You are on page 1of 3

불편한 편의점

Cửa hàng tiện lợi bất tiện

염영숙 여사가 가방 안에 파우치가 없다는 걸 알았을 때 기차는 평택 부근을 지나고


있었다. 문제는 어디서 그것을 잃어버렸는지 도무지 기억이 나지 않는다는 것이었다.
파우치를 잃었다는 현실보다 감퇴되는 기억력이 그녀를 더욱 불안하게 만들었다.
어느 새 식은땀을 흘리며 그녀는 자신의 지난 행적을 필사적으로 떠올려보았다.
Khi bà Yeom Young-sook biết được việc không có túi đựng đồ nhỏ trong túi xách thì chuyến
xe lửa đã đi qua vùng lân cận của Pyeongtaek. Vấn đề là việc bà hoàn toàn không nhớ mình
đã đánh mất cái túi ở nơi nào. So với sự thật rằng bản thân đã làm mất túi nhỏ thì việc trí nhớ
bị giảm sút càng làm cho bà bất an hơn. Đột nhiên mồ hôi lạnh chảy ra và người phụ nữ gắng
sức nhớ lại vừa rồi của bản thân.
서울역에서 KTX 기차표를 끊을 때까지는 분명 파우치를 지니고 있었다. 그러니
파우치에 든 지갑에서 카드를 꺼내 표를 끊을 수 있었겠지. 이후 대합실 TV 앞에
앉아 24 시간 뉴스 채널을 보며 30 여 분간 기차를 기다렸다. 탑승하고는 가방을 안은
채 잠 시 잠이 들었고 깨어나 보니 모든 것은 그대로였다. 방금 전 휴대폰을 꺼내려고
가방 을 열었을 때 안에 있어야 할 파우치가 없는 것에 소스라치게 놀랐을 뿐이 었다.
지갑, 통장, 수첩 등 자신의 가장 중요한 것들이 담긴 파우치가 없다는 것에 그녀는
숨이 막힐 지경이었다.
Đến khi mua vé tàu KTX ở nhà ga Seoul rõ ràng bà vẫn còn giữ túi nhỏ. Nhưng chắc có lẽ bà
cũng lấy thẻ trong ví đựng trong túi trang điểm ra để mua vé tàu chứ nhỉ. Sau đó bà ngồi
trước TV ở phòng chờ rồi xem kênh tin tức 24h vừa ngồi đợi xe lửa trong hơn 30 phút. Lên
tàu thì bà vừa ôm cái túi vừa thiếp ngủ một chút rồi thức dậy nhưng mọi thứ vẫn như cũ. Mới
vừa nãy khi bà mở túi xách ra để lấy điện thoại thì chỉ cảm thấy giật mình hoảng sợ vì không
thấy túi nhỏ đáng lẽ phải ở bên trong đâu cả. Với việc không thấy cái túi đựng những món đồ
quan trọng của mình như ví tiền, sổ ngân hàng và sổ tay thì đương nhiên người phụ nữ như
muốn tắc thở.
염 여사는 자신이 타고 있는 기차의 속력에 뒤지지 않게 두뇌를 가동해야 했다. 차창
밖으로 빠르게 지나가버리는 풍경을 되돌리기라도 할 듯 기 억을 리와인드했다. 혼
잣말에다 다리를 떨며 골몰해 있는 그녀의 행동에 옆자리 중년 사내가 헛기침을
했다.
Bà Yeom phải động não không kém tốc độ của chuyến tàu bà đang đi. Những ký ức trong
đầu bà hiện lên nhanh như phong cảnh đang chạy ngược vun vút ở bên ngoài cửa sổ. Mỗi lần
nói một mình là bà lại run chân, người đàn ông trung niên ngồi ở vị trí bên cạnh đằng hắng
giọng với hành động miệt mài tìm kiếm của người phụ nữ.
그녀의 몰입을 방해한 건 옆자리 사내의 헛기침이 아니라 가방 안에서 울린 휴대폰
착신 음악이었다. 아바의 노래였는데 곡명이 떠오르지 않았다.「치키티타」였나「
댄싱퀸」이었나……, 아이고 준희야, 할머니가 진짜 치매 오려나 보다.
Không phải cái đằng hắng của người đàn ông làm cản trợ sự miệt mài của người phụ nữ mà
chính là tiếng nhạc báo có tin nhắn đến của điện thoại đang reo lên trong túi xách. Là một bài
hát của nhóm nhạc ABBA nhưng lại không nhớ được tên của bài hát. Là bài ‘Chiquitita’ hay
là bài ‘Dancing queen’ nhỉ.., aigoo Jun-hee à, chắc bà thật sự bị lãng trí rồi.
염 여사는 떨리는 손으로 가방 안 휴대폰을 꺼내고 나서야 곡명이「땡큐 포 더 뮤
직」이라는 것을 기억해냈다. 동시에 낯선 02 번호로 전화가 오는 것을 확인했다.
그녀는 심호흡을 한 뒤 전화를 받았다.
Chỉ khi bà Yeom lấy chiếc điện thoại ra từ trong túi xách với đôi tay run rẩy thì bà mới nhớ
ra tên của bài hát là ‘Thank you for the music’. Đồng thời bà thấy cuộc gọi đến là đầu số 02
xa lạ. Sau khi người phụ nữ hít một hơi thật sâu bà ấn nghe điện thoại.
“여보세요?”
상대방은 대답이 없었다. 다만 주변의 소음이 공공장소임을 짐작케 했다.
“Alô?”
Đối phương không trả lời. Tuy nhiên với âm thanh xung quanh bà đoán được đó là một nơi
công cộng đông người.
“누구세요?”
“염……영숙……이에요?”
사람의 목소리라기엔 너무나 거칠고 불분명했다. 마치 겨울잠을 끝낸 곰이 동굴에서
나와 처음 입을 열면 나올 법한 소리 였다.
“Cho hỏi ai thế?”
“Có phải là Yeom .. Young-sook không?”
Nếu nói là giọng nói của một người thì giọng nói này quá thô ráp và còn không rõ ràng nữa.
Là giọng nói của một con thú lần đầu tiên mở miệng sau khi kết thú kỳ ngủ đông đi ra khỏi
hang động vậy.
“예. 그런데요.”
“Vâng. Là tôi đây ạ.”
“지갑……요.”
“Là..cái ví.”
“맞아요. 주우신 분인가요? 어디시죠?”
“Đúng vậy. Cậu là người nhặt được phải không ạ? Đang ở đâu thế?”
“……서울.”
“…Seoul.”
“서울 어디요? 혹시 서울역 아닌가요?”
“Là chỗ nào ở Seoul vậy? Có phải là nhà ga Seoul không?”
“그쵸, 서울……역.”
“Đúng vậy, nhà ga…Seoul.”
그녀는 안도의 한숨을 휴대폰 옆으로 내쉰 뒤 목청을 가다듬었다.
Người phụ nữ sau khi thở ra một hơi an tâm ở bên cạnh điện thoại thì bà điều chỉnh giọng nói
lại.
“지갑 찾아주셔서 고맙습니다. 그런데 제가 지금 기차 안이고요, 다음 역에 내려 바로
돌아갈 테니까 좀 보관해주시거나 어디 맡겨주실 수 있나요? 사례는 제가 가는 대로
해드릴게요.”
“Cảm ơn vì đã tìm thấy ví của tôi. Nhưng bây giờ tôi đang ở trên xe lửa, nếu tôi xuống ở ga
tiếp theo rồi quay trở lại ngay nên là cậu có thể giữ nó giúp tôi hoặc là gửi lại ở đâu đó được
không ? Tôi sẽ cảm tạ cậu hậu hĩnh.”
“여기 있죠. ……갈 데도…… 없죠.”
“Tôi chỉ ở đây thôi. Không còn chỗ nào…để đi.”
“그래요? 알겠어요. 서울역 어디서 만날까요?”
“Vậy ư? Tôi biết rồi. Vậy chúng ta sẽ gặp nhau ở chỗ nào của ga Seoul?”
“고, 공항철도 가는 길…… GS 편의점……요.”
“Ở cửa hàng tiện lợi GS…trên đường đến tuyến đường ra sân bay.”
“고맙습니다. 빨리 갈게요.”
“Xin cảm ơn. Tôi sẽ đến đó thật nhanh.”
“천천히……와요.”
“Cứ đi… chậm chậm thôi.”
“알겠어요. 고맙습니다.”
“Tôi biết rồi. Xin cảm ơn.”
전화를 끊고 나자 기분이 묘했다. 휴대폰 너머로 들리는 동물의 음성 같은 어눌한
말투는 그가 노숙자임을 확신케 했다. 무엇보다 ‘갈 데도…… 없죠’라는 말뜻으로
보나, 공중전화가 분명한 02 번호로 보나 그는 휴대폰이 없는 노숙자가 분명 했다. 염
여 사는 잠시 긴장하지 않을 수 없었다. 지갑을 돌려준다는데도 뭔가 불안하고 다른
걸 요구할까 두려움이 번졌다.
Sau khi kết thúc cuộc gọi thì tâm trạng của bà cũng nhẹ nhõm hơn. Giọng nói lắp bắp như âm
thanh của loài động vật nghe được ở bên kia điện thoại chắc chắn người đó là người vô gia cư
rồi. Hơn hết với cách nói “không có chỗ…để đi”, hay với đầu số 02 rõ ràng là của điện thoại
công cộng thì chắc chắn người này là một người vô gia cư không có điện thoại di động.
Trong giây lát bà Yeom không thể không lo lắng. Dù đã nói là sẽ trả lại ví tiền cho bà nhưng
bà vẫn bất an về điều gì đó, bà sợ có lẽ nào người đó sẽ yêu cầu bà cái gì khác không.

You might also like