You are on page 1of 23

1) Đánh giá của Đảng ta sau hơn 30 năm đổi mới phát triển văn hóa như thế

nào (từ
1986 đến nay)

Thành tựu
Có sự gắn kết hài hòa giữa kinh tế và văn hóa. Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ trong
việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế chính sách để các
thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm, từ chỗ không chấp nhận
sự phân hóa giàu nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp và đi đôi
với đó là tích cực xóa đói giảm nghèo.
Đặc biệt công tác xóa đói giảm nghèo đã đạt được những thành tựu ấn tượng: Tỷ lệ hộ
nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010,
7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020, 2,93% năm 2023 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
Công tác giáo dục Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng
cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về
giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: tỷ lệ huy động
trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN, sau Singapore); tỷ lệ học
sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu
của khối ASEAN. Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng
xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc
so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000
trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh
viên quốc tế trong những năm gần đây…
Từ năm 2003-2018, ngành bảo hiểm xã hội phối hợp với ngành y tế đã đảm bảo quyền
lợi cho trên 1.748 triệu lượt người tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, bình quân
mỗi năm có trên 109 triệu lượt người thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước
nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể
nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể vào nâng cao sách an sinh xã hội cho nhân
dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân
dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế
cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân…
Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới
tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép
chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có COVID-19;
chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng
COVID-19...
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm
thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ
trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo,
đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho
hơn 112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
hạn chế
Chủ trương, quan điểm xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có
nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được triển khai mạnh mẽ trong các tầng lớp xã hội. Một
số mặt yếu kém, tiêu cực chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí có mặt gia tăng.
+ Việc quán triệt và thực hiện nghị quyết của Đảng về văn hoá có lúc, có nơi chưa đạt
yêu cầu. Sự phối hợp trong tổ chức thực hiện giữa các ban, ngành, đoàn thể, địa phương
chưa đồng bộ, chặt chẽ. Vẫn còn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp cao. Không ít cán bộ,
đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa tự giác, chưa
thường xuyên thực hiện việc nêu gương trước quần chúng. Một số mặt đạo đức xã hội có
biểu hiện xuống cấp đáng lo ngại, có mặt nghiêm trọng[2], lối sống thực dụng, hưởng thụ
vật chất, khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội đã và đang ảnh hưởng không tốt đến
giáo dục lý tưởng, đạo đức, nhân cách con người và thực hiện công bằng xã hội.
+ Thiếu chiến lược quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá đội ngũ cán bộ,
nhất là cán bộ khoa học, chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
Nhận thức, hành động của xã hội về vai trò, vị trí của văn hóa, con người trong phát triển
bền vững đất nước có lúc, có nơi còn chưa đầy đủ và sâu sắc, văn hóa chưa thật sự được
đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Việc thể chế hoá đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng về xây dựng, phát triển
văn hóa, con người còn chưa kịp thời, thiếu đồng bộ. Đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực
văn hóa, văn nghệ chưa tương xứng với đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội. Việc thực
hiện quy hoạch báo chí, xuất bản còn chậm. Tình trạng "thương mại hóa" trong hoạt động
báo chí, xuất bản chưa được khắc phục. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
chưa vững chắc. Mức đầu tư cho văn hóa đối ngoại còn thấp. Công tác quản lý xuất nhập
khẩu văn hóa phẩm chưa chặt chẽ dẫn đến để lọt sản phẩm văn hóa độc hại du nhập vào
nước ta.
+ Sự phối hợp giữa ba chủ thể gia đình - nhà trường - xã hội trong xây dựng văn hóa,
xây dựng con người chưa thường xuyên, chặt chẽ, có lúc, có nơi không lành mạnh, có
mặt xuống cấp đáng lo ngại.
+ Việc xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế kết quả chưa tương xứng. Nhận
thức, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, giữa phát triển kinh tế
với xây dựng văn hóa, con người chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ; thiếu chiến lược
quảng bá, phát triển thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước
và ngoài nước.
Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng mức.Tình trạng suy
thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại,
nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh
ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được chú ý đầy đủ, còn nhiều khuyết điểm, bất
cập. Trong thực tiễn hoạt động, phong trào này bị đánh giá là chưa đồng đều, thiên về bề
nổi, hiệu quả thấp và bên cạnh đó, hoạt động của Ban chỉ đạo ở một số địa phương còn
nặng tính hành chính…Cùng với bệnh thành tích, một hạn chế đáng chú ý của phong trào
là đã triển khai chương trình một cách duy ý chí, không căn cứ vào thực tiễn nên hiệu quả
không đáng kể hoặc thậm chí nhiều khi còn không đi được vào đời sống.
Đại hội XII, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW khóa XI Báo cáo cũng
nhận định: “so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác
động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Đạo đức, lối
sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo
nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô
thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại
những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và
một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng…
Trong liên tiếp các kỳ Đại hội gần đây là Đại hội XI và XII, văn kiện của Đảng đều
đánh giá rằng văn hóa phát triển chưa tương xứng với các lĩnh vực khác.
Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực
phát triển. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu. Đã được
chỉ ra trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội XII. Và nhiều ý kiến
thống nhất rằng nguyên nhân quan trọng là do hệ thống giáo dục chưa đáp ứng được yêu
cầu. bởi vì Xét cho đến cùng, những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của con người Việt
Nam nói chung đều là do những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của công tác đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực này mà ra. Con người là kết quả quá trình xã hội hóa thông qua
giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội, mà như ta biết, những gì được học trong quá
trình đó sẽ là nền tảng để tạo nên con người văn hóa. Và, với tư cách là chủ thể sáng tạo
văn hóa, mỗi cá nhân trong cộng đồng sẽ góp phần tạo nên văn hóa của cộng đồng. Có
thể nói, nền văn hóa dân tộc được hình thành và phát triển như thế nào là do mỗi con
người với tư cách là con người văn hóa được hình thành thông qua giáo dục quyết định.
Vấn đề là ở chỗ, sự giáo dục nhân cách con người hiện đang bị coi nhẹ trong xã hội và
ngay cả hệ thống giáo dục

bài học
Thứ nhất: Không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về xây
dựng, phát triển văn hoá, con người đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất
nước.
Thứ hai: Đẩy nhanh, đồng bộ việc thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về văn
hóa, con người thành pháp luật, các chính sách cụ thể, thiết thực, kể cả các chính sách đặc
thù, tạo môi trường pháp lý, khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực của xã hội.
Thứ ba: Tăng đầu tư cho hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ và nguồn nhân
lực chất lượng cao để phát triển và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa theo hướng tăng
cường tính hiệu quả, tính chi phối, không phát triển thiết chế theo một mô hình có sẵn,
cứng nhắc, dàn trải mà phải phù hợp với đặc điểm vùng, miền, dân tộc, tôn giáo, từng
nhóm đối tượng; phát huy tính tích cực của hệ thống thiết chế văn hóa truyền thống; xây
dựng một số thiết chế văn hóa tiêu biểu, hiện đại, chuyên nghiệp tại một số tỉnh, thành
phố trọng điểm.
Thứ tư: Chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, đánh giá, sử dụng cán bộ lãnh
đạo, quản lý văn hóa ở các cấp có đức có tài, có kinh nghiệm và uy tín ngang tầm nhiệm
vụ; xây dựng đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học, văn nghệ sĩ có chuyên môn tốt, khả
năng hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực; chú ý đến việc phát hiện, đào tạo, sử
dụng tài năng văn hóa, văn nghệ ở một số lĩnh vực, bộ môn có tính đặc thù, chất lượng
cao, năng lực đặc biệt.
Thứ năm: Việc xây dựng môi trường văn hóa phải được thực hiện đồng bộ trong gia
đình, nhà trường và xã hội. Phát huy tinh thần yêu nước, thực hành dân chủ, tính năng
động, sáng tạo, đoàn kết của các chủ thể văn hóa, xây dựng cơ chế phối hợp, phân cấp,
phân quyền trong tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về văn hóa. “Xây” luôn đi đôi với “chống”, cổ vũ, động viên nhân tố
mới, điển hình tiên tiến; kiên quyết đấu tranh đẩy lùi cái xấu, các ác, cái tiêu cực tha hóa
con người, ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
thứ sáu: Nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết là xây dựng văn hóa trong chính trị, trong
kinh tế, xã hội, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa"; xây dựng tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội thực sự trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh.

giải pháp
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về vị trí, vai trò của
phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững đất nước;
xác định phát triển văn hoá và xây dựng con người là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy
đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn
hoá và xây dựng con người với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
từng ngành, vùng và địa phương, từng cơ quan, đơn vị.
Phát huy năng lực, trách nhiệm người đứng đầu trong việc phát triển văn hoá, xây dựng
con người. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân nhận thức, vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo quan điểm xây dựng và phát triển
văn hóa, con người trước yêu cầu mới.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý đối với hoạt động lãnh đạo,
quản lý văn hóa; nhất là trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hoá,
xây dựng con người.
Thứ hai, tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hoá và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia
đình Việt Nam trong thời kỳ mới.
Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Chăm lo công tác
giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Hướng các hoạt động văn
hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, nhân
sinh quan tiến bộ, nhân văn, hướng tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo
đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Thực hiện
chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành,
nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy vai trò của
văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách, lối sống của con
người.
Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với
phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Khơi
dậy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, đồng thời
đấu tranh phê phán, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, mê tín, dị đoan.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy quản lý
nhà nước về văn hoá theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, nhân văn, hiện đại. Nâng
cao chất lượng công tác dư luận xã hội và đánh giá sự hài lòng của người dân, chủ động
dự báo tình hình, kịp thời xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội. Tiếp tục thực hiện
đồng bộ quy hoạch phát triển, quản lý báo chí xuất bản; tăng cường định hướng và đề cao
sứ mệnh, trách nhiệm, nâng cao chất lượng hoạt động của báo chí, các trang tin điện tử;
tăng cường định hướng thông tin tuyên truyền, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân lợi
dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc sự thật lịch sử, văn hóa dân tộc.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa, văn nghệ, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các
lĩnh vực then chốt, đặc thù. Xây dựng chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ văn hoá, văn
nghệ, khoa học phù hợp, có trình độ chuyên môn cao, năng lực, phẩm chất bảo đảm ở tất
cả các cấp.
Đầu tư phát triển các trường văn hoá, nghệ thuật trên cả nước theo định hướng mới, khoa
học, hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hỗ trợ đào
tạo nghệ thuật khó, hiếm, đỉnh cao, nghệ thuật truyền thống.
Thứ năm, xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế, đặc biệt là văn hóa trong Đảng
trở thành tấm gương đạo đức cho xã hội, văn hóa doanh nghiệp trở thành hệ điều tiết cho
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các
đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh. Trong đó, trọng tâm là củng cố, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng,
thực hiện sâu, rộng văn hóa tự phê bình và phê bình trong Đảng, tăng cường rèn luyện
đạo đức công vụ cho mỗi cán bộ, đảng viên; coi trọng văn hóa nêu gương, văn hóa trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân trong Đảng.
Thứ sáu, phát triển thị trường văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa để đáp ứng
nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của người tiêu dùng và thị trường ngoài nước. Xây dựng,
bổ sung và hoàn thiện các cơ chế, chính sách có tính đột phá để phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa trong thời kỳ mới.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa gắn với
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại. Xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm dịch
vụ văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài. Tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc tế
tại Việt Nam trở thành các sự kiện thường niên, có uy tín khu vực và thế giới.
Thứ bảy, xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng
về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về
tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Tạo mọi điều kiện
để đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng, nghệ thuật, phản ánh
sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước.
Thứ tám, tập trung nguồn lực từ Nhà nước và các thành phần kinh tế đầu tư cho phát
triển văn hóa, xây dựng con người. Tăng đầu tư của Nhà nước cho văn hoá gắn với việc
sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước; Đẩy mạnh xã hội
hóa đúng hướng nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn
hóa, xây dựng con người.
Thứ chín, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hoá, xây dựng Việt Nam
thành điểm đến hấp dẫn về giao lưu văn hoá quốc tế, thực hiện đa dạng các hình thức văn
hóa đối ngoại, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú thêm văn hóa Việt
Nam.
Phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong
việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước, trở thành cầu nối quảng bá hình ảnh đất
nước, văn hóa, con người Việt Nam. Chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng
Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Chủ động đón
nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa
dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn
hóa.
2/ Nội dung xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay qua các Nghị
quyết hội nghị TW của Đảng ta
Nghị quyết hội nghị TW VIII
Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước
và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn
bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng
đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên
đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ
đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
A- Những quan điểm chỉ đạo cơ bản
1-Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội
Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng
tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng,
văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hoá là kết quả của kinh tế đồng thời là
động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống
và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương,
…biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
2- Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì
con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong
mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không
chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển
tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, y chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý
thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống…Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thụ có chọn lọc
những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi
liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
3- Nền văn hoá Việt Nam là nên văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam
Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng.
Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và
củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng
văn hoá của các dân tộc anh em.
4- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá nước nhà. Công nhân, nông
dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí
thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hoá.
5- Văn hoá là một mặt trân; xây dựng, phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những
giá trị văn hoá mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống
của toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một
quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc
đó, “xây” đi đôi với “chống”, lấy “xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển
những di sản văn hoá quí báu của dân tộc, tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới, sáng
tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ
tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hoá
để thực hiện “diễn biến hoà bình”.
B - NHỮNG NHIỆM VỤ CỤ THỂ
1- Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức
tính sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân
thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. - Có lối sống lành mạnh, nếp
sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước
của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. - Lao động chăm chỉ
với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân,
gia đình, tập thể và xã hội. - Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên
môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
2- Xây dựng môi trường văn hoá
Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí
nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội..., các vùng dân cư (đô thị,
nông thôn, miền núi...) đời sống văn hoá lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hoá đa
dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân.
Gìn giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò
gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình. Xây dựng mối quan hệ
khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã,
phường văn hoá, nâng cao tính tự quản của cộng động dân cư trong công cuộc xây dựng
nếp sống văn minh.
Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hoá giữa các trung tâm đô thị và nông thôn,
giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải
đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.
Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá ở
cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường
hoạt động của các tổ chức văn hoá, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần
chúng hoạt động văn hoá, nghệ thuật.hội.
3- Phát triển sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật
Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật
cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu sắc xây dựng con người.
Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì mục
đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ các khuynh
hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính.
Hướng văn nghệ nước ta phản ánh hiện thực sinh động, chân thật và sâu sắc sự nghiệp
của nhân dân trong cách mạng và kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc cũng như tái hiện lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc. Đặc biệt khuyến
khích các tác phẩm về công cuộc đổi mới thể hiện nổi bật những nhân tố tích cực trong
xã hội, những nhân vật tiêu biểu của thời đại. Cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan
hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên; phê phán
những thói hư tật xấu, lên ái cái ác, cái thấp hèn. Sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ
thuật cho thiếu niên, nhi đồng với hình thức, nội dung thích hợp; nghiêm cấm xuất bản
loại sách kích thích bạo lực ở trẻ em.
Phát huy vai trò thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận xã hội phê bình văn học, nghệ
thuật. Bảo đảm tự do sáng tác đi đôi với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã
hội của văn nghệ sĩ, các nhà văn hoá. Nâng cao chất lượng, phát huy tác dụng của nghiên
cứu, lý luận.
Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ của Đảng.
Không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ thuật của công
chúng, đặc biệt quan tâm tầng lớp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Tạo điều kiện để nhân
dân tham gia tích cực sáng tạo và phê bình, được hưởng thụ ngày càng nhiều tác phẩm
văn nghệ có giá trị trong nước và ngoài nước.
Chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho văn nghệ
sĩ. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền
tác giả.
Liên hiệp văn học, nghệ thuật Việt Nam (bao gồm các hội sáng tạo văn học, nghệ
thuật ở trung ương) và các hội văn nghệ ở các tỉnh, thành phố là những tổ chức chính trị -
xã hội nghề nghiệp do Đảng lãnh đạo có bộ máy chuyên trách gọn nhẹ, có sự tài trợ của
Nhà nước về kính phí.
4- Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá

Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân
tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Hết sức coi trọng bảo tồn,
kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân gian), văn hoá cách
mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể.

Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.

5- Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục - đào tạo
và khoa học - công nghệ. Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm, nghĩa
vụ công dân, lòng yếu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hoá,
lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đồ
của đất nước, bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thụ tinh
hoa văn hoá nhân loại.
Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giảng viên và tu chỉnh hệ thống sách giáo khoa, nâng cao
chất lượng giảng dạy các bộ môn ngữ văn, lích sử, chính trị, pháp luật, đạo đức; giảng
dạy nhạc và họa ở các trường phổ thông. Hoạt động khoa học xã hội - nhân văn, khoa học
tự nhiên và công nghệ phải góp phần đắc lực giải quyết các vấn đề đặt ra trên lĩnh vực
văn hóa, thông tin, văn học, nghệ thuật.
6- Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng
Củng cố, xây dựng, phát triển, từng bước hiện đại hóa hệ thống thông tin đại chúng.
Sắp xếp lại và quy hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh, thông tấn, báo chí, xuất
bản, thông tin mạng nhằm tăng hiệu quả thôngb tin, tránh lãng phí; phối hợp hoạt động
của các loại hình thông tin, báo chí, giữa thông tin, báo chí với các lĩnh vực văn hóa -
nghệ thuật.
Xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp đặc điểm
nước ta và xu thế phát triển thông
Đẩy mạnh thông tin đối ngoại. Tận dụng thành tựu của mạng Internet để giới thiệu
công cuộc đổi mới và văn hóa Việt Nam với thế giới, đồng thời có biện pháp hiệu quả
ngăn chặn, hạn chế tác dụng tiêu cực qua mạng Internet cũng như qua các phương tiện
thông thin khác.
Không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghề nghiệp, chất lượng tư tưởng, văn hóa
của hệ thống truyền thông đại chúng. Khắc phục xu hướng thương mại hóa trong hoạt
động báo chí, xuất bản.
Chăm lo đặc biệt về định hướng chính trị, tư tưởng, văn hóa, cũng như về kỹ thuật hiện
đại đối với truyền hình là loại hình báo
7- Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số
“Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển
những giá trị mới về văn hoá, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số.
Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn
ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học
tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện, bồi
dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn học nghệ thuật là
người dân tộc thiểu số.
Ưu tiên tài trợ cho các tác giả dân tộc thiểu số có tài năng sáng tạo các tác phẩm về đề
tài dân tộc và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số và
tạo điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương. Phát huy tài
năng các nghệ nhân.
Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hoá, văn học,
nghệ thuật các dân tộc thiểu số.chí có ưu Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá,
mở rộng mạng lưới thông tin ở vùng dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, sớm giảm tỉ
lệ hộ đói nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, xoá mù chữ, nâng cao dân trí, xoá bỏ hủ
tục.
8- Chính sách văn hóa đối với tôn giáo
Tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của dân, bảo đảm cho các tôn giáo
hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng pháp luật, nghiêm cấm xâm phạm tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện…trong tôn giáo, đồng thời tuyên
truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan; chống việc lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng
thực hiện ý đồ chính trị xấu.
Chăm lo phát triển kinh tế - xã hội; giúp đỡ đồng bào theo đạo xóa đói giảm nghèo,
nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, xây dựng môi trường văn hóa, thực hiện tốt trách
nhiệm công dân đối với Tổ quốc.có sức thu hút công chúng đông đảo.
9. Mổ rộng hợp tác quốc tế về văn hóa
Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới; tiếp thu
có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài. Phổ biến những kinh
nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các nước. Ngăn ngừa sự xâm nhập các sản
phẩm văn hóa phản động, đồi trụy.
Giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước nhà, thu nhận
thong tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng yêu nước, tự tôn dân tộc,
giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào
công cuộc xây dựng đất nướ
10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế
- Củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý có hiệu quả của nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân và lực lượng những
người hoạt động văn hóa, tạo nhiều sản phẩm và sinh hoạt văn hóa phong phú, đa dạng,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa, sắp xếp hợp lý các cơ quan
hành chính, các đơn vị sự nghiệp và kinh doanh, nâng cấp các đơn vị văn hóa, nghệ thuật
trọng điểm, tạo chất lượng mới cho toàn ngành.
- Thực hiện khẩu hiệu ‘Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”, hình thành các hình
thức sáng tạo và tham gia hoạt động văn hóa của các tập thể, cá nhân trong khuôn khổ
luật pháp và chính sách. Khuyến khích các hình thúc bảo trợ văn hóa.
- Xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở.
- Hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện
của cơ chế thị trường, ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng
mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
- Xác định nhiệm vụ cấp bách là đến năm 2000 đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây
dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội, trước hết
trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia
đình.
Kiên quyết loại bỏ những phần tử thoái hoá biến chất về đạo đức ra khỏi tổ chức
Đảng và cơ quan nhà nước. Nghiêm trị bọn tội phạm. Ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động
phản văn hoá, các sản phẩm văn hoá độc hại.
Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, các tệ
nạn cờ bạc, ma tuý, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng.Cải thiện đời sống văn
hoá ở những vùng đời sống văn hoá còn quá thấp kém, nhất là những vùng sâu, vùng xa,
vùng núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết
yếu nhất về đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.

Nghị quyết hội nghị TW IX

Mục tiêu chung


Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Mục tiêu cụ thể
- Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo
môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương
tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng
đồng, xã hội và đất nước.
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản,
khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò
của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa,
làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn
thiện nhân cách.
- Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây
dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công
nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam.
- Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị
và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy
lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.
II- QUAN ĐIỂM
1-Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát
triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội.
2- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc
trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
3- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng
con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính
cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng
tạo.
4 - Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của
gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý
đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
5- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức
giữ vai trò quan trọng.
III- NHIỆM VỤ
1- xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là
bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và
nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp
luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn
hóa dân tộc.
Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng
con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây
dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập. Đúc
kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người"; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích
cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản
thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích
cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ
cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn
học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người.
Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của
cộng đồng.
Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất
với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống
các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền
văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn
chế của con người Việt Nam.
2- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi
trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về
nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi
trường sinh thái. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công
dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội.
Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình
thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp
sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mô
hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con
cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu
nhau. Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo
dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo
dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa
bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn
minh, đạt chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ
sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới,
việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa,
phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa".
Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng
miền, giữa các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng
bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa.
Tạo điều kiện để nhân dân chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa
cộng đồng.
Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng;
khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân
đạo, nhân văn, tiến bộ, "tốt đời, đẹp đạo". Khuyến khích các hoạt động "đền
ơn đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn", từ thiện, nhân đạo.
3- Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế
Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan
nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận
tuỵ, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với
nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ
cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân.
Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên.
Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người
thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập môi
trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ,
hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây
dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng
pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và
bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các
doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt
Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.

4- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa
Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc.
Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di
sản v ă n hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch
sử-văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế;
gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và
bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát
huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất
nước và con người Việt Nam.
Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; khắc phục tình
trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các
dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống;
các giá trị văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng.
Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm
tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ,
tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và
công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công
trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới
đất nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt
Nam.
Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật nhằm
tập hợp, tạo điều kiện để văn nghệ sĩ hoạt động tích cực, hiệu quả. Khuyến
khích nhân dân sáng tạo, trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc.
Có cơ chế khuyến khích văn nghệ sĩ, nghệ nhân phát huy tài năng, năng
lực sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật với ý thức đầy đủ về trách
nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình. Trọng dụng, tôn vinh trí
thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở cống hiến cho đất nước. Chú trọng
phát triển năng khiếu và tài năng trẻ.
Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo
đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin
trên mạng Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân,
nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan báo chí, truyền
thông chủ lực. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục
đích, đối tượng phục vụ chủ yếu; nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa
học, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
5- Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị
trường văn hóa
Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những
tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu
sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa. Tạo thuận
lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các
nguồn lực xã hội để phát triển.
Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây
dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa.
Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và
các quyền liên quan trong toàn xã hội. Củng cố và tăng cường hiệu quả
hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ quan thực thi quyền tác giả từ
Trung ương đến địa phương.
6- Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại
Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các
hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào
chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa
thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc.
Phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở
nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước, trở thành
cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Chú
trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở
nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Xây dựng một số trung tâm
văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa
Việt Nam ra nước ngoài.
Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ
gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh
hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng
bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH …..thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội

Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ;
làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát
huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm
mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng
định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu
tranh chống những biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do
sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại,
thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân
tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã
hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong
việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách
nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh
thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào
lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn
luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp
tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt
Nam.
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con
người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao
chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập
quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã
hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc
độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm
mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức,
vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công
nghệ gắn với phát triển văn hoá và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả
tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính
sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công
nghệ.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa
vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm
với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch
và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với
quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng
hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia.
Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy
mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo
đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý
phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi
lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống
hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội.
Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn.
Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu
nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm
dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn
thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công
với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu
niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết
tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của
tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số.
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân
cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng
tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Xây dựng đội
ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi, có trách nhiệm xã hội, tâm
huyết với đất nước và dân tộc. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng
sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự
tiến bộ của phụ nữ. Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp
dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc
dân tộc, chấp hành tốt pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây
dựng đất nước.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân
tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ,
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính
sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các
dân tộc thiểu số.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi
hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn
hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

You might also like