You are on page 1of 13

Jorge Luis Borges – Khu vườn có những lối đi rẽ nhánh

Jorge Luis Borges


Khu vườn có những lối đi rẽ nhánh

Ở trang 242 cuốn History of the World War, Liddell Hart cho chúng ta biết rằng đợt
tấn công của quân Đồng minh vào chiến tuyến Serre-Moutauban (do sư đoàn mười ba
Anh quốc khởi xướng, hậu thuẫn phía sau là một ngàn bốn trăm khẩu pháo) được
hoạch định vào ngày 24 tháng bảy năm 1916 nhưng phải hoãn lại cho đến sáng ngày
hai mươi chín. Những cơn mưa như trút nước (Đại uý Liddell Hart ghi nhận) là
nguyên do cho sự trì hoãn đó, mà quả đúng vậy – và đó là một sự trì hoãn không dẫn
đến chuyện gì to tát. Lời tường trình sau đây – do Tiến sĩ Yu Tsun, cựu giáo sư Anh
ngữ tại trường Hochschule ở Thanh-đảo, kể, đọc lại và kí nhận – đã soi rọi một luồng
sáng đầy bất ngờ vào vụ việc. Hai trang đầu của lời tường trình đã bị lạc mất.
… và tôi gác ống nghe điện thoại. Ngay sau đó, tôi nhận ra giọng nói trả lời ban nãy là
bằng tiếng Đức. Đó là giọng của Đại uý Richard Madden. Sự hiện diện của Madden tại
căn hộ của Viktor Runeberg có nghĩa là nỗ lực của chúng tôi đã chấm dứt và (mặc dù
điều này dường như, hay lẽ ra dường như, chỉ là thứ yếu với tôi) cả cuộc sống của
chúng tôi nữa. Nghĩa là Runeberg đã bị bắt, hay đã bị giết cũng nên [1]. Trước lúc
hoàng hôn của ngày hôm đó, tôi sẽ phải đối diện cùng một số phận như vậy. Madden
là một kẻ không khoan nhượng, hay đúng hơn, hắn buộc phải không khoan nhượng.
Một gã Ái-nhĩ-lan dưới mệnh lệnh của người Anh, một gã bị buộc tội thiếu nhiệt
huyết, có lẽ thậm chí bị buộc tội phản quốc, thì làm sao hắn có thể không ôm lấy và tạ
ơn trước một ân huệ thần diệu này – việc khám phá ra, bắt giữ lấy, thậm chí là gây ra
cái chết, đối với hai đặc vụ của Đế quốc Đức? Tôi đi lên phòng tôi ở trên lầu; tôi khoá
cửa lại một cách ngớ ngẩn, và rồi tôi thả mình xuống nằm ngửa trên chiếc giường sắt
chật hẹp của mình. Bên ngoài cửa sổ là những mái che quen thuộc và bóng mặt trời bị
mây che khuất. Tôi thấy thiệt không thể tin nổi khi mà ngày hôm nay, không có điềm
báo hay tiên báo gì cả, lại là ngày chết không thể tránh khỏi của mình. Mặc dù có một
người cha quá cố, mặc dù đã từng là một đứa trẻ trong khu vườn cân xứng của Hai
Feng – vậy mà tôi, giờ đây, chuẩn bị chết ư? Rồi tôi ngẫm nghĩ rằng mọi thứ xảy ra
đối với người ta, và xảy ra chính xác, chính xác ngay bây giờ. Hàng thế kỉ tiếp nối
nhau, thế mà các sự kiện diễn ra chỉ ở hiện tại; vô số gã đàn ông trong không khí, trên
đất liền và ở biển cả, thế mà mọi việc vốn thật sự xảy ra, lại xảy ra với tôi… Cái kí ức
khó chịu cùng cực về gương mặt ngựa của Madden đã làm tiêu tan những ý nghĩ lộn
xộn trong đầu. Khi đang trong cơn hận thù và khiếp sợ (giờ thì tôi không màng đến
việc nói về nỗi khiếp sợ – bây giờ là lúc tôi đang bỡn cợt Richard Madden, giờ là lúc
cái cổ của tôi đang thèm khát sợi dây thừng), tôi chợt nghĩ rằng tay chiến binh bạo
động và luôn vui sướng kia chẳng nghi ngờ gì về việc tôi đang nắm giữ một Bí mật –
tên của một địa điểm cụ thể thuộc vùng pháo binh mới của Anh quốc bên bờ sông
Ancre. Một con chim bay cắt ngang nền trời xám, và tôi mù mờ chuyển dịch nó thành
một cái máy bay, và chiếc máy bay đó lại thành nhiều chiếc nữa (trên bầu trời nước
Pháp), đang oanh tạc vùng pháo binh với những quả bom dội thẳng xuống. Phải mà cổ
họng của tôi, trước khi bị viên đạn xé nát, có thể gào lên cái tên đó để bên nước Đức
có thể nghe được… Nhưng chất giọng con người của tôi thì quá sức yếu ớt. Làm thế
nào tôi có thể đưa cái tên này tới tai của Chỉ huy – tai của một gã đàn ông bệnh hoạn
và hằn học, một người chẳng biết gì về Runeberg và tôi ngoại trừ việc chúng tôi đang
ở Staffordshire, và là một người đang chờ đợi vô vọng tin tức từ phía chúng tôi trong
cái văn phòng khô khốc của hắn tại Berlin, đang mải mê nghiền ngẫm những trang
báo?… Tôi phải trốn thôi, tôi nói to lên. Tôi đứng lên khẽ khàng, chẳng để làm gì
ngoại trừ việc tạo ra một thứ yên lặng tuyệt đối, như thể Madden đã ở sẵn bên ngoài
cửa. Một thứ gì đó – có lẽ chỉ là một sự phô bày cho việc chứng tỏ rằng những phương
tiện của tôi không hề tồn tại – đã khiến tôi đi lục túi mình. Tôi tìm thấy được cái mà tôi
biết tôi sẽ tìm được: một chiếc đồng hồ đeo tay Mĩ, sợi xích mạ nickel và đồng xu hình
vuông, xâu chìa khóa với những cái chìa khoá bí mật và vô dụng của căn hộ Runeberg,
cuốn sổ tay, một bức thư mà tôi quyết tâm tiêu huỷ nó ngay lập tức (và chẳng bao giờ
làm), hộ chiếu giả, một đồng crown, hai đồng shiling, và một vài xu là lạ, một cây bút
chì đỏ-và-xanh, một khăn tay, một khẩu súng lục với một viên đạn. Bằng điệu bộ ngớ
ngẩn tôi cầm khẩu súng lên và ước lượng nó, để mang lại sự dũng cảm cho bản thân.
Tôi ngẫm nghĩ mơ hồ rằng một phát súng có thể được nghe thấy ở khoảng cách đáng
kể. Trong mười phút, kế hoạch của tôi đã chín muồi. Cuốn danh bạ điện thoại đã cho
tôi cái tên của người duy nhất có thể truyền thông tin: ông ta sống tại vùng ngoại ô
Fenton, cách đây gần nửa giờ đi xe lửa.
Tôi là một tên hèn nhát. Tôi có thể nói thế, giờ thì tôi đang thực hiện một kế hoạch mà
tính chất nguy hiểm và liều lĩnh của nó chẳng ai có thể phủ nhận. Tôi biết rằng làm
vậy thì thật khủng khiếp. Tôi không làm điều đó vì nước Đức. Tôi phải quan tâm gì
cho cái đất nước man rợ đã buộc tôi đi làm công việc gián điệp nhơ nhuốc? Hơn nữa,
tôi biết về một người đàn ông ở Anh – một người khiêm tốn – một người mà theo tôi
tài năng chẳng thua kém gì Goethe. Tôi nói chuyện cùng ông ta chưa đầy một giờ,
nhưng trong một giờ đó thì ông ta trở thành Goethe… Không – tôi làm vậy bởi vì tôi
nhận thức rằng Chỉ huy coi khinh chủng tộc người như tôi – vô số những vị tổ tiên mà
dòng máu của họ chảy qua huyết quản của tôi. Tôi muốn chứng tỏ với ông ta rằng
người da vàng có thể cứu vớt quân đội ông ta. Và tôi phải trốn thoát khỏi Madden. Đôi
tay hắn, giọng hắn, có thể đập lên cửa bất kì lúc nào. Tôi lặng lẽ thay đồ, chào tạm biệt
chính mình trong gương, đi xuống cầu thang, nhìn ngó nghiêng con đường hiu quạnh
và đi ra. Nhà ga xe lửa không xa căn hộ tôi mấy, nhưng tôi nghĩ tốt hơn nên bắt taxi
mà đi. Tôi cho rằng sẽ có ít cơ hội tôi bị bắt gặp nếu đi bằng cách này; thực tế là, tôi
cảm thấy tôi lộ liễu và trông yếu đuối quá – yếu đuối vô cùng – khi đi trên con đường
vắng tanh này. Tôi nhớ là tôi có bảo tài xế dừng cách cổng nhà ga một khoảng ngắn.
Tôi xuống xe với sự chậm rãi cố tình và rất ư khó nhọc. Tôi sẽ đi tới làng Ashgrove,
nhưng tôi mua vé xuống ở nhà ga xa hơn. Xe lửa sẽ khởi hành lúc tám giờ năm mươi,
chẳng còn mấy phút nữa thôi. Tôi phải nhanh chóng, xe lửa kế tiếp sẽ bắt đầu lúc chín
giờ ba mươi. Hầu như chẳng có ai trên sân ga. Tôi đi lướt qua những chiếc xe hơi, tôi
nhớ là có vài người công nhân, một người phụ nữ trong bộ đồ tang tóc, một anh thanh
niên đang đọc cuốn Annals của Tacitus một cách hứng thú, và một thương binh với vẻ
hoan hỉ. Cuối cùng thì xe lửa cũng rời nhà ga. Tôi nhận ra một gã đàn ông đang chạy
một cách vô vọng, ở phía đầu bên kia sân ga; đó là Đại uý Richard Madden. Hoảng hốt
và rùng mình, tôi ôm lấy một góc của ghế ngồi, cách xa khung cửa sổ đáng sợ kia.
Từ trạng thái hoảng hốt tôi chuyển sang trạng thái hoan hỉ một cách thấp hèn. Tôi tự
nhủ rằng trận chiến của tôi đã bắt đầu, và bằng việc tránh né khỏi đòn tấn công của đối
phương – thậm chí chỉ với bốn mươi phút, thậm chí nhờ số phận khẽ mỉm cười với tôi
– thì hiệp đầu tiên đã thuộc về tôi. Tôi cho rằng chiến thắng nho nhỏ này báo trước
một chiến thắng toàn cục. Tôi cho rằng chiến thắng đó thật sự không nhỏ đến vậy, bởi
vì không có một giờ quí báu mà những chiếc xe lửa đã cho tôi, thì tôi đã ở trong ngục,
hoặc chết rồi. Tôi cho rằng (cũng phức tạp không kém) sự hoan hỉ hèn nhát của mình
đã chứng tỏ rằng tôi là một người đàn ông có thể theo đuổi chuyến hành trình này cho
đến khi kết thúc thành công. Từ nhược điểm của mình tôi rút ra được cái sức mạnh sẽ
chẳng bao giờ bỏ rơi tôi. Tôi nhìn thấy trước được rằng nhân loại sẽ từng ngày càng
lúc càng chấp nhận những phi vụ khủng khiếp hơn; trong thoáng chốc thôi thì sẽ
không còn gì nữa ngoại trừ những chiến binh và những kẻ cướp đường. Tôi cho họ lời
khuyên: Hắn, người làm những hành vi kinh khủng, nên hình dung ra chính hắn hoàn
tất chúng, nên buộc bản thân mình vào một tương lai không thể thay đổi được như quá
khứ vậy. Đó là những gì tôi làm, trong khi đó đôi mắt tôi – đôi mắt của một người đã
chết – để tâm đến ngày đang trôi đi, có lẽ là ngày cuối cùng, và màn đêm trùm xuống.
Xe lửa chạy nhịp nhàng, từ tốn, xuyên qua những hàng cây tần bì. Nó dừng hẳn lại tại
giữa vùng quê. Không ai báo tên nhà ga. “Ashgrove?” Tôi hỏi vài cậu trai trên sân ga.
“Ashgrove”, họ nói, gật đầu. Tôi rời khỏi xe lửa.
Một chiếc đèn soi sáng sân ga, nhưng gương mặt của những cậu trai thì vẫn trong bóng
đêm. “Ông có phải đang tới nhà của Tiến sĩ Stephen Albert không?”, một cậu chất vấn.
Không chờ trả lời, một cậu khác nói: “Căn nhà cách đây khá xa, nhưng ông sẽ không
lạc đường nếu ông đi theo con đường kia về bên trái, và rẽ trái mỗi khi gặp đường cắt
ngang.” Tôi búng cho họ một đồng tiền (đồng cuối cùng của tôi), đi xuống vài bậc đá,
và bắt đầu đi dọc theo con đường cô độc kia. Con đường chạy đến duới đồi, và là con
đường đất nguyên chất. Những nhánh cây xoắn xuýt với nhau ở trên đầu, và ánh trăng
tròn ở tầm thấp dường như đang đi dạo cùng tôi.
Trong một thoáng, tôi sợ rằng Richard Madden bằng cách nào đó sẽ nhìn ra được kế
hoạch liều mạng của tôi, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra điều đó là không thể. Lời
khuyên của cậu trai là luôn rẽ trái đã gợi tôi nhớ rằng đó là cách phổ thông để tìm ra
tâm điểm của một loại mê cung nào đó. Tôi ít nhiều gì cũng là chuyên gia về mê cung:
đâu phải vô ích khi mà tôi là chắt của Ts’ui Pen, thống đốc của tỉnh Vân-nam và là
người từ bỏ mọi quyền lực thực tại để viết một cuốn tiểu thuyết chứa đựng nhiều nhân
vật hơn cả cuốn Hồng Lâu Mộng và tạo dựng một mê lộ trong đó toàn bộ mọi người sẽ
bị lạc lối. Ts’ui Pen cống hiến mười ba năm cho hai nhiệm vụ riêng biệt này, nhưng
bàn tay của một kẻ ngoại bang đã ám sát ông ấy, và cuốn tiểu thuyết của ông ta trở nên
vô nghĩa và không ai có thể tìm ra được cái mê lộ đó. Đó là lúc ở dưới những bóng cây
nước Anh mà tôi ngồi chiêm nghiệm về cái mê lộ bị thất lạc đó: tôi hình dung cái mê
lộ hoàn hảo và toàn vẹn trên một đỉnh núi bí mật; tôi hình dung những nét phác thảo
của nó bị che mờ đi bởi những cánh đồng lúa, hoặc ở dưới mặt nước; tôi hình dung nó
vô tận – một mê lộ không phải là một cái đình bát giác và những lối đi vòng quanh
chính nó, mà là những con sông và những tỉnh thành và những vương quốc… Tôi
tưởng tượng ra một mê lộ gồm nhiều mê lộ, một mê cung của những mê cung, một mê
lộ xoắn xuýt, quanh co, luôn mở rộng ra và chứa đựng trong đó cả quá khứ lẫn tương
lai và bằng cách nào đó hàm chứa cả những ngôi sao. Chìm đắm trong sự mơ tưởng
phi thực tế, tôi quên đi việc tôi là một kẻ bị truy đuổi; tôi cảm thấy bản thân mình,
trong một chừng mực vô hạn định, là một kẻ cảm quan trừu tượng cho cái thế giới này.
Một miền quê mơ hồ, sống động, mặt trăng, phần còn lại của ngày đang cố lay chuyển
tôi; con đường dốc mềm mại kia cũng vậy, nó chặn trước toàn bộ khả năng xảy ra tình
trạng chán chường. Buổi chiều gần tới, mà vẫn còn vô tận.
Con đường dốc xuống và rẽ nhánh khi nó đi xuyên qua cánh đồng cỏ giờ đây đã mờ
mịt. Một bài nhạc tuyệt diệu và vang lên điệu của các âm tiết, bị lá và khoảng cách
không gian phủ mờ đi, nó đến rồi dần tan biến trong những cơn gió mạnh êm dịu. Tôi
vấp phải ý nghĩ rằng một người đàn ông có thể là kẻ thù của những người khác, kẻ thù
của những khoảnh khắc của những người khác, tuy nhiên không phải là kẻ thù của
miền quê – của những con đom đóm, những ngôn từ, những khu vườn, dòng nước,
những cơn gió nhẹ. Khi đang nghĩ ngợi thì tôi đến một cái cổng cao và rỉ sét. Qua
những thanh sắt, tôi thấy con đường với những hàng cây dương, và một cái đình. Đột
nhiên tôi nhận ra hai thứ – cái đầu tiên thì vặt vãnh, cái thứ nhì thì không thể tin được:
tiếng nhạc tôi nghe được phát ra từ cái đình kia, và tiếng nhạc đó là nhạc Trung-hoa.
Đó là lí do tại sao tôi đã hoàn toàn thả mình vào nó một cách vô thức. Tôi không nhớ
có tiếng chuông hay không hoặc là tôi đã vỗ tay để đánh động về việc thăm viếng của
mình.
Tiếng nhạc bập bùng vẫn tiếp tục, nhưng từ bên hông của căn nhà thân thiện kia, cái
lồng đèn đang trên đường tiến đến tôi – một cái lồng đèn có các vạch đan chéo nhau và
thi thoảng bị che phủ sau mấy cái cây, cái lồng đèn giấy có hình dạng cái trống và có
màu của mặt trăng. Một người đàn ông cao cao đã cầm nó. Tôi không thể thấy mặt ông
ta bởi vì ánh sáng làm tôi loá mắt. Ông ta mở cổng và chậm rãi nói chuyện với tôi
bằng thứ tiếng của chính tôi.
“Tôi thấy là ngài Hsi P’eng vị tha đã đồng ý giúp tôi cải thiện tình trạng cô độc của
mình. Ông chắc hẳn là sẽ muốn xem khu vườn chứ phải không?”
Tôi nhận ra tên của một trong những vị lãnh sự nước tôi, nhưng tôi chỉ có thể bối rối
lặp lại, “Khu vườn?”
“Khu vườn có những lối đi rẽ nhánh.”
Có gì đó khuấy động trong tâm trí tôi, và tôi nói ra với một sự chắc chắn không thể
hiểu nổi.
“Khu vườn của ông cố tôi Ts’ui Pen.”
“Ông cố của ông ư? Ông cố lừng lẫy của ông ư? Vâng, xin mời vào.”
Con đường lấm tấm nước đi vòng vèo hệt như những con đường thời thơ ấu của tôi.
Chúng tôi đi tới thư viện chứa những cuốn sách Tây phương và Đông phương. Tôi
nhận ra, được buộc trong những dải tơ vàng là một vài cuốn sách viết tay của bộ “Bách
khoa thư bị thất lạc” của vị hoàng đế thứ ba triều đại nhà Minh, nhưng chưa bao giờ
được in ra. Cái đĩa trên cái máy chơi nhạc xoay tròn gần tượng con phượng hoàng
bằng đồng. Tôi cũng nhớ có một cái bình sứ hồi thế kỉ mười tám và một cái khác, xưa
hơn vài trăm năm, với màu xanh dương mà những người thợ đã sao chép từ những
người thợ gốm xứ Ba-tư cổ…
Stephen Albert mỉm cười quan sát tôi. Ông ta, như tôi từng nói, khá cao, với những nét
sắc, đôi mắt xám, và bộ râu quai nón xám. Có gì đó mang nét linh mục ở ông ta, nhưng
không hiểu sao cũng có nét giống thuỷ thủ, sau đó ông ta cho tôi biết rằng ông ta từng
là nhà truyền giáo ở Thiên-tân “trước khi có mong ước trở thành nhà nghiên cứu
Trung-hoa”.
Chúng tôi ngồi xuống, tôi thì ngồi trên chiếc phản dài, ông ta thì ngồi quay lưng về
cửa sổ và cái đồng hồ cao. Tôi ước tính là kẻ theo đuổi tôi, Richard Madden, sẽ không
thể tới trong vòng ít nhất một giờ. Quyết định cuối cùng của tôi có thể chờ.
“Cuộc đời của Ts’ui Pen thật là đáng kinh ngạc”, Stephen Albert nói. “Vị thống đốc
của một tỉnh mà ông ta được sinh ra, người đàn ông này học thiên văn, chiêm tinh, và
diễn giải không mệt mỏi những kinh sách, một kì thủ, một thi sĩ nổi danh và là người
viết thư pháp – ông ta bỏ hết để sáng tác một cuốn sách và một mê lộ. Ông ta từ bỏ
mọi niềm vui thích của việc đàn áp, của công lí, của chốn hoan lạc xô bồ, của những
buổi tiệc, và thậm chí cả những kiến thức uyên thâm để tự nhốt mình mười ba năm
trong “Ngôi đình của sự cô liêu trong trẻo” [*]. Khi ông ta chết đi, những người thừa
kế không tìm được gì trong mớ bản thảo hỗn độn. Gia đình, như ông có lẽ cũng để ý
đến, thì chuẩn bị ném mấy bản thảo vào lửa, nhưng vị luật sư của ông ấy – một tu sĩ
Đạo giáo hoặc Phật giáo – nhất quyết xuất bản chúng.”
“Cho đến ngày nay”, tôi đáp lại, “chúng tôi, những người thuộc dòng dõi Ts’ui Pen
đều căm ghét tên tu sĩ đó. Thật là vô nghĩa khi xuất bản những bản thảo đó. Cuốn sách
là một mớ hỗn tạp mâu thuẫn nhau của những bản nháp không rõ ràng. Đích thân tôi
đã từng xem nó kĩ càng; trong chương thứ ba một người anh hùng chết, vậy mà trong
chương bốn anh ta sống lại. Nói về việc kia của Ts’ui Pen, Mê lộ của ông ta…”
“Đây là Mê lộ”, Albert nói, với điệu bộ hướng về cái tủ cao có lớp sơn bóng nhoáng.
“Một mê lộ bằng ngà voi!” Tôi cảm thán. “Một loại mê lộ rất nhỏ…”
“Một mê lộ của những biểu tượng”, ông ta chỉnh tôi. “Một mê lộ thời gian vô hình.
Tôi, một kẻ man rợ người Anh, bằng cách nào đó đã được chọn để vén bức màn bí ẩn
mỏng manh này. Giờ đây, hơn trăm năm sau sự việc, những chi tiết chính xác không
thể được phục hồi, nhưng không khó để dự đoán được cái gì đã xảy ra. Ts’ui Pen ắt
hẳn đã có lần phát biểu, ‘Tôi sẽ nghỉ hưu để viết sách’, và ở lần khác thì, ‘Tôi sẽ nghỉ
hưu để tạo dựng một mê lộ’. Mọi người đều hình dung đuợc hai công trình này; chẳng
ai có ý nghĩ rằng cuốn sách và mê lộ là một và tương đồng nhau. “Ngôi đình của sự cô
liêu trong trẻo” mọc lên ở trung tâm khu vườn mà có lẽ đã được trang hoàng khá phức
tạp; việc đó lẽ ra chỉ đến một mê lộ thực sự. Ts’ui Pen chết đi; không ai ở những vùng
đất rộng lớn, vốn là của ông ấy, có thể tìm ra mê lộ đó. Tính hỗn độn của cuốn tiểu
thuyết –cái sự không rõ ràng ấy, dĩ nhiên là ý tôi vậy – chỉ ra rằng nó chính là cái mê
lộ đó. Hai tình huống ủng hộ tôi cho đáp án cuối cùng của bài toán này – một, đó là
một truyền thuyết lạ thường với việc Ts’ui Pen dự định tạo dựng một mê lộ thật sự vô
tận, và hai, là mẩu thư tôi đã phát hiện ra.”
Albert đứng dậy. Ông ta quay lưng về phía tôi trong một lúc; ông ấy mở ngăn kéo ở
cái bàn viết màu đen và mạ vàng. Ông ta quay trở lại với tờ giấy hình chữ nhật mỏng
manh vốn có màu đỏ thắm nhưng giờ đây đã thành màu hồng. Tờ giấy có nét chữ thư
pháp lừng danh của Ts’ui Pen. Tôi háo hức đọc mà chẳng hiểu gì những dòng chữ mà
người đàn ông trong cùng dòng dõi của tôi đã viết ra một cách cẩn trọng: Tôi để lại
cho một vài tương lai (không phải tất cả) cái khu vườn có những lối đi rẽ nhánh. Tôi
trao tờ giấy lại cho Albert mà không nói một lời. Ông ta tiếp tục:
“Trước khi khám phá ra bức thư này, tôi đã tự hỏi làm thế nào mà một cuốn sách có
thể trở nên vô tận. Cách duy nhất mà tôi dự đoán là cuốn sách đó ắt hẳn lặp đi lặp lại
theo chu kì hoặc đi theo một vòng tròn khép kín, một cuốn sách mà những trang cuối
tương tự như những trang đầu, để người ta có thể tiếp tục đến vô tận. Tôi cũng nhớ lại
cái đêm ở phần giữa trong 1001 Đêm, khi mà hoàng hậu Scheherazade (bằng một sự lơ
đễnh huyền ảo do người sao chép tạo ra) bắt đầu kể lại, từng từ một, câu chuyện 1001
Đêm, đã đánh liều quay trở lại lần nữa vào cái đêm mà cô ta kể chuyện – và cứ thế,
đến bất tận. Bản thân tôi cũng hình dung ra được một dạng tác phẩm theo trường phái
Plato, theo kiểu kế thừa, truyền từ đời cha sang đời con, trong đó mỗi cá nhân sẽ lại
thêm vào một chương hoặc với sự thận trọng đáng kính sẽ sửa lại những trang của
những người tiền bối. Những điều tưởng tượng này làm tôi thích thú và xao lãng đi,
nhưng không có cái nào trông có thể tương ứng được, dù chỉ một chút thôi, với những
chương sách mâu thuẫn của Ts’ui Pen. Khi tôi đang vật lộn trong mớ bùn lầy của
những điều rối rắm thì nhận được từ Oxford cái tài liệu mà ông vừa mới xem qua. Tôi
ngừng lại, như ông có thể dễ dàng tưởng tượng ra, ở cái câu ‘Tôi để lại cho một vài
tương lai (không phải tất cả) cái khu vườn có những lối đi rẽ nhánh’. Ngay tức thì, tôi
đã thấy nó – khu vườn có những lối đi rẽ nhánh chính là cuốn tiểu thuyết hỗn độn này;
cụm từ ‘một vài tương lai (không phải tất cả)’ gợi ý cho tôi hình ảnh của việc rẽ nhánh
này diễn ra về mặt thời gian, thay vì là không gian. Việc đọc lại toàn bộ cuốn sách đã
xác nhận lí thuyết của tôi. Trong tất cả các cuốn truyện, mỗi khi có người đối diện với
những lựa chọn khác nhau, thì anh ta chọn một và loại trừ đi những cái kia; trong tác
phẩm gần như không thể gỡ rối của Ts’ui Pen, thì ông ta chọn – cùng một lúc – tất cả
các lựa chọn. Bằng cách này, ông ta tạo ra ‘một vài tương lai’, một vài thời điểm, mà
chính chúng tự nhân lên và rẽ nhánh. Đó là lời giải thích cho những điều mâu thuẫn
trong cuốn tiểu thuyết. Ví dụ như Fang có một bí mật; một kẻ lạ mặt gõ cửa; Fang
quyết định giết hắn ta. Theo lẽ thường thì có những kết quả khả dĩ khác nhau – Fang
có thể giết kẻ đột nhập, kẻ đột nhập có thể giết Fang, cả hai người có thể sẽ còn sống,
cả hai có thể bị giết chết, v.v.. Trong tiểu thuyết của Ts’ui Pen, tất cả những kết quả
thực sự đều diễn ra; mỗi kết quả là điểm khởi đầu cho một chỗ rẽ đôi khác. Thỉnh
thoảng thì những lối đi của mê lộ đó hội tụ lại với nhau: ví dụ, ông đến căn nhà này,
nhưng một trong những quá khứ có thể có thì ông là kẻ thù của tôi, trong một quá khứ
khác thì là bạn tôi. Nếu ông có thể chịu đựng lối phát âm hết thuốc chữa của tôi thì ta
sẽ đọc một vài trang.”
Gương mặt ông ta trong ánh đèn sáng rõ chắc chắn thuộc về một người già, mặc dù
gương mặt đó có nét gì đó kiên định và thậm chí cả bất tử. Bằng sự chuẩn xác chậm
rãi, ông ta đọc hai phiên bản của một chương thiên anh hùng ca. Trong phiên bản đầu,
một đội quân diễu hành băng qua vùng núi đi ra trận chiến; nỗi khiếp sợ từ những hòn
đá và của bóng đêm tạo niềm cảm hứng cho họ khinh bỉ cuộc đời, và họ tiếp tục đi đến
một chiến thắng dễ dàng. Trong phiên bản thứ hai, cũng đội quân đó băng qua toà lâu
đài đang có buổi tiệc khiêu vũ; trận chiến tưng bừng đối với họ như là sự tiếp nối cho
lễ hội, và họ giành thắng lợi dễ dàng.
Tôi lắng nghe những câu chuyện xưa cũ đó với sự tôn kính xứng đáng, những câu
chuyện đó chính chúng có lẽ không đáng chú ý bằng việc người đàn ông cùng dòng
máu với tôi đã sáng tác ra chúng và một người đàn ông khác ở một đế quốc xa xôi đã
mang chúng lại cho tôi ở trên một hòn đảo phương Tây khi tôi đang trong quá trình
thực hiện một nhiệm vụ liều lĩnh. Tôi nhớ những ngôn từ cuối cùng, được lặp lại trong
mỗi phiên bản như điều răn bí mật: “Do vậy những người anh hùng chiến đấu, con tim
đáng phục của họ điềm tĩnh, thanh gươm của họ bạo tàn, họ cam chịu việc giết chóc,
và cả cái chết.”
Từ lúc đó, tôi cảm nhận tất cả những gì về tôi, và trong cái thân thể nhạt nhoà này có
một sự sinh sôi nảy nở vô hình và mơ hồ – không phải của những đội quân phân tán ra,
song hành nhau và cuối cùng hợp lại, mà là một sự phiền muộn khó tiếp cận hơn, chất
chứa trong lòng nhiều hơn cả điều đó, là thứ mà những đội quân kia báo trước. Albert
tiếp tục:
“Tôi không tin vị tổ tiên lừng lẫy của ông đùa cợt với những biến dị mông lung này.
Tôi nghĩ rằng không thể nào có việc ông ta hi sinh mười ba năm cho màn trình diễn vô
tận việc áp dụng phép tu từ. Tại đất nước của ông thì tiểu thuyết là một thể loại không
quan trọng; vào thời điểm đó nó là thể loại còn dưới cả những thứ bị khinh rẻ khác.
Ts’ui Pen là một tiểu thuyết gia thiên tài, nhưng ông ấy cũng là một người của thư từ,
và chắc chắn là ông ta không tự coi mình đơn thuần là một tiểu thuyết gia. Lời của
những người đồng thời ông ta đã công bố ra những học thuật về siêu hình và về huyền
học của ông ấy – và cuộc đời ông ta là một sự xác nhận đầy đủ nhất. Sự tranh biện
mang tính triết lí chiếm lấy một phần giá trị trong tiểu thuyết của ông ta. Tôi biết rằng
trong tất cả những luận đề, chẳng cái nào làm ông ta bận tâm, chẳng cái nào khiến ông
ta âu lo như chính cái luận đề hóc hiểm về thời gian. Và rồi, kì lạ làm sao khi luận đề
đó là cái duy nhất không hiện ra trong những trang sách của cuốn Khu vườn. Ông ấy
thậm chí không bao giờ dùng từ đó. Ông giải thích ra sao về sự lược bỏ cố ý này?”
Tôi đề xuất một vài đáp án – tất cả đều không vừa ý. Chúng tôi thảo luận về chúng,
cuối cùng thì Albert nói:
“Trong một câu đố mà có câu trả lời là ‘cờ’, thì từ duy nhất không được nhắc đến là
gì?”
Tôi nghĩ trong một lát.
“Là từ ‘cờ’,” tôi trả lời.
“Chính xác,” Albert nói. “Khu vườn có những lối đi rẽ nhánh là một câu đố lớn, hoặc
là một câu chuyện ngụ ngôn, với chủ đề là thời gian; cái mục đích bí mật đó đã ngăn
Ts’ui Pen đề cập đến tên gọi của nó. Luôn luôn bỏ đi một từ, đưa vào một cách khập
khiễng những ẩn dụ và lối nói vòng vèo, có lẽ là cách rõ nhất để kêu gọi sự chú ý vào
từ đó. Ở múc độ nào thì nó là con đường ngoằn ngoèo, mà ngài Ts’ui Pen ưa lắt léo đã
chọn, tại mỗi khúc ngoặt trong cuốn tiểu thuyết bất tận của ông ta. Tôi đã đối chiếu
hàng trăm bản thảo, đã chỉnh sửa nhiều lỗi mà những tay sao chép cẩu thả thêm vào.
Tôi đã tiến tới được một lí thuyết cho cái dự định về sự hỗn độn đó. Tôi đã tái thiết
lập, hay tin rằng tôi đã tái thiết lập, cái trật tự cơ bản đó – tôi đã chuyển ngữ toàn bộ
tác phẩm; và tôi biết rằng từ “thời gian” không xuất hiện dù chỉ một lần. Lời giải thích
quá hiển nhiên: Khu vườn có những lối đi rẽ nhánh là một hình ảnh chưa hoàn thiện,
nhưng không sai lệch, của một vũ trụ mà Ts’ui Pen quan niệm. Không như Newton và
Schopenhauer, vị tổ tiên của ông không tin vào thời gian đồng bộ và tuyệt đối; ông ấy
tin vào chuỗi thời gian vô tận, một mạng lưới không ngừng phát triển, xoay vòng đến
chóng mặt của những thời điểm phân tán, hội tụ và song song với nhau. Cấu trúc cơ
bản của những đoạn thời gian, lúc thì tiến tới, rẽ nhánh, tách rời nhau, hoặc đơn giản là
một ẩn số trong hàng nhiều thế kỉ, nó chứa đựng toàn bộ các khả năng. Trong hầu hết
các thời điểm đó, chúng ta không tồn tại; trong một số, ông tồn tại nhưng tôi thì
không; trong số khác, tôi tồn tại còn ông thì không; vẫn trong một số khác thì cả hai ta
đều tồn tại. Trong cái này, thì tôi được trao cho quân bài cơ hội đầy ưu ái, ông đã đến
nhà tôi; trong cái khác, khi ông đi băng qua khu vườn mà ở đó ông phát hiện ra tôi đã
chết; trong cái khác nữa, tôi sẽ thốt ra những ngôn từ y như vầy, nhưng tôi là một sai
lầm, một con ma.”
“Trong tất cả mọi thứ,” tôi nói mà không tránh khỏi rùng mình, “tôi cảm kích, và kính
trọng, về việc ông tái dựng lại khu vườn của Ts’ui Pen.”
“Không phải trong tất cả đâu,” ông ta mỉm cười và thì thầm. “Thời gian rẽ nhánh, liên
tục, tiến vào những vùng tương lai bất tận. Tại một trong số những tương lai đó, thì tôi
là kẻ thù của ông.”
Tôi lại cảm nhận đuợc sự sinh sôi nảy nở mà tôi đã đề cập. Tôi cảm giác khu vườn ướt
sũng mà đang bao quanh căn nhà, nó dày đặc, đến vô tận, những bóng người vô hình.
Những người đó là Albert và chính tôi – bí ẩn, bận bịu công việc, muôn hình vạn trạng
– trong những chiều thời gian khác. Tôi nhướng đôi mắt lên và cơn ác mộng mỏng
manh kia tan biến. Trong khu vườn sắc-vàng-và-đen chỉ có duy nhất một người đàn
ông – nhưng người đàn ông đó trông huyền năng như một bức tượng, và người đàn
ông đó đang đi dọc xuống con đường, và người đó là Đại uý Richard Madden.
“Tương lai ở cùng với ta,” tôi đáp, “nhưng tôi là bạn của ông. Liệu tôi có thể nhìn bức
thư lần nữa không?”
Albert đứng dậy lần nữa. Ông ta đứng cao dong dỏng khi mở cái ngăn kéo của cái bàn
viết; ông ta xoay lưng về phía tôi trong một lát. Tôi kéo cò súng. Tôi bắn với vẻ cực kì
thận trọng. Albert ngã xuống không một tiếng kêu, không một âm thanh, ngay tức
khắc. Tôi thề là ông ấy chết ngay tức khắc – như ánh chớp vậy.
Phần còn lại chỉ là hư ảo và vô nghĩa. Madden xông vào căn phòng và bắt giữ tôi. Tôi
bị kết án treo cổ. Tôi đã thành công một cách kinh tởm: tôi đưa cho Berlin cái tên bí
mật của thành phố sắp bị tấn công. Hôm qua thì thành phố đó đã bị ném bom – tôi đọc
tin đó trên mấy tờ báo mà đã đặt ra nghi vấn cho toàn nước Anh về điều bí ẩn của vụ
sát hại một nhà nghiên cứu Trung-hoa nổi danh Stephen Albert, được thực hiện bởi
một kẻ lạ mặt mang tên Yu Tsun. Chỉ huy đã giải ra được câu đố. Ông ấy biết rằng vấn
đề của tôi là làm sao để báo cáo (băng qua tiếng gầm thét của chiến tranh) cái tên của
thành phố Albert, và biết rằng cách duy nhất tôi có thể tìm ra được là đi giết một người
có cùng cái tên ấy. Ông ta không biết (không ai có thể biết) về sự hối tiếc và nỗi chán
chường vô hạn của tôi.

You might also like