Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 6
Nhóm 6
ĐỀ TÀI:
ĐẶC TRƯNG & NHỮNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU ĐỂ HOÀN THIỆN THỂ
CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một mô hình
kinh tế kết hợp giữa yếu tố thị trường và yếu tố xã hội chủ nghĩa. Đây là một
hệ thống kinh tế có sự tham gia của nền kinh tế thị trường, nhưng đồng thời
chính phủ và các cơ quan quản lý có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh
và can thiệp để đảm bảo sự công bằng và bền vững trong phát triển kinh tế.
Chọn đề tài này có thể do quan tâm đến sự phát triển kinh tế và xã hội của
Việt Nam, và nhận thức về tầm quan trọng của việc kết hợp giữa yếu tố thị
trường và xã hội chủ nghĩa trong mô hình kinh tế. Đồng thời, nghiên cứu về
cách thức hoàn thiện thể chế kinh tế nhằm đảm bảo sự công bằng, bền vững
và phát triển là một hướng nghiên cứu có ý nghĩa trong bối cảnh biến đổi kinh
tế và xã hội hiện nay.
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của
lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn
trên con đường phát triển và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế
thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh.
Nấc thang cao hơn : chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế
thị trường phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh
tế - xã hội.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, là kết quả phát
triển lâu dài của lực lượng sản xuất và xã hội hóa các quan hệ kinh tế, trải qua
các giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai, kinh tế thị trưng tự do và kinh tế thị
trường hiện đại. Tuy nhiên, không có mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi
quốc gia và mọi giai đoạn phát triển. Mỗi nước có những mô hình kinh tế thị
trường khác nhau.
Ví dụ: Mô hình kinh tế thị trường tự do mới ở Hoa Kỳ, kinh tế thị trường xã hội
ở Cộng hòa liên bang Đức, kinh tế thị trường ở Nhật Bản,…
=> Kinh tế thị trường vừa có những đặc trưng tất yếu không thể thiếu của nền
kinh tế thị trường chung vừa có những đặc trưng phản ánh điều kiện lịch sử,
chính trị, kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành
theo các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng hước xác
lập một xã hội mà ở đỏ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công hằng, văn minh; có
sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
1.2. Tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.2.1. Tại sao lại phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam
Là do phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường
lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sự tất yếu đó xuất phát từ những lý do cơ bản
sau đây:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (nghĩa
là phù hợp với tính quy luật phát triển khách quan).
Hai là, do tính ưu việt của KTTT trong thúc đấy phát triển.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
1.2.2. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp
với tính quy luật phát triển khách quan.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao.
Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tể hang hóa tự
hình thành. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt
tới trình độ nền kinh tế thị trường. Đó là tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều
kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa luồn tồn tại. Do đó, sự
hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Mong muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là
mong muốn chung của các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc định hướng tới
xác lập những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và
tất yếu trong phát triển. Song, trong sự tồn tại hiện thực sẽ không thể có một nền
kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi hình thái kinh tế - xã hội,
mọi quốc gia, dân tộc.
Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì không chỉ dừng lại ở kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường định hưởng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là phù hợp với xu thế của
thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc, sự lựa chọn đó không hề mâu thuẫn
với tiến trình phát triển của đất nước. Đây thực sự là bước đi, cách làm mới hiện
nay của các dân tộc, quốc gia đang trên con đường hướng tới xã hội xã hội chủ
nghĩa.
1.2.3. Tính ưu việt của KTTT trong thúc đẩy phát triển
Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương
thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các mô hình
kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị
trường nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ
thuật – công nghệ, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm và giá
thành hạ. Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường không hề mâu
thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế thị trường, sử dụng kinh tế thị trường
làm phương tiện đê thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả,
thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Tuy nhiên,trong quá trình phát triển kinh tế thị trường cần chú
ý tới những thất bại và khuyếttật của thị trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp
thời của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định: Phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn cách làm, bước đi
đúng quy luật kinh tế khách quan, là phương tiện cần thiết để đi đến mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội nhanh và có hiệu quả.
1.2.4. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế thị
trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong muốn dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công băng, văn minh.
Trên thế giới có nhiều mồ hình kinh tế thị trường, nhưng việc phát triển
mà dẫn tới dân không giàu, nước không mạnh, không dân chủ, kém văn
minh thì không ai mong muốn. Thế giới cũng vậy và nhân dân Việt Nam cũng
vậy. Cho nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực hóa khát
vọng như vậy, việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới những
giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.
Mặt khác, cần phải khẳng định rằng: kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu
dài ở nước ta là một tất yếu khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng
và phát triển. Bởi lẽ sự tồn tại hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do
những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan sinh ra nó quy đinh.
Sở hữu: được hiểu là quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội trên cơ sở chiêm hữu nguồn lực của quá
trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng của quá trình sản xuất hay tái sản
xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định.
Khác với việc chiếm hữu các sản phẩm tự nhiên, sở hữu phản ánh việc
chiếm hữu trước hết các yếu tố tiền đề (các nguồn lực) của sản xuất, kế đến là
chiếm hữu kết quả của lao động trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội.Trong sự phát triển của các xã hội khác nhau, đối tượng sở hữu trong các
nấc thang phát triển có thế là nô lệ, có thể là ruộng đất, có thể là tư bản, có thể
là trí tuệ.
Cơ sở sâu xa cho sự hình thành sở hữu hiện thực trước hết, xuất phát từ
quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, sở hữu chịu sự quy định trực tiếp của
trình độ lực lượng sản xuất và trong đó xã hội ấy đang vận động.
KT nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
1.3.3. Về quan hệ quản lý nền kinh tế.
Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý nhà nước, với mục tiêu
dùng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản VN.
Đảng lãnh đạo thông qua cương lĩnh, đường lối, chủ trương, quyết sách.
Nhà nước quản lý thông qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, quy
hoạch...
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện
phân phối công bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều
kiện phát triển của mọi chủ thể kinh tế (phân phối đầu vào) để tiến tới xây dựng
xã hội mọi người đều giàu có, đồng thời phân phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Có nhiều hình thức phân phối. Trong đó, phân phối theo lao động và hiệu
quả kinh tế, phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối phản ánh
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sơ hữu về tư
liệu sản xuất. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế
nhiều thành phần với sự đa dạng hóa các loại hình sở hữu và do vậy thích ứng
với nó là các loại hình phân phối khác nhau (cả đầu vào và đầu ra của các quá
trình kinh tế).
1.3.5. Về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải thực
hiện gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là đặc trưng cơ
bản, một thuộc tính quan trọng mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bảo đảm cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản như: giáo dục, y tế, việc làm, ...
Nhà nước vừa phải quan tâm đầu tư cho nhân dân để đem lại lợi ích
chung cho xã hội và mỗi người.
=> Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với
bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường
hiện đại, văn minh; tuy nhiên nó còn bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục
và hoàn thiện.
2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Khái niệm thể chế:
Thể chế là những quy định luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người
phải tuân theo hay: Thể chế là những quy tắc, luật lệ, bộ máy quản lý và cơ chế
vận hành nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ xã
hội.
Các thành tố cốt lõi của một thể chế nhất định:
1) Các luật lệ, quy tắc, chuẩn mực (kể cả tập quán và chuẩn mực xã hội...)
do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận.
2) Các tổ chức có chức năng xây dựng và đảm bảo thực hiện một loại thể
chế nhất định.
3) Cách thức, biện pháp được vận dụng để thực thi thể chế.
4) Phạm vi, giới hạn phát huy tác dụng của thể chế đó.
Thể chế kinh tế chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa:
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hệ thống đường
lối, chù trương chiến lược, hệ thống luật pháp, chính sách quy định xác lập cơ
chế vận hành, điều chỉnh chức năng, hoạt động, mục tiêu, phương thức hoạt
động, các quan hệ lợi ích của các tổ chức, các chủ thế kinh tể nhằm hướng tới
xác lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường hiện đại theo hướng
góp phần thúc đẩy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Các thành tố cấu thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
và lý do phải thực hiện hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa:
Thành tố cấu thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Một là, các bộ quy tắc, chế định, luật pháp.
Hai là, các chủ thể tham gia kinh tế thị trường định hướng XHCN: Nhà
nước - Doanh nghiệp, các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh - Các tổ chức
xã hội.
Ba là, các cơ chế vận hành kinh tế thị trường định hướng XHCN Cơ chế
cạnh tranh của thị trường - Cơ chế phân cấp - Cơ chế phối hợp - Cơ chế tham
gia Cơ chế theo dõi, đánh giá.
Bốn là, thể chế về các yểu tố thị trường và các thị trường.
Lý do phải thực hiện hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, do thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn chưa đồng bộ do mới được hình thành và phát triển, cho nên, việc tiếp tục
hoàn thiện thể chế là yêu cầu mang tính khách quan
Thứ hai, hệ thống thể chế còn chưa đầy đủ do xuất phát từ yêu cầu nâng
cao năng lực quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chù nghĩa
Thứ ba, hệ thống thể chế còn kém hiệu lực, hiệu quả, kém đay đủ các yểu
tố thị trường và các loại thị trường do rong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam còn nhiều khiếm khuyết, hệ thống thể chế vừa chưa đủ
mạnh, vừa hiệu quả thực thi chưa cao.
Đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số hạn chế trong thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủng
nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính
sách còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; chưa tạo được đột
phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Hai là, hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp trong nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã
hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính còn chậm.
Ba là, môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thật sự thông thoáng mức độ
minh bạch, ổn định chưa cao. Quyền tự do kinh doanh chưa được tổn trọng đầy
đủ. Quyền sở hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh.
Bốn là, một số thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn
nhiều vướng mắc, kém hiệu quả; giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa
phù hợp với cơ chế thị trường.
Năm là, thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn
nhiều bất cập. Bẩt bình đẳng xã hội, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng gia
tăng. Xóa đói, giảm nghèo còn chưa bền vững. Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu
quả chưa cao, thiếu chủ động phòng ngừa và xử lý tranh chấp thương mại quốc
tế.
Sáu là, đối mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu đối mới về
kinh tế; cơ chế kiểm soát quyền lực, phân công, phân cấp còn nhiều bất cập.
Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kỉnh tế thịtrường và
hội nhập quốc tế; hiệu lực, hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
2.2. Nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế.
Để hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường đinh hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần thực hiện các nội dung sau:
Một là: Thể chế hóa đầy đủ quyền tài sản (quyền sở hữu, quyền sử
dụng,quyền định đoạt và hưởng lợi từ tài sản) của nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành
chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt; bảo
đảm hiệu lựct hực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản.
Hai là: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai để huy động và sử dụng
hiệu quả đất đai, khắc phục tình trạng sử dụng đất lãng phí.
Ba là: Hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên.
Bốn là: Hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, sử dụng có hiệu
quả các tài sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản đê thực
hiện mục tiêu chính sách xã hội.
Năm là: Hoàn thiện hệ thống thể chế liên quan đến sở hữu trí tuệ theo
hướng khuyến khích đối mới, sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy,
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Sáu là: Hoàn thiện khung pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp
dẫn sự theo hướng thống nhất, đồng bộ. Phát triển hệ thống đăng ký các loại tài
sản, nhất là bất động sản.
Bảy là: Hoàn thiện thể chế cho sự phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp.
Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường:
Một là: Hoàn thiện thể chế chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường.
Các yếu tố thị trường như hàng hóa, giá cả, cạnh tranh, cung cầu ... cần phải
được vận hành theo nguyên tắc thể chế kinh tế thị trường. Muốn vậy, hệ thống
thể chế về giá, về thúc đẩy cạnh tranh, về chất lượng hàng hóa, dịch vụ... cần
phải được hoàn thiện để thúc đẩy sự hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường.
Hai là: Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vạn hành thông suốt các
loại thị trường.
Các loại thị trường cơ bản như thị trường hàng hóa, thị trường vốn, thị trường
công nghệ, thị trường hàng hóa sức lao động... cần phải được hoàn thiện. Đảm
bảo sự vận hành thông suốt, phát huy tác động tích cực, cộng hưởng của các thị
trường đối với sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Hoàn thiện thể chế để đảm bảo gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo
tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng hệ thống thể chế để có thể kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế
nhanh và bền vững với phát triển xã hội bền vững, thực hiện tiên bộ xã hội,
tạo cơ hội cho mọi thành viên trong xã hội tham gia và hưởng thụ công băng
thành quả của quá trình phát triển.
Hoàn thiện thể chế thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng những nước có nền kinh tể thị
trường phát triển nhanh đều là những nước biết mở cửa, hội nhập. Theo đó,
xây dựng và hoàn thiện thể chế về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện
nay cần tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Một là: Tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật và các thể
chế liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Hai là: Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa
trong hợp tác kinh tế quốc tế, không để bị lệ thuộc vào một số ít thị trường.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp trong
nước. Xây dựng và thực hiện các cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế để phản
ứng nhanh nhạy trước các diễn biến bất lợi trên thị trường thế giới và bảo vệ lợi
ích quốc gia – dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển
của đất nước.
Hoàn thiện thể chế nâng cao năng lực hệ thống chính trị.
Xây dụng hệ thống thể chế đồng bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thế chế kinh tế của nhà nước, phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phát triển thành công kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam phải phát huỷ được sức mạnh về trí tuệ, nguồn lực và sự đồng
thuận của toàn dân tộc. Muốn vậy cần phải thực hiện nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, vai trỏ của nhà nước và phát huy vai trò của nhân
dân.
CHƯƠNG 3: CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.5. Giải quyết những mâu thuẫn trong mối quan hệ lợi ích kinh tế:
Mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được
giải quyết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế.
Giải pháp: Ngăn ngừa là chính. Các cơ quan chức năng cần thường xuyên
quan tâm, phát hiện mâu thuẫn, chuẩn bị các giải pháp đối phó.
Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: phải có sự tham gia của các bên liên
quan, có nhân nhượng, phải đặt lợi ích của đất nước lên trên hết.
Ví dụ: Dịch bệnh kéo dài 2 năm ròng rã khiến nhiều người dân thất nghiệp,
Doanh nghiệp thua lỗ, cắt giảm lương của nhân viên dẫn đến nhân viên bỏ việc
rất nhiều.
Chính phủ cần kiệp thời có các biện pháp hổ trợ về tại chính để giúp người
dân an tâm làm việc, doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch
CHƯƠNG 4: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ HOÀN THIỆN CẢI CÁCH
THỂ CHẾ KINH TẾ Ở VIỆT NAM_ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
4.1. Khái quát:
- Trước khi đi vào việc đề ra các giải pháp để hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhóm muốn đưa tới
các bạn cái nhìn khái quát nhất về mô hình thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam do Đảng ta khởi
xướng và chính thức khẳng định từ đại hội VI cuả Đảng cộng sản Việt
Nam năm 1986, đánh dấu sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Hay hiểu đơn giản, kinh tế thị trường trước tiên là phải tôn trọng đầy đủ
các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là có
công cụ điều tiết và chính sách phân phối để bảo đảm công bằng và tiến
bộ xã hội.
Đây hoàn toàn là một thể chế tích cực có tác dụng tạo ra môi trường
cạnh tranh bình đẳng, trong đó không những các pháp nhân kinh tế được
tôn trọng mà các cá nhân kinh tế được tạo điều kiện để phát triển hết năng
lực của mình, không mộtai bị bỏ lại đằng sau trên con đường phát triển.
Điều này đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa đảm bảo thực hiện
công bằng xã hội ngày càng tốt hơn (so sánh sự đảm bảo công bằng này
tốt hơn so vs hình thức kinh tế thị trường định hướng tư bản).
- Thực chất cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận
rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung
rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đến hội nghị
lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị
26
quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
- Việc Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN
xuất phát từ thực tế là mô hình kinh tế CNXH cổ điển, đặc trưng bởi hệ
thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sau nhiều thập kỷ tồn tại, đã tỏ ra
không còn sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế.
Trong khi đó, kinh tế thị trường với tư cách là một phương thức sản xuất,
đã được chứng minh là có thể được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát
triển và thịnh vượng chung của các quốc gia, dân tộc, chứ không phải chỉ
là tài sản riêng của CNTB. Tuy nhiên, thực tế phát triển của các nền kinh
tế thị trường (nhất là các nước theo mô hình kinh tế thị trường “thuần
chủng”) ngày càng cho thấy rõ chính trong quá trình phát triển của mình,
kinh tế thị trường luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ thất bại, bởi nó tỏ ra
mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị truyền thống, 1àm tăng tính bất ổn của
xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giầu – nghèo. Vì vậy, vai trò Nhà nước
như một chủ thể xã hội sáng tạo và hùng mạnh để quản lý các quá trình
kinh tế vĩ mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng
yêu cầu phát triển, cần phải được khai thác có hiệu quả. Vì vậy, các thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được xây dựng và
thực thi chính là nhằm mục đích làm cho “thị trường” và “Nhà nước” trở
thành hai yếu tố bổ sung cho nhau, chứ không phải thay thế, loại trừ
nhau.
4.2. Thực tiễn quá trình cải cách, đổi mới thể chế kinh tế ở nước ta:
4.2.1 Thành tựu:
a) Về phát triển kinh tế:
- Ngay từ khi công cuộc cải cách kinh tế mới bắt đầu, Việt Nam đã
xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật dưới dạng Bộ luật,
Luật và Pháp lệnh liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế thị trường
và khuyến khích kinh doanh, khung luật pháp của nền kinh tế thị
trường đã dần được định hình và ngày càng hoàn thiện hơn:
+ Tạo dựng khung pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do kinh
doanh, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khai thác hiệu quả
nguồn lực xã hội.
+ Khung pháp lý về thị trường hàng hoá, dịch vụ đã và đang tạo điều
kiện cho cơ chế thị trườngvận hành có hiệu quả.
+Hình thành khung luật pháp cho việc xây dựng và vận hành thị
trường các yếu tố sản xuất quan trọng nhất.
27
+ Tạo dựng và làm hài hòa hệ thống luật pháp nhằm thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh.
Cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội sâu rộng tiềm ẩn từ cuối những năm 1970,
bùng phát trong những năm 1980, kéo dài đến đầu những năm 1990 của thế kỷ
trước đã khiến tăng trưởng kinh tế chậm, có năm bị suy thoái. GDP bình quân
đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái, nếu năm 1985 còn đạt 233,3
USD, thì năm 1988 chỉ còn 86 USD/người, thuộc loại thấp nhất thế giới. Lạm
phát và nhập siêu rất cao; tỷ lệ thất nghiệp năm 1989 lên đến trên 13%...Nhờ đổi
mới, mở cửa hội nhập (bắt đầu từ năm 1986), cơ cấu thành phần kinh tế đã có
sựchuyển dịch khá rõ. Việt Nam đã đưa GDP tăng trưởng liên tục từ năm 1986
đến 1996 với mức tăng trưởng bìnhquân 6,6%/năm. Lạm phát từ 3 con số được
đưa về 12,7% năm 1995 và 4,5% năm 1996.
b) Về phát triển các mặt xã hội:
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu
tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các
cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân
cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo củanhân dân.
GDP bình quân đầu người chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những
nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó,
giai đoạn 2005 2010 đạt 1.168 USD/người/năm, nước ta đã ra khỏi nhóm
nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình.
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung
bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có
công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình
hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó
lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp
phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40%
năm 2010.
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn
quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm
2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàngthế giới (WB) phối hợp với Tổng cục
Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực
phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống
29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn
28
thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm
2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra. Tại
cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam
và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổchức tại Hà Nội vào giữa
tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh
nhất khu vực Đông Nam Á.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về
loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả
nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính
đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung
học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối
những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng
năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học
tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính
sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ
cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm
chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong
các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có
năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có
trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về
công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở
rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng
lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn
khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương
ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực
hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống
chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi
hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập
kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995;
0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc
xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDIcủa Việt Nam năm 2007
29
vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước
được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực
hiện tiến bộ và công bằngxã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP
bình quân đầu người cao hơn Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát
triển con người (HDI) của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng
lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi
thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh
tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh
được bảo đảm và ổn định. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ,
động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước với những bước tiến cao hơn.
4.2.2. Chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Bộ Chính trị ngày 12.9 tổ chức cuộc họp cho ý kiến về việc sơ kết năm
năm thực hiện Nghị quyết số 21 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá Kết quả triển khai, thực thi
thể chế kinh tế thị trường còn chưa có đột phá lớn trong huy động, phân bổ và
sử dụng hiệu quả nguồn lực phát triển. Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện
đầy đủ vai trò nòng cốt trên thực tế. Sự phát triển về quy mô, cơ cấu, trình độ
các loại thị trường như thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị
trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường khoa học - công nghệ vẫn
còn nhiều bất cập. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; vẫn còn tình
trạng bao cấp, xin - cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách.
quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chậm,
chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Hệ thống luật
pháp, cơ chế chính sách chưa đầy đủ, vẫn tồn tại những điểm chưa đồng bộ và
thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc,
30
vấn đề sở hữu, quản lý, phân phối ở các doanh nghiệp nhà nước chưa được giải
quyết tốt, gây khó khăn cho phát triển, làm thất thoát vốn...
Chính từ những điểm khó khăn và hạn chế đó trong công cuộc cải cách,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam mà từ đó có một vài giải pháp để khắc phục nhằm đẩy mạnh quá
trình hoàn thiện.
--HẾT--
31
CÁC NGUỒN THAM KHẢO
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 12, Chính trị quốc gia, 1995, tr. 860
C.Mác- Ph.Angghen, Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, H, tr. 376
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội-2000, tr.5
C.Mac – Ph.Ăngghen (1995), Toàn Tập, Tập 8, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.28
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê nin (Dành cho bậc đại học hệkhông
chuyên lý luận chính trị) (2021)
32