Professional Documents
Culture Documents
Ivơ Bác Đô - một nhà bác học có tên tuổi, một bậc
thầy về tâm thần học đã nghiên cứu, điều tra và viết
ra cuốn "Phép màu nhiệm của suối thánh Lourdes"
nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu, bác học cũng tới.
Vùng Lourdes xa xôi vắng vẻ trước đây nay bỗng trở
nên sầm uất, náo nhiệt vì người đến cầu xin khỏi
bệnh, lấy tin tức, xác định khảo cứu...
Theo Ivơ Bác Đô và các báo chí cho biết, hàng năm
có từ 4-8 vạn người từ các miền của nước Pháp đổ
đến Lourdes. Số người nước ngoài tới cũng không ít.
Nhà bác học đã chứng kiến rất nhiều người được chữa
khỏi bệnh. Bệnh trạng cả những người đến đây rất đa
dạng: có người bệnh tim, người bệnh phổi, bệnh dạ
dày, kinh niên,... đặc biệt có cả những người mù lòa,
bại liệt, người bị bệnh "ma làm". Các phóng viên, nhà
nghiên cứu đã mục kích, chụp ảnh, quy phim về các
cảnh tượng đó và cho đến nay, sự bí ẩn này vẫn chưa
được lý giải.
MUÏC LUÏC
http://thanhcacongdong.com/ImagesLinhTinh2008/L
oDuc-Bernadette.jpg
Thiếu nữ Bernadette (14 tuổi) đã được nhìn thấy Đức
Mẹ
MUÏC LUÏC
Trong khi đó, đa số các nhà thần học thời Trung cồ,
đặc biệt thánh Tôma Aquinô và thánh Bonaventura,
đã không đồng ý quan điểm như thế về Vô Nhiễm
Thai của Đức Maria, nhưng cho rằng Đức Mẹ đã
được thánh hóa ngay lập tức khi được cưu mang
trong cung lòng thân mẫu Mẹ, vì theo các ngài, là
một thành phần nhân loại, Đức Maria cũng cần sự
cứu rỗi của Đức Kitô. Nghĩa là trong một khoảnh khắc
ngắn ngủi nào đó, Đức Maria cũng vướng mắc tội
nguyên tổ.
MUÏC LUÏC
Dựa vào thế giá thánh Tôma Aquinô, các nhà thần
học Dòng Đa-minh đã trong một thời gian dài gắt gao
chống lại sự xác tín lan tràn rộng rãi trong Giáo Hội
chủ trương rằng Đức Mẹ đã được thụ thai mà không
hề vương vấn nguyên tội; vì theo họ, nếu chủ trương
như thế thì Đức Mẹ không được hưởng ơn cứu độ
của Đức Kitô. Nhưng ngay trong hàng ngũ các thầy
Dòng Đa-minh con số những người ủng hộ quan
điểm «Immaculata Conception» mỗi ngày mỗi tăng.
Từ thế kỷ XIV, các phân khoa thần học của các đại
học danh tiếng ở Âu Châu – khởi đầu từ đại học
Sorbonne ở Paris (Pháp), cũng như đại học Köln,
Mains (Đức) và Wien (Áo), v.v… - chỉ cấp văn bằng
đại học cho những sinh viên đồng thuận với giáo
huấn Đức Mẹ Vô Nhiễm. Sự định nghĩa có tính cách
tín lý về sự Vô Nhiễm Thai của Đức Maria đã được đề
MUÏC LUÏC
Vào đầu thế kỷ XIX tín điều vẫn còn bị chống đối nơi
một số người thuộc phái Jansénistes (phái Khắc Khổ)
ở Pháp, bởi vì theo họ thì sự phát triển thần học của
Giáo Hội đã được khép lại với thời thượng cổ (thánh
Augustinô). Phái Jansénistes ngày xưa cũng có thể so
sánh với một số các nhà thần học ngày nay đã giới
hạn việc phát triển các tín điều lại trong thiên niên kỷ
thứ nhất mà thôi. Nhưng đại đa số trong Hội đồng
Giám Mục Đức và các phân khoa thần học trong vùng
lãnh thổ nói tiếng Đức – dĩ nhiên không hẳn vì lý do
đại kết Kitô giáo – đã tỏ thái độ hoàn toàn lạnh nhạt
với khuynh hướng của các nhà thần học đó.
Ban Nha luôn luôn cố gắng vận động ban hành tín
điều.
Hiện tượng này đã làm sống động lại tinh thần sống
đạo sốt sắng trong Giáo Hội Công Giáo, mà những
biến động bất ổn của thời phục hưng cũng như cuộc
cách mạng Pháp làm vùi lấp đi. Kho tàng truyền
thống của Giáo Hội đặc biệt về Đức Kitô và Đức
Maria lại được tái khám phá. Nhiều Dòng Tu mới
thành lập đã đề cao lòng sùng kính Đức Mẹ. Biến cố
chủ chốt chính là biến cố Đức Mẹ hiện ra cùng thánh
MUÏC LUÏC
Tín điều nhấn mạnh đến việc Đức Maria được gìn giữ
hoàn toàn trước tội nguyên tổ. Sắc lệnh của Công
đồng Trient về tội nguyên tổ đã định nghĩa: «Tội lỗi là
sự chết của linh hồn» (peccatum, quod mors est
animae)(5). Sự ghi nhận này người ta có thể tìm gặp
trong Công Nghị Orange II năm 529(6) và trong các
tác phẩm của thánh Augustinô. Các Giáo Phụ Hy-lạp
cũng đồng một quan điểm như thế về hậu quả của
tội nguyên tổ. Khác với Luther, một thầy Dòng
Augustin và là cha đẻ của hệ phái Tin Lành ở Đức,
Công đồng Trient phân biệt giữa tội nguyên tổ và
khuynh hướng phạm tội (concupiscence), điều mà
MUÏC LUÏC
Điều quan trọng đáng ghi nhận ở đây là tính cách đặc
biệt về việc gìn giữ khỏi tội nguyên tổ «nhờ ơn thánh
và lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng»
(singulari omnipotentis Dei gratia et privilegio)(10). Ở
đây, người ta tự hỏi: Phải chăng đặc sủng này chỉ
dành cho một mình Đức Maria mà thôi? Sắc Chỉ
«Ineffabilis Deus» đã khẳng định rõ ràng là đặc sủng
đó chỉ dành cho Mẹ Thiên Chúa mà thôi, và ngoài
Đức Maria không một tạo vật nào được hưởng đặc
sủng đó. Tuy nhiên, Đức Piô IX đã không công bố dự
kiến xác định tính cách đặc thù tuyệt đối của việc
Đức Mẹ Vô Nhiễm. Vì lý do đó, nên những ý kiến
ngông cuồng quá khích cho rằng cả Thánh Giuse cũng
MUÏC LUÏC
Như thế, Đức Maria không bị loại trừ khỏi sự cứu rỗi,
nhưng là hiện thực một cách trọn vẹn nhất công
trình cứu độ của Đức Kitô. Vì thế, Sắc Chỉ «Ineffabilis
Deus» đã nhấn mạnh: «Rất Thánh Trinh Nữ Maria và
Mẹ Thiên Chúa, nhờ vào công nghiệp của Chúa Cứu
Thế, đã không hề bị vướng mắc tội nguyên tổ, nhưng
đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội nguyên tổ ngay
trước được cưu mang».
Lời Kinh Thánh nói về „bông hồng giữa bụi gai“ quả là
một sự trình bày có tính cách thi vị tuyệt vời về sự
tinh tuyền thanh khiết của Đức Maria. Ngoài ra,
trong nghệ thuật thời Kitô giáo sơ khai, hoa hồng
được biểu tượng là hình ảnh của Thiên đàng. Vẻ dịu
dàng đáng yêu và sự sung mãn huy hoàng của nó còn
MUÏC LUÏC
Qua tiếng „xin vâng“ của mình, Đức Maria xuất hiện
MUÏC LUÏC
Bạn nói rằng bạn biết yêu, hãy đến Lộ Đức để chứng
minh. Bạn nói rằng bạn đang yêu, hãy đến Lộ Đức để
tìm người yêu. Và nếu bạn nói rằng bạn không biết
yêu, Lộ Đức chính là suối nguồn tình yêu cho bạn.
Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta, cho Thái Hà,
cho Hà Đông và Toà khâm sứ cũ nữa.
Xin cho tình yêu và niềm hy vọng mãi ngự trị, sống
động trong tâm hồn mỗi con người.
Những việc ấy, với bạn, phải chăng hơi khó hiểu?
Hoặc trái lại, bạn đã mơ ước một cuộc hành hương
này từ lâu, và muốn coi đó như một bước tiến siêu
nhiên thực sự. Vậy Lộ Đức với bạn bây giờ là nơi an
bình, là chỗ cầu nguyện.
Nhưng khi bạn vừa đến nơi, rảo quanh đường phố,
chắc bạn ngạc nhiên và có thể cảm thấy chướng mắt
vì tính cách thương mại ở đây? Rồi khi vào đến
khuôn viên này biết đâu bạn chẳng tưởng rằng mình
sẽ xúc động nhiều, thế mà có thể lòng bạn vẫn dửng
dưng?
MUÏC LUÏC
Đừng dừng lại ở những cảm giác đầu tiên này bạn ạ.
Dù bạn là ai đi nữa, trước hết hãy tự tủ rằng: ‘ Nơi
đây mình đang được Người Mẹ nhân từ đón tiếp ’.
Vậy bạn hãy tìm hiểu ý định của Người. Vì những gì
bạn đang thấy đây, hoàn toàn không ngẫu nhiên,
cũng chẳng phải là một thành quả do tổ chức của loài
người! Mà là thực tại do việc trung thành thực thi sứ
điệp mà Đức Mẹ đã trao ban cho Bernadette, sứ giả
của Người.
“Lần thứ nhất tôi đến hang đá vào ngày thứ năm 11-
02-1858 để nhặt củi với hai bạn gái khác. Lúc đến
máy xay tôi hỏi họ: Các bạn có muốn đi xem chỗ
nước kênh chảy vào sông Gave không? Họ nói: có.
Thế là chúng tôi men theo bờ kênh, đến trước một
hang đá, tự nhiên tôi không thể bước xa hơn được
nữa. hai bạn tôi đã tìm đủ mọi cách để lội qua giòng
nước trước hang đá, khi qua được rồi thì họ bắt đầu
khóc. Tôi hỏi: tại sao các bạn khóc? họ bảo: Vì nước
lạnh quá! Tôi nhờ họ bỏ mấy tảng đá to xuống nước
để tôi có thể bước qua mà khỏi phải cởi giày, nhưng
họ đã từ chối và bảo tôi phải lội qua như họ. Tôi thử
ra xa hơn một chút để xem có thể bước qua được
không nhưng không thể được, tôi đành lùi lại để cởi
MUÏC LUÏC
giày. Vừa cởi xong chiếc tất thứ nhất, tôi nghe có
tiếng gió thổi thật mạnh, tôi vội quay sang phía đồng
cỏ đối diện với hang đá, nhưng cây cối vẫn im lìm!
Tôi tiếp tục cởi giày thì lại có tiếng gió thổi nữa…và
vừa ngẩng đầu nhìn hang đá, tôi chợt thấy một Bà
với sắc phục màu trắng. Bà mặc áo dài và đội khăn
trắng, thắt lưng xanh, trên mỗi bàn chân lại có một
bông hoa màu vàng, giống màu tràng hạt đeo trên
tay Bà. Lúc ấy tôi hơi sửng sốt, tưởng mình nhìn lầm,
tôi dụi mắt nhìn kỹ lại lần nữa, nhưng vẫn cũng nhìn
thấy Bà đó. Tôi lấy tràng hạt từ trong túi ra, và muốn
làm dấu Thánh giá, nhưng tôi không thể nâng nổi bàn
tay lên trán. Tay tôi run len vì sợ, nhưng tôi không bỏ
chạy. Bà cầm tràng hạt đeo trên tay, rồi làm dấu
Thánh Giá, tôi cũng thử làm theo Bà, và lần này tôi
mới ‘làm dấu’ được. Vừa làm dấu thánh giá xong tôi
hết không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Tôi quỳ xuống
lần hạt trước mặt ‘Bà đẹp’ ấy. Tuy tay lần hạt mà môi
Bà không mấp máy. Khi lần hạt xong, Bà vẫy tôi lại
gần nhưng tôi không dám. Thế rồi Bà biến mất.”
“Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy nói với các linh mục
xây một nhà nguyện ở đây; hãy đến uống và rửa ở
suối này; phải cầu nguyện cho những người tội lỗi
MUÏC LUÏC
Vì, hoàn tất một cuộc hành hương tốt đẹp, không
phải chỉ lãnh Bí Tích Cáo Giải, nhưng chính là phải
quay về với Thiên Chúa, diệt trừ nơi ta mọi trở ngại
cho tình yêu của Ngài. Tóm lại, ta phải mô phỏng
MUÏC LUÏC
“Con hãy nói với các linh mục xây nhà nguyện ở đây.
Mẹ muốn người ta đến đây rước kiệu”
Như lời của Đức Cha Théas: “Nhiệm Tích Thánh Thể
hoàn tất cuộc trở lại của chúng ta.”
Danh hiệu này quá cao siêu, chưa một nhà thần học
nào dạy Bernadette và dĩ nhiên Bernadette càng
không thể bịa ra được. Đức Ma ri a hiện diện giữa
chúng ta như một tạo vật cao đẹp nhất, Người thực
thi kế hoạch của Thiên Chúa cách trọn hảo nhất.
Người thật xứng đáng được trọn làm Mẹ Đấng Cứu
Thế.
ta, những kẻ tội lỗi, ánh mắt nhân hiền của Người, để
khi nhìn ngắm Mẹ, chúng ta có đủ khả năng hoán cải
tâm hồn.
Bà gần như chìm sâu vào sầu não tuyệt vọng. Thêm
vào đó, ông Thaddée - phu quân bà - vắng nhà. Ông
đang ở Luân Đôn bận lo công việc làm ăn. Bà vốn là
tín hữu Công Giáo ngoan đạo, nhưng giờ đây, đứng
trước thực tế phũ phàng, bà hầu như đánh mất trọn
Đức Tin nơi THIÊN CHÚA là Cha, Đấng hằng yêu
thương chăm sóc con cái loài người.
MUÏC LUÏC
Bà thổ lộ tâm tình với người bạn thân và nhờ bạn viết
thư báo cho chồng ở Luân Đôn biết. Ông Thaddée
đang trọ nơi nhà bạn thân người Anh, tín hữu Tin
Lành. Nhận thư, ông Thaddée đem câu chuyện kể cho
bạn hiền nghe. Nào ngờ, ông bạn Tin Lành là tín hữu
nhiệt thành. Ông từng nghe nói về các phép lạ Lộ-
Đức. Và ông đã đích thân đến tận nơi để có thể chứng
kiến tận mắt những cuộc khỏi bệnh lạ lùng xảy ra nơi
trung tâm thánh mẫu Lộ-Đức. Ông từng trông thấy
bệnh nhân đau mắt được khỏi bệnh. Giờ đây nghe
ông bạn nói đến trường hợp đau mắt của vợ, ông
khuyên bạn nên chạy ngay đến cùng Nước Phép Lạ
Đức Mẹ Lộ-Đức.
Nghĩ thế nên ông Thaddée viết thư cho hiền thê. Ông
bảo bà xin ngay Cha Sở Lộ-Đức nước Đức Mẹ. Ông
cũng báo tin mình sắp trở lại Paris.
Trở về nhà, ông Thaddée cẩn thận theo sát lời khuyên
của người bạn Tin Lành. Nghĩa là, bạn khuyên cả hai
vợ chồng chuẩn bị nhận lãnh ơn lành Đức Mẹ Lộ-
Đức bằng cách dọn mình xưng tội. Ban đầu cả hai vợ
chồng hơi do dự, bởi lẽ lời khuyên đến từ một tín hữu
Tin Lành. Nhưng rồi càng suy nghĩ, cả hai càng cảm
thấy bạn có lý và nhất định làm theo lời bạn khuyên.
Ông bà cùng lãnh nhận bí tích Hòa Giải. Vài ngày
sau, Nước Phép Lạ cũng đến từ Lộ-Đức.
Cầu nguyện xong, với tâm tình run run cảm động,
ông lấy Nước Phép Lạ Đức Mẹ Lộ-Đức đổ vào khăn
tay và nhẹ nhàng áp khăn tay lên đôi mắt vợ.
Sau biến cố trên đây, người bạn Tin Lành của hai
ông bà cũng xin trở về với Giáo Hội Công Giáo,
Duy Nhất, Thánh Thiện và Tông Truyền.
Bí Mật Lộ Đức
Chủ đề: ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
bám víu vào tấm ruộng, mảnh vườn của cha ông, nên
đã cho ra đời một thế hệ trẻ thơ, mà mức sống chẳng
hơn gì bố mẹ. Các em đến lớp lôi thôi lếch thếch, có
khi có ăn nhưng cũng lắm khi cơn đói cồn cào. Một
số em kém may mắn hơn, do ảnh hưởng của chất độc
da cam, nên lúc sinh ra đã bị dị tật suốt đời. May mắn
là có các nữ tu đã tuyên khấn tận hiến đời mình cho
Thiên Chúa và phục vụ cho hạnh phúc của đồng bào,
nên đã đảm đương những công việc dạy dỗ và giáo
dục các em, cũng như lo lắng và chăm sóc đặc biệt
cho các em khuyết tật. Cha Albert đã đến kịp thời để
cộng tác và trợ lực cho các nữ tu nầy làm tốt công tác
phục vụ xã hội nầy.
Cha kể lại, trong lần thứ hai trở về Huế, với mục đích
dạy tiếng Pháp theo lời yêu cầu của một số người, qua
sự gợi ý của một người bạn: liệu cha Albert có giúp gì
cho Việt Nam không? Cha đã suy nghĩ và tối hôm đó,
trong phòng ngủ tại khách sạn, cha đã trăn trở và trải
qua một đêm thức trắng, sáng mai lại, tờ lịch tường
ghi rõ ngày 21 tháng 7. Chính ngày này đây, cách đây
50 năm, hiệp định Genève đã chia đôi đất nước Việt
Nam thành hai: Bắc và Nam, và trong suốt hơn 30
năm, một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đã xảy
ra, gây nên không biết bao là đau khổ, chết chóc và
nghèo đói cho một dân tộc được mệnh danh là anh
MUÏC LUÏC
Sau nhiều suy nghĩ, đắn đo, Albert xin hẹn và đến gặp
một trong các vị tu sĩ đó. Vị tu sĩ nầy đã giới thiệu và
giúp Albert làm quen với một vài Dòng tu trong Giáo
Hội. Cũng chính ngài khuyên Albert nên gia nhập
đoàn thanh niên thiện nguyện làm việc tại Lộ Đức, để
hướng dẫn khách hành hương hay giúp đỡ các người
bệnh tật vào các mùa hè, nhấât là các dịp lễ vào tháng
bảy và tám hằng năm. Lần thứ nhất, thứ hai, rồi thứ
ba... Albert say sưa với công việc thiện nguyện giúp
đỡ các bệnh nhân tại nơi đây. Nhất là mỗi đêm về, khi
các bệnh nhân đã yên giấc, Albert đi ra, hoà mình vào
đoàn hành hương để rước kiệu, tung hô Mẹ, hay lặng
lẽ trước hang đá, nơi Mẹ hiện ra với Bernadette, trong
tầm nhìn của Mẹ để lần hạt, hoặc thưa lên với Mẹ
những tâm tư thầm kín của mình. Và cũng chính tại
đây, Albert đã xác định ơn gọi làm tu sĩ của mình.
Phải mất mấy tuần, Albert mới tỏ bày được ý định
của mình cho Rosalie biết. Phần thì vì tình cảm rất
sâu đậm giữa hai người, phần thì vì không muốn cho
Rosalie buồn lòng. Nàng xứng đáng là người yêu và
là người vợ lý tưởng, nàng đẹp, thông minh lại hiền
lành, tế nhị nữa. Tuy nhiên, phản ứng của Rosalie thật
can đảm và dễ thương... Thay vì khóc lóc, hờn dỗi,
nàng đã sẵn lòng chấp nhận, tuy không khỏi đau khổ,
buồn sầu... Sau đó, Albert xin vào dòng.
MUÏC LUÏC
Albert đã qua giai đoạn tìm hiểu, rồi tập viện trong an
bình, dưới sự đồng hành của các người đặc trách. Còn
mấy tháng nữa để quyết định khấn lần đầu. Thời gian
nầy thật là cam go cho Albert, chàng nghi ngờ - tôi có
thật sự có ơn gọi tu dòng hay không? làm sao có thể
sống nổi cuộc đời đơn côi và tẻ nhạt... như thế nầy
suốt cả đời? Thật là khó! Cùng với những nghi ngờ
đó, hình ảnh của Rosalie lại hiện lên, xâm nhập cả
tâm trí, trong mọi lúc và mọi nơi. Cuối cùng Albert đã
lục lại quyển carnet cũ để tìm ra địa chỉ của Rosalie.
Lá thư đầu tiên như là một quả bóng thăm dò, và
được hồi âm tức khắc... Và trong ba tháng liền, không
ngày nào mà hai người không viết cho nhau cả. Thời
gian qua đi, sắp đến ngày tĩnh tâm để khấn tạm,
Albert phải có quyết định dứt khoát. Một lần nữa,
Albert đã biên một bức thư dài hỏi ý kiến của Rosalie.
Bức thư được gởi đi vào đầu tuần, theo sự thường,
chàng sẽ nhận được thư trả lời vài ngày sau đó.
Nhưng không, Albert chờ sốt ruột cả tuần, cho đến
sáng thứ bảy, mất hết kiên nhẫn, chàng đến ngay ông
gác cổng để hỏi xem người đưa thư đã đi qua chưa?
Và được trả lời là không hiểu vì lý do gì, người đưa
thư đã không đến sáng nay như thường lệ. Với một
tâm trạng hụt hẫng, Albert lên đường đi tĩnh tâm.
Tuần tĩnh tâm kết thúc, Albert tìm lại được sự bình an
MUÏC LUÏC
Mười năm sau, trong một lần thăm viếng "quốc gia
của Giáo Hoàng” tại Avignon. Lần nầy cụ sáu Albert
đang chuẩn bị bước lên bàn thánh trong vài tháng
nữa. Thầy ghé vào siêu thị để tìm mua một vài thứ
cần thiết. Đang lúc rảo qua các gian hàng, Albert đưa
mắt dán vào một dáng người lướt qua từ xa, trong tầm
nhìn của mình - Có phải là Rosalie đó không? Nàng
làm gì ở đây? Và như có một ma lực nào đó thúc đẩy,
Albert rảo chân bước theo, tuy vẫn giữ một khoảng
MUÏC LUÏC
... Kết thúc câu chuyện, cha Albert nói: "Như vậy là
ơn Chúa luôn giữ gìn tôi. Chính Ngài đã chọn và
trung tín với tôi, cho dù tôi thế nào đi nữa, Chúa vẫn
yêu thương và chở che tôi. Tôi nghĩ, giá như bức thư
của Rosalie đến với tôi trước khi khấn, hoặc tại
Avignon tôi gặp lại Rosalie trong hoàn cảnh đáng
thương của nàng lúc đó... tôi không biết những gì sẽ
xảy ra cho tôi. Thạât là ơn Chúa luôn đủ cho tôi và
Đức Mẹ Maria, Mẹ Lộ Đức hay Mẹ Lavang luôn theo
dõi và cứu giúp tôi”. Phần chúng ta, cám ơn Chúa, vì
nếu thầy Albert đã không can đảm dừng chân đúng
lúc, thì Giáo Hội đã không có thêm một linh mục trẻ
trung, vui tính và rất hòa đồng với mọi người, nhất là
những ai già cả và đau yếu. Các trẻ em nghèo khổ của
MUÏC LUÏC
Bà tường thuật lại việc lúc đang tắm ở dòng suối chữa
lành tại Lộ Đức: "Khi đó tôi nghe có tiếng khích lệ tôi
và một cơn đau mãnh liệt ở hai chân."
Alexis Carrel chào đời tại Lyon (Bắc Pháp) trong một
gia đình Công Giáo đạo đức. Alexis mồ côi Cha năm
lên 4 tuổi và được Mẹ giáo dục trong niềm kính sợ
THIÊN CHÚA. Nhưng khi lớn lên và trở thành sinh
viên xuất sắc, Alexis bỗng đánh mất Đức Tin Công
Giáo đơn sơ trong tuổi thơ của mình. Việc Alexis mất
Đức Tin một phần do ảnh hưởng chủ thuyết duy vật
vô thần rất thịnh hành trong xã hội Âu Châu vào
những thập niên cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
MUÏC LUÏC
Vì bị ngăn trở vào phút chót, một bác sĩ bạn nhờ bác
sĩ Carrel thay mình tháp tùng các bệnh nhân. Bác sĩ
Carrel miễn cưỡng nhận lời, nhưng tận thâm tâm ông
vui mừng vì được dịp nhạo cười và chỉ trích tại chỗ
những chuyện gọi là ”phép lạ Lộ Đức”. Theo ông, đó
chỉ là chuyện nhảm nhí của các tín hữu Công Giáo vô
học, ngây thơ và dễ tin!
- Nếu cô này khỏi bệnh thì thật là phép lạ! Lúc đó tôi
sẽ tin và sẽ cắt tóc đi tu làm thầy dòng!
Lúc sinh thời, bác sĩ Alexis Carrel đã tiến cao trên đài
danh vọng, đã lãnh giải thưởng Nobel y khoa năm
1912. Nhưng khi chết, ông đã tắt thở trong Đức Tin
đơn sơ của một đứa trẻ. Quả thật, hạnh phúc thay
người có Đức Tin!
đầy tình yêu thương. Chúng tôi đến đây trong tình
hiệp thông thân ái và xin gửi lời chào mừng của Đức
Thánh Cha đến tất cả anh chị em hiện diện nơi đây.
Chúng tôi đã chứng kiến anh chị em đến từ nhiều giáo
phận khác nhau, có cả người nước ngoài nhưng chúng
ta cảm thấy như cùng trong một gia đình duy nhất
Sau 15 lần phái đoàn đến Tòa Thánh Vatiacan đã đến
viếng Đức Mẹ La Vang, nhưng đây là lần đầu tiên
phái đoàn Tòa Thánh Vativan chính thức đại diện cho
Đức Thánh Cha đến viếng Linh địa này. Sự hiện diện
của phái đoàn Tòa Thánh Vatican hôm nay là sự hiện
diện cho Đức Thánh Cha luôn quan tâm đến Thánh
địa này. Đức Thánh Cha đã gửi đến anh chị em lời
thăm hỏi và chúc anh chị em luôn giữ vững đức tin
mạnh mẽ. Ngài cũng hứa trong kì Đại hội La Vang
lần thứ 28 này, ngài sẽ gửi thông điệp để ban phép
lành cho tất cả anh chị em. Tôi xin trao tặng Hào
quang Mình Thánh Chúa của Đức Thánh Cha gửi cho
Thánh địa La Vang. Vì tôi tin rằng Mẹ cũng đang
hiện diện với chúng ta”. Sau đó Đức Ông Parolin trao
Hào quang Mình Thánh Chúa của Đức Thánh Cha
Benedictô XVI tặng Trung tâm Thánh Mẫu La Vang
cho Đức Cha F.X Lê Văn Hồng, giám mục phụ tá
Giáo phận Huế. Đúng lúc đó, cộng đoàn dân Chúa
xôn xao và chỉ trỏ lên bầu trời trên Linh đài. Lúc này
đúng 9h40, một vầng hào quang sáng ngời tỏa xuống
MUÏC LUÏC
2. PHƯỜNG LAVANG
3. ĐỨC MẸ HIỆN RA
Lịch Sử La vang
Theo một thuyết, dưới thời vua Tây Sơn Quang Toản
có chính sách chống đạo Kitô giáo, cho nên nhiều
người theo Công giáo ở vùng Quảng Trị để tránh sự
trừng phạt của nhà Tây Sơn đã chạy lên vùng đất này.
Do đây là vùng đất đồi núi cho nên để gọi nhau được
họ phải "la" lớn mà "la" lớn thì "vang". Cái tên La
Vang ra đời.
Một cách giải thích khác là khi những người theo đạo
Công giáo chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc
bấy giờ Đức Mẹ đã hiện lên và chỉ dẫn cho họ đi tìm
một loại lá gọi là lá vằng – uống vào sẽ chữa khỏi
bệnh. Viết "lá vằng" không dấu thành La Vang[1].
Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ,
bỗng họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặt áo
MUÏC LUÏC
kháng khuẩn, rất tốt cho phụ nữ sau khi sinh nở.
Không những thế, khách thập phương đến đây là để
hành hương và cầu xin những ơn lành mà người Công
giáo tin rằng Đức Bà sẽ ban ơn như ý.
MUÏC LUÏC
Vậy tôi xin ghi lại đây bài suy niệm nầy. bài suy niệm
nầy gồm có 6 phần:
Lệnh vua vừa ban ra, quân lính đua nhau nổ lực tầm
nã người công giáo để bắt bớ, hành hạ và chém giết.
2. CƠ CỰC TRĂM BỀ
ẩn náu tại đây phải kiệt lực, mất sức, trở thành mồi
ngon cho bệnh tật, chết yểu.
Núi rừng La-Vang lúc bấy giờ hoang vu rậm rạp, cọp,
beo, heo rừng và những thú dữ đủ loại, ngày đêm
xông xáo đi tìm mồi. Chúng sẵn sàng vồ giết bất cứ ai
cả gan xâm phạm lãnh thổ của chúng.
Núi rừng La-Vang lúc bấy giờ có tiếng rất nguy hiểm
vì đầy thú dữ, nên muốn vào đây đốt than, kiếm củi,
đốn gỗ, người ta phải đi theo nhau từng đoàn, vừa đi
vừa hò hét la vang, vừa khua lên những tiếng rộn ràng
để xua đuổi các thú dữ. Vì thế, người công giáo vào
ẩn trốn tại La-Vang lúc bấy giờ, rất dễ biến thành mồi
ngon cho thú dữ phanh thây, ăn thịt.
Khi nghe tin bắt Ðạo, người công giáo vội vã lìa nhà
lìa cửa, bỏ hết mọi sự để chạy trốn, chỉ vơ vét đem
theo vài chục lon gạo, vài chút lương khô. Khi lên ẩn
náu tại rừng núi La-Vang, họ không liên lạc được với
ai để xin giúp đỡ vì không có chợ, không có quán ăn,
không có gia đình nào ở trong chổ rừng rú nầy. Họ
cũng không trồng trọt được cây ăn quả nào, cũng
MUÏC LUÏC
Kiệt lực, mất sức, mang đủ mầm mống của bệnh tật,
không có gì ăn để bồi dưỡng, không có thuốc men để
chữa bệnh, không được ai săn sóc giúp đỡ, những
người công giáo ẩn núp tại rừng núi La-Vang lúc bấy
giờ, không ai mà thoát khỏi bệnh tật dày vò : họ mắc
đủ thứ bệnh tật đau đớn.
Lệnh bắt Ðạo do Vua Cảnh Thịnh ban ra lúc đó, thật
gắt gao. Quân lính đi lùng quanh rừng, tìm cách bắt
nộp người công giáo để được lãnh thưởng.
3. GIỮA CẢNH BƠ VƠ
Mặc cho bệnh tật đau đớn dày vò, mặc cho núi rừng
độc khí cướp mất sức lực của họ, mặc cho sự thiếu
hụt lương thực làm cho họ rã rời, mặc cho thú dữ rình
rập nguy hiểm, trong đêm tối âm u của rừng sâu lạnh
lẽo, trong những tiếng vang lên yếu ớt vì kiệt sức,
những người công giáo lúc bấy giờ sốt sắng lần hột,
kêu xin Ðức Mẹ cho họ được lòng tin Chúa cho
mạnh, lòng cậy Chúa cho bền, lòng kính mến Chúa
cho sốt sắng.
Ðức Chúa Trời ở cùng Bà! (Trong khi tâm hồn chúng
con đầy lo âu dằn vặt, chúng con vẫn ngợi khen Mẹ là
Ðấng Hạnh Phúc có Chúa ở cùng Mẹ!)
Người mẹ trần thế nầy, khi thấy con mình gặp cơn
hoạn nạn, không đợi con mở miệng kêu xin, đã vội
chạy đến giúp con, đã có mặt ngay bên cạnh con.
Trong đêm tối rừng sâu La-Vang, giữa những lời cầu
nguyện sốt sắng của những người công giáo lúc bấy
giờ, Ðức Mẹ Maria liền hiện ra, tay bồng Chúa Giêsu
MUÏC LUÏC
5. ÐỨC MẸ BAN ƠN
Thấy đoàn con đang sốt sắng cầu nguyện trong đêm
tối, kẻ thì thoi thóp hấp hối, người thì quằn quại giữa
những đau đớn bệnh tật, kẻ thì kiệt lực vì đói lã lâu
ngày, người thì lết qua lết lại, Ðức Mẹ Maria quá cảm
động : sau khi khuyên đoàn con giữ� vững đức tin
và theo Chúa cho đến cùng, Ðức Mẹ bắt tay ngay vào
việc chữa lành các bệnh tật.
Lạy mẹ La-Vang!
Xin cho chúng con
Một dạ sắt son
Trung thành theo Chúa
Như Cha Ông xưa ở rừng núi La-Vang nầy.
Xin Mẹ nhậm lời đoàn con khẩn nguyện.
Amen!
MUÏC LUÏC
LM Emmanuen Nguyễn-Vinh-Gioang
MUÏC LUÏC
La Vang
Chủ đề: MẸ MARIA, ĐỨC MẸ LA VANG
Bách khoa toàn thư mở WikipediaLa Vang là một
thánh địa của người Công giáo Việt Nam, nằm ở
huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Các tín hữu tin rằng
Đức Mẹ Maria hiển linh ở khu vực này vào năm 1798
và một nhà thờ đã được dựng lên gần nơi 3 cây đa,
nơi Đức Mẹ hiện ra và nay là nơi hành hương quan
trọng của người tín hữu Công giáo Việt Nam. Thánh
địa La Vang được Tòa thánh Vatican phong là Tiểu
Vương Cung Thánh đường La Vang từ năm 1961
[1]
Tên gọi
MUÏC LUÏC
Theo một thuyết, dưới thời vua Tây Sơn Quang Toản
có chính sách chống đạo Kitô giáo, cho nên nhiều
người theo Công giáo ở vùng Quảng Trị để tránh sự
trừng phạt của nhà Tây Sơn đã chạy lên vùng đất này.
Do đây là vùng đất đồi núi cho nên để gọi nhau được
họ phải "la" lớn mà "la" lớn thì "vang". Cái tên La
Vang ra đời.
Một cách giải thích khác là khi những người theo đạo
Công giáo chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc
bấy giờ Đức Mẹ đã hiện lên và chỉ dẫn cho họ đi tìm
một loại lá gọi là lá vằng – uống vào sẽ chữa khỏi
bệnh. Viết "lá vằng" không dấu thành La Vang. Một
thuyết khác cho là địa danh "phường Lá Vắng" đã có
từ trước đó, thuộc làng Cổ Vưu, nằm về phía Tây
cách đồn Dinh Cát, về sau là tỉnh lỵ Quảng Trị, 4 cây
số và cách Phú Xuân, tức Kinh Đô Huế, 58 km về
phía Bắc [3].
MUÏC LUÏC
Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ,
bỗng họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặt áo
choàng rộng, tay bồng Chúa Hài Đồng, có hai thiên
thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra ngay Đức
Trinh Nữ Maria. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và
an ủi giáo dân vui lòng chịu khó. Mẹ dạy hái một loại
lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ
lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: “Mẹ đã
nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy
đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn
theo ý nguyện”.
dân để xây một nơi thờ Mẹ Maria [6]. Ý kiến khác cho
rằng La Vang trước đó chỉ là một vùng hoang vắng,
vùng rừng núi hẻo lánh [7].
Năm 1924, nhận thấy ngôi nhà thờ ngói quá chật hẹp,
lại đã xuống cấp cho nên một đền thánh La Vang theo
đồ án của kiến trúc sư Carpentier được dựng lên thay
thế và được khánh thành vào ngày 20 tháng 08 năm
1928, nhân dịp Đại hội La Vang 9. Thánh đường này
được trùng tu năm 1959. Trong phiên họp ngày 13
tháng 04 năm 1961 Hội Đồng Giám Mục Miền Nam
MUÏC LUÏC
Từ khi nhà thờ ngói được dựng, hàng năm vào ngày
15 tháng 8 tại La Vang thường tổ chức lễ hội hành
hương, gọi là "Kiệu" (cứ 3 năm lại có một "Kiệu" lớn,
gọi là "Đại hội La Vang"). Người hành hương về nơi
này có thể mua được lá cây vằng, một loại lá thường
dùng sắc thuốc hoặc uống mát, lành và có khả năng
kháng khuẩn, rất tốt cho phụ nữ sau khi sinh nở.
Không những thế, khách thập phương đến đây là để
hành hương và cầu xin những ơn lành mà người Công
giáo tin rằng Đức Bà sẽ ban ơn như ý.