You are on page 1of 54

BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ

THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 07

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký Điểm

(%)

1. Nguyễn 2112781 - Chương 1

Hoàng Anh - Kết Luận


- Mục 3.3

2. Trương 1912492 - Mục 3.1

Quốc Vỹ

3. Lê Đình An 2110697 - Mục 2.3


- Mục 2.4
- Mục 2.5

4. Vũ Quốc 2113166 - Mục 2.1

Đạt - Mục 2.2

5. Nguyễn 2113979 - Mục 3.1

Hoàng Luân

6. Nguyễn 2112335 - Mục 3.2

Đức Thắng
MỤC LỤC

1 MỞ ĐẦU 1
1.1 Đặt vấn đề 1
1.2 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 1
1.3 Phương pháp nghiên cứu 1
1.4 Mục tiêu của đề tài 2
1.5 Kết cấu của đề tài 3
2 LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM VÀ CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ 4
2.1 Cách mạng công nghiệp 4
2.1.1 Khái niệm 4
2.1.2 Các cuộc cách mạng công nghiệp 4
2.2 Công nghiệp hóa 7
2.2.1 Khái niệm 7
2.2.2 Các mô hình công nghiệp hóa 7
2.3 Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở Việt Nam 11
2.3.1 Khái niệm và đặc điểm CNH, HĐH 11
2.3.2 Tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH 12
2.3.3 Nội dung của CNH, HĐH ở Việt Nam 13
2.4 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) 15
2.5 Công nghệ AI 18
2.5.1 Khái niệm và đặc điểm về công nghệ AI 18
2.5.2 Công nghệ AI ở Việt Nam 20
3 PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ AI Ở VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ 22
3.1 Thực trạng phát triển công nghệ AI của Việt Nam 22
3.1.1 Những thành tựu nổi bật 26
3.1.2 Những hạn chế, tồn tại 28
3.1.3 Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế 29
3.2 Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển công nghệ AI ở Việt Nam hiện nay. 31
3.2.1 Những cơ hội 31
3.2.2 Những thách thức 31
3.3 Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của công nghệ AI, đáp ứng yêu
cầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam trong thời gian tới. 32
3.3.1 Giải pháp vĩ mô từ phía nhà nước 32
3.3.2 Giải pháp từ phía các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho AI 33
3.3.3 Giải pháp đối từ phía các công ty công nghệ của Việt Nam 33
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
Chương 1

MỞ ĐẦU

1.1 Đặt vấn đề

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ trí tuệ nhân tạo AI đang
được coi là xu thế tất yếu và là trụ cột quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. AI hứa hẹn mang lại những cơ hội và
lợi ích to lớn cho nền kinh tế thông qua việc tự động hóa, nâng cao năng suất và hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, phát triển AI cũng kèm theo nhiều thách
thức lớn mà Việt Nam cần lưu tâm giải quyết.
Thứ nhất, thách thức về nhân lực. Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực
AI chất lượng cao. Làm thế nào để đào tạo, thu hút và giữ chân nhân tài AI là vấn đề
cấp thiết. Thứ hai, thách thức về công nghệ. Khả năng tiếp cận công nghệ AI tiên tiến
của doanh nghiệp Việt còn hạn chế. Làm thế nào để doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận
AI là thách thức lớn. Thứ ba, thách thức về chiến lược và chính sách. Việt Nam cần có
chiến lược và chính sách phát triển AI rõ ràng, tránh lãng phí nguồn lực.
Ngoài ra, tác động xã hội của AI như mất việc làm, bất bình đẳng cũng là thách
thức. Làm sao để AI thúc đẩy phát triển kinh tế nhưng vẫn đảm bảo công bằng xã hội là
vấn đề cần quan tâm. Để phát triển AI đúng hướng, Việt Nam cần chú trọng xây dựng
hệ sinh thái AI đồng bộ, từ nhân lực, công nghệ, chính sách đến hạ tầng và môi trường
pháp lý. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ ngành Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ
chức giáo dục là điều kiện tiên quyết để AI thực sự mang lại giá trị và lợi ích thiết thực
cho đất nước trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.

1.2 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và công nghệ AI


* Phạm vi nghiên cứu:

Thực trạng phát triển AI ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2022

1.3 Phương pháp nghiên cứu

- Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn, kết hợp các phương pháp
biện chứng duy
vật, lịch sử - logic, so sánh, phân tích - tổng hợp, số liệu - thống kê, v.v.

- Đề tài dựa vào các nguồn tài liệu tham khảo chính thức và uy tín, bao gồm các tác phẩm
của C.Mác và các nhà Mác - Lênin, các văn bản của Đảng và Nhà nước, các báo cáo, số
liệu thống kê, nghiên cứu khoa học, bài
báo, sách, v.v.

- Phương pháp cơ bản được nhóm sử dụng là:


Sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn, kết hợp các phương pháp:

● Phương pháp biện chứng duy vật

● Phương pháp lịch sử - logic

● Phương pháp so sánh

● Phương pháp phân tích - tổng hợp

● Phương pháp thống kê, số liệu

Dựa trên các nguồn tài liệu chính thức và uy tín:

o Các tác phẩm của C.Mác và các nhà Mác - Lênin


o Các văn bản của Đảng và Nhà nước

o Các báo cáo thống kê, nghiên cứu khoa học

1.4 Mục tiêu của đề tài

* Mục tiêu chung:

Phân tích thực trạng phát triển AI của Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH và đề xuất
những giải pháp nhằm phát triển công nghệ AI đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4

* Mục tiêu cụ thể:

− Làm rõ lý luận về CNH, HĐH của Việt Nam

− Phân tích thực trạng công nghệ AI của Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH.

− Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của công nghệ AI ở Việt Nam
trong thời gian tới.

1.5 Kết cấu của đề tài

Ngoài phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương
như sau:

Chương 1: Mở đầu

Chương 2: Lý luận về Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá của Việt Nam

Chương 3: Phát triển công nghệ AI ở Việt Nam dưới tác động của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư
Chương 2

LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM VÀ


CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ

2.1 Cách mạng công nghiệp

2.1.1 Khái niệm

Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất, sự thay thế lao
động thủ công (còn gọi là lao động tay chân) của con người bằng lao động máy móc,
chuyển đổi từ sản xuất thủ công sang nền sản xuất cơ khí.
Việc thay thế lao động thủ công bằng máy móc; nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ,
dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô
lớn chính là ý nghĩa lớn nhất của cách mạng công nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi cơ bản điều kiện về:Kinh tế - xã
hội,văn hóa, khoa học kĩ thuật của xã hội loài người.

2.1.2 Các cuộc cách mạng công nghiệp

Nguyên nhân

Vào những năm 1750-1760 nền kinh tế các nước còn quá đơn giản, quy mô nhỏ,
chủ yếu dựa trên sức gỗ, lao động tay chân, sức nước, sức gió, sức kéo,…. Điều này dẫn
đến việc vừa tốn nguồn nhân lực, vừa không đạt được năng suất như mong muốn. Dẫn
đến cuộc cách mạng công nghiệp lần 1 ra đời, với mong muốn thay đổi phát minh ra các
loại máy móc hoạt động quy mô lớn sử dụng ít sức người.

Cuộc cách mạng được bắt nguồn từ nước Anh, sau cùng lan rộng ra châu Âu, Hoa
Kỳ và các nước trên toàn thế giới. Tác động chính vào các ngành: Ngành dệt may, ngành
luyện kim, ngành giao thông vận tải.

Thành tựu
Đầu thế kỷ 19, cuộc cách mạng mở ra với sự cơ giới hóa ngành dệt may, James
Watt- phụ tá thí nghiệm của một trường đại học đã phát minh ra máy hơi nước giúp các
nhà máy dệt có thể đặt bất kỳ nơi nào ( vào thời điểm đó máy dệt phải chạy nhờ vào sức
nước) .

Đến năm 1785, linh mục Edmund phát minh ra máy dệt vải, bước tiến quan trọng
cho ngành dệt. giúp tăng năng suất lên tới 40 lần.

Năm 1784, Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt puddling, mở đầu bước tiến cho
ngành luyện kim. Nhưng với những phát minh đời đầu, phương pháp của Henry Cort
tuy có lượng sắt đã luyện chất lượng nhưng không đáp ứng được yêu cầu về máy móc.
Đến năm 1885, Henry Bessemer phát minh ra lò luyện gang thành thép lỏng, khắc phục
được nhược điểm của máy trên.

Thương mại ngày càng mở rộng, hình thành lên kênh đào giao thông và đường sắt.
Ngành giao thông vận tải cũng được ra đời với chiếc đầu xe lửa chạy bằng hơi nước đầu
tiên vào năm 1804 với vận tốc lên đến 14 dặm/h . Đến năm 1807, Robert Fulton lại chế
tạo ra tàu thủy chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo và những cánh buồm.

Máy dệt hơi nước đầu tiên trong Tàu thủy chạy bằng hơi nước – 1807

cuộc cách mạng công nghiệp lần 1

Cách mạng công nghiệp lần thứ hai


Nguyên nhân

Cuộc cách mạng công nghiệp lần 2 diễn ra từ những năm 1870 đến khi chiến tranh
thế giới thứ nhất nổ ra. Thời gian này gắn liền với sự phát triển của các cường quốc công
nghiệp như nước Anh, Đức và Hoa Kỳ.

Cuộc cách mạng này là một cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật.Chuyển sang
sản xuất trên cơ sở điện cơ khí và giai đoạn tự động hóa cục bộ. Sử dụng năng lượng
điện và sản xuất ra dây chuyền sản xuất hàng loạt quy mô lớn. Được đánh dấu bằng
những thành tựu to lớn: Ô tô, máy bay, đèn sợi đốt, điện thoại, tua bin hơi,… Bên cạnh
đó còn có sự phát triển của các ngành vận tải, sản xuất thép, điên, hóa học và đặc biệt
nhất là sản xuất và tiêu dùng.

Cuộc cách mạng 2.0 này đã tạo dựng tiền đề và cơ sở để nền công nghiệp ngày
càng phát triển hơn. Biến khoa học thành một ngành khoa học đặc biệt.

Thành tựu

Phát minh cốt yếu nhất trong lĩnh vực truyền thông đầu tiên là kỹ thuật in ấn tang
quay dẫn động bằng năng lượng hơi nước. Tiếp của sự thành công máy sản xuất giấy
cuộn dựa trên kỹ thuật in ấn mà ra đời.

Quy trình làm giấy từ những nguồn hạn chế như bông, lanh được thay thế bằng bột
gỗ. Năm 1870 với sự truyền bá kiến thức của nước Anh thuế giấy bị xóa bỏ kích thích
sự phát triển của báo chí và tạp chí.

Thời gian này máy công cụ có khả năng chế tạo các thiết bị chính xác trong máy
khác tại Mỹ có sự tăng trưởng. Dây chuyền sản xuất hàng tiêu dùng ra đời.
Máy in đầu tiên

Ở cuộc cách mạng này, động cơ đốt phát triển ở một số cường quốc lớn, họ cùng
nhau trao đổi ý tưởng và sáng chế được nhiều phát minh mới.

Động cơ đốt trong chạy trên khí than đá đầu tiên đã được phát triển do Etienne
Lenoir ở Pháp, nơi mà nó đã có một số thành công hạn chế như là một động cơ nhỏ trong
công nghiệp nhẹ.

Năm 1860 động cơ đốt đầu tiên ra đời, được thử nghiệm làm động lực cho ô tô sơ
khai ở những năm 1870. Gottlieb Daimler người nước Đức đã sử dụng dầu mỏ làm nhiên
liệu của xe ô tô thay cho khí than. Sau đó Henry Ford đã chế tạo ra ô tô hoạt động với
động cơ đốt trong.

Động cơ xăng hai kỳ cũng được phát minh trở thành nguồn năng lượng của người
nghèo, là nguồn năng lượng tin cậy của các cơ sở sản xuất trong thời điểm này.

Các phát minh khác:

Năm 1876, Alexander Graham Bell đã phát minh ra chiếc điện thoại đầu tiên.

Năm 1878, Sir Joseph Swan sáng chế ra bóng đèn sợi đốt.

Năm 1884, tua bin hơi được sáng tạo ra bởi Sir Charles Parsons.
Năm 1903, hai an hem người Mỹ là Wilbur và Orville Wright đã chế tạo ra cỗ máy
bay đầu tiên.

Cách mạng công nghiệp lần 3

Nguyên nhân

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 được bắt với sự ra đời và phát triển lan tỏa
công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này còn được gọi
là cuộc cách mạng máy tính hay là cuộc cách mạng số.

Cuộc cách mạng này diễn ra đã đưa ra nhiều phát minh để tiết kiệm tài nguyên và
các nguồn lực xã hội. Giảm chi phí trong phương tiện sản xuất. Kéo theo cơ cấu sản xuất
xã hội cũng thay đổi theo giữa nông-lâm-thủy sản, công nghiệp- xây dựng, dịch vụ. Tận
dụng công nghệ hydro và internet để lưu trữ và chia sẻ , phân phát năng lượng rộng rãi
đã tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 – Hành trình cải cách năng lượng xanh.

Thành tựu

Cơ sở hạ tầng điện tử tiến bộ, phát triển về công nghệ kỹ thuật số với nhiều phát
minh được ra đời như: vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại,…

Cuộc cách mạng truyền thông và tiếp thị với nhiều cuộc cải cách của cách mạng
kỹ thuật số đối với ngành truyền thông, tiếp thị: Internet bùng nổ, tập dữ liệu lớn – Big
Data được phát minh, . Các công ty, doanh nghiệp cũng chuyển hướng kinh doanh. Xu
hướng SMAC ( Social, Mobile, Analytics, Cloud ) ra đời.

Social media: giúp doanh nghiệp tiếp cận khách hàng bằng bằng những phương
tiện truyền thông.

Mobile: Công nghệ di động thay đổi cách thức giao tiếp với nhau.

Analytics: Công nghệ phân tích dữ liệu về khách hàng, đưa ra mục tiêu tiếp cận.
Cloud: Điện toán đám mây.

Chuyển đổi công nghệ analog sang kỹ thuật số.

Cách mạng công nghiệp lần 4

Nguyên nhân

Nền tảng hình thành 4IR chính là sự thành công của ba cuộc cách mạng công
nghiệp đầu tiên là: cách mạng Công nghiệp lần thứ 1, 2 và 3.

Cách mạng Công nghiệp lần thứ 1: Thế kỷ 18, sự ra đời của động cơ hơi nước đã
dẫn đến cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 1. Quá trình này đã thúc đẩy khả năng cơ
giới hóa ngành sản xuất. Từ đó, xã hội loài người bước vào giai đoạn đô thị hóa, hiện
đại hóa.

Cách mạng Công nghiệp lần thứ 2: Điện năng và các tiến bộ khoa học khác chính
là “sản phẩm” của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 2.

Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3: Cuộc cách mạng này diễn ra vào những năm
1960 với sự phát triển của máy tính và công nghệ kỹ thuật số. Đây chính là những sản
phẩm hiện nay mà chúng ta vẫn còn thụ hưởng.

Vì vậy, cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 không đơn thuần là một bước tiến nhảy
vọt về công nghệ. Đây chính là sự hình thành và kết tinh của các phát minh hiện đại
trước đó.

Thành tựu

IoT (Internet of Thing – Internet vạn vật)

Đây là sự hội tụ giữa ba nhân tố: mạng Internet, thiết bị vi cơ điện tử và thiết bị
không dây. IoT tạo nên các sản phẩm liên quan đến cuộc sống thường nhật như: máy
tính, điện thoại, lò vi sóng, tivi,… Chúng có khả năng truyền đạt thông tin qua mạng
lưới Internet.

IoT giúp doanh nghiệp thu thập dữ liệu khách hàng dựa trên các sản phẩm được
kết nối liên tục. Vì vậy, bạn sẽ đánh giá hành vi khách hàng tốt hơn để điều chỉnh chiến
lược tiếp thị phù hợp.

AI (Trí tuệ nhân tạo)

Trí tuệ nhân tạo xuất phát từ lĩnh vực khoa học máy tính. Công nghệ này tạo ra
những cỗ máy có khả năng hoạt động và phản ứng tương tự con người. AI được lập trình
với nhiều mục tiêu như: thu thập và xử lý thông tin, đưa ra lập luận và phán đoán, tự sửa
lỗi,… Trong tiếp thị, AI có nhiệm vụ phân tích dữ liệu khách hàng, đề xuất chiến lược
kinh doanh hợp lý. Đặc biệt, khi sử dụng AI, tính cá nhân hóa được thúc đẩy mạnh mẽ
hơn. Đây là xu hướng chung mà mọi doanh nghiệp đều hướng đến.

Blockchain (Chuỗi khối)

Đây được xem là một phương thức ghi và chia sẻ dữ liệu hiệu quả và an toàn.
Blockchain có đặc tính phi tập trung, minh bạch và không phụ thuộc vào bên thứ 3. Ví
dụ điển hình của chuỗi khối là Bitcoin – đồng tiền kỹ thuật số được ứng dụng phổ biến
nhất.

Ngoài ra, Blockchain còn được sử dụng cho những mục đích khác như: bảo mật
dữ liệu y tế, chống gian lận trong bầu cử, theo dõi được chuỗi cung ứng,…

Cloud (Điện toán đám mây)

Với điện toán đám mây, người dùng có thể lưu trữ, phân loại và sắp xếp dữ liệu
trên hệ thống của nhà cung cấp dịch vụ. Chẳng hạn như: Office 365, Facebook,
Youtube,… Nền tảng này cho phép doanh nghiệp thực thi chiến lược tiếp thị tự động
nhằm tối ưu nguồn lực và tiết kiệm chi phí.

Big Data (Dữ liệu lớn)


Big Data hỗ trợ người dùng thu thập và lưu trữ khối lượng lớn dữ liệu, như thông
tin cá nhân của từng khách hàng. Việc này giúp doanh nghiệp nắm bắt được hành vi, xu
hướng, nhu cầu,…, của người tiêu dùng. Từ đó, bạn có thể thiết lập các chiến lược tiếp
thị phù hợp với từng khách hàng trong các giai đoạn khác nhau.

Công nghệ sinh học

Hoạt động chính của công nghệ sinh học là phân tích và khai thác tế bào, phân tử
sinh học. Sau đó, những dữ liệu này được dùng để phát triển công nghệ. Chúng có khả
năng phục vụ cho nhiều mục đích như tạo ra dược liệu, vật phẩm mới. Bên cạnh đó, công
nghệ sinh học có thể mở ra quy trình sản xuất công nghiệp tân tiến với nguồn năng lượng
sạch hơn.

In 3D

Công nghệ này cho phép doanh nghiệp sản xuất in ra các sản phẩm mang đặc trưng
riêng. So với phương thức in truyền thống, in 3D tốn ít công cụ và chi phí với hiệu suất
nhanh hơn. Ngoài ra, quy trình này còn được bổ sung các tùy chỉnh nhằm tạo ra những
tính năng hoàn hảo hơn.

RPA (Tự động hóa quy trình robot)

Công nghệ này giúp các robot hoạt động thông qua AI có khả năng tự động hóa
những nhiệm vụ kinh doanh đơn giản. Những hoạt động của con người được thay thế
bởi các robot thông minh, chúng đảm nhiệm một số vai trò phổ biến như: xử lý giao
dịch, quản lý nhân sự, hỗ trợ tiếp thị,…

Robot

Phần lớn robot được ứng dụng trong thiết kế , sản xuất hoặc phục vụ cho mục đích
cá nhân và thương mại. Hiện nay, robot ngày càng có các tính năng phức tạp và tinh vi
hơn. Chúng thường có mặt trong các lĩnh vực chuyên dụng như: chăm sóc sức khỏe, sản
xuất, dịch vụ,…
2.2 Công nghiệp hóa

2.2.1 Khái niệm

Để hiểu công nghiệp hóa là gì, trước tiên cần hiểu thế nào là công nghiệp. Công
nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản
phẩm được chế tạo, chế phẩm, chế biến, chế tác… phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc hoạt
động kinh doanh của con người. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất có quy mô lớn và có
sự hỗ trợ của công nghệ, khoa học và kỹ thuật.

Công nghiệp hóa được hiểu là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp gồm:
Tỷ trọng về lao động, tỷ trọng về giá trị gia tăng, tỷ trọng về sản phẩm tạo ra… trong
toàn bộ các ngành kinh tế ở một vùng kinh tế hoặc một nền kinh tế.

Nói cách khác, công nghiệp hóa là quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội từ nền
kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé sang nền kinh tế công nghiệp. Đây là một
phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế - xã hội này đi đôi với sự tiến
bộ của khoa học, công nghệ, kỹ thuật, trong đó phải kể đến sự phát triển của sản xuất
năng lượng và luyện kim quy mô lớn.

2.2.2 Các mô hình công nghiệp hóa

Mô hình công nghiệp hóa cổ điển

Công nghiệp hóa của các nước tư bản cổ điển, tiêu biểu là nước Anh được

thực hiện gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, diễn ra vào giữa thế
kỷ XVIII.

Công nghiệp hóa ở Anh bắt nguồn từ công nghiệp nhẹ, trực tiếp là ngành

công nghiệp dệt – ngành đòi hỏi ít vốn, thu lợi nhuận nhanh. Sự phát triển của ngành
công nghiệp dệt ở Anh đã kéo theo sự phát triển của ngành trồng bông và chăn nuôi cừu.
Ngành công nghiệp nhẹ và nông nghiệp phát triển, đòi hỏi phải cung cấp nhiều
máy móc, thiết bị cho sản xuất, từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển của ngành công nghiệp
nặng, mà trực tiếp là ngành cơ khí chế tạo máy. Nguồn vốn để công nghiệp hóa ở các
nước tư bản cổ điển chủ yếu do khai thác lao động làm thuê, xâm chiếm và cướp bóc
thuộc địa.

Quá trình công nghiệp hóa theo mô hình cổ điển thường diễn ra mang tính tự phát.
Công nghiệp hóa theo mô hình cổ điển chịu tác động lớn của bàn tay vô hình (thị trường).

Ưu điểm: Quá trình công nghiệp hóa cũng là quá trình thực hiện cuộc đại phân
công lao động xã hội. Công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp và trở thành ngành sản xuất
độc lập. Điều này đã làm thay đổi căn bản cấu trúc của nền sản xuất, đại công nghiệp
thành nền tảng của cấu trúc kinh tế mới, cấu trúc đại công nghiệp thay cho cấu trúc nông
nghiệp và làm cho sản xuất xã hội thành một hệ thống công nghiệp. Nói cách khác, công
nghiệp hóa nông nghiệp xét cả về mặt công nghệ và kinh tế là do đại công nghiệp quyết
định.

Nhược điểm: Quá trình này đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa tư bản và lao động,
làm bùng nổ những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại nhà tư bản,

tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Diễn ra trong một thời gian tương đối
dài, trung bình từ 60 – 80 năm.

Mô hình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa (kiểu Liên Xô)

Bắt đầu từ 1930, ở Liên Xô sau đó được áp dụng cho các

Bắt đầu từ 1930, ở Liên Xô sau đó được áp dụng cho các nước XHCN ở Đông
Âu sau năm 1945 và một số nước đang phát triển đi theo con đường XHCN trong đó có
Việt Nam vào những năm 1960.

Mô hình này ưu tiên phát triển công nghiệp nặng tiêu biểu là:cơ khí, chế tạo máy…
Để thực hiện được thì đòi hỏi nhà nước nắm vai trò quan trọng, phải huy động hết
mọi nguồn lực từ đó phân bổ, đầu tư cho việc phát triển công nghiệp nặng thông qua cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, mệnh lệnh.

Giai đoạn đầu, ở mô hình này rất hiệu quả, sản lượng công nghiệp của liên xô đứng
đầu Châu Âu và chỉ đứng thứ 2 trên thế giới sau Mỹ. Đây là thời gian hoàn thành công
nghiệp hóa ngắn nhất trên thế giới được ghi nhận. Bởi trước đó, Anh phải mất gần 200
năm và Mỹ phải mất gần 120 năm mới trở thành nước công nghiệp. Và các nước trên
thế giới theo mô hình này cũng nhanh chóng đạt được hệ thống cơ sở- vật chất to lớn,
hoàn thành được mục tiêu đề ra.

Tuy nhiên, khi tiến bộ khoa học – kỹ thuật ngày càng phát triển, hệ thống cơ sở vật
chất – kỹ thuật to lớn ở trình độ cơ khí hóa đã không thích ứng được, làm kìm hãm việc
ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới như:

Một là, gây ra tình trạng mất cân đối trong nền KT giữa CN và nông nghiệp, giữa
CN nặng và CN nhẹ (biểu hiện ở tình trạng thiếu lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng
– Liên Xô đã quay lại sử dụng tem phiếu)

Hai là, mất cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng (đời sống nhân dân khó khăn)

Ba là, Cơ chế kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh không kích thích được tính tích
cực, năng động sáng tạo của cá nhân và tập thể người lao động, duy trì quá lâu đã dẫn
đến sự trì trệ.

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của Liên
Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.

Mô hình công nghiệp hóa rút ngắn ( của Nhật Bản và các nước công nghiệp
mới (NICs) )

Rút kinh nghiệm từ quá trình công nghiệp hóa của các nước tư bản cổ điển và các
nước xã hội chủ nghĩa, Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới (NICs) như Hàn
Quốc, Singapore đã tiến hành công nghiệp hóa theo con đường mới.
Chiến lược công nghiệp hóa của các nước này thực chất là chiến lược công nghiệp
hóa rút ngắn, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển sản xuất trong nước thay thế hàng nhập
khẩu.

Thông qua việc tận dụng lợi thế về khoa học – công nghệ của các nước đi trước,
cùng với việc phát huy nguồn lực và lợi thế trong nước, thu hút nguồn lực từ bên ngoài
để tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.

Kết quả là trong một khoảng thời gian ngắn, trung bình khoảng 20 – 30 năm đã
thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Từ thực tiễn của Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới (NICs) cho thấy,
trong thời đại ngày nay các nước đi sau nếu biết khai thác tốt lợi thế trong nước và tận
dụng, tiếp thu những nguồn lực, đặc biệt là những thành tựu khoa học – công nghệ mới,
hiện đại của các nước tiên tiến, thì sẽ giúp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả. Việc tiếp thu và phát triển khoa học công nghệ
mới hiện đại của các nước kém phát triển có thể thực hiện bằng các con đường cơ bản
như:

Một là, thông qua đầu tư nghiên cứu, chế tạo và hoàn thiện dần dần trình độ công
nghệ từ trình độ thấp đến trình độ cao, con đường này thường diễn ra trong thời gian
dài, và tổn thất nhiều trong quá trình thử nghiệm

Hai là, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại ở nước phát triển hơn, con đường
này một mặt đòi hỏi phải có nhiều vốn và ngoại tệ , mặt khác luôn luôn chịu sự phụ
thuộc vào nước ngoài

Ba là, Xây dựng chiến lược phát triển khoa học – công nghiệp nhiều tầng, kết hợp
cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Kết hợp vừa nghiên cứu chế tạo tiếp
nhận chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển hơn, con đường vừa cơ bản, lâu dài
và vững chắc; vừa đảm bảo đi tắt và bám đuổi theo các nước phát triển hơn.

Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới (NICs) đã sử dụng con đường thứ ba
để tiến hành công nghiệp hóa,hiện đại hóa, kết hợp với những chính sách phát triển đúng
đắn và hiệu quả, từ đó đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
trong một khoảng thời gian ngắn đã gia nhập vào nhóm các nước công nghiệp phát
triển. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nhật Bản và các nước công nghiệp
hóa mới (NICs) là gợi ý tốt cho Việt Nam trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.

2.3 Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở Việt Nam

2.3.1 Khái niệm và đặc điểm CNH, HĐH

Lịch sử các quốc gia từ trước đến nay, trong quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế - xã hội đều tiến hành công nghiệp hóa. Vì một tất yếu kinh tế là công nghiệp
hóa gắn liền với quá trình xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xóa bỏ nền kinh tế tự cung, tự cấp,
phân tán với lao động thủ công và năng suất lao động thấp. Công nghiệp hóa gắn liền
với việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Vậy
công nghiệp hóa là gì?

Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội từ dựa trên lao động
thủ công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao động bằng máy móc
nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Ba là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa

Bốn là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và Việt
Nam đang tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3.2 Tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động
thủ công là chính sang sử dụng một các phổ biến sức lao động với công nghệ, phương
tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gồm:

Một là, dựa trên lý luận và thực tiễn, công nghiệp hóa là quy luật phổ biến của sự
phát triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở các quốc gia phát
triển sớm hay các quốc gia đi sau.

Thứ nhất, Công nghiệp hóa là quá trình tạo ra động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế,
là đòn bẩy quan trọng tạo sự phát triển đột biến trong các lĩnh vực hoạt động của con
người.

Hai là, đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ
đầu thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, trên cơ sở đó từng bước nâng dần trình độ văn minh của xã hội.

Thứ nhất, ở Việt Nam, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ
sở vật chất – kỹ thuật cho nền kinh tế dựa trên những thành tựu khoa học công nghệ tiên
tiến, hiện đại. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước
tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, đồng thời củng cố và hoàn thiện quan
hệ sản xuất XHCN, làm cho nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển, đời sống, vật
chất, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao.

Thứ hai, quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho khối liên minh
công nhân, nông dân và tri thức ngày càng được tăng cường, củng cố, đồng thời nâng
cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân cũng như tăng cường tiềm lực cho an ninh,
quốc phòng.

2.3.3 Nội dung của CNH, HĐH ở Việt Nam

Một là, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản xuất –
xã hội lạc hậu sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ.

Phải thực hiện tạo lập các điều kiện cần thiết trên tất cả các mặt của đời sống sản
xuất xã hội. Các điều kiện chủ yếu cần có như: tư duy phát triển, thể chế và nguồn lực;
môi trường quốc tế thuận lợi và trình độ văn minh của xã hội, ý thức xây dựng xã hội
văn minh của người dân. Tuy vậy, không có nghĩa là chờ chuẩn bị đầy đủ mới thực hiện
công nghiệp hóa mà phải thực hiện các nhiệm vụ một các đồng thời.

Hai là, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất – xã hội lạc hậu sang
nền sản xuất – xã hội hiện đại.

Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại:

Thứ nhất, ứng dụng khoa học, công nghệ mới, hiện đại đòi hỏi phải được tiến hành
đồng bộ, cân đối ở tất cả các ngành, các vùng và các lĩnh vực của nền kinh tế thì mới
đem lại hiệu quả cao và từng bước phải gắn liền với nền kinh tế tri thức.

Thứ hai, sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm mới tốt ít vốn
quay vòng nhanh giữ được nghề truyền thống, kết hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền
thống với công nghệ hiện đại.

Thứ ba, tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và
công nghệ, phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu xây dựng mới và cải tạo cũ, thực hiện tiết
kiệm hiệu quả.

Thứ tư, kết hợp loại quy mô lớn vừa và nhỏ cho thích hợp, ưu tiên quy mô vừa và
nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả:

Thứ nhất, trong hệ thống các cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế (công nghiệp –
nông nghiệp – dịch vụ), giữ vị trí quan trọng nhất vì nó phản ánh trình độ phát triển của
nền kinh tế của quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với sự phát triển của phân công
lao động trong và ngoài nước nhằm để khai thác thế mạnh nâng cao năng suất lao động
và phát huy nguồn lực của các ngành, các vùng và chuyên môn hóa sản xuất, để khai
thác thế mạnh, nâng cao năng suất lao động, đồng thời phát huy nguồn lực của các
ngành, các vùng và các thành phần kinh tế.

Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất:

Thứ nhất, Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân nước
ta là nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì vậy phải cung cấp và tăng cường hoàn thiện
quan hệ sản xuất. Trong đó thực hiện thường xuyên nhiệm vụ hoàn thiện quan hệ sở
hữu, quan hệ phân phối, quan hệ quản lý, phân bố nguồn lực theo hướng tạo động cho
phát triển, giải phóng sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân

Thứ hai, sẵn sàng thích ứng với tác động của bối cảnh cách mạng công nghiệp lần
thứ tư (4.0)

Thứ ba, hoàn thiện thể chế, xây dựng nền kinh tế dựa trên nền tảng sáng tạo

Thứ tư, nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư (4.0)

Thứ năm, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực
của cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0)

2.4 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0)


Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên nền tảng và theo đà phát triển của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, dựa trên nền tảng giai đoạn phát triển mới của
cách mạng KHCN, nó nảy sinh với các công nghệ mới và các thiết bị mới, mà trước hết
là trí tuệ nhân tạo, công nghệ in 3D, công nghệ tự hành, thiết bị đầu cuối all in one,
internet vạn vật, điện toán đám mây - dữ liệu lớn, các công nghệ sinh học liên kết thế hệ
mới, công nghệ vật liệu cao cấp, công nghệ tự động hóa robot thế hệ mới có “trí tuệ”…
Nền tảng công nghệ chủ yếu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự tích hợp các
công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ ba và trí tuệ nhân tạo. Ở các giai đoạn
tiếp theo nền tảng công nghệ của nó có thể được bổ sung. Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư tạo ra những đột phá mới trong việc giải phóng con người khỏi các chức năng
thực hiện, chức năng quản lý và sẽ tạo nên những bước nhảy vọt trong việc giải phóng
con người khỏi chức năng logic khi các công nghệ có trí tuệ nhân tạo được sử dụng rộng
rãi. Nó thực sự biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách mạng KHCN ở
giai đoạn phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 đang dần loại con người ra khỏi quá
trình sản xuất trực tiếp, biến họ trở thành những chủ thể sáng tạo thực sự, tạo tiền đề vật
chất và lực lượng sản xuất mới cho một nền kinh tế mới, đang được gọi bằng nhiều tên
khác nhau, đưa nhân loại đến giai đoạn phát triển mới cùng với những tên gọi khác nhau
(Kinh tế số, kinh tế mềm, kinh tế tri thức, xã hội thông tin, xã hội tri thức…)

Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự tiếp nối cách mạng công nghiệp 3.0 là sản phẩm
của cách mạng KHCN đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn hơn, sâu rộng hơn, tốc
độ nhanh hơn, dường như đồng thời trên quy mô toàn cầu, đến mức không thể kịp nhận
đoán “hình dạng” của ngày mai. Nó thể hiện vừa đồng thời, đồng loạt, cộng hưởng, đột
biến, bất ngờ, ảnh hưởng dữ dội, quy mô lớn và sâu rộng so với các giai đoạn lịch sử
trước đây trong sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp. Do vậy
cách mạng công nghiệp 4.0 có những đặc tính tương đồng với cách mạng KHCN hiện
đại và là sự thể hiện trên lĩnh vực công nghiệp của cách mạng KHCN. Hai cuộc cách
mạng công nghiệp này không tách rời nhau trong giai đoạn hiện nay ở đa phần các nước
trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cách mạng công nghiệp 4.0 mới chỉ bắt đầu ở một
vài nước, nhưng cách mạng công nghiệp 3.0 lại có quy mô và đang tác động mạnh hơn
ở đại đa số các quốc gia trên thế giới. Nếu chưa trải qua cách mạng công nghiệp 3.0 các
nước cũng khó có thể nhảy vọt lên thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0 trong giai đoạn
hiện nay. Như kinh nghiệm cách mạng công nghiệp 1.0 và 2.0 đã chỉ ra thì chỉ khi cách
mạng công nghiệp 4.0 đã lan rộng ở nhiều nước phát triển hơn thì các nước còn lại mới
có thể có những bước phát triển tăng tốc của cách mạng công nghiệp 4.0. Điều đó không
có nghĩa là không nên đón đầu, thực hiện sớm một số nội dung, định hướng phát triển
của cách mạng công nghiệp 4.0 nếu có điều kiện thuận lợi và hiệu quả thực sự.

Trong cách mạng công nghiệp 4.0, thông tin và tri thức khoa học trở thành yếu tố
đặc biệt quan trọng của sản xuất và đời sống xã hội, ngày càng có ý nghĩa quyết định
đối với sự phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội,
trở thành động lực của sự phát triển của cả sản xuất, con người và xã hội. Tiếp nối cách
mạng công nghiệp 3.0, cách mạng công nghiệp 4.0 đã tiếp tục tạo ra môi trường xã hội
đặc biệt, chưa từng có trong lịch sử. Đó là môi trường thông tin, trong đó phần nhiều lao
động thể lực được thay thế bằng lao động trí tuệ với những phẩm chất và năng lực tinh
thần, đòi hỏi tính chất sáng tạo, độc đáo, cá nhân hóa. Thông tin, tri thức khoa học trở
thành điều kiện, môi trường, nhân tố cấu thành và nội dung thiết yếu của quá trình sản
xuất, là nguồn tạo ra của cải vô tận, là nguồn lực đặc biệt của sự phát triển con người và
xã hội.

Cách mạng công nghiệp 4.0, một mặt tác động trực tiếp vào đời sống xã hội và con
người, làm tăng tuổi thọ, sức khoẻ, thể lực, trí lực nối dài và gia tăng gấp nhiều lần năng
lực trí tuệ và sức mạnh cơ bắp. Bằng cách gián tiếp hơn, nhưng lại mạnh mẽ hơn, nhanh
chóng và sâu rộng hơn, nó tác động đến con người và xã hội thông qua công nghệ, sản
xuất, viễn thông, giao tiếp. Thông qua công nghệ, thông qua các sản phẩm trực tiếp của
cách mạng công nghiệp thì khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới đi vào sản xuất và đời
sống con người. Khoa học chỉ trở thành động lực thực sự của sự phát triển sản xuất và
xã hội, khi nó thông qua cách mạng công nghiệp để thúc đẩy sản xuất, con người, xã hội
phát triển nhanh chóng. Trong cách mạng công nghiệp hiện nay những sản phẩm mới,
công nghệ mới được tạo ra với tốc độ nhanh, mang tính cách mạng và được đưa vào sản
xuất, đời sống con người và xã hội nhanh chóng, tạo nên những thay đổi to lớn, những
biến đổi cách mạng trong các lĩnh vực đó. Nền tảng kiến thức của cách mạng công
nghiệp hiện đại 4.0 chính là cách mạng trong khoa học và công nghệ.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, là con đẻ mới nhất của cách mạng KHCN,
đang bắt đầu diễn ra trên thế giới, đang tạo ra một thách đố và cơ hội lớn đối với dân tộc
Việt Nam hiện nay. Chưa bao giờ trong lịch sử nước ta lại có những điều kiện và tiền
đề như hiện nay cả về phương diện chính trị, xã hội, kinh tế, nhân lực và cả các quan hệ
quốc tế để có thể vận dụng và thực hiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nếu chúng
ta biết tận dụng tối đa và có hiệu quả những điều kiện và tiền đề đang có thì không chỉ
cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói riêng, mà cả cách mạng KHCN nói chung, có thể
được triển khai và mang lại những hiệu quả tích cực ở nước ta trong những thập kỷ tới,
có thể biến nó trở thành công cụ quyết định trong việc rút ngắn khoảng cách tụt hậu so
với các nước phát triển trên thế giới.

Ở nước ta hiện nay, qua nhiều thập kỷ phát triển, một mặt, đội ngũ nguồn nhân lực
chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp đã được
xây dựng và phát triển đông đảo chưa từng có. Nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật và
công nghệ to lớn, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp của đất nước gắn liền với đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này. Nhưng, trên nhiều bình diện, đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng cao đó vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước ở giai đoạn mới hiện nay của cách mạng KHCN, đặc
biệt trong giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đến.

2.5 Công nghệ AI

2.5.1 Khái niệm và đặc điểm về công nghệ AI

Trong thời đại Cách mạng Công nghệ 4.0, trí tuệ nhân tạo (AI) đang len lỏi vào
mọi ngóc ngách của cuộc sống, từ các ứng dụng ngân hàng cho phép chúng ta gửi séc
bằng hình ảnh đến các trợ lý ảo như Siri, Bixby trên thiết bị di động của Apple hay
Samsung… Khắp nơi, truyền thông rầm rộ đưa tin về những tác động to lớn mà AI đem
đến cho kinh tế, xã hội.

Trí tuệ nhân tạo (thường được dùng với từ viết tắt là AI - Artificial Intelligence)
trước hết được định nghĩa là “trí tuệ phát sinh bởi máy móc, đối lập với trí tuệ tự nhiên
phát sinh bởi con người và các loài vật”. Theo đó khái niệm trí tuệ nhân tạo được áp
dụng khi máy móc bắt chước được các chức năng lý trí gắn với trí tuệ con người. Trí tuệ
nhân tạo là sự "tư duy" của máy móc, trong đó các thiết bị sẽ bắt chước cách tư duy tự
nhiên của con người để giải quyết các vấn đề. Trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0,
AI là một trong những yếu tố then chốt. Từ khái niệm tưởng chừng xa xôi, trí tuệ nhân
tạo từng bước đi vào đời sống, hiện thực hóa giấc mơ về những loại máy móc có khả
năng tư duy như con người.

Trí tuệ nhân tạo đang mang lại những lợi ích thiết thực cho cuộc sống con người
mà nhiều chục năm về trước chúng ta không thể tưởng tượng.

Trong lĩnh vực an ninh, cảnh sát Anh đã sử dụng trí tuệ nhân tạo để phát triển công
cụ đánh giá khả năng phạm tội của nghi phạm. Theo TechCrunch, trong các thử nghiệm,
AI cho ra kết quả chính xác trên 88%. Ngoài ra cảnh sát còn xây dựng chương trình
phân tích hiện trường vụ án và phân tích hồ sơ.

AI còn được "ông trùm" bán lẻ Amazon đưa vào cửa hàng của mình nhằm thay thế
con người. Thông qua hàng loạt camera, cảm biến và chương trình điều khiển, khách
hàng bước vào cửa hàng Amazon Go chỉ việc chọn món đồ mình muốn và đi ra. Không
có thu ngân, không cần máy tính tiền bởi AI tự động nhận biết hàng hóa đã mua rồi trừ
tiền vào tài khoản ngân hàng.

AI còn được áp dụng trong công tác chẩn đoán hình ảnh, hỗ trợ phát hiện ung thư.
Thông thường, một bác sĩ X-quang mất từ 10 tới 30 phút để đánh giá một bản chụp cắt
lớp vi tính khi sàng lọc các khối u bướu gây ung thư, trong khi đó trí tuệ nhân tạo chỉ
cần vài giây.

Song song với những thay đổi tích cực mà AI đem lại, các chuyên gia cũng đặt ra
lo ngại khi trí tuệ nhân tạo có thể phát triển chệch hướng. Cố giáo sư Stephen Hawking
dự đoán AI sớm đạt tới trình độ khiến nó trở thành một dạng sống mới vượt trội hơn con
người. Ông đồng thời cảnh báo AI có thể đe dọa sự tồn vong của loài người.

Robot thay thế con người trong làm việc thực sự là nỗi lo chung của các nhà phân
tích cũng như giới công nhân. Khả năng của AI trong lĩnh vực tự động hóa sẽ khiến rất
nhiều việc làm có tính chất lặp đi lặp lại bị thay thế, dẫn tới việc người lao động sẽ trở
nên không còn cần thiết.

Trí tuệ nhân tạo có khả năng làm trầm trọng thêm tình trạng không công bằng trong
xã hội. Thời gian làm việc của người lao động giảm, phần đóng góp của họ vào sản
phẩm cũng giảm đi, dẫn tới giá trị mà người lao động được nhận sẽ không thể như trước.
Trong khi đó phần giá trị của người máy (nghĩa là phần phân phối cho nhà đầu tư mua
người máy) lại liên tục tăng lên. Tiên đoán của K. Marx đã được kiểm chứng trong thời
đại ngày nay như Stephen Hawking đã đánh giá xu hướng hiện tại công nghệ thúc đẩy
sự bất bình đẳng ngày càng tăng. Tình trạng gia tăng bất bình đẳng như vậy có nguyên
nhân từ việc phân chia lợi nhuận, chủ yếu cho đầu tư và cho chủ sở hữu vốn.

Điểm kỳ dị công nghệ của AI liên quan tới mối đe dọa tiềm ẩn tới sự tồn vong của
loài người. Trí tuệ nhân tạo có thể khiến con người trở thành loài thông minh thứ hai
trên trái đất. Để máy thông minh tự trị có thể phản ứng được với các tình huống mới,
phần mềm máy thông minh cần có đặc trưng “mã tự cải biên” (self - modified code).
Khi lỗi trong mã tự cải biên không kiểm soát được sẽ dẫn tới máy thông minh ở trình độ
cao sẽ không kiểm soát được chính mình, chúng sẽ hành động như “một loài thông minh
mới” và với kết nối trí tuệ nhóm thì khả năng trí tuệ của chúng có thể cao hơn con người.

2.5.2 Công nghệ AI ở Việt Nam

Trong bối cảnh phát triển và hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam xác định tập trung phát triển công nghệ
AI - một mũi nhọn được dự báo sẽ trở thành ngành công nghệ đột phá nhất trong 10 năm
tới.

Từ năm 2014, Chính phủ đã xác định AI là công nghệ đột phá, mũi nhọn cần được
triển khai nghiên cứu, được đưa vào danh mục công nghệ cao ưu tiên đầu tư phát triển.
Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan được giao nhiệm vụ tham mưu, định hướng để
thúc đẩy phát triển công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; trong đó, tập trung
nguồn lực cho phát triển AI.

Lãnh đạo Chính phủ đã đưa ra quan điểm về việc đẩy mạnh triển khai AI, coi AI
là một công nghệ cho mục đích tổng thể, là công nghệ “nguồn” dẫn dắt năng suất quốc
gia; phát triển AI là hướng đến một xã hội an toàn và văn minh, đưa kinh tế - xã hội Việt
Nam phát triển; AI có khả năng trở thành công nghệ đột phá nhất trong 10 năm tới, cần
thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn nữa...

Bên cạnh những nỗ lực của Nhà nước, AI đã và đang được các tập đoàn, công ty
như FPT, Viettel nghiên cứu ứng dụng mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực (y tế, giáo dục,
nông nghiệp, giao thông, thương mại điện tử...
Chương 3

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ AI Ở VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ

3.1 Thực trạng phát triển công nghệ AI của Việt Nam

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đang nổi
lên như một trong những lĩnh vực công nghệ nền tảng quan trọng, thu hút sự quan tâm
và đầu tư mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên toàn cầu. Việc tiến bộ của công nghệ AI đồng
thời đặt ra nhiều thách thức và vấn đề cần được nghiên cứu sâu rộng tại cả thế giới lẫn
Việt Nam, bao gồm việc xây dựng chuẩn mực đạo đức và pháp luật cho các nghiên cứu
mới về AI, đề ra các chính sách ảnh hưởng của AI đối với vấn đề lao động và việc làm
trong quá trình phát triển, cũng như khuyến khích sự phát triển của nghiên cứu liên
ngành về AI trong tương lai.

Từ năm 2014, Chính phủ đã nhấn mạnh sự quan trọng và tính đột phá của trí tuệ
nhân tạo (AI), đồng thời khuyến khích việc triển khai và nghiên cứu sâu rộng về công
nghệ này. AI được đưa vào danh mục các công nghệ ưu tiên đầu tư và phát triển. Bộ
Khoa học và Công nghệ đã được giao nhiệm vụ thúc đẩy sự phát triển của công nghệ
AI, đồng thời định hướng và cung cấp tư vấn trong bối cảnh cách mạng công nghiệp
4.0. Quyết định số 127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Ban hành Chiến lược quốc
gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030 đã nêu: “Trí
tuệ nhân tạo (TTNT) là một lĩnh vực công nghệ nền tảng của Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, góp phần quan trọng tạo bước phát triển đột phá về năng lực sản xuất, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế tăng trưởng bền vững.” và
“Tập trung nguồn lực để tạo ra và phát triển các sản phẩm TTNT, dịch vụ TTNT quan
trọng mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh; đầu tư có trọng điểm ứng dụng TTNT trong
một số lĩnh vực liên quan tới quốc phòng an ninh, quản lý tài nguyên, môi trường và
dịch vụ cho người dân; phát triển mạnh các doanh nghiệp ứng dụng TTNT, doanh nghiệp
khởi nghiệp về TTNT”. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về việc
thành lập Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia với mục tiêu thúc đẩy thành công các
ý tưởng công nghệ sáng tạo và đột phá của người Việt, góp phần vào sự phát triển toàn
diện của đất nước. Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn hỗ trợ việc cung cấp nguồn
vốn cho lĩnh vực trí tuệ nhân tạo thông qua các quỹ đầu tư cả trong và ngoài nước, có
kế hoạch thành lập Quỹ Toàn cầu nhằm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và
đưa tri thức của Việt Nam ra thế giới. Đáng chú ý, sự kiện thành lập Mạng lưới Đổi mới
Sáng tạo Việt Nam, tập hợp các chuyên gia công nghệ và cộng đồng AI (năm 2018),
cũng đã được triển khai một cách mạnh mẽ để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực trong
lĩnh vực này. Những quyết định trên cho thấy chính phủ đã có sự quan tâm đặc biệt trong
việc phát triển lĩnh vực AI và xem đó là một mũi nhọn để phát triển đất nước trong tương
lai

Dưới đây là bảng thống kê số lượng đề tài nghiên cứu về AI của nước ta với nhiều lĩnh
vực khác nhau, theo khảo sát đánh giá của Oxford Insight

Chủ đề nghiên cứu Số đề tài


Đầu tư Doanh nghiệp 178
Quản trị Trí tuệ Nhân tạo (AI) 168
Nghiên cứu và Phát triển Trí tuệ Nhân tạo
(AI) 48
Giao thông tự hành 30
Bảo vệ Người tiêu dùng 24
Robot học 24
Giáo dục đào tạo 20
Công bằng xã hội trong AI 15
Chăm sóc Sức khỏe 14
Hợp tác Quốc tế 10
Nông nghiệp 5
Bảo vệ Doanh nghiệp 4
Yếu tố phát triển bền vững trong AI 4
An ninh và Thực thi luật pháp. 1
Các sự kiện quốc tế về Trí tuệ nhân tạo đã diễn ra tại Việt Nam, như Hội nghị
Khai phá Dữ liệu PAKDD và AI-PRICAI. Các hội thảo như Học Máy-ACML, Xử lý
Ngôn ngữ Tự nhiên-CICLING, và Tác tử Thông minh-PRIMA cũng đã thu hút sự quan
tâm và hỗ trợ tích cực. Lãnh đạo Chính phủ thể hiện cam kết đẩy mạnh triển khai công
nghệ Trí tuệ nhân tạo, xem đó là động lực quan trọng thúc đẩy năng suất quốc gia. Phó
thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh rằng phát triển AI hướng đến một xã hội an toàn và
văn minh, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Lĩnh vực AI đã và đang được các tập đoàn, công ty như FPT, Viettel nghiên cứu ứng
Bên cạnh nỗ lực của Nhà nước, các tập đoàn và công ty như FPT, Viettel đã tích cực
nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục,
nông nghiệp, giao thông, và thương mại điện tử. Các nhóm nghiên cứu và phòng thí
nghiệm AI đã được thành lập và duy trì tại nhiều trường đại học và viện nghiên cứu
hàng đầu ở Việt Nam.

Trong giai đoạn 1996-2016, Việt Nam đã đứng thứ 5 về số lượng công bố khoa
học về AI trên Web of Science, thứ 4 trên Scopus về AI, và đứng đầu về tỷ lệ công bố
AI trên Scopus trong tổng số công bố khoa học của Việt Nam. Năm 2019, Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội đã thành lập ngành đại học AI với mục tiêu đào tạo chất lượng
và trở thành đơn vị hàng đầu trong lĩnh vực đào tạo chuyên gia về AI tại Việt Nam.

Sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong mọi thời kì đều đòi hỏi sự thích nghi với
những thay đổi biến động lớn của nền khoa học công nghệ. Nếu không theo kịp được
thì chúng ta sẽ bị tụt hậu. Và hiện nay, xu hướng tất yếu nhất là áp dụng trí tuệ thông
minh nhân tạo vào việc giải quyết những vấn đề lớn, gia tăng hiệu suất. Thực tế là, giống
như cuộc Cách mạng công nghiệp đã thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc
thì những công ty biết áp dụng hiệu quả công nghệ AI đã, đang và sẽ tiếp tục thay thế
những công ty không áp dụng được công nghệ mới này

Tất cả những điều trên cho thấy, bức tranh toàn cảnh về Trí tuệ Nhân tạo (AI)
của Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và hứa hẹn một tương lai rộng mở. Việt Nam
không chỉ có cơ sở hạ tầng và nền tảng công nghệ khá vững mạnh, mà còn sở hữu một
lượng không nhỏ chuyên gia với trình độ cao trong lĩnh vực AI. Sự phát triển của nền
kinh tế đất nước trong mọi thời kì đều đòi hỏi sự thích nghi với những thay đổi biến
động lớn của nền khoa học công nghệ. Nếu không theo kịp được thì chúng ta sẽ bị tụt
hậu. Và hiện nay, xu hướng tất yếu nhất là áp dụng trí tuệ thông minh nhân tạo vào việc
giải quyết những vấn đề lớn, gia tăng hiệu suất. Thực tế là, giống như cuộc Cách mạng
công nghiệp đã thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc và những công ty
biết áp dụng hiệu quả công nghệ AI đã, đang và sẽ tiếp tục thay thế những công ty không
áp dụng được công nghệ mới này

3.1.1 Những thành tựu nổi bật

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang là một trong những công nghệ quan trọng nhất trong
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực phát triển AI. Điều này được thể hiện qua việc
Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực nghiên cứu AI, ứng dụng
AI trong thực tế, bên cạnh đó sự thành công của các sự kiện về AI cũng cho thấy sự phát
triển mạnh mẽ trong việc nghiên cứu và ứng dụng tiêu biểu gần nhất là Ngày hội trí tuệ
nhân tạo Việt Nam (AI4VN), tại lần thứ 6 tổ chức (2023) diễn ra từ 21-22/9 tại Riverside
Palace đã giúp thu hút thêm sự đầu tư của các cường quốc về AI như Mỹ, Anh, Hàn
Quốc, Australia. Thông qua sự kiện lần thứ 6, bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh
Thành Đạt cũng đã có nhận định rằng “30 gian hàng trưng bày các sản phẩm AI của
doanh nghiệp, đơn vị nghiên cứu là minh chứng rõ nhất cho sự phát triển này” và chương
trình cũng nhận được đánh giá tích cực từ chuyên gia trong nước và quốc tế, bà Emily
Hamblin – Tổng Lãnh sự Vương Quốc Anh đã phát biểu “Ngày hội mang đến cơ hội
đối thoại giữa Chính phủ với giới học thuật, doanh nghiệp, kết nối bước tiến từ các quốc
gia khác nhau” thông qua chương trình cũng hiểu thêm nhu cầu công nghệ của các đơn
vị tại Việt Nam, thắt chặt mối quan hệ chuyên môn giữa Việt Nam và Vương Quốc Anh,
hay Tổng Lãnh sự Mỹ tại Việt Nam – ông Graham Harlow bày tỏ vinh dự khi tham dự
sự kiện này, chỉ hai tuần sau khi Việt - Mỹ nâng cấp quan hệ ngoại giao lên mức cao
nhất - đối tác chiến lược toàn diện và ông mong muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Việt
Nam để phát triển khoa học công nghệ, xây dựng các quy chuẩn về sử dụng, phát triển
AI trong thời gian tới đồng thời khuyến khích các trường đại học, viện nghiên cứu mở
cửa, tăng cường hợp tác. Ngoài ra, Ông Kim Wimbush, Tham toán CSIRO kiêm Giám
đốc chương trình Aus4Innovation, Đại diện cơ quan khoa học công nghệ của Australia
khẳng định Australia luôn sẵn sàng hợp tác về AI với Việt Nam suốt 10 năm qua, các
quỹ đầu tư của Australia có 33,5 triệu USD để sẵn sàng hợp tác. Ông Yang Ki Sung -
Tham tán Khoa học, Công nghệ thông tin và truyền thông, Đại sứ quán Hàn Quốc tại
Việt Nam cũng đưa ra nhận xét “Tôi hy vọng các viện nghiên cứu, đơn vị sẽ tăng kết
nối để hai quốc gia thành trung tâm đổi mới sáng tạo trong khu vực” đồng thời gợi mở
chiến lược trong tương lai giữa hai bên.

Đã có nhiều điểm sáng về chính sách của chính phủ trong cách tiếp cận và phát
triển công nghệ AI. Chính phủ đã tập trung vào việc tài trợ và hỗ trợ nghiên cứu và phát
triển trong lĩnh vực AI. Như đã nêu ở phần trước, vào tháng 10/2019, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định về việc thành lập Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Quốc gia với mục
tiêu thúc đẩy và hỗ trợ thành công các ý tưởng công nghệ sáng tạo và đột phá của cộng
đồng người Việt, góp phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện của đất nước. Ngoài
ra cũng đã có nhiều hội thảo và hội nghị khoa học được tổ chức dưới sự chủ trì của
Chính phủ, cùng với sự hợp tác của các bộ và ngành, cũng như sự tham gia của các tổ
chức và chuyên gia cả trong và ngoài nước. Điều này thúc đẩy sự phát triển của ngành
công nghiệp công nghệ tại Việt Nam, khuyến khích hợp tác và trao đổi với các đối tác
quốc tế về công nghệ AI, tạo ra cơ hội học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực
này.

Theo Oxford Insights - một tổ chức tư vấn cung cấp lời khuyên cho các tổ chức và
chính phủ về các cơ hội chiến lược,Việt Nam đang đứng thứ 55 (tăng 7 bậc so với với
năm 2021) trong số hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trong khảo sát. Chỉ số sẵn sàng
về trí tuệ nhân tạo của Chính phủ Việt Nam đạt 53,96 điểm, trên điểm trung bình của
thế giới là 44,61. Ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam xếp hạng 6 trong bảng xếp hạng
chỉ số sẵn sàng về trí tuệ nhân tạo của chính phủ. Dù mức độ đầu tư không lớn nhưng vị
thế của Việt Nam về A.I đã tăng lên rất nhanh, và các thành tựu về AI cũng bắt đầu
chuyển hóa vào từng ngành nghề. Các tập đoàn như FPT, Viettel, VNPT, Vingroup,
Việt Nam cũng tăng cường đầu tư, nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực Trí tuệ nhân
tạo của Việt Nam. Trong Năm 2020, Công ty Cổ phần Công nghệ và Giải pháp Dữ liệu
(Datacom) đã phát triển thành công hệ thống AI tự động hóa sản xuất, giúp nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm. Năm 2021, Công ty Cổ phần Chứng khoán SSI đã
phát triển thành công hệ thống AI phân tích tài chính, giúp nhà đầu tư đưa ra các quyết
định đầu tư hiệu quả Năm 2022, Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom) đã
phát triển thành công hệ thống AI chẩn đoán bệnh từ xa, giúp giảm tải cho các bệnh
viện. Năm 2023, Công ty Cổ phần FPT Software đã phát triển thành công hệ thống AI
hỗ trợ giảng dạy trực tuyến, giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập.

Đầu tư tư nhân hằng năm vào trí tuệ nhân tạo ở Việt Nam

1
OurWorld in Data, Annual private investment in artificial intelligence,
https://ourworldindata.org/grapher/private-investment-in-artificial-intelligence-cset?country=~VNM
2

Đầu tư tư nhân hằng năm vào trí tuệ nhân tạo ở Việt Nam so với Singapore

Trải qua đại dịch Covid-19, nhận thấy những tác động to lớn đến sức khỏe, kinh tế và
xã hội trên toàn thế giới. Nhiều quốc gia đã nghiên cứu các công nghệ AI để dự báo tình
hình đại dịch trong tương lai, Việt nam cũng đã triển khai và phát triển nghiên cứu dự
báo Covid-19 bằng AI (Tên là BeCaked) của nhóm sinh viên và giảng viên trường ĐH
Bách khoa, Khoa Y - ĐHQG-HCM, Đại học Y Dược TP.HCM được công bố quốc tế
trên tạp chí Q1. Nghiên cứu của hệ thống BeCaked thực hiện bằng cách thu thập dữ liệu
thực tế về tình hình dịch bệnh (số ca nhiễm mới, hồi phục, tử vong) được công bố công
khai từ các nguồn đáng tin cậy. Từ đó, mô hình sẽ áp dụng các kỹ thuật deep-learning
để suy ra các thông số nội tại của dịch bệnh, chẳng hạn như tần số lây nhiễm trực tiếp

2
OurWorld in Data, Annual private investment in artificial intelligence,
https://ourworldindata.org/grapher/private-investment-in-artificial-intelligence-cset?country=VNM~SGP
và gián tiếp. Các thông số này thường phải do các chuyên gia y tế suy luận từ dữ liệu
thực tế.

Tuy nhiên khi dữ liệu thu thập được là rất lớn và được cập nhật liên tục thì việc suy luận
các thông số này bằng con người là rất khó khăn. Hệ thống BeCaked sẽ tự động suy luận
các thông số này và áp dụng để tiên đoán tình dịch bệnh trong tương lai gần. Ngoài ra,
việc suy luận các thông số cũng khiến cho BeCaked có thể giúp các chuyên gia và nhà
hoạch định chính sách giải thích được nguyên nhân của tình hình dịch bệnh và đưa ra
các biện pháp ứng phó phù hợp. Kết quả thí nghiệm với dữ liệu thật cho thấy BeCaked
có độ chính xác rất cao, đặc biệt nếu so với các công trình tương tự được công bố trên
thế giới

Tại Việt Nam, sự ứng dụng mạnh mẽ của Trí tuệ Nhân tạo (AI) đã lan rộng sang
nhiều ngành công nghiệp khác nhau, từ sản xuất, nông nghiệp đến tài chính và dịch vụ.
Trong lĩnh vực sản xuất, các hệ thống tự động hóa và robot hợp tác với AI giúp tăng
cường hiệu suất và chất lượng sản phẩm. Nông nghiệp cũng chứng kiến ứng dụng AI
trong quản lý và tối ưu hóa năng suất với việc sử dụng drone và cảm biến thông minh.

Trong lĩnh vực dịch vụ nói chung và ngân hàng nói riêng, Việc sử dụng hệ thống
AI đã không còn xa lạ với phần lớn các công ty. Việc tích hợp AI vào ngành tài chính
đã tăng trưởng vượt bậc trong thời gian qua. Khảo sát của Diễn đàn Kinh tế thế giới vào
năm 2020 cho thấy, 85% tổ chức tài chính đang đưa công nghệ AI vào hoạt động của họ
tại thời điểm khảo sát, trong khi 77% giám đốc điều hành cấp cao dự đoán AI sẽ là ưu
tiên cao hoặc rất cao của doanh nghiệp trong vòng 2 năm tiếp theo. Ở Việt Nam, ví dụ
rõ nét nhất là các chatbot thông minh và trợ lý ảo có khả năng hiểu và giải quyết thắc
mắc của khách hàng, cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp, tự động hóa tác vụ, phát hiện
hành vi gian lận, thẩm định tín dụng và cung cấp các giải pháp hỗ trợ khách hàng tự
động.

Đơn cử như, TPBank đã tích hợp công nghệ nhận diện khuôn mặt vào kênh ngân
hàng tự động LiveBank, tăng cường bảo mật và tiện lợi cho khách hàng. VietinBank sử
dụng các kios nhận dạng Face ID để nhận diện khách hàng và chuyển yêu cầu của họ
tới tư vấn viên, đồng thời đóng vai trò là trợ thủ đắc lực. Bên cạnh đó, các ngân hàng
khác như Techcombank, VIB, ACB, VietABank, Nam A Bank, VPBank... đã sử dụng
AI cho nhiều chức năng khác nhau, bao gồm chatbot để hỗ trợ và tương tác với khách
hàng, quản lý tài sản, bảo mật, phòng chống gian lận và phân tích hành vi rút tiền ATM
vào mùa cao điểm. Tiến sĩ Võ Thị Hồng Diễm- giảng viên ngành Kinh doanh ĐH RMIT
nhận xét: “Việc kết hợp công nghệ AI vào lĩnh vực ngân hàng không chỉ tối ưu hóa chi
phí hoạt động mà còn tăng cường hỗ trợ khách hàng và cho phép tự động hóa quy trình
hiệu quả. Công nghệ này đã chứng minh lợi thế vượt trội trong việc cách mạng hóa quản
lý dữ liệu, thấu hiểu hành vi khách hàng và thúc đẩy các mối quan hệ bền vững với
khách hàng”.

Trong lĩnh vực y tế, công ty Vin BigData thuộc tập đoàn VinGroup đã tạo ra một
bước tiến lớn với việc áp dụng công nghệ AI trong hệ thống chẩn đoán bệnh. Giải pháp
VinDr, dựa trên trí tuệ nhân tạo, đã mang lại những lợi ích to lớn cho ngành y tế tại Việt
Nam. VinDr không chỉ đáng giá về tốc độ và độ chính xác, mà còn mở ra một trường
mới cho các bác sĩ trong việc chẩn đoán bệnh một cách chính xác hơn và kịp thời. Điều
này không chỉ tiết kiệm thời gian mà còn có thể cứu sống nhiều bệnh nhân đang gặp
phải các tình trạng khẩn cấp. Hiện tại, VinDr Lab đang hỗ trợ gắn nhãn hình ảnh X-
quang của phổi, vú và xương. Các tính năng gắn nhãn cho hình ảnh CT và MRI đang
được phát triển và dự kiến sẽ được ra mắt trong thời gian tới. Chia sẻ mã nguồn mở trên
Github, các nhà phát triển của VinDr Lab hy vọng nhận được sự hỗ trợ và đóng góp từ
cộng đồng công nghệ để từ từ nâng cấp giải pháp này.

3.1.2 Những hạn chế, tồn tại

So với một số quốc gia khác trong khu vực châu Á, mức độ ứng dụng AI tại Việt
Nam vẫn trong giai đoạn khởi đầu. Ở khu vực Đông Nam Á, Theo xếp hạng của Oxford
Insight thì Việt Nam xếp hạng 6 (53.96), sau Singapore (84.12), Malaysia (67.37), Thái
Lan (64.63), Indonesia (60.89) và Philippines (55.42). Riêng Singapore đồng hạng với
Mỹ xếp thứ nhất trong bảng xếp hạng chỉ số sẵn sàng về trí tuệ nhân tạo của chính phủ.
Rõ ràng khoảng cách giữa nước ta và các nước bạn là khá lớn.
GS.TS Nguyễn Thanh Thủy - nguyên là Phó Hiệu trưởng Trường Đại học
Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) và hiện là Phó Chủ nhiệm Chương trình KH&CN
trọng điểm quốc gia Hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ của công
nghiệp 4.0 KC4.0/19-2 đã nhận xét như sau: “Chắc chắn nhân lực là yếu tố cốt lõi đảm
bảo thành công của bất cứ lĩnh vực công nghệ cao nào và AI cũng không phải ngoại lệ.”
Tuy nhiên, dù tốc độ phát triển và áp dụng Trí tuệ Nhân tạo (AI) ngày càng tăng nhanh,
nguồn nhân lực hiện có vẫn chưa đủ để đáp ứng tốt nhu cầu và yêu cầu của ngành công
nghiệp sử dụng công nghệ AI. Đánh giá cho thấy rằng nguồn nhân lực AI tại Việt Nam
hiện chỉ đáp ứng khoảng 1/10 nhu cầu của thị trường. Đặc biệt, thiếu hụt nguồn nhân
lực AI ở mức cao là một vấn đề nghiêm trọng. Số lượng chuyên gia AI với trình độ cao
hạn chế, bởi vì điều này đòi hỏi phải có bằng sau đại học từ các cơ sở đào tạo chuyên
sâu và chuyên nghiệp. Sự thiếu hụt chuyên gia AI trình độ cao cũng tạo ra thách thức
đối với các trường đại học, viện nghiên cứu, khi phải cạnh tranh với các doanh nghiệp
để sử dụng tài nguyên nhân lực.

Hiện tại, hạ tầng dữ liệu và tính toán ở Việt Nam còn đang ở giai đoạn khởi đầu.
Chúng ta chưa có nhiều bộ dữ liệu chất lượng, thường gặp trường hợp dữ liệu bị tách
rời, thiếu tính liên kết và hạn chế về quyền truy cập. Đơn cử như trong lĩnh vực ngân
hàng nói riêng, dữ liệu ngân hàng và thông tin bảo mật thường bị hạn chế truy cập, khiến
AI không thể thực hiện các tác vụ thanh toán đơn giản hoặc phức tạp liên quan đến thông
tin khách hàng và thông tin bảo mật.

Việc triển khai trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức,
như hạn chế về nguồn vốn và pháp lý, bảo mật thông tin, thiếu nhân lực chuyên môn,
thiếu sự đầu tư một cách hệ thống về cơ sở hạ tầng công nghệ, thiếu sự phối hợp giữa
doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và Chính phủ. Việc áp dụng AI đặt ra nhiều vấn đề về
quyền riêng tư, an ninh thông tin và trách nhiệm pháp lý. Việt Nam cần thiết lập các quy
định pháp lý và khung chính sách rõ ràng để bảo vệ quyền riêng tư và đảm bảo an toàn
thông tin.

Trí tuệ thông minh nhân tạo trong thời gian gần đây, với khả năng xử lý thông
tin, vấn đề một cách ưu việt, linh hoạt thì cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp.
Trên khắp thế giới, vấn nạn tin giả, deep-fake lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thông tin cá
nhân đang bị đưa lên một quy mô và phương thức hoạt động tinh vi hơn. Việc ứng dụng
AI hiện nay đã mở ra khả năng làm giả giọng nói, hình ảnh, video giả người quen của
người bị hại ngoài đời thực, với độ chính xác rất cao, rất khó để nhận biết phân biệt.
Điều này rất đáng lo ngại vì Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Điển hình như vào
ngày 25/3/2023, Công an tỉnh Tuyên Quang thông báo đã tiếp nhận thông tin từ một số
cư dân tại địa phương về các vụ lừa đảo sử dụng công nghệ Deep-fake AI. Theo đó, các
nạn nhân đã nhận cuộc gọi video từ các số điện thoại mà họ quen thuộc, với hình ảnh và
giọng nói giống hệt. Các kẻ lừa đảo tiếp cận và tuyên bố rằng họ đang gặp khó khăn tài
chính hoặc đang cần tiền gấp để giải quyết một vấn đề nào đó, sau đó yêu cầu nạn nhân
chuyển tiền vào tài khoản của họ. Sau khi chuyển tiền, các nạn nhân mới nhận ra rằng
họ đã bị lừa và không thể liên lạc được với người thân, bạn bè hoặc đồng nghiệp thực
sự.

3.1.3 Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế

Nguyên nhân của những thành tựu

Từ nhà nước

Từ năm 2014 cho đến nay, nhờ vào tầm nhìn và những quyết định kịp thời, đúng
đắn của chính phủ nói chung và các bộ, ngành nói riêng đã góp phần không nhỏ trong
việc tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của AI như ban hành nhiều chính sách,
chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI, bao gồm: Chiến lược quốc
gia về nghiên cứu; Phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030; Đề án phát triển nguồn
nhân lực ngành công nghệ thông tin và truyền thông giai đoạn 2021-2025; Chương trình
hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ số đổi mới sáng tạo. Các chính sách, chương trình này
đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và cộng đồng tham gia
vào lĩnh vực AI.

Nhà nước còn đứng ra tổ chức, giám sát các sự kiện lớn, nhỏ về AI. Từ năm 2014
đến 2023 với tổng cộng hơn 100 sự kiện về AI được tổ chức ở Việt Nam, các sự kiện
này bao gồm các hội nghị, hội thảo, cuộc thi, đào tạo có thể kể đến như: Hội nghị quốc
tế về trí tuệ nhân tạo (ICAI) - Là một trong những hội nghị quốc tế lớn nhất về AI, được
tổ chức định kỳ 2 năm một lần; Cuộc thi Olympic Tin học Sinh viên Việt Nam là kì thi
tin học lớn nhất dành cho sinh viên hiện nay; Cuộc thi VnExpress AI Challenge - Đây
là một cuộc thi AI dành cho sinh viên và người làm việc trong lĩnh vực AI;... Tiêu biểu
nhất là Ngày hội trí tuệ nhân tạo Việt Nam (AI4VN), đây đã trở thành sự kiện thường
niên trong suốt 6 năm qua và tại lần thứ 6 tổ chức (2023) đã giúp thu hút thêm sự đầu tư
của các cường quốc về AI như Mỹ, Anh, Hàn Quốc, Australia điều là các quốc gia thuộc
top 10 về chỉ số sẵn sàng AI của Chính phủ năm 20223. Sự gia tăng số lượng các sự kiện
về AI ở Việt Nam cho thấy sự quan tâm của nhà nước ngày càng lớn với lĩnh vực này.
Điều này là một tín hiệu tích cực cho sự phát triển của AI ở Việt Nam trong tương lai.

Từ các tập đoàn, doanh nghiệp

Bên cạnh những nỗ lực của nhà nước đó còn là sự hợp tác chặt chẽ, sự sẵn sàng
của các doanh nghiệp lớn như FPT, ICT FISU, Viettel,... đã tạo nên những đóng góp
quan trọng trong việc phát triển AI ở Việt Nam. Các doanh nghiệp này đã đầu tư mạnh
mẽ vào nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, tài
chính, sản xuất,... trong đó nổi bật như tập đoàn Vingroup với VINBIGDATA đã tiên
phong khi công bố “Bộ dữ liệu mở về ảnh X-quang lồng ngực có chú giải” với hơn
100.000 ảnh chụp X-quang phổi được thu thập từ các bệnh viện lớn ở Việt Nam. Từ
nguồn dữ liệu thô này, nghiên cứu chia sẻ 18.000 hình ảnh được chú giải bởi 17 bác sĩ
X-quang giàu kinh nghiệm. Bộ dữ liệu được chia thành tập huấn luyện 15.000 ảnh và
tập thử nghiệm 3.000 ảnh. Đồng thời mở mã nguồn cho phần mềm gán nhãn để các
nhóm nghiên cứu hoặc công ty khởi nghiệp có thể nhanh chóng phát triển bài toán riêng
của mình về AI trong y tế, điều này giúp góp phần rút ngắn thời gian cho việc nghiên
cứu và phát triển những hành động chia sẻ dữ liệu như vậy rất quý giá nhất là với tình
hình khan hiếm thông tin như hiện nay và khi mà các quốc gia đều đang cạnh tranh để
nâng cao vị trí về AI.

3
Oxford insights, Government AI Readiness Index 2022, https://www.unido.org/sites/default/files/files/2023-
01/Government_AI_Readiness_2022_FV.pdf
Các doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ Việt Nam đã trở thành một lực lượng quan
trọng trong phát triển AI ở Việt Nam, đơn cử như VinAI là đại diện duy nhất của Việt
Nam lọt top 20 trong hạng mục “Top 50 công ty toàn cầu dẫn đầu về nghiên cứu AI 4”.
Mặc dù VinAI chỉ mới thành lập năm 2019 nhưng đã gây tiếng vang khi điền tên Việt
Nam trên bản đồ các trung tâm nghiên cứu AI lớn nhất toàn cầu. Góp phần thúc đẩy sự
hợp tác, đầu tư của quốc tế vào lĩnh vực AI ở Việt Nam thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
cho lĩnh vực này.

Các nguyên nhân khác:

Sự phát triển của khoa học công nghệ cũng là một yếu tố tất yếu để tạo ra nhiều
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển AI ở Việt Nam. Các công nghệ như điện toán đám
mây, dữ liệu lớn, máy học,... đã giúp các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp Việt Nam có
thể tiếp cận và ứng dụng các công nghệ AI mới nhất. Sự phát triển của khoa học công
nghệ đã tạo ra cơ sở hạ tầng và các công cụ cần thiết cho nghiên cứu và ứng dụng AI.
Việt Nam đang có một nền tảng công nghệ thông tin và truyền thông phát triển, với hạ
tầng viễn thông hiện đại, băng thông rộng tốc độ cao và kho dữ liệu lớn. Điều này đã
giúp các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận và ứng dụng các
công nghệ AI mới nhất.

Sự phát triển nguồn nhân lực AI ở Việt Nam, với sự gia tăng về số lượng và chất
lượng. Nhiều trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam đã mở các chương trình đào tạo về
AI, giúp cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành tạo nên một nguồn nhân
lực AI trẻ, năng động và đầy tiềm năng. Nhiều sinh viên Việt Nam đã đạt được những
thành tích cao trong các cuộc thi AI quốc tế. Đây là một yếu tố quan trọng để phát triển
bền vững về lĩnh vực AI ở Việt Nam.

Nguyên nhân của những hạn chế

Chính sách đãi ngộ và thu hút nhân tài chưa hấp dẫn

4
Thundermark Capital, AI Research Rankings 2022 - Top 50 Countries Leading in AI Research in 2022,
https://thundermark.medium.com/ai-research-rankings-2022-sputnik-moment-for-china-64b693386a4
So sánh với các nước trong khu vực với điểm GAIR cao hơn thì chính sách của
chúng ta vẫn còn có thể cải thiện hơn để thu hút lượng nhân tài chất lượng cao về mảng
AI. Vào năm 2022, cả Thái Lan và Indonesia đều đã áp dụng loại visas “Digital Nomad”
như một sự đổi mới chính sách nhằm thu hút các công nhân công nghệ tay nghề cao mới
đến nước. Visa này cho phép công dân nước ngoài sống và làm việc tại Indonesia trong
một khoảng thời gian kéo dài, điều này đặc biệt hấp dẫn đối với các dân digital nomad,
freelancer và người làm việc từ xa. Để đủ điều kiện xin visa này, người nộp đơn thường
cần chứng minh nguồn thu nhập ổn định, có bảo hiểm y tế đầy đủ và không có tiền án
tiền sự. Visa được cấp trong một khoảng thời gian cụ thể, có thể gia hạn,

Trong khi đó, Singapore cũng đã đưa ra một chương trình visa “Overseas
Networks & Expertise Pass” (Viết tắt là ONE pass) nhằm đối tượng tài năng hàng đầu
trong các lĩnh vực bao gồm khoa học và công nghệ. Visa này tạo điều kiện cho sự hợp
tác và trao đổi kiến thức giữa các tài năng quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp của
Singapore. ONE Pass cho phép chủ thẻ có thể ở lại Singapore trong khoảng thời gian
lên đến năm năm và tham gia vào các hoạt động chuyên môn, mở rộng mối quan hệ
mạng lưới, và phát triển kinh doanh. Đây là một nền tảng cho cá nhân nước ngoài tận
dụng kinh nghiệm và mối quan hệ mạng lưới của họ trong nhiều lĩnh vực, góp phần vào
sự phát triển và đổi mới của nền kinh tế Singapore. Để đủ điều kiện nhận ONE Pass,
người nộp đơn thường cần chứng minh sự thành công chuyên môn và một mạng lưới
mạnh mẽ trong lĩnh vực của mình

Thiếu cơ sở hạ tầng dữ liệu

Những ngành nghề như kỹ thuật xử lý dữ liệu, khai thác dữ liệu, và quản lý cơ sở
dữ liệu đang thiếu nguồn nhân lực lớn. Điều này đặt ra thách thức rất lớn cho sự phát
triển của hệ cơ sở dữ liệu và công nghệ AI của nước ta, vì công nghệ này phụ thuộc rất
nhiều vào cơ sở dữ liệu. Có thể nói nếu không có cơ sở dữ liệu thì sẽ không thể có AI.
Vì vậy việc xây dựng hạ tầng về dữ liệu và tính toán là một vướng mắc lớn đòi hỏi cần
được giải quyết để đẩy mạnh sự phát triển của AI. Nếu không có nguồn dữ liệu chất
lượng và cập nhật thường xuyên, nền tảng công nghệ này sẽ gặp khó khăn trong việc
đưa ra giải pháp chính xác và chất lượng. Cũng không kém phần quan trọng, hạ tầng
tính toán cũng là "bộ máy" để chạy AI. Hạ tầng tính toán (computing infrastructure) bao
gồm các phần cứng, phần mềm và tài nguyên mạng cần thiết để thực hiện các quy trình
tính toán và xử lý dữ liệu. Đây là cơ sở vật chất và công nghệ cần thiết để hỗ trợ các
hoạt động liên quan đến tính toán, bao gồm lưu trữ, xử lý, truyền tải và quản lý dữ liệu.
Hạ tầng tính toán thường bao gồm máy chủ, hệ thống lưu trữ, mạng kết nối, các giải
pháp phần mềm và các công nghệ mới như điện toán đám mây (cloud computing) và
máy học (machine learning). Hạ tầng tính toán cung cấp nền tảng cơ bản để phát triển
và triển khai ứng dụng và dịch vụ điện toán. Đặc biệt, với tốc độ phát triển và áp dụng
AI ngày càng tăng, khối lượng tính toán và nguồn tài nguyên cần thiết cũng phải tăng
lên tương ứng.

3.2 Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển công nghệ AI ở Việt Nam hiện
nay.

3.2.1 Những cơ hội

AI được xem là một động lực cho sự phát triển kinh tế tại Việt Nam. AI có thể
giúp cải thiện chất lượng dịch vụ, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng cường khả năng cạnh
tranh và đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp. Ứng dụng AI vào các lĩnh vực như y
tế, giáo dục, nông nghiệp, giao thông, du lịch, an ninh. 5Theo số liệu từ Bộ Thông tin và
Truyền thông, trong hai năm vừa qua, kinh tế số đã có những đóng góp tích cực đối với
GDP của Việt Nam, tăng từ mức 11,91% năm 2021 lên mức 14,26% năm 2022 và phấn
đấu đến năm 2025 đạt mức 20%. Tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ
năm 2022 cũng đạt khoảng 7,5%.

Ví dụ: AI có thể giúp chẩn đoán bệnh, hỗ trợ giảng dạy, tối ưu hóa canh tác, điều
khiển giao thông, tăng cường trải nghiệm du khách, phát hiện và ngăn chặn tội phạm.

Việt Nam có một lợi thế dân số trẻ, đông đảo và có nhu cầu sử dụng các sản phẩm,
dịch vụ công nghệ số cao. Đây là một thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp công
nghệ số, đặc biệt là các doanh nghiệp ứng dụng AI. Thời gian tiếp thu công nghệ mới
một cách nhanh chóng. 6Nguồn nhân lực công nghệ của Việt Nam có kiến thức tốt về

5
https://vneconomy.vn/thuong-mai-dien-tu-tang-nhanh-tru-cot-dong-gop-cho-kinh-te-so.htm
6
https://ictvietnam.vn/phat-trien-cong-nghiep-cong-nghe-so-viet-nam-co-hoi-va-thach-thuc-20288.html
công nghệ. Ở Việt Nam, hàng năm có gần 50.000 sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT
hoặc liên quan đến lĩnh vực CNTT.

Việt Nam cũng có một cộng đồng AI đang phát triển với sự góp mặt của nhiều cá
nhân và tổ chức nổi bật trong lĩnh vực này, như Tinypulse, Trusting Social, Sentifi, Beet
Innovators và nhiều công ty khác. Cộng đồng AI có thể tạo ra một môi trường học tập
phát triển lớn mạnh

Việt Nam cũng đang có những bước tiến trong việc xây dựng chiến lược và chính
sách phát triển khoa học và công nghệ, trong đó có vai trò quan trọng của AI. Nhà nước
và chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của AI và đang có những hướng đi rõ
ràng cho việc ứng dụng AI vào các ngành và lĩnh vực khác nhau. VNPT đang đẩy mạnh
phát triển những công nghệ AI liên quan đến thành phố thông minh và chính quyền điện
tử. 7Ngày 26/01/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 127/QĐ-TTg về
Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo (TTNT) đến
năm 2030.

3.2.2 Những thách thức

AI cũng mang lại những thách thức xã hội và pháp lý, như vấn đề về bảo mật, an
toàn, quyền riêng tư, trách nhiệm pháp lý, đạo đức và nhân quyền. Cần có một khung
pháp lý minh bạch, hiện đại và phù hợp để quản lý và điều tiết hoạt động của AI.

Nguồn nhân lực ở Việt Nam tuy cao nhưng nhân lực có tay nghề và kiến thức vững
chắc vẫn chưa nhiều. AI cũng đòi hỏi một nguồn nhân lực chất lượng cao, có kiến thức
và kỹ năng về công nghệ số, AI và các lĩnh vực liên quan. Hiện nay, Việt Nam còn thiếu
nguồn nhân lực này, đặc biệt là những người có khả năng sáng tạo, thiết kế và công nghệ

7
https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=202565
cao. 8Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, chỉ có khoảng 11% lao động có kỹ
năng nghề cao và hơn 26% người lao động đã qua đào tạo, có bằng cấp, chứng chỉ.

AI cũng gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp công nghệ số nước
ngoài, có sự hỗ trợ của chính phủ quốc gia của họ. Các doanh nghiệp công nghệ số Việt
Nam cần phải nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, dịch vụ và giải pháp của mình,
đồng thời làm chủ các công nghệ lõi và công nghệ số mới.

AI cũng có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm, thu nhập và phân
bố của người lao động. Cần có những biện pháp để hỗ trợ, đào tạo và nâng cao năng lực
của người lao động để họ có thể thích ứng và tận dụng cơ hội từ AI.

Những ngành nghề dễ bị thay thế thường có đặc điểm là có quy trình làm việc cụ
thể, lặp đi lặp lại và không đòi hỏi quá nhiều sự sáng tạo như thiết kế đồ họa, chăm sóc
khách hàng, nhân viên lắp ráp, nhân viên giao hàng… Các doanh nghiệp đang dần
chuyển sang mô hình chat bot bằng AI

3.3 Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của công nghệ AI, đáp
ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam trong thời gian tới.

3.3.1 Giải pháp vĩ mô từ phía nhà nước

Thứ nhất: Xây dựng khung pháp lý sẽ tạo ra cơ sở pháp lý để quản lý các vấn đề
như bảo mật, an toàn, đạo đức của AI. Việc có luật pháp rõ ràng sẽ giúp bảo vệ quyền
riêng tư và xác định trách nhiệm pháp lý trong trường hợp xảy ra sự cố. Để định hướng
phát triển lành mạnh công nghệ AI, Việt Nam cần sớm xây dựng hệ thống luật pháp về
AI để cung cấp khung khổ pháp lý cho việc quản lý, giám sát cũng như xử lý các vấn đề
pháp lý liên quan đến AI. Luật pháp cần quy định rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ của các

8
https://tuyengiao.vn/thoi-su/viet-nam-dang-thieu-nguon-lao-dong-co-ky-nang-nghe-cao-140396
bên liên quan trong quá trình phát triển và ứng dụng AI, đặc biệt là trách nhiệm của các
công ty công nghệ. Các văn bản cần quy định cụ thể về: quyền sở hữu trí tuệ đối với sản
phẩm AI; quy định về bảo mật dữ liệu; quy định về đạo đức trong nghiên cứu và ứng
dụng AI; các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng; trách nhiệm pháp lý trong trường hợp
AI gây ra thiệt hại. Bên cạnh đó, cần có cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về lĩnh
vực AI để triển khai thực thi pháp luật.

Thứ hai: Đầu tư ngân sách cho đào tạo và nghiên cứu AI sẽ giúp tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực.
Nhà nước cần dành ngân sách đầu tư mạnh mẽ cho đào tạo nhân lực AI cũng như nghiên
cứu và phát triển AI. Cụ thể, đầu tư xây dựng các trung tâm đào tạo AI tại các trường
đại học lớn, tăng cường chương trình đào tạo về AI ngay từ bậc đại học và sau đại học.
Bên cạnh đó, mở rộng các chương trình nghiên cứu, trao học bổng cho các dự án nghiên
cứu AI tiềm năng. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho các phòng thí nghiệm
AI trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Thu hút các nhà khoa học AI hàng đầu
thế giới về làm việc tại Việt Nam. Chính sách đầu tư mạnh mẽ này sẽ giúp tạo ra nguồn
nhân lực dồi dào, đáp ứng nhu cầu phát triển AI trong thời đại 4.0.

Thứ ba: Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước sẽ giúp họ vượt qua được áp
lực cạnh tranh từ doanh nghiệp nước ngoài, nâng cao năng lực công nghệ và sản phẩm.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ để giúp doanh nghiệp trong nước phát triển
công nghệ AI. Cụ thể có thể áp dụng các biện pháp: hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu cho các
dự án nghiên cứu và phát triển AI; cắt giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực
AI; hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các nguồn tài nguyên số liệu lớn phục vụ nghiên cứu;
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp AI tiếp cận vốn đầu tư mạo hiểm; ưu đãi xuất
khẩu các sản phẩm AI ra thị trường toàn cầu. Các chính sách hỗ trợ sẽ giúp doanh nghiệp
trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển công nghệ AI mang tầm thế giới.

3.3.2 Giải pháp từ phía các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho AI

Thứ nhất: Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo AI. Cung cấp nguồn nhân lực
chất lượng. Mở rộng quy mô, đa dạng hóa chương trình đào tạo sẽ tạo ra nguồn nhân
lực AI đáp ứng nhu cầu xã hội. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự phát triển mạnh mẽ
của AI tại Việt Nam, các cơ sở đào tạo cần chủ động mở rộng quy mô và nâng cao chất
lượng đào tạo về AI. Cụ thể, các trường đại học, cao đẳng cần đa dạng hóa các chương
trình đào tạo AI ở các bậc học khác nhau như: kỹ sư AI, cử nhân AI, thạc sĩ AI, tiến sĩ
AI. Bên cạnh đó, cần cập nhật và bổ sung các môn học mới liên quan đến AI vào chương
trình giảng dạy hiện có như: học máy, thị giác máy tính, xử lý ngôn ngữ tự nhiên,
robotics. Đồng thời, đầu tư cơ sở vật chất hiện đại như phòng thí nghiệm, trang thiết bị,
công cụ phần mềm cho giảng dạy và nghiên cứu AI. Cuối cùng, xây dựng đội ngũ giảng
viên giỏi chuyên môn sâu, có kinh nghiệm thực tiễn từ các dự án AI để nâng cao chất
lượng đào tạo. Những giải pháp này sẽ giúp tạo ra nguồn nhân lực AI dồi dào, đáp ứng
nhu cầu cho sự phát triển của đất nước.

Thứ hai: Liên kết doanh nghiệp để đào tạo theo nhu cầu thị trường. Giải quyết
thách thức về nhân lực. Liên kết doanh nghiệp sẽ giúp đào tạo theo đúng nhu cầu thực
tế của thị trường, khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực. Để đào tạo đúng nhu cầu thực
tế, các trường đào tạo cần chủ động liên kết với doanh nghiệp trong việc đào tạo nhân
lực AI. Các hoạt động liên kết cụ thể có thể là: mời chuyên gia của doanh nghiệp tham
gia giảng dạy, nghiên cứu; cho sinh viên thực tập tại doanh nghiệp; lấy ý kiến đóng góp
của doanh nghiệp về chương trình đào tạo; tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp có chất lượng
cao. Nhờ sự hợp tác này, nhà trường có thể nắm bắt kịp thời nhu cầu nhân lực và công
nghệ mới từ phía doanh nghiệp, từ đó cập nhật chương trình đào tạo phù hợp. Sinh viên
ra trường cũng có cơ hội việc làm cao hơn. Về phía doanh nghiệp cũng có thể tiếp cận
nguồn nhân lực chất lượng, giảm thiểu chi phí đào tạo lại.

Thứ ba: Đào tạo nâng cao giảng viên để nâng cao chất lượng đào tạo. Nâng cao
trình độ giảng viên sẽ cải thiện chất lượng đào tạo, đào tạo ra nhân lực chất lượng cao.
Yếu tố then chốt quyết định chất lượng đào tạo là đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên
của nhà trường. Chính vì vậy, các trường cần đầu tư đào tạo nâng cao trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên AI. Cụ thể, cử giảng viên tham gia
các khóa đào tạo ngắn hạn về công nghệ AI mới nhất; tài trợ học bổng thạc sĩ, tiến sĩ AI
ở nước ngoài; mời chuyên gia hàng đầu về AI làm giảng viên thỉnh giảng. Ngoài ra, cần
tạo điều kiện và khuyến khích giảng viên tham gia các dự án nghiên cứu, ứng dụng AI
thực tiễn để nâng cao kinh nghiệm. Đội ngũ giảng viên giỏi sẽ là chìa khóa nâng cao
chất lượng đào tạo nhân lực AI cho đất nước.

3.3.3 Giải pháp đối từ phía các công ty công nghệ của Việt Nam

Thứ nhất: Đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm AI nâng cao khả năng cạnh
tranh. Các công ty công nghệ Việt Nam cần có chiến lược đầu tư mạnh mẽ vào nghiên
cứu và phát triển các sản phẩm, giải pháp dựa trên trí tuệ nhân tạo. Việc nghiên cứu và
phát triển sản phẩm sẽ giúp các công ty nâng cao năng lực công nghệ, tăng khả năng
cạnh tranh với các công ty nước ngoài. Các công ty cần xác định rõ hướng nghiên cứu
phù hợp với năng lực và nguồn lực của mình, tập trung vào một số lĩnh vực then chốt
như: trợ lý ảo, xe tự lái, dịch máy, phân tích dữ liệu lớn, an ninh mạng,... Để làm được
điều này, các công ty cần đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm, mua sắm trang thiết bị
nghiên cứu tiên tiến, thu hút nhân tài, xây dựng quy trình nghiên cứu chặt chẽ. Ngoài ra,
các công ty nên hợp tác nghiên cứu với các trường đại học, viện nghiên cứu trong nước
để tiếp cận những công nghệ mới nhất. Đầu tư nghiên cứu sẽ giúp các công ty có lợi thế
cạnh tranh, khẳng định vị thế trên thị trường và xuất khẩu công nghệ ra thế giới.

Thứ hai: Xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao để nâng cao năng lực làm chủ
công nghệ. Nguồn nhân lực chất lượng cao chính là chìa khóa quyết định sự phát triển
mạnh mẽ của công ty công nghệ. Vì vậy, các công ty cần ưu tiên đầu tư xây dựng đội
ngũ AI tài năng gồm các kỹ sư AI, nhà khoa học dữ liệu, chuyên gia phân tích, các nhà
phát triển phần mềm thông minh. Để thu hút nhân tài, các công ty cần có chính sách đãi
ngộ hấp dẫn về lương thưởng, điều kiện làm việc, cơ hội thăng tiến và phát triển nghề
nghiệp. Bên cạnh đó, môi trường làm việc chuyên nghiệp, năng động và cởi mở cũng
góp phần quan trọng trong việc thu hút và giữ chân nhân tài. Nhờ vậy, các công ty Việt
Nam sẽ có lực lượng nhân sự mạnh mẽ để tự nghiên cứu, làm chủ công nghệ, không phụ
thuộc quá nhiều vào nước ngoài.

Thứ ba: Hợp tác đào tạo để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự phát triển. Nhằm
đáp ứng nguồn nhân lực cho sự phát triển, các công ty công nghệ cần chủ động liên kết
với các trường đại học, cao đẳng để đào tạo đúng nhu cầu. Các hình thức hợp tác có thể
là: cử chuyên gia giảng dạy tại trường, tài trợ nghiên cứu sinh, cung cấp học bổng cho
sinh viên, mở rộng chương trình thực tập cho sinh viên tại công ty, cung cấp cơ sở vật
chất, trang thiết bị cho nhà trường. Nhờ mối quan hệ hợp tác này, các trường đại học sẽ
định hướng đào tạo theo đúng nhu cầu của doanh nghiệp. Sinh viên ra trường đã có kiến
thức và kỹ năng phù hợp, không mất nhiều thời gian đào tạo lại. Đồng thời, các công ty
cũng nên xây dựng đội ngũ giảng viên, đào tạo viên nội bộ chất lượng cao để đào tạo,
nâng cao trình độ cho chính nhân viên của mình.
KẾT LUẬN

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm
vi toàn cầu, việc ứng dụng và phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) có vai trò vô
cùng quan trọng đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam. Cụ thể,
AI có khả năng giúp tối ưu hóa các quy trình sản xuất, đổi mới mô hình kinh doanh,
nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh
tế nói chung. AI cũng có thể ứng dụng vào nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã
hội như giao thông, y tế, giáo dục... để phục vụ người dân tốt hơn.
Chính vì vậy, AI được xem là một trụ cột then chốt, là động lực quan trọng thúc
đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời đại công nghệ số.
Tuy nhiên, bên cạnh tiềm năng và lợi ích to lớn, thực tế cho thấy Việt Nam vẫn
còn gặp không ít thách thức, hạn chế trong việc phát triển công nghệ AI. Cụ thể, thách
thức lớn nhất là vấn đề nhân lực, khi mà nguồn nhân lực AI tại Việt Nam vừa thiếu về
số lượng, vừa hạn chế về chất lượng, đặc biệt là thiếu nhân lực công nghệ cao. Bên cạnh
đó, các doanh nghiệp AI trong nước còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các
tập đoàn công nghệ nước ngoài. Vấn đề về pháp lý liên quan đến AI cũng chưa được
quan tâm đúng mức.

Để khắc phục những thách thức và thúc đẩy phát triển AI tại Việt Nam, cần có sự
vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của các bên liên quan. Cụ thể, Nhà nước cần xây dựng chiến
lược và chính sách phát triển AI cũng như đầu tư cho đào tạo và nghiên cứu sâu về lĩnh
vực này. Các trường đại học và doanh nghiệp cũng cần chủ động nâng cao chất lượng
đào tạo, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và ứng dụng AI. Đây có thể xem là những đóng
góp chính của nghiên cứu này trong việc đề xuất giải pháp cho sự phát triển AI tại Việt
Nam. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu chuyên sâu về từng khía cạnh cụ thể của
lĩnh vực AI để có thể hoàn thiện và hiện thực hóa các giải pháp đã đề xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin: Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.

[2] Anh Nguyễn (09/08/2023). 'Bong bóng AI' đang phình to? Truy cập từ
https://vietnambiz.vn/bong-bong-ai-dang-phinh-to-202389111021229.htm

[3] Báo Khoa học và phát triển (20/09/2021). Toàn cảnh Trí tuệ Nhân tạo Việt Nam:
Hiện trạng và thách thức. Truy cập từ https://congnghiepcongnghecao.com.vn/tin-
tuc/t24134/toan-canh-tri-tue-nhan-tao-viet-nam-hien-trang-va-thach-thuc.html

[4] Bảo Trung (09/12/2020). Vẽ bản đồ A.I Việt Nam truy cập từ
https://nhipcaudautu.vn/chuyen-de/ve-ban-do-ai-viet-nam-3338425/

[5] Hoàng Giang (23/09/2022). Nhiều nền tảng để phát triển, AI Việt Nam tăng 14 bậc
về chỉ số sẵn sàng. Truy cập từ https://baochinhphu.vn/nhieu-nen-tang-de-phat-trien-ai-
viet-nam-tang-14-bac-ve-chi-so-san-sang-102220923105612333.htm

[6] Harry Nguyen (10/04/2023). Top 10 Artificial Intelligence (AI) Companies in


Vietnam. Truy cập từ https://techvify-software.com/top-10-artificial-intelligence-ai-
companies-in-vietnam/

[7] Hồ Đắc Lộc, Huỳnh Châu Duy (2020). Phát triển trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam:

Thực trạng và giải pháp. Truy cập từ


https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/300474/47989-469-
151744-1-10-20200513.pdf
[8] Khánh Mai (22/04/2021). Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nội soi tiêu hóa giúp nhận
biết sớm ung thư. Truy cập từ https://suckhoedoisong.vn/ung-dung-tri-tue-nhan-tao-
trong-noi-soi-tieu-hoa-giup-nhan-biet-som-ung-thu-169190448.htm

[9] Kinh tế Việt Nam (21/06/2003). Ứng dụng và phát triển mạnh mẽ công nghệ AI:
Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội. Truy cập từ https://vneconomy.vn/ung-dung-
va-phat-trien-manh-me-cong-nghe-ai-viet-nam-dang-dung-truoc-nhieu-co-hoi.htm

[10] Ngọc Dung (25/01/2023). Ứng dụng AI “của người Việt”. Truy cập từ
https://nld.com.vn/cong-nghe/ung-dung-ai-cua-nguoi-viet-2023011809083645.htm

[11] Mai Chi Tran ( 02/08/2023). AI in Vietnam: Opportunities and Challenges for
Foreign Investors. Truy cập từ https://www.vietnam-briefing.com/news/ai-in-vietnam-
opportunities-and-challenges.html/

[12] Minh Quang (09/12/2022). Phát triển trí tuệ nhân tạo AI tại Việt Nam: Thực trạng,
thành tựu, khó khăn. Truy cập từ https://kienthuc.net.vn/kinh-doanh/phat-trien-tri-tue-
nhan-tao-ai-tai-viet-nam-thuc-trang-thanh-tuu-kho-khan-1783056.html

[13] Mindmaid (24/7/2023). Công Nghệ AI Tại Việt Nam: Thực Trạng Và Tiềm Năng.
Truy cập từ https://blog.mindmaid.ai/cong-nghe-ai-tai-viet-nam/
[14] Our world in data (2021). Annual private investment in artificial intelligence. Truy
cập từ https://ourworldindata.org/grapher/private-investment-in-artificial-intelligence-
cset?country=VNM~SGP

[15] Phan Anh (04/09/2023). Doanh nghiệp công nghệ Việt hiện thực hóa khát vọng AI.
Truy cập từ https://vneconomy.vn/doanh-nghiep-cong-nghe-viet-hien-thuc-hoa-khat-
vong-ai.htm

[16]Phan Anh (30/12/2022). Việt Nam tiếp tục tăng mạnh thứ hạng mức độ sẵn sàng Trí
tuệ nhân tạo trên toàn cầu. Truy cập từ https://vneconomy.vn/techconnect//viet-nam-
tiep-tuc-tang-manh-thu-hang-muc-do-san-sang-tri-tue-nhan-tao-tren-toan-cau.htm

[17]Phạm Thị Thu Hà (14/11/2019). Phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) tại Việt Nam: Thực
trạng, kinh nghiệm quốc tế và xu hướng phát triển. Truy cập từ
http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/phat-trien-tri-tue-nhan-tao-ai-tai-
viet-nam-thuc-trang-kinh-nghiem-quoc-te-va-xu-huong-phat-trien-5675

[18]Thanh Phương (11/10/2021). Đẩy mạnh kết nối đưa Việt Nam trở thành điểm sáng
về AI. Truy cập từ https://dangcongsan.vn/khoa-hoc-va-cong-nghe-voi-su-nghiep-
cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc/diem-nhan-khoa-hoc-va-cong-nghe/day-
manh-ket-noi-dua-viet-nam-tro-thanh-diem-sang-ve-ai-593629.html

You might also like