You are on page 1of 2

1.

Quan niệm nhân cách của nhân văn cho rằng:

Nhân cách là một tổng thể thống nhất, bao gồm các yếu tố trí tuệ, tình cảm, ý chí, giá trị,...
Nhân cách có khả năng phát triển và thay đổi trong suốt cuộc đời, dưới tác động của nhiều yếu tố,
trong đó sự tự giáo dục của bản thân đóng vai trò quan trọng nhất.
Nhân cách hướng tới sự hoàn thiện, đạt được tiềm năng tối đa của bản thân.
Tóm lại, quan niệm nhân cách của nhân văn cho rằng nhân cách là một cấu trúc tổng thể, có khả
năng phát triển và hoàn thiện, và con người có khả năng tự phát triển nhân cách của mình.

Quan niệm của Carl Roger: Tầm quan trọng của cái tôi, khuynh hướng hiện thực hoá bản thân, đặc
điểm nhân cách hoàn thiện.
- Tầm quan trọng của cái tôi: cái tôi lý tưởng chi phối dẫn đến cái tôi – quan niệm thay đổi cho
phù hợp với cái tôi lý tưởng -> dẫn đến không tương thích với trải nhiệm coe thể -> tương
thích càng cao thì nhân cách càng mạnh.
- Khuynh hướng hiện thực hoá: bắt nguồn từ di truyền, bị ảnh hưởng bởi giá trị bên ngoài dẫn
đến nhân cách bị ảnh hưởng theo cách nhìn nhận của ng đó.

2.
Cấu trúc nhân cách

Sự thoả mãn của 1 nhu cầu cấp dưới và xuất hiện nhu cầu cấp cao hơn, sau đó lại thoả mãn nó và
xuất hiện nhu cầu mới.

Câu 3. Giai đoạn phát triển nhân cách theo Maslow :


1 Nhu cầu sinh lý: Đây là những nhu cầu cơ bản nhất cần thiết cho sự sống còn, chẳng hạn như nhu
cầu về thức ăn, nước, không khí và giấc ngủ.
2 Nhu cầu an toàn: Khi những nhu cầu sinh lý được đáp ứng, con người bắt đầu quan tâm đến việc
đảm bảo an toàn cho bản thân và những người thân yêu.
3 Nhu cầu yêu thương và được yêu thương: Con người có nhu cầu được yêu thương và được kết nối
với người khác.
4 Nhu cầu được coi trọng: Con người cần được công nhận và đánh giá cao bởi những người khác.
5 Nhu cầu tự hoàn thiện: Con người có nhu cầu phát triển bản thân và đạt được tiềm năng tối đa của
mình.
Theo Carl Rogers: bản chất con người là lương thiện. khuynh hướng hiện thực hoá -> xu hướng phát
triển của cái tôi -> phát triển nhân cách toàn diện

C4
- Sự tự giáo dục của bản thân, di truyền, hoàn cảnh sống(tự nhiên và xã hội), giáo dục , hoạt
động, giao tiếp.

C5
- Sự mất cân bằng tâm lý: sự không tương thích giữa cái tôi với những trải nghiệm của cơ thể.

- Bị lạm dụng thể chất, tình dục trong thời thơ ấu hoặc bị lạm dụng hình ảnh cực đoan.
- Trải qua những sự kiện đau thương, chiến tranh, thiên tai, bắt cóc, tra tấn,…

6. Trường hợp thực tế của Abraham Maslow:

Ông Maslow đã từng làm việc với một bệnh nhân tên là Smith, người đang phải vật lộn với nỗi sợ hãi
và lo lắng mãn tính.
Thông qua quá trình trị liệu, Maslow đã giúp Smith nhận ra rằng nỗi sợ hãi và lo lắng của anh ta xuất
phát từ việc thiếu sự an toàn và tình yêu trong thời thơ ấu.
Maslow đã giúp Smith hiểu được rằng anh ta có thể vượt qua những nỗi sợ hãi và lo lắng của mình
bằng cách phát triển cảm giác an toàn và tình yêu cho bản thân.
Sau khi trải qua quá trình trị liệu, Smith đã có thể vượt qua nỗi sợ hãi và lo lắng của mình và sống
một cuộc sống trọn vẹn hơn.

You might also like