Professional Documents
Culture Documents
Bài làm
Tôi sinh ra ở vùng đất Lào Cai và làm việc ở Sapa- cái xứ sở sương mù mê hoặc lòng người,
nơi mà từng có rất nhiều nhà văn, nhà thơ tìm đến và để lại những tác phẩm nổi tiếng cho đời.
Thế nhưng có lễ, khi nhắc đến Sapa, con người ta chỉ nghĩ đến một địa điểm du lịch nổi tiếng
với thời tiết mát mẻ, thiên nhiên thơ mộng. Nhưng với tôi, đây còn là một vùng đất cống hiến,
vùng đất của những con người sẵn sàng hi sinh, làm việc cho Tổ quốc. Và tôi cũng muốn góp
một phần mình vào công cuộc dựng xây đất nước ấy.
Kể ra thì hơi dài. Nhưng ngày xưa, tôi và bố cùng nhau nộp đơn tình nguyện xin được ra trận
bảo vệ Tổ quốc, thế nhưng chỉ có bố tôi được ra trận, còn tôi phải ở lại. Không chịu thua bố,
tôi đã tình nguyện lên Lào Cai để công tác trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m được bốn năm. Và
kể từ giây phút làm việc ở trên đỉnh cao ấy, tôi đã có một cuộc đời cống hiến, sống và làm
việc trên đỉnh núi mây mù này không quản ngày đêm khó nhọc.
Có lẽ mọi người sẽ ấn tượng với người cán bộ khí tượng ngày ấy trong đôi mắt tuổi thơ trong
veo của tôi là những chuỗi ngày dài với nhiều đam mê, khám phá và say nghề. Tôi sống và
làm việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m so với mặt biển, xung quanh không hề có một
bóng người “bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”. Công việc của tôi là “đo gió, đo mưa,
đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ
sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Tôi nhận thấy rằng đây là công việc không khó nhưng đòi hỏi
sự tỉ mỉ chính xác và phải có tinh thần trách nhiệm cao. Một ngày tôi phải vào ốp bốn lần, nửa
đêm đúng giờ ốp thì dù có mưa gió cũng phải trở dậy xách đèn ra ngoài trời làm công việc đã
quy định. Những lúc ấy, tôi cảm thấy “gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi
mình ra là ào ào xô tới”. Nhưng cái gian khổ nhất mà tôi phải vượt qua chính là sự cô đơn
buồn tẻ, quanh năm suốt tháng sống cô độc một mình trên đỉnh núi cao không một bóng
người.
Nói đến đây tôi chợt nhớ đến một kỉ niệm mà có lẽ cả đời tôi sẽ chẳng thể quên được đó là
cuộc gặp gỡ giữa tôi và những con người miền xuôi. Khi tôi mới lên công tác chưa quen nên
rất muốn gặp gỡ mọi người. Tôi từng muốn gặp gỡ mọi người đến mức chặt khúc gỗ ra giữa
đường trực xe đi qua. Rồi một bác tài xế đã hỏi tôi:“Ai đã đẩy khúc gỗ ra giữa đường đấy”.
Tôi ngại quá, đỏ mặt, tôi bảo với họ rằng tôi mới lên công tác chưa quen nên nghĩ ra cách này
để gặp gỡ mọi người. Chính từ cuộc gặp gỡ đặc biết ấy, tôi đã quen với bác lái xe, bác hứa với
tôi rằng mỗi tháng có chuyến xe qua sẽ dừng lại cho tôi nói chuyện, làm quen với mọi người.
Lúc đó, tôi rất sung sướng và chỉ mong một tháng trôi qua thật nhanh.
Hôm nay cũng như thường lệ; nhác thấy chiếc xe của bác phía xa xa, tôi rạng rỡ chạy tới dúi
vào tay bác củ tam thất nhỏ vừa đào được, gửi bác về ngâm rượu bồi bổ cho bác gái vừa mới
ốm dậy. Tôi hồ hởi khoe với bác mà chẳng để ý bác còn dẫn thêm 2 người khách. Bác giới
thiệu nhanh với tôi rằng đó là một ông họa sĩ già và một cô kĩ sư nông nghiệp. Theo lời gợi ý
của bác, tôi có lời mời khách lên thăm nhà và cũng chính là nơi tôi làm việc.
Nhà tôi thì đơn sơ: có chiếc giường con; chiếc bàn học và một giá sách. Sống một mình thế có
lẽ là đủ. Tôi rót nước mời ông, mời cô nhưng cô gái trẻ lại đang mải mê bên trang sách nên tôi
chỉ lẳng lặng đặt nhẹ phía trước mặt.
Bất chợt trong cuộc trò chuyện, ông hoạ sĩ già bảo rằng tôi là một người cô độc nhất thế gian,
nghe như vậy thì tôi sững sờ, đoán biết là do bác lái xe kể, tôi vội thanh minh: “Không, không
đúng đâu”. Nói cho vui thế chứ cũng có lúc tôi đã từng nghĩ mình cô đơn nhưng ngẫm lại cho
cùng tôi nào có cô đơn, tôi còn có công việc vả lại công việc của tôi còn gắn liền với bao anh
em, đồng chí dưới kia. Còn nói về cái thèm người tôi không phủ nhận. Mỗi lúc như thế tôi lại
nói với lòng mình rằng: Mình sinh ra ở đâu và làm việc vì cái gì? Mình phải có trách nhiệm
và cống hiến hết mình. Mà đâu chỉ mình tôi thèm người bác lái xe cũng thế còn gì, những
hôm bác ấn còi inh ỏi mà tôi không chịu xuống là bác lại mò lên tận đây.
Quay sang cô kĩ sư tôi đùa cợt: Và cô thấy đấy, tôi còn có sách làm bạn cơ mà. Tuy sống
trong điều kiện thiếu thốn nhưng bản thân tôi vẫn ham mê công việc biết sắp xếp lo toan cuộc
sống riêng ngăn nắp. Tôi tự biết làm cho cuộc sống của mình vui vẻ đầm ấm thơ mộng, ý
nghĩa. Tôi trồng hoa “hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím,… vườn hoa khoe sắc rực rỡ hàng
ngày như động viên tiếp sức làm cho tâm hồn mộng mơ, yêu cuộc sống”. Tôi đọc sách, trò
chuyện, lấy sách làm bạn tri âm, tri kỷ. Tôi nuôi gà lấy thêm thực phẩm, tạo không khí gia
đình vui tươi đầm ấm. Thế giới riêng của tôi là một gian nhà ba gian sạch sẽ với bàn ghế, sách
vở… Tôi hái thật nhiều hoa để tặng cô kĩ sư, cô ấy rất thích. Rồi tôi giới thiệu qua công việc
của mình cho cô kĩ sư và ông họa sĩ nghe. Tôi đưa họ vào trong nhà. Bác họa sĩ ngạc nhiên
khi ở cái nơi “lặng lẽ Sapa” này tưởng tôi ở một mình thì mọi thứ chắc bề bộn lắm. Ấy vậy
mà bác lại thấy căn phòng của tôi quá ngăn nắp. Cô kĩ sư ra tủ sách chọn lấy một quyển và
ngồi đọc. Tôi và bác họa sĩ trò chuyện với nhau. Bác hỏi:
Dường như, càng nói chuyện thì bác họa sĩ càng thích tôi. Và khi ông hoạ sĩ đang cầm cây bút
hí hoáy làm gì đó, tôi đoán chắc người hoạ sĩ ấy đang vẽ tôi, tôi ngượng ngùng từ chối bởi tôi
biết ngoài kia còn có rất nhiều người giỏi hơn tôi: ông kĩ sư vườn rau, đồng chí nghiên cứu
khoa học trên mảnh đất này, họ cũng là những nhân tài và rất xứng đáng để được phác họa
chân dung. Nhưng đang quẩn quanh trong suy nghĩ ấy thì bác đã bắt đầu phác thảo khuôn mặt
của tôi, bằng vài nét, họa sĩ đã gần như ghi xong gương mặt của tôi.
Tôi giật mình nói to, giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ. Tôi chạy ra nhà phía sau, rồi trở vào liền,
tay cầm một cái làn. Nhà họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy. Cô gái cũng đứng lên, đặt lại chiếc ghế,
thong thả đi đến chỗ bác già
Tôi kêu lên. Để người con gái khỏi trở lại bàn, tôi lấy chiếc khăn tay còn vo tròn kẹp giữa
cuốn sách tới trả cho cô gái. Cô kĩ sư mặt đỏ ửng, nhận lại chiếc khăn và quay vội đi.
Tôi đúng là vô tâm, vô tâm nên mới không hiểu ý nhị của người con gái đáng yêu; tâm tình
ấy. Mãi đến bây giờ nhận ra thì cũng đã chỉ còn là quá khứ.
Thời gian cũng đã hết tôi phải tiễn 2 người khách đặc biệt ra về. Ông họa sĩ ôm chặt vai tôi
lắc mạnh đầy hứa hẹn: “Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tôi ở với anh ít hôm được chứ?”
Còn cô gái nắm lấy tay tôi buông câu nhẹ nhàng: “Chào anh”. Một tình cảm nghẹn ngào như
hàm chứa trong đó, cảm xúc dâng trào đến tột cùng trong tôi và có lẽ trong cả chính cô gái ấy.
Tôi xách vội túi trứng, dúi vào tay ông họa sĩ: “Cái này để ăn trưa cho bác, cho cô và bác lái
xe. Cháu có bao nhiêu là trứng, ăn không xuể. Cháu không tiễn bác và cô ra xe được, vì gần
tới giờ “ốp” rồi. Thôi chào bác, chào cô. Bác sẽ trở lại nhé.”
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng cũng đủ để tôi thỏa lòng mong nhớ. “Chao ôi, có ai ở trong
hoàn cảnh của tôi mới biết cái cảm giác “thèm người” nó đáng sợ như thế nào”. Chẳng ai
thích sống cô đơn ở nơi vắng lặng như thế này nhưng vì dân tộc, vì đất nước, tôi vẫn luôn tự
hào về công việc mình đang làm, yêu nơi mình đang sống. Và tôi tâm niệm rằng: “Ai cũng
chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ biết dành phần ai? Ai cũng một thời trẻ trai, cũng thường nghĩ
về đời mình”. Có những con người thầm lặng, làm những công việc lặng thầm ở những nơi im
lặng nhưng sự đóng góp của họ cho đất nước lại không hề nhỏ bé và “Trong cái im lặng của
Sapa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa mà chỉ nghe thấy tên, người ta đã nghĩ đến chuyện
nghỉ ngơi, có những người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.”
-----------------------
Nhập vai nhân vật ông Hai kể lại diễn biến tâm trạng khi nghe tin làng chợ dầu theo giặc
Đã mấy chục năm rồi, có lẽ chừng ấy năm ròng cũng đủ để tôi thấu hiểu hầu hết những người
dân trong làng. Họ và tôi, chúng tôi đều là người Việt Nam, chúng tôi đều mang trong mình
dòng máu lạc hồng luôn đỏ mãi trong lòng mỗi người. Người trong làng tôi hầu hết đều là
những người nông dân một nắng hai sương tần tảo sớm hôm vất vả ra đồng. Chúng tôi sống
cho bản thân mình nhưng chưa giây phút nào chúng tôi quên được lòng yêu Tổ Quốc, yêu nơi
mà tôi sinh ra và lớn lên. Thế mà không hiểu vì lí do gì mà mọi người lại tung tin đồn xấu cho
làng tôi.
Và để phục vụ cho kháng chiến, tôi xin ở lại cùng anh em để đào hào, đắp ụ nhưng vì tuổi đã
cao nên mọi người khuyên tôi đi tản cư, và tôi được biết rằng đi tản cư cũng là một hành động
thể hiện tình yêu làng. Hôm ấy trời nắng đẹp và trong, như mọi hôm tôi lại đến phòng thông
tin để đọc báo.Vì là nông dân nghèo không biết đọc chữ nên tôi rất thích đến đây nghe người
khác đọc báo. Tuy là nông dân nghèo, cuộc sống cực khổ, làm nhiều việc tôi vẫn có cái thú
vui đọc tin tức thường xuyên để nắm bắt thông tin mọi nơi. Khi vừa bước ra khỏi phòng thông
tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi ra lối huyện cũ, tôi bắt gặp tốp người tản cư bàn tán rất
náo nhiệt.
Tính tôi cũng hay tò mò không biết có việc gì nên liền lại tán gẫu cùng. Được biết có làng nào
ấy Việt gian theo Tây. Tôi nào ngờ ấy lại là làng Chợ Dầu – chính ngôi làng tôi sống. Họ bảo
làng tôi Việt gian, người làng tôi theo giặc. Như không tin được vào tai mình. Tôi thầm nghĩ
đủ điều. Chẳng nhỡ làng mình theo Tây thật rồi sao. Sao lại có chuyện đấy được. Người làng
ta đều là những con người yêu nước hết cả mà. Không nhẫn nhịn được nỗi nhục nhã đến tận
cùng, tôi đành đánh trống lảng bỏ đi: “Hà, nắng gớm, về nào…”
Kể từ cái ngày tin đồn ấy được truyền lây lan rộng khắp nơi, tôi chẳng dám bén lẻn ra đường
nữa. Tâm trí tôi như dần triệt quệ, tôi không thèm màng đến việc gì nữa. Cả vợ tôi cũng chán
nản không thiết làm việc nhà. Được sinh ra và lớn lên trong thời kì chiến tranh, từ bé tôi đã
phải sống với bom đạn. Thấy thế tôi luôn nhủ với lòng mình rằng sau này phải gắng sức làm
việc gì đấy giúp ích cho đất nước.
Trong đầu tôi cũng như gia đình, làng xóm tôi đều hứa với lòng sẽ luôn ủng hộ Cụ Hồ Chí
Minh muôn năm. Thế mà giờ đây chúng tôi còn chưa làm được điều gì đã làm tổn hại đến đất
nước rồi. Tôi cũng yêu làng tôi lắm, cái làng Chợ Dầu ấy đã gắn bó với tôi khá lâu rồi. Nhưng
sâu thẳm trong trái tim mộc mạc , bình dị của người nông dân nghèo này vẫn luôn dành một
phần quan trọng đối với Tổ quốc.Tôi tự nhủ với bản thân rằng: “Làng thì yêu thật, nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù”.
Thời điểm ấy, khắp nơi mọi người đều xua đuổi dân làng Chợ Dầu. Bà chủ nhà của tôi rồi
cũng phải từ chối gia đình tôi sinh sống tại nhà bà. Trong vài ba hôm ngắn ngủi, không biết
làm gì, đi về đâu, đầu óc tôi như trống rỗng bởi sự nhục nhã không cam chịu nổi.
Thế mà nỗi buồn ấy lại bỗng chốc chuyển sang nụ cười vui hồn nhiên nở dần trên gương mặt
tôi. Tôi vui sướng khi được nghe tin mừng rằng tin làng Chợ Dầu Việt gian đã được cải chính
lại. Đúng thật là “ toàn là sai sự mục đích cả”. Tôi đi đến khắp nơi báo tin mừng dây cho mọi
người. Ngay cả bà chủ nhà cũng vui và đành cho tôi tiếp tục ở nhà bà. Thế là cuộc sống tôi lại
trở nên vui vẻ như trước.
Đối với người nông dân một nắng hai sương như chúng tôi thì làng có một vị trí rất quan
trọng. Đấy là nơi tôi sinh ra, lớn lên và làm việc. Quan trọng hơn làng đã trở thành cội nguồn
quê hương, là một phần không thể thiếu trong tâm hồn mỗi người nông dân. Riêng bản thân
tôi, tôi sẽ không bao giờ quên đi được bóng dáng cái làng Chợ Dầu thân thuộc ấy và sẽ luôn
tin tưởng, chẳng bao giờ rời xa làng mình.
——————————————————