You are on page 1of 5

Hán nôm sơ sở

Câu 1: Suy nghĩ của anh chị về việc dạy


Hiện thực đã cho thấy chất lượng dạy và học môn Ngữ văn đã và đã và đang có dấu hiệu giảm
sút nghiêm trọng. Sau mỗi kì thi quan trọng báo chí lại cho đăng tải những bài viết chi chít lỗi
ngôn ngữ của thí sinh trong đó lỗi về dùng từ Hán Việt chiếm một phần không nhỏ. Điều này
chứng tỏ, kiến thức hán nôm đối với người giáo viên là rất quan trọng để có thể định hình truyền
tải được cho học sinh một cách chính xác.
Như chúng ta đã biết, vì đặc điểm của lịch sử dân tộc, tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Hán trong
một thời gian dài. Và hệ quả là cho đến ngày nay lượng từ Hán Việt tồn tại trong kho từ vựng
của chúng ta là khoảng hơn 70 %. Với số lượng từ Hán Việt lớn như thế, nhưng việc vận dụng và
hiểu đúng nghĩa từng từ thì còn nhiều bất cập như GS Đặng Đức Siêu, trong một bài viết giáo
khoa đã nhận xét: "Từ khi từ Hán Việt nhất loạt được phiên chuyển từ chữ Hán sang chữ quốc
ngữ, hoạt động song ngữ văn hoá Việt – Hán suy yếu dần, những khó khăn lầm lẫn trong việc
nhận thức ý nghĩa của từ Hán Việt nói chung, từ ngữ Hán Việt đồng âm nói riêng đã trở nên
phổ biến hơn nhiều”.
Quả thật điều ấy đã được bộc lộ ngày càng rõ nét trong tình hình học tập môn Ngữ văn hiện nay.
Khi thực hiện hoạt động đọc hiểu các em không hiểu một cách tường minh những từ ngữ có
trong văn bản hoặc khi tạo lập văn bản, các em sử dụng từ Hán Việt nhưng không hiểu rõ nghĩa,
từ đó dẫn đến dùng sai rất nhiều. Đó chính là lí do khiến HS giảm sút sự hứng thú khi học môn
Ngữ văn. Một điều dễ thấy là HS ngày nay rất ngại học những tác phẩm văn học được viết bằng
chữ Hán hay những bài thơ Đường bởi một khoảng cách ngôn ngữ quá xa mà ngôn ngữ chính là
chìa khoá đi vào thế giới nghệ thuật của văn bản nghệ thuật. Do vậy nếu như không hiểu biết về
Hán tự thì nhãn tự của những thi phẩm được viết bằng chữ Hán sẽ dễ dàng bị bỏ qua một cách
đáng tiếc. Vai trò của người giáo viên lúc này như một cầu nối để giúp các em có thể hiểu rõ tác
phẩm một cách chính xác nhất, vì thế người giáo viên phải có một lượng kiến thức hán nôm
vững chắc. Ví dụ khi tiếp cận Nam quốc sơn hà mà không hiểu sâu chữ đế 帝, chữ quốc 國 trong
cái nhìn lịch đại thì làm sao có thể thấy được tầm vóc của tác phẩm. Tiếp cận Độc Tiểu Thanh kí
của Nguyễn Du không so sánh được tại sao Nguyễn Du chọn từ khấp 泣 chứ không phải từ khốc
哭 (mặc dầu hai chữ này đều chỉ hoạt động khóc) trong câu: Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như thì
làm sao có thể thấy hết được sự tinh tế khi sử dụng từ ngữ của đại thi hào([4]).
Hoặc để chứng minh cho sức mạnh tuyên truyền của văn học, GV có thể dẫn câu ca dao sau:
Trăng xưa dọi tỏ lòng người
Treo gương nhật nguyệt cho đời soi chung ([6])
cận một cách sơ lược cứ tưởng đây là một bài ca dao đề cập đến tình yêu nam nữ nhưng khi dùng
phép chiết tự chữ Hán, ta sẽ giúp HS khám phá ra những điều lí thú về nghệ thuật chơi chữ của
tác giả dân gian: Trăng xưa dịch từ chữ Cổ nguyệt 古月, cổ 古 và nguyệt 月 ghép lạ thành chữ
Hồ 胡; lòng người là thầm nói đến chữ sĩ 士 và tâm 心, ghép hai chữ này lại ta có chữ Chí 志;
còn chữ nhật 日 và chữ nguyệt 月 ghép lại thành chữ Minh 明 Vậy ba chữ chiết tự từ câu ca dao
ra là Hồ Chí Minh. Thật tinh diệu làm sao! Mà cũng thật tài hoa làm sao! Hoặc giả chỉ cần chiết
tự một chữ sầu 愁 ta có thể lí giải với HS bao điều về mối quan hệ giữa mùa thu với văn chương.
Chữ Sầu 愁 gồm có chữ thu 秋 và chữ tâm 心. Mùa thu đậu lên lòng người người những nỗi
niềm nên thơ thu từ cổ kim đều thấm đẫm nỗi buồn. Những bài thơ về mùa thu được học trong
chương trình đều mang nét chung ấy như Thu hứng (Đỗ Phủ), Thu điếu (Nguyễn Khuyến), Đây
mùa thu tới (Xuân Diệu). Xâu chuỗi những điều ấy lại bằng cách chiết tự một chữ sầu thiết nghĩ
chúng ta đã mở ra trong lòng HS bao suy nghĩ, bao liên tưởng thú vị. Còn rất nhiều những áng
thơ văn trong quá khứ đã bị chúng ta "bỏ rơi" như thế vì một nỗi ta không biết chữ Hán!
Từ những ví dụ trên ta có thể thấy nếu giáo viên có kiến thức hán nôm không vững thì làm sao
có thể giải thích cho học sinh hiểu được và sẽ làm cho các em càng ngày mất hứng thú với các
tác phẩm chữ Hán, làm cho hoạt động dạy học giảm súc. Ngoài ra, nếu giáo viên không có nền
tảng hán nôm vững chắc thì trong lúc giảng những tác phẩm, từ hán việt sẽ làm cho học sinh hiểu
sai ý nghĩa của chúng ví dụ Trong một tiết dạy, GV đã rất thản nhiên khi giảng: Ngay từ tiêu đề
bài thơ (Độc tiểu thanh kí) tác giả đã thể hiện được sự đồng cảm của Nguyễn Du đối với nàng
Tiểu Thanh khi một mình đọc tập thơ của Tiểu Thanh. Rõ ràng người giáo viên này đã nhầm lẫn
bởi độc 讀 trong tiêu đề Độc tiểu thanh kí nghĩa là đọc, còn chữ độc 獨 với nghĩa là một thì lại
có tự dạng hoàn toàn khác. Chữ độc ấy nằm ở câu thừa đề Độc điếu song tiền nhất chỉ thư ( 獨吊
窗前一紙書)
Nhìn lại quá trình đào tạo sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn, chúng ta nhận thấy số lượng tiết
học cho môn Hán Nôm quá ít và sinh viên thường cảm thấy không mấy hứng thú khi học môn
này. Các bạn SV thường chỉ dừng lại ở việc nhớ máy móc và "vẽ chữ" để rồi khi ra trường không
còn đọng lại cái gì. Nguyên nhân là chỉ vì lên đại học các bạn SV mới tiếp xúc, không có nền
tảng căn cơ mà thời gian học tập lại không nhiều. Nên dẫn đến tình trạng giảng viên và SV cùng
"cưỡi ngựa xem hoa" chưa hiểu hết Lục thư (Sáu loại chữ lập thành Hán tự), chưa nhớ hết 214
bộ thì đã quay sang phân tích bộ trong chữ, rồi minh giải nguyên tác chữ Hán của các bài thơ
Đường luật, thơ cổ phong, những đoạn biền văn khó như: Bình Ngô đại cáo, Dự chư tùy tướng
hịch văn, Bạch Đằng giang phú… quả thật là việc quá sức. Do vậy để đối phó SV chỉ cố gắng
nhớ và viết lại cho qua kì thi chứ chả hiểu gì nhiều. Từ đó dẫn đến tình trạng SV Ngữ văn ra
trường, khi thực sự bắt tay vào việc giảng dạy, họ thường không mặn mà lắm với mảng văn học
thời trung đại và thơ Đường vì ở bộ phận văn học này, GV nắm không chắc bản nguyên tác chữ
Hán mà khi đã không nắm chắc chữ Hán thì để so sánh đối chiếu giữa nguyên tác và bản dịch,
khai thác những tín hiệu thẩm mĩ ẩn chứa sau từng con chữ là việc không dễ dàng. Nói như thế,
chưa hẳn với văn học hiện đại, GV có thể chỉ một cách tường minh những từ Hán Việt có trong
văn bản. Đó là chưa kể đến những văn bản nhật dụng có sử dụng nhiều từ Hán Việt khó như:
Con đường trở thành kẻ sĩ hiện đại của Nguyễn Khắc Viện, Nhìn về vốn văn hóa dân tộc của
Trần Đình Hượu, Tư duy hệ thống, nguồn sức sống mới trong việc đổi mới tư duy, Phan Đình
Diệu….
Thật vậy ngôn ngữ của mỗi dân tộc đều ẩn chứa trong nó cả linh hồn của dân tộc ấy. Tiếng Việt
chứa đựng linh hồn của người Việt. Vậy nên là người Việt Nam nhiệm vụ giữ gìn tiếng nói của
cha ông là một nhiệm vụ thiêng liêng đã có truyền thống lâu dài từ xưa đến nay và cần phải được
quan tâm nhiều hơn trong thời đại ngày nay
Thời đại hội nhập giao lưu quốc tế một cách rộng khắp. Việc ấy không thể làm được nếu như
chữ Hán chưa được khôi phục trong hệ thống giáo dục từ bậc PT. Bởi vì ngoài việc giúp HS sử
dụng thật chính xác, linh hoạt vốn ngôn ngữ của dân tộc, nó còn giúp HS thủ đắc những thuật
ngữ khoa học của các ngành học khác từ đó tiếp cận một cách nhanh chóng những khái niệm.
Đồng thời một điều đáng quý nữa là với một kho di sản văn hóa khổng lồ của dân tộc trong quá
khứ sẽ có cơ hội được thế hệ trẻ bảo lưu và phát huy.
Câu 2: Chủ nghĩa yêu nước qau bài “Nam quốc sơn hà”

Yêu nước và tự hào dân tộc là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của mỗi người dân
Việt Nam. Tình cảm ấy thấm đẫm trong tâm hồn dân tộc và dạt dào lai láng trên những trang thơ
văn. Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) là một áng thơ như thế!

Sông núi nước Nam không phải là sáng tác duy nhất thời Lí -Trần khơi nguồn từ cảm xúc về
đất nước, về dân tộc. Gắn bó với một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt - thời đại hào hùng đấu tranh
chống ngoại xâm, dường như đất nước và dân tộc là mối quan tâm hàng đầu của các nhà văn,
nhà thơ. Và do đó, tình cảm yêu nước và tự hào dân tộc đã trở thành cảm hứng chủ đạo cho các
sáng tác văn chương thời kì này.
Nhìn lại các sáng tác thời Lí - Trần, tuy tình cảm đất nước bộc lộ ở những khía cạnh khác
nhau, trong những thời điểm khác nhau, nhưng đều rất sâu sắc. Trong Chiếu dời đô, nỗi lo lắng
cho vận số của đất nước, dân tộc, hạnh phúc của muôn dân, trăm họ là niềm trăn trở lớn nhất của
vị hoàng đế đầu tiên của triều Lí. Ở Hịch tướng sĩ, lòng căm thù giặc, nỗi xót đau trước cảnh đất
nước bị giày xéo tàn phá, ý chí sẵn sàng xả thân vì nước trào dâng mãnh liệt trong lòng vị thân
vương họ Trần. Còn trong Phò giá về kinh, lại là hào khí chiến thắng của dân tộc và khát vọng về
một nền thái bình muôn thuở cho đất nước của thượng tướng thái sư Trần Quang Khải.
Ra đời trong máu lửa của cuộc kháng chiến chống Tống, Sông núi nước Nam là tuyên ngôn
của Đại Việt về độc lập, chủ quyền đất nước. Đây là tuyên ngôn của hàng triệu trái tim Đại Việt
nồng nàn, thiết tha yêu nước mình.
Ta hãy đọc kĩ lại bản tuyên ngôn để cảm nhận được tình cảm mãnh liệt, sục sôi của một dân
tộc:
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.


Dịch:
Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng bay nhất định phải tan vỡ.

(Theo Lê Thước và Nam Trân dịch)

Sông núi nước Nam là của người Nam, đó là tư tưởng của hai câu thơ đầu của bài thơ. Tư
tưởng này đối với chúng ta ngày nay tự nhiên như cơm ăn, nước uống. Nhưng ngày ấy, cái thời
mà bọn phong kiến phương Bắc đã từng biến nước ta thành quận huyện và đang cố sức khôi
phục lại địa vị thống trị, thì tư tưởng ấy mới thực sự thiêng liêng và có ý nghĩa biết chừng nào!
Lòng tự tôn dân tộc hun đúc qua mấy mươi thế kỉ đã hoá thành tư thế đứng thẳng làm người, mặt
đối mặt với kẻ thù. Đọc câu thơ, lòng ta không khỏi rưng rưng xúc động.
Nếu nhìn từ góc độ nguyên tác Hán tự, ta thật kinh ngạc. Câu thơ như một làn roi quất thẳng
vào bộ mặt bá vương hợm hĩnh của triều đình phong kiến Trung Quốc - kẻ đang phát động chiến
tranh xâm lược để thực hiện mưu đồ bá chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử bành trướng, chúng gặp
phải ý chí quật cường đến thế, một tinh thần khẳng khái đến thế! Chúng đã có Bắc Quốc (Trung
Quốc) thì ta cũng có Nam Quốc chúng có Bắc đế thì ta cũng có Nam đế; nào có thua kém gì
nhau! Từ ngôn từ và ý thơ thế hiện một niềm tự hào cao độ về đất nước và dân tộc mình. Đây là
niềm tự hào mà mỗi thần dân Đại Việt đều có trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù.
Lòng tự hào ấy, hơn ba thế kỉ sau được Nguyễn Trãi nhấn mạnh thêm:
Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Li, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

(Bình Ngô đại cáo)


Như vậy ý thức độc lập tự chủ đâu phải là mới thai nghén
Hôm nay, nó đã hình thành từ rất lâu trong tiềm thức của mỗi người dân đất Việt, có lẽ là từ
thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang. Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, qua rất nhiều
biến cố đau thương, nhưng ý chí độc lập không bao giờ bị dập tắt. Máu xương của cha ông đã đổ
mấy ngàn năm chẳng phải là để giành lại xã tắc đó sao? Ngày hôm nay, một lần nữa, tinh thần dó
được phát biểu thành một tuyên ngôn hùng hồn, đanh thép. Hơn nữa, là niềm tin sắt đá vào sự
thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

(Giặc dữ cớ sao phạm tới đây

Chúng bay nhất định phải tan vỡ).

Dám đánh và quyết tâm đánh thắng giặc thù. Đó chính là biểu hiện tập trung nhất, cao độ
nhất của lòng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Sau này, trong văn chương nước nhà, ta còn bắt gặp không ít những áng thơ văn dạt dào sâu
lắng tình yêu quê hương đất nước mình như thế trong đó Sông núi nước Nam mãi xứng đáng là
một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

You might also like