You are on page 1of 100

các khoang trống bên trong giữa các chùm đại phân tử của vật liệu.

Quá trình này cũng


không đơn thuần chỉ là các lực liên kết hoá lý (lực liên kết phân tử và lực hấp phụ) mà có
trường hợp còn là quá trình hoá học, thuốc nhuộm thực hiện liên kết ion hay liên kết hoá
trị với vật liệu. Tuỳ thuộc vào mỗi lớp thuốc nhuộm, mỗi loại vật liệu mà liên kết nào sẽ
trội hơn sẽ là chủ đạo, nhưng thường thì thuốc nhuộm được gắn hay được giữ trên vật liệu
bằng nhiều lực liên kết cùng thực hiện đồng thời. Trong công nghệ nhuộm, in hoa quá
trình tạo điều kiện cho thuốc nhuộm liên kết với vật liệu gọi là gắn màu, hãm màu, cố
định, định hình v.v. tuỳ theo mỗi trường hợp cụ thể. Dưới đây là các lực liên kết của thuốc
nhuộm với vật liệu thường gặp.
3.1. Liên kết ion
Liên kết này được thực hiện giữa các gốc mang màu tích điện âm của thuốc nhuộm
(axit, trực tiếp) và các tâm tích điện dương của vật liệu. Những vật liệu trong điều kiện
nhuộm (môi trường axit) có khả năng tích điện dương là: len, tơ tằm, xơ polyamit, da,
lông thú; chúng cấu tạo từ các mạch polypeptit, chứa nhiều nhóm amin tự do, trong môi
trường axit các nhóm này chuyển thành muối và phân ly làm cho vật liệu tích điện dương,
có thể minh hoạ như sau:
HOOC−P−NH2 + HCl HOOC−P−NH3Cl
+
HOOC−P−NH3Cl HOOC−P−NH3 + Cl−
ở đây P là ký hiệu mạch polypeptit.
Mặt khác trong nước phân tử thuốc nhuộm cũng phân ly và ion mang màu tích điện
âm như sau:
Ar−SO3Na Ar−SO3− + Na+
Ar - gốc thuốc nhuộm axit, thuốc nhuộm trực tiếp.
Trong quá trình nhuộm, khi tiếp cận với vật liệu, ion âm của thuốc nhuộm sẽ bị thu
hút về các tâm tích điện dương này và thực hiện liên kết ion hay còn gọi là liên kết muối
như sau:
− + −
HOOC−P−NH3 + O3S−Ar HOOC−P−NH3 O3S−Ar
Nhờ có năng lượng lớn nên thuốc nhuộm liên kết với vật liệu khá mạnh, tốc độ bắt
màu nhanh, phải điều chỉnh tốc độ nhuộm bằng cách điều chỉnh trị số pH của dung dịch
nhuộm.
3.2. Liên kết đồng hoá trị
Liên kết này được thực hiện chủ yếu ở thuốc nhuộm hoạt tính với các loại vật liệu có
chứa các nhóm hyđroxyl và nhóm amin (xơ xenlulo, len, tơ tằm, xơ polyamit, da và lông thú).
Do thuốc nhuộm hoạt tính chứa các nguyên tử cacbon hoạt động nên trong điều kiện
nhuộm chúng có thể tham gia phản ứng hoá học với vật liệu theo cơ chế thế ái nhân hoặc
kết hợp ái nhân tạo nên mối liên kết đồng hoá trị giữa thuốc nhuộm và vật liệu. Nhờ có
liên kết đồng hoá trị nên màu của vật liệu nhuộm bằng thuốc nhuộm hoạt tính có độ bền
cao với nhiều chỉ tiêu, trước hết là với xử lý ướt.
3.3. Liên kết hyđro
Liên kết hyđro được thực hiện giữa các nhóm định chức của xơ và thuốc nhuộm

97
như: nhóm hyđroxyl, nhóm amin, nhóm amit và nhóm cacboxyl. Khi phân tử thuốc nhuộm
tiếp cận với vật liệu ở khoảng cách cần thiết thì lực liên kết hyđro sẽ phát sinh do tương
tác của các nhóm định chức với nhau. Năng lượng của một mối liên kết hyđro không lớn
nhưng tổng năng lượng của nhiều liên kết hyđro của cả phân tử thuốc nhuộm với vật liệu
thì đáng kể. Liên kết hyđro có vai trò quan trọng trong một số trường hợp để cố định
thuốc nhuộm trên vật liệu. Thí dụ, thuốc nhuộm trực tiếp gắn màu vào xơ xenlulo và tơ
tằm chủ yếu bằng lực liên kết hyđro.
3.4. Liên kết Van der Waals
Liên kết Van der Waals được thực hiện ở hầu hết các lớp thuốc nhuộm khi tương tác
với vật liệu. Tuỳ theo loại thuốc nhuộm (có cực hay không có cực) và loại vật liệu (ưa
nước hay kỵ nước) và tuỳ theo mức độ tiếp cận giữa phân tử thuốc nhuộm và vật liệu mà
lực liên kết phân tử sẽ là chính hay chỉ có ý nghĩa nhất định. Thí dụ, thuốc nhuộm hoàn
nguyên và azo không tan, ngoài yếu tố nằm trên vật liệu ở dạng không tan, chúng được
giữ lại trên xơ xenlulo chủ yếu bằng lực Van der Waals và liên kết hy đro. Liên kết Van
der Waals được coi là tổ hợp của các lực hút: lưỡng cực, phân cực cảm ứng và lực phân
tán London.
3.5. Lực tương tác kỵ nước
Lực này phát sinh giữa các gốc hyđrocacbon của thuốc nhuộm và vật liệu không có
cực khi tiếp cận với nhau, do chúng không đẩy nhau, dễ hoà đồng vào nhau, bám dính vào
nhau. Có thể coi trường hợp nhuộm các xơ tổng hợp ky nước bằng thuốc nhuộm phân tán
là thí dụ điển hình. Thuốc nhuộm phân tán không tan trong nước được sản xuất ở dạng bột
mịn phân tán cao, ở điều kiện nhuộm hoặc là nhiệt độ cao áp suất cao hoặc là gia nhiệt
khô, thuốc nhuộm sẽ tan vào các xơ kỵ nước và nhiệt dẻo này. Xơ tổng hợp được xem là
dung dịch rắn của thuốc nhuộm phân tán. Nhờ có liên kết này mà thuốc nhuộm có độ bền
màu cao với giặt.

4. CÁC LOẠI THUỐC NHUỘM CỤ THỂ


4.1. Thuốc nhuộm trực tiếp
4.1.1. Đặc điểm về cấu tạo
Thuốc nhuộm trực tiếp hay còn gọi là thuốc nhuộm tự bắt màu (supstantip) là những
hợp chất màu hoà tan trong nước, có khả năng tự bắt màu vào một số vật liệu như: các xơ
xenlulo, giấy, tơ tằm, da và xơ polyamit một cách trực tiếp nhờ các lực hấp phụ trong môi
trường trung tính hoặc kiềm. Hầu hết thuốc nhuộm trực tiếp thuộc về nhóm azo, số ít hơn
là dẫn xuất của đioxazin và phtaloxianin, tất cả được sản xuất dưới dạng muối natri của
axit sunfonic hay cacboxylic hữu cơ, một vài trường hợp được sản xuất dưới dạng muối
amoni và kali, nên được viết dưới dạng tổng quát là Ar−SO3Na (Ar là gốc hữu cơ mang
màu của thuốc nhuộm). Khi hoà vào nước thuốc nhuộm phân ly như sau:
Ar−SO3Na Ar−SO3− + Na+.
ion Ar−SO3− là ion mang màu, tích điện âm.
Khả năng tự bắt màu của thuốc nhuộm trực tiếp phụ thuộc vào ba yếu tố dưới đây:
1- Phân tử thuốc nhuộm phải chứa một hệ thống mối liên kết nối đôi cách không
dưới 8 kể từ đầu nhóm trợ màu này đến đầu nhóm trợ màu kia, như vậy phân tử thuốc

98
nhuộm sẽ luôn ở trạng thái chưa bão hoà hoá trị và có khả năng thực hiện các liên kết Van
der Waals và liên kết hyđro với vật liệu;
2- Phân tử thuốc nhuộm phải thẳng, vì xơ xenlulo nói riêng và những vật liệu mà
thuốc nhuộm có khả năng bắt màu đều có cấu tạo phân tử mạch thẳng, có như vậy phân tử
thuốc nhuộm mới dễ tiếp cận với vật liệu và thực hiện các liên kết;
3- Phân tử thuốc nhuộm phải có cấu tạo phẳng, các nhân thơm hoặc các nhóm chức
của thuốc nhuộm phải nằm trên cùng một mặt phẳng để nó có thể tiếp cận cao nhất với
mặt phẳng của phân tử vật liệu cũng là yếu tố quan trọng cho việc phát sinh và duy trì các
lực liên kết của nó với vật liệu.
Ngoài ba yếu tố kể trên phân tử thuốc nhuộm trực tiếp còn phải chứa một số nhóm
chức nhất định, chủ yếu là nhóm hydroxyl và nhóm amin (−OH, −NH2), những nhóm này
vùa làm nhiệm vụ trợ màu vừa tạo cho thuốc nhuộm thực hiện liên kết hyđro với vật liệu.
Theo cấu tạo hoá học thuốc nhuộm trực tiếp được chia thành các nhóm sau đây:
- Thuốc nhuộm trực tiếp azo, trong phân tử chứa một hoặc nhiều nhóm azo
(−N=N−), nhóm này chiếm đại bộ phận các thuốc nhuộm trực tiếp và xếp thành bốn loại:
loại thông thường, loại có độ bền màu cao, loại chứa hoặc có khả năng kết hợp với ion
kim loại thành phức không tan và loại có khả năng điazo hoá sau khi nhuộm;
- Thuốc nhuộm trực tiếp là dẫn xuất của đioxazin;
- Thuốc nhuộm trực tiếp là dẫn xuất của phtaloxianin.
Ngoài ra trong phân tử thuốc nhuộm còn chứa vòng triazin vừa đóng vai trò phần tử
ngăn cách vừa chứa các nguyên tử bão hoà hoá trị nên càng làm tăng khả năng bắt màu
của nó vào vật liệu. Trong phân tử thuốc nhuộm còn chứa gốc của axit xalixilic nên nó có
thể tạo phức với các ion kim loại nặng để tăng thêm độ bền màu.
Thuốc nhuộm trực tiếp điazo có nhóm amin bậc nhất ở vị trí para hay meta so với
nhóm azo có thể điazo hoá và kết hợp với thành phần azo mới (thường là β-naphtol) để
tăng độ bền màu. Để dễ nhận biết khi sử dụng, trong tên gọi của loại thuốc nhuộm này có
chữ điazo.
Các mặt hàng thương phẩm của thuốc nhuộm trực tiếp.
Dựa vào các chỉ tiêu về độ bền màu và phương pháp sử dụng thuốc nhuộm trực tiếp
được chia làm bốn nhóm:
1- Gồm những màu có độ bền với ánh sáng dưới cấp 4 (theo thang 8 cấp), còn độ
bền với xử lý ướt dưới cấp 3 (theo thang 5 cấp);
2- Gồm những thuốc nhuộm trực tiếp có độ bền ánh sáng trên cấp 4, bền với xử lý
ướt ở mức trung bình, sau khi cầm màu độ bền sẽ tăng lên;
3- Gồm những thuốc nhuộm cần xử lý cầm màu với muối đồng nên trong tên gọi có
chữ “cupro”, độ bền màu với giặt đạt trên cấp 3, còn với ánh sáng không dưới cấp 5.
4- Gồm những thuốc nhuộm có thể điazo hoá trên vải và kết hợp tiếp với một thành
phần azo nữa để tăng độ bền màu với giặt lên đến cấp 4.
Tên thương phẩm của các thuốc nhuộm trực tiếp của các hãng nổi tiếng thế giới có
thể xem ở tài liệu tham khảo.

99
Bảng 3.1

Nước Hãng Tên nhóm thuốc nhuộm


sản xuất sản xuất 1 2 3 4
Anh ICI Chlorazol Durazol, fixazol Durazol cupro Chlorazol
Ba Lan Chemicolor Direct Helion − Diazo
Đức Bayer Benzo ánh Sirius bền Benzo cuprol Benzamin
− Sirius supra Bbenzo cuper Benzo para
Hochst − Remastral − Dianil
BASF − Lurantin − −
Wolfen Columbia Solamin Cupracon Naphtogen
− Solamin - fau Zambenzi
Mỹ Du-Pont Pontamine Pontamine fast Pontamine Pontamine
Cuper diazo
− Resotix − −
Sec và
Slovackia Chemapol Direct Saturn Ribantin Azogen
Thuỵ Sĩ Ciba − Chlorantine Copratin Diazo
Polytex, Rigan Neooupran Rosantren
− Cupranon
Ciba-geigy Diphenyl Solophenyl Cuprophenyl Diazophenyl
Sandoz Chloramin Pirazol Cuprofix Diazophenyl
− Solar Reofix Diazoamin

Tính chất mỹ thuật của thuốc nhuộm trực tiếp


Để tiện cho việc sử dụng, các hãng chế tạo thuốc nhuộm đều có tài liệu chỉ dẫn về
tính chất sản phẩm của mình, tuy nhiên giữa các lô hàng khác nhau và sản phẩm của các
hãng khác nhau vẫn có sai lệch, khi dùng cần thử nghiệm lại nhằm bảo đảm kết quả
nhuộm trùng lặp.
Khi chuẩn bị dung dịch nhuộm với những thuốc nhuộm trực tiếp khó tan cần phải
thêm natri cacbonat vào máng để tạo môi trường kiềm yếu.
Nhiệt độ nhuộm và độ hấp phụ tối ưu. Chỉ tiêu này được xác định theo mức độ hấp
phụ tối đa của vải bông trong các dung dịch thuốc nhuộm có nồng độ khác nhau để nhận
được màu có cường độ trung bình. Nhiệt độ nhuộm tối ưu của thuốc nhuộm trực tiếp trong
khoảng từ 75oC đến 95oC tuỳ thuộc vào mỗi màu và mỗi loại vật liệu. Độ hấp phụ tối ưu
được xác định khi nhuộm sợi bông đã làm bóng ở nhiệt độ tối ưu với dung tỷ bằng 40 khi
có mặt 15% muối ăn.
Số liệu hay đồ thị hấp phụ tối ưu của mỗi thuốc nhuộm được sử dụng khi ghép màu
với các thuốc nhuộm khác.
Độ bền màu và sự biến sắc. Thuốc nhuộm trực tiếp có ưu điểm là có đủ gam màu từ
vàng đến đen, màu tương đối tươi, song nhiều thuốc nhuộm trực tiếp kém bền màu với

100
giặt và ánh sáng. Độ bền màu và ánh màu của nhiều thuốc nhuộm trực tiếp sẽ thay đổi khi
nhuộm cho các vật liệu khác nhau.Thí dụ một số thuốc nhuộm kém bền màu khi nhuộm
cho xơ bông nhưng lại rất bền màu khi nhuộm cho lụa tơ tằm. Để nâng cao độ bền màu
(cầm màu, hãm màu) cho vật liệu nhuộm bằng thuốc nhuộm trực tiếp người ta dùng các
biện pháp khác nhau nhưng phổ biến hơn cả là dùng các chế phẩm từ nhựa cao phân tử
tích điện trái dấu với thuốc nhuộm hoặc muối kim loại nặng. Sau khi cầm màu bằng các
chế phẩm này độ bền với giặt và ánh sáng có thể tăng lên 1 - 2 cấp nhưng màu sẽ kém tươi
(bị biến sắc).
Các chế phẩm cầm màu cho vật liệu nhuộm bằng thuốc nhuộm trực tiếp được các
hãng sản xuất và sử dụng phổ biến trong ngành dệt gồm có: muối copratin II, muối
copratin TS, coprantex B, Sapamin, Sapamin A, Sapamin CH, Sapamin BCH, Sapamin
MS Sapamin KW, Liofix EW, Liofix SB (do hãng Ciba sản xuất), Solidogen B, Solidogen
BSE, Solidogen BS (hãng Cassella sản xuất); fixanol PN (hãng ICI sản xuất); Cuprofix S
và SL, Resofix BV, Sandofix B (hãng Sandoz sản xuất); Tinofix B, Tinofix LW (hãng
Geigy sản xuất); Levogen WW và FW (hãng Bayer sản xuất); Sintefix và Sintefix S (Sec
và Slovackia sản xuất); DCU và DCM (do Liên Xô (cũ) sản xuất).
4.1.2. Phạm vi sử dụng
Do có khả năng tự bắt màu, công nghệ nhuộm đơn giản và rẻ nên thuốc nhuộm trực
tiếp được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: để nhuộm trong ngành dệt (vải, sợi
bông, hàng dệt kim từ bông, lụa, vixco, lụa tơ tằm, sợi polyamit, sợi đay và các sợi libe);
để nhuộm giấy, nhuộm các sản phẩm từ tre nứa, mãnh trúc; để nhuộm da thuộc và chế
mực viết.
Một số thuốc nhuộm trực tiếp có độ bền màu cao vẫn được dùng để nhuộm một số
loại vải và sợi bông kể cả hàng dệt kim từ sợi bông hoặc thành phần bông trong vải pha.
Khi nhuộm theo phương pháp tận trích thành phần máng nhuộm gồm có: thuốc nhuộm
(1 - 4% so với vật liệu), natri cacbonat (2 - 4 g/l), chất ngấm (1 - 2 g/l), dung tỷ nhuộm từ
5 - 8 tuỳ loại thiết bị. Quá trình nhuộm được thực hiện ở 85 - 95oC trong thời gian 60 - 90
ph. Muối ăn với hàm lượng 15 - 20 g/l được hoà thành dung dịch và đưa vào máy nhuộm
sau khi tiến hành nhuộm được 45 - 50 ph. Kết thúc quá trình nhuộm vải được cầm màu
bằng một trong các chế phẩm thích hợp ở 60 - 70oC trong 15 ph.
Thuốc nhuộm trực tiếp cũng được dùng phổ biến để nhuộm lụa vixcô kể cả thành
phần vixcô trong vải pha. Do xơ vixcô có cấu trúc xốp nên nó dễ bắt màu bằng loại thuốc
nhuộm này, màu bền hơn và tươi hơn so với khi nhuộm vải bông. Thành phần dung dịch
nhuộm và công nghệ nhuộm tương tự như khi nhuộm vải bông, chỉ khác là nhiều trường
hợp không phải dùng muối ăn và không cần hãm màu. Để đạt được độ đều màu cao một
số hãng sản xuất các mặt hàng thuốc nhuộm trực tiếp dùng riêng cho lụa vixcô như: benzo
vixcô (hãng Bayer), rigan (hãng Ciba), vixcô (hãng Sandoz), isil (hãng ICI) solamin - fau
(hãng Wolfen).
Tơ tằm là mặt hàng dệt quý hiếm cũng được nhuộm nhiều bằng thuốc nhuộm trực
tiếp. Thành phần nhuộm và công nghệ nhuộm cũng tương tự như khi nhuộm vải bông,
điều khác chủ yếu là phải khống chế trị số pH để không ảnh hưởng đến độ bền của tơ (pH
= 8 - 8,5), ít phải dùng muối ăn và không cần hãm màu. Những thuốc nhuộm trực tiếp
được chỉ định dùng riêng cho tơ tằm gồm: Benzyl, Chlorantine (hãng Ciba-Geigy);
Colozol (hãng Colourtex); Atul (hãng Atul); Solar (hãng Sandoz); Rono sunfast (hãng
IDI) Incomine (hãng INDOKEM) v.v.

101
Thuốc nhuộm trực tiếp cũng được dùng để nhuộm một số sản phẩm dệt từ xơ
polyamit với các gam màu nhạt. Đặc biệt nó được dùng để nhuộm vải lanh, sợi đay và các
sợi từ xơ libe cho màu bền và tươi. Trong công nghiệp giấy thuốc nhuộm trực tiếp được
dùng để nhuộm giấy hoặc bằng cách đưa ngay vào bể chứa bột giấy trước khi xeo hoặc
nhuộm phủ bề mặt bằng cách cán ép hoặc quét dung dịch thuốc nhuộm lên mặt giấy.
Trong công nghiệp thuộc da một số thuốc nhuộm trực tiếp được dùng để nhuộm da nhất là
các màu đen, nâu và một số màu xanh. Một số thuốc nhuộm trực tiếp có độ hoà tan tốt
được dùng để chế tạo mực viết. Ở nước ta thuốc nhuộm trực tiếp còn được dùng để nhuộm
hàng mây tre, mành trúc, các đồ dùng đan từ tre nứa, tăm hương và nhuộm gỗ trước khi
phủ vecni.
4.2. Thuốc nhuộm axit
Các loại thuốc nhuộm axit có đặc điểm chung là hoà tan trong nước, có phạm vi sử
dụng rộng, ngoài mục đích nhuộm len, tơ tằm và xơ polyamit, một số được dùng để
nhuộm lông thú và nhuộm da. Lớp thuốc nhuộm này có tên gọi là “axit” vì chúng bắt màu
vào xơ trong môi trường axit, còn bản thân thuốc nhuộm thì có phản ứng trung tính.
Theo cấu tạo hoá học, đa số thuốc nhuộm axit nhuộm về nhóm azo, số ít hơn là dẫn
xuất của antraquinon, triarylmetan, xanten, azin và quinophtalic; một số có thể tạo phức
với ion kim loại. Theo tính chất kỹ thuật thuốc nhuộm axit được chia thành ba nhóm:
- thuốc nhuộm axit thông thường;
- thuốc nhuộm axit cầm màu;
- thuốc nhuộm axit chứa kim loại.
Ba nhóm thuốc nhuộm này có đặc điểm chung là đủ màu, màu của chúng tươi và
thuần sắc. Đa số chúng là muối của các axit mạnh và bazơ mạnh nên khi hoà tan trong
nước thì phân ly thành các ion như sau:
Ar−SO3Na Ar−SO3− + Na+.
Các ion mang màu của thuốc nhuộm tích điện âm (Ar−SO3−) sẽ hấp phụ vào các tâm
tích điện dương của vật liệu. Nhờ đó mà nó được gắn màu hay giữ lại trên vật liệu bằng
mối liên kết ion hay liên kết muối, đó là đặc điểm riêng của thuốc nhuộm axit. Ngoài ra
chúng cũng được liên kết với vật liệu bằng lực Van der Waals, liên kết hyđro và liên kết
phối trí, nhưng những lực liên kết này không mạnh.
4.2.1. Thuốc nhuộm axit thông thường
Loại thuốc nhuộm này có gam màu rất rộng, màu thuần sắc và tươi, độ bền màu với
gia công ướt cao nhưng độ bền màu với ánh sáng chỉ đạt cấp trung bình. Theo cấu tạo hoá
học thì đa số thuốc nhuộm axit thông thường là dẫn xuất azo; dẫn xuất của antraquinon
chiếm tỷ lệ thấp hơn, các dẫn xuất khác còn ít nữa.
Thuốc nhuộm azo axit
Trong số các thuốc nhuộm azo axit chỉ có loại monoazo và điazo là có ý nghĩa thực
tiễn, loại polyazo ít gặp vì phân tử của chúng quá lớn.
Thuốc nhuộm monoazo axit do có phân tử nhỏ nên có chủ yếu các gam màu vàng,
màu da cam và màu đỏ; đa số chúng là dẫn xuất của azobenzen, benzonaphtalen,
azonaphtalen, pirazolon.
Khi đưa thêm nguyên tử halogen vào nhân benzen của gốc phenylpirazolon thì độ
bền màu với ánh sáng của thuốc nhuộm sẽ tăng lên. Để nâng cao độ hoà tan của thuốc

102
nhuộm người ta đưa thêm vào phân tử của chúng các nhóm natri sunfonat (SO3Na), điều
này sẽ làm tăng độ đều màu nhưng sẽ làm giảm ái lực của thuốc nhuộm. Để duy trì độ đều
màu cao, độ bền màu cao với ánh sáng và độ bền màu cao với điều kiện cán mịn, người ta
thay một phần trong số các nhóm natri sunfonat bằng nhóm sunfamit (SO2NH2) hoặc
nhóm này đã được thế bằng các gốc arylankyl.
Để tăng thêm độ bền màu với ánh sáng và gia công ướt, tăng thêm độ đều màu, hãng ICI
đã sản xuất ra loại thuốc nhuộm axit có chứa vòng pirazolon và gốc hidrocacbon thẳng dài.
Thuốc nhuộm điazoaxit chiếm tỷ lệ lớn trong số các thuốc nhuộm azoaxit, chúng có
các gam màu vàng, da cam, đỏ nhưng chủ yếu là các màu xanh và đen.
Thuốc nhuộm axit antraquinon
Vì là dẫn xuất của antraquinon nên thuốc nhuộm axit loại này có độ bền màu cao
hoặc rất cao với giặt và ánh sáng, màu tươi và thuần sắc. Ngoài nhóm natri sunfonat trong
nhân antraquinon còn chứa các nhóm khác như: OH, NH2. Khi các nhóm này nằm ở vị trí
thích hợp thì thuốc nhuộm có thể tạo phức với ion kim loại làm cho màu bền hơn.
Thí dụ, alzarin đỏ, là hỗn hợp của hai đồng phân có công thức như sau:
O O OH
OH OH

SO3H HO SO3Na
O O

Len hay tơ tằm nhuộm bằng thuốc nhuộm này lúc đầu có màu đỏ khi tạo phức với
muối crôm thì chuyển thành màu đỏ lựu, bền màu với ánh sáng, gia công ướt và cán mịn.
Hãng ICI đã sản xuất ra loại thuốc nhuộm axit antraquinon có chứa nhóm alkyl dài
(có số nguyên tử cacbon đến 20) gọi là cacbolan. Những mặt hàng thuốc nhuộm này có
các gam màu vàng, đỏ tím, xanh lam, xanh lục và nâu. Chúng có độ bền màu cao với ánh
sáng và giặt, dễ đều màu và có thể bắt màu vào xơ len trong môi trường trung tính nên
được dùng để nhuộm vải len pha xơ xenlulo. Cacbolan tím 2R là thuốc nhuộm tiêu biểu có
công thức sau:
O NH2
O (CH2) n CH3

O HN

SO3H

Thuốc nhuộm axit là dẫn xuất của triarylmetan


Thuốc nhuộm axit thuộc về loại này không nhiều, chỉ có các màu xanh lam, xanh lục
và màu tím là có ý nghĩa hơn cả, chúng chứa ít nhất hai nhóm natri sunfonat. Các nhóm
amin nằm ở vị trí para so với nguyên tử cacbon ở trung tâm chính là các nhóm trợ màu.
Các mặt hàng thương phẩm
Đặc điểm của thuốc nhuộm axit thông thường là khác nhau khá nhiều về khả năng
bắt màu vào vật liệu, khả năng đều màu, độ bền màu với giặt và ánh sáng. Những thuốc
nhuộm là dẫn xuất của hợp chất azo và arylmetan thường kém bền màu với ánh sáng;

103
những màu là dẫn xuất của antraquinon thường có màu tươi, có độ bền màu cao với nhiều
chỉ tiêu gia công ướt và ánh sáng, lại có thể nhuộm trong môi trường axit yếu hoặc trung
tính nên chúng được sử dụng nhiều hơn trong thực tế.
Theo tính chất kỹ thuật thuốc nhuộm axit thông thường chia làm ba nhóm: dễ đều
màu (bắt màu vào vật liệu trong môi trường axit mạnh), khó đều màu (bắt màu vào vật
liệu trong môi trường axit yếu) và đều màu trung bình chiếm vị trí trung gian của hai
nhóm trên. Đặc điểm của mỗi nhóm thuốc nhuộm này được thống kê trong bảng 3.2.

Bảng 3.2

Loại thuốc nhuộm axit


Tên chỉ tiêu
dễ đều màu đều màu khó đều màu
Độ bền với gia công ướt thấp khá cao
Trị số pH khi nhuộm 2-4 4-6 6-7
Tác nhân axit dùng H2SO4 CH3COOH CH3COONH4
Đặc điểm của thuốc nhuộm:
khối lượng phân tử nhỏ trung bình lớn
độ hoà tan cao thấp rất thấp
ái lực với vật liệu thấp cao cao
tốc độ khuếch tán cao thấp rất thấp

Tuy công nghệ nhuộm phức tạp nhưng những thuốc nhuộm khó đều màu sẽ đạt được
độ bền màu cao với gia công ướt và ánh sáng, hơn nữa lại có thể nhuộm trong môi trường
axit yếu và trung tính nên có thể thiết lập công nghệ nhuộm các loại vải pha từ xơ len hoặc
tơ tằm, xơ polyamit với xơ xenlulo bằng hỗn hợp thuốc nhuộm thích hợp. Hiện nay các
loại vải len được sản xuất rất đa dạng gồm có: vải thuần len, vải len pha bông, len pha xơ
vixcô, len pha xơ polyamit, len pha xơ polyeste và len pha xơ acrylic v.v., vì vậy người ta
cũng sản xuất ra các hỗn hợp thuốc nhuộm phối sẵn dùng cho các loại vải kể trên.
Dưới đây là tên gọi thương phẩm của thuốc nhuộm axit thông thường của một số
hãng trên thế giới sản xuất (bảng 3.3).

Bảng 3.3

Tên nước Tên hãng Tên thuốc nhuộm thương phẩm


Anh ICI Cumassi, lissamine, carbolan
Ba Lan Acid, metanin
Đức Bayer Acilan, supramine, supracen, cupranol, telenfast
Liên Xô (cũ) Kitlotni, acid
Mỹ Du-Pont Pontasil, metanil, litocol
Nhật Bản KKK Kayacil, kayanol
Pháp Francolor Sulphacid, supracid, acide
Sec và Slovakia Chemapol Egaoid, midlon, ribacid
Thuỵ Sĩ Cìba-Geigy Erio, eriosin, irganol, erionil
Sandoz Sandolan

104
Xơ polyamit cũng được nhuộm bằng thuốc nhuộm axit nhưng khả năng bắt màu yếu
hơn so với len và tơ tằm nên người ta sản xuất một số thuốc nhuộm axit dùng riêng cho xơ
polyamit, tên thương phẩm của các mặt hàng này được trình bày trong bảng 3.4.

Bảng 3.4

Tên nước Tên hãng Tên thuốc nhuộm thương phẩm


Anh ICI Carbolan, nylamin
Đức BASF Basolan
Bayer Supramine, supranol, telon lightfast
Cassella Perlamin, perlaminfast
Hoechst Lanoperl, antralan
Sec và Slovackia Chemapol Midlon, alizarin-asurol, ribacid
Thuỵ Sĩ Ciba-Geigy Elanyl, benzyl, neonyl, erionil, eriofast, enosolid,
polar, textilon
Sandoz Nylocan, lanasin, sandolan, nylosan, alizarin

Thuốc nhuộm axit thông thường và hỗn hợp của chúng với thuốc nhuộm trực tiếp đã
được sử dụng theo truyền thống để nhuộm da thuộc, lông thú, da nguyên lông và các sản
phẩm bằng lông khác nhau. Những mặt hàng này rất phong phú và đa dạng, cần tìm hiểu
thêm trong các tài liệu chuyên khảo.
4.2.2. Thuốc nhuộm axit crom
Một số thuốc nhuộm vừa có các tính chất như thuốc nhuộm axit thông thường vừa
có khả năng tạo phức với muối kim loại, chủ yếu là muối crom, nên được xếp riêng thành
một nhóm gọi là thuốc nhuộm axit crom hay thuốc nhuộm axit cầm màu. Chúng được sử
dụng để nhuộm len nhất là các mặt hàng cần có độ bền màu cao với ma sát và ánh sáng),
nhuộm da thuộc, lông thú và còn được dùng để nhuộm bề mặt kim loại (nhôm) để trang
trí. Để cầm màu người ta thường dùng muối kali bicromat, còn các muối khác của crom
thì ít dùng hơn. Việc cầm màu có thể thực hiện trước khi nhuộm, sau khi nhuộm hoặc
nhuộm và crom hoá đồng thời nên cũng xuất hiện công nghệ và sự lựa chọn thuốc nhuộm
cho phù hợp với các điều kiện công nghệ này.
Gam màu của thuốc nhuộm axit crom rất rộng nhưng đa số sau khi cầm màu trở nên
kém tươi hoặc biến sắc. Sau khi tạo phức với ion kim loại màu của chúng sẽ bền với gia
công ướt, ánh sáng, ma sát và điều kiện cán mịn, nhờ tạo thành phức không tan giữa thuốc
nhuộm và kim loại, xuất hiện thêm các vòng phụ làm tăng lực liên kết của thuốc nhuộm
với xơ. Những thuốc nhuộm axit crom có ý nghĩa thực tiễn hơn cả đều là dẫn xuất azo, số
ít hơn là dẫn xuất của antitraquinon và một vài dẫn xuất khác.
Tuỳ theo vị trí của các nhóm định chức có thể liên kết với ion kim loại, thuốc nhuộm
axit crom gốc azo có các loại tiêu biểu dưới đây: 0,0’-đihyđroxiazo; 0,0’-hyđroxi-
cacboxylazo; 0,0’-hyđroxiaminoazo; dẫn xuất của axit cromotropic và 8-hyđroxiquinolin
dẫn xuất của axit xalixilic. Khi gia công với muối crom hoá trị ba những thuốc nhuộm này
có thể tạo thành ba loại phức: 1:1, 1:2 và 2:3 nghĩa là một ion kim loại có thể liên kết với
một hay hai phân tử thuốc nhuộm hoặc hai nguyên tử kim loại với ba phân tử thuốc
nhuộm, theo các dạng tổng quát như sau:

105
Kiểu phức 1:1 (một ion crom, một phân tử thuốc nhuộm)
+
N N X

+
O Cr O

Kiểu phức 1:2 (một ion crom, hai phân tử thuốc nhuộm)

N N

O O
+
Cr Na
O O

N N

hoặc
H2O H2O −
+
N N O C O N N Na

C O O C
O O

Kiểu phức 2:3 là ghép của hai kiểu phức trên:

N N
+
O O
N N
Cr
O Cr O O O

N N

Các kiểu phức kể trên được tạo thành ở dạng nào là tuỳ thuộc vào quá trình crom
hoá và môi trường; các phức 1:1 và 1:2 có ý nghĩa thực tiễn hơn phức 2:3, song những
phức có hàm lượng crom thấp hơn (1:2 và 2:3) sẽ có màu sâu hơn phức 1:1. Ngoài ra các
phức 1:2 không có cấu tạo phẳng, hai phân tử thuốc nhuộm thường nằm trong các mặt
phẳng góc với nhau, các phân tử nước liên kết với phức này chỉ bị tách ra khi sấy trên
120oC. Khi phức được tạo thành trên vật liệu (len, da thuộc, lông thú) thì phân tử nước sẽ
tách ra, nhường chỗ cho các nhóm chức của vật liệu liên kết với crom. Liên kết giữa vật
liệu, thuốc nhuộm và crom được mô hình hoá như sau:

mạch keratin, gelatin


+
COO NH2 NH2 NH3
+
Cr
O O SO3

N N

106
Các mặt hàng thương phẩm
Thuốc nhuộm axit crom cũng được nhiều hãng sản xuất với các tên gọi thương phẩm
khác nhau dùng cho các phương pháp nhuộm khác nhau. Trong bảng 3.5 trình bày một số
thuốc nhuộm thường gặp trên thị trường thế giới.
Bảng 3.5
Tên thuốc nhuộm thương phẩm
Tên nước Tên hàng dùng cho các dùng cho nhuộm và
phương pháp nhuộm crom hoá đồng thời
Anh ICI Colochrome, Colochrome, colochromat
Omegachrome
Ấn Độ Ksa, tula, esgi, chromic
Ba Lan Acid chrome Orthochrome
Đức Bayer Diamant, telen chromic Monochrome, chromogen
BASF Basolan, chromic
Hoechst Saldinchrome, Metachrome
saliclicinchromic
Mỹ Du-Pont Prontachrome Chromat
Pháp Francolor Francolan, chromic Crinolan
Sec và Slovackia Chenapol Alizarin Alizarinchrome
Thuỵ Sĩ Ciba-Geigy Fastchrome, eriochrome Sintochromat, eriochromal
Sandoz Omegachrome, alizarin Metomegachrome

4.2.3. Thuốc nhuộm axit chữa kim loại


Để đơn giản hoá quá trình chuẩn bị và nhuộm vật liệu, người ta đã chế tạo ra loại
thuốc nhuộm chứa sẵn nguyên tử kim loại trong phân tử của chúng, gồm thuốc nhuộm
chứa kim loại 1:1 và 1:2. Để tạo phức với phân tử thuốc nhuộm người ta dùng các ion kim
loại có điện tử vòng ngoài chưa bão hoà, thường là cation của các kim loại chuyển tiếp
thuộc chu kỳ thứ nhất của bảng tuần hoàn các nguyên tố Mendeleev như: crom, niken,
coban, đồng. Việc lựa chọn kim loại để tạo phức phụ thuộc vào cấu tạo hoá học của thuốc
nhuộm; để tạo phức kiểu 1:1 người ta dùng chủ yếu crom hoá trị ba vì nó tạo phức bền với
môi trường axit mạnh, thuận tiện cho việc nhuộm một số vật liệu trong môi trường axit vô
cơ có trị số pH trong khoảng 3 - 3,5. Với loại phức 1:2, ngoài crom người ta còn dùng
coban, hoá trị ba.
Thuốc nhuộm axit chứa kim loại 1:1 lần đầu tiên được hãng Ciba của Thuỵ Sĩ sản
xuất vào năm 1924 với tên gọi là neolan, sau đó hãng BASF sản xuất với tên gọi là
palatin; chúng có đặc điểm chung là dễ hoà tan trong nước, dễ đều màu, màu tươi và bắt
màu vào vật liệu trong môi trường axit mạnh. Palatin xanh lam bền màu GGN là một
trong những thuốc nhuộm tiêu biểu cho nhóm này, có công thức sau:
H2O H2O
+
O Cr O SO3

NaO3S N N

107
Khi thuốc nhuộm này liên kết với vật liệu thì các phân tử nước sẽ tách ra nhường
chỗ cho các nhóm chức của vật liệu liên kết với crom.
Thuốc nhuộm axit chứa kim loại l:2 cũng được nhiều hãng quan tâm sản xuất. Để
tạo cho thuốc nhuộm có độ hoà tan cần thiết người ta đưa vào phân tử của chúng các
nhóm ưa nước như: sunfamit (−SO2NH2), metylsunfon (−SO2CH3); chỉ giữ lại một phần
nhóm natri sunfonat. Vì nguyên tử kim loại (thường là crom) đã được bão hoà bằng các
liên kết phối trí nội phân tử, chúng không còn khả năng liên kết phối trí với vật liệu nữa.
Chúng liên kết với các vật liệu từ protein (len, tơ tằm, da thuộc, lông thú) bằng liên kết
ion, liên kết hidro và liên kết Van der Waals trong môi trường axit yếu (pH = 5 - 6) và
ngay cả môi trường trung tính nữa. Irgalan màu ghi BL là một trong những thuốc nhuộm
tiêu biểu của nhóm này, có công thức như sau:
H3C CO
SO2CH3 N
H
N N

O O +
Na
Cr
O O

N N
H
N
OC CH3

Do có màu tươi, độ bền màu cao với nhiều chỉ tiêu gia công ướt và ánh sáng, công
nghệ nhuộm lại đơn giản nên thuốc nhuộm axit chứa kim loại được dùng nhiều để nhuộm
vải, xơ len, nhuộm lông thú, nhuộm các loại vải len pha với các xơ khác, nhuộm vải từ xơ
polyamit và nhuộm da. Riêng thuốc nhuộm chứa kim loại l:2 do có thể nhuộm trong môi
trường axit yếu nên ngoài các sản phẩm dệt từ len hay len pha nó còn được dùng nhiều để
nhuộm tơ tằm, đặc biệt là được sử dụng để in hoa cho lụa tơ tằm, in hoa vải từ xơ
polyamit và nhuộm các tấm da nguyên lông.
Thuốc nhuộm axit chứa kim loại 1:1 thuộc loại dễ hoà tan trong nước (độ hoà tan tối
đa đến 400 g/l) và sẽ đều màu; còn thuốc nhuộm axit chứa kim loại 1:2 thì khó hoà tan
trong nước hơn và thuộc loại khó đều màu nên phải dùng các chất trợ nhuộm cần thiết mới
có thể đạt được độ đều màu cao. Cả hai loại thuốc nhuộm này đều ít nhạy cảm với nước
cứng và các ion kim loại có trong nước như: đồng sắt, crom v.v. Bảng 3.6 dẫn ra các mặt
hàng thuốc nhuộm axit chứa kim loại thường gặp.

4.3. Thuốc nhuộm hoạt tính


Thuốc nhuộm hoạt tính là những hợp chất màu mà trong phân tử của chúng có chứa
các nhóm nguyên tử có thể thực hiện mối liên kết hoá trị với vật liệu nói chung và xơ dệt
nói riêng trong quá trình nhuộm. Nhờ vậy mà chúng có độ bền màu cao với gia công ướt,
ma sát và nhiều chỉ tiêu khác nữa. Thuốc nhuộm hoạt tính có đủ gam màu, màu tươi và
thuần sắc, công nghệ nhuộm đa dạng và không quá phức tạp, vì vậy nên tuy mới ra đời
năm 1 956 đến nay đã được sản xuất với khối lượng lớn và sử dụng khá phổ biến. Chúng
được sử dụng để nhuộm và in hoa cho các vật liệu xenlulo, tơ tằm, len, vật liệu từ xơ
polyamit. Tài liệu tham khảo về thuốc nhuộm hoạt tính rất phong phú.

108
Bảng 3.6

Tên thuốc nhuộm thương phẩm


Tên nước Tên hàng
loại phức 1 : 1 loại phức 1 : 2
Anh ICI Ultralan Varilan
Ấn Độ IDI Navilan
Atul Metalan, neolan
LEL Crestalan
Đức Bayer Isolan, levalan
BASF Fast palatine Fast via lon, ortolan
Hoechst Fast remalan
Mỹ Du-Pont Chromasil Capranil
Nhật Bản KKK Kayacolan
Pháp Francolor Supracid, inocchrome
Sec và Slovackia Chemapol Chromoilan Ostala, ostalan F
Thuỵ Sĩ Ciba Erio, eriosin, neolan, Cibalan
textilon, erionil
Geigy Glycolan Irgalan, irganol
Sandoz Vitrolan Lanasin, sandolan
Ciba-Geigy Lanaset

4.3.1. Cấu tạo hoá học và tính chất chung


Các loại thuốc nhuộm hoạt tính tuy có khác nhau về cấu tạo phân tử, phạm vi sử
dụng và hoạt độ nhưng đều có thể trình bày dưới dạng tổng quát là:
S−R−T−X
Thí dụ, procion đỏ M 2BS có công thức sau:
Cl
N
SO3Na NH N
N
N N Cl
NaO3S SO3Na

S−R T−X

Ở đây: S - nhóm tạo cho phân tử thuốc nhuộm có độ hoà tan cần thiết trong nước, thường
gặp hơn cả là các nhóm: −SO3Na, −COONa, −SO2CH3. Riêng thuốc nhuộm phân tán hoạt
tính thì phân tử của nó không có nhóm cho tính tan;
R - phần mang màu của phân tử thuốc nhuộm, nó không ảnh hưởng đến mối liên kết
giữa thuốc nhuộm và xơ, nó quyết định về màu sắc, về độ bền màu với ánh sáng và cũng
có tác động đến các chỉ tiêu về độ bền màu khác, nên việc chọn gốc R phải thoả mãn được
các yêu cầu kể trên. Những gốc màu được chọn vào mục đích này là: mono và điazo, phức
chất của thuốc nhuộm azo với ion kim loại, gốc thuốc nhuộm axit antraquinon, hoàn
nguyên đa vòng, dẫn xuất của phtaloxianin...;
T−X - nhóm hoạt tính có cấu tạo khác nhau, được đưa vào các hệ thống mang màu
khác nhau;

109
X - nguyên tử (hay nhóm) phản ứng, trong điều kiện nhuộm nó sẽ tách khỏi phân tử
thuốc nhuộm, tạo khả năng cho thuốc nhuộm thực hiện phản ứng hoá học với xơ.
X không có ảnh hưởng gì đến màu sắc nhưng đôi khi cũng có ảnh hưởng đến độ hoà
tan của thuốc nhuộm. Những nguyên tử này thường là: −Cl, −SO2, −OSO3H, −NR3,
−CH=CH2, ...
T - nhóm mang nguyên tử (hay nhóm) phản ứng, nó làm nhiệm vụ liên kết giữa
thuốc nhuộm với xơ và có ảnh hưởng quyết định đến độ bền của mối liên kết này, trước
hết là độ bền màu của thuốc nhuộm với gia công ướt. Không những thế, hầu hết các
trường hợp, sự tương tác của thuốc nhuộm hoạt tính với xơ là phản ứng nucleophin, nhóm
T sẽ đóng vai trò quyết định tốc độ phản ứng nên việc lựa chọn nhóm T cho phù hợp là
một yếu tố quan trọng.
Khi chuyển từ vòng triazin cân đối sang các vòng pirimiđin và quinoxalin bất đối để
làm gốc T thì khả năng phản ứng của thuốc nhuộm sẽ giảm đi (bảng 3.7). Dựa vào cơ sở
lý thuyết này người ta đã chọn các gốc T khác nhau để tổng hợp nên những thuốc nhuộm
có hoạt độ mong muốn.
Ngoài các yếu tố kể trên thì “nhóm cầu nối” giữa phần S−R và T−X của thuốc
nhuộm cũng có ý nghĩa quan trọng. Người ta thường dùng các nhóm: −NH−, −NH−CH−,
−SO2−N− làm cầu nối. Tuy không có tính quyết định nhưng cầu nối cũng có tác động đến
màu sắc của thuốc nhuộm, nó cũng ảnh hưởng đến hoạt độ và độ bền của mối liên kết giữa
thuốc nhuộm và xơ. Dưới đây là những loại nhóm phản ứng được dùng nhiều để sản xuất
thuốc nhuộm hoạt tính.
Bảng 3.7
Nhóm T−X Tên thương Nơi, hãng
Cấu tạo hoá học Tên gọi, nhuộm cho loại xơ phẩm sản xuất
N Diclotriazin Procion M ICI
Cl
(xenlulo) Ostazin C Sec và Slovackia
N N
Mikacion Nhật Bản
Cl Helactil F Ba Lan
N Monoclotriazin Procion H ICI
Cl
(xenlulo, len) Cibacron Ciba
N N
Ostazin H Sec và Slovackia
NH R
Helactin D Ba Lan
Cl Triclopirimidin Drinmaren Sandor
N C Cl
(xenlulo) Reacton Geigy
Cl NH R
N

N Dicloquinoxalin Levafix E Bayer


Cl
Cl
N

N Diclopiridazol Primazin P BASF


Cl N Cl (xenlulo)

Cl O

110
Bảng 3.7. (tiếp theo)
Nhóm T−X Tên thương Nơi, hãng
Cấu tạo hoá học Tên gọi, nhuộm cho loại xơ phẩm sản xuất
Cl Phtalazin (xenlulo) Reateco Bayer
N
N

Cl

−NH−CO−CH2−Cl Axylhalogen Cibalan Ciba


−CO−Cl (xenlulo)
−SO2−CH2−CH2−OSO3Na Vinylsunfon
(xenlulo, len) Ostazin Sec và Slovackia
Remazol Hoechst
Remalan Mỹ
Genafix Mỹ
−SO2−NH−(CH2)2−OSO3Na Vinylsunfamit Levafix Bayer
(xenlulo)
−NH−CO−CH=CH2 Acrylamit (len) Primasin BASF
Cibacrolan Ciba
−CH2−CH−CH2 Epoxy hay epyclohidrin Priocinyl ICI
O (polyamit)
NH−CH2−CH−CH2−Cl Diclohidrin
OH (polyamit)

Trong điều kiện nhuộm, khi tiếp xúc với vật liệu thuốc nhuộm hoạt tính sẽ tham gia
đồng thời vào hai phản ứng: với vật liệu và phản ứng thủy phân.
Phản ứng với vật liệu (xơ) là phản ứng chính có dạng tổng quát:
S−Ar−T−X + HO−Xơ S−Ar−T−O−Xơ + HX.
Phản ứng thủy phân là phản ứng phụ làm giảm hiệu suất sử dụng của thuốc nhuộm,
có dạng tổng quát:
S−Ar−T−X + HOH S−Ar−T−OH + HX.
Thuốc nhuộm đã bị thủy phân không có khả năng liên kết hoá học với vật liệu nữa,
chỉ bám vào mặt ngoài bằng lực hấp phụ không mạnh nên không đủ độ bền màu cần thiết,
cần phải giặt sạch phần thuốc nhuộm này để đạt độ bên màu của thuốc nhuộm.
Khi tổng hợp thuốc nhuộm hoạt tính người ta phải chọn các yếu tố về cấu tạo hoá
học sao cho phản ứng chính đạt được tỷ lệ tối đa và hạn chế đến mức thấp nhất phản ứng
thủy phân. Để đạt được yêu cầu này các loại thuốc nhuộm hoạt tính cần đạt các yêu cầu
công nghệ dưới đây:
- phải bền khi bảo quản ở trạng thái khô và trong dung dịch;
- có khả năng phản ứng cao trong điều kiện nhuộm êm dịu và phải đạt yêu cầu tốc độ
cao của sản xuất.
- độ bền của mối liên kết giữa thuốc nhuộm và vật liệu không ảnh hưởng đến điều
kiện xử lý hoá học và sử dụng sản phẩm;
111
- có ái lực cao đối với xơ sợi khi nhuộm tận trích để bảo đảm mức độ hấp phụ cần
thiết trước khi nó thực hiện liên kết hoá trị với xơ đồng thời có khả năng dễ giặt ra khỏi
vật liệu phần thuốc nhuộm đã bị thủy phân.
Những thông số kỹ thuật cần thiết khi nhuộm bằng thuốc nhuộm hoạt tính là: nhiệt
độ, trị số pH, thời gian nhuộm, nồng độ chất điện ly, nồng độ chất trợ và chất xúc tác. Chỉ
khi nào lựa chọn đúng các thông số kỹ thuật này thì mới có thể đạt được hiệu suất sử dụng
thuốc nhuộm tối đa.
Đến nay đã có hàng nghìn màu khác nhau của thuốc nhuộm hoạt tính được sản xuất,
không có nhóm phản ứng khác nhau, hoạt độ, màu sắc và tốc độ phản ứng khác nhau, thể
hiện ở các chỉ tiêu:
- khác nhau về ái lực với xơ và với nước;
- khác nhau về mặt đặc điểm phản ứng với nhóm định chức của vật liệu;
- khác nhau về đại lượng năng lượng tạo thành mối liên hệ hoá trị;
- khác nhau về độ bền màu với giặt, mổ hôi, dung dịch kiềm, clo ánh sáng và khói lò.
Đặc điểm chung của thuốc nhuộm hoạt tính là màu tươi và có độ bão hoà màu cao.
Để phân loại thuốc nhuộm hoạt tính, người ta dùng các chỉ tiêu chính sau đây:
- theo cấu tạo hoá học (chủ yếu là theo nhóm phản ứng);
- theo cơ chế nhuộm: thế nucleophin hay kết hợp nucleophin;
- theo công nghệ nhuộm: nhuộm nguội, nhuộm nóng (phương pháp tận trích), nhuộm
cuộn ủ (bán liên tục), nhuộm ngấm hấp hoặc gia nhiệt khô (phương pháp liên tục)
- theo mức độ giặt sạch phần thuốc nhuộm đã bị thủy phân.
4.3.2. Những thuốc nhuộm hoạt tính thông thường
Thuốc nhuộm hoạt tính được giới thiệu trong các tài liệu khoa học cũng như thường
gặp trên thị trường thế giới được sắp xếp theo cấu tạo hoá học, sau đây là những loại chính.
a. Thuốc nhuộm điclotriazin
Thuốc nhuộm điclotriazin được nhiều hãng sản xuất với tên gọi thương phẩm khác
nhau, để chỉ khả năng phản ứng cao và cần nhuộm trong điều kiện êm dịu cuối tên gọi của
mỗi màu thường có chữ M, chữ K hoặc chữ X. Phần mang màu (R) của thuốc nhuộm
điclotriazin thường là gốc màu azo, antraquinon và gốc phtaloxianin. Cầu nối giữa gốc
S−R và T−X thường là nhóm −NH−, chỉ khi dùng phtaloxianin làm gốc mang màu thì mới
dùng cầu nối là nhóm −SO2− hoặc nhóm −NH−(CH2)2−NH− và một vài nhóm khác.
Do trong vòng triazin có hai nguyên tử clo chưa bị thay thế nên thuốc nhuộm có hoạt
độ cao. Khi nhuộm ở nhiệt độ thường (30oC) trong môi trường kiềm yếu (NaHCO3) thì
một nguyên tố clo tham gia phản ứng với xơ, còn khi tăng độ kiềm thì cả hai nguyên tử
clo sẽ liên kết với xơ. Nếu như chúng tham gia phản ứng với hai nhóm định chức của hai
mạch phân tử xenlulo hay protein thì sẽ tạo nên những cầu bắc ngang, làm cho xơ có cấu
trúc mắt lưới.
b. Thuốc nhuộm monoclotriazin
Có thể xem thuốc nhuộm loại này như là thuốc nhuộm điclotriazin trong đó một
nguyên tử clo đã bị thế bởi các nhóm thế có khả năng nhường điện tử nên hoạt độ của
chúng giảm đi, chúng tham gia phản ứng với các nhóm định chức của xơ ở nhiệt độ cao
(80oC), hoặc nếu ở nhiệt độ thấp hơn thì phải tiến hành trong môi trường kiềm mạnh, vì
vậy trong tên gọi thường có thêm chữ H nghĩa là nóng (heat).
112
Hoạt độ của thuốc nhuộm monoclotriazin phụ thuộc nhiều vào bản chất của nhóm
thế có khả năng nhường điện tử trong vòng triazin, còn khả năng hoà tan và ái lực của
chúng thì phụ thuộc vào gốc thuốc nhuộm. Cũng như các trường hợp khác, ở nhiệt độ cao
ái lực của thuốc nhuộm giảm, nhưng khả năng khuếch tán lại tăng lên. Vì vậy khi dùng
thuốc nhuộm hoạt tính loại này để nhuộm theo phương pháp tận trích ở nhiệt độ cao,
muốn nhận được hiệu suất sử dụng thuốc nhuộm cao thì gốc mang màu của chúng phải có
ái lực cao để hấp phụ mạnh vào xơ. Những gốc mang màu đáp ứng được yêu cầu này là:
gốc màu azo, gốc màu azo chứa kim loại và gốc màu phtaloxianin.
c. Thuốc nhuộm hoạt tính là dẫn xuất của pirimiđin
Những thuốc nhuộm thuộc nhóm này thường là dẫn xuất của đi- và triclopirimiđin
có cấu tạo chung như sau:
Cl
N C
3 2
S R NH C N1
4 5 6
C C
Cl Cl

Vòng pirimiđin có thể xem như vòng triazin trong đó một nguyên tử nitơ đã bị thay
thế bởi một nguyên tử cacbon nên các nguyên tử cacbon kém hoạt động hơn và loại thuốc
nhuộm này có thể nhuộm ở nhiệt độ cao hơn. Trong ba nguyên tử clo có trong vòng
piriđin thì nguyên tử cacbon ở vị trí số 2 hoạt động hơn nguyên tử clo ở vị trí cacbon số 5
và số 6. Việc tổng hợp thuốc nhuộm hoạt tính nhóm này được thực hiện bằng cách ngưng
tụ tetraclopirimiđin với gốc màu antraquinon hoặc gốc màu nitro có chứa nhóm cacbonyl
và chứa ít nhất là một nhóm amin tự do.
d. Thuốc nhuộm hoạt tính vinylsunfon
Khác với các nhóm kể trên, thuốc nhuộm hoạt tính vinylsunfon thực hiện phản ứng
kết hợp với xơ sợi. Nhóm phản ứng của thuốc nhuộm là este của axit sunfuric và
hyđroxyletylsunfon có dạng tổng quát như sau:
S−R−SO2−CH2−CH2−O−SO3Na
Dạng này chưa hoạt động, sau khi hấp phụ vào xơ, trong môi trường kiềm yếu, thuốc
nhuộm sẽ chuyển về dạng vinylsunfon, làm cho độ phân cực của nguyên tử cacbon tăng
lên, nó trở nên hoạt động. Dạng hoạt động mới tạo thành sẽ tham gia vào phản ứng kết
hợp với các nhóm định chức của xơ ở dạng đã ion hoá để tạo thành liên kết ete giữa thuốc
nhuộm và xơ. Thí dụ quá trình kết hợp của thuốc nhuộm với xơ xenlulo được trình bày
như sau:
+
S−R−SO2−CH2−CH2−O−SO3Na + NaOH S−R−SO2−CH CH2 + Na2SO4 + H2O
S−R−SO2−CH CH2+ + O−−xen S−R−SO2−CH2−CH2−O−xen
Thuốc nhuộm vinylsunfon được nhiều hãng sản xuất với các tên thương phẩm như
remazol (Hoechst), primazin (BASF), sumifix (Sumitomo), v.v. Để tổng hợp thuốc nhuộm
hoạt tính vinylsunfon người ta đã dùng gốc mang màu azo, gốc màu antraquinon và
phtaloxianin. Những thuốc nhuộm dùng cho len như remalan có gốc mang màu là thuốc
nhuộm axit chứa kim loại. Mặt hàng của vinylsunfon tương đối đủ màu từ vàng, đỏ, tím,
xanh da trời đến xanh lam và đen.
Hoạt độ của thuốc nhuộm vinylsunfon lớn hơn thuốc nhuộm monoclotriazin nhưng

113
lại thấp hơn hoạt độ của thuốc nhuộm điclotriazin, nên nó tương đối bền trong môi trường
trung tính, kém bền trong môi trường kiềm, có khả năng nhuộm ở nhiệt độ cao. Tuy có ưu
điểm là mối liên kết với xơ bền vững, tỷ lệ liên kết hoá học với xơ cao, nhưng do có ái lực
nhỏ nên độ tận trích thấp; khi nhuộm gián đoạn phải dùng các biện pháp công nghệ như:
thêm chất điện ly vào máng, giảm dung tỷ nhuộm. Để hạn chế nhược điểm này của thuốc
nhuộm vinylsunfon người ta dùng phương pháp nhuộm liên tục hoặc có hiệu quả hơn nữa
là dùng phương pháp bán liên tục (ngấm ép cuộn ủ).
e. Thuốc nhuộm hoạt tính có nhóm phản ứng là 2,3-đicloquinoxalin
Nhóm thuốc nhuộm này được hãng Bayer sản xuất với tên gọi thương phẩm là
levafix E, chúng có khả năng phản ứng tương tự như thuốc nhuộm điclotriazin, nhưng
thường chỉ có một nguyên tử clo trong dị vòng tham gia phản ứng nên không có khả năng
tạo thành cầu bắc ngang giữa các mạch xơ sợi. Ái lực của thuốc nhuộm với xơ tương tự
như thuốc nhuộm triazin.
- Thuốc nhuộm hoạt tính là dẫn xuất của epiclohyđrin
Những thuốc nhuộm nhóm này được coi là thuốc nhuộm hoạt tính phân tán do hãng
ICI sản xuất với tên gọi là procinyl dùng cho xơ polyamit. Chúng là dẫn xuất của
epiclohyđrin, trong môi trường kiềm sẽ chuyển về dạng epoxy có khả năng phản ứng với
xơ. Quá trình phản ứng của thuốc nhuộm với xơ nylon (polyamit) được trình bày như sau:
+ NaOH
R−NH−CH2−CH−CH2 R−NH−CH2−CH−CH2
− H2O
OH Cl − NaCl O

−R−NH−CH2−CH−CH2 + H2N−Nyl R−NH−CH2−CHOH−CH2−NH−Nyl


O
ở đây: R - gốc mang màu không tan trong nước; Nyl - xơ nylon.
Cầu nối giữa gốc mang màu R và nhóm mang nguyên tử phản ứng có thể là một
trong các nhóm: −NH−, −O−, −S−, −SO2−.
g. Thuốc nhuộm hoạt tính chức vòng etylenimin
Loại thuốc nhuộm này có tên thương phẩm là levafix, có cấu tạo hoá học gần giống
thuốc nhuộm remazol. Trong quá trình nhuộm trong phân tử thuốc nhuộm xuất hiện vòng
etylenimin kém bền, dễ tham gia phản ứng với nhóm chức của xơ. Cơ chế phản ứng của
nó với xơ xenlulo được trình bày như sau:

+ OH
CH2
R−SO2NH−CH2−CH2−OSO3Na R SO2 N
− NaHSO4
CH2

CH2
R SO2 N + HO−Xen R−SO2NH−CH2−CH2−O−Xen
CH2
ở đây R - gốc mang màu không tan; HO-Xen - Xenlulo.

h. Thuốc nhuộm hoạt tính là dẫn xuất của 2-clobenthiazol


Nhóm phản ứng của thuốc nhuộm loại này là 2-clobenthiazol có công thức chung
như sau:

114
4 3
N
5 1
Cl
6
S
7 1

Trong mạch dị vòng này, ngoài nguyên tử cacbon và nitơ còn có nguyên tử lưu
huỳnh. Trong môi trường kiềm nguyên tử cao sẽ tách ra và thuốc nhuộm sẽ liên kết với xơ
theo cơ chế thế nucleophin.
Hãng Francolor sản xuất loại thuốc nhuộm này với tên thương phẩm là reatex.
4.3.3. Các mặt hàng và phạm vi sử dụng
Đến nay đã có trên 1000 màu của thuốc nhuộm hoạt tính được sản xuất và đang sử
dụng trong công nghiệp dệt với gam màu rất rộng từ vàng đến đen. Theo phạm vi sử dụng,
thuốc nhuộm hoạt tính được chia làm hai loại: loại để nhuộm xơ xenlulo, len, tơ tằm và
loại để nhuộm xơ polyamit. Theo tính chất kỹ thuật loại thứ nhất lại chia làm ba nhóm:
- nhóm nhuộm nguội, trong tên gọi có chữ M hay chữ X, đa số thuộc về thuốc
nhuộm điclotriazin, chúng có khả năng phản ứng cao, phải nhuộm trong môi trường kiềm
yếu và ở nhiệt độ thấp (25 - 30oC);
- nhóm nhuộm nóng, trong tên gọi thường có chữ H, đa số thuộc về nhóm vinyl-
sunfon, một số là thuốc nhuộm monoclotriazin, khi nhuộm tận trích trị số pH của dung
dịch có thể trong khoảng 10 - 11, ở nhiệt độ 60oC;
- nhóm nhuộm nhiệt độ cao trong tên gọi không có ký hiệu gì đặc biệt hoặc có chữ
HT, đa số thuộc về nhóm monoclotriazin, chúng có khả năng phản ứng thấp so với hai
nhóm trên nên có thể nhuộm tận trích ở 70 - 90oC trong môi trường kiềm mạnh hơn.
Theo mức độ giảm khả năng phản ứng, các mặt hàng thuốc nhuộm hoạt tính có thể
xếp theo thứ tự dưới đây:
Procion M, X có khả năng phản ứng cao nhất;
Drimaren K, R
Levafix E-A
Cibacron F
Levafix E
Remazol
Cibacron
Bazilen E P
Cibacron E, A, P
Procion H, H-E
Cibacron (reacton) T
Drimaren X và Z có khả năng phản ứng thấp nhất.
Mỗi loại thuốc nhuộm kể trên cũng có những màu có khả năng phản ứng cao hơn
hoặc thấp hơn ít nhiều; thứ tự sắp xếp này chỉ là tương đối, được dùng chủ yếu khi thiết
lập công nghệ nhuộm.
Dựa vào khả năng giặt sạch phần thuốc nhuộm đã bị thủy phân còn bám lại trên vải,
thuốc nhuộm hoạt tính được chia làm bốn nhóm:
- nhóm I: dễ giặt sạch, không dây màu sang nền trắng;
- nhóm II: có mức giặt sạch trung bình, dây màu chút ít sang nền trắng;
- nhóm III: khó giặt sạch, đây màu sang nền trắng nhiều;

115
- nhóm IV: rất khó giặt sạch, bắt màu mạnh sang nền trắng (loại này không thích
hợp để in hoa).
Do có những ưu điểm nổi bật về độ tươi màu, độ bền màu và đủ gam màu nên tuy
mới ra đời chưa đầy 40 năm, thuốc nhuộm hoạt tính đã được các hãng chế tạo thuốc
nhuộm lớn của thế giới sản xuất. Nhịp điệu sản xuất và sử dụng chúng tăng lên rất nhanh;
thuốc nhuộm hoạt tính đã chiếm vị trí hàng đầu về tổng số màu và khối lượng sản phẩm
trong số các lớp thuốc nhuộm tổng hợp được sử dụng hiện nay. Phần lớn thuốc nhuộm
hoạt tính được dùng cho xơ xenlulo, phần để nhuộm len, tơ tằm và xơ polyamit chỉ chiếm
4,5 - 5% tổng số thuốc nhuộm hoạt tính. Những ưu điểm và nhược điểm chủ yếu của thuốc
nhuộm hoạt tính được dẫn ra trong bảng 3.8.

Bảng 3.8

Ưu điểm Nhược điểm


Có gam màu rộng Khó giặt sạch phần thuốc nhuộm
Màu tươi và thuần sắc bị thủy phân
Có độ bền màu cao với gia công ướt Chu kỳ nhuộm dài
Phương pháp nhuộm đa dạng Tốn nhiều hoá chất
Dễ tái lập lại màu Độ bền màu với ánh sáng không cao
Dễ làm sạch nước thải nhất là các màu đỏ và da cam
Giá thành vừa phải

4.3.4. Thuốc nhuộm hoạt tính mới sản xuất


Các mặt hàng chính của thuốc nhuộm hoạt tính đã cơ bản hình thành xong vào đầu
những năm bảy mươi, sau đó nó không ngừng được hoàn thiện và bổ sung thêm các màu
mới và ngừng sản xuất các màu không đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Thí dụ, hãng Ciba-
Geigy đã sản xuất thuốc nhuộm cibacron F có nhóm hoạt tính là flotriazin, sử dụng có
hiệu quả cao khi nhuộm trích với dung tỷ thấp (1:10, 1:12).
Đến nay có khoảng 300 hệ thống hoạt tính được đăng ký paten để chế tạo thuốc
nhuộm hoạt tính, song các dẫn xuất của triazin vẫn chiếm con số lớn nhất trong các màu
thông dụng. Trong số này thì loại monoclotriazin chiếm tỷ lệ cao hơn về số lượng màu
được sản xuất, chúng được sử dụng để nhuộm theo phương pháp ngấm ép và in hoa, chỉ
có một số ít được dùng để nhuộm tận trích vì chúng có ái lực nhỏ với xơ xenlulo. Để mở
rộng phạm vi sử dụng của thuốc nhuộm kiểu monoclotriazin, nhất là để nhuộm tận trích và
in hoa người ta đã biến tính loại thuốc nhuộm này bằng cách đưa vào phân tử của chúng
các nhóm hoạt tính mới, nhất là đưa thêm nhóm phản ứng thứ hai vào phân tử thuốc
nhuộm.
Khi có mặt nhóm hoạt tính thứ hai trong phân tử thì mức độ sử dụng của thuốc
nhuộm monoclotriazin sẽ tăng 15 - 20%, giảm tỷ lệ thuốc nhuộm không liên kết với xơ
phải giặt sạch. Thuốc nhuộm loại này còn bền màu với chất oxy hoá và với clo, vượt hẳn
loại chỉ có một nhóm phản ứng, điều này cho phép thiết lập công nghệ tẩy - nhuộm đồng
thời.
Theo hướng này năm 1971 hãng ICI đã sản xuất ra thuốc nhuộm procion HE để
nhuộm tận trích, chúng chứa hai nhóm mang màu và hai nhóm hoạt tính monoclotriazin.
Mặt hàng loại này phát triển khá nhanh, chỉ sau 10 năm đã có 25 màu được sản xuất dưới
các tên gọi: cibacron E (Ciba-Geigy), bazilen E (BASF), helanthrene D-E (Ba Lan), v.v.

116
Cũng theo hướng biến tính những thuốc nhuộm hoạt tính thuộc thế hệ trước, từ 1980
hãng Sumitomo (Nhật Bản) và sau đó là hãng Glo-tex (Mỹ) và một vài hãng khác đã chế
tạo ra loại thuốc nhuộm hoạt tính chromozol chứa hai nhóm mang màu khác nhau: nhóm
monoclotriazin và nhóm vinylsunfon dùng để nhuộm tận trích và in hoa. Đặc điểm của
loại thuốc nhuộm hai chức năng này là cho phép nhận được màu bão hoà ngay cả trên vật
liệu xenlulo chưa làm bóng. Ngoài ra do có hai nhóm phản ứng khác nhau nên mở rộng
được khoảng nhiệt độ tối ưu, nâng cao được khả năng nhuộm tái lập màu, nâng cao độ ổn
định với kiềm, dễ nhuộm, có độ tận trích cao, dễ ghép từ ba màu cơ bản, ít nhạy cảm với
nhiệt độ và với các dung dịch muối, có độ đều màu và bền màu cao, tỷ lệ liên kết hoá học
với xơ cao và nhiều tính ưu việt khác.
Thuốc nhuộm hoạt tính thường được sản xuất ở dạng bột và được ổn định bằng chất
đệm để ngăn ngừa chúng tự động thủy phân nhóm hoạt tính khi bảo quản. Hiện nay để
tránh hiện tượng bốc bụi khi sản xuất và sử dụng người ta đưa vào thuốc nhuộm thành
phẩm chất chống bốc bụi như: dùng các loại dầu khoáng thích hợp, nhũ tương của
polyetylsiloxan. Gần đây người ta đã thành công trong việc sản xuất thuốc nhuộm hoạt
tính ở các dạng khác như: hãng ICI và Sandoz sản xuất thuốc nhuộm hoạt tính ở dạng hạt
và dạng lỏng. Tất cả thuốc nhuộm remazol do hãng Hoechst sản xuất cũng ở dạng lỏng.
Việc nghiên cứu để hoàn thiện các mặt hàng thuốc nhuộm hoạt tính để đáp ứng yêu
cầu của người tiêu dùng vẫn còn tiếp tục để đơn giản hoá quy trình công nghệ nhuộm; đạt
độ bền màu cao; giảm nhẹ điều kiện lao động bảo vệ môi trường, tự động hoá quá trình
nhuộm v.v.
4. 4. Thuốc nhuộm bazơ - cation
4.4.1. Thuốc nhuộm bazơ
Thuốc nhuộm bazơ là những hợp chất màu có cấu tạo khác nhau, hầu hết chúng là
các muối clorua, oxalat hoặc muối kép của bazơ hữu cơ. Thường gặp hơn cả trong nhóm
thuốc nhuộm này là các dẫn xuất của đi- và triphenylmetan, mono và điazo, polymetyl,
azometyl, antraquinon và phtaloxianin.
Đặc điểm nổi bật của thuốc nhuộm bazơ là có đủ gam màu, màu tươi thuần sắc và
cường độ mâu rất mạnh. Song nhược điểm của thuốc nhuộm bazơ là cho màu kém bền với
giặt và ánh sáng nên chúng được dùng để nhuộm một số sản phẩm dệt từ xơ xenlulo,
nhuộm lụa tơ tằm để trang trí, để nhuộm giấy và dùng làm mực in trong công nghiệp in
ấn. Ở nước ta thuốc nhuộm bazơ được dùng rộng rãi để nhuộm và in chiếu cói, các mặt
hàng mây tre và gỗ cho màu tương đối bền và đẹp.
Do ái lực của thuốc nhuộm bazơ với xenlulo rất thấp muốn sử dụng chúng để nhuộm
vải may mặc thì phải cầm màu, nhưng khi cầm màu (bằng tanin và muối antimoan) thì độ
tươi màu lại giảm đi.
Tất cả thuốc nhuộm bazơ đều dễ hoà tan trong nước, khi hoà tan chúng phân ly
thành hai ion: cation là ion mang màu, anion không mang màu. Như vậy theo tính chất
điện hoá thì thuốc nhuộm bazơ đối cực với thuốc nhuộm axit. Những thuốc nhuộm bazơ
thường như sau:
a. Loại điaminotriarylmetan
Tiêu biểu của loại này là xanh metylen, có công thức như sau:

117
+
(C2H5)2 N(C2H5)2
Cl
C

thuốc nhuộm này có màu xanh lục tươi, có tác dụng diệt khuẩn nên được dùng trong y học
thay cho iot.
b. Loại triaminođiphenylmetan
Tiêu biểu của loại này là auramin (còn gọi là vàng bá), có màu vàng, được dùng để
nhuộm vải sợi bông và cầm màu bằng tanin, để nhuộm tơ tằm, nhuộm giấy, chiếu cói, gỗ
và da. Công thức cấu tạo của auramin như sau:

(CH3)2N C N(CH3)2
+
NH2Cl

c. Loại triaminotriarylmetan
Tiêu biểu cho những thuốc nhuộm bazơ loại này là thuốc nhuộm fucsin, nó là hỗn
hợp của fucsin và parafucsin có công thức như sau:
CH3
+ +
H2N NH2Cl H2N NH2Cl

C C

NH2 fucsin NH2 parafucsin

Fucsin có màu đỏ tươi nhưng kém bền màu với ánh sáng nên người ta dùng nó để
chế tạo các thuốc nhuộm khác bằng cách alkyl hoá các nhóm amin tự do còn lại.
d. Thuốc nhuộm bazơ là dẫn xuất của xanten
Tiêu biểu cho nhóm này là những thuốc nhuộm thuộc gốc rođamin, chúng có tính
bazơ yếu nên có thể dùng để nhuộm xơ động vật và cả cho xơ bông nhưng phải cầm màu.
Rođamin có màu đỏ tươi, rất thuần sắc (ở thị trường quen gọi là phẩm cánh sen hay
cánh quế) có công thức như sau:
+
(C2H5)2N O N(C2H5)2Cl

COOH

Những dẫn xuất của rođamin mà trong phân tử của nó nhóm cacboxyl đã bị este hoá
sẽ có tính bazơ mạnh hơn, có độ bền màu với gia công ướt cao hơn, màu vẫn tươi và thuần
sắc.

118
4.4.2. Thuốc nhuộm cation
Sau khi tổng hợp được xơ polyacrylonitrin (PAN) người ta đã tìm thấy một số thuốc
nhuộm có cấu tạo giống thuốc nhuộm bazơ nhưng lại bắt màu mạnh vào xơ PAN, có độ
bền màu cao với nhiều chỉ tiêu gọi là thuốc nhuộm cation. Chúng có thể xem như các
muối amoni bậc bốn với dạng tổng quát là R1NR3Cl−, ở đây R1, R3 là các gốc alkyl hay
aryl khác nhau. Phần mang màu của thuốc nhuộm có thể là các gốc triphenylmetan, thuốc
nhuộm metin và azo, dẫn xuất antraquinon và phức của đồng-phtaloxianin. Điện tích
dương của nguyên tử nitơ bậc bốn có thể nằm ở mạch nhánh hoặc nằm trong dị vòng.
Trong số các anion, thường gặp hơn cả là ion Cl− và CH3SO4−, chúng ít ảnh hưởng đến
tính chất màu của thuốc nhuộm, nhưng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoà tan
thuốc nhuộm trong nước. Những loại chính như sau.
a. Thuốc nhuộm cation mang điện tích dương ở mạch nhánh
Về cấu tạo những thuốc nhuộm này gần giống như thuốc nhuộm phân tán, nhưng
khác ở chỗ chúng có mạch nhánh chứa nhóm amoni bậc bốn, nhờ đó mà thuốc nhuộm hoà
tan trong nước và có tính bazơ cần thiết. Những muối amoni bậc bốn này ổn định trong
một khoảng pH rộng, chúng có độ bền màu cao với ánh sáng, nhưng không tươi và thuần
sác bằng màu của các nhóm khác.
b. Thuốc nhuộm cation mang điện tích dương ở nhóm mang màu
Nhóm thuốc nhuộm này có màu tươi hơn cả và có khả năng nhuộm màu rất cao. Có
nhiều kiểu thuốc nhuộm cation loại này nhưng quý hơn cả là những thuốc nhuộm có gốc
oxazin, xianin polymetin và triarylmetan, còn những gốc khác thì cho màu kém bền với
ánh sáng hoặc dễ bị thủy phân.
c. Thuốc nhuộm cation tạo thành điện tích dương khi nhuộm
Những thuốc nhuộm loại này không tích điện dương trong môi trường trung tính và
kiềm yếu, nó giống như thuốc nhuộm phân tán. Khi có mặt axit cần thiết trong dung dịch
nhuộm xơ PAN thì phân tử thuốc nhuộm sẽ kết hợp proton và trở nên tích điện dương nên
nó lại có những tính chất của thuốc nhuộm cation.
Khác với các nhóm trên, thuốc nhuộm cation nhóm này coi như thuốc nhuộm phân
tán nên bắt màu vào xơ PAN khá đều.
4.4.3. Các mặt hàng thuốc nhuộm cation
Thuốc nhuộm cation được sản xuất ở dạng bột và dạng lỏng. Dạng bột khó thấm
nước, có độ hoà tan hạn chế trong nước, lại dễ bốc bụi nên người ta đã sản xuất một số
mặt hàng thuốc nhuộm này ở dạng lỏng cho dễ sử dụng và cân đo. Vấn đề đó có ý nghĩa
thực tế là nâng cao độ hoà tan, độ ổn định và độ bền nhiệt của thuốc nhuộm này nhất là
khi bảo quản lâu trong kho.
Cũng như các thuốc nhuộm hoà tan khác, trong nước, thuốc nhuộm cation phân ly
thành ion. Sự thay đổi mức độ phân ly của nó là một yếu tố quan trọng để điều chỉnh quá
trình nhuộm. Khi giảm mức độ phân ly sẽ giảm lượng thuốc nhuộm hấp phụ vào xơ,
nhưng khi tăng độ phân ly thì có nguy cơ loang màu do thuốc nhuộm bắt vào xơ quá
nhanh. Khi tăng nhiệt độ nhuộm, mức độ phân ly của thuốc nhuộm cũng tăng lên, từ 80 -
85oC trở lên thuốc nhuộm bắt vào xơ rất nhanh, ở 95 - 98oC không quan sát thấy các phân
tử thuốc nhuộm cation liên hợp. Khi giảm trị số pH của dung dịch nhuộm sẽ giảm mức độ
phân ly thuốc nhuộm và làm chậm tốc độ bắt màu.

119
Thuốc nhuộm cation có tốc độ bắt màu khác nhau, thường được chia làm ba nhóm:
bắt màu nhanh, bắt màu chậm và bắt màu trung bình. Tốc độ bắt màu vào xơ PAN của
chúng khác nhau là do chúng khác nhau về: cấu tạo hoá học, tính bazơ, độ phân cực của
phân tử thuốc nhuộm và đặc điểm của anion.
Những thuốc nhuộm cation được sản xuất trên cơ sở các dẫn xuất của antraquinon có
tốc độ bắt màu vào xơ PAN không cao và khả năng nhuộm màu của chúng cũng không
cao. Ưu điểm chủ yếu của loại này là có độ bền với xử lý bằng hơi (hấp) cao hơn so với
những thuốc nhuộm cation cùng có gam màu xanh nhưng lại có gốc mang màu từ các hợp
chất khác. Loại thuốc nhuộm này rất thích hợp để in hoa, nhuộm liên tục hoặc nhuộm một
số chế phẩm từ xơ PAN có yêu cầu phải xử lý hơi trong quy trình công nghệ nhuộm.
Thuốc nhuộm cation có ưu điểm là dễ phối từ ba màu cơ bản: vàng, xanh lam và đỏ,
bảo đảm nhận được đều màu, có thể tạo được các gam màu rộng. Ở dạng lỏng thuốc
nhuộm cation rất thuận tiện cho công nghệ nhuộm liên tục, dung dịch thuốc nhuộm ổn
định ở nhiệt độ cao. Trong môi trường axit axetic hay axit focmic và có mặt chất hoạt
động bề mặt dạng lỏng của thuốc nhuộm cation khá ổn định. Mặt hàng của thuốc nhuộm
cation đủ màu từ vàng đến đen và được sản xuất dưới các tên thương phẩm khác nhau:

Bảng 3.9

Tên thuốc nhuộm Tên nước và hãng sản xuất


Cation Liên Xô (cũ) và nhiều nước khác
Astrasol Bayer
Bazacryl BASF
Maxilon. Diorlin Ciba-Geigy
Sandocryl Sandoz
Catilon, Diacryl, Daito-acryl Nhật Bản
Anylan Ba Lan
Melacryl Rumani
Lircamin Francolor
Sevron Du-Pont
Acrolon Synacryi ICI

4.5. Thuốc nhuộm hoàn nguyên


4.5.1. Đặc điểm chung
Thuốc nhuộm hoàn nguyên là những hợp chất màu hữu cơ không hoà tan trong
nước. Tuy có cấu tạo hoá học và màu sắc khác nhau nhưng chúng có chung một tính chất,
đó là tất cả đều chứa các nhóm xeton trong phân tử và có dạng tổng quát là R=C=O. Khi
bị khử dạng không tan này sẽ chuyển về dạng lâycô axit, nó chưa tan trong nước nhưng
tan trong kiềm và chuyển thành dạng lâycô bazơ. Do có ái lực lớn với xơ và hoà tan trong
nước nên nó hấp phụ rất mạnh vào xơ xenlulo, mặt khác nó lại dễ bị thủy phân và oxi hoá
về dạng không tan ban đầu. Toàn bộ quá trình này được trình bày như sau:

+ [H] + NaOH
R C O R C OH R C ONa
+ [O] + H2O

lâycô axit lâycô bazơ

120
Do có ái lực với xơ xenlulo nên hợp chất lâycô bazơ bắt mạnh vào xơ, sau đó khi rửa
bớt kiềm thì lại dễ bị thủy phân về dạng lâycô axit và oxi hoá bằng oxi của không khí về
dạng không tan nguyên thủy.
Nhờ đặc trưng quan trọng kể trên mà lớp thuốc nhuộm này có tên gọi rất thích hợp
là hoàn nguyên. Tất cả thuốc nhuộm hoàn nguyên còn có các tính chất quý khác như: có
đủ màu; màu tươi ánh: có độ bền màu cao với gia công ướt, với ánh sáng và khí quyển;
chỉ có độ bền màu với ma sát là không cao lắm. Chúng có độ bền màu cao với nhiều chỉ
tiêu một mặt do khi nằm trên xơ ở dạng không hoà tan, mặt khác do phân tử của chúng
nhiều nhân thơm nên có khả năng phát sinh các lực liên kết mạnh.
Thuốc nhuộm hoàn nguyên được dùng chủ yếu để nhuộm các chế phẩm từ xơ
xenlulo hoặc thành phần xenlulo trong các loại vải pha; chúng không được dùng để
nhuộm len và tơ tằm vì quá trình nhuộm phải tiến hành trong môi trường kiềm, những loại
xơ này sẽ bị phá hủy. Một số ít thuốc nhuộm hoàn nguyên cũng được dùng như thuốc
nhuộm phân tán (dạng không tan đã nghiền mịn) để nhuộm xơ tổng hợp hoặc làm pigment
in hoa.
Trước những năm 70 của thế kỷ XX thuốc nhuộm hoàn nguyên chiếm tỷ lệ khá lớn
trong tổng số thuốc nhuộm tổng hợp sản xuất trên thế giới (đến 23%) nhưng hiện nay nó
chỉ chiếm khoảng 17% vì giá thành khá cao và công nghệ nhuộm phức tạp. Theo cấu tạo
hoá học thuốc nhuộm hoàn nguyên được chia thành hai phân nhóm:
- thuốc nhuộm inđigoit gồm inđigo và dẫn xuất của nó;
- thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng.
Bên cạnh dạng không hoà tan, để dễ dàng cho quá trình nhuộm người ta còn sản xuất
ra loại hoàn nguyên tan.
Nếu như mãi đến cuối thế kỷ XIX người ta chỉ biết có một thuốc nhuộm hoàn
nguyên duy nhất là inđigo tách từ lá chàm được trồng thành đồn điền ở các nước nhiệt đới
thì đến năm 1940 hầu hết các thuốc nhuộm hoàn nguyên quan trọng đã được tổng hợp, đã
bổ sung và hoàn thiện các phân nhóm của lớp thuốc nhuộm này. Đến nay việc sản xuất
các loại thuốc nhuộm hoàn nguyên chững lại, xu hướng chung là tìm cách biến tính hoặc
phối chế những màu có chất lượng cao cho dễ sử dụng.
4.5.2. Thuốc nhuộm hoàn nguyên inđigoit
a. Inđigo thực vật
Để nhuộm màu xanh lam sẫm từ nhiều thế kỷ trước đây loài người đã biết dùng
inđigo thực vật tách được từ cây chàm và một số cây thuộc họ này. Thế kỷ thứ XII ở
Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia và nhiều đảo khác vùng nhiệt đới đã có các đồn điền trồng
cây chàm. Suốt trong thế kỷ XIX nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất inđigo đều từ
nguyên liệu thực vật.
Thành phần chủ yếu của chất màu chứa trong các loài cây họ chàm là Inđican, nó là
dẫn xuất glucozit của inđoxin. Để tách inđigo ra từ thân và lá chàm người ta thường dùng
phương pháp vi sinh dưới hình thức ủ cho lên men. Khi ủ, dưới tác dụng của men, inđican
sẽ bị thủy phân để tạo thành inđoxin và glucoza. Dưới tác dụng của oxi không khí, inđoxin
sẽ chuyển thành inđigo như sau:

121
O C6H11O5 OH
C C
CH + H2O CH + C6H12O6
N N
H H
inđican inđoxin

OH O
H
C C N
+2O
CH − 2 H2O
C C
N N C
H H
O
inđigo

Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng inđigo có hai dạng đồng phân như
sau:
O
H H H
C N N N
C C C C
N C C C
H
O O O
trans-indigo cis-indigo

Inđigo là một hợp chất hoá học có thể tách ra ở dạng thuần khiết có màu xanh sẫm,
không tan trong nước, rượu, ete và benzen, khó tan trong axeton và axit axetic, nhưng tan
được trong phenol, nitrobenzen và anilin ở nhiệt độ sôi. Ở 290oC inđigo bắt đầu bốc hơi
và có màu đỏ tím, ở 390 - 392oC nó bị nóng chảy và nhiệt hủy.
Khi bị oxi hoá quá mạnh, inđigo sẽ bị phá vỡ cấu trúc phân tử ban đầu, chuyển thành
izalin, sau đó chuyển thành benzen axit picric, axit xalixilic... và mất màu. Lợi dụng tính
chất này người ta thường in phá gắn trên nền inđigo.
b. Inđigo tổng hợp và dẫn xuất của nó
Sau khi tìm được công thức hoá học của inđigo người ta đã tổng hợp được nó bằng
nhiều phương pháp khác nhau, nhưng vì inđigo chỉ có một màu lam sẫm, để mở rộng gam
màu người ta đã tổng hợp các dẫn xuất của inđigo hay gọi là inđigoit. Bằng cách đưa
nhóm thế khác nhau vào phân tử inđigo sẽ nhận được các màu khác nhau. Inđigo T có
màu xanh lam ánh lục; inđigo xanh lục brominđigo có màu tím đỏ.
Trong các đồng đẳng của inđigo có nhiều hợp chất chứa nguyên tử lưu huỳnh trong
phân tử gọi là thioinđigo. Những thuốc nhuộm kiểu này rất phong phú về màu sắc và được
chia làm hai loại: thioinđigo đối xứng có màu đỏ và thioinđigo không đối xứng có màu
tím.
Tất cả thuốc nhuộm hoàn nguyên là dẫn xuất của inđigo có đặc điểm chung là dễ bị
khử hơn các thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng. Dung dịch nhuộm của chúng cũng yêu
cầu nồng độ kiềm thấp hơn so với thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng.
4.5.3. Thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng
Hoàn nguyên đa vòng là loại thuốc nhuộm có cấu tạo phân tử phức tạp, chứa nhiều
nhân thơm, nhiều nhóm mạch vòng, đa số là dẫn xuất của antraquinon.

122
Khác với thuốc nhuộm hoàn nguyên là dẫn xuất của inđigo, những thuốc nhuộm
thuộc phân nhóm này đòi hỏi điều kiện khử mạnh hơn, nhuộm trong môi trường kiềm
mạnh hơn và dung dịch lâycô bazơ kém ổn định hơn, dễ bị thủy phân và oxi hoá về dạng
không tan ban đầu hơn. Có thể xem antraquinon như một thuốc nhuộm hoàn nguyên đơn
giản nhất để diễn tả quá trình khừ và oxi hoá của nhóm thuốc nhuộm này.
Thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng có đủ gam màu, màu của chúng tươi, có độ bền
màu cao với gia công ướt và ánh sáng, riêng độ bền màu với ma sát không cao lắm. Theo
cấu tạo hoá học thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng gồm các phân nhóm dưới đây.
a. Thuốc nhuộm là dẫn xuất của oxylaminoantraquinon
Màu của thuốc nhuộm loại này có trong dải từ vàng đến tím. Khi sử dụng cần lưu ý
là ở nhiệt độ và độ kiềm cao thì nhóm axyl có thể bị xà phòng hoá làm cho thuốc nhuộm
bị biến chất.
b. Thuốc nhuộm là dẫn xuất của antrimit (antraquinonimin)
Những thuốc nhuộm loại này có ý nghĩa thực tế hơn cả trong phân tử của chúng
chứa từ hai gốc antraquinon trở lên, liên kết với nhau qua nhóm imin (−NH−) nên có tên
gọi như trên. Algol boocđô RT là một trong số những thuốc nhuộm tiêu biểu của nhóm
này, có công thức như sau:

O NH O NH O

Cl Cl
O O

Do trong phân tử có chứa hai nguyên tử clo nên màu của nó sâu hơn và bền hơn với
ánh sáng so với dẫn xuất không chứa clo.
c. Thuốc nhuộm hoàn nguyên là dẫn xuất của inđantron
Thuốc nhuộm nhóm này chứa các nhân antraquinon liên kết với nhau qua hai nhóm
imin để hợp thành một vòng khép kín tiêu biểu là hoàn nguyên xanh lam RSN có công
thức ở hai dạng sau:
O O

H
NH O N O
O HN O N
H

O O
(1) (2)

Thuốc nhuộm này có màu xanh lam tươi, nhưng dễ bị quá khử. Ở dạng cấu tạo (2)
phân tử của nó có thêm hai vòng phụ nên nếu cả bốn nhóm xeton đều bị khử thì các vòng
phụ này sẽ bị phá vỡ, thuốc nhuộm chuyển màu và không có khả năng oxi hoá để trở về
123
dạng nguyên thủy nữa. Vì vậy khi chuẩn bị dung dịch nhuộm phải lấy lượng chất khử vừa
đủ sao cho chỉ có hai nhóm xeton bị khử và chuyển thành dạng muối đinatri trong dung
dịch.
d. Thuốc nhuộm hoàn nguyên là dẫn xuất của antantron
Một số dẫn xuất của antantron được dùng làm thuốc nhuộm hoàn nguyên, phân tử
của chúng có thể xem như gồm hai nhân antraquinon ghép lại. Đa số chúng là những
thuốc nhuộm quý, có độ bền màu cao và màu tươi nên được nhiều hãng chế tạo, tiêu biểu
là hoàn nguyên da cam RK có công thức như sau:

O
Cl

Cl
O

e. Thuốc nhuộm hoàn nguyên là dẫn xuất của benzantron


Những thuốc nhuộm loại này được tổng hợp từ benzantron, có cấu trúc phân tử đa
vòng vững chắc nên có độ bền màu rất cao với giặt và sánh sáng, tiêu biểu là thuốc nhuộm
hoàn nguyên xanh lam sẫm O, có công thức sau:

O O

Dạng cấu tạo này còn có tên gọi là violantron, có màu tím đậm bền màu với ánh
sáng và clo. Ở trạng thái ẩm màu của vải đã nhuộm bằng thuốc nhuộm này sẽ có ánh đỏ
do nó liên kết với nước, khi sấy khô màu lại trở về dạng ban đầu. Dưới tác dụng của nhiệt
độ (ví dụ như sấy hoặc là) màu của hầu hết thuốc nhuộm nhóm này đều biến sắc. Hiện
tượng này chủ yếu do các cặp điện tử chưa dùng đến của phân tử thuốc nhuộm liên kết với
nước, ở nhiệt độ cao nước bị tách đi làm cho màu bị biến sắc.
g. Thuốc nhuộm hoàn nguyên là dẫn xuất của antraquinonacryđon
Antraquinonacryđon có thể coi là hợp chất được tạo thành khi thay thế một hoặc cả
hai nhân benzen của acrydon bằng các nhân antraquinon. Những thuốc nhuộm loại này có
độ bền màu cao với giặt, ánh sáng, clo và ma sát, tiêu biểu là hoàn nguyên da cam R có
công thức như sau:
O

CO O
O HN

124
4.5.4. Các mặt hàng của thuốc nhuộm hoàn nguyên
Thuốc nhuộm hoàn nguyên vẫn chiếm vị trí quan trọng trong số các thuốc nhuộm
được sản xuất trên thế giới. Tuy giá thành cao nhưng chúng có độ bền màu cao với nhiều
chỉ tiêu hoá lý nên vẫn được quan tâm sản xuất và hoàn thiện công nghệ nhuộm. Bảng
3.10 dẫn ra các chỉ tiêu quan trọng của thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan.
Bảng 3.10

Hàm lượng Độ phân tán


Dạng sản xuất chất màu, tỷ lệ hạt
% kích thước hạt, μm
chủ yếu, %
Bột thô để nhộm 35 - 60 60 - 80 Hạt chủ yếu 3-6
Hạt lên hợp 0 - 15
Hạt liên hợp lớn nhất 25 - 50
Bột mịn để nhuộm 30 - 50 90 - 93 Hạt chủ yếu dưới 2
huyền phù (D) Hạt liên hợp dưới 10
Hạt liên hợp lớn nhất dưới 15 - 20
Bột nhão để nhuộm 10 - 20 93 - 95 Hạt chủ yếu dưới 1
huyền phù (P) Hạt liên hợp 5
Bột nhão để in hoa 10 - 12 không xác Hạt chủ yếu 1
định Hạt liên hợp 10 - 15
Hạt liên hợp lớn nhất 25 - 30
Bột để nhuộm vixcô 30 - 40 97 - 98 Hạt chủ yếu dưới 1
dạng khối Hạt còn lại 5
Một số thuốc nhuộm hoàn nguyên mới chế tạo có chứa các nhóm silic hữu cơ
(−Si(CH3)3, −Si(C6H5)3 có độ bền màu cao với clo, một số thuốc nhuộm hoàn nguyên có
khả năng liên kết hoá học với xơ (cubogen) cũng được chế tạo. Thuốc nhuộm hoàn
nguyên không tan thưởng được sản xuất ở dạng bột thô để nhuộm theo phương pháp lâycô
bazơ, dạng bột mịn phân tán cao để nhuộm theo phương pháp huyền phù (ký hiệu D) và
dạng lột nhão (ký hiệu P). Bảng 3.11 trình bày tên thương phẩm của thuốc nhuộm hoàn
nguyên do một số hăng lớn trên thế giới sản xuất.
Bảng 3.11
Tên nước Tên hãng Dạng không hoà tan Dạng hoà tan
Anh ICI Caledon, durindone Soiedon
Ba Lan Ciech Helanthrene Helaso
CHLB Đức BASF Indanthrene
Bayer Indanthrene
Hoechst Indanthrene Anthrasol
Italia AKHA Romanthrene Solindol
Liên Xô (cũ) Cubovi Cubosol
Mỹ Du-Pont Sulfanthrene, ponsol Potosol
Nhật Bản Mitsui Mikethren
Nihonthren
Pháp Francolor Solanthrene Solasol, hbliasol
Thuỵ Sĩ Ciba-Geigy Cibanone, Ciba, tina Cibantin, tinosol
Sandoz Sandothrene Sandosol
Sec và Slovackia Chemapol Ostanthren

125
Bảng 3.12
Tên gọi Công thức hoá học Phạm vi sử dụng
Natri hyđrosunfit Na2S2O4 Nhuộm và in hoa
Rongalit C NaHSO2.CH2O.2H2O In hoa
Decrolin (HOCH2SO2)2ZnO In hoa theo phương pháp hai pha
Rongalit H (HOCH2SO2)2Ca In vải từ xơ tổng hợp
Rongal A NaHSO2 ổn định bằng Nhuộm huyền phù hai pha và in hoa
axetaldehit hai pha
Rongal P Dẫn xuất của axit Nhuộm huyền phù
sunfonic
Rongal HT Rongal A + chất hoạt hoá Nhuộm nhiệt độ cao
Rongalit Hỗn hợp của In hoa theo phương pháp ongalit -
N(CH2SO2Na)3 và potat
NH(CH2SO2Na)2
Thioure dioxit (NH2)2C=SO2 Nhuộm huyền phù hai pha nhiệt độ
cao lâycô axit, in hoa
Borohydrit (hydrotex) NaBH4, KBH4 Nhuộm và in hoa
Reductor và reductonat Ar−C−CH−Ar’ Để in hoa theo phương pháp hai pha
Dẫn xuất của axit (R−CH2OH)SO2Na Để in hoa
oxialkylsunfonic R = CH3C2H5, C3H7

Do không hoà tan trong nước (dạng không tan) nên thuốc nhuộm hoàn nguyên
không bắt màu trực tiếp vào vật liệu dệt. Khi bị khử và chuyển về dạng lâycô bazơ thì nó
mới có ái lực và bắt màu vào xơ sợi. Quá trình khử và hoà tan thuốc nhuộm hoàn nguyên
thuộc loại phản ứng dị thể; tốc độ của phản ứng này phụ thuộc nhiều vào chất khử, nhiệt
độ, trị số pH và đặc biệt là kích thước hạt thuốc nhuộm. Kích thước hạt càng nhỏ, thuốc
nhuộm được nghiền càng mịn, độ phân tán hạt càng cao thì nó càng được khử nhanh và
hoàn toàn. Tuỳ theo yêu cầu công nghệ nhuộm và in hoa, người ta dùng các chất khử có
tính năng khác nhau. Bảng 3.12 cho biết những chất khử thường được dùng vào mục đích
này.
4.5.5. Thuốc nhuộm hoàn nguyên tan
Khi nhuộm vật liệu dệt bằng thuốc nhuộm hoàn nguyên dạng không tan (inđigoit, đa
vòng) việc chuẩn bị dung dịch nhuộm rất phức tạp, hơn nữa dạng lâycô bazơ của thuốc
nhuộm có ái lực lớn với xơ bắt vào xơ quá mạnh gây nên loang màu và khó thấm sâu vào
bên trong xơ. Để đơn giản quá trình chuẩn bị dung dịch nhuộm, thuận tiện cho việc sử
dụng thuốc nhuộm nhất là khi in hoa, người ta đã sản xuất ra loại thuốc nhuộm hoàn
nguyên tan, gọi như vậy vì nó tan trong nước. Mặt khác ở dạng thuốc nhuộm có ái lực nhỏ
với xơ nên có khả năng điều chỉnh độ đều màu khi nhuộm.
Tuỳ theo hãng chế tạo và nguồn gốc chuyển hoá từ loại thuốc nhuộm hoàn nguyên
không tan nào mà chúng có các tên gọi khác nhau. Thí dụ, inđigozol từ inđigoit, solazol từ
solanthrene, antrazol từ indanthrene v.v. Tuy khác nhau về cấu tạo hoá học và tên gọi
nhưng tất cả thuốc nhuộm hoàn nguyên tan đều có thể viết ở dạng tổng quát:
R C−O−SO3Na,
ở đây R - gốc thuốc nhuộm.

126
Dạng này là este sunfonat của hợp chất lâycô axit của thuốc nhuộm hoàn nguyên
không tan, có màu ẩn, hoà tan trong nước. Đặc tính quan trọng của nó là trong môi trường
axit liên kết este bị phá vỡ, giải phóng ra hợp chất lâycô axit như sau:
[H+]
R C−O−SO3Na + H2O R C−OH + NaHSO3

Hợp chất lâycô axit do kém bền, dưới tác dụng của chất oxi hoá kể cả oxi của không
khi nó chuyển về dạng không tan ban đầu:
R C−OH + [O] R=C=O + H2O.
Để ký hiệu thuốc nhuộm hoàn nguyên tan đã được sản xuất từ loại không tan tương
ứng nào người ta dùng các chứ cái sau:
O - để chỉ sản xuất từ inđigo (origin); A - để chỉ sản xuất từ thuốc nhuộm algol,
H - để chỉ sản xuất từ helidon; I - để chỉ sản xuất từ indanthrenel; T - để chỉ sản xuất từ
thioindigo.
Do quá trình nhuộm được thực hiện trong môi trường trung tính, hiện màu trong môi
trường axit và có mặt chất oxi hoá nên thuốc nhuộm hoàn nguyên tan không những được
dùng để nhuộm các loại vải, sợi từ xơ xenlulo mà còn được dùng để nhuộm tơ tằm, len, xơ
polyamit và một vài loại xơ khác bằng công nghệ thích hợp. Do có màu tươi và công nghệ
đơn giản nên thuốc nhuộm hoàn nguyên tan được dùng phổ biến để in hoa. Nhược điểm
chủ yếu của loại thuốc nhuộm này là khó nhuộm được màu đậm và giá thành cao.
4.6. Thuốc nhuộm lưu huỳnh
Thuốc nhuộm lưu huỳnh là những hợp chất màu không tan trong nước và một so
dung môi hữu cơ, nhưng trong dung dịch kiềm của natri sunfua Na2S thì nó bị khử để
chuyển về dạng lâycô bazơ hoà tan trong nước. Giống như thuốc nhuộm hoàn nguyên
dạng lâycô bazơ của thuốc nhuộm lưu huỳnh có ái lực với xenlulo, có khả năng bắt màu
vào xơ, đồng.thời cũng dễ dàng bị thủy phân và oxi hoá về dạng không tan ban đầu. Lợi
dụng tính chất này người ta đã thiết kế nên công nghệ nhuộm thích hợp. Sau khi nhuộm
thuốc nhuộm nằm trên vải ở dạng không tan nên nó có độ bền màu với gia công ướt đạt
loại khá.
Thuốc nhuộm lưu huỳnh tương đối đủ màu trừ màu tím và mâu đỏ thuần khiết thì
chưa tổng hợp được; nó được sử dụng chủ yếu để nhuộm vải bông. Mặc dù lớp thuốc
nhuộm này có màu kém tươi độ bền màu với ánh sáng và khí quyển chỉ đạt loại trung
bình, nước thải từ xưởng nhuộm có mùi hôi và làm bẩn nguồn nước. Song vì công nghệ
tổng hợp thuốc nhuộm lưu huỳnh không quá phức tạp, giá thành rẻ, công nghệ nhuộm đơn
giản nên nó vẫn còn là lớp thuốc nhuộm chiếm tỷ lệ tương đối cao trong tổng số thuốc
nhuộm sản xuất trên thế giới.
4.6.1. Cấu tạo chung
Bằng nhiều công trình và phương pháp nghiên cứu hiện đại người ta đã xác định
rằng thuốc nhuộm lưu huỳnh không phải là một hợp chất hoá học thuần khiết, không có
các hằng số vật lý, không thể tách riêng và làm sạch bằng các phương pháp hoá học.
Tuy nhiên người ta cũng đi đến nhất trí chung là:
- Nguyên tử lưu huỳnh nằm trong phân tử thuốc nhuộm ở các dạng: −S−, −SH−,
−S−S−, −SO−, −Sn−. Trong nhiều trường hợp nó nằm trong các dị vòng như: thiazol,
thiazin, thiantren và vòng azin. Vòng thiazol chứa chủ yếu trong các thuốc nhuộm màu
127
vàng, màu da cam và màu nâu.
Vòng thiazin chủ yếu chứa trong các thuốc nhuộm màu đen và xanh lục. Vòng azin
chứa trong các thuốc nhuộm đỏ và nâu (xem chương 2).
Nhìn chung, cấu tạo của thuốc nhuộm lưu huỳnh rất phức tạp, đến nay người ta vẫn
chưa xác định được cấu tạo của chúng một cách chính xác.
4.6.2. Thuốc nhuộm lưu huỳnh hoà tan trong nước
Để làm dễ dàng cho việc chuẩn vị dung dịch thuốc nhuộm lưu huỳnh khi nhuộm,
nhiều hãng trên thế giới đã sản xuất ra loại thuốc nhuộm lưu huỳnh hoà tan trong nước. Ở
Đức loại thuốc nhuộm này gọi là leuco-immedial, hoà tan được trong nước lạnh, khi
nhuộm không cần thêm natri sunfua và có thể nhuộm cho xơ bông, xơ vixcô, vì thuốc
nhuộm thành phẩm đã chứa sẵn chất khử.
Hãng IG của Đức còn sản xuất ra loại thuốc nhuộm có tên là immedial-zol, nó là hỗn
hợp của thuốc nhuộm lưu huỳnh, natri cacbonat và rongalit. Ở Anh loại thuốc nhuộm này
được sản xuất dưới nhãn hiệu Thionol M, còn ở Thuỵ Sĩ thì được sản xuất dưới tên gọi là
neozol, elipzol. Ở Nga gọi là Thiozol BS, là dẫn zuất bisunfit của thuốc nhuộm lưu huỳnh.
4.6.3. Các mặt hàng thuốc nhuộm lưu huỳnh
Mặc dù có nhược điểm là màu kém tươi và độ bền màu với ánh sáng không cao
nhưng do giá thành sản xuất thấp nên thuốc nhuộm lưu huỳnh vẫn không ngừng được
hoàn thiện quy trình công nghệ và mặt hàng. Để khắc phục hiện tượng bốc bụi và thuận
tiện cho sử dụng người ta đã sản xuất thuốc nhuộm dạng lỏng cũng chứa sẵn chất khử và
các chất phụ trợ khác nữa khi nhuộm được dễ dàng. Trong bảng 3.13 là những mặt hàng
thuốc nhuộm lưu huỳnh được các hãng lớn trên thế giới sản xuất.

Bảng 3.13

Tên nước Tên hãng Tên thuốc nhuộm


Anh ICI Thionone
Ba Lan Ciech Sulphur
Đức Cassetla Immedial, hydron
Wolfen sulphur
Liên Xô (cũ) Sernhictưi, thiozol BS
Mỹ Du-Pont Sulfogene
Pháp Francolor Sulphanol
Sec và Slovackia Chemapol Sulphogene
Thuỵ Sĩ Ciba-Geigy Pyrogene, Ciba, eklips thiotinone
Sandoz Thional, sandon

4.7. Thuốc nhuộm phân tán


4.7.1. Đặc điểm chung và cấu tạo hoá học
Trước đây, khi mới ra đời thuốc nhuộm phân tán có tên gọi là “thuốc nhuộm tơ
axetat”, là những hợp chất màu không tan trong nước do không chứa các nhóm cho tính
tan như −SO3Na, −COONa. Những thuốc nhuộm phân tán loạt đầu sản xuất vào những
năm hai mươi của thế kỷ này hầu hết là các hợp chất màu gốc azo và antraquinon. Tên gọi
của lớp thuốc nhuộm này chỉ rằng chúng có độ hoà tan rất thấp trong nước và phải sử

128
dụng ở dạng huyện phù hay phân tán với kích thước hạt trong khoảng 0,2 - 2 μm, được
dùng để nhuộm loại xơ nhân tạo ghét nước duy nhất bấy giờ là xơ axetat.
Theo hướng này khi các xơ tổng hợp ra đời và dần trở thành nguyên liệu quan trọng
của ngành dệt thì những thuốc nhuộm phân tán kiểu mới đã được tổng hợp để đáp ứng nhu
cầu nhuộm cho các xơ: polyamit, polyeste, polyaclylonitrin, polyvinylic và các xơ tổng
hợp khác nữa. Vì trong phân tử của thuốc nhuộm phân tán có chứa các nhóm amin tự do
hoặc đã bị alkyl hoá (−NH2, −NHR, −NR2 ...) đặc biệt là có chứa các nhóm amin đã bị thế
bằng các gốc alkyl hidroxyl (−NH−CH2−CH2−OH) nên những thuốc nhuộm này dễ dàng
phân tán trong nước hơn. Theo phân lớp kỹ thuật thuốc nhuộm phân tán có thể chia thành
ba phân nhóm sau:
- loại thông thường và có thể điazo hoá sau nhuộm;
- loại chứa trong phân tử nguyên tử kim loại;
- loại phân tán hoạt tính, có thể liên kết vôi xơ bằng liên kết hoá trị.
Độ hoà tan của thuốc nhuộm phân tán trong nước rất thấp, ở 25oC chỉ tiêu này của
đa số thuốc nhuộm chỉ vào khoảng 0,2 - 8 mg/l, còn ở 80oC độ hoà tan của chúng cũng chỉ
đạt tới 50 - 350 mg/l là tối đa.
Đối với những xơ tổng hợp ghét nước thì độ hoà tan của thuốc nhuộm trong nước
càng thấp, thuốc nhuộm càng dễ bắt màu vào xơ theo cơ chế dung dịch rắn. Song để đạt
được yêu cầu phân bố thật đều, lúc đầu là mặt ngoài và sau đó là trong xơ thì thuốc nhuộm
loại này phái được nghiền đến dạng cực mịn và phân bố đều trong dung dịch nước ở dạng
phân tán cao để chúng có thể dễ dàng đi vào xơ ở điều kiện nhuộm. Để giải quyết yêu cầu
này, ngoài dạng bột mịn phân tán cao người ta còn sản xuất ra loại thuốc nhuộm phân tán
tan tạm thời trong nước có tên thương phẩm là solacet. Trong quá trình nhuộm, ở nhiệt độ
cao nhóm cho tính tan tạm thời này sẽ tách ra, giải phóng phân tử thuốc nhuộm không hoà
tan trong nước, phân bố đều trong dung dịch ở dạng đơn phân tử và cũng bắt màu vào các
xơ nhiệt dẻo ghét nước như là loại không tan trong nước.

4.7.2. Thuốc nhuộm phân tán loại thông thường và loại có thể điazo hoá sau
nhuộm
Tuỳ theo cấu tạo hoá học và theo màu những thuốc nhuộm loại này được chia thành
các nhóm: gốc azo, gốc antraquinon, gốc nitrođiphenylamin và các dẫn xuất của
naphtoquinon. Trong số những thuốc nhuộm phân tán đã biết rõ cấu tạo hoá học thì 35%
có gốc azo, chủ yếu là monoazo; 27% là các dẫn xuất của antraquinon; 5% là dẫn xuất của
nitrophenylamin. Phần còn lại là những thuốc nhuộm chưa được chỉ dẫn cấu tạo hoá học
trong Color index. Mặt hàng của thuốc nhuộm phân tán nhóm này chiếm tất cả các gam
màu, từ vàng cho đến đen.
a. Thuốc nhuộm phân tán gốc azo
Trong số các thuốc nhuộm azo thì các dẫn xuất monoazo aminobenzen có ái lực với
axetyl xenlulo và xơ tổng hợp lớn hơn cả, dạng tổng quát của nó như sau:

R1
A N N B N
R2

ở đây R1, R2 có thể là H, CH3, C2H5, C2H4OH, alkyl-OH...

129
Aminoazobenzen có màu vàng, khi đưa vào nhân A các nhóm thế âm tính như:
−NO2, −Cl và −Br ở vị trí octo hay para so với nhóm azo thì sẽ tạo cho thuốc nhuộm có
đầy đủ gam màu: da cam, đỏ tươi, đỏ sẫm, nâu đỏ, cẩm thạch và xanh lam. Những thuốc
nhuộm phổ cập rộng rãi của nhóm này có cấu tạo như sau:
- Phân tán đỏ tía G:

C2H5
O2N N N N
C2H4OH

- Phân tán đỏ R bền màu:


C2H4OH
O2N N N N
C2H4OH

Những thuốc nhuộm này chứa nhóm nitro ở nhân A, không có tính hướng quang
nhưng sắc màu sâu hơn. Khi nhóm amin ở nhân B bị thế bởi các gốc alkyl hay alkyl-
hiđroxyl thì tính bazơ của thuốc nhuộm giảm đi, loại trừ được hiện tượng làm sâu màu và
tính hướng quang. Những thuốc nhuộm có cấu tạo khác sẽ không có hiện tượng kể trên.
Một số thuốc nhuộm phân tán azo chứa nhóm amin tự do trong phân tử, sau khi
nhuộm có thể điazo hoá và kết hợp với một thành phần azo nữa để tăng thêm độ bền màu
của thuốc nhuộm.
b. Thuốc nhuộm phân tán là dẫn xuất của antraquinon
Màu của thuốc nhuộm nhóm này phụ thuộc vào chủng loại, số lượng và vị trí của
các nhóm thế trong phân tử antraquinon. Những nhóm thế ở vị trí α sẽ làm cho thuốc
nhuộm bắt màu vào sản phẩm dệt mạnh hơn so với khi nhóm thế có ở vị trí β. Những
nhóm thế ở vị trí 1,4 sẽ làm cho màu của thuốc nhuộm sâu hơn so với khi chúng ở vị trí
1,5 hay 1,8. Theo thứ tự làm tăng độ màu của thuốc nhuộm các nhóm thế được sắp xếp
như sau:
NO < Cl < Br < OH < NH2
Nhóm thuốc nhuộm này có các màu da cam, màu đỏ, màu tím và đa số các màu xanh
thường gặp. Những năm gần đây thuốc nhuộm phân tán gốc antraquinon đã được bổ sung
thêm nhiều màu mới có độ bền màu cao hơn để nhuộm xơ polyamit và polyeste.
c. Những thuốc nhuộm phân tán có cấu tạo khác
Thuộc về loại thuốc nhuộm này có các dẫn xuất của nitrođiphenylamin, và các thuốc
nhuộm monoarylmetin.
Thuốc nhuộm là dẫn xuất của nitrođiphenylamin có màu vàng sắc xanh lục (từ G
đến 7G), hay màu đỏ (R, 2R), chúng khác với các thuốc nhuộm azo có cấu tạo tương tự là
có độ bền màu cao và không có hiện tượng hướng quang. Các thuốc nhuộm monoaryl-
metin có độ bền màu cao với ánh sáng trên xơ axetat, nhưng kém bền màu khi dùng cho
xơ polyamit. Ngoài ra khi ở nhiệt độ cao một số nhóm định chức có thế bị thủy phân.
4.7.3. Thuốc nhuộm phân tán chứa kim loại
Thuốc nhuộm phân tán chứa kim loại 1:2 dùng để nhuộm xơ polyamit có cấu tạo gần
giống như thuốc nhuộm axit chứa kim loại 1:2 (như ostalan, wofalan, cibalan, irgalan...).
Song thuốc nhuộm phân tán loại này khác với thuốc nhuộm axit ở chỗ chúng không chứa
các nhóm tạo cho thuốc nhuộm tính tan.

130
Thuốc nhuộm phân tán chứa kim loại 1:1 cũng hoà tan trong nước, được sản xuất ở
dạng bột mịn phân tán cao. Chúng kém thuốc nhuộm phân tán loại thông thường ở khả
năng đều màu và khả năng che phủ cấu trúc không đều của xơ polyamit, nhưng vượt hẳn
chúng về độ bền với gia công ướt, ánh sáng, độ bền với ma sát rất khá.
Những thuốc nhuộm loại này được các hãng sản xuất dưới các tên gọi thương phẩm
như: vialon (Bayer), avilon (Ciba-Geigy), amichrome (Francolor) v.v.
4.7.4. Thuốc nhuộm phân tán hoạt tính
Như đã trình bày ở chương thuốc nhuộm hoạt tính, đa số thuốc nhuộm lớp này được
dùng để nhuộm xơ xenlulo, số ít để nhuộm len, tơ tằm, nhưng cũng có một vài loại dùng
để nhuộm xơ polyamit. Đặc điểm chung của thuốc nhuộm phân tán hoạt tính là không
chứa nhóm cho tính tan ở phần mang màu, cũng được sản xuất ở dạng bột mịn phân tán
cao, nhưng có chứa nhóm phản ứng. Trong điều kiện nhuộm chúng sẽ thực hiện liên kết
hoá trị với xơ và nằm lại trên xơ vừa ở dạng không tan trong nước vừa liên kết hoá trị với
xơ. Những loại thuốc nhuộm kiểu này chia làm các nhóm sau đây:
- Loại chứa nhóm epoxy để nhuộm polyamit có công thức tổng quát:
R−CH2−CH−CH2
O
- Loại procinylon (do hãng ICI sản xuất) có một trong các công thức tổng quát sau:
R−CH2−CH−CH2
OH Cl
- Loại levafix (do hãng Bayer sản xuất) có dạng tổng quát:
R−SO2−NH−CH2−CH2−OSO3Na.
Lúc đầu thuốc nhuộm này hoà tan trong nước nhờ chứa các nhóm este sunfonat.
Trong quá trình nhuộm nhóm này sẽ tách ra để liên kết với xơ vừa theo cơ chế của thuốc
nhuộm hoạt tính vừa theo cơ chế của thuốc nhuộm phân tán.
4.7.5. Mối quan hệ giữa cấu tạo hoá học và tính chất của thuốc nhuộm phân tán
Thuốc nhuộm phân tán bao gồm nhiều hợp chất có cấu tạo hoá học khác nhau nhưng
có đặc điểm chung là:
Không chứa các nhóm tạo tính tan. Trong phân tử chứa các nhóm: −NH2, −NHR2,
−NR1R2, −OH, −OR (R có thể là gốc alkyk, aryl, alkylhiđroxyl);
- Trung tính hoặc có tính bazơ yếu. Có khối lượng phân tử không lớn (250 - 300),
kích thước phân tử nhỏ và cấu tạo không phức tạp.
Các tính chất hoá lý của thuốc nhuộm phân tán cũng có những điểm chung là:
- Độ phân cực của phân tử dao động trong khoảng 1,5 - 7,7 debai;
- Độ hoà tan trong nước rất thấp (từ 0,2 - 8 mg/l ở 25oC). Tăng nhiệt độ, độ hoà tan
của chúng có tăng chút ít nhưng không vượt quá 0,5 g/l;
- Nhiệt độ nóng chảy của thuốc nhuộm tương đối cao (150 - 300oC);
- Các hạt thuốc nhuộm có cấu trúc tinh thể (đôi khi là vô định hình).
Ở dạng huyền phù phân tán có kích thước hạt chủ yếu từ 0,2 - 2 μm, trong quá trình
nhuộm chúng không chịu bất kỳ một biến đổi nào.

131
Độ bền màu của thuốc nhuộm phân tán với nhiều chỉ tiêu cũng là những tính chất
quan trọng cần chú ý.
4.7.5.1. Độ bền màu của thuốc nhuộm phân tán trên xơ axetat
a. Độ bền với ánh sáng
Chỉ tiêu này phụ thuộc vào các yếu tố như: thành phần của chùm tia sáng, hàm
lượng oxi của khí quyển xung quanh, độ ẩm và nhiệt độ của không khí và loại xơ. Thí dụ,
có trường hợp cùng một thuốc nhuộm nhưng khi nhuộm cho xơ polyamit màu sẽ kém bền
hơn so với khi nhuộm xơ axetat.
Tính chất phức tạp của quá trình phá hủy thuốc nhuộm bằng ánh sáng không cho
phép ta tìm ra những quy luật chung, vì thế việc xác định cấu trúc tối ưu của thuốc nhuộm
bị hạn chế bằng các tài liệu kinh nghiệm. Thí dụ, ảnh hưởng của nhóm thế đến tính chất
của thuốc nhuộm có thể như sau:
- Ở các dẫn xuất 1-amino-4-hyđroxylantraquinon khi thế một nguyên tử hyđro của
nhóm amin bằng gốc dương tính (−CH3) sẽ làm giảm độ bền màu với ánh sáng; còn khi
đưa vào vị trí 2 các nhóm thế dương tính (−CH3, −OCH3, −OCH2−CH2−OCH3) độ bền với
ánh sáng sẽ tăng lên;
- Trong các thuốc nhuộm azo, khi đưa vào các nhóm thế âm tính ở vị trí octo hay
para so với nhóm azo hoặc đưa vào vị trí beta hay gama ở mạch nhánh đã được thế bằng
nhóm amin sẽ làm tăng đồ bền màu với ánh sáng. Trong số các nhóm thế âm tính thì
thường gặp hơn cả là nhóm nitrin (−CN);
- Các dẫn xuất mononitrođiphenylamin, đặc biệt là các dẫn xuất 2-nitrođiphenyl-
amin-4-sunfonamit có độ bền màu cao với ánh sáng.
b. Độ bền màu với giặt và gia công ướt
Thông thường thì những thuốc nhuộm được xơ hấp phụ dễ dàng sẽ có độ bền màu
thấp với giặt, đó là trường hợp những thuốc nhuộm có cấu tạo đơn giản, khối lượng phân
tử thấp, điển hình là các thuốc nhuộm màu vàng. Để nâng cao độ bền màu của chúng phải
tăng khối lượng phân từ bằng cách đưa các nhóm thế vào thuốc nhuộm với điều kiện
không làm thay đổi ái lực và sắc màu của chúng. Cũng vì thế trong các thuốc nhuộm
monoazo không gặp những màu vàng bền với giặt, còn các dẫn xuất nitrođiphenylamin có
độ bền khá cao với giặt.
c. Độ bền với khói lò
Ở các vùng công nghiệp, mặc dù không chịu tác dụng của ánh sáng, một số thuốc
nhuộm phân tán khi nằm trên xơ axetat vẫn bị bạc màu. Hiện tượng này thường gặp ở các
thuốc nhuộm màu xanh lam, các dẫn xuất của antraquinon chứa các nhóm amin hay nhóm
alkylamino ở vị trí 1 và 4. Đặc điểm này cũng có ở các thuốc nhuộm antraquinon màu đỏ,
màu tím và một số thuốc nhuộm azo màu đỏ chứa các nhóm thế tương tự có tính bazơ.
Hiện tượng phai màu xảy ra trong các trường hợp kể trên được giải thích là do tác
dụng của các khí có axit tính chứa chủ yếu nitơ oxit thoát ra từ khói lò và các động cơ đốt
trong. Khi này các nhóm amin bậc nhất của thuốc nhuộm sẽ bị điazo hoá, các nhóm amin
bậc hai sẽ bị nitro hoá, các phân tử thuốc nhuộm sẽ bị oxi hoá, làm cho chúng mất màu.
Tính nhạy cảm của.thuốc nhuộm phân tán với khói lò chỉ thể hiện chủ yếu ở xơ đi-
và triaxetat; hiện tượng này ít thấy hơn ở xơ polyamit, polyeste và polyacrylonitrin. Để

132
hạn chế nhược điểm này của những thuốc nhuộm phân tán dùng cho xơ axetat, người ta đã
nghiên cứu biến đổi các nhóm thế của thuốc nhuộm.
4.7.5.2. Độ bền màu của thuốc nhuộm phân tán trên xơ tổng hợp
a. Độ bền màu với ánh sáng
Độ bền màu của thuốc nhuộm phân tán trên xơ tổng hợp với tác dụng của ánh sáng
không chỉ phụ thuộc vào thuốc nhuộm mà còn phụ thuộc vào cấu tạo hoá học và tính chất
lý học của xơ sợi, vì thế nên cùng một thuốc nhuộm sẽ có độ bền màu khác nhau khi
nhuộm cho các xơ khác nhau.
Nhìn chung những thuốc nhuộm phân tán cổ điển, các dẫn xuất của aminoazobenzen
chứa ít nhóm thế sẽ có độ bền màu với ánh sáng trên xơ tổng hợp vào loại trung bình; còn
các thuốc nhuộm phân tán có gốc điazo, dẫn xuất của nitrođiphenylamin và antraquinon
thì có độ bền màu cao với ánh sáng. Khi đưa vào phân từ thuốc nhuộm các nguyên tử
halogen thì độ bền màu với ánh sáng của thuốc nhuộm tăng lên.
b. Độ bền màu với giặt
Độ bền màu với giặt của thuốc nhuộm phân tán trên xơ tổng hợp phụ thuộc vào tính
ghét nước của xơ nhiều hơn là phụ thuộc vào cấu tạo của thuốc nhuộm. Chẳng hạn khi
cùng nhuộm bằng một thuốc nhuộm phân tán giống nhau cho các xơ: điaxetat, polyamit và
polyeste thì thấy rằng hai trường hợp đầu màu chỉ đạt được độ bền trung bình, còn trường
hợp cuối thì màu có độ bền rất cao.
c. Độ bền màu với khói lò
Khói lò ít có khả năng làm bạc màu thuốc nhuộm phân tán trên xơ tổng hợp, điều
này được giải thích là do nó không có khả năng thấm sâu vào bên trong xơ.
d. Độ bền màu với thăng hoa
Những thuốc nhuộm monoazo có cấu tạo đơn giản bắt đầu thăng hoa ở ngay nhiệt độ
135 - 170oC, nghĩa là độ bền của chúng với thăng hoa không đạt yêu cầu vì khi nhuộm vải
polyeste bằng thuốc nhuộm phân tán phải gia nhiệt khô ở nhiệt độ trên 180oC. Các thuốc
nhuộm điazo có khối lượng phân tử lớn hơn nên bắt đầu thăng hoa ở 160 - 180oC.
Để nâng cao độ bền màu với thăng hoa người ta đưa vào phân tử thuốc nhuộm phân
tán các nhóm thế có khả năng chịụ nhiệt nhưng không làm giảm ái lực của thuốc nhuộm.
Những nhóm thế có hiệu ứng này là: −SO2NH2; −CONH; −CN; −OH; −CHF2; −CF3.
4.7.6. Các mặt hàng thuốc nhuộm phân tán
Hiện nay thuốc nhuộm phân tán được sản xuất ở dạng bột mịn phân tán cao và siêu
mịn chứa từ 15 - 50% chất màu tuỳ mặt hàng của mỗi hãng, phần còn lại là chất phân tán,
chất ngấm và phụ gia khác. Người ta cũng sản xuất loại bột nhão phân tán cao chứa l0 -
20% chất màu, phần còn lại là chất phân tán, chất ngấm, nước và chất chống vón cục. Bột
nhão có đặc điểm là mức độ nghiền mịn và phân tán của các hạt rất cao, có đến 85% số
hạt có kích thước dưới 0,5 - 2 μm chúng rất thích hợp để nhuộm theo phương pháp gia
nhiệt khô.
Các mặt hàng thuốc nhuộm phân tán được các hãng và các nước trên thế giới sản
xuất được trình bày trong bảng 3.14.

133
Bảng 3.14

Tên nước Tên thuốc nhuộm Loại xơ nhuộm được


Tên hãng
sản xuất thương phẩm axetat poly este poly amit
Anh ICI Duranol T + + +
Dispersol + + +
Serizol − + +
Serilen − + +
Ba Lan Ciech Synten P + + +
CHL Đức bayer Rozolin, Vialon fast + ++
BASF Palanil, cottesthrene + + +
celliton fast, perliton + − +
Casselle Polysisthrene − + +
Hoechst Samorone + + +
Mỹ Du-Pont Acetamine, celatren + + +
latil, easman, istone
easman-polyester + + +
emichrome fast − + +
Nhật Bản Sumitomo Sumlkaron + +
Pháp Francolor Acetosol, esteroquinone + + +
esterophyl, amichrome fast + + +
Sec và
Slovackia Chemapol Ostacet + + +
Thuỵ Sĩ Ciba-Geigy Terasil, cibacet, efanin + + +
setaron, setasyl, avilon + + +
Sandoz Terindosol − + +
Foron + + +
Artizin + + +
Italia AKHA Tersetil + + +
Ghi chú: dấu + : bắt màu tốt; dấu − : bắt màu không tốt.

Trên đây là những mặt hàng thuốc nhuộm phân tán của một số hãng lớn sản xuất và
khái quát về phạm vi sử dụng của chúng. Khi đặt mua hoặc thiết kế công nghệ nhuộm cần
tham khảo đầy đủ các tài liệu chỉ dẫn phạm vi sử dụng cụ thể của mỗi loại thuốc nhuộm
và mỗi màu để thu được hiệu quả mong muốn. Cùng với sự phát triển các mặt hàng xơ
tổng hợp và đa dạng hoá các loại vải pha từ xơ tổng hợp và xơ thiên nhiên người ta đã sản
xuất các loại thuốc nhuộm phân tán có chỉ dẫn để nhuộm riêng cho xơ axetat, polyamit.
polyeste, polyacrylonitrin và các hỗn hợp phối sẵn để nhuộm cho mỗi loại vải pha kèm
theo quy trình công nghệ thích hợp. Thí dụ hãng Ciba-Geigy đã sản xuất ra thuốc nhuộm
teracoton, nó là hỗn hợp của thuốc nhuộm phân tán kiểu terasil và thuốc nhuộm hoàn
nguyên không tan dạng bột mịn kiểu cibanone, được dùng để nhuộm cho vải polyeste pha
bông theo quy trình công nghệ thích hợp.
4.8. Thuốc nhuộm azo không tan
Thuốc nhuộm azo không tan còn có tên gọi khác như: thuốc nhuộm lạnh, thuốc
nhuộm đá và thuốc nhuộm naphtol; chúng là những hợp chất có chứa nhóm azo trong

134
phân tử nhưng không chứa các nhóm có tính tan như −SO3Na, −COONa nên chúng không
hoà tan trong nước. Để nhuộm vật liệu dệt người ta phải tổng hợp chúng trực tiếp trên vải
từ hai loại hợp chất trung gian có tên gọi là thành phần azo (R−OH) và thành phần điazo
(R1−N≡NCl−) theo phản ứng kết hợp có dạng tổng quát như sau:
+ [OH ]
R ONa + R1 N Cl R1 N N R OH + NaCl
0 5oC
N
Phản ứng kết hợp azo thường phải tiến hành ở nhiệt độ thấp (0 - 5oC) bằng cách làm
lạnh dung dịch nhuộm hoặc thêm nước đá vào máng nhuộm nên thuốc nhuộm có tên là
“nhuộm lạnh”, “nhuộm đá”.
Do nằm trên vải ở dạng không tan trong nước nên thuốc nhuộm loại này có độ bền
màu cao với gia công ướt, còn độ bền màu với ánh sáng và ma sát thì không cao lắm. Tuy
nhiên lớp thuốc nhuộm này vẫn được sử dụng rộng rãi vì công nghệ nhuộm đơn giản, giá
thành thấp, màu của thuốc nhuộm tươi. Khó khăn thường gặp phải khi chuẩn bị dung dịch
hiện màu (thành phần điazo) được khắc phục bằng cách chế sẵn các hỗn hợp ổn định của
các bán thành phẩm, trong điều kiện nhuộm hay in hoa chúng mới thể hiện khả năng phản
ứng.
Nhờ chứa trong phân tử nhóm azo, nhóm này có thể bị phá vỡ dưới tác dụng của
chất khử làm cho thuốc nhuộm bị mất màu, nên chúng được sử dụng nhiều để in hoa theo
phương pháp in phá gắn màu. Theo các số liệu mới nhất thì hiện nay người ta đã sử dụng
gần 80 hợp chất làm thành phần điazo và 60 hợp chất làm thành phần azo để tổng hợp gần
5000 màu khác nhau (theo lý thuyết) trong các gam màu từ vàng đến đen, song số màu
được ứng dụng rộng rãi thì không đến như vậy và chủ yếu để nhuộm, in hoa vải từ xơ
xenlulo.
4.8.1. Thành phần azo
Để làm thành phần azo khi nhuộm lạnh trước đây người ta dùng β-naphtol nhưng vì
màu của thuốc nhuộm được tạo thành từ nó sẽ kém bền với ánh sáng cho và ma sát, dung
dịch β-naphtol lại không bền dễ bị oxi hoá. Ngoài ra khả năng hấp phụ của β-naphtol vào
xơ rất thấp nên sau này người ta dùng các dẫn xuất của nó. Trong kỹ thuật nhuộm thành
phần azo có các tên gọi khác nhau nhưng phổ biến hơn cả vẫn gọi là naphtol, có công thức
tổng quát như sau:
OH

CO NH R

ở đây R là các gốc alkyl khác nhau.


Như vậy naphtol có thể xem như dẫn xuất aniziđit của axit naphtoic. Tuỳ theo cấu
tạo của gốc R mà chúng có tên gọi và cho màu cũng như sắc màu khác nhau.
Naphtol không hoà tan trong nước nhưng hoà tan trong kiềm gọi là naphtolat ở hai
dạng như sau:
ONa ONa

CO NH R C N R

muối mononatri muối đinatri ONa

135
Ở dạng naphtolat không những chúng hoà tan trong nước mà còn có ái lực với xơ
nên có thể hấp phụ vào xơ xenlulo, bảo đảm thuận lợi cho giai đoạn nhuộm nền. Trong
bảng 3.15 là tên gọi tương ứng của các naphtol sản xuất trên thế giới.

Bảng 3.15

Tên nước Tên gọi Tên ký hiệu của thành phần azo
Anh Brentol AS AN FO BT MH LTR
Ấn Độ Amartol AS AS-BO − − AB-B −
Ba Lan Naphtoelan A BO − LB BS LTR
Azonaphtol A A − − MNA −
CHLB Đức Naphtol AS AS-BO AS-BG AS-LB AS-BS AS-LTR
Mỹ Naphtanil AS BO − − BS −
Naphtazol AS BO − − BS −
Naphtolat AS BO AS-BG − AS-BS −
Nga Azoto A ANF DMA K MNA O
Nhật Bản Naphtoid AS BO − − BS −
Diatoz AS − − − AS-BS −
Dragotoi AS − − − AS-BS −
Mits AS BO − − BS −
Nipponaphtol AS − − − − −
Pháp Naphtazol AS N3B − − NB NITR
Antonaphtol AS M3B − − AS-BS −
Sec và
Slovackia Ultrazol I-AS − XII-BG − IV-BS
Thuỵ Sĩ Naphtanllid RC BO BG − BS ITR
Cibanaphtol RF RN RDM RM −
Celcot RF RN − − RM −
Irganaphtol RF RN − − − −
Iltalia Naphto C F BG − M SS

4.8.2. Thành phần điazo


Cấu tử thứ hai để hợp thành thuốc nhuộm azo không tan là thành phần điazo, được
chuyển hoá từ các amin thơm bậc nhất nhờ phản ứng điazo hoá.
Quá trình điazo hoá có thể thực hiện trong xưởng nhuộm mỗi khi có nhu cầu sử
dụng, song vì hợp chất điazo không bền. không thể bảo quản được lâu nên người ta đã
chuyển hợp chất điazo về các dạng bền vững (dạng thụ động), khi nhuộm hoặc in hoa mới
chuyển nó về dạng hoạt động để tham gia vào phản ứng tạo màu.
Amin bậc nhất dùng vào mục đích này gọi là azoamin hay bazơ, chữ tiếp theo là chỉ
màu, và chữ cái chỉ sắc sẽ nhận được khi kết hợp với naphtol. Amin thơm muốn sử dụng
vào mục đích này cần phải có phân tử nhỏ, có khả năng điazo hoá và kết hợp azo cao, có
khả năng tạo thành màu bền và tươi, không chứa các nhóm có tính tan. Bảng 3.16 là các
azo amin thường gặp.

136
Bảng 3.16

Tên azoamin Công thức hoá học


NO2
Azoamin da cam O
NH2

O2 N
Azoamin da cam R
NH2

Cl

Azoamin đỏ tía 2G NH2

Cl

Azoamin đỏ G O2N NH2

CH3

Azoamin đỏ 2G O2N NH2

CH3

Azo amin đỏ B NH2

Cl

Azoamin hồng O O2N NH2

OCH3
OC2H5

Azoamin xanh lam 2B H2N NH CO

OC2H5

Azoamin xanh lam O H2N NH OCH3

Azoamin đỏ tía R NH2

O2N OCH3

a. Tính chất chung của các muối điazo


Các muối điazo thu được khi điazo hoá amin thơm chỉ tương đối bền trong dung
dịch ở nhiệt độ thấp (0 - 5oC), ở nhiệt độ cao hơn chúng tự phân hủy, vì vậy mỗi khi
chuẩn bị ra phải sử dụng ngay, trường hợp muốn bảo quản lâu hơn phải chuyển chúng về
dạng đã thụ động hoá. Ở trạng thái rắn khi chưa bị thụ động nó có thể gây nổ nếu gặp va
chạm mạnh và cũng không bền, ở nhiệt độ cao nó cũng tự hủy.
b. Các dạng ổn định của hợp chất điazo
Để thuận tiện cho việc sử dụng khi nhuộm và in hoa cũng như dễ dàng cho việc bảo
quản, chuyên chở người ta đã sản xuất hợp chất điazo ở một số dạng thụ động, những
dạng thường gặp là:

137
- Muối điazol. Có thể ổn định hợp chất điazo bằng cách tạo thành các muối kép có
tên kỹ thuật là điazol, được thực hiện bằng cách đưa vào dung dịch muối điazo các muối
vô cơ khan như: Na2SO4, ZnCl2 ..., sau đó làm khô bằng cách sấy chân không sẽ tạo thành
các muối kép ổn định, dạng tổng quát như sau:
+
R N
Cl
N ZnCl2

Ngoài các muối vô cơ kể trên người ta cũng dùng các muối sunfonat hữu cơ hoặc
muối floborat để ổn định hợp chất điazo.
Khi sử dụng, điazol được hoà vào nước, dạng muối kép sẽ bị phá vỡ, giải phóng ra
hợp chất điazo ở dạng hoạt động có thể tham gia vào phản ứng kết hợp azo. Muối điazol
được dùng chủ yếu để nhuộm, dùng trong việc in chụp bản vẽ trên giấy.
c. Các dạng ổn định của hợp chất điazo dùng cho in hoa
Để giảm nhẹ việc chuẩn bị hồ in người ta đã sản xuất ra các hỗn hợp của hợp chất
điazo ở dạng thụ động và naphtol theo kiểu “hỗn hợp chế sẵn”. Sau khi in và sấy vải được
chưng hấp trong môi trường hơi thích hợp, khi này hợp chất điazo sẽ chuyển về dạng hoạt
động tham gia ngay vào phản ứng kết hợp với naphtol để hiện màu.
Những chế phẩm thường gặp: điazoaminol (rapidogen), rapidozol, điazotol. Chúng
là hỗn hợp của hợp chất điazo đã thụ động hoá và naphtol có độ ổn định cao. Sau khi in
lên vải, trong quá trình chưng hấp có mặt hơi axit chúng sẽ bị phân giải thoát ra hợp chất
điazo ở dạng hoạt động và kết hợp ngay với naphtol để hiện màu mong muốn.
Nhược điểm chung của các hỗn hợp bền vững kể trên là phải hiện màu trong môi
trường axit, gây khó khăn cho việc bảo vệ thiết bị chống ăn mòn, vì vậy người ta đã sản
xuất ra các hỗn hợp có thể hiện màu được trong môi trường trung tính như: neutrogen,
neocotone...
4.8.3. Các mặt hàng thuốc nhuộm azo không tan
Thuốc nhuộm azo không tan là lớp thuốc nhuộm ra đời sớm hơn so với nhiều lớp
thuốc nhuộm khác nên các mặt hàng của nó tương đối đày đủ và ổn định.
a. Thành phần azo
Các sản phẩm dùng làm thành phần azo đa dạng, được nhiều hãng sản xuất đã được
trình bày trong bảng 3.16.
Theo độ tăng dần của ái lực đối với xơ bông, người ta đã đo mức độ hấp phụ vào xơ
bông (%) trong những điều kiện như nhau của một số naphtol và xếp như sau:
β-naphtol (8%) → naphtol AS (12%) → naphtol AS-D (12%) → naphtol AS-OL
(14%) → naphtol AS-PA (16%) → naphtol AS-BS (16%) → naphtol AS-ITR (19%) →
naphtol AS-BO (21%) → naphtol AS-LB (44%) → naphtol AS-RL (90%) → naphtol
AS-S (95%).
Những năm gần đây trên thị trường thế giới xuất hiện một số naphtol mới như:
naphtol AS-KN; naphtol AS-fau L, chúng có khả năng tận trích cao nên thuận tiện cho
việc nhuộm liên tục các màu nâu. Cũng có một số naphtol mới với tên gọi là naphtol
AS-ultra, chúng rất dễ thấm ướt và hoà tan trong dung dịch kiềm nóng để cho dung dịch
trong suốt.

138
Cũng có một số thành phần azo không thuộc loại naphtol, đó là một số thuốc nhuộm
trực tiếp có nhóm amin hay nhóm hiđroxyl tự do nằm ở vị trí octo so với nhóm azo, có thể
xem như thành phần azo chúng tham gia phản ứng kết hợp với các hợp chất điazo.
b. Thành phần điazo
Cùng với việc tìm kiếm và sản xuất các mẫu naphtol mới người ta đã chế tạo hàng
loạt amin có khả năng biến đổi thành hợp chất điazo và các muối điazo bền để kết hợp với
thành phần azo trên xơ tạo thành những màu tươi và bền.
Hiện nay đã có khoảng 100 azoamin không chứa các nhóm có tính tan được dùng
làm thành phần điazo. Việc đưa một vài loại nhóm thế đặc biệt vào vị trí meta so với
nhóm amin, thí dụ như nhóm −CF3 sẽ làm tăng độ bền màu với ánh sáng và độ thuần sắc
của thuốc nhuộm, còn nhóm sunfonamit chỉ làm tăng độ bền màu với các chỉ tiêu hoá lý.
Những năm gần đây đã xuất hiện một số azoamin mới, trong đó đáng chú ý hơn cả là
“muối đỏ” để nhuộm các màu: đỏ tía bền AFA, đỏ RL, boocđô OL và BRH và “muối nâu”
để nhuộm màu ghi bền màu BR. Gam màu xanh lam cũng được bổ sung bằng các azoamin
mới để nhuộm màu lam sẫm bền màu RA và GRA. Các tông màu tím được hoàn thiện khi
cho naphtol AS-BS kết hợp với azoamin.
Gần đây đã xuất hiện một số thuốc nhuộm azo không tan chứa kim loại, trong phân
tử của những thuốc nhuộm này chứa các nhóm hiđroxyl, cacboxyl và alkylhiđroxyl ở vị trí
octo so với nhóm amin, chúng có khả năng tạo phức với ion kim loại, trước hết là với ion
đồng và crôm. Các hãng nước ngoài đã sản xuất azoamin ở dạng anmin tự do, dạng muối
điazol và dạng hỗn hợp bền vững để in hoa với các tên thương phẩm khác nhau. Những
azoamin thường gặp được dẫn ra trong bảng 3.l7.

Bảng 3.17

Tên nước Tên hãng Azoamin và điazol Điazotol Điazoaminol


Anh ICI Brentamine − Brentogen
Ba Lan Ciech Fast base − Pologene
CHLB Đức Bayer − Rapld fast Rapldogen
Hoechst Fast base − −
variogen fast salt
Italia AKHA Fast base Sitazin Sitasol, neutrogen
Nga Azoamin diazol Điazotol Điazoaminol
Pháp Francolor Fast base − Naphtasogene
Sec và Slovackia Chemapol Fast base − −
Thuỵ Sĩ Ciba-Geigy Base ciba, salt Cibagen, Cibanogen,
ciba base irgra thinogen irgatral
Sandoz Devol Momentogen Santogen,
brentogen

c. Những vấn đề phải giải quyết khi nhuộm azo không tan
Ưu điểm của việc nhuộm azo không tan là có thể nhuộm từ các bán thành phẩm,
không cần chế tạo đến dạng thuốc nhuộm hoàn chỉnh nên giá thành thấp hơn so với các
loại thuốc nhuộm khác. Song vấn đề phức tạp là ở chỗ phải chọn được loại bán thành
phẩm phù hợp để đáp ứng hàng loạt các đòi hỏi phức tạp như:

139
- dễ hấp phụ lên mặt xơ và khuếch tán sâu vào xơ;
- có tốc độ phản ứng cao để hiện màu, thoả mãn các điều kiện công nghệ nhuộm
gián đoạn, liên tục và in hoa;
- điều kiện phản ứng vừa phải, không làm tổn thương đến xơ sợi...
Vì vậy ngoài những bán thành phẩm để tổng hợp thuốc nhuộm azo không tan truyền
thống, đã bắt đầu sử dụng những loại khác như: phtaloxiamin, aroyleniminđazol.
Gam màu của thuốc nhuộm azo không tan thiếu màu vàng, xanh lam thuần khiết và
xanh đa trời. Màu của chúng chỉ đạt cấp trung bình và khá với tác dụng của gia công ướt,
ma sát và ánh sáng; thua các chi tiêu này của thuốc nhuộm hoạt tính và hoàn nguyên. Một
trong những biện pháp đề nâng cao độ bền màu của thuốc nhuộm azo không tan với giặt
và ma sát là dùng các bán chế phẩm có khả năng tương tác hoá học với xơ, vì vậy thay cho
các azoamin thông thường (thành phần điazo) người ta dùng các este của 4-β-hydroxyl-
etylsunfonyl-2-aminoanizol sunfonat có công thức H2N−R−SO2−CH2−CH2−O−SO3Na để
tận dụng khả năng phản ứng với xơ của nhóm vinylsunfon (H2N−R−SO2−CH= CH2) khi
xử lý trong môi trường kiềm.

4.9. Thuốc nhuộm pigment


4.9.1. Đặc điểm chung
Pigment là những hợp chất màu có cấu tạo hoá học khác nhau có đặc điểm chung là
không tan trong nước do trong phân tử không chứa các nhóm cho tính tan (−SO3H,
−COOH), hoặc các nhóm này bị chuyển về dạng muối bari, canxi không tan trong nước.
Một số pigment hữu cơ tuy không tan trong nước nhưng hoà tan trong một số dung môi
hữu cơ được dùng để nhuộm dầu mỡ, xăng, sáp. Đa số pigment có độ bền màu cao với ánh
sáng và bền với nhiệt độ cao: không bị di tản để bắt màu sang phần vật liệu để trắng, có
khả năng bao phủ cao và thuần sắc, tươi màu.
Pigment các loại đều được nghiền siêu mịn, có kích thước hạt nhỏ hơn 1 μm, được
sản xuất ở dạng phân tán cao hoặc bột nhão chứa 15 - 25% pigment nguyên chất, phần còn
lại là các phụ gia.
Pigment được sử dụng nhiều để trang trí bề mặt (nhuộm và đặc biệt là in hoa) các
sản phẩm dệt và một số sản phẩm khác (giấy, da cao su, chất dẻo), nó còn được dùng
nhiều trong công nghiệp sơn, ấn loát và nhuộm chất dẻo ở dạng khối.
Dưới đây là một số loại pigment hữu cơ thường gặp.
4.9.2. Pigment azo
Là những pigment chứa nhóm azo trong phân tử, đa số là mono azo, có các gam màu
vàng, da cam và đỏ, còn các màu khác ít gặp hơn. Theo cấu tạo hoá học pigment azo được
chia làm các loại sau.
a. Loại dùng cho nhuộm và in hoa bề mặt vật liệu
Khi chế tạo loại pigment này người ta thường dùng β-naphtol và naphtol làm thành
phần azo để kết hợp với các thành phần điazo có cấu tạo khác nhau. Tuỳ theo loại nhóm
thế và vị trí nhóm thế có trong thành phần điazo mà pigment sẽ có màu sắc và độ bền màu
khác nhau. Sau đây là một vài pigment tiêu biểu.
Pigment da cam bền màu, chế tạo từ 2,4-đinitroanilin và 2-naphtol có công thức sau:

140
HO

O2N N N

NO2

Pigment đỏ tươi 4G, chế tạo từ 2-5-đicloanilin và aniziđit của ạxit 2-oxi-8-naphtoic
có công thức sau:

HO CO NH

Cl N N OCH3

Cl

Pigment vàng bền màu ánh sáng chế tạo từ 3-nitro-4-toluiđin cho kết hợp với anilin
của axit axetoaxetic, có công thức sau:
NO2
CO CH3
H3C N N CH
CO NH

b. Pigment azo dùng để nhuộm chất béo, cao su và chất dẻo


Một số pigment azo hoà tan tốt trong một số dung môi hữu cơ, dầu, mỡ và sáp được
dùng để nhuộm các vật liệu này. Độ hoà tan trong dung môi hữu cơ của chúng sẽ tăng khi
trong phân tử chứa nhiều nhóm alkyl và các gốc aryl đã hiđro hoá.
Những thuốc nhuộm hoà tan trong chất béo thì yêu cầu chung là phân tử của chúng
phải chứa một hoặc một số nhóm chức có tính bazơ (nhóm amin tự do hoặc đã bị thế).
Một số pigment điazo có màu tươi, bền nhiệt, bền ánh sáng, ít bị di tản, không hoà
tan trong dung môi hữu cơ, được dùng nhiều để nhuộm cao su và nhuộm chất dẻo dạng
khối (polyvinylclorua, polystirol, nhựa amin...). Dưới đây là những màu tiêu biểu.
Màu nâu R
N N NH2

NH2

Màu đỏ sẫm
OH H3C H3C

N N N N

Thuốc nhuộm này còn được dùng trong công nghệ thuốc súng để tạo khói màu đỏ tím.
Màu đen

N N N N NH CH3
C
NH CH3

được sử dụng để nhuộm chất dẻo.


141
4.9.3. Pigment là muối không tan của thuốc nhuộm tan trong nước
Một số pigment có thể chế tạo từ những thuốc nhuộm hoà tan trong nước như thuốc
nhuộm bazơ và thuốc nhuộm axit bằng cách chuyển chúng về dạng muối không tan.
Chúng được chế tạo hoặc bằng cách xử lý thuốc nhuộm thành phẩm với các muối bari,
canxi, molipđen, vonfram... hoặc bằng cách đưa các muối này vào khối phản ứng để kết
tủa thuốc nhuộm thành pigment.
a. Trường hợp chế tạo từ thuốc nhuộm axit
Pigment chế tạo từ thuốc nhuộm axit chủ yếu là loại monoazo, tuỳ theo cấu tạo hoá
học và cấu trúc tinh thể của nó. Những thuốc nhuộm chứa nhóm sunfonat (−SO3Na) ở vị
trí octo so với nhóm azo thì sẽ tạo thành với ion bari và canxi kém hoà tan trong nước hơn
cả, không hoà tan trong dung môi hữu cơ và chất béo.
Để nhận được màu da cam và màu đỏ người ta dùng thành phần azo là β-naphtol
(nếu thành phần điazo có chứa nhóm −SO3H), β-naphtolsunfonic (muối P, muối G, axit
β-hyđroxynaphtoic, dẫn xuất benzoyl của axit K). Để làm thành phần điazo thường dùng
dẫn xuất của anilin chứa nhóm metyl halogen.
Độ bền màu và sắc màu của pigment sẽ tăng lên khi trong thành phần điazo có chứa
nhóm metoxi, nhóm nitro và nhóm halogen, chẳng hạn khi kết hợp các thành phần điazo
tương ứng với axit P thì sẽ nhận được pigment của bari bền với nước và sắc màu rất tươi.
Thí dụ:
Pigment đỏ tím B
SO3Ca1/2 HO COOCa1/2

H3C N N

Màu của pigment này bền với ánh sáng, bền với nhiệt độ cao, khó hoà tan trong
nước và trong dung môi hữu cơ.
b. Pigment từ thuốc nhuộm bazơ gốc arylmetan
Trong nhiều trường hợp thuốc nhuộm bazơ gốc arylmetan kém bền màu với ánh
sáng có thể chuyển thành dạng kết tủa không tan để chế tạo pigment có độ bền màu ánh
sáng rất cao. Để kết tủa loại thuốc nhuộm này người ta dùng các axit dị thể đa chức.
Pigment thu được không tan trong nước và dung môi hữu cơ, có độ bền màu cao với ánh
sáng, được dùng nhiều trong công nghiệp in ấn, để in trên tôn và sắt tây, để vẽ trên kính,
làm thuốc màu trong hội hoạ, làm bút chì màu, để in giấy, bìa và nhiều mục đích khác. Ưu
điểm của loại pigment này là màu rất tươi.
Trong số các axit dị thể người ta thường dùng:
axit photphomolipđenic: H7[P(Mo2O7)6]
axit photphovonframic: H7[P(W2O7)6]
axit photphovonfram molipđenic: H7[P(W2O7)4(Mo2O7)2].
Khi tương tác thuốc nhuộm bazơ với các axit này sẽ nhận được kết tủa không tan
trong đó chỉ có bốn nguyên tử hyđro của axit bị thế bởi gốc thuốc nhuộm, nên pigment thu
được là muối axit tính. Dưới đây là những màu thường gặp.
Pigment xanh lục: từ thuốc nhuộm bazơ xanh lục tươi và axit photphovonfram
molipđenic có công thức như sau:
142
+
(C2H5)2N N(C2H5)2

C H3 P(W2O7)4(Mo2O7)2

Tương tự như vậy người ta cũng chế tạo:


Pigment xanh lam R từ thuốc nhuộm bazơ xanh lam R
Pigment hồng G từ rođamin đỏ G
Pigment đỏ từ rođamin đỏ 3B
Pigment tím từ thuốc nhuộm bazơ tím R.
4.9.4. Pigment từ thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan
Thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan do có những tính chất ưu việt như: có màu
tươi, độ bền màu cao với ánh sáng. không hoà tan trong nước và nhiều dung môi hữu cơ,
bền nhiệt nên cũng được sử dụng để chế tạo pigment. Những màu được dùng nhiều phần
lớn là những màu tươi như: hoàn nguyên da cam ánh: hoàn nguyên da cam ánh RK, hoàn
nguyên da trời O hoặc thioinđigo RK, thioinđigo nâu đỏ G, thioinđigo tím đỏ B... (xem
(thường thuốc nhuộm hoàn nguyên).
Do giá thành của thuốc nhuộm hoàn nguyên đắt hơn so với các loại pigment khác
nên việc sử dụng lớp thuốc nhuộm này làm pigment chỉ hạn chế trong một số màu đẹp.
4.9.5. Pigment phtaloxiamin
Phtaloxiamin là hợp ch ất màu có phạm vi sử dụng rất rộng, dùng vào nhiều mục
đích khác nhau.
Loại pigment phtaloxianin không hoà tan trong nước dùng để chế tạo mực in dùng
cho công nghiệp in ấn, thuốc màu trong hội hoạ, sơn dầu, để nhuộm cao su, chất dẻo và
hiện nay để chế tạo pigment dùng cho in hoa lên hàng dệt. Ưu điểm nổi bật của pigment
phtaloxianin là có màu tươi, nhuận sắc, cường độ màu cao, các chỉ tiêu đề độ bền màu với
ánh sáng, kiềm, axit đều đạt cao và trội hơn hẳn các lớp thuốc nhuộm khác. Độ bền nhiệt
cũng rất cao.
4.9.6. Sử dụng pigment trong công nghiệp dệt
Trong công nghiệp dệt các loại pigment azo, phtaloxianin và hoàn nguyên được sử
dụng nhiều để nhuộm, in hoa vải và các sản phẩm dệt. Ưu điểm của việc sử dụng pigment
là công nghệ tương đối đơn giản, có thể dùng cho tất cả các loại vải, có thể phối trộn các
loại pigment với bất kỳ tỷ lệ nào nên cho phép mở rộng gam màu. Ngoài ra hầu hết các
loại pigment đều có khả năng nhuộm màu cao, màu của chúng bền với giặt rũ và ánh sáng.
Mặt hàng để nhuộm và in hoa rất rộng bao gồm vải và các sản phẩm may mặc, trang trí và
vải công nghiệp. Nhược điểm của phương pháp nhuộm và in pigment là màu kém bền với
ma sát khô và ướt, vải ít nhiều bị cứng.
a. Trường hợp sử dụng pigment để nhuộm
Vì pigment không có ái lực với xơ sợi nên khi sử dụng nó để nhuộm cũng như in hoa
phải dùng màng cao phân tử gắn nó vào vải, đây là điểm đặc trưng của phương pháp

143
nhuộm này. Thành phần mang nhuộm gồm có: pigment dạng siêu mịn, chất tạo màng, chất
tạo liên kết ngang, xúc tác và chất làm mềm.
Chất tạo màng và chất tạo liên kết ngang phải dễ thấm vào xơ trước khi đa tụ, có khả
năng tạo thành màng bền gắn chặt pigment vào vải: cần trong suốt, mềm dẻo, bền với các
tác dụng hoá lý, không bị biến đổi khi bảo quản. Những chất bán đa tụ được dùng vào
mục này thuộc dẫn xuất của vinylic, ankit, cacbamit và acrylic. Các dẫn xuất của acrylic
được sử dụng rộng rãi hơn cả. Thí dụ như latex CKC-65GP và emulcryl (do Nga sản
xuất). Cấu tử làm nhiệm vụ tạo cấu tạo mắt lưới giữa các xơ sợi thường dùng loại dẫn xuất
metylol của urê và melamin.
Sau khi ngấm ép (đến mức chỉ chứa 60 - 80% ẩm) vải được sấy khô (60 - 90oC) và
đi ngay vào gia nhiệt ở 140oC (2 - 3 ph), 180oC (1 ph) và 200oC (30 s). Trong điều kiện
này hợp chất bán đa tụ sẽ chuyển thành màng cực mỏng gắn pigment vào vải, sau đó
không cần giặt sản phẩm. Chất tạo màng trong nhiều trường hợp được sử dụng kết hợp để
hồ chống nhàu, chống co, giữ nếp vì vậy việc nhuộm pignent thường kết hợp với hồ hoàn
tất.
b. Trường hợp sử dụng pigment để in hoa
Hiện nay phương pháp in pigment được sử dụng rất phổ biến để in hoa vải và nhiều
loại sản phẩm dệt vì công nghệ đơn giản và có thể in cho bất kỳ loại vải và sản phẩm dệt
nào: Cũng giống như khi nhuộm pigment, hồ in gồm có: pigment được nghiền siêu mịn
nhão, chất tạo màng và tạo cấu trúc mắt lưới có tên gọi thương phẩm là binđơ (binder) hay
fixơ (fixer). Thí dụ như: metazin, latex DMMA-65-1GP, sandye binder OL, ryudye binder
450... Chất làm mềm như luprimol SIG, đibutylphtalat... Thành phần quan trọng của hồ in
pigment là hồ. Vì dùng chất tạo màng để gắn thuốc nhuộm vào vải nên không thể dùng
các loại hồ thông thường từ cao phân tử thiên nhiên và cao phân tử tổng hợp như khi in
bằng các lớp thuốc nhuộm khác. Loại hồ thích hợp cho in pigment là hồ nhũ tương dầu
trong nước hoặc nước trong dầu (OW, WO). Sau khi in và sấy nước và dầu đều bay hơi.
không để lại màng hồ trên vải, không làm cho vải cứng. Song khi dùng loại hồ này có thể
gây hoả hoạn nên gần đây người ta đã sử dụng hồ tổng hợp có hàm lượng chất khô rất nhỏ
với tên thương phẩm là lutexal HP và HSD. Hàm lượng các loại hồ này trong dung dịch
chỉ chiếm 2 - 5% khối lượng chung của hồ cũng đủ độ đặc cần thiết.
4.9.7. Các mặt hàng của thuốc nhuộm pigment
Thuốc nhuộm pigment của một số hãng sản xuất và bán trên thị trường thế giới có
tên gọi như trong bảng 3.18.

Bảng 3.18

Tên nước Tên hãng Tên thương phẩm


Ba Lan Ciech Pigment poloprint
CHLB Đức BASF Helizarin
Bayer Acramin
Ho⎣chst Imperon
CHLB Nga Pigment
Itatlia ACNA Velesta
Lamberti Lifbond
Mineva Mineprint

144
Bảng 3.18 (tiếp theo)

Tên nước Tên hãng Tên thương phẩm


Mỹ Inmont Hlfast (type O và type W)
Hilton-Davis Lifebond. seabond
Roma Questrol
Verona Acramm
Nhật Bản Oritex, ryudye pigment
Pháp CFMC Neopralac
Sec và Slovakia Versaprint
Thuỵ Sĩ Ciba Microfix, Orema Oremasin

Ngoài loại pigment thông thường người ta còn sản xuất ra một số mặt hàng pigment
có tính huỳnh quang, khi nhuộm và in lên vải dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời nó sẽ
phát ra các tia huỳnh quang lành cho màu tươi và rực rỡ.
4.9.8. Sử dụng pigment vào các lĩnh vực khác
Ngoài việc sử dụng để nhuộm và in hoa trong công nghiệp dệt, sử dụng để nhuộm
chất béo, chất dẻo và cao su như đã trình bày ở trên, pigment còn được sử dụng vào nhiều
lĩnh vực khác nữa.
Những loại pigment có màu tươi, có độ bền màu cao với ánh sáng như: pigment
phtaloxianin, pigment của thuốc nhuộm hoàn nguyên và một sô pigment gốc azo bền màu
được dùng để chế tạo thuốc vẽ dùng trong hội hoạ.
Những loại pigment có độ bền màu cao với ánh sáng: pigment của một số thuốc
nhuộm axit, pigment phtaloxianin, pigment của thuốc nhuộm hoàn nguyên, được dùng để
sản xuất bột màu cao cấp trong xây dựng. Nhờ chúng có khả năng phủ bề mặt cao, cường
độ màu cao hơn rất nhiều so với bột màu từ oxit kim loại nên liều lượng dùng thấp hơn
nhiều so với bột màu vô cơ. Chúng được sử dụng làm bột màu và sơn màu quét tường,
men màu của vật liệu trang trí không nung (gạch bông).
Những loại pigment có màu tươi, có ánh huỳnh quang cao như pigment là muối bari
của thuốc nhuộm bazơ và những pigment khác có chất lượng tương tự được sử dụng để
chế tạo các loại mực màu dùng trong công nghiệp in văn hoá phẩm, chì màu, mực in trên
bao bì bằng giấy và bằng các loại màng PE, PP, PVC, mực in lên kim loại.
Những loại pigment có màu tươi, có độ bền màu cao với ánh sáng và dung môi hữu
cơ được dùng để pha sơn màu.
Một số loại pigment có màu tươi, đã làm sạch tạp chất, không độc và không gây dị
ứng cho da được sử dụng để chế tạo mỹ phẩm như: son môi, phấn màu, kem màu trang
điểm.
4.10. Chất tăng trắng quang học
4.10.1. Giới thiệu chung
Trong công nghiệp dệt để tẩy trắng vải sợi người ta dùng biện pháp hoá học, chủ yếu
là dùng tác dụng tẩy của các chất oxi hoá như: natri clorit NaClO2, natri hipoclorit NaClO,
hyđroperoxit H2O2, axit peroxiaxetic CH3COOOH. Nhờ phản ứng oxi hoá xảy ra trong
quá trình tẩy mà chất màu có trên vải sợi bị phá hủy thành phẩm vật không màu, độ trắng
của vải được nâng lên.

145
Nhưng sau khi tẩy trắng hoá học độ trắng của vải cao nhất cũng chỉ đạt 82 - 85% so
với độ trắng tiêu chuẩn (100%), trên mặt vải và sản phẩm dệt hãy còn sắc vàng nhạt (phớt
vàng) hoặc phớt vàng nâu, làm cho vải có cảm giác trắng đục. Để khử sắc vàng còn lại và
nâng độ trắng của vải lên nữa, trước đây người ta vẫn dùng biện pháp lơ bằng cách xử lý
vải hay quần áo trắng với dung dịch thuốc nhuộm axit có màu xanh lam hoặc màu tím lam
nhạt, những sắc màu này có tác dụng làm triệt tiêu sắc vàng còn lại trên vải làm cho vải có
cảm giác trắng biếc. Song biện pháp này không cho hiệu quả cao và không bền với ánh
sáng, không bền với giặt, sau một vài lần giặt lại phải lơ lại.
4.10.2. Cấu tạo và tính chất
Những năm gần đây để nâng cao độ trắng của vải người ta sử dụng phổ biến loại hợp
chất gọi là “chất tăng trắng quang học”, chúng là các hợp chất hữu cơ trung tính, không
màu hoặc có màu vàng nhạt, có ái lực với xơ sợi. Đặc điểm đặc biệt của chúng là khi nằm
trên xơ sợi chúng có khả năng hấp phụ một số tia trong miền tử ngoại của quang phổ và
phản xạ ra những tia có bước sóng dài hơn chủ yếu là tia xanh lam và tia tím trong miền
thấy được của quang phổ mặt trời. Những tia này chính là tia bổ trợ của tia vàng còn lại
trên vải để thành tia trắng theo quy luật bổ trợ màu. Vì vậy các loại vải, sợi sau khi lơ
bằng chất tăng trắng quang học có độ trắng rất cao (gần 100%) và có ánh huỳnh quang
xanh biếc. Vì quá trình tăng trắng dựa vào tác dụng quang học nên hiệu quả của nó chỉ
được phát huy đầy đủ dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Trong ánh sáng nhân tạo hiệu
quả của nó bị hạn chế.
Chất tăng trắng quang học đầu tiên đã được Krais (người Đức) tìm ra vào năm 1929,
có tên gọi là resculin (1) trích từ cây dẻ dại, có tác dụng tăng trắng nhưng không có ái lực
với xơ sợi nên không trở thành thương phẩm. Mười năm sau Meyer (người Anh) đã sử
dụng β-metylumbelliferon (2) làm chất tăng trắng cho hàng dệt, công thức cấu tạo của
chúng như sau:
H CH3
C C
HO C H C H
HO C O HO C O
O O
(1) (2)

Tuy chưa xác định được mối liên quan giữa cấu tạo hoá học và khả năng phát huỳnh
quang của chất tăng trắng quang học nhưng người ta khẳng định tăng trắng các hợp chất
này phải chứa không dưới bốn mối liên kết nối đôi cách (−C=C−C=C−C=C−C=C−) và
không có mặt những nhóm đặc trưng để tạo màu như thuốc nhuộm. Hiện nay nhiều chất
tăng trắng quang học được tổng hợp từ các dẫn xuất của stinben (3) benziđin (4) và
pirazol (5):
HC CH
CH CH H2N NH2 HC NH
N

(3) (4) (5)


Để có thể dùng vào mục đích tăng trắng cho hàng dệt, chất tăng trắng quang học còn
phải có ái lực với xơ sợi, nghĩa là phải có khả năng liên kết với xơ và có thể coi như
“thuốc nhuộm trắng”. Điều này đòi hỏi phân tử chất tăng trắng quang học (loại dùng cho

146
xơ xenlulo) cũng phải có phân tử thẳng, phẳng và có chiều dài nhất định để dễ tiếp cận với
các mạch phân tử của xenlulo và phát sinh ra các lực liên kết đủ mạnh để giữ chúng lại
trên xơ giống như thuốc nhuộm trực tiếp. Loại chất tăng trắng quang học dùng cho các xơ
protein có tính axit hay tính bazơ để khi tiếp cận với mạch keratin, mạch fibroin thì cỏ khả
năng tạo thành mối liên kết ion với nhóm cacboxyl hay nhóm amin của xơ sợi. Riêng loại
chất tăng trắng dùng cho xơ tổng hợp thì phải chọn loại không hoà tan trong nước, được
nghiền siêu mịn và phân tán cao giống như thuốc nhuộm phân tán. Dưới đây là một số
chất tăng trắng quang học thường gặp.
Blancophor P (CI-30) (do hãng Bayer sản xuất) được chế tạo bằng cách cho arylizo-
xianat tác dụng với điaminostinben-đisunfoaxit và sau đó chuyển thành dạng muối natri.
Sản phẩm sẽ chứa hai gốc ure đã thế hai nguyên tử hyđro như sau:

NH CO NH CH CH NH CO NH

SO3Na NaO3S

Blancophor B (do hãng Bayer sản xuất) được chế tạo bằng cách ngưng tụ điamino-
stinbenđisunfoaxit với hai phân tử clorua xianua, sản phẩm thu được cho tác dụng với hai
phân tử anilin và chuyển về dạng muối tan, có công thức cuối cùng như sau:

N N
NH C C NH CH CH NH C C NH
N N N N
C SO3Na NaO3S C
OH OH

Blancophor B để tăng trắng cho vải bông, có ánh xanh lam tươi, rất bền màu với ánh
sáng.
Tương tự như vậy, khi trong phân tử chất tăng trắng quang học có chứa vòng triazol
thì nó sẽ bền với cho và cho phép vừa tẩy trắng hoá học bằng dung dịch natri hipoclorit
vừa tăng trắng quang học. Thí dụ, blancophor có công thức sau:

N N
N CH CH N
NaO3S SO3Na
N N

Blancophor WT (CI-18) được chế tạo bằng cách ngưng tụ ure với benzoin và sau đó
sunfo hoá, có công thức cuối cùng như sau:

NaO3S C C SO3Na
NH NH
CO

Blancophor WT được dùng để tăng trắng quang học cho len và tơ tằm, nó bắt vào xơ
tương tự như thuốc nhuộm axit.
4.10.3. Các mặt hàng chất tăng trắng quang học và phạm vi ứng dụng
Chất tăng trắng quang học hiện nay được sử dụng khá rộng rãi, để lơ các chế phẩm
dệt, để tăng trắng cho xơ nhân tạo, xơ tổng hợp, dùng trong công nghiệp giấy, dùng trong

147
công nghiệp sản xuất bột giặt và xà phòng, trong công nghiệp da và cũng được sử dụng
trong công nghiệp sản xuất chất dẻo. Khi sử dụng chúng cần nắm vững tính năng và điều
kiện công nghệ lơ để phát huy đầy đủ hiệu lực của nó.
a. Chất tăng trắng quang học dùng cho các loại vải và vật liệu từ xenlulo
Blancophor P, R, B, RG (hãng Bayer sản xuất
Leucophor R, S (hãng Sandoz sản xuất.)
Svitex R, RBS, SI (hãng Ciba sản xuất)
Tinopal B, SP (hãng Geigy sản xuất)
Mikephor BX (hãng Mitsui sản xuất) và các loại tương tự.
Khi dùng những chất tăng trắng quang học này chỉ cần lấy 0,05 - 0,5% so với vật
liệu, ở nhiệt độ 40 - 50oC và tốt hơn cả là đưa vào dung dịch 5 g/l muối ăn. Có thể thực
hiện trong môi trường kiềm yếu hoặc trung tính.
Quá trình tăng trắng quang học cho các loại vải xenlulo có thể thực hiện sau khi tẩy
trắng hoá học, hoặc kết hợp với tẩy trắng hoá học dùng cho những chất bền với tác dụng
oxy hoá) hoặc kết hợp với quá trình hồ hoàn tất. Dưới đây là những chất tăng trắng quang
học bền với tác dụng của chất oxy hoá, có thể đưa vào dung dịch tẩy trắng hoá học.
Bền với natri hipoclorit:
CI-fluorescent brightrner 41
- - 47
- - 59
Bền với hyđro peroxit:
CI-fluorescent brightener 19
- - 23
- - 30
- - 42
- - 47
- - 49
- - 54
- - 59
- - 104
- - 142
Bền với natri clorit:
CI-fluorescent brightener 41
- - 47
- - 59
Trong công nghiệp giấy, chất tăng trắng quang học được đưa vào trong bể chứa bột
trước khi xeo.
b. Chất tăng trắng quang học dùng cho len, tơ lằm và da
Blancophor WT (hãng Bayer sản xuất)
Leucophor W (hãng Sandoz sản xuất)
Tinopal WR (hãng Geigy sản xuất)

148
Ultraphor WT (hãng BASF sản xuất)
Svitex WS (hãng Ciba sản xuất)
Quá trình tăng trắng các loại vật liệu từ protein này được thực hiện ở 40 - 50oC với
hàm lượng chất tăng trắng quang học trong khoảng 0,25 đến 2,5% so với vật liệu, trong
dung dịch 5% axit fomic 85% hay axit axetic 80%. Với các vật liệu từ xơ polyamit cũng
tiến hành tương tự như vậy.
c. Chất tăng trắng dùng cho xơ tổng hợp
Xơ tổng hợp đã có độ trắng nhất định, nhưng các sản phẩm dệt từ loại xơ này muốn
đạt được độ trắng cao vẫn cần phải lơ quang học. Các chất tăng trắng quang học dùng cho
loại xơ này không hoà tan trong nước được sản xuất ở dạng bột mịn phân tán cao với các
tên gọi như:
Uvitex EBF (hãng Ciba-Geigy)
Uvitex ERN-P (hãng Ciba-Geigy)
Quá trình tăng trắng quang học các loại vải từ sợi tổng hợp được thực hiện hoặc là ở
nhiệt độ cao, áp suất cao (130 - 150oC, 2 - 8 at) hoặc là bằng phương pháp gia nhiệt khô ở
180 - 200oC trong thời gian 2 - 3 ph, hoặc kết hợp với quá trình hồ chống nhàu, chống co.
d. Chất lượng của chất tăng trắng quang học
Chất lượng của chất tăng trắng quang học được đánh giá chủ yếu bằng khả năng phát
huỳnh quang để đạt độ trắng cao và độ ánh cao. Ngoài ra chúng còn phải bền với giặt ánh
sáng, bền với tác dụng của nhiệt, với dung dịch axit và nhiều tác nhân hoá học khác nữa
Một số chất tăng trắng quang học dùng cho vải xenlulo kém bền với giặt và ánh sáng (chỉ
đạt cấp 2 - 3 trong thang năm cấp) nên người ta đã đưa vào trong xà phòng bột, xà phòng
kem một lượng nhất định loại chất tẩy trắng này, như vậy mỗi lần giặt quần áo lại được
gia tăng độ trắng từ dung dịch giặt.
4.11. Thuốc nhuộm dùng cho các ngành khác
Ngoài việc sử dụng cho ngành dệt, thuốc nhuộm còn được dùng cho các ngành khác
như: nhuộm lông thú, nhuộm da, nhuộm cao su, nhuộm chất dẻo, nhuộm xơ dạng khối,
chế tạo mực in v.v. Dưới đây là khái quát về tính chất và phạm vi ứng dụng của thuốc
nhuộm vào các mục đích trên.
4.11.1. Nhuộm lông thú
Lông thú thường được nhuộm ở dạng các tấm da nguyên lông, đây là loại nguyên
liệu quý đắt, có thành phần hoá học và cấu tạo giống như keratin len nên việc nhuộm
chúng cũng dùng các loại thuốc nhuộm len. Lông thú thường có các màu thiên nhiên
không đẹp, kém bền màu, không tươi và không đồng đều trên toàn tấm, nhờ quá trình
nhuộm mà người ta có được những tấm lông bền màu, màu tươi theo sở thích của người
tiêu dùng, tăng vẻ đẹp bên ngoài, tăng giá trị sản phẩm. Quá trình nhuộm lông thú dù bằng
loại thuốc nhuộm nào cũng phải bảo đảm không ảnh hưởng.đến độ bền của lông và da nên
thường được tiến hành ở nhiệt độ thấp (30 - 35oC) và không vượt quá 55 - 60oC trong môi
trường trung tính, axit yếu hoặc kiềm yếu. Việc nhuộm tóc cũng có yêu cầu tương tự như
vậy. Trước khi nhuộm lông thú cần qua các bước xử lý sau đây:
- giặt sạch mỡ và chất béo bằng dung dịch chất hoạt động bề mặt và Na2CO3;
- tẩy sạch màu thiên nhiên bằng tác nhân khử hoặc oxi hoá;
- clo hoá để lông mềm mại và tăng khả năng hấp phụ thuốc nhuộm;
149
- xử lý với dung dịch muối kim loại nặng (tuỳ loại thuốc nhuộm) để tạo thành phức
không tan với thuốc nhuộm trên lông.
Để nhuộm lông thú có thể dùng thuốc nhuộm trực tiếp thuốc nhuộm axit (loại thông
thường và loại axit crom), thuốc nhuộm hoạt tính và thuốc nhuộm oxy hoá. Dưới đây là
nguyên tắc sử dụng các loại thuốc nhuộm này.
a. Dùng thuốc nhuộm trực tiếp
Thuốc nhuộm trực tiếp ít được sử dụng để nhuộm lông thú do chúng có phân tử lớn,
khó khuếch tán sâu vào trong lõi lông. Những năm gần đây người ta có sử dụng một số
thuốc nhuộm trực tiếp có độ bền màu cao với ánh sáng và dùng các chất tăng cường quá
trình nhuộm đặc hiệu để gây trương nở lông và dẫn thuốc nhuộm vào sâu lõi lông như:
trietanolamin, propylen cacbonat, syntamin DT-18, Syntanol DC-10 v.v.
Khi nhuộm loại vật liệu này cần phải chọn những thuốc nhuộm trực tiếp có chỉ dẫn
dùng riêng cho lông thú. Quá trình nhuộm được thực hiện trong môi trường axit yếu ở
nhiệt độ 50 - 55oC. Để nhuộm các màu đen có thể xử lý lông với dung dịch nhôm etylen
điamin tetraaxetat trước và sau đó nhuộm bằng thuốc nhuộm trực tiếp màu đen.
b. Dùng thuốc nhuộm axit (loại thông thường)
Cơ chế gắn màu của thuốc nhuộm axit vào lông thú tương tự như khi nó gắn màu
vào len và tơ tằm (bằng liên kết ion), nhưng qui trình nhuộm thì có một số điểm khác. Đó
là trong quá trình nhuộm không được tăng nhiệt độ quá 60oC để bảo vệ chất lượng của
phần da. Để cho thuốc nhuộm dễ khuếch tán vào xơ, trước khi nhuộm, lông thường được
clo hoá: Lông đã qua clo hoá dễ bắt màu bảng thuốc nhôm axit hơn, màu bền và đẹp hơn,
có thể nhuộm ở nhiệt độ 40 - 60oC. Quá trình nhuộm được thực hiện trong môi trường axit
yếu (axit axetic, axit fomic) với trị số pH không dưới 4,5.
c. Dùng thuốc nhuộm axit crom và axit chứa kim loại
Thuốc nhuộm axit crom do có độ bền màu cao nên được sử dụng nhiều để nhuộm
lông thú các gam màu nâu, be hồng và màu đen. Quá trình nhuộm được thực hiện theo
phương pháp nhuộm trước, crom hoá sau hoặc nhuộm và crom hoá đồng thời trong môi
trường axit yếu.
Thuốc nhuộm axit chứa kim loại 1: 1 và 1: 2 được dùng để nhuộm lông thú nhiều
hơn so với loại thuốc nhuộm axit crom, quá trình nhuộm được thực hiện trong môi trường
trung tính hoặc axit yếu.
d. Dùng thuốc nhuộm hoại tính
Để nhuộm những tấm da lông đạt độ bền màu cao với giặt, ánh sáng và có độ tươi
màu cao người ta cũng dùng thuốc nhuộm hoạt tính loại có chỉ dẫn dùng cho len. Quá
trình nhuộm được thực hiện trạng môi trường axit với pH = 4,5 và ớ nhiệt độ 40oC.
e. Dùng thuốc nhuộm oxi hoá
Loại thuốc nhuộm này chưa có màu hoàn chỉnh, chúng là những hợp chất thơm
không màu hoặc có màu nhạt, có thể xem như chúng còn là phẩm vật trung gian. Việc
tổng hợp thành màu mong muốn được thực hiện ngay trên tấm lông hoặc trên tóc nhờ quá
trình oxi hoá nên có tên gọi là thuốc nhuộm oxi hoá và được sản xuất với các tên thương
phẩm như: ursol, furol, vulfurol, furein và ursatin v.v.
Các hợp chất thơm được dùng nhiều để nhuộm lông thú và nhuộm tóc là p-phenylen-
điamin (nhuộm màu đen), 2,4 điaminotoluen (nhuộm màu nâu), 4-nitro-1,2-phenylen-
điamin và các hợp chất tương tự. Đặc điểm chung của các hợp chất này là dễ bị oxy hoá

150
để tạo thành hợp chất có cấu tạo quinoit, khi bị oxy hoá mạnh hơn bằng hyđroperoxit thì
chuyển thành hợp chất có màu. Thí dụ, khi oxi hoá o-, p-phenylenđiamin và o-, p-amino-
phenol thì ở giai đoạn đầu sẽ tạo thành quinonmonoimin và quinonđiimin theo sơ đồ sau:
OH O NH2 NH
+ O2 + O2
H2O
; H 2O
NH2 NH NH2 NH

OH O NH2 NH
+ O2 + O2
H2O
; H 2O

NH2 NH NH2 NH

Quinonmonoimin và quinonđiimin là những hợp chất không bền có khả năng phản
ứng cao, dễ tự trùng hợp để tạo thành thuốc nhuộm thuộc nhóm azin, có dạng tổng quát
như sau:
O O N
3
NH N O
NH N N
3
NH N N
Khi oxi hoá đồng thời các amin thơm với amin thơm chứa nhóm phenol thì xảy ra
quá trình đa tụ và thuốc nhuộm sẽ được tạo thành, gắn chặt vào vật liệu. Các amin thơm
thường dùng là inđamin (l), inđophenol (2) và inđoanilin (8), chúng đều thuộc về loại hợp
chất quinonimin có công thức sau:
N N N
; ;
HN NH2 O OH O NH2

(1) (2) (3)

Quá trình tạo thành thuốc nhuộm từ inđophenol và inđoanilin thường xảy ra ở nhiệt
độ thấp (35 - 38oC) trong môi trường trung tính hoặc kiềm yếu. như vậy quá trình nhuộm
tóc và lông thú cũng là quá trình tổng hợp thuốc nhuộm ngay trên vật liệu. Công thức cuối
cùng của nhiều màu trong lớp thuốc nhuộm này chưa được xác định chính xác, song đặc
điểm chung của chúng là chứa đa vòng, không hoà tan trong nước, bền với nhiều tác dụng
hoá lý, có các gam màu từ vàng đến nâu, ghi và đen.
Độ bền màu của thuốc nhuộm oxi hoá trên tóc và lông thú sẽ tăng lên rất nhiều khi
cầm màu bằng muối kim loại nặng để tạo thành phức không tan bền vững. Để đạt được
yêu cầu này, trước khi nhuộm, các tấm lông hoặc tóc được xử lý bằng muối kim loại
(đồng, crom hoặc sắt) sau đó mới nhuộm. Khi dùng các muối kim loại khác nhau sẽ nhận
được màu khác nhau. Việc nhuộm có thể thực hiện bằng cách nhúng tấm da lông vào dung
dịch nhuộm hoặc bằng cách bôi phết dung dịch nhuộm chỉ vào phần lông hay tóc, hoặc
dùng biện pháp in lưới, in phun. Tất cả đều thực hiện ở nhiệt độ thấp trong môi trường
trung tính hoặc kiềm yếu.
4.11.2. Nhuộm da
Nhuộm là một khâu quan trọng trong quá trình thuộc da. Da có thể nhuộm bằng các

151
thuốc nhuộm hoà tan trong nước hoặc bằng cách phủ màu. Khi nhuộm bằng các thuốc
nhuộm hoà tan trong nước thường tiến hành trong các thiết bị thùng quay. Lớp thuốc
nhuộm sử dụng tuỳ thuộc vào: loại da, yêu cầu màu sắc của sản phẩm và công nghệ thuốc.
Thí dụ, da thuộc bằng thuốc thuộc crom thì nên dùng thuốc nhuộm trực tiếp và nhuộm sau
khi thuộc.
Bản chất thiên nhiên của mối liên kết giữa colagen da với thuốc nhuộm có ảnh
hưởng quyết định đến độ bền màu của sản phẩm, ngoài ra sự tương tác của thuốc nhuộm
với chất thuộc cũng là yếu tố quan trọng phải kể đến. Trong quá trình nhuộm da, thuốc
nhuộm cũng khuếch tán từ mặt ngoài, qua các mao quản vào sâu trong thân da và thực
hiện liên kết với thành mao quản của các sợi colagen. Do kích thước các mao quản của da
lớn hơn của xơ dệt (mao quản của da ở trạng thái khô là 100 nm, ở trạng thái ướt là 140 -
160 nm, kích thước phân tử thuốc nhuộm trực tiếp là 60 nm) nên thuốc nhuộm dễ khuếch
tán vào da hơn vào xơ dệt. Để bảo đảm cho thuốc nhuộm liên kết tốt với da, trước khi
nhuộm da cần được trung hoà để giảm độ axit còn lại trong quá trình chuẩn bị. Tuỳ thuộc
vào loại thuốc nhuộm được dùng, trị số pH còn lại của da đã thuộc crôm mà chọn trị số
pH của máng nhuộm cho thích hợp. Trị số tối ưu của máng nhuộm như sau:
Tên thuốc nhuộm pH còn lại trên da pH của máng nhuộm
Trực tiếp 5 - 5,5 6 - 6,5
Axit 4,5 - 5 4,5 - 5
Axit chứa kim loại 1:l 4 - 4,5 4,5 - 5
Axit chứa kim loại 1:2 5 - 5,5 4,5 - 5

Khi nhuộm da, lượng thuốc nhuộm tiêu thụ chiếm 1,5 - 4% so với khối lượng da
khô, riêng màu đen lên đến 7%.
a. Dùng thuốc nhuộm trực tiếp
Ngoài những thuốc nhuộm trực tiếp có chỉ định dùng riêng cho da, có thể dùng một
số thuốc nhuộm trực tiếp dùng cho sợi dệt để nhuộm da. Yêu cầu của thuốc nhuộm trực
tiếp dùng vào mục đích này là phải bền với nước, bền với ánh sáng và dầu mỡ. Có thể
nhuộm da bằng thuốc nhuộm trực tiếp theo hai phương pháp: khô và ướt Khi nhuộm khô,
thuốc nhuộm dạng bột được phun vào các tấm da khô đang quay trong thùng nhuộm, xử lý
20 ph không gia nhiệt, sau đó thêm 20 - 30% nước (so với da) và nhuộm ở 60oC trong 80
phút đến 1 giờ. Cuối quá trình nhuộm có thể thêm axit fomic vào dung dịch nhuộm cho
thuốc nhuộm bắt sâu vào da hơn. Theo phương pháp ướt, thuốc nhuộm khô được phun vào
da ướt trong thùng quay. Nước sẽ từ da thoát ra hoà tan thuốc nhuộm để thấm vào da.
Do có phân tử lớn nên đa số thuốc nhuộm trực tiếp chỉ nhuộm lớp ngoài của da. Để
nhận được màu sâu người ta thường phối trộn thuốc nhuộm trực tiếp với thuốc nhuộm
axit.
b. Dùng thuốc nhuộm axit
Các loại thuốc nhuộm axit đều được dùng để nhuộm da, ngoài những màu có chỉ
định riêng cho da có thể dùng những màu dùng cho hàng dệt nhưng phải lựa chọn điều
kiện tối ưu để đạt hiệu quả màu cao nhất. Khi nhuộm bằng hỗn hợp thuốc nhuộm axit và
thuốc nhuộm trực tiếp nên đưa thuốc nhuộm axit vào máng trước, chỉ khi thuốc nhuộm
axit bắt màu hết mới đưa thuốc nhuộm trực tiếp vào máng nhuộm.

152
Khi dùng thuốc nhuộm axit crom để nhuộm da đã thuộc crom thì không cần phải
crom hoá bằng muối crom nữa, màu nhận được có độ bền rất cao vì thuốc nhuộm tạo phức
đồng thời với crom và colagen của da.
Thuốc nhuộm axit chứa kim loại 1 : 1 và 1 : 2 cũng được sử dụng khá phổ biến để
nhuộm da, chúng có ái lực với da đã thuộc crom, da đã thuộc tanin và da đã thuộc bằng
thuốc thuộc hỗn hợp. Da nhuộm bằng thuốc nhuộm chứa kim loại 1: 1 và 1:2 có độ bền
màu cao với ánh sáng, gia công ướt v à ma sát. Công nghệ nhuộm da bằng thuốc nhuộm
chứa kim loại l : 2 rất đơn giản vì nhuộm trong môi trường trung tính và axit yếu, còn
dùng thuốc nhuộm chứa kim loại 1 : 1 thì khó đều màu hơn, cần chọn trị số pH cho thích
hợp.
c. Dùng thuốc nhuộm hoạt tính
Các loại thuốc nhuộm hoạt tính dùng để nhuộm xơ xenlulo và polyamit cũng được
sử dụng để nhuộm da. Do thuốc nhuộm có liên kết hoá trị với colagen da nên màu có độ
bền cao với gia công ướt, ma sát, ánh sáng và các tác động mặt ngoài khác nữa. Quá trình
nhuộm da bằng thuốc nhuộm hoạt tính cũng chia làm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu
da được nhuộm ở 60oC với pH = 4,5 - 5 trong 60 ph. Giai đoạn sau nhuộm ở 40oC với
pH = 8 - 8,5 trong 15 - 20 ph, ở giai đoạn này thuốc nhuộm liên kết hoá học với da.
Ý nghĩa của việc sử dụng thuốc nhuộm hoạt tính để nhuộm da ngày càng tăng lên vì
các loại da dùng để may quần áo, găng, mũ... cần phải có độ bền màu cao với làm sạch
hoá học (giặt bằng dung môi hữu cơ). Màu của da không chỉ phải bền ở mặt cật (mặt
ngoài) mà cả mặt thịt (mặt trong) nữa, có như vậy nó mới không phai sang quần áo mặc
lót bên trong.
d. Dùng thuốc nhuộm bazơ
Thuốc nhuộm bazơ bắt màu vào colagen da tương tự như khi nó bắt màu vào keratin
len, nhưng để đạt được độ bền màu cao với xử lý ướt ánh sáng và các chỉ tiêu khác phải
tiến hành nhuộm sau khi đã xử lý da với tanin hoặc các hợp chất polyphenol để hực hiện
yêu cầu cầm màu.
Trong thực tế ít khi người ta dùng riêng thuốc nhuộm bazơ để nhuộm da mà thường
dùng nó để nhuộm tráng sau khi đã nhuộm bằng thuốc nhuộm axit hay thuốc nhuộm trực
tiếp để cho màu tươi hơn. Do thuốc nhuộm bazơ sẽ tạo thành kết tủa với muối kim loại
nặng, với thuốc nhuộm axit và thuốc nhuộm trực tiếp nên không thể tiến hành nhuộm
đồng thời hỗn hợp các thuốc nhuộm này trong cùng một máng mà phải chia thành các giai
đoạn riêng.
e. Dùng cách phủ màng màu
Khi nhuộm da bằng cách phủ màng màu, pigment được gắn lên mặt da bằng biện
pháp cơ học nhờ một màng mỏng cao phân tử. Thành phần của hỗn hợp màu phủ bao gồm
có:
- Chất màu thường là pigment vô cơ và hữu cơ màu lục, lam, màu đỏ), pigment từ
các thuốc nhuộm axit, azo không tan;
- Chất tạo màng, thường dùng là các este xenlulo (nitroxenlulo), cazein, nhựa
acrylic, nhựa từ mủ cao su. Yêu cầu chung của màng dùng vào mục đích này là dễ tan
trong dung môi, bền cơ học, dẻo, co giãn, trong suốt;
- Dung môi thường dùng là amyl axetat, butyl axetat, xenlozonvơ;
- Chất hoá dẻo (dầu thầu dầu, đibutyl phtalat);

153
- Các chất làm mềm làm bóng, chống mốc.
Da đã làm sạch thoạt tiên được phủ màu lót bằng cách dùng bàn chải mềm quét đều
lên mặt da, hong cho khô trong không khí, cuối cùng phun lớp màu ngoài để bảo đảm độ
đồng đều trên cả tấm da.
4.11.3. Nhuộm caosu
Để nhuộm cao su có thể dùng nhiều lớp thuốc nhuộm không tan khác nhau, nhiều
màu đỏ là muối bari và canxi của thuốc nhuộm azo.
Những màu được sử dụng rộng rãi là:
- Pigment boocđô B là muối canxi của thuốc nhuộm điều chế bằng cách kết hợp axit
azurinic đã điazo hoá với 1-naphtylamin;
- Pigment da cam là muối bari của thuốc nhuộm azo điều chế từ axit anilin sunfonic
đã điazo hoá và β-naphtol;
- Pigment xanh lục là muối sắt của nitrozo β-naphtol;
- Pigment xanh lam R chế tạo từ đianiziđin đã điazo hoá và kết hợp với anizit của
axit β-oxinaphtoic.
Ngoài pigment gốc azo người ta còn dùng các loại thuốc nhuộm và piment khác như:
thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan kể cả dẫn xuất của inđigo vì chúng có màu tươi và
bền với điều kiên lưu hoá: phức của phtaloxianin với đồng và các kim loại khác. Thuốc
nhuộm và pigment dùng để nhuộm caosu được sản xuất ở dạng bột mịn bột nhão hoặc
dạng phân tán, chúng phải đạt các yêu cầu kỹ thuật dưới đây:
- Bền nhiệt (đến 160oC) bền với tác dụng của hơi nước, không khí nóng. nước nóng,
kiềm, lưu huỳnh, chất tăng tốc và chất hoá dẻo;
- Bền với tác dụng của ánh sáng;
- Không di chuyển giữa các lớp cao su và ra lớp ngoài;
- Không có tác dụng xúc tác quá trình lão hoá cao su.
Cao su có thể được nhuộm trong khối hoặc nhuộm mặt ngoài. Khi nhuộm trong khối
thì pigment được trộn và cán giữa các lớp cao su đồng thời với việc gia các phụ liệu khác.
Lượng pigment lấy trong khoảng 1 - 4% so với khối lượng cao su. Khi nhuộm mặt ngoài
người ta dùng hỗn hợp pigment và chất tạo màng để quét, in hay phun, vẽ lên mặt sản
phẩm cao su. Các hãng nước ngoài sản xuất pigment dùng cho công nghiệp caosu với các
tên gọi thương phẩm như: vulcal, vulcal fast (CHLB Đức), vulcaphor (ICI), Irgaphor
(Geigy) v.v.
4.11.4. Nhuộm chất dẻo (nhựa hoá học)
Chất dẻo có nhiều loại và rất khác nhau về cấu tạo hoá học, không được sử dụng
rộng rãi trong lĩnh vực sinh hoạt và trong kỹ thuật. Những loại chất dẻo thường gãp là:
polyetylen. polypropylen, polyvinylclorua, polystiron, polymetylmetacrylat, polyeste v.v.
Người ta cũng sản xuất các loại nhựa khác như: Urefomaldehit, phenolfomaldehit.
polyuretan bọt, nhựa amin, nhựa epocxy và các dẫn suất của este xenlulo.
Do chất dẻo khác nhau về cấu tạo hoá học nên sự tương tác của thuốc nhuộm với
chúng cũng khác nhau. Khi chọn phương pháp nhuộm chất dẻo người ta không dựa vào
bản chất hoá lý xảy ra giữa thuốc nhuộm và vật liệu nhuộm như khi nhuộm vật liệu dệt,
dựa vào các điều kiện công nghệ gia công chất dẻo thành bán sản phẩm hay sản phẩm cuối

154
cùng. Nhuộm chất dẻo là thuật ngữ chỉ chung các quá trình biến nhựa bán thành phẩm
hoặc thành phẩm thành dạng có màu bằng các biện pháp: nhuộm trong khối, nhuộm mặt
ngoài, vẽ hoặc in hoa lên sản phẩm. Tuỳ từng loại chất dẻo và sản phẩm có thể dùng
pigment các loại, thuốc nhuộm hoà tan trong chất béo, thuốc nhuộm hoà tan trong dung
môi hữu cơ, thuốc nhuộm hoàn nguyên không tên và thuốc nhuộm phân tán để nhuộm
chúng.
Yêu cầu chung của pigment hay thuốc nhuộm dùng vào mục đích này là phải có độ
mịn cao, chịu được sự tương tác hoá học với các cấu tử có trong thành phản chất dẻo kể cả
các sản phẩm do sự nhiệt hủy sinh ra, sự tương tác lý học xảy ra khi gia công chất dẻo.
Ngoài ra pigment và thuốc nhuộm dùng cho chất dẻo còn phải thuần khiết, tươi màu, có
khả năng nhuộm màu cao; không bị biến sắc dưới tác dụng của ánh sáng, khí quyển và
nhiệt độ của môi trường; không di chuyển từ bên trong ra mặt ngoài sản phẩm; dễ dàng
phân bố trong khối chất dẻo để nhận được màu đồng nhất.
Để nhuộm các loại chất dẻo ghét nước (không chứa các nhóm chức ưa nước) thì
nguyên lý chung là dùng pigment và thuốc nhuộm không tan trong nước, ở nhiệt độ cao
chúng sẽ tan vào chất dẻo, hay chất dẻo là dung dịch rắn của thuốc nhuộm.
a. Nhuộm chất dẻo trong khối
Phương pháp này được dùng phổ biến hơn cả vì nó có khả năng nhuộm đều và đậm,
thực hiên đơn giản và được coi là vạn năng. Để nhuộm người ta đưa pigment hay thuốc
nhuộm vào khối phản ứng ở cuối giai đoạn tổng hợp khi nhựa còn ở trạng thái nóng chảy
nhờ đó mà thuốc nhuộm có dịp phân bố sâu và đồng đều trong toàn khối. Ở giai đoạn này
cần khuấy trộn thật mạnh và đều để nhận được màu đồng nhất.
Kết thúc quá trình phản ứng và nhuộm, nhựa được làm nguội, rửa, chuyển thành
dạng hạt hoặc bột để gia công thành sản phẩm nhựa màu.
b. Nhuộm bề mặt chất dẻo
Phương pháp này có thể thực hiện bằng các biện pháp sau:
- Nhúng sản phẩm vào dung dịch thuốc nhuộm hoà tan trong nước hay trong dung
môi hữu cơ;
- In vân hoa màu lên sản phẩm;
- Vẽ thuốc màu lên sản phẩm;
- Phun thuốc màu lên sản phẩm.
Các bịện pháp này được sử dụng cho những loại chất dẻo từ polyamit; polymetyl-
metacrylat; polystiron, este xenlulo; uremelamin và phenolfomaldehit. Nhược điểm chung
của phương pháp này là năng suất thấp, chỉ thích hợp với các lô sản phẩm nhỏ, độ bền
màu của sản phẩm thấp hơn so với khi nhuộm trong khối.
Riêng phương pháp nhuộm bằng cách nhúng sản phẩm vào dung dịch thuốc nhuộm,
ngoài việc phải lựa chọn loại thuốc nhuộm hay pigment cho phù hợp với loại chất dẻo còn
phải bảo đảm các yêu cầu như: nhiệt độ nhuộm phải thấp hơn nhiệt độ mềm của nhựa, giữ
cho sản phẩm không bị méo, cong vênh. rạn mặt và đục, phải dùng thiết bị thích hợp và
phải rửa sản phẩm trước khi nhuộm.
Phương pháp in, vẽ và phun để tạo màu trên sản phẩm từ chất dẻo có ưu điểm là có
thể dùng một loại pigment hay thuốc nhuộm cho tất cả các loại chất dẻo nhưng nhược
điểm là phải dùng chất tạo màng hoà tan trong dung môi hữu cơ dễ bay hơi để gắn
pigment lên mặt sản phẩm.

155
c. Nhuộm khô chất dẻo
Phương pháp này được dùng để nhuộm chất dẻo dạng hạt. Loại thuốc nhuộm hay
pigment sử dụng được chọn t ùy theo loại chất dẻo và kích thước của chúng. Khi nhuộm
nhựa được trộn đều với bột thuốc nhuộm khô trong máy trộn, hiệu quả nhuộm màu sẽ tăng
lên khi đưa thêm vào hỗn hợp các chất trợ thích hợp. Sau khi trộn đều thì gia nhiệt hỗn
hợp đến nhiệt độ dưới nhiệt chảy mềm của nhựa, trong điều kiện này thuốc nhuộm khô sê
khuếch tán hay hoà tan vào nhựa theo cơ chế dung dịch rắn. Phương pháp này được dùng
để nhuộm polyetylen, polyamit, polyaxetal và nhựa đồng trùng hợp từ stirol và acrylo-
nitrin. Các loại pigment azo, pigment là muối bari và canxi của thuốc nhuộm bazơ,
pigment phtaloxianin, thuốc nhuộm hoà tan trong chất béo đều có thể dùng để nhuộm các
loại nhựa kể trên theo phương pháp này.
4.11.5. Nhuộm giấy
Giấy có thể được nhuộm ngay trong khối bột giấy trước khi xeo hoặc nhuộm dạng tờ
giấy thành phẩm bằng cách nhúng nó vào dung dịch màu hay quệt phủ, láng dịch màu lên
một mặt giấy. Để sản xuất giấy trang trí người ta còn sử dụng rộng rãi phương pháp in, kể
cả in lưới.
Để nhuộm và in giấy người ta dùng chủ yếu các loại pigment, đôi khi cũng dùng loại
thuốc nhuộm hoà tan trong nước như thuốc nhuộm bazơ, thuốc nhuộm trực tiếp và thuốc
nhuộm axit. Pigment hữu cơ dùng để nhuộm giấy được chia làm hai loại sau:
- Loại thứ nhất là hỗn hợp của pigment hữu cơ màu và chất vô cơ trơ dùng làm chất
nền. Pigment hữu cơ thường dùng là thuốc nhuộm azo, điazo và nitrozo không tan trong
nước; chúng có độ che phủ cao, bền với nước. bền với môi trường kiềm và chủ yếu là bền
với ánh sáng, chúng được sử dụng nhiều để sản xuất giấy màu, cactông và bìa màu giấy
trang in;
- Loại thứ hai là pigment của một số thuốc nhuộm hữu cơ tan trong nước được
chuyển thành dạng không tan bằng cách kết tủa và hấp phụ lên chất nền vô cơ, chất nền
thường dùng trong trường hợp này là nhôm hidrat oxit, spat barit, blanfix, cao lanh, bột
trắng (barit, chì cacbonat, kẽm oxit) pigment loại này được sử dụng rộng rãi để nhuộm bìa
và các tông vì chúng có độ bền màu cao, tươi màu và đủ gam màu.
a. Nhuộm phủ bề mặt giấy
Phương pháp này có tên gọi như vậy vì khi nhuộm, thuốc nhuộm hay pigment cùng
với chất nền chỉ nằm ở mặt ngoài của tờ giấy vừa tạo màu vừa làm nhiệm vụ che phủ.
Thành phần của dung dịch nhuộm gồm có:
- Thuốc nhuộm hay pigment ở dạng hoà tan hay huyền phù;
- Chất nền chuẩn bị ở dạng huyền phù;
- Hồ làm nhiệm vụ chất tạo màng gắn pigment vào mặt giấy và tăng độ nhớt của
dung dịch nhuộm.
Thành phần của dung dịch nhuộm rất đa dạng tuỳ theo loại giấy, yêu cầu nhuộm và
chất lượng màu. Để làm chất tạo màng có thể dùng các loại keo thiên nhiên hoặc keo tổng
hợp.
Trong số các keo thiên nhiên người ta thường dùng keo gelatin (từ xương và da động
vật. Hồ gelatin được nấu ở nhiệt độ dưới 70oC. Đơn giản và rẻ hơn cả là hồ từ tinh bột
sắn, tinh bột khoai tây, tinh bột ngô và tinh bột biến tính. Tuy nhiên những loại hồ này tạo
màng kém bền với ẩm ướt nên chỉ dùng cho những loại giấy màu thông dụng và cấp thấp.
156
Hiện nay người ta sử dụng ngày càng rộng rãi các loại hồ tổng hợp để nhuộm và in
giấy. Dùng các loại hồ này giấy sẽ có độ bóng cao hơn, tăng độ mềm dẻo và co giãn, tăng
khả năng kháng mài mòn và nhiều ưu điểm khác nữa. Những hồ tổng hợp được dùng
nhiều là: hỗn hợp của stirol (60 phần) và butađien (40 phần) cho hiệu quả tốt, giá thành
không cao; hồ từ dẫn xuất của acrylic có độ trong suốt cao, ít bị vàng khi bảo quản, không
có mùi, có độ bóng cao, ít phải cán bóng. Hồ tổng hợp thường được chuẩn bị ở dạng bán
đa tụ, sau khi phủ lên mặt giấy phơi khô hoặc cán nó sẽ đa tụ thành màng mỏng gán vào
giấy.
Dung dịch màu kể trên có thể đưa lên giấy bằng cách quét thủ công từng tờ hoặc
bằng cách cán ép cả cuộn với biện pháp phơi sấy thích hợp sao cho gíấy không bị co và
nhăn dúm.
b. Nhuộm khối bột giấy
Giấy có thể được nhuộm ngay trong khối bột trước khi xeo; có thể dùng cả loại
thuốc nhuộm hoà tan trong nước và pigment. Khi dùng các loại thuốc nhuộm bazơ phải
hoà tan thành dung dịch, lọc, đưa vào bể chứa bột từ từ và khuấy đảo liên tục. Do có ái lực
với xơ xenlulo nên thuốc nhuộm sẽ bắt màu vào xơ, sau khi xeo sẽ có giấy màu. Khi dùng
pigment vô cơ hay pigment hữu cơ thì cần hoà chúng thành dung dịch huyền phù, đưa vào
bể chứa bột cùng với cao lanh sau khi đã gia nhựa và phèn. Khi xeo, pigment sẽ được giữ
lại trong các khoang trống giữa các thớ sợi. Phương pháp nhuộm này dùng cho các loại
giấy màu nhạt.
4.11.6. Thuốc nhuộm trong công nghiệp sơn và ấn loát
Để chế tạo sơn màu trong công nghiệp sơn và mực in trong công nghiệp ấn loát
người ta dùng chủ yếu các loại pigment đã được nghiền cực mịn với các gam màu khác
nhau. Những loại pigment được sử dụng vào mục đích này gồm có:
- Pigment vô cơ gồm các muối và oxit có màu, không tan của nhiều kim loại khác nhau;
- Pigment hữu cơ gồm các thuốc nhuộm không tan như: monoazo, phtaloxianin,
hoàn nguyên không tan; thuốc nhuộm nitro và nitrozo.
- Pigment là phức không tan của một số thuốc nhuộm axit, thuốc nhuộm bazơ, thuốc
nhuộm axit - crom và thuốc nhuộm cầm màu với các muối của bari, canxi, nhôm, crom và
một vài kim loại khác nữa.
a. Sử dụng pigment trong công nghiệp sơn
Trong công nghiệp sơn người ta sử dụng nhiều các loại pigment hữu cơ vì chúng có
màu tươi, đủ gam màu, có độ bền màu cao với ánh sáng. Điều quan trọng là trước khi phối
chế với các thành phần khác phải trộn pigment với chất độn (các loại bột trắng) thành hỗn
hợp màu vì các lý do sau đây:
- Pigment nguyên chất có màu quá đậm, nếu đem trộn lẫn ngay với các thành phần
khác sẽ khó đều, ngoài ra nhiều loại pigment nguyên chất thường có ánh đỏ, khó quan sát
và đối chiếu màu;
- Chất độn tạo cho sơn khả năng che phủ nghĩa là có khả năng làm đầy đặn nền màu;
- Chất độn có tác dụng làm tăng độ tươi màu, khi nghiền và trộn pigment với chất
độn độ phân tán của pigment sẽ tăng lên;
- Trong nhiều trường hợp chất độn đồng thời cũng là chất hấp phụ và phân tán
pigment.

157
Để làm chất độn trong công nghiệp sơn người ta thường dùng cao lanh, thạch cao,
spat barit, nhôm hiđrat oxit, bari sunfat, chì sunfat, chì oxit, titan đioxit, litopon và nhiều
chất khác.
Để gắn pigment vào vật liệu người ta còn đưa vào thành phần sơn chất liên kết hay
chất tạo màng. Loại chất này cũng đa dạng, có thể dùng các hợp chất thiên nhiên và nhựa
tổng hợp như: dầu trùng hợp (dầu sơn), dầu ankit, nhựa epoxy, polyuretan, nhựa melamin
và urefomaldehit, peclovinyl và nhiều nhựa khác. Chọn loại chất tạo màng nào còn tuỳ
thuộc vào phạm vi sử dụng của sản phẩm. Trong thành phần của sơn ngoài pigment, chất
độn, chất tạo màng còn có dung môi. chất hoá dẻo và chất làm khô nhanh.
b. Pigment trong cong nghiệp ấn loát
Pigment dùng trong công nghiệp ấn loát cần có chất lượng cao hơn so với loại dùng
để pha sơn. Những yêu cầu đó là pigment phải nguyên chất: màu tươi, bền màu với ánh
sáng, có độ nghiền mịn cao và phân tán cao, bền với nước, có khả năng phối trộn đồng
đều với chất tạo màng.
Để làm chất tạo màng trong chế tạo mực in người ta cũng dùng các loại dầu trùng
hợp, dầu ankit (chúng là các loại dầu thực vật chưa no như dầu lanh, dầu trẩu, dầu hạt quả
cao su đã trùng hợp sơ bộ) và các loại nhựa đổng hợp khác nữa.
Để làm chất độn hay chất đầy nền người ta cũng dùng các loại bột trắng (bari sunfat,
canxi cacbonat, nhôm hidratoxit). Ngoài ra trong thành phần mực in cũng có dung môi
hữu cơ (để hoà tan chất tạo màng) và chất làm khô nhanh như coban naphtenat hay
mangan naphtenat.
4.11.7. Nhuộm gỗ và chiếu cói
Trước khi sơn vecni hoặc quang dầu, để nhuộm màu lót cho một số mặt hàng gỗ
người ta cũng dùng biện pháp nhuộm. Thuốc nhuộm được dùng vào mục đích này chủ yếu
là hai lớp trực tiếp và bazơ. Do có ái lực với xenlulo và nhất là các thành phần có trong
nhựa cây nên các loại thuốc nhuộm này bắt vào gỗ tương đối bền. Thuốc nhuộm bazơ và
thuốc nhuộm trực tiếp còn được sử dụng nhiều để nhuộm hàng mây tre đan, mành trúc và
các mặt hàng khác từ tre nứa, cho màu bền và đẹp.
Chiếu cói là mặt hàng đặc sản của nước ta được nhuộm chủ yếu bằng thuốc nhuộm
bazơ. Do có đủ màu, màu tươi và có khả năng bắt mạnh vào chiếu cói nên lớp thuốc
nhuộm này được sử dụng để nhuộm cói sợi dùng để đan và dệt, dùng để in hoa chiếu và
các sản phẩm từ cói.
4.11.8. Thuốc nhôm tóc
Như đã trình bày ở mục 1 của phần này, một số thuốc nhuộm dùng để nhuộm lông
thú cũng có thể dùng để nhuộm tóc, tuy nhiên khi dùng thuốc nhuộm và hoá chất để
nhuộm tóc ngoài yêu cầu kỹ thuật còn phải quan tâm đến yêu cầu y sinh nữa. Ý định
nhuộm tóc đã có từ đầu thế kỷ XX và việc chế tạo thuốc nhuộm tóc cũng được nhiều nhà
khoa học chú ý. Chỉ riêng trong 40 năm (1930 - 1970) đã có hàng trăm bằng phát minh về
các hoá chất để nhuộm tóc. Hoá chất hay thuốc nhuộm dùng vào mục đích này đều phải
bảo đảm đạt yêu cầu về màu sắc, không gây dị ứng cho da và an toàn về y học. Đến nay
các phương pháp nhuộm tóc tương đối ổn định, chúng khác nhau về phương pháp sử
dụng, độ bền, tính chất màu sắc và hoá tính thiên nhiên của thuốc nhuộm. Có bốn loại chất
nhuộm tóc dưới đây:

158
a) Chất khử màu tóc là loại dung dịch chế sẵn bán trên thị trường ở dạng dung dịch
không màu rất dễ nhận biết. Nó được dùng theo chỉ dẫn của thang đổi màu và dùng để tẩy
màu thiên nhiên của tóc trước khi nhuộm màu mới. Những chế phẩm này chứa chì axetat
và đôi khi là muối bitmut. Có thể nhận biết định tính bằng cách dùng dung dịch H2S, nếu
có kết tủa đen là chì axetat, còn kết tủa đen nâu là muối bitmut.
b) Thuốc nhuộm tóc có độ bền thấp được sử dụng để nhuộm màu cho tóc trong thời
gian ngắn, chúng có thể là thuốc nhuộm hoàn chỉnh hay chất lỏng có màu được sản xuất ở
dạng dung dịch chứa một lượng nhỏ nhựa tổng hợp. Hiệu quả nhuộm màu sẽ đạt được khi
chải tóc bằng dung dịch này. Do có độ bền thấp nên sau một vài lần gội, màu mới nhuộm
sẽ mất hẳn. Loại thuốc nhuộm này cũng được sản xuất ở dạng bột, có chỉ dẫn cách hoà tan
mỗi khi dùng. Thuốc nhuộm dùng trong trường hợp này thường là loại có khối lượng phân
tử lớn, khó thấm sâu vào các lớp bên trong của sợi tóc gồm có: thuốc nhuộm để nhuộm vật
liệu dệt, thuốc nhuộm để nhuộm thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm. Chúng có thể là
thuốc nhuộm axit. thuốc nhuộm bazơ và thuốc nhuộm phân tán có cấu tạo hoá học khác
nhau kể cả thuốc nhuộm là phức của kim loại. Loại thuốc nhuộm tóc này được dùng nhiều
để hoá trang trong biểu diễn nghệ thuật, điện ảnh và những trường hợp có nhu cầu thay
đổi màu tóc thường xuyên.
c) Thuốc nhuộm tóc có độ bền trung bình. Loại thuốc nhuộm này được sản xuất và
bán ở dạng lỏng đựng trong lọ, dùng bằng cách chải hoặc phun, có khả năng giữ màu sau
4 - 6 lần gội. Thành phần của thuốc nhuộm tóc này gồm có: thuốc nhuộm loại có khối
lượng phân tử nhỏ, chất tẩy rửa tổng hợp hay chất nhũ hoá. Thuốc nhuộm để pha chế
thường là: nitroanilin, nitrophenylenđiamin, niotroaminophenol và aminohyđroxiantra-
quinon. Nhóm này có màu vàng, da cam, màu đỏ và màu tím. Từ những màu này khi phối
chế với thuốc nhuộm antraquinon màu lam thì có thể tạo được các gam màu thiên nhiên
khác nhau. Trrong các sản phẩm chế sẵn dùng để nhuộm tóc loại này thường chứa 2 - 20
thuốc nhuộm khác nhau. Những thuốc nhuộm chính của nhóm này là:

Tên thuốc nhuộm Màu


2-Nitro-p-phenylenđiamin (NPD) đỏ da cam
4-Nitro-o-phenylenđiamin (NOD) vàng da cam
4-Nitro-m-phenylenđiamin vàng lục
NPD đã thế N1 (bằng nhóm metyl hay 2-hyđroxietyl) đỏ
NPD đã thế N4 (bằng nhóm metyl hay 2-hyđroxietyl) đỏ
NPD thế 3 lần N1, N4, N4 (bằng nhóm metyl hay 2-hyđroxietyl) tím hay tím đỏ
NOD đã thế N1 (bằng nhóm metyl hay 2-hyđroxietyl) da cam
2-Nitro-4-aminophenol da cam - vàng
Axit picraminic vàng
Axit picraminic đã mbtyl hoá N tím
1,4-Diaminoantraquinon xanh lam
1,4,5,8-Tetraminoantraquinon xanh lam

d) Thuốc nhuộm tóc có độ bền vĩnh cửu hay thuốc nhuộm oxi hoá. Loại thuốc
nhuộm này là chế phẩm gồm hỗn hợp của một số phẩm vật trung gian (tuỳ theo màu định
nhuộm chưa có màu cuối cùng được chế tạo ở dạng lỏng. Thành phần chính là các hợp
chất kiểu điaminobenzen, aminophenol, polyhyđroxiphenol được hoà tan trong dung dịch

159
amonioleat hay dẫn xuất amoni của chất hoạt động bề mặt tổng hợp. Chất oxy hóa được
chuẩn bị riêng, khi nào dùng mới trộn với dung dịch nhuộm trên. Các chất oxy hoá
thường dùng là hyđroperoxit ở dạng lỏng, hay một số chất ở thể rắn như ureperoxit,
melaminperoxit và natri peborat.
Các điamin và aminophenol ở điều kiện nhuộm (nhiệt độ thấp và môi trường trung
tính hay kiềm yếu) sẽ bị oxy hoá đến dạng quinoimin sâu trong thân tóc, sau đó hợp chất
này tiếp tục phản ứng với các amin và phenol khác có trong hỗn hợp để tạo thành thuốc
nhuộm họ inđoanilin và inđiamin. Cấu tạo phân từ của thuốc nhuộm và màu tạo thành tuỳ
thuộc vào thành phần các phẩm vật trung gian có trong chế phẩm. Màu của loại thuốc
nhuộm này có độ bền cao với gội và ánh sáng là do chúng có phân tử lớn và được tổng
hợp sâu trong thân tóc nên khó bị tách khỏi khi gội.
Mặc dù có nhiều hợp chất trung gian được đề nghị dùng làm thuốc nhuộm oxy hoá
để nhuộm tóc nhưng ở Mỹ cũng như một số nước khác chỉ có trên 20 chất được dùng vào
mục đích này. Khi phối trộn với tỷ lệ thích hợp các vật trung gian khác nhau sẽ nhận được
thuốc nhuộm tóc có màu nâu, nâu lục, đỏ tím, tím, xanh lam, xanh đen và đen. Khi muốn
chế tạo thuốc nhuộm tóc màu vàng và màu hạt dẻ thì phải dùng các dẫn xuất của
nitrophenyl điamin.
Trong các loại thuốc nhuộm tóc trên thị trường ở dạng lỏng thì hàm lượng các phẩm
vật trung gian (để tạo màu) chỉ chiếm 20 - 30%, phần còn lại là các chất phụ gia.
Dưới đây là những phẩm vật trung gian được dùng nhiều để pha chế thuốc nhuộm
tóc oxy hoá.

Tên phẩm vật trung gian Công thức hoá học

p-Phenylendiamin H2N NH2

H2N

m-Phenylenđiamin NH2

N-Phenyl-p-phenylendiamin NH NH2

H2N OCH3
2,4-Điamino anizol
NH2

2-Nitro-p-phenylenđiamin H2N NH2

NO2

4-Nitro-o-phenylenđiamin O2N NH2

NH2

2,5-Điaminotoluen H2N CH3

NH2

160
H2N OH
2,4-Điaminophenol
NH2

p-Aminophenol H2 N OH

o-Aminophenol OH

NH2
H2N

m-Aminophenol OH

O2N

5-Nitro-2-aminophenol OH

NH2

2-Nitro-4-aminophenol H2N OH

NO2

OH
Rezocxin
HO

HO OH
Hydroquinon
OH

Pirogalon OH

OH
OH

1-Naphtol
OH

1,5-Đihyđroxinaphtalen
OH

Trên đây là những phẩm vật trung gian được sử dụng nhiều hơn cả, khi không có
hoặc muốn chuyển ánh màu thì phải thay đổi tỷ lệ phối liệu hoặc dùng các chất tương đương.
4.11.9. Thuốc nhuộm đùng cho thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm
Trong các nhu cầu về màu sắc của đời sống xã hội có nhu cầu nhuộm thực phẩm
(thức ăn và đồ uống), nhuộm dược phẩm (thuốc uống và bôi ngoài da) và mỹ phẩm
son..phấn...). Có màu sắc đẹp và phù hợp các sản phẩm kể trên sẽ tăng tính hấp dẫn, dễ
tiêu thụ và tăng giá trị sử dụng. Song các loại thuốc nhuộm và chất màu dùng vào mục

161
đích này có yếu cầu chung là phải không độc với cơ thể hoặc độ độc không đáng kể,
không để lại các di chứng về y học, đây là tiêu chuẩn hàng đầu.
Ở những nước công nghiệp phát triển người ta đã ban hành các luật về sử dụng
thuốc nhuộm cho thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm. Thí dụ như ở Mỹ từ năm 1906 đã
có luật quy định rằng chỉ những loại thuốc nhuộm nào không độc mới được dùng vào các
mục đích kể trên. Sau đó luật này đã liên tục được bổ sung vào các năm 1916, 1929, 1939
và đến năm 1960 - 1964 thì coi như tương đối hoàn chỉnh, trong đó có những điều quy
định cụ thể như sau:
- Tất cả thuốc nhuộm (thiên nhiên và tổng hợp) trước khi đưa vào thực phẩm, dược
phẩm và mỹ phẩm đều phải làm sạch tạp chất và được kiểm nghiệm chặt chẽ;
- Sau khi nhuộm cần phải kiểm tra lại độ an toàn của thuốc nhuộm đã đưa vào các
sản phẩm kể trên.
Như vậy rõ ràng là không thể tuỳ tiện sử dụng thuốc nhuộm hay bột màu (pigment)
loại kỹ thuật để nhuộm thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm vì các chế phẩm này có thể
độc với cơ thể, chứa nhiều phụ gia và tạp chất. Sử dụng không đúng thuốc nhuộm và bột
màu vào các mục đích kể trên sẽ gây nguy hại về sức khỏe trước mắt cũng như lâu dài cho
người dùng.
Thuốc nhuộm dùng cho nhuộm thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm được chia làm
các loại sau đây:
- Loại không cần kiểm nghiệm: loại này chủ yếu là các chất màu thiên nhiên chiết
suất hay chế tạo được từ một số loại khoáng vật động vật và thực vật có màu. Do kinh
nghiệm sử dụng lưu truyền từ nhiều thế hệ đã được thừa nhận là chúng không độc, không
cần kiểm nghiệm. Nhược điểm của'chúng là ít màu, và màu không đẹp;
- Loại cần phải kiểm nghiệm và cho phép sử dụng: loại này gồm các thuốc nhuộm
hữu cơ đã được làm sạch tạp chất hoặc kết tủa với muối kim loại để chuyển về dạng
không tan, được các cơ sở y tế xác nhận là không độc hoặc không chứa các nguyên tố gây
độc cho cơ thể, gây dị ứng ngoài da và các phản ứng khác nữa với cơ thể. Tuỳ theo phạm
vi sử dụng (uống, ăn, bôi ngoài da) người ta lại chia ra làm ba nhóm:
a) thuốc nhuộm dùng cho thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm;
b) thuốc nhuộm chỉ dùng cho dược phẩm và mỹ phẩm;
c) thuốc nhuộm dùng cho dược phẩm và mỹ phẩm để bôi ngoài da.
Theo cấu tạo hoá học thuốc nhuộm hữu cơ dùng vào mục đích này cũng chia ra làm
các nhóm sau đây:
(*)
- thuốc nhuộm azo tiêu biểu là màu vàng No6 dùng cho nhóm thuốc nhuộm
pirazolon tiêu biểu là màu vàng No5 dùng cho nhóm a;
- thuốc nhuộm triphenylmetan tiêu biểu là màu lam No1 dùng cho nhóm a;
- thuốc nhuộm inđigoit tiêu biểu là màu lam No2 dùng cho nhóm a;
- thuốc nhuộm antraquionon tiêu biểu là màu lục No5 dùng cho nhóm b;
- thuốc nhuộm xan ten tiêu biểu là màu da cam No5 dùng cho nhóm b;
- thuốc nhuộm quinolin tiêu biểu là màu vàng No10 dùng cho nhóm b.
Tuỳ theo loại nhóm thế có trong phân tử mà độ hoà tan thuốc nhuộm sẽ dao động
trong khoảng từ rất tốt đến không tan.

(*)
Con số là số màu trong Color Index.
162
Tuỳ theo loại nhóm thế có trong phân tử mà độ hoà tan thuốc nhuộm sẽ dao động
trong khoảng từ rất tốt đến không tan. Tăng số nhóm SO3H hay COOH sẽ tăng độ hoà tan
của thuốc nhuộm trong nước. Khi đưa vào phân tử thuốc nhuộm các nguyên tử hay nhóm
thế như: Cl, NO2 và CH3 sẽ làm tăng độ hoà tan của thuốc nhuộm trong dung môi hữu cơ.
Các muối của thuốc nhuộm với kim loại kiềm thổ không hoà tan cả trong nước và trong
dung môi hữu cơ. Trong bảng 3.19 là danh mục một số thuốc nhuộm tổng hợp được dùng
để nhuộm thực phẩm ở một số nước trên thế giới.
Bảng 3.19
Tên nước
Tên thuốc

Thuỵ Điển
Nhật Bản

Thuỵ Sĩ
Canađa
Ba Lan
Ấn Độ
Số Cl nhuộm thực

Italia

Pháp
Anh

Đức

Mỹ
Bỉ
phẩm theo

19140 Vàng 4 × × × × × × × × × × × ×
14270 Vàng 8 × × × ×
47005 Vàng 13 × × × × × o ×
13015 Vàng 2 × × × × × ×
18965 Vàng 5 ×
15985 Vàng 3 × × × × × × × × × × o ×
15980 Da cam 2 × × ×
11920 Da cam 3
16230 Da cam 4 × ×
14720 Đỏ 3 × × × × × × ×
16185 Đỏ 9 × × × o × × × × × o ×
16255 Đỏ 7 × × × × × × × × × o ×
14815 Đỏ 2 × × × × ×
16290 Đỏ 8 × × × × ×
45430 Đỏ 14 × × × × × × × × × o ×
16045 Đỏ 4 × ×
14700 Đỏ 1 o
18050 Đỏ 10 ×
18055 Đỏ 11
14780 Đỏ 13
16035 Đỏ 17 ×
69800 Xanh lam 4 × × × × ×
42051 Xanh lam 5 × × × × × o ×
73015 Xanh lam 1 × × × × o × × × × × o ×
42090 Xanh lam 2 × × o × ×
44090 Xanh lục 4 × × × × ×
42053 Xanh lục 3 × o × × ×
28440 Đen 1 × × × × × ×
27755 Đen 2 × × × × × o ×
20285 Nâu 3 ×
42580 Tím 3
42640 Tím 2

Ghi chú: × - cho phép dùng; o - chỉ sử dụng hạn chế; không có dấu nghĩa là không được dùng.

163
Chương IV
PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THUỐC NHUỘM

1. CÁC TÍNH CHẤT CHUNG CỦA THUỐC NHUỘM


Việc đánh giá chất lượng sử dụng của mỗi thuốc nhuộm phải thông qua các tính chất
và giá trị sử dụng chúng. Tính chất thuốc nhuộm hoặc phụ thuộc vào cấu tạo hoá học phân
tử hoặc phụ thuộc vào công nghệ sản xuất thuốc nhuộm. Có những tính chất chỉ phụ thuộc
vào công nghệ sản xuất, nhưng có những tính chất khác lại chỉ phụ thuộc vào cấu tạo hoá
học mà ít phụ thuộc hoặc không phụ thuộc vào công nghệ sản xuất.
Phần lớn các tính chất của thuốc nhuộm được đánh giá định lượng bằng các đơn vị
qui định. Tuy nhiên, việc đánh giá thường dựa vào các mẫu chuẩn. Có hai loại mẫu chuẩn:
1- mẫu chuẩn cố định khi quá trình sản xuất thuốc nhuộm ổn định, chất lượng thuốc
nhuộm không bị sai lệch từ lô này đến lô khác và nó được xác nhận trong suốt cả thời gian
dài định trước cho từng loại thuốc nhuôm. 2- mẫu chuẩn không cố định khi sản xuất mẫu
thuốc nhuộm, chúng được điều chỉnh và thường xác nhận cho một phần thời gian định
trước.
Các tính chất biểu thị chất lượng của thuốc nhuộm gồm có những đặc trưng sau.
1.1. Nồng độ thuốc nhuộm
Khái niệm nồng độ được thể hiện ở hai mức qui định: nồng độ tuyệt đối và nồng độ
tương đối. Nồng độ tuyệt đối là nồng độ thực sự của thuốc nhuộm (chất màu tinh khiết) có
trong thuốc nhuộm thành phẩm. Loại nồng độ này chỉ gặp trong các loại thuốc nhuộm
không hoà tan trong nước như: thuốc nhuộm phân tán, thuốc nhuộm hoàn nguyên bột
nhão, pigment bột nhão v.v. Loại nồng độ này không bao giờ đạt tới 100% vì cùng với
thuốc nhuộm còn có những chất phụ gia khác. Nồng độ tương đối là nồng độ khi so sánh
với mẫu chuẩn theo qui định (còn được gọi là nồng độ qui ước). Mẫu chuẩn thường được
xác định bằng cách: lấy mẫu thuốc nhuộm từ các lô sản xuất tại nhà máy thuốc nhuộm
đem thử nghiệm tại các viện nghiên cứu, sau đó thoả thuận với các cơ quan sử dụng thuốc
nhuộm, cuối cùng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn và thông qua. Mẫu
chuẩn được coi là có nồng độ qui ước 100%. Tất cả các mẫu thuốc nhuộm cùng loại khi
sản xuất ra sẽ được xác định bằng cách so sánh với mẫu chuẩn. Trong thực tế thường gặp
những loại thuốc nhuộm với nồng độ 120%, 150%, 200% v.v., có nghĩa là thuốc nhuộm
mới sản xuất có nồng độ lớn hơn mẫu chuẩn (gấp 1,2; 1,5; 2,0 lần). Không cho phép sản
xuất loại thuốc nhuộm có nồng độ tương đối nhỏ hơn 100%. Nồng độ tương đối thường
gặp ở những loại thuốc nhuộm cổ điển như: thuốc nhuộm axit, thuốc nhuộm trực tiếp,
thuốc nhuộm lưu huỳnh. Khái niệm nồng độ tương đối thường liên quan đến người đặt
hàng và cơ quan đặt kế hoạch định giá thuốc nhuộm với người sử dụng thuốc nhuộm,
không nên dùng đơn vị này để tính toán thành phần dung dịch nhuộm hay tỷ lệ lên màu.
1.2. Các dạng thuốc nhuộm thương phẩm
Tuỳ theo từng loại thuốc nhuộm mà yêu cầu sản xuất chúng ở các dạng khác nhau.
Thuốc nhuộm dạng bột thô có kích thước hạt 0,5 - 10 μm, gồm các loại thuốc nhuộm

164
hoà tan trong nước, thuốc nhuộm lưu huỳnh và thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan
nhuộm theo phương pháp kiềm khử (lâycô/bazơ).
Thuốc nhuộm dạng bột mịn có kích thước hạt 0,2 - 0,5 (1) μm, gồm các loại thuốc
nhuộm phân tán. thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan nhuộm theo phương pháp huyền
phù, hoàn nguyên bột mịn phân tán cao.
Thuốcnhuộm dạng bột nhão: sau quá trình tổng hợp, thuốc nhuộm được lọc rửa rồi
phối trộn với các phụ gia (chất giữ ẩm, chất phân tán, chất chống thối, chất chống vón cục,
chất xúc tác v.v.) và đem nghiền đến độ mịn đạt yêu cầu, không cần sấy. Loại này bao
gồm các thuốc nhuộm pigment dùng cho in hoa và hoàn nguyên bột nhão.
Thuốc nhuộm dạng lỏng: gần đây hãng Sandoz giới thiệu loại thuốc nhuộm sodyesul
lỏng là thuốc nhuộm lưu huỳnh đã được khử trước về dạng lâycô ổn định trong dung dịch.
1.3. Độ ổn định của thuốc nhuộm trong thời gian bảo quản
Tính chất này thể hiện độ bền của chất màu có trong thuốc nhuộm thành phẩm.
Trong suốt thời gian bảo hành, các tính chất của thuốc nhuộm chưa bị thay đổi thì thuốc
nhuộm còn hiệu lực sử dụng và gọi là thời gian tới hạn sử dụng. Khi các tính chất của
thuốc nhuộm bị thay đổi thì thuốc nhuộm hết thời hạn sử dụng. Chỉ có một vài thuốc
nhuộm cần quan tâm đến chỉ tiêu này như: thuốc nhuộm hoạt tính, thuốc nhuộm lưu
huỳnh và thuốc nhuộm hoàn nguyên tan. Còn hầu hết các loại thuốc nhuộm khác nếu bảo
quản tốt trong những điều kiện bình thường thì chúng có những thời gian sử dụng là vô
hạn. Khi cần so sánh độ ổn định của các loại thuốc nhuộm khác nhau hoặc của các hãng
sản xuất (cùng loại thuốc nhuộm) khác nhau, người ta sử dụng các chỉ dẫn về thời hạn bảo
quản của mẫu chuẩn đã cho.
1.4. Độ hoà tan của thuốc nhuộm
Tính chất này thể hiện khả năng hoà tan tối đa của thuốc nhuộm trong một lít nước
hoặc một lít dung dịch (có chứa các chất trợ nhuộm khác). Đơn vị tính là số gam thuốc
nhuộm tối đa hoà tan trong một lít nước (hoặc một lít dung dịch). Độ hoà tan của thuốc
nhuộm có ảnh hưởng đến nồng độ tới hạn cho phép của thuốc nhuộm và các chất.điện ly;
nó qui định nhiệt độ nhuộm, môđun nhuộm và các thông số khác của quá trình nhuộm.
1.5. Độ phân tán của thuốc nhuộm
Chi tiêu này cần phải xác định đối với những loại thuốc nhuộm không hoà tan trong
nước như: thuốc nhuộm phân tán, thuốc nhuộm hoàn nguyên bột mịn và pigment. Thực
chất việc đánh giá độ phân tán chính là xác định độ mịn của các hạt thuốc nhuộm. Hạt
thuốc nhuộm càng nhỏ thì khả năng phân tán của chúng càng cao.
1.6. Khả năng tự nhuộm
Tính chất này thể hiện khả năng của thuốc nhuộm chuyển từ dung dịch nhuộm vào
vật liệu nhuộm sau một thời gian nhất định. Chỉ tiêu này được đánh giá bằng phần trăm
lượng thuốc nhuộm đã hấp phụ lên vật liệu nhuộm so với lượng thuốc nhuộm pha trong
dung dịch nhuộm.
1.7. Khả năng đều màu của thuốc nhuộm
Đây là khả năng phân bố đều của thuốc nhuộm lên vật liệu nhuộm. Khả năng này có
liên quan đến cường độ lên màu của thuốc nhuộm sau khoảng thời gian nhất định. Dựa
trên chỉ tiêu này có thể phân thuốc nhuộm thành ba nhóm: thuốc nhuộm khó đều màu

165
(thuốc nhuộm có ái lực lớn với vật liệu nhuộm); thuốc nhuộm đều màu trung bình và
thuốc nhuộm dễ đều màu (ái lực nhỏ).
1.8. Độ ổn định của dung dịch thuốc nhuộm
Chỉ tiêu này được xác định bằng khoảng thời gian mà dung dịch thuốc nhuộm chưa
bị thay đổi; nó cho biết khả năng cho phép pha chế một lượng lớn dung dịch nhuộm trước
khi tiến hành nhuộm. Những dung dịch thuốc nhuộm không ổn định chỉ được phép pha
trước khi sử dung.
1.9. Độ bền của thuốc nhuộm trong dung dịch
Chỉ tiêu này xác định độ bền của thuốc nhuộm trong dung dịch một số chất như
muối, chất điện ly, chất oxi hoá. Nó thể hiện khả năng chịu được của thuốc nhuộm khi gia
công chúng trong các qui trình kết hợp như: tẩy và nhuộm đồng thời hoặc để thiết lập qui
trình nhuộm có mặt các chất trên ở nhiệt độ cao. Để đánh giá tính chất này có thể nhuộm
so sánh ở điều kiện cụ thể với mẫu nhuộm ở điều kiện tối ưu đã cho.
1.10. Độ bền của thuốc nhuộm trong hồ in
Chỉ tiêu này được xác định bằng khoảng thời gian ổn định (tính theo ngày hoặc theo
giờ) của các loại hồ in. Sự ổn định kể từ khi bắt đầu pha chế thuốc nhuộm vào hồ in cho
đến khi tính chất lên màu và định vị thuốc nhuộm trên vật liệu bắt đầu bị giảm đi.
1.11. Độ nhạy của thuốc nhuộm với một số ion kim loại nặng
Chỉ tiêu này xác định điều kiện nhuộm cũng như yêu cầu khi pha chế dung dịch
nhuộm. Đánh giá chỉ tiêu này theo các cấp qui định sau khi nhuộm so sánh mẫu trong điều
kiện có muối kim loại nặng (đồng, sắt, crôm) và điều kiện không có chúng.
1.12. Khả năng di tản thuốc nhuộm
Tính chất này đặc trưng cho sự dây màu từ vật liệu nhuộm sang vật liệu trắng khi xử
lý trong cùng dung dịch, có nghĩa là thuốc nhuộm có khả năng di chuyển từ vật liệu
nhuộm ra dung dịch trong khi nhuộm. Chỉ tiêu này được xác định bằng sự sai khác về
cường độ màu của vải nhuộm và vải trắng dây màu sau khi xử lý chúng trong cùng dung
dịch. Đánh giá chỉ tiêu này bằng cấp màn qui định hoặc bằng phần trăm lượng thuốc
nhuộm dây từ vải màu sang vải trắng.
1.13. Mức độ sử dụng thuốc nhuộm
Chỉ tiêu này đặc trưng cho hiệu quả sử dụng thuốc nhuộm khi nhuộm và in. Nó được
đánh giá bằng tỷ lệ lượng thuốc nhuộm đã được bắt màu trên vật liệu với lượng thuốc
nhuộm cần sử dụng trong đơn nhuộm và in.
1.14. Mức độ giặt sạch thuốc nhuộm
Sau khi nhuộm và in, những phần thuốc nhuộm không được định vị trên vật liệu sẽ
phải giặt sạch. Mức độ dễ giặt sạch càng cao thì độ bền màu với gia công ướt trong quá
trình sử dụng sau này càng cao.
1.15. Độ nhạy của màu thuốc nhuộm với các chế phẩm hoàn tất
Tính chất này đặc trưng cho những loại thuốc nhuộm có khả năng tăng độ bền màu
khi tiến hành cầm màu sau khi nhuộm hoặc gia công với các chế phẩm hoàn tất để tăng

166
giá trị sử dụng. Ảnh hưởng này được đánh giá bằng sự so sánh cường độ màu, ánh màu,
trước và sau khi gia công.
1.16. Độ bền màu
Đây là một trong những tính chất quan trọng nhất của thuốc nhuộm, nó xác định
phương pháp nhuộm cũng như công dụng của mỗi thuốc nhuộm. Độ bền màu được chia
làm hai loại:
1- Độ bền màu công nghệ là chỉ tiêu bền màu trong các quá trình gia công tiếp theo
sau nhuộm;
2- Độ bền màu sử dụng là chỉ tiêu bền màu dưới tác dụng của các điều kiện sử dụng
như: giặt, là, cọ xát, mồ hôi, ánh sáng, thời tiết v.v. Về nguyên tắc, hai chỉ tiêu trên không
có sự khác biệt, vì đó là tất tả các tác nhân hoá lý tác dụng lên vật liệu nhuộm trong quá
trình sản xuất và sử dụng.

2. PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG THUỐC NHUỘM


Phương pháp phân tích định lượng thuốc nhuộm rất có ý nghĩa khoa học cũng như
trong sản xuất. Định lượng thuốc nhuộm trong dạng bột thành phẩm, trong dung dịch,
trong bột nhão, huyền phù hay trên vật liệu nhuộm màu đều rất cần thiết để đánh giá chất
lượng thuốc nhuộm, để thiết lập các qui trình công nghệ nhuộm phù hợp, để nghiên cứu
cơ chế nhuộm và để đánh giá độ bền màu của thuốc nhuộm.
Trong sản xuất thuốc nhuộm, việc phân tích định lượng là cần hiết để khống chế
nồng độ chất màu trong thuốc nhuộm sản phẩm. Bởi vì hầu hết các thuốc nhuộm xuất
xưởng không phải là thuốc nhuộm thuần khiết mà chúng thường bị pha loãng bởi các chất
phụ trợ khác nhằm làm tăng tính chất sử dụng của thuốc nhuộm. Trong việc sử dụng thuốc
nhuộm, phân tích định lượng cũng quan trọng để khống chế nồng độ thuốc nhuộm trong
quá trình nhuộm, để kiểm tra chất lượng sản phẩm nhuộm và đặc biệt nó phục vụ cho quá
trình tự động hoá trong sản xuất. Với nội dung trên, phân tích định lượng có nhiều phương
pháp.
2.1. Xác đinh nồng độ thuốc nhuộm bằng phương pháp nhuộm so sánh
Phương pháp này được sử dụng khi đã có mẫu chuẩn để so sánh đối chứng. Mỗi loại
thuốc nhuộm được thử với cùng loại vật liệu nhuộm và tiến hành trong cùng điều kiện với
các màu nhạt, trung bình và đậm. Ngoài ra, có thể nhuộm thêm hai mẫu với giới hạn nồng
độ trên và dưới (tỷ lệ tăng giảm từ 5 - 10% so với hàm lượng thuốc nhuộm tối ưu theo chỉ
dẫn). Riêng đối với các màu vàng, cần phải cho thêm một lượng thuốc nhuộm màu xanh
lam để tăng cường độ màu và dễ so sánh. Lượng thuốc nhuộm màu xanh chỉ được lấy
không cao hơn 20% so với thuốc nhuộm màu vàng và cần thống nhất trong tất cả các thí
nghiệm. Sử dụng nước cất để pha thuốc nhuộm và các hoá chất khác. Các điều kiện thí
nghiệm như: tỷ lệ giữa dung dịch nhuộm và khối lượng mẫu (mođun); nhiệt độ, thời gian
và qui trình thao tác phải thực hiện giống nhau cho tất cả các mẫu thí nghiệm. Các bước
thí nghiệm cụ thể như sau.
2.1.1. Chuẩn bị dung dịch nhuộm
Các chất rắn cân với độ chính xác 0,01g, các chất lỏng đong với độ chính xác 0,1
ml. Đối với hầu hết các loại thuốc nhuộm màu thí nghiệm được dùng 0,5 - 1 g, riêng thuốc
nhuộm lưu huỳnh dùng 2,5 g. Thuốc nhuộm được hoà tan trong bình định mức (loại 500

167
ml), nhiệt độ hoà tan của từng loại thuốc nhuộm có khác nhau: thuốc nhuộm trực tiếp,
thuốc nhuộm axit, thuốc nhuộm hoạt tính (nhóm nhuộm nóng) hoà tan ở nhiệt độ 80 -
90oC; thuốc nhuộm hoạt tính nhóm ấm hoà tan ở nhiệt độ 40 - 50oC. Thuốc nhuộm hoàn
nguyên và thuốc nhuộm lưu huỳnh chỉ được khử và hoà tan trước khi thí nghiệm nhuộm.
Tất cả các dung dịch thuốc nhuộm cần được kiểm tra độ hoà tan bằng cách nhỏ giọt dung
dịch thuốc nhuộm lên giấy lọc.
2.1.2. Chuẩn bị mẫu vật liệu nhuộm
Có thể nhuộm sợi, nhuộm vải dệt thoi, vải dệt kim v.v. Chất liệu mẫu lựa chọn sao
cho phù hợp với phạm vi sử dụng của thuốc nhuộm.
Các mẫu vải sợi bông, lanh, vixco phải qua xử lý làm sạch ở điều kiện sản xuất và
có độ mao dẫn 10 cm/h. Mẫu thí nghiệm cân với khối lượng không nhỏ hơn 5 g.
Mẫu vải, sợi len, len pha phải được làm sạch ở điều kiện sản xuất nhưng cần gia
công thêm trong dung dịch gồm: chất hoạt động bề mặt 2 g/l ở nhiệt độ 80oC, thời gian 30
ph, mođun 40. Sau đó giặt nóng giặt lạnh. Tơ tằm sau khi đã qua xử lý làm sạch ở điều
kiện sản xuất cũng phải xử lý thêm trong dung dịch: NH4OH 25%; 3 m/l, natri
hexametaphotphat: 2 g/l, nhiệt độ 50oC, thời gian 20 ph, sau đó giặt nóng rồi giặt lạnh.
Các mẫu len và tơ tằm chỉ cân với khối lượng không nhỏ hơn 2 g. Nếu các mẫu sợi
thì phải cuộn vào đũa thủy tinh hình chữ U.
2.1.3. Nhuộm mẫu
Trước khi nhuộm các mẫu vải hoặc sợi phải được thấm nước đều và vắt đến lượng
ẩm 120 - 150% (tức là 1 g vải đem theo 1,5 - 2 g nước). Cho mẫu ngập trong dung dịch
nhuộm và trong 15 ph đầu phải khuấy đảo liên tục, sau đó giảm dần 3 - 4 ph khuấy một
lần, không được để mẫu vải nổi lên trên dung dịch. Nhiệt độ nhuộm và thời gian nhuộm
cho từng loại thuốc nhuộm thực hiện theo các chỉ dẫn cụ thể. Kết thúc mẫu nhuộm đầu,
nước lưu được giữ lại rồi bổ sung nước đến mức cũ và nhuộm tiếp mẫu sau (lượng vật liệu
lấy giảm đi 5 lần so với lần trước). Các điều kiện nhuộm giữ nguyên cho tất cả các lần thí
nghiệm. Các mẫu nhuộm được giặt sạch và sấy khô ở nhiệt độ không quá 70 - 80oC.
2.1.4. Đánh giá kết quả nhuộm mẫu
Các mẫu nhuộm sau khi sấy khô được giữ trong bóng tối ít nhất 2 h rồi đem so sánh
và chỉ sử dụng các mẫu nhuộm đều màu không bị loang. Việc quan sát so sánh được thực
hiện trong ánh sáng tự nhiên hoặc dưới ánh sáng đèn nêon, không dùng đèn màu ở nơi thí
nghiệm. Đèn chiếu sáng vào mẫu vải phải đặt cách bề mặt mẫu 50 cm và nghiêng một góc
40 - 50o. Hướng quan sát phải vuông góc với bề mật mẫu nhuộm. Các mẫu vải phải để
cùng trên mặt phẳng và cùng chiều sợi như nhau. Để tránh bị lóa khi quan sát cần xếp các
mẫu thành 2 - 4 lớp, và thay đổi chỗ của các mẫu 2 - 3 lần.
Đối với các mẫu sợi phải cuộn chúng lại với nhau thành các con sợi có bề dày ít nhất
15 mm ở trạng thái tự do và dễ chải. Các con sợi được xếp song song với nhau, đổi chỗ
cho nhau ba lần để so sánh, lần cuối cùng xếp một phần của con sợi này lên giữa hai đầu
của con sợi kia và quan sát. Kết quả đánh giá trong các lần quan sát cho phép sai số nhỏ
hơn 5%. Để xác định nồng độ và ánh màu của thuốc nhuộm cần phải tính cả các mẫu
nhuộm trong nước lưu. Phương pháp xác định nồng độ thuốc nhuộm bằng cách so sánh sẽ
chỉ cho kết quả tương đối và chỉ thực hiện được khi người làm thí nghiệm đã có nhiều
kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

168
2.2. Phương pháp quang trắc phổ
Cơ sở của phương pháp này là dựa trên tính chất hấp thụ ánh sáng có chọn lọc của
thuốc nhuộm trong vùng quang phổ thấy được (có bước sóng λ = 400 - 760 nm). Mỗi
thuốc nhuộm tương ứng với một dạng đường cong hấp thụ nhất định, dựa vào đường cong
đó mà thiết lập phương pháp phân tích định lượng và định tính thuốc nhuộm. Định tính
thể hiện màu sắc và độ thuần sắc của mỗi thuốc nhuộm. Định lượng thuốc nhuộm chỉ có
thể được xác định theo định luật Lambert Bera:
I
Dλ = lg o = ελ.C.l
I
trong đó: Io - cường độ ánh sáng trước khi đi qua dung dịch; I - cường độ ánh sáng sau khi
đi qua dung dịch; Dλ - cho trước; ελ - hệ số phân tử hấp thụ; C - nồng độ của dung dịch
thuốc nhuộm (mol/l, mg/l, %); l - bề dày của lớp dung dịch.
Khi đo được D, biết C, l sẽ xác định được hệ số phân tử hấp thụ:
D
ε=
C.l
trong đó: D - mật độ quang học ở điểm hấp thu cực đại.
Khi hai thuốc nhuộm: mẫu thử và mẫu chuẩn đồng nhất thì chúng sẽ có hệ số phân
tử hấp thụ giống nhau:
Dt Dc C .l .D
εc = εt = = → Ct = c c t
C t .l t C c .l c l t .D c
So sánh Dc (của dung dịch thuốc nhuộm chuẩn) và Dt (của dung dịch mẫu thử) sẽ
cho phép tính được nồng độ thuốc nhuộm của mẫu thử Ct. Khi xác định được Ct sẽ tính
được hàm lượng chất màu thực trong thuốc nhuộm. Độ chính xác của phương pháp còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phương pháp pha dung dịch thuốc nhuộm cần đặc
biệt lưu ý.
Để pha dung dịch thuốc nhuộm: việc đầu tiên cần tính toán là lựa chọn nồng độ dung
dịch thuốc nhuộm tối ưu. Để có được nồng độ đó, trước tiên cần pha dung dịch thuốc
nhuộm với nồng độ 0,05 g/l, rồi đo mật độ quang học của dung dịch ở bước sóng cực đại
λmax. Nồng độ tối ưu sẽ được tính toán theo công thức:
1.0,05.10
G= , g/l
D max
trong đó: 1- mật độ quang học cho trước cực đại; 0,05 - nồng độ dung dịch thuốc nhuộm,
g/l; 10 - hệ số pha loãng dung dịch, g/l; Dmax - mật độ quang học đo được.
Biết được G, cân lượng thuốc nhuộm tối ưu pha trong một lít nước. Sau đó lấy 10 ml
dung dịch thuốc nhuộm pha loãng vào bình định mức 100 ml (hệ số pha loãng là 10). Nếu
ở nhiệt độ thường thuốc nhuộm hoà tan chưa tốt thì cần phải đun dung dịch thuốc nhuộm
đến 80 - 90oC.
Những thuốc nhuộm không hoà tan trong nước phải sử dụng các dung môi khác như
cồn, benzen, piriđin, H2SO4 hoặc phải thêm vào dung dịch các chất trợ khác như: chất
hoạt động bề mặt Na2CO3, NH4OH v.v. Trong mọi trường hợp cần có được dung dịch
thuốc nhuộm không đục, trong suốt, không chứa tạp chất. Việc đo mật độ quang học được
thực hiện ngay sau khi pha dung dịch thuốc nhuộm (trừ khi có chỉ dẫn thì mới pha trước).

169
Để đảm bảo chính xác cần phải đo mật độ quang học của các mẫu trong cùng một
điều kiện: kích thước hình dạng, chất liệu của cốc đo (cuvet) phải hoàn toàn giống nhau và
có bề dày 1 cm. Trước khi đo cần kiểm tra và điều chỉnh các thang chỉnh bước sóng cũng
như thang chỉ mật độ quang học. Những thuốc nhuộm kém bền với ánh sáng thì khi pha
dung dịch cũng như khi đo cần tránh tiếp xúc với ánh sáng. Những thuốc nhuộm có khả
năng hấp phụ lên thạch anh hoặc thủy tinh thì trước khi thí nghiệm cần ngâm rửa các
cuvet trong dung dịch thuốc nhuộm. Nếu thuốc nhuộm nhạy thay đổi theo môi trường thì
cần ổn định trị số pH của môi trường trong quá trình đo bằng các dung dịch đệm. Máy
quang trắc phổ hoạt động trong điều kiện nhiệt độ 18 - 25oC. Đầu tiên cho dòng ánh sáng
đi qua cuvet chứa dung môi, sau đó qua cuvet chứa dung dịch thuốc nhuộm. Với khoảng
bước sóng 400 - 760 nm sẽ thực hiện đo mật độ quang học sau mỗi đoạn 20 nm. Riêng ở
những điểm uốn và điểm cực đại sẽ phải đo nhiều hơn, phải đo cách đoạn 10 nm hoặc
ngắn hơn để có được nhiều điểm cực trị và điểm uốn rõ ràng. Mỗi mẫu thuốc nhuộm cần
pha ba loại dung dịch có nồng độ khác nhau nhưng sai số khi đo mật độ quang học (trung
bình của ba lần đo) không được vượt quá giới hạn cho phép. Thông thường D sai số không
vượt quá 0,01; nếu lớn hơn 0,04 thì phép đo không hợp lý. Sai số trung bình được tính
toán như sau:
Với mỗi bước sóng λ xác định, đo được các giá trị D; giá trị trung bình:
ΣD
Dtb =
n
trong đó giá trị n - số lượng điểm phổ đo được cho mỗi loại dung dịch thuốc nhuộm.
Giá trị sai số tuyệt đối của mật độ quang học Δi = Dtb − Di, i là số dung dịch được
pha ra để đo.
Giá trị sai số trung bình:
Σi
Δitb =
n
trong đó không lấy các điểm có D < 0,2.
Từ các giá trị thu được xây dựng đồ thị có trục hoành là bước sóng (10 mm tương
ứng 20 nm) và trục tung là mật độ quang học trung bình Dtb ( 10 mm tương ứng 0,1 đơn vị
D). Khi đó nồng độ dung dịch thuốc nhuộm được tính theo nồng độ dung dịch mẫu chuẩn:
b
Ct = 100%
a
trong đó: a - tổng trục tung của mật độ quang học của mẫu chuẩn; b - tổng trục tung của
mật độ quang học mẫu thử.
Với những thuốc nhuộm có khả năng hấp thụ chọn lọc thì đường cong của chúng có
các điểm cực đại rõ rệt, trong tính toán chỉ cộng những giá trị ở giữa hai điểm cực đại và
trong khoảng λ = 30 nm. Đặc biệt đối với những thuốc nhuộm có độ thuần khiết cao, có
thể tính nồng độ theo kết quả đo trong phạm vi bước sóng hẹp và cộng tất cả các điểm trục
tung trên đường cong chỉ trừ những điểm có D < 0,2.
Các thuốc nhuộm có đường cong với các điểm cực đại không rõ rệt (thuốc nhuộm
màu ghi, màu đen, màu gạch, màu ôliu...) thì phải tính nồng độ theo tất cả các điểm của
các phổ.
Các sai số tính toán nồng độ của mẫu thử so với mẫu chuẩn cho phép ở các giới hạn
sau:

170
Δitb sai số nồng độ cho phép %
0,005 - 0,01 ±2
0,011 - 0,02 ±3
0,021 - 0,03 ±4
0,031 - 0,04 ±5
Dựa vào đường cong hấp thụ trên đồ thị còn có thể tính toán mức độ sai khác về ánh
màu giữa mẫu thử và mẫu chuẩn. Với mỗi bước sóng tương ứng trên đồ thị có thể tính
được hiệu số mật độ quang học
q1 = Dc1 − Dt1
q2 = Dc2 − Dt2
qn = Dcn − Dtn
Mức độ phân tán ánh màu:
q1 + q 2 + ... + q n
qo =
n
trong đó: n - số lần tính toán; Dc - mật độ quang học của dung dịch chuẩn; Dt - mật độ
quang học dung dịch thử.
Nếu qo ≤ 0,03 thì hai thuốc nhuộm có ánh màu hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên giới
hạn qo cũng có thể cao hơn khi thực hiện đo mật độ quang học của dung dịch thuốc nhuộm
có độ nhạy kém.
2.3. Phương pháp trắc quang (so màu quang điện)
Cơ sở của phương pháp này cũng giống như phương pháp trên, nhưng nó đơn giản
hơn và được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Nguyên tắc chung của phương pháp
này là so sánh mật độ quang học của dung dịch thuốc nhuộm mẫu thử với mẫu chuẩn. Thí
nghiệm được tiến hành trên máy so màu quang điện với cùng các điều kiện giống nhau:
chiếu sáng, kính lọc và cuvet v.v. Khi đó với một chất hoà tan trong dung môi, mật độ
quang học sẽ tỷ lệ thuận với nồng độ của dung dịch. Từ quan hệ này có thể xây dựng đồ
thị mà trục tung là mật độ quang học D và trục hoành là nồng độ thuốc nhuộm trong dung
dịch C. Những dung dịch hoàn toàn tuân theo định luật Lambert Bera thì đồ thị D − C là
tuyến tính, còn nếu không hoàn toàn tuân theo định luật đó thì đồ thị D − C sẽ là đường
cong. Khi xây dựng đồ thị mẫu chuẩn, cần phải pha dung dịch theo các khoảng nồng độ
sao cho nó bao gồm các nồng độ có thể của dung dịch mẫu thử. Nếu không chỉ dẫn cụ thể
loại kính lọc cho từng thuốc nhuộm thì cần phải chọn kính lọc sao cho đạt được Dmax đối
với dung dịch. Sau khi đã có đồ thị chuẩn D − C, tiến hành đo mật độ quang học Dy của
dung dịch thử trong cùng điều kiện (nguồn sáng, kính lọc, cuvet) như khi xác định mẫu
chuẩn. Theo đồ thị chuẩn sẽ xác định được nồng độ Cy qua Dy của dung dịch thử. Bằng
cách đo này có thể xác định được hàm lượng thuốc nhuộm còn lại trong dung dịch sau các
khoảng thời gian nhuộm. Trường hợp cần so sánh tỷ lệ thuốc nhuộm giữa mẫu thử và mẫu
chuẩn cùng loại thì sau khi đã tìm được nồng độ Ct, trên đồ thị D − C của mẫu chuẩn có
thể tính toán theo công thức:
C.100
Xl = ,%
G
trong đó: C - nồng độ của dung dịch mẫu thử tìm được trên đồ thị mẫu chuẩn, g/l;
G - lượng thuốc nhuộm của mẫu thử pha trong dung dịch, g/l.
171
Nếu biết được hàm lượng chất màu tuyệt đối trong mẫu chuẩn thì sẽ xác định được
hàm lượng đó trong mẫu thử theo công thức:
C.B
X2 = ,%
G
trong đó: B - hàm lượng chất màu tuyệt đối trong mẫu chuẩn, %.
Ngoài ra còn có thể xác định nồng độ thuốc nhuộm bằng phương pháp được coi là
đơn giản nhất như sau: cân lượng thuốc nhuộm của mẫu chuẩn và mẫu thử như nhau pha
trong lượng dung dịch như nhau, rồi tiến hành đo mật độ quang học của hai dung dịch
trong cùng điều kiện giống nhau: kính lọc, cuvet. Thông qua mật độ quang học có thể xác
định nồng độ thuốc nhuộm:
D .100
X3 = t ,%
Dc
trong đó: Dc - mật độ quang học của dung dịch mẫu chuẩn; Dt - mật độ quang học của
dung dịch mẫu thử.
2.4. Phương pháp phân tích hoá học
Phương pháp này có tác dụng bổ sung cho các phương pháp trên vì nó có khả năng
xác định cụ thể các nhóm chức có trong cấu tạo phân tử thuốc nhuộm. Phương pháp khử
được sử dụng để phân tích các loại thuốc nhuộm azo, nitro, nitrozo, các loại thuốc nhuộm
có cấu tạo quinoit và một số thuốc nhuộm khác.
Cơ sở của phương pháp phân tích hoá học là phân hủy các phân tử thuốc nhuộm để
tạo ra các hợp chất đơn giản có thể biết cấu tạo và định phân chúng bằng các hoá chất
thông thường.
Nếu trong phân tử thuốc nhuộm có chứa một loại liên kết nhóm chức như

O
N N ; NH C O ; C
O R
O
thì việc phân hủy xảy ra dễ dàng bằng các phản ứng khử, thuỷ phân, oxy hoá hoặc nhiệt
hủy. Nhưng nếu phân tử thuốc có một số nhóm chức khác nhau thì phải thực hiện một loạt
phản ứng.
Thí dụ, A−NH−O2S−Ar−N=N−Ar−CO−NH−B
3 1 2
1- phản ứng khử;
2- phản ứng thủy phân bằng kiềm;
3- phản ứng thủy phân bằng axit.
Đối với các loại thuốc nhuộm có chứa nhóm azo, việc phân hủy thành sản phẩm đơn
giản xảy ra ở nhóm azo nhờ các chất khử. Đối với các loại thuốc nhuộm azo trực tiếp,
axit, hoạt tính có thể sử dụng các chất khử VSO4, SnCl2 ; bột kẽm trong CH3COOH loãng.
Thuốc nhuộm azo phân tán khử bằng bột kẽm trong CH3COOH dạng băng, pigment khử
bằng SnCl2 và bột kẽm trong hỗn hợp HCl + CH3COOH băng.
Sau khi phá đứt mạch chính, tạo các hợp chất đơn giản, có thể sử dụng phương pháp
định phân hoá học hoặc phương pháp sắc ký để xác định hàm lượng các chất. Thí dụ,
phương pháp định phân hoá học thuốc nhuộm azo và nitro theo phản ứng:

172
ArNO2 + 6VSO4 + 3H2SO4 A1NH2 + 3V2(SO4)3 + 2H2O
Ar−N=N−Ar’ + 4VSO4 + 2H2SO4 ArNH2 + Ar’NH2 + 2V2(SO4)3
Lượng dư của VSO4 trong các phản ứng trên được định phân bằng dung dịch
[Fe(NH3)6]SO4.
Các bước phân tích và tính toán cụ thể tham khảo trong tài liệu.

3. CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM NGHIỆM TÍNH CHẤT THUỐC NHUÔM


3.1. Xác định khả năng hoà tan
Đối với các loại thuốc nhuộm hoà tan trong nước cần xác định khả năng hoà tan tối
đa của chúng. Phương pháp được tiến hành như sau:
Cân 5 g thuốc nhuộm (chính xác tới 0,01 g) hoà tan trong 100 ml nước cất; đun sôi
dung dịch trong 2 phút, rồi lọc trên phễu được đốt nóng không dưới 90oC. Nếu lượng
thuốc nhuộm không hoà tan hết thì sẽ có cặn trên giấy lọc. Khi đó phải làm lại thí nghiệm
với lượng thuốc nhuộm giảm dần: 4 g; 3 g; 2 g; 1 g. Nếu 5 g thuốc nhuộm hoà tan hết
hoàn toàn thì lại tăng lượng thuốc nhuộm 6 g; 7 g; 8 g, 9 g và hơn nữa cho đến khi được
dung dịch bão hoà (tức là lượng cặn trên giấy lọc còn ít nhất). Sau các thí nghiệm sơ bộ
trên sẽ tiến hành xác định chính xác khả năng hoà tan của thuốc nhuộm bằng phương pháp
so màu quang điện. Dung dịch so màu là dung dịch bão hoà được lọc bỏ cặn rồi pha loãng
đến thể tích cần thiết. Căn cứ vào mật độ quang học đo được, đối chiếu với đồ thị chuẩn sẽ
tìm được nồng độ của dung dịch C (g/l). Khả năng hoà tan của thuốc nhuộm tính theo
công thức:
P = C.K, g/l
K - mức độ pha loãng.
Trong trường hợp có mẫu chuẩn đối chứng, nếu lượng thuốc nhuộm của mẫu thử
bằng lượng thuốc nhuộm mẫu chuẩn như đã biết trước mà hoà tan hoàn toàn thì khả năng
hoà tan của chúng như nhau và không cần xác định nữa. Khả năng hoà tan của thuốc
nhuộm được đánh giá theo các cấp qui định như sau:
Độ hoà tan, g/l Cấp
±10 1
11- 20 2
21 - 30 3
31 - 40 4
> 40 5
Riêng với thuốc nhuộm hoạt tính, khi hoà tan các mẫu thử phải tiến hành trong một
số dung địch khác nhau.
Đối với thuốc nhuộm hoạt tính thuộc nhóm nhuộm lạnh thì phải xác định trong hai
dung dịch:
a) Nước cất ở nhiệt độ 20oC;
b) Dung dịch NaCl (30 g/l) ở nhiệt độ 20oC;
Đối với nhóm nhuộm ấm, ngoài hai loại dung dịch trên cần hoà tan trong hai dung
dịch:
c) Nước cất có nhiệt độ 50oC.

173
d) Dung dịch NaCl (30 g/l) có nhiệt độ 50oC.
Đối với nhóm nhuộm nóng cần hoà tan thêm trong dung dịch sau:
e) Dung dịch Na2CO3 (20 g/l) ở nhiệt độ 50oC.
Để xác định khối lượng mẫu cân tối ưu, đầu tiên cân 12,5 g thuốc nhuộm hoà tan
trong 250 ml các dung dịch cần thiết ở trên. Sau đó các dung dịch được giữ ở nhiệt độ tối
ưu và khuấy nhẹ trong thời gian 15 ph, rồi lọc dung dịch. Nếu 12,5 g thuốc nhuộm không
hoà tan hết, tức là còn lại lượng cặn trên giấy lọc thì phải cân lượng thuốc nhuộm ít đi:
10 g; 7,5 g; 5 g... Nếu 12,5 g hoà tan hết hoàn toàn thì cân lượng thuốc tăng lên: 15 g;
17,5 g; 20 g. Lượng thuốc nhuộm tối ưu sẽ tương ứng với mẫu hoà tan còn để lại ít cặn
nhất trên giấy lọc. Đại lượng chính xác của độ hoà tan sẽ xác định tương tự như trên bằng
phương pháp so màu dung dịch của mẫu tối ưu.
3.2. Xác định độ phân tán của thuốc nhuộm không tan
Có nhiều phương pháp xác định độ phân tán như sau:
3.2.1. Phương pháp hiển vi
Phương pháp này cho phép vừa quan sát vừa xác định kích thước của các hạt thuốc
nhuộm. Thuốc nhuộm không tan cần được chuyển về dạng huyền phù bằng cách cân 0,01g
thuốc nhuộm trộn với một ít nước cất để tạo dạng huyền phù sao cho khi soi dưới kính
hiển vi có thể quan sát được các hạt thuốc nhuộm riêng rẽ. Để đo kích thước các hạt thuốc
nhuộm cần tăng tỷ lệ phóng đại lên 600 lần. Nhỏ giọt huyền phù lên kính, dàn đều, rồi di
chuyển sao cho những phần hạt cần đo được nằm giữa các vạch chia của ống thị kính. Giá
trị của mỗi vạch chia trên ống thị kính đã được xác định trước cho mỗi hệ số phóng đại
bằng cách so sánh giữa các vạch chia của thước đo thị kính với vạch chia của thước đo vật
kính.
3.2.2. Phương pháp nhỏ giọt
Cân 0,25 g thuốc nhuộm, trộn với một ít nước cất để có huyền phù đồng nhất, sau đó
cho nước đến 50 ml khuấy đều và dùng pipet (0,5 ml) hút lấy một lượng huyền phù rồi
nhỏ giọt lên giấy lọc và đánh giá độ phân tán bằng cách quan sát trực quan theo các cấp
qui định sau:
- cấp 1: giọt huyền phù lập tức tách lớp nước ngay sau khi nhỏ giọt lên giấy, thuốc
nhuộm nằm trong trung tâm giọt;
- cấp 2: vệt màu nhoè ít;
- cấp 3: vệt màu đậm rõ rệt;
- cấp 4:.vệt màu yếu đi, một phần giấy lọc nhuộm đều;
- cấp 5: toàn bộ vết màu rõ đều.
Trong đó cấp 5 là cấp có độ phân tán tốt nhất.
3.2.3. Phương pháp lắng
Xác định độ phân tán bằng cách so sánh giữa mẫu chuẩn và mẫu thử.
Cân 0,5g thuốc nhuộm (độ chính xác tới 0,0002 g) trộn đều với 250 ml nước cất
nóng (80 - 90oC) và tạo dung dịch huyền phù đồng nhất. Chuyển dung dịch sang ống đong
và giữ yên trong 8 - 4 h với nhiệt độ 85 ± 2oC. Sau đó dùng ống xiphông hút phần trên
dung dịch cho đủ 190 ml (không khuấy động phần dưới). Từ dung dịch hút được lấy ra

174
5 ml (mỗi mẫu) đưa vào bình định mức (100 ml) và pha loãng bằng axeton đến vạch bình.
Tương tự như vậy chuẩn bị dung dịch thuốc nhuộm từ huyền phù chưa sa lắng. Hai mẫu
dung dịch được đem đo mật độ quang học và xác định độ phân tán theo công thức:
D
D= 2
D1
trong đó: D2 - mật độ quang học dung dịch thuốc nhuộm sau quá trình sa lắng; D1 - mật độ
quang học dung dịch thuốc nhuộm không để sa lắng.
Kết quả trung bình của các mẫu không sai khác quá 10% sẽ được coi là kết quả thí
nghiệm.
Theo phương pháp này có thể tiến hành bằng cách pha dung dịch huyền phù như
sau:
Cân 2 g thuốc nhuộm trộn với một ít nước cất rồi pha loãng bằng nước nóng (80 -
o
85 C) đến thể tích một lít. Chuyển dung dịch sang ống đong một lít. Từ dung địch huyền
phù này lấy ra hai mẫu 5 ml, rồi để ống đong trong bình ổn nhiệt (ở 85 ± 2oC), giữ yên
trong 3 h. Sau đó dùng xiphông hút ra 750 ml dung dịch, từ dung dịch này lấy ra hai mẫu
5 ml. Mỗi mẫu dung dịch này cùng với mẫu lấy trước khi lắng, cho vào cốc 50 ml rồi hoà
tan bằng 10 ml axit H2SO4 đậm đặc. Sau đó rót cả dung dịch này sang bình một lít có chất
hoạt động bề mặt không mang ion (4 g/l) đã pha sẵn. Dung dịch pha loãng đến một lít
được sử dụng để đo mật độ quang học cùng với dung dịch thuốc nhuộm (pha chế tương
tự) trước khi sa lắng.
Kết quả tính toán giống phương pháp trên.
3.2.4. Phương pháp sắc ký
Có thể sử dụng sắc ký giấy để xác định độ phân tán của thuốc nhuộm không tan.
Cách tiến hành như sau: dùng loại giấy chuyên cho sắc ký cắt thành hình chữ nhật chiều
dài 90 mm, rộng 70 mm rồi cuộn lại thành hình trụ. Mẫu thuốc nhuộm được pha thành
dung dịch huyền phù 1%. Lấy 10 ml ở mỗi mẫu cho vào cốc (50 ml) và 10 ml nước cho
vào một cốc riêng để làm mẫu đối chứng. Nhúng ống giấy sắc ký ở trên vào các cốc dung
dịch. Quan sát (ống giấy nhúng trong cốc nước, khi thấy nước thấm đều phía trên sát mép
ống giấy thì bỏ tất cả các ống giấy ở các mẫu ra và sấy trong không khí. Tiếp theo người
ta xác định độ cao của vệt dung dịch trên ống giấy cường độ màu của vệt và các hạt bám
trên phần ống giấy tiếp xúc với bề mặt dung dịch sẽ thể hiện mức độ phân tán của thuốc
nhuộm. Thông thường người ta tiến hành bằng cách so sánh mẫu thử với mẫu chuẩn.
3.3. Xác định khả năng hấp phụ của thuốc nhuộm lên vật liệu nhuộm
Mẫu vật liệu phải qua xử lý làm sạch, cân mỗi mẫu 1 g, nhuộm với mođun 40. Đối
với mỗi loại thuốc nhuộm phải sử dụng các mẫu vải sợi cho phù hợp. Các mẫu thí nghiệm
được nhuộm trong cùng điều kiện giống nhau: nhiệt độ, dụng cụ nhuộm, đơn công nghệ.
Mỗi loại thuốc nhuộm được pha chế theo các đơn đã sử dụng hoặc chỉ dẫn trong tài liệu
công nghệ. Để xác định tốc độ hấp phụ thuốc nhuộm chỉ thay đổi thời gian nhuộm trong
sáu mẫu đồng thời: 1 ph; 5 ph; 10 ph; 15 ph; 30 ph; 60 ph. Lấy dung dịch sau nhuộm để
đo mật độ quang học và so sánh với dung dịch trước khi nhuộm. Để cho nồng độ thuốc
nhuộm ít bị sai lệch, cần nhuộm trong bình có lắp sinh hàn, khi vớt mẫu vải sợi ra cần bổ
sung cho đủ lượng dung dịch như ban đầu và thống nhất trong tất cả các mẫu.
Lượng thuốc nhuộm còn lại trong dung dịch được tính theo công thức:

175
D2
B= 100%
D1
trong đó: D1 - mật độ quang học của dung dịch thuốc nhuộm trước khi nhuộm; D2 - mật
độ quang học của dung dịch sau một thời gian nhuộm.
Lượng thuốc nhuộm đã được hấp phụ lên vật liệu nhuộm:
A = 100 − B
Với các thời gian nhuộm khác nhau sẽ tính được A tương ứng và sẽ xây dựng được
đồ thị về khả năng hấp phụ của thuốc nhuộm.
3.4. Xác định độ nhạy của thuốc nhuộm với nước cứng
Mỗi loại thuốc nhuộm có độ nhạy nhất định với nước cứng tùy theo tính chất của nó,
vì vậy cần xác định để biết tính năng của mỗi loại. Phương pháp thực hiện cụ thể như sau:
Đối với thuốc nhuộm trực tiếp, việc xác định được tiến hành khi nhuộm trong hai
loại nước: nước có độ cứng xác định: 3,57 mđlg/l (không cho thêm sođa) và nước cất. Quy
trình nhuộm tiến hành như nhau và kết thúc quá trình nhuộm, mẫu được đem so sánh để
đánh giá kết quả theo các tiêu chuẩn qui định như sau:
- cấp 1: rất nhạy khi cường độ lên màu của mẫu thử yếu hơn hẳn mẫu nhuộm trong
nước cất,
- cấp 2: nhạy, khi cường độ màu của mẫu thử kém hơn chút ít so với mẫu nhuộm
nước cất;
- cấp 3: ít nhạy khi cường độ màu ít sai lệch so với mẫu chuẩn;
- cấp 4: không nhạy khi cường độ màu của hai mẫu bằng nhau (thậm chí có khi hơn).
Thuốc nhuộm hoàn nguyên không tan và thuốc nhuộm lưu huỳnh được kiểm tra với
bốn loại nước:
- nước cất coi là mẫu chuẩn;
- nước cứng có độ cứng 3,57 mđlg/l;
- nước cứng có độ cứng 7,13 mđlg/l;
- nước cứng có độ cứng 10,70 mđlg/1.
Các mẫu nhuộm trong cùng một điều kiện theo đơn công nghệ cho từng loại thuốc
nhuộm. Sau nhuộm các mẫu được sấy khô và đánh giá theo các cấp qui định trong thang
chuẩn màu ghi, mẫu chuẩn là mẫu nhuộm trong nước cất.
Thuốc nhuộm axit và thuốc nhuộm cầm màu sẽ được tiến hành nhuộm trong ba loại
nước:
- nước cất;
- nước cứng có độ cứng 5,34 mđlg/l;
- nước cứng có độ cứng 8,91 mđlg/l;
Cách tiến hành
Cân mỗi mẫu thuốc nhuộm 0,25 g (độ chính xác đến 0,0002 g). Hoà tan thuốc
nhuộm với từng loại nước cho mỗi mẫu: đầu tiên cho 5 ml nước đánh nhuyễn rồi mới pha
loãng bằng nước nóng khuấy cho tan đều, rồi chuyển sang bình định mức (250 ml) và làm
lạnh dung dịch đến 20oC; bổ sung nước đến vạch bình sẽ có dung dịch thuốc nhuộm với
nồng độ 1 g/l. Sử dụng vải len đã làm sạch để nhuộm; tỷ lệ thuốc nhuộm lấy từ 3 - 6% so

176
với vải, mođun nhuộm: 50. Các điều kiện nhuộm được thực hiện giống nhau với tất cả các
mẫu, các mẫu vải sau khi nhuộm được so màu theo thang chuẩn màu ghi. Các chi tiêu
được đánh giá theo các qui định sau:
- cường độ lên màu và ánh màu;
- độ bền màu với dung dịch xà phòng, mồ hôi và cọ xát;
- khả năng đều màu.
Hai chỉ tiêu trên đánh giá bằng các cấp qui định sau:
- cấp 1: nếu sự sai khác giữa mẫu chuẩn và mẫu thử rất lớn;
- cấp 2: sự sai khác tương đối rõ;
- cấp 3: sự sai khác trung bình;
- cấp 4: sự sai khác không đáng kể;
- cấp 5: không có sự sai khác.
3.5. Xác định khả năng đều màu của thuốc nhuộm
Đối với thuốc nhuộm trực tiếp, khả năng đều màu được xác định bằng sự không đều
màu của giai đoạn nhuộm đầu và sự di tản thuốc nhuộm từ vải màu sang vải trắng.
Xác định sự không đều màu của giai đoạn nhuộm đầu bằng cách sau đây: pha dung
dịch nhuộm, khống chế nhiệt độ nhuộm tối ưu, dùng hai mảnh vải phin bóng đã giũ hồ,
nhưng chưa tẩy trắng để thí nghiệm. Bắt đầu nhuộm mảnh vải thứ nhất và tính giờ, sau 2
ph nhuộm mảnh vải thứ hai, sau 3 ph nữa thì vớt cả hai mảnh vải ra, giặt sạch và sấy khô.
Việc đánh giá sự không đều màu được thực hiện bằng cách so màu màu nhuộm thứ hai với
mẫu nhuộm thứ nhất và tính theo phần trăm. Mẫu thứ nhất được coi là 100%, mẫu thứ hai
sẽ là A%.
Xác định sự dây màu được thực hiện bằng cách gia công hai mẫu vải phin (mẫu thứ
nhất đã nhuộm màu chuẩn, mẫu thứ hai để trắng) trong dung dịch chứa các chất phụ trợ.
Giữ nhiệt độ, mođun và hàm lượng các chất phụ trợ giống như khi nhuộm mẫu chuẩn.
Thời gian gia công là một giờ. Sau đó lấy mẫu đem giặt, sấy và tiến hành so màu. Mẫu
chuẩn được coi là 100% thì sự dây màu sang vải trắng được đánh giá là B%.
Khả năng đều màu của thuốc nhuộm được tính bằng tổng A và B và được đánh giá
như sau:
Giá trị A + B, % khả năng đều màu
< 40 kém
41 - 55 trung bình
56 - 75 tốt
> 75 rất tốt
Đối với thuốc nhuộm hoàn nguyên thì khả năng đều màu được xác định bằng ba chỉ số:
a - khả năng không đều màu ban đầu;.
b - khả năng san bằng màu trong quá trình nhuộm;
c - mức độ di tản thuốc nhuộm.
Thí nghiệm xác định a: lấy các mẫu vải phin bông đã tẩy trắng giống nhau và có
khối lượng 2,5 g. Nhuộm mẫu vải thứ nhất trong dung dịch nhuộm được chuẩn bị theo
đơn công nghệ chuẩn, chưa có muối; sau 2 ph nhuộm ở nhiệt độ tối ưu thì cho tiếp mảnh

177
vải thứ hai vào nhuộm, sau 3 ph thì vớt cả hai mảnh vải ra, oxy hoá và giặt sạch.
Thí nghiệm xác định b: phương pháp tiến hành tương tự như trên, chỉ khác là sau khi
cho mảnh vải thứ hai sẽ phải nhuộm trong 40 ph mới được vớt ra, oxy hoá và giặt sạch.
Thí nghiệm xác định c: lấy một mẫu vải đã nhuộm màu ở trên nhưng chưa nấu xà
phòng đem xử lý trong dung dịch kiềm khử với một mảnh vải trắng tương tự. Thành phần
dung dịch kiềm khử được chuẩn bị theo như đơn khử cho mỗi thuốc nhuộm.
Đầu tiên xử lý ở nhiệt độ khử của Na2SO4 (50 - 60oC) trong thời gian 15 - 20 ph. Sau
đó xử lý tiếp ở nhiệt độ tối ưu cho mỗi nhóm thuốc nhuộm (nhóm nhuộm lạnh: 20 - 30oC;
nhóm nhuộm ấm: 40 - 50oC; nhóm nhuộm nóng: 60 - 80oC) trong khoảng thời gian 30 - 35
ph (đối với nhóm nhuộm ấm và nóng), trong 45 - 50 ph đối với nhóm nhuộm lạnh). Các
mẫu vải sau khi nhuộm cũng như sau khi xử lý được sử dụng để so màu. Có thể so màu
trên vải và cũng có thể trích ly thuốc nhuộm ra dung dịch rồi tiến hành phương pháp so
màu quang điện.
Phương pháp trích ly thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng có thể thực hiện như sau:
mẫu vải đã nhuộm màu (với khối lượng 0,5 g) xử lý trong dung dịch gồm: NaOH (dung
dịch 32,5%): 12 ml/l; Na2S2O4: 10 g/l; etylxenlozol: 500 ml/l; nước: 488 ml/l. Quá trình
trích ly thuốc nhuộm bắt đầu ớ nhiệt độ thường trong 10 ph, sau đó nâng nhiệt độ đến 60 -
70oC và xử lý trong 30 ph. Việc trích ly được lặp đi lặp lại nhiều lần và mỗi lần chỉ sử
dụng vài mililit dung dịch để đảm bảo độ đậm đặc cần thiết. Sau khi trích ly hết thuốc
nhuộm khỏi vải, hợp nhất tất cả dung dịch làm một để đo mật độ quang học cho từng mẫu.
Nếu thuốc nhuộm hoàn nguyên thuộc họ inđigoit và tioinđigo thì có thể trích ly theo
phương pháp nhanh hơn: lấy mẫu vải màu (0,2 g) nghiền mịn và hoà tan trong 10 ml
H2SO4 đậm đặc (d = 1,84); thời gian hoà tan 15 - 30 ph. Sau đó đổ dung dịch vào bình
định mức đã chứa 70 ml H2O và 5 ml dung dịch 8% chất hoạt động bề mặt không ion. Lắc
dung dịch cho tan đều và bổ sung nước cho đủ 100 ml để tiến hành so màu.
Sau khi đo được mật độ quang học của các dung dịch trên có thể xác định các chỉ số
như sau:
D D D
a= 1 ; b= 3 ; c= 5
D2 D4 D6
D1, D2 - mật độ quang học của dung dịch trích ly từ mẫu nhuộm 3 ph và 5 ph ở thí
nghiệm 1.
D3, D4 - mật độ quang học của dung dịch trích ly từ mẫu nhuộm 2 ph và 42 ph ở thí
nghiệm xác định b;
D5, D6 - mật độ quang học của dung dịch trích ly từ mẫu vải đã nhuộm màu và vải bị
dây màu ở thí nghiệm xác định c.
a+b+c
Giá trị trung bình sẽ cho biết khả năng đều màu của thuốc nhuộm theo các
3
chỉ tiêu được quy định như sau:

Giá trị trung bình, % Đánh giá Cấp


> 75 Thuốc nhuộm có khả năng đều màu rất tốt 4-5
65 - 75 Thuốc nhuộm có khả năng đều màu tốt 3-4
50 - 65 Khả năng đều màu trung bình 2-3
< 50 Khả năng đều màu kém <2

178
Đối với thuốc nhuộm axit khả năng đều màu được xác định bằng sự chênh lệch
cường độ lên màu của các mẫu nhuộm cách nhau trong khoảng thời gian 5 ph. Mẫu
nhuộm là loại vải len (1 g) dung tích nhuộm được chuẩn bị như sau: lượng thuốc nhuộm:
1% so với khối lượng vải; Na2SO4: 10% so với vải; dung dịch CH3COOH: 30%: 3 - 5% so
với vải. Dung dịch đun đến sôi thì cho mẫu vải thứ nhất vào nhuộm, sau 5 ph cho mẫu thứ
hai và cứ cách 5 ph lại cho tiếp các mẫu khác cho đến hết. Nhuộm các mẫu trong thời gian
1 h kể từ mẫu đầu. Kết thúc quá trình nhuộm các mẫu được vớt ra, giặt sạch, sấy khô. Xác
định cường độ nhuộm màu của các mẫu vải bằng cách đo hệ số phản xạ trên máy quang
kế. Để xác định nồng độ thuốc nhuộm trên mẫu vải thông qua hệ số phản xạ, cần phải có
đồ thị chuẩn giữa nồng độ thuốc nhuộm và hệ số phản xạ.
Xây dựng đồ thị chuẩn bằng cách nhuộm màu vải trong các dung dịch có nồng độ
chuẩn: 0,3%; 0,6%; 0,9%; 1,2%; 1,5% thuốc nhuộm so với khối lượng vải rồi đo hệ số
phản xạ để có được đường cong phụ thuộc giữa hệ số phản xạ và nồng độ thuốc nhuộm.
Sau khi tính được nồng độ thuốc nhuộm trên mẫu đầu và các mẫu sau là A và B sẽ
có được tỷ số B/A; giá trị của tỷ số này sẽ qui định các cấp đều màu cho thuốc nhuộm.
B/A Cấp
< 0,20 1
0,21 - 0,40 2
0,41 - 0,60 8
0,61 - 0,80 4
0,81 - 1,0 5
Tỷ số càng thấp, tức là A càng lớn, có nghĩa là thuốc nhuộm axit có ái lực với len
càng lớn thì độ đều màu càng kém (cấp 1).
Khả năng đều màu của thuốc nhuộm phân tán được xác định bằng cách so sánh
cường độ lên màu của hai mẫu nhuộm cách nhau 5 ph. Mẫu vải nhuộm là polyamit, mỗi
mẫu cân 0,5 g vải đã được giặt sạch. Dung dịch nhuộm gồm: 1 g/l chất hoạt động bề mặt
(có thể loại anion, có thể loại không mang ion); lượng thuốc nhuộm 0,2 - 3% so với vật
liệu nhuộm; mođun nhuộm: 50. Dung dịch nhuộm được đun đến nhiệt độ 90 ÷ 95oC thì
cho mảnh vải thứ nhất vào nhuộm, sau 5 ph cho mảnh vải thứ hai, rồi nhuộm ở nhiệt độ
trên trong thời gian 1 h 30 ph. Kết thúc quá trình nhuộm mẫu vải được vớt ra, giặt nóng,
giặt lạnh và sấy khô. Đánh giá độ bền màu bằng cách so sánh cường độ lên màu của hai
mẫu nhuộm theo thang so màu ghi rồi đánh giá cấp của nó.
3.6. Xác định khả năng giặt sạch phần thuốc nhuộm hoạt tính chưa định hình
Sử dụng mẫu vải sợi vừa mới nhuộm bằng thuốc nhuộm hoạt tính, ép đến mức ép
100%, giặt mẫu trong nước lạnh 10 ph, sau đó giặt trong nước cất ở 70oC trong 10 ph và
cuối cùng giặt trong dung dịch chất hoạt động bề mặt không mang ion (hàm lượng 2 g/l) ở
nhiệt độ 95oC với thời gian 15 ph. Mođun trong các lần giặt trên là 100. Sau mỗi lần giặt
đều ép mẫu và các dung dịch ép ra được tập trung lại để đem so màu và xác định hàm
lượng thuốc nhuộm bị giặt ra khỏi vật liệu nhuộm. Nếu vải in hoa thì quan sát sự di
chuyển thuốc nhuộm lên các vân hay nền trắng. Dựa vào kết quả đánh giá, có thể chia
thuốc nhuộm hoạt tính thành bốn nhóm sau:
1- thuốc nhuộm có khả năng giặt sạch tốt và không bị dây màu sang vân trắng khi
giặt mạnh;

179
2- thuốc nhuộm có khả năng giặt sạch mức trung bình; có một lượng nhỏ thuốc
nhuộm dây màu sang vân trắng khi giặt mạnh;
3- thuốc nhuộm có khả năng giặt sạch kém: dây màu sang vân trắng trong mọi điều
kiện giặt bình thường;
4- thuốc nhuộm có khả năng giặt sạch rất kém: chúng dây màu rất mạnh sang vân
trắng nên không thể sử dụng cho in hoa được.
3.7. Xác định mức độ liên kết của thuốc nhuộm hoạt tính với xơ
Mẫu vải sợi tẩy trắng (nhưng không qua làm bóng) được nhuộm bằng thuốc nhuộm
hoạt tính. Sau khi nhuộm, vớt mẫu ra đem giặt ở điều kiện giống như phần 2.6, chương
IV. Nước lưu sau khi nhuộm và nước giặt được đem so màu để xác định lượng thuốc
nhuộm còn lại trong dung dịch (B) và lượng thuốc nhuộm phai ra khi giặt (C). Mức độ
liên kết của thuốc nhuộm tính theo công thức:
A−B−C
X= ⋅ 100%
A
A - lượng thuốc nhuộm sử dụng khi nhuộm.
3.8. Xác định độ bền của thuốc nhuộm lưu huỳnh trong quá trình bảo quản
Cân sáu mẫu thuốc nhuộm, mỗi mẫu 1 g trong chén cân rồi đặt chúng trong bình hút
ẩm. Dưới đáy bình chứa nước và một lượng nhỏ phenol. Để yên bình ở nhiệt độ trong
phòng (20 - 30oC) chọn thời điểm sao cho trong 10 ngày thí nghiệm, nhiệt độ không bị
chênh lệch quá (20 - 30oC ± 1o), có thể để cho không khí lưu thông trong bình.
Sau thời gian thí nghiệm xác định khả năng nhuộm màu của các mẫu và so sánh với
mẫu thuốc nhuộm không qua thí nghiệm. Độ bền của thuốc nhuộm lưu huỳnh được phân
ra ba nhóm:
1- thuốc nhuộm giữ được khả năng nhuộm màu;
2- thuốc nhuộm giảm một phần khả năng nhuộm màu (10%);
3- thuốc nhuộm giảm khả năng nhuộm màu rất mạnh (>20%).
3.9. Xác định sự phù hợp của thuốc nhuộm trực tiếp khi gia công ở nhiệt độ cao
Sử dụng phương pháp so sánh sự thay đổi màu và ánh màu giữa các mẫu nhuộm ở
điều kiện tiêu chuẩn và điều kiện nhiệt độ cao (120oC và 140oC). Ba mẫu vải bông được
nhuộm trong dung dịch giống nhau ở ba điều kiện nhiệt độ:
1- nhuộm theo quy trình công nghệ thông thường;
2- nhuộm ở nhiệt độ 120oC;
3- nhuộm ở nhiệt độ 140oC.
Mẫu thứ nhất được nhuộm theo quy trình công nghệ thông thường ở dung dịch một.
Mẫu thứ hai và mẫu thứ ba được nhuộm theo quy trình sau: Dung dịch hai được đun nóng
đến 120oC trong 20 ph, dung dịch ba được đun nóng đến 140oC trong 30 ph. Nhuộm mẫu
thứ hai và mẫu thứ ba trong dung dịch ở nhiệt độ tương ứng trên trong 60 ph. Sau khi
nhuộm, hạ từ từ nhiệt độ các dung dịch nhuộm trong 20 ph, rồi làm nguội các dung dịch
nhuộm bằng nước lạnh đến nhiệt độ thường trong 10 ph, sau đó giặt mẫu trong 15 ph.
Các mẫu nhuộm được so màu và đánh giá theo thang so màu ghi và đánh giá theo
cấp qui định. Những thuốc nhuộm đạt được cấp 4 trở lên được coi là phù hợp với nhiệt độ
cao và thường có kí hiệu dấu cộng (+). Còn thuốc nhuộm đạt dưới cấp 4 coi là không phù
180
hợp và có dấu trừ (−). Nhưng nhìn chung thì dù ít hay nhiều thuốc nhuộm trực tiếp cũng bị
thay đổi ánh màu khi gia công ở nhiệt độ cao trên 100oC.
3.10. Xác định độ bền của dung dịch thuốc nhuộm hoàn nguyên sau khi khử
Để thí nghiệm cần pha 100 ml dung dịch kiềm khử đậm đặc:
20 g thuốc nhuộm
17 - 20 NaOH (pha thành dung dịch 32,5%)
10 - 60 g Na2S2O4 (tùy theo từng thuốc nhuộm
Thuốc nhuộm dạng bột đem trộn với một ít nước, đánh nhuyễn thành dạng nhão.
Tiếp đó thêm nước, dung dịch xút và nâng nhiệt độ của dung dịch đến nhiệt độ khử (50 -
60oC), khuấy đảo đều và giữ cho nhiệt độ không đổi. Thêm vào dung dịch lượng Na2S2O4
cần thiết.Trộn đều và giữ hỗn hợp yên trong 15 - 20 phút để thực hiện quá trình khử. Dung
dịch lâycô bazơ được đổ vào bình cổ cao nhỏ (11 cm). Đặt bình vào thiết bị ổn nhiệt để
giữ cho nhiệt độ ổn định.
Để xác định độ ổn định của dung dịch lâycô bazơ trong quá trình bảo quản cần tiến
hành như sau: dùng pipet lấy 0,5 ml dung dịch từ bình trên và chuyển vào bình định mức
(100 ml) đã có chứa sẵn dung dịch gồm: 5 ml dung dịch 3% chất hoạt động bề mặt không
mang ion và 94,5 ml dung dịch kiềm khử (gồm 6 g Na2S2O4 và 15 ml dung dịch NaOH
32,5% trong 1 lít dung dịch. Các mẫu thí nghiệm được chuẩn bị theo các khoảng thời gian
10 ph; 20 ph; 30 ph; 40 ph; 60 ph; 90 ph; 120 ph; 180 ph; 300 ph sau khi pha dung dịch
lâycô bazơ đậm đặc. Mẫu chuẩn được coi là mẫu sau khi pha dung dịch. Tất cả các mẫu
được đem so màu để xác định nồng độ của hợp chất lâycô bazơ. Thời gian (tính theo phút)
mà nồng độ hợp chất lâycô bazợ tương ứng như mẫu chuẩn sẽ xác định tính chất bền ổn
định của dung dịch lâycô bazơ.
Ngoài ra còn có thể xác định độ bền của dung dịch thuốc nhuộm bằng cách nhuộm
mẫu sau các thời gian và đánh giá sự thay đổi cường độ màu cũng như ánh màu của mẫu
nhuộm. Từ phía trên lớp dung dịch lấy ra 0,5 ml cho vào cốc nhỏ (50 ml) có chứa sẵn 40
ml dung dịch gồm: 2 - 4 g/l Na2S2O4; 6 - 8 ml/l dung dịch NaOH 32,5%; 5 - 30 g/l NaCl.
Lấy 1 g vải phin trắng đã thấm ướt bằng dung dịch gồm 1,5 ml/l dung dịch NaOH
32,5%; 1 g/l Na2S2O4 và nhuộm trong 45 - 60 ph ở nhiệt độ tối ưu cho mỗi thuốc nhuộm.
Các mẫu nhuộm thí nghiệm sau các khoảng thời gian khác nhau được đánh giá theo cấp
qui định và độ bền của dung dịch lâycô bazơ được coi là khoảng thời gian khi ánh màu và
cường độ màu nhuộm chưa bị thay đổi so với mẫu nhuộm ngay sau khi khử.
3.11. Xác định ảnh hưởng của các chất oxy hoá đến màu nhuộm của thuốc
nhuộm hoàn nguyên
Nhuộm tám mẫu vải phin trắng bằng thuốc nhuộm hoàn nguyên theo phương pháp
kiểm khử. Sau nhuộm, các mẫu vải được nhúng vào nước lạnh trong 30 s rồi tiến hành thí
nghiệm quá trình oxy hoá trong các dung dịch sau:
1- Để ngoài không khí;
2- Cho qua dòng nước lạnh;
3- Ngâm trong dung dịch gồm 1 g/l K2Cr2O7; 3 ml/l dung dịch CH3COOH 30%;
4- Dung dịch gồm: 3 ml/l H2O và 3 ml/l dung dịch CH3COOH 30%;
5- Dung dịch gồm: 3 ml/l H2O2 và 3 ml/l NH4OH 25%;

181
6- Dung dịch 3 ml/l H2O2;
7- Dung dịch gồm: 2 g/l NaNO2 và 5 ml/l H2SO4;
8- Dung dịch chứa natri perborat 3 g/l.
Quá trình oxy hoá tiến hành ở nhiệt độ 50oC trong 10 ph, mođun là 40. Sau đó nấu
xà phòng (dung dịch chứa 5 g/l xà phòng), giặt nóng, giặt lạnh và sấy khô mẫu vải.
Để so sánh ánh màu, coi mẫu thứ hai là mẫu chuẩn. Những mẫu nào có ánh màu
giống mẫu chuẩn thì chất oxy hoá là phù hợp, được đánh dấu cộng (+); mẫu nào có ánh
màu kém đi thì chất oxy hoá không phù hợp và đánh dấu trừ (−).
3.12. Xác định ảnh hưởng của các chế phẩm hoàn tất đến màu nhuộm của thuốc
nhuộm hoàn nguyên
Lấy các mẫu vải đã được nhuộm trong điều kiện chuẩn (mỗi mẫu 10 g) cắt một phần
mẫu để làm đối chứng, còn lại tiến hành thử với các chế phẩm hoàn tất như: chống nhàu,
chống co, chống thấm nước, làm mềm v.v. Các chế phẩm hoàn tất và các chất trợ khác
được pha chế thành dung dịch theo từng chỉ dẫn cụ thể. Mẫu vải màu để khô ngấm dung
dịch trong 1 ph, ở nhiệt độ 20 - 25oC; sau đó vắt ép đến hàm ẩm 100% rồi sấy sơ bộ ở
nhiệt độ 60 - 80oC. Sau đó vải được gia nhiệt trong 5 ph ở nhiệt độ quy định cho mỗi loại
chế phẩm. Trừ mẫu làm mềm sẽ không giặt, còn các mẫu khác phải tiến hành giặt bằng
dung dịch xà phòng cacbonat (1 - 2 g/l Na2CO3 và 1 - 2 g/l xà phòng) trong 10 ph ở nhiệt
độ 40 ÷ 60oC, mođun là 40. Cuối cùng mẫu được giặt nóng, giặt lạnh và phơi khô. Các
mẫu được so màu với mẫu đối chứng, sự thay đổi ánh màu và cường độ màu đánh giá theo
cấp so màu trong thang so màu ghi. Sự thay đổi ánh màu sẽ đánh giá và ký hiệu bằng các
chữ cái tương ứng màu chuyển ánh. Sự thay đổi độ bền màu với ánh sáng thể hiện bằng
các dấu sau:
++: tăng độ bền màu lên một cấp;
+ : tăng độ bền màu lên 0,5 cấp;
= : độ bền màu không thay đổi;
− : độ bền màu giảm đi.

4. ĐÁNH GIÁ ĐỘ BỀN MÀU CỦA VẬT LIỆU NHUỘM


Việc xác định độ bền màu của vật liệu nhuộm là rất cần thiết để đánh giá toàn bộ
tính chất của bất kỳ thuốc nhuộm nào. Để thống nhất giữa việc kiểm tra và đánh giá các
kết quả thu được, Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Organisation - ISO)
đã cho thành lập ủy ban kiểm tra độ bền màu của thuốc nhuộm vào năm 1947. Tiêu chuẩn
quốc tế đã được chấp thuận, công bố và coi như tiêu chuẩn Anh (British Standard - BS).
Tất cả các tiêu chuẩn đánh giá ngày nay đều có trong BS. Độ bền màu với mỗi tác nhân
được đánh giá bằng sự thay đổi màu ban đầu (phai màu) cũng như mức độ dây màu sang
vải trắng cùng gia công. Các chỉ tiêu đánh giá theo các cấp qui định trong hai bảng màu
tiêu chuẩn. Bảng chuẩn màu xanh gồm tám mẫu vải len được nhuộm bằng các loại thuốc
nhuộm màu xanh chuyên dụng và chúng có độ bền ánh sáng khác nhau từ cấp 1 đến cấp 8.
Bảng chuẩn này dùng để đánh giá độ bền màu với ánh sáng và thời tiết. Bảng chuẩn màu
ghi gồm có hai bảng, trong đó thang 1 để xác định sự thay đổi màu (phai màu) gồm có
năm cặp mẫu vải màu ghi với sự tương phản khác nhau, cấp 1 là cấp có sự tương phản lớn
nhất, cấp 5 có sự tương phản bằng không. Thang 2 xác định khả năng dây màu sang vải
trắng, nó gồm năm cặp mẫu là các vải màu với các mức độ khác nhau: từ màu trắng đến

182
ghi và vải màu trắng, cấp 1 có sự tương phản lớn nhất và cấp 5 sự tương phản bằng không
tức là không bị dây màu. Bảng chuẩn màu ghi dùng để đánh giá chỉ tiêu bền màu với các
tác nhân cơ lý và hoá lý. Để đánh giá chính xác hơn các chỉ tiêu bền màu có thể sử dụng
các cấp màu trung gian nh 5 - 4 (hơn 4 kém 5) 4 - 3; 3 - 2; 2 - 1. Khi đó sẽ được 9 cấp để
phân loại. Ngoài các cấp qui định trên còn sử dụng các chữ thể hiện sự biến đổi ánh màu
xanh hơn (B), đỏ hơn (R), vàng hơn (Y) tươi hơn (B), xỉn hơn (D).
4.1. Thứ tự xác định độ bền màu
Mẫu đơn giản. Cắt các mảnh vải màu với kích thước 10 × 4 cm nếu là sợi màu thì
phải cuộn sợi vào tấm nhựa mỏng trong suốt có kích thước 10 × 4 cm hoặc đan lại thành
tấm 10 × 4 cm. Nếu là xơ cũng phải chải thành màng xơ có kích thước 10 × 4 cm.
Mẫu phức tạp. Cắt mẫu vải màu kích thước 10 × 4 cm, kẹp bên phía mặt phải của
mẫu thử một miếng vải trắng cùng loại (cùng kích thước, còn mặt kia kẹp miếng vải trắng
khác loại có kích thước bằng nửa mẫu màu. Mảnh vải trắng khác loại sử dụng vật liệu
theo qui ước sau: nếu vải thử là bông, lanh, lụa tơ tằm, axetat thì miếng vải trắng là vixcô,
nếu vải thử là len, vixcô thì vải kèm là bông. Nếu vải thử là PA, Pe, Pan, Pop thì vải kèm
là bông (vixcô) hoặc len.
Mẫu vải pha. Khi vải màu thử gồm hai thành phần thì mảnh vải trắng kèm thứ nhất
sẽ lấy cùng chất liệu với thành phần trội trong vải pha, miếng thứ hai sẽ là thành phần còn
lại.
Mẫu vải in. Cả hai mảnh vải trắng kèm chỉ lấy bằng một nửa kích thước vải màu và
khâu cả về phía mặt phải của mẫu thử.
Yêu cầu của vải kèm. Vải trắng dùng để kiểm tra độ dây màu phải đảm bảo các điều
kiện sau:
- Nếu là vải bông thì phải dệt theo kiểu dệt vân điểm; khối lượng trung bình 100
2
g/m , không có hồ, không còn lại các hoá chất sau tiền xử lý.
- Các loại vải khác dệt theo kiểu dệt vân chéo hoặc vân điểm, vixcô có khối lượng
135 - 140 g/m2, len: 185 - 190 g/m2. Vải đã được làm sạch, không có hồ và các hoá chất
khác.
Tất cả các mẫu vải phải dùng chỉ trắng khâu xung quanh chúng lại với nhau.
4.2. Đánh giá độ bền màu
Sau khi thí nghiệm với các tác nhân hoá lý cần phải giặt, sấy mẫu và để ít nhất là
một giờ mới được đem so sánh. Vải màu trước và sau thí nghiệm được so sánh theo thang
thứ nhất của bảng chuẩn màu ghi; vải trắng trước và sau khi thí nghiệm cùng vải màu so
sánh theo thang thứ hai của bảng chuẩn màu ghi.
Các mẫu so sánh cần để gần trực tiếp với bảng màu chuẩn trên cùng một mặt phẳng
có nền màu ghi giống màu tương đương cấp 3 trong bảng chuẩn. Khi so sánh màu có thể
để vài lớp mẫu chồng lên nhau để quan sát. nguồn ánh sáng tiêu chuẩn như sau: ánh sáng
tự nhiên vào lúc 9 - 11 h hoặc 14 - 16 h, hướng về phía bắc với góc nghiêng 45o; nguồn
sáng nhân tạo phải đảm bảo độ chiếu sáng 250 lux.
Khi đánh giá kết quả bền màu của các mẫu phức hợp thì cách viết sẽ theo thứ tự: cấp
phai màu/dây màu sang vải trắng cùng loại/dây màu sang vải trắng khác loại. Thí dụ:
3/2/3-4 có nghĩa phai màu đạt cấp 3, dây màu sang vải cùng loại đạt cấp 2 và dây màu
sang vải khác loại đạt cấp trung gian hơn 3 kém 4.

183
Để xác định đầy đủ đặc tính bền màu của thuốc nhuộm trên vật liệu cần tiến hành
nhuộm thí nghiệm với ba loại tỷ lệ thuốc nhuộm: một tỷ lệ theo đúng cường độ chuẩn
trong chỉ dẫn và hai tỷ lệ khác có cường độ màu tùy theo tính chất thuốc nhuộm và thực tế
sử dụng.
4.3. Kiểm tra độ bền màu với giặt
Mẫu kiểm tra được chuẩn bị như ở phần trên, sau đó tiến hành giặt mẫu trong dung
dịch gồm:
xà phòng 4 - 5 g/l
Na2CO3 2 - 3 g/l
M = 50
Các mẫu giặt có thể tiến hành theo các quy trình công nghệ sau:
- giặt ấm ở nhiệt độ 35 - 40oC, trong thời gian 30 ph.
- giặt nóng ở nhiệt độ 50 - 60oC trong thời gian 45 ph.
- giặt sôi ở nhiệt độ 93 - 100oC trong thời gian 30 ph.
Sau khi giặt lấy mẫu ra, giũ sạch và vắt; gỡ chỉ khâu ba mép, còn để lại một mép
ngang, mở chúng ra và sấy khô ngoài không khí hoặc sấy ở nhiệt độ không lớn hơn 60oC.
4.4. Kiểm tra độ bền màu với dung dịch xà phòng ở nhiệt độ 40oC
Dung dịch xà phòng 5 g/l, mẫu thử được xử lý trong đung dịch với M = 50 ở 40oC
trong 30 phút, khuấy đảo và cứ hai phút lại ép mẫu vào thành cốc. Sau đó lấy mẫu ra vắt,
giặt nước ấm (40 - 50oC), rồi giặt lạnh chảy tràn. Cuối cùng vắt, tháo ba mép khâu và sấy
vài trong không khí, chú ý không để cho ba mảnh vải bị dính vào nhau trừ chỗ có đường
khâu. Đánh giá độ phai màu và dây màu theo bảng chuẩn màu ghi.
Kiểm tra độ bền màu với dung dịch xà phòng - cacbonat ở nhiệt độ sôi
Mẫu thử trong dung dịch gồm: 5 g/l xà phòng và Na2CO3, 3 g/l ở 95 ± 2oC trong thời
gian 30 phút, sau đó đổ dung dịch ra cốc, làm nguội đến 40oC, lấy mẫu ra vắt nhẹ bằng
tay, rồi lại ngâm chìm trong dung dịch rồi lại với ra vắt. Lặp lại quá trình này 10 lần liên
tục. Kết thúc đem giặt mẫu bằng nước ấm (40oC), rồi giặt lạnh và vắt, gỡ ba mép khâu,
sấy khô, đánh giá kết quả.
4.5. Kiểm tra độ bền màu với mồ hôi
Dung dịch thử gồm: 5 g/l NaCl; dung dịch NH4OH 25% 6 ml/l; cho mẫu thử vào
dung dịch ở nhiệt độ 37 ± 2oC và giữ ở nhiệt độ đó 30 ph. Sau đó lấy mẫu ra, vắt nhẹ, đổ
dung dịch vào cốc sứ, nhúng mẫu vào đó rồi lại lấy ra vắt nhẹ, lặp đi lặp lại như vậy 10
lần. Cho thêm vào dung dịch 7 ml/l axit axetic băng (pH = 5,5) rồi lại cho mẫu vào xử lý ở
nhiệt độ 37 ± 2oC trong 30 phút và lặp lại thí nghiệm như trên 10 lần. Cuối cùng lấy mẫu
ra đặt giữa hai tấm kính ép và để yên trong 4 giờ, rồi gỡ ba mép khâu mẫu không giặt,
phơi khô hoặc sấy nhiệt độ thấp hơn 60oC. Đánh giá độ phai màu và dây màu theo bảng
chuẩn màu ghi.
4.6. Kiểm tra độ bền màu với nước biển
Dung dịch NaCl 80 g/1. Nhúng ướt mẫu hỗn hợp trong dung dịch trên rồi không vắt
để vào giữa hai tấm kính có kích thước bằng hoặc lớn hơn mẫu (11,5 × 6 cm). Dùng lực
4,5 kG ép mẫu ở 37 ± 2oC trong 4 h. Sau đó gỡ mẫu ra chỉ để lại một đường khâu và phơi

184
khô hoặc sấy ở nhiệt độ thấp hơn 60oC. Đánh giá độ phai màu và dây màu theo bảng
chuẩn màu ghi.
4.7. Kiểm tra độ bền màu với clo
Mẫu thử là mẫu đơn giản, được thấm ướt bằng nước cất sau đó vắt nhẹ và cho vào
dung dịch na tri hyproclorit với nồng độ 1 - 2 g/l clo hoạt động. Giữ yên mẫu ở nhiệt độ
môi trường trong thời gian một giờ.
Sau đó lấy mẫu ra giặt bằng nước cất rồi xử lý trong dung dịch Na2SO3 3 - 5 g/l ở
nhiệt độ môi trường trong 10 ph. Cuối cùng giặt mẫu và phơi khô.
Đánh giá sự phai màu của mẫu thử theo bảng chuẩn màu ghi.
Độ bền màu với clo có thể được đánh giá khi dùng nước đã khử trùng bằng clo.
Dung dịch thử này chỉ chứa 20 mg/l clo hoạt động. Mẫu thử được nhúng vào dung dịch
trong 4 giờ ở 20 ± 2oC. Sau đó lấy mẫu ra vắt lượng dung dịch cho đến khi còn lại ít nhất
rồi phơi khô mẫu và đánh giá kết quả.
4.8. Kiểm tra độ bền màu với là nóng
Cắt bốn mẫu vải màu với kích thước 10 × 4 cm, giữ lại một mảnh vải để đối chứng,
còn ba mảnh vải đem thí nghiệm. Nếu là sợi thì đan thành mảnh kích thước 10 × 4 cm
hoặc cuộn lên tấm bìa catông 14 × 4 cm. Các mảnh vải màu xếp lên mảnh vải phin trắng
sao cho mặt phải vải màu sẽ tiếp xúc với bàn là. Nếu là ướt thì mảnh vải màu và vải trắng
phải nhúng ướt rồi vắt đến hàm ẩm 100%. Đặt chồng lên nhau theo lần lượt: mảnh vải
trắng ướt lên trên mảnh vải màu ướt ở giữa mảnh vải trắng khô ở dưới cùng. Nếu tiến
hành là hơi thì xếp mảnh vải trắng thấm ướt (100%) lên mảnh vải màu khô rồi đến mảnh
vải trắng khô. Tất cả các mẫu đều là trong 15 s, nếu vật liệu thử là bông, lanh thì nhiệt độ
bàn là l90 - 210oC; nếu vải len, lụa tơ tằm vixcô, polyeste, polycorylonitrin nhiệt độ là 140
- 160oC; nếu vải polyamit, axetat, pop thì nhiệt độ là 115 - 120oC. Đánh giá kết quả theo
sự thay đổi màu ngay sau khi thí nghiệm là sau 4 h bảo quản trong điều kiện chuẩn (nhiệt
độ 20 ± 2oC, hàm ẩm 65%), phân cấp bền màu theo bảng chuẩn màu ghi và thứ tự viết:
cấp màu sau khi là/cấp màu sau 4 h; nếu là ướt và là hơi thì thêm cấp dây màu sang vải
trắng thí dụ: 3/4/4.
4.9. Kiểm tra độ bền màu với cọ xát
Nguyên tắc chung là cho vải màu chuyển động cọ xát với vải trắng dưới tác dụng
của lực 1 kG (lực tác dụng lên đầu hình trụ đè lên vải là 1 kg). Mẫu vải màu thường được
cắt với kích thước 18 × 8 cm trải trên mặt cọ xát. Vải trắng thử kèm là vải phin đã tẩy
trắng không có hồ với kích thước 5 × 5 cm (hoặc hình tròn có đường kính 6,5 cm). Vải
trắng được bọc (hoặc kẹp) vào đầu hình trụ, vải màu trải trên mặt phẳng. Khi cọ xát cần
tiến hành theo cả chiều sợi dọc và sợi ngang, mỗi chiều cần tiến hành cọ xát 10 lần trong
10 s.
Nếu thử độ bền với ma sát ướt thì phải nhúng ướt vải màu và vải trắng trong nước
cất rồi vắt đến hàm ẩm 100%. Mẫu ướt sau khi thí nghiệm cần phải phơi khô. Đánh giá độ
bền màu bằng sự thay đổi màu ban đầu (phai màu) và dây màu sang vải trắng theo bảng
chuẩn màu ghi.
4.10. Kiểm tra độ bền màu với H2O2
Mẫu thử được chuẩn bị theo mẫu phức hợp, rồi cuộn lại theo chiều ngang 4 cm, cho
mẫu vào ống nghiệm (sao cho đảm bảo chứa được lượng dung dịch theo M = 80) rồi đổ
185
dung dịch tẩy vào để tiến hành thí nghiệm. Điều kiện và thành phần dung dịch tẩy cho các
loại vật liệu khác nhau như trong bảng 4.1.
Bảng 4.1

Loại vải sợi Lụa tơ tằm Vixcô Bông và lanh Len và axetat
Nhiệt độ, oC 70 ± 2 82 ± 2 92 ± 2 50 ± 2
H2O2 (30%), ml/l 20 6,6 6,6 20
Na2SiO3 1,32, ml/l 5 4 5 −
Na2CO3, g/l − 2,5 − −
NaOH, g/l − − 2 −
Chất trơ, g/l − 1 1 −
Na4P2O7.10H2O, g/l − − − 5
MgCl2, g/l 0,1 0,1 0,1 −
pH 10,0 10,5 11,5 9,3
Thời gian 2h 1h 1h 2h

Sau thí nghiệm, lấy mẫu ra , giặt 10 ph trong nước sạch rồi gỡ vải đem sấy ở nhiệt
độ thấp hơn 60oC hoặc phơi khô.
4.11. Kiểm tra độ bền màu với ánh sáng
Dựa vào bảng chuẩn màu xanh gồm tám mẫu len được nhuộm bằng các loại thuốc
nhuộm có độ bền ánh sáng khác nhau do Viện nghiên cứu tiêu chuẩn Anh đã xác định: BS
1006 (1978)
Cấp 1: thuốc nhuộm acid blue 104
Cấp 2: thuốc nhuộm acid blue 109
Cấp 8: thuốc nhuộm acid blue 83
Cấp 4: thuốc nhuộm acid blue 121
Cấp 5: thuốc nhuộm acid blue 47
Cấp 6: thuốc nhuộm acid blue 23
Cấp 7: thuốc nhuộm solvat blue 5
Cấp 8: thuốc nhuộm solvat blue 8
Các mẫu chuẩn có kích thước 6 × 1 cm và mẫu thử cũng phải cắt với kích thước như
mẫu chuẩn. Các mẫu thử và tập hợp mẫu chuẩn được xếp như hình. Các mẫu thử được cố
định lên bảng sao cho chúng luôn được kéo căng. Bảng màu được đưa vào hòm gỗ trên có
đậy tấm kính trong suốt có bề dày ít nhất 3 mm. Khoảng cách từ kính tới mẫu là 5 - 7,5
cm. Hòm mẫu được đặt ra ngoài ánh sáng mặt trời hướng về phía nam với một góc
nghiêng 45o. Các mẫu phải được ánh sáng chiếu vào hoàn toàn, không có vật nào che
khuất, không bị bóng che lấp, tránh những nơi có khói hoặc khí độc. Để tiến hành thí
nghiệm, đầu tiên che 1/5 các mẫu với bằng bìa catông, trên bề mặt có che thêm một tấm
nhôm và phơi mẫu ra ngoài sáng. Phơi sáng các mẫu trong một số ngày cho đến khi nhận
thấy có sự phai màu đầu tiên ở mẫu chuẩn cấp 3 (bằng cách phải so sánh các phần lộ sáng
và phần che khuất của mẫu này). Sự phai màu chút ít ban đầu thể hiện cả ở độ sâu màu và
ánh màu. Sau đó che tiếp 1/5 các mẫu và lộ sáng cho đến khi nhận thấy sự phai màu ở
mẫu chuẩn cấp 4 và tiếp tục thí nghiệm cho đến khi phai màu ở mẫu chuẩn cấp 6. Tiếp tục
phơi nắng các phần bị che và 1/5 phần lộ sáng cho đến khi nhận thấy sự phai màu ở mẫu

186
chuẩn cấp 7 đạt được sự tương phản với màu ban đầu giống như ở cấp 4 trong bảng chuẩn
màu ghi. Khi đó kết thúc thí nghiệm và đánh giá sự phai màu của mẫu thử sau 24 h so với
các mẫu chuẩn cùng phơi nắng.
A A’
C
x E

Các mẫu thử

Các mẫu chuẩn

Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Cấp 4
Cấp 5
Cấp 6
Cấp 7
Cấp 8

F
D
B
1 2 3

Mẫu thử có sự phai màu trùng với mẫu chuẩn nào thì chúng đạt cấp màu đó; nếu
không hoàn toàn trùng lặp thì có thể lấy cấp trung gian, thí dụ, 3 - 4 có nghĩa mẫu thử có
độ bền màu ánh sáng hơn cấp 3, kém cấp 4. Trong trường hợp khi mẫu chuẩn cấp 3 bắt
đầu phai màu thì mẫu thử cũng đã phai màu nhưng sau đó chúng không bị phai màu nữa
cho đến cấp 6 thì phải đánh giá độ bền màu của mẫu với cấp bổ sung, thí dụ 6(3) có nghĩa
rằng độ bền màu giảm từ cấp 3 sau đó không bị thay đổi và lại thay đổi từ cấp 6. Việc
đánh giá độ bền màu ánh sáng có tính đến cả sự thay đổi cường độ màu, ánh màu và độ
sáng. Nếu màu bị thay đổi ánh (xanh hơn, vàng hơn, đỏ hơn) thì phải đặt ký hiệu bên cạnh
cấp màu.
4.12. Kiểm tra độ bền màu với ánh sáng và thời tiết
Các mẫu thử được cắt với kích thước 1,1 × 1,5 cm rồi lại chia nhỏ thành năm phần
bằng nhau 2,2 × 1,5 cm; mẫu sợi thì phải cuộn lên tấm bìa catông trắng có kích thước 2,2
× 1,5 cm. Trong năm phần mẫu sẽ giữ lại một phần trong bóng tối, còn lại bốn phần được
dán lên mặt vải hoặc giấy cứng, các mẫu được cố định lên bảng ở trạng thái kéo căng. Các
mẫu chuẩn màu xanh được đặt trong hòm gỗ có kính che giống như thí nghiệm trên. Bảng
mẫu và hòm gỗ mẫu chuẩn được đặt ra ngoài trời, hướng về phía nam với góc nghiêng
45o. Các mẫu thử và mẫu chuẩn đã che được phơi sáng qua các ngày cho đến khi có sự
thay đổi màu ở mẫu chuẩn cấp 3. Khi đó lấy một băng mẫu thử cất đi, che tiếp 1/5 mẫu
chuẩn và thí nghiệm tương tự cho đến khi đạt cấp 4, cấp 6. Khi này chỉ còn lại một mẫu

187
thử và 1/5 mẫu chuẩn lại phơi sáng tiếp tục cho đến khi sự phai màu ở mẫu chuẩn cấp 7
đạt sự tương phản tương đương cấp 4 trong bảng chuẩn màu ghi (so với màu ban đầu) thì
thí nghiệm kết thúc. Ngay khi có sự phai màu ở cấp 3 mà mẫu thử đã phai màu đạt tới
mức bằng hoặc hơn sự tương phản ở mẫu chuẩn thì không cần thí nghiệm tiếp.
Sau thí nghiệm, đánh giá kết quả giống như phần trên. Thông thường người ta tiến
hành kiểm tra đồng thời độ bền màu với ánh sáng; với ánh sáng và thời tiết với cùng một
bộ mẫu chuẩn. Có những thiết bị chuyên dụng để kiểm tra độ bền màu với ánh sáng, với
ánh sáng và thời tiết cho kết quả nhanh và chính xác.

5. PHÂN TÍCH ĐỊNH TÍNH THUỐC NHUỘM


Đối với người sử dụng thuốc nhuộm, việc nhận biết một loại thuốc nhuộm cụ thể
nào đó là rất cần thiết. Xác định thuốc nhuộm có thể sau khi chúng đã nhuộm màu cho
một loại vật liệu nào đó hoặc vẫn ở dạng thuốc nhuộm thành phẩm.
5.1. Xác định thuốc nhuộm trên vật liệu dệt
Đối với các loại vải sợi màu, trước tiên có thể nhận biết sơ bộ lớp thuốc nhuộm đã
được sử dụng. Dựa vào nguồn gốc vật liệu vải sợi và phạm vi ứng dụng của thuốc nhuộm
cho phép những phán đoán ban đầu.
Bảng 4.2

Chất liệu vải sợi Thuốc nhuộm có thể sử dụng


Bông Trực tiếp, hoạt tính, hoàn nguyên, lưu huỳnh, azo không tan
Vixcô Trực tiếp, hoạt tính
Len Thuốc nhuộm axit, hoạt tính
Tơ tằm Thuốc nhuộm axlt, hoạt tính, trực tiếp, bazơ
Polyeste, axetat Pigment (nhuộm khối), phân tán
Polyamit Phân tán, axit, trực tiếp, hoạt tính, pigment (nhuộm khối)
PAN (acrylic) Pigment (nhuộm khối), phân tán, thuốc nhuộm cation

Sau khi đã nhận biết chất liệu vải sợi, phán đoán thuốc nhuộm, tiếp theo sẽ dựa vào
bản chất màu sắc, ánh màu, cường độ màu của mỗi thuốc nhuộm để định hướng phân tích.
Chẳng hạn, màu của thuốc nhuộm hoạt tính rất tươi, có đủ các gam màu, thuốc nhuộm lưu
huỳnh và thuốc nhuộm trực tiếp có màu xỉn và thuốc nhuộm lưu huỳnh không có màu đỏ,
màu tím thuần sắc, thuốc nhuộm azo không tan ít có màu đen và màu xanh lá cây; thuốc
nhuộm hoàn nguyên tan thường có các màu nhạt đến trung bình ít có màu sẫm; thuốc
nhuộm hoàn nguyên không tan có màu tươi bền thường nhuộm cho các mặt hàng cao cấp;
thuốc nhuộm trực tiếp và thuốc nhuộm lưu huỳnh rất ít dùng cho in hoa vải. Để xác định
chính xác loại thuốc nhuộm cần tiến hành theo các bước sau.
5.1.1. Chuẩn bị mẫu
Cho vải sợi màu vào nước cất đun sôi để loại bỏ những chất hồ và tạp chất cơ học
trong thời gian 2 - 3 ph. Nếu vải có các sợi dọc và sợi ngang nhuộm màu khác nhau thì
phải tách riêng chúng ra; mẫu hoa nhiều màu cũng phải cắt từng vân hoa riêng rẽ. Mỗi
mẫu vài thí nghiệm chỉ cần cắt kích thước bằng 1 cm2 hoặc hơn một chút, thí nghiệm tiến
hành trong ống nghiệm, mỗi lần thí nghiệm phải dùng mẫu vải mới. Sau đây là điều kiện
tiến hành một số phản ứng để xác định các lớp thuốc nhuộm.

188
5.1.2. Phán đoán các loại thuốc nhuộm
Gia công vải sợi màu trong dung dịch xà phòng 5 g/l và natri cacbonat 3 g/l cùng với
vải phin trắng. Vải trắng có kích thước 1 cm2, kích thước vải màu gấp hai lần (nếu vải
màu đậm) và gấp bốn lần (nếu vải màu nhạt). Các mẫu vải màu trắng được xếp và cuộn
tròn cho vào ống nghiệm. Đổ 3 - 5 ml dung dịch xà phòng + cacbonat vào ống nghiệm, rồi
đun sôi mẫu trong 2 - 3 ph. Cuối cùng giặt, gỡ mẫu và quan sát sự đổi màu. Nếu màu bị
phai ra và dây sang vải trắng thì thuốc nhuộm có thể là trực tiếp hoặc hoạt tính chưa giặt
sạch hết các phần thuốc nhuộm bám bên ngoài lõi xơ. Nếu ngược lại thuốc nhuộm không
phai, dây sang vải trắng thì chứng tỏ mẫu vải sợi được nhuộm bằng các loại thuốc nhuộm
hoàn nguyên, lưu huỳnh, azo không tan, phân tán và các thuốc nhuộm khác cho độ bền
màu cao trên vật liệu.
5.1.3. Xác định cụ thể loại thuốc nhuộm
a. Thuốc nhuộm trực tiếp
Màu của thuốc nhuộm này sẽ bị mất khi gia công mẫu vải sợi màu trong dung dịch
chứa 3 - 5 g clo hoạt động hoặc xử lý mẫu trong dung dịch kiềm hiđrosunfit cũng sẽ làm
mất màu thuốc nhuộm. Một số thuốc nhuộm trực tiếp bị tách ra khỏi vải sợi khi đun sôi
mẫu trong dung dịch NaOH 5%. Thời gian 2 ph. Thuốc nhuộm trực tiếp bị thay đổi màu
khi đun sôi mẫu vải sợi trong dung dịch axit và bị trích ra khi ngâm trong axit H2SO4
80%.
b. Thuốc nhuộm hoạt tính
Khi đã được liên kết tốt với xơ sợi thì lực liên kết của chúng là đồng hoá trị nên rất
bền vững. Thuốc nhuộm sẽ không bị mất màu trong các xử lý hoá học vải sợi màu với các
dung dịch sau:
- đun sôi sợi vải màu trong dung dịch chất hoạt động bề mặt không mang ion, thời
gian xử lý 15 ph;
- đun sôi trong hỗn hợp axit axetic băng với cồn etylic theo tỷ lệ thể tích 1 : 2 trong
thời gian 4 ph.
- đun sôi trong hỗn hợp đimetylformamit và nước với tỷ lệ thể tích 1 : 1, trong thời
gian 4 ph.
- đun sôi trong fomamit đậm đặc, trong thời gian 4 ph.
c. Thuốc nhuộm bazơ
Nếu mẫu vải sợi màu đã được cầm màu bằng tamin thì khi nhỏ một giọt sắt clorua
lên vải sẽ lập tức tạo thành vệt đen, tiếp theo nhỏ dung dịch HCl loãng lên vệt đen sẽ biến
mất. Thuốc nhuộm bazơ bị trích ly ra khỏi vải sợi bằng axit axetic, cồn etylic, axit formic
và dung dịch amoniac ở nhiệt độ sôi trong thời gian 2 ph.
d. Thuốc nhuộm lưu huỳnh
Thuốc nhuộm lưu huỳnh bị mất màu khi xử lý mẫu vải sợi màu trong dung dịch
chứa 3 - 5 g/l clo hoạt động. Thuốc nhuộm có phản ứng đặc trưng với chì axetat cho màu
đen. Mẫu vải sợi màu với kích thước 2 - 3 cm2 cho vào ống nghiệm đun sôi trong dung
dịch thiếc clorua và HCl, miệng ống nghiệm có đậy một tờ giấy lọc tẩm dung dịch chì
axetat. Khi thí nghiệm, cần tiến hành mẫu đối chứng vải trắng để loại trừ khả năng trong
các hoá chất dùng có tồn tại lưu huỳnh. Thuốc nhuộm lưu huỳnh không bị hoà tan khi
ngâm mẫu vải sợi màu vào paraphin lỏng.

189
e. Thuốc nhuộm hoàn nguyên
Thuốc nhuộm hoàn nguyên bị trích ly khỏi vải sợi màu bằng cloroform khi đun sôi,
hoặc bằng o-clophenol sôi trong vài giờ hoặc bằng đimetylformamit và 1% CH3COOH.
Lấy một vài sợi chỉ màu nhúng vào chén sứ có chứa paraphin nóng chảy; đun chén sứ
trong một phút, sau đó làm nguội và quan sát màu của paraphin. Nếu parafin có màu thì
vải sợi được nhuộm bằng thuốc nhuộm hoàn nguyên hoặc azo không tan. Những thuốc
nhuộm khác không bị chuyển màu vào parafin. Để phân biệt thuốc nhuộm hoàn nguyên đa
vòng với họ inđigoit có thể thí nghiệm kiểm chứng: đun mẫu vải sợi màu trong ống
nghiệm cho bốc hơi (thuốc nhuộm bị thăng hoa), hơi có màu tím đỏ là thuốc nhuộm họ
inđigoit. Hoặc xử lý mẫu vải màu trong dung dịch gồm: 1% NaOH và một lượng nhỏ
Na2S2O4 ở nhiệt độ 65oC thì thuốc nhuộm inđigoit chuyển từ vải vào dung dịch.
g. Thuốc nhuộm azo không tan
Thuốc nhuộm này bị trích ly ra khỏi vải sợi khi đun sôi trong dung dịch 15 - 25%
piriđin và cloroform; thuốc nhuộm bền với dung dịch clorua vôi. Khác với thuốc nhuộm
hoàn nguyên, thuốc nhuộm azo không tan sẽ bị mất màu từ từ khi đun sôi mẫu vải sợi màu
trong dung dịch chất khử đitionit và NaOH và không thể hồi màu khi oxy hoá trở lại.
Cũng với quá trình này thì thuốc nhuộm hoàn nguyên hồi màu trở lại ngay cả khi chỉ phơi
ngoài không khí.
h. Thuốc nhuộm axit
Thuốc nhuộm axit có thể bị mất màu hoặc thay đổi màu dưới tác dụng của các chất
khử. Một số thuốc nhuộm axit bị chuyển màu dưới tác dụng của axit clohiđric đậm đặc.
Để phân biệt các loại thuốc nhuộm axit cần tiến hành thí nghiệm đun sôi mẫu len màu
trong đimetylformamit với thời gian 2 ph (có cho len trắng kèm trong dung dịch). Nếu
thuốc nhuộm bị tách ra và lại bắt màu sang len trắng thì thuốc nhuộm axit thường. Các
thuốc nhuộm axit cầm màu và thuốc nhuộm axit chứa kim loại không xảy ra hiện tượng
trên. Kiểm chứng các loại này phải tiến hành đun sôi mẫu len trong dung dịch EDTA 4%
(dung môi glyxerol) ở 140oC trong thời gian 20 ph. Thuốc nhuộm axit chứa kim loại 1 : 1
sẽ đổi màu rất nhanh; thuốc nhuộm axit chứa kim loại 1 : 2 thay đổi màu từ từ sau 20 ph, có
khi cần nâng nhiệt độ đến 160oC; còn thuốc nhuộm axit cầm màu sẽ không bị thay đổi màu.
i. Thuốc nhuộm phân tán
Thuốc nhuộm phân tán thường bị trích ra một phần khi đun sôi mẫu vải màu (Pe,
PA, PAN, Axetat) trong cồn tuyệt đối hoặc paraphin lỏng đồng thời lại bắt ngay màu sang
vải trắng axetat cùng gia công.
k. Thuốc nhuộm cation
Xử lý mẫu vải sợi màu acrylic trong dung dịch axit focmic 85% và nước (tỷ lệ 50 :
50), nhiệt độ sôi, trong thời gian 1 - 2 ph cùng với vải sợi acrylic trắng. Thuốc nhuộm
cation sẽ bị tách ra khỏi vải sợi màu và lại nhuộm màu cho vải sợi acrylic trắng.
5.2. Phân tích thuốc nhuộm dạng bột
Trong trường hợp chưa biết rõ một loại thuốc nhuộm nào đó, cần phải xác định định
tính chúng để nắm vững các tính năng và phạm vi sử dụng. Việc thí nghiệm được tiến
hành theo một trình tự có hệ thống.
5.2.1. Xác định khả năng hoà tan của thuốc nhuộm
Lấy một lượng nhỏ thuốc nhuộm hoà tan trong nước cất, đun sôi trong 1 ph (nồng độ

190
tương đương 1 g/l). Sau đó quan sát: nếu thuốc nhuộm hoà tan hoàn toàn thì có thể phán
đoán là các loại thuốc nhuộm sau: trực tiếp, hoạt tính, bazơ, axit, cation, cubozol và
inđigozol. Nếu thuốc nhuộm không hoà tan thì là những thuốc nhuộm hoàn nguyên không
tan, thuốc nhuộm lưu huỳnh, thuốc nhuộm phân tán.
5.2.2. Xác định chính xác những thuốc nhuộm hoà tan trong nước
Sau khi đã xác định là thuốc nhuộm hoà tan được trong nước thì tiến hành nhuộm
các mẫu nhỏ từ các loại vật liệu khác nhau: dung dịch thuốc nhuộm pha với nồng độ 1 g/l
và sử dụng để nhuộm mẫu nhỏ trong các ống nghiệm, mẫu vải sợi bông và len lấy khoảng
2 g. Tiến hành nhuộm chúng trong các điều kiện khác nhau: trung tính, kiềm tính và axit.
Các đơn công nghệ cụ thể tham khảo trong [15]. Kết quả nhuộm màu các mẫu sẽ cho phép
xác định loại thuốc nhuộm. Tiếp theo cần tiến hành các phản ứng kiểm chứng:
- Phân biệt thuốc nhuộm hoàn nguyên tan bằng cách nhỏ vào dung dịch thuốc
nhuộm 5 ml H2SO4 10% và 0,5 ml NaNO2 10%, đun nóng dung dịch đến 60 - 70oC; thuốc
nhuộm sẽ bị kết tủa và đổi màu. Khác với thuốc nhuộm trực tiếp (cũng bị kết tủa ở phản
ứng trên) là khi cho vào kết tủa trên một lượng dung dịch kiềm khử (NaOH + Na2S2O4)
thì thuốc nhuộm hoàn nguyên tan lại tan ra trở về dạng dung dịch ban đầu; còn kết tủa của
thuốc nhuộm trực tiếp không thay đổi;
- Phản ứng kiểm chứng của thuốc nhuộm trực tiếp với thuốc nhuộm hoạt tính bằng
cách xử lý mẫu nhuộm trong dung dịch chất hoạt động bề mặt không mang ion và xút.
Thuốc nhuộm trực tiếp sẽ bị phai màu, còn thuốc nhuộm hoạt tính bền không phai. Hoặc
có thể dùng biện pháp trích ly trong dung dịch piriđin (15 - 25%); thuốc nhuộm trực tiếp
bị trích ra khỏi vải, thuốc nhuộm hoạt tính không bị trích ly;
- Phân biệt các loại thuốc nhuộm axit: sau khi mẫu len được nhuộm màu, chia mẫu
len làm hai phần: một phần sấy khô và một phần gia công cầm màu bằng dung dịch
K2Cr2O7 1% và H2SO4 2% (so với lượng vải len). Thí nghiệm ở nhiệt độ sôi trong thời
gian 30 ph. Sau đó giặt sạch, sấy khô và so sánh màu. Nếu màu không thay đổi thì thuốc
nhuộm là loại thường, nếu màu thay đổi và tăng độ bền thì là thuốc nhuộm axit cầm màu;
- Phân biệt thuốc nhuộm bazơ: đun nóng 1 ml dung dịch thuốc nhuộm với 1 ml dung
dịch NaOH 10N, thuốc nhuộm sẽ đổi màu hoặc mất màu. Có thể trích ly thuốc nhuộm ra
khỏi vải sợi bằng cồn tuyệt đối.
5.2.3. Xác định những thuốc nhuộm không hoà tan trong nước
Trước tiên khử thuốc nhuộm bằng cách pha dung dịch kiềm khử gồm: 20 ml dung
dịch NaOH 1N; 2 g Na2S2O4; 18 ml H2O. Lấy 8 ml dung dịch trên trộn với 0,1 g thuốc
nhuộm rồi đun nóng đến 60 - 70oC. Nếu thuốc nhuộm tan hoàn toàn thì là thuốc nhuộm
hoàn nguyên không tan hoặc thuốc nhuộm lưu huỳnh. Để khẳng định chính xác, phải tiến
hành nhuộm mẫu vải bông 10 ph ở nhiệt độ 60 - 70oC, giặt lạnh, oxy hoá. Nếu vải nhuộm
màu thì thuốc nhuộm trên là thuốc nhuộm hoàn nguyên hoặc thuốc nhuộm lưu huỳnh. Để
phân biệt thuốc nhuộm lưu huỳnh với thuốc nhuộm hoàn nguyên bằng phản ứng với chì
axetat (đã nêu ở phần trên). Nếu thuốc nhuộm không hoà tan trong dung dịch kiềm khử thì
sẽ là thuốc nhuộm phân tán. Thuốc nhuộm phân tán có đặc điểm là độ phân tán cao, có thể
kiểm chứng bằng cách búng một ít thuốc nhuộm lên giấy lọc ướt sẽ thấy thuốc nhuộm
loang rộng ra khắp giấy. Khẳng định thuốc nhuộm bằng cách nhuộm mẫu vải Pe hoặc vải
axetat theo phương pháp nhuộm thông thường.

191
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. P. F Gordon, Pgregory. Organic chemistry in colour. Moxkva, 1987.


2. K. Venkataraman. The analytical chemistry of synthetic dyes. Leningrad, 1979..
3. E. R. Trotman. Dyeing and chemical technology of textile fibres. Sixth edition, 1984.
4. Textile printing with caledon, durindone and soleđon dyes. Imperial chemical
industries limited, dyestuff division, 1961.
5. International Standard Organíation, Textiles - Tests for colour fastness. First eđition -
1978 - 12 - 15.
6. JIS. L0848, 1978 Testing methođ for colour fastness (Sapanese Industrial Standard).
Traslated and published by Japanese Standarods Association.
7. Sổ tay tra cứu thuốc nhuộm. Viện công nghiệp dệt sợi, Hà Nội, 1993.
8. VF. Androxov, I. N. Petrova. Sintetitrexkie kraxiteli v legkoi promslennoxti.
Legprombizđat, Maxkva, 1989 (tiếng Nga).
9. V F. Androxov, L:M. Golomb. Sintetitrexkie kraxiteli v tekctilnoi promslenoxti.
Legkaia induxtria, Moxkva, 1968 (tiếng Nga).
10. I. M. Kogan. Khimia kraxiteli. Goskhimizđat, Maxkva, 1956 (tiếng Nga).
11. B. A. Porai - Kosix. Azokraxiteli. Izđatelxtvo khimia, 1972 (tiếng Nga).
12. G.E. Kritrevxki. Aktivne kraxiteli. Legkaia induxtria, Maxkva, 1968 (tiếng Nga).
13. A. A. Khakharov, I. IA. Kalantarov. Aktivne kraxiteli i ikh primenenie v tekctilnoi
promslenoxti. Rostekhizđat 1961 (tiếng Nga).
14. A. G. Emelianov. Priame kraxiteli i ikh primeneniei v teketilnoi promlenoxti.
Rostekhizdat, 1963 (tiếng Nga).
15. B. N. Menicov. Laboratorni praktikum po primeneniei kraxitelay. Leykaia induxtria,
Maxkva, 1972 (tiếng Nga).
16. Kraxiteli dlya tekxtilnoi promislemoxti xpravotsnik. Maxkva, 1973 (tiếng Nga).
17. B. I. Xtepanov. Vedenie v khimiu i tekhnologiu organitsexkii kraxitelei. Maxkva, 1971
(tiếng Nga).
18. N. N. Voroftsov. Oxnov sinteza promejytotsnkh produktov i kraxitelei. Goxkhimizgat,
1955 (tiếng Nga).
19. Tài liệu kỹ thuật của hãng Sumitomo.
20. Nguyễn Quân. Tiếng nói của hình và sắc. NXB Văn hoá, Hà Nội, 1986.
21. Nguyễn Duy Lẫm. Màu sắc. Trường đại học Mỹ thuật công nghiệp, Hà Nội, 1994.
22. Dr. K. C. Lan. Datacolor International, 1995.
23. Colorimetry. 1990 Herbert NAF, Datacolor Ltd.
24. Integrated color line by Orintex Italia.
25. Gretagmacheth. Coloreye XTH Spectrophotometer. Technichưal publication, 1999.
26. X- Rite (U.S.A). A guide to Understanding Color Comunication, 1993, 2001.

192
MỤC LỤC

Lời nói đầu ...................................................................................................................... 3


Mở đầu.............................................................................................................................. 5
1. Sơ lược về thuốc nhuộm ............................................................................................... 5
2. Thuốc nhuộm thiên nhiên ............................................................................................. 5
2.1. Thuốc nhuộm thiên nhiên màu vàng ...................................................................... 6
2.2. Thuốc nhuộm thiên nhiên màu đỏ.......................................................................... 6
2.3. Thuốc nhuộm thiên nhiên màu đỏ tía..................................................................... 6
2.4. Thuốc nhuộm thiên nhiên màu xanh chàm............................................................. 7
2.5. Thuốc nhuộm thiên nhiên màu đen ........................................................................ 7
2.6. Sử dụng thuốc nhuộm thiên nhiên ở Việt Nam ...................................................... 7
3. Thuốc nhuộm tổng hợp ................................................................................................. 8
3.1. Các giai đoạn phát triển ......................................................................................... 8

Chương 1. LÝ THUYẾT VỀ SẮC MÀU


1. Lịch sử phát triển của các thuyết màu.......................................................................... 11
1.1. Thuyết mang màu ................................................................................................. 11
1.2. Thuyết màu quinoit............................................................................................... 12
1.3. Thuyết nguyên tử chưa bão hoà và thuyết tạo màu khi chuyển hợp
chất hữu cơ về dạng muối............................................................................................ 12
1.4. Thuyết dao động màu ........................................................................................... 13
1.5. Thuyết nhiễm sắc.................................................................................................. 13
2. Lý thuyết màu hiện đại ................................................................................................ 13
2.1. Bản chất màu sắc trong tự nhiên .......................................................................... 13
2.2. Tính chất của ánh sáng và sự hấp thụ ánh sáng của vật thể .................................. 15
2.3. Nguyên lý phối ghép màu..................................................................................... 22
3. Tính toán màu và công nghệ phối ghép màu ................................................................ 25
3.1. Các hệ thống phân định màu sắc .......................................................................... 25
3.2. Sự khác nhau giữa các màu. Ký hiệu và tính toán................................................ 27
3.3. Đo màu................................................................................................................. 31
3.4. Thực hành phối màu thuốc nhuộm bằng máy đo màu .......................................... 36

Chương 2. TỔNG HỢP THUỐC NHUỘM


1. Phân loại thuốc nhuộm theo cấu tạo hoá học ............................................................... 42
1.1. Thuốc nhuộm azo ................................................................................................. 42
1.2. Thuốc nhuộm antraquinon .................................................................................... 42

193
1.3. Thuốc nhuộm inđigoit .......................................................................................... 43
1.4. Thuốc nhuộm arylmetan ....................................................................................... 44
1.5. Thuốc nhuộm nitro ............................................................................................... 44
1.6. Thuốc nhuộm nitrozo............................................................................................ 44
1.7. Thuốc nhuộm polymetyn ...................................................................................... 44
1.8. Thuốc nhuộm lưu huỳnh....................................................................................... 44
1.9. Thuốc nhuộm arylamin......................................................................................... 45
1.10 Thuốc nhuộm azometyn....................................................................................... 45
1.11. Thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng ................................................................... 45
1.12. Thuốc nhuộm phtaloxianin ................................................................................. 46
2. Tổng hợp phẩm vật trung gian ..................................................................................... 46
2.1. Phản ứng thế vào nhân thơm ................................................................................ 46
2.2. Phản ứng biến đổi nhóm thế................................................................................. 51
2.3. Phản ứng biến đổi vòng thơm .............................................................................. 52
2.4. Một số qui trình công nghệ tổng hợp phẩm vật trung gian ................................... 53
3. Quá trình tổng hợp thuốc nhuộm ................................................................................. 73
3.1. Quá trình tổng hợp thuốc nhuộm azo ................................................................... 74
3.2. Tổng hợp thuốc nhuộm antraquinon..................................................................... 81
3.3. Tổng hợp thuốc nhuộm polymetyn....................................................................... 84
3.4. Tổng hợp thuốc nhuộm arylmetan........................................................................ 85
3.5. Tổng hợp thuốc nhuộm inđigoit ........................................................................... 86
3.6. Tổng hợp thuốc nhuộm phtaloxianin.................................................................... 88
3.7. Tổng hợp thuốc nhuộm lưu huỳnh ....................................................................... 89
3.8. Hoàn tất sản phẩm thuốc nhuộm .......................................................................... 90

Chương 3. THUỐC NHUỘM THEO PHÂN LỚP KỸ THUẬT


1. Phân loại thuốc nhuộm theo phạm vi sử dụng.............................................................. 93
2. Tên gọi của thuốc nhuộm............................................................................................. 93
3. Cơ chế liên kết thuốc nhuộm với vật liệu..................................................................... 96
3.1. Liên kết ion .......................................................................................................... 97
3.2. Liên kết đồng hoá trị ............................................................................................ 97
3.3. Liên kết hyđro ...................................................................................................... 97
3.4. Liên kết Van der Waals........................................................................................ 98
3.5. Lực tương tác kỵ nước ......................................................................................... 98
4. Các loại thuốc nhuộm cụ thể ........................................................................................ 98
4.1. Thuốc nhuộm trực tiếp ......................................................................................... 98
4.2. Thuốc nhuộm axit................................................................................................ 102
4.3. Thuốc nhuộm hoạt tính....................................................................................... 108
4.4. Thuốc nhuộm bazơ - cation ................................................................................. 117

194
4.5. Thuốc nhuộm hoàn nguyên.................................................................................. 120
4.6. Thuốc nhuộm lưu huỳnh...................................................................................... 127
4.7. Thuốc nhuộm phân tán ........................................................................................ 128
4.8. Thuốc nhuộm azo không tan................................................................................ 134
4.9. Thuốc nhuộm pigment ......................................................................................... 140
4.10. Chất tăng trắng quang học ................................................................................. 145
4.11. Thuốc nhuộm dùng cho các ngành khác ............................................................ 149

Chương 4. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THUỐC NHUỘM


1. Các tính chất chung của thuốc nhuộm......................................................................... 164
1.1. Nồng độ thuốc nhuộm ......................................................................................... 164
1.2. Các dạng thuốc nhuộm thương phẩm .................................................................. 164
1.3. Độ ổn định của thuốc nhuộm trong thời gian bảo quản ....................................... 165
1.4. Độ hoà tan của thuốc nhuộm ............................................................................... 165
1.5. Độ phân tán của thuốc nhuộm ............................................................................. 165
1.6. Khả năng tự nhuộm ............................................................................................. 165
1.7. Khả năng đều màu của thuốc nhuộm ................................................................... 165
1.8. Độ ổn định của dung dịch thuốc nhuộm .............................................................. 166
1.9. Độ bền của thuốc nhuộm trong dung dịch ........................................................... 166
1.10. Độ bền của thuốc nhuộm trong hồ in ................................................................. 166
1.11. Độ nhạy của thuốc nhuộm đối với một số ion kim loại nặng ............................. 166
1.12. Khả năng di tản thuốc nhuộm ............................................................................ 166
1.13. Mức độ sử dụng thuốc nhuộm ........................................................................... 166
1.14. Mức độ giặt sạch thuốc nhuộm .......................................................................... 166
1.15. Độ nhạy của màu thuốc nhuộm với các chế phẩm hoàn tất................................ 166
1.16. Độ bền màu ....................................................................................................... 167
2. Phân tích định lượng thuốc nhuộm ............................................................................. 167
2.1. Xác định nồng độ thuốc nhuộm bằng phương pháp nhuộm so sánh .................... 167
2.2. Phương pháp quang trắc phổ ............................................................................... 169
2.3. Phương pháp trắc quang (so màu quang điện) ..................................................... 171
2.4. Phương pháp phân tích hoá học ........................................................................... 172
3. Các phương pháp kiểm nghiệm tính chất thuốc nhuộm .......................................... 173
3.1. Xác định khả năng hoà tan................................................................................... 173
3.2. Xác định độ phân tán của thuốc nhuộm không tan .............................................. 175
3.3. Xác định khả năng hấp phụ của thuốc nhuộm lên vật liệu nhuộm ....................... 176
3.4. Xác định độ nhậy của thuốc nhuộm với nước cứng ............................................. 177
3.5. Xác định khả năng đều màu của thuốc nhuộm..................................................... 177
3.6. Xác định khả năng giặt sạch phần thuốc nhuộm hoạt tính chưa định hình........... 179
8.7. Xác định mức độ liên kết của thuốc nhuộm hoạt tính với xơ............................... 180

195
3.8. Xác định độ bền của thuốc nhuộm lưu huỳnh trong quá trình bảo quản .............. 180
3.9. Xác định sự phù hợp của thuốc nhuộm trực tiếp khi gia công ở nhiệt độ cao ...... 180
3.10. Xác định độ bền của dung dịch nhuộm hoàn nguyên sau khi khử...................... 181
8.11. Xác định ảnh hưởng của các chất oxy hoá đến màu nhuộm của
thuốc nhuộm hoàn nguyên ................................................................................. 181
3.12. Xác định ảnh hưởng của các chế phẩm hoàn tất đến màu nhuộm của
thuốc nhuộm hoàn nguyên ................................................................................. 182
4. Đánh giá độ bền màu của vật liệu nhuộm ................................................................... 182
4.1. Thứ tự xác định độ bền màu ................................................................................ 183
4.2. Đánh giá độ bền màu ........................................................................................... 183
4.3. Kiểm tra độ bền màu với giặt............................................................................... 184
4.4. Kiểm tra độ bền màu vôi dung dịch xà phòng ở nhiệt độ 40oC ............................ 184
4.5. Kiểm tra độ bền màu với mồ hôi.......................................................................... 184
4.6. Kiểm tra độ bền màu với nước biển ..................................................................... 184
4.7. Kiểm tra độ bền màu với clo................................................................................ 185
4.8. Kiểm tra độ bền màu với là nóng ......................................................................... 185
4.9. Kiểm tra độ bền màu với cọ xát ........................................................................... 185
4.10. Kiểm tra độ bền màu với H2O2 .......................................................................... 185
4.11. Kiểm tra độ bền màu với ánh sáng..................................................................... 186
4.12. Kiểm tra độ bền màu với ánh sáng và thời tiết................................................... 187
5. Phân tích định tính thuốc nhuộm ................................................................................ 188
5.1. Xác định thuốc nhuộm trên vật liệu dệt ................................................................ 188
5.2. Phân tích thuốc nhuộm dạng bột........................................................................... 190
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 192

196

You might also like