư vấn.

- Thành viên khi chọn ứng viên cho một nhóm phải cân nhắc
xem các ứng viên có tương đồng với nhau trên nhiều phương diện
khác nhau để nhóm đạt được hiệu quả cao.

KẾT LUẬN

Tư vấn tâm lý là một ngành giúp đỡ chuyên nghiệp (helping


profession) hoạt động rất rộng rãi ở Hoa Kỳ. Có thể nói hầu như tất
cả mọi người sinh trưởng và lớn lên ở Hoa Kỳ đều có ít nhiều kinh
nghiệm với dịch vụ tư vấn tâm lý. Cuộc sống xã hội luôn đặt ra
những yêu cầu rất cấp bách nhất là từ khi vận tốc phát triển của
khoa học và kỹ thuật vượt bậc. Xã hội Hoa Kỳ đã hơn bất cứ lúc nào
trong lịch sử của mình phải đương đầu với những vấn đề nóng bỏng
của giai đoạn lịch sử hiện tại. Nhiều thay đổi liên tục trong lĩnh vực
giáo dục, nghề nghiệp và nhất là cấu trúc đơn vị gia đình trong xã
hội Hoa Kỳ ngày càng trở nên phân hóa sâu sắc hơn. Khi phải chạy
đua với những đòi hỏi thay đổi liên tục, nhiều kỹ năng và kinh
nghiệm trong quá khứ đã không còn thích hợp và hoàn cảnh thực tế
hôm nay. Nhiều cá nhân khi đương đầu với những thay đổi đã không
tránh khỏi những khó khăn trong việc tạo ra những quyết định. Hơn
lúc nào hết, khi nền kinh tế Hoa Kỳ đang chuyển nhanh từ kinh tế
sản xuất sang kinh tế dịch vụ, những kỹ năng đòi hỏi cho một thế
hệ nghề nghiệp mới với những quan hệ xã hội cũng vì thế mà trở
nên vô cùng đa dạng và phức tạp. Ngành tư vấn tâm lý sẽ đóng vai
trò quan trọng trong việc giúp những thành viên trong xã hội có
được những tư duy tích cực cũng như được trang bị những kỹ năng
giao tiếp cần thiết để việc tiếp xúc hàng ngày được hiệu quả hơn.
Ngành Tư vấn tâm lý ở Hoa Kỳ ngoài chức năng hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng sinh hoạt của từng cá nhân, ngành này còn tích
cực tham gia với những ngành khoa học xã hội khác đem lại những
cải thiện cần thiết đối phó với những vấn đề trăn trở chung của xã
hội. Như thế những người làm công tác tư vấn tâm lý không chỉ cần
có kiến thức chuyên môn mà phải có một tinh thần trách nhiệm
phục vụ rất cao. Một điều đáng khích lệ là những người làm công tác
tư vấn tâm lý ở Hoa Kỳ không chỉ vui vẻ với thành quả lao động của
mình qua mức lương nghề nghiệp mà họ còn tìm thấy những phần
thưởng giá trị khác. Các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý tìm
thấy ý nghĩa cao cả của nghề này khi họ trông thấy khách hàng có
một cuộc sống vui tươi và lành mạnh hơn. Và với họ, đó mới thật sự
là phần thưởng cao quý của nghề chuyên môn này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Counseling A Comprehenslve Profession, S. T. Gladding


(2000). Printice-Hall Inc. Upper Saddle River, NJ 07458
Hội Thảo Khoa Học Quốc Gia - Tư Vấn Tâm Lý - Giáo Dục Lí
Luận, Thực Tiễn và Định Hướng Phát Triển, Kỷ Yếu. (2006) Hội Khoa
học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam. TP. HCM

Từ điển Tâm Lý Lâm Sàng, BS. Lê Văn Luyện, TS, BS Nguyễn


Văn Siêm, GS. BS Phạm Kim. (2002). NXB Thế Giới - Trung Tâm
Nghiên Cứu Tâm Lý Trẻ Em. Hà Nội.

Từ điển Y Học Anh-Việt, BS Phạm Ngọc Tri. (2004). NXB Y học

Thư của Chủ tịch Hội các Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt
Nam, GS. Phạm Minh Hạc (2006). Hội thảo Khoa học Tâm lý - Giáo
dục thành phố Hồ Chí Minh.

www.counseling.com

+ www.ship.edu (2005)

+ www.nbcc.org (2005)

+ www.counseling.org (2005)

+ www.boyceco.com (2005)

+ National Institution of Mental Health

www.nimh.nih.org (2005)

+ Center for Disease Control and Prevention www.cdc.org


(2005)

www.cdc.org

+ General Accounting Office www.notbored.org (2005)

+ www.aarp.org (2005)

MỤC LỤC

Lời giới thiệu


PHẦN MỘT
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH TƯ VẤN VÀ NỀN TẢNG BAN ĐẦU

Chương 1

Lịch sử phát triển và xu hướng của ngành Tư vấn

1. Dẫn nhập

2. Định nghĩa ngành Tư vấn

3. Lịch sử ngành Tư vấn

4. Những thử thách và xu hướng hiện thời của ngành Tư vấn

5. Kết Luận

Chương 2

Mô hình của một tư vấn viên làm việc có hiệu quả

Dẫn nhập

1. Nhân cách và vốn sống của một tư vấn viên

2. Nhũng động cơ tiêu cực lôi kéo người ta vào nghề tư vấn

3. Duy trì để mình là một tư vấn viên làm việc có niệu quả

4. Đào tạo căn bản cho một tư vấn viên

5. Lý thuyết và hệ thống căn bản áp dụng bởi tư vấn viên

6. Hệ thống nguyên thủy và tổng hợp các học thuyết

7. Hệ thống chung tư duy tư vấn

8. Kết luận

Chương 3

Đạo đức và tính pháp lý trong tư vấn

1. Dẫn nhập

2. Khái niệm về đạo đức trong tư vấn


3. Nội quy và tiêu chuẩn đạo đức đối với tư vấn chuyên nghiệp

4. Những giới hạn của bản điều lệ

5. Quan hệ ngoài tuyến

6. Làm việc với đồng nghiệp có những dấu hiệu không tư cách
đạo đức

7. Kết luận

Chương 4

Tư vấn trong bối cảnh văn hóa xã hội phong phú

1. Dẫn nhập

2. Khái niệm văn hóa

3. Những khó khăn trong công tác tư vấn đa văn hóa

4. Vấn đề cần chú ý trong tư vấn đa văn hóa

5. Những đề nghị cho ca tư vấn với nhóm đối tượng đặc biệt

6. Kết luận

PHẦN HAI
QUÁ TRÌNH TƯ VẤN VÀ NHỮNG HỌC THUYẾT ÁP DỤNG

Chương 5

Xây dựng quan hệ tích cực trong tư vấn

1. Dẫn nhập

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiến trình tư vấn

3. Các phương pháp phỏng vấn lần đầu

4. Thực hiện một cuộc phỏng vấn

5. Đề ra những giải pháp khả thi

6. Kết luận
Chương 6

Xây dựng quan hệ trong tư vấn

1. Dẫn nhập

2. Kỹ năng của tư vấn viên trong giai đoạn tìm hiểu và các giai
đoạn hành động

3. Một quan hệ đúng nghĩa trong tư vấn

4. Kết luận

Chương 7

Kết thúc một quan hệ tư vấn

1. Dẫn nhập

2. Chức năng khi chấm dứt một dịch vụ tư vấn

3. Những vấn đề liên quan đến kết thúc dịch vụ tư vấn

4. Những cản trở thường gặp trong quá trình kết thúc dịch vụ
tư vấn

5. Ngưng tư vấn nửa chừng bởi thân chủ

6. Ngưng tư vấn bởi tư vấn viên

7. Kết thúc dịch vụ tư vấn với ấn tượng tốt

8. Chăm sóc nhắc nhở sau kết thúc và thủ tục giới thiệu tư vấn
mới nếu cần

9. Kết luận

PHẦN BA
CÁC HỌC THUYẾT ỨNG DỤNG TRONG TƯ VẤN

Chương 8

Thuyết phân tích tâm lý và thuyết Adlerian trong tư vấn


1. Dẫn nhập

2. Thuyết phân tích tâm lý cổ điển

3. Tư vấn theo phái Adlerian

4. Kết luận

Chương 9

Thuyết tư vấn tập trung - con người, thuyết hiện sinh và


thuyết tâm lý học hình thái

1. Dẫn nhập

2. Thuyết tư vấn tập trung - con người

3. Tư vấn với thuyết hiện sinh

4. Thuyết tâm lý hình thái học trong tư vấn

5. Kết luận

Chương 10

Thuyết hành vi - tình cảm - hợp lý và Thuyết phân tích thỏa


hiệp

1. Dẫn nhập

2. Thuyết Hành vi - Tình cảm - Hợp lý

3. Nhận thức trị liệu của Beck

4. Trị liệu qua hành vi tình cảm hợp lý

5. Thuyết phân tích thỏa hiệp trong tư vấn

6. Kết luận

Chương 11

Liệu pháp hành vi, Liệu pháp Nhận thức - Hành vi và Liệu
pháp thực tiễn
Dẫn nhập

2. Thuyết Hành vi

3. Thuyết Nhận thức-hành vi

4. Thuyết Thực tiễn

5. Kết luận

PHẦN BỐN
KỸ NĂNG VÀ CHUYÊN NGÀNH TRONG NGHIỆP VỤ TƯ VẤN

Chương 12

Tư vấn hôn nhân và gia đình: Thuyết Hệ thống

1. Dẫn nhập

2. Thuyết Hệ thống căn bản

3. Tuổi thọ của một gia đình và các chu kỳ trong tuổi thọ của
một gia đình

4. Tư vấn hôn nhân gia đình đối chiếu với tư vấn cá nhân/ tư
vấn nhóm

5. Tư vấn hôn nhân vợ chồng

6. Tư vấn gia đình

7. Kết luận

Chương 13

Tư vấn nhóm

1. Dẫn nhập

2. Vị trí của tư vấn nhóm trong nghiệp vụ tư vấn

3. Các loại tư vấn nhóm

4. Các thời kỳ trong quá trình nhóm làm việc


5. Những vấn đề trong các nhóm

6. Kết luận

Chương 14

Tư vấn nghề nghiệp trong suốt hành trình đời người

1. Dẫn nhập

2. Tầm quan trọng của tư vấn nghề nghiệp

3. Phạm vi tư vấn nghề nghiệp và các ngành nghề

4. Thông tin nghề nghiệp

5. Tư vấn nghề nghiệp với các nhóm đối tượng khác nhau

6. Kết luận

Chương 15

Tư vấn học đường: Bậc tiểu học, Trung học cơ sở - Trung học
phổ thông

1. Dẫn nhập

2. Tư vấn học đường và hướng dẫn bậc tiểu học

3. Tư vấn học đường và hướng dẫn cho bậc trung học cơ sở

4. Tư vấn học đường và hướng dẫn bậc trung học phổ thông

5. Kết luận

Chương 16

Tư vấn đại học và phục vụ đời sống sinh viên - những gợi ý
suy nghĩ

1. Dẫn nhập

2. Cần có tư vấn đại học và phục vụ đời sống cho sinh viên,
học sinh
3. Phục vụ đời sống sinh viên, học sinh

4. Kết luận

Chương 17

Tư vấn sức khỏe tâm thần: Tư vấn người nghiện - Tư vấn


phục hồi lao động

1. Dẫn nhập

2. Tư vấn sức khỏe tâm thần

3. Tư vấn cho người nghiện

4. Tư vấn phục hồi lao động

5. Kết luận

Chương 18

Tham vấn

1. Dẫn nhập

2. Mấy vấn đề về từ ngữ học

3. Vài ví dụ minh họa

4. Tham vấn khác tư vấn ở chỗ nào?

5. Cấp độ trong tham vấn

6. Những lĩnh vực hữu ích với tham vấn

7. Kết luận

PHỤ LỤC

Tư vấn tâm lý ở Hoa Kỳ

Tài liệu tham khảo


TƯ VẤN TÂM LÝ CĂN BẢN

Nguyễn Thơ Sinh

NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG

175 Giảng Võ - Hà Nội

ĐT: (04) 8515380 - Fax: (04) 8515380

Email: nxblaodong@vnn.vn

CHI NHÁNH PHÍA NAM

85 Cách Mạng Tháng Tám, Q.1, TP. Hồ Chí Minh

ĐT: (08) 8390970 - Fax: (08) 9257205

Email: cn-nxbld@vnn.vn

Chịu trách nhiệm xuất bản:

PHAN ĐÀO NGUYÊN

Chịu trách nhiệm bản thảo:

LÊ HUY HÒA

Biên tập: HỒ PHƯƠNG LAN

Bìa và trình bày: NGUYỄN THỊ TÂM

Sửa bản in: PHƯƠNG LAN

DN SÁCH THÀNH NGHĨA TP. HỒ CHÍ MINH


NHÀ SÁCH NGUYỄN VĂN CỪ
288B An Dương Vương, Q.5, TP.HCM – ĐT: (08) 8392516
In 1000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5 tại Cty Cp In Tiền Giang

Số ĐKKHXB: 543-2006/CXB/10-93/LĐ

In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2006

You might also like